LUẬN VĂN:

Giải phóng phụ nữ: từ quan điểm chủ nghĩa

Mác - Lênin đến tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn ở nước ta

mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người đã từng là vấn đề xuyên suốt của các cuộc đấu tranh giai

cấp, đấu tranh dân tộc trong lịch sử, và cho đến nay nó vẫn là một trong những vấn

đề nổi bật của thời đại chúng ta. Quyền con người, dĩ nhiên trước hết là quyền cho

mỗi cá nhân, quyền được khẳng định mình là một chủ thể với những quyền lợi, nghĩa

vụ như mọi người khác. Thế nhưng loài người đã từng vạch đôi xã hội, một nửa là

đàn ông, nửa kia là đàn bà, trong đó đàn bà đã từng bị hạn chế hoặc bị loại trừ khỏi

những quyền con người cơ bản. Chính vì lẽ đó, vấn đề giải phóng con người, đặc

biệt là giải phóng phụ nữ luôn được các nhà tử tửụỷng xã hội chủ nghĩa quan tâm và

ngày nay nó là vấn đề chung của toàn nhân loại, bởi lẽ quan tâm đến phụ nữ cũng có

nghĩa là quan tâm đến nguồn lực có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và

phát triển của xã hội loài người.

Lịch sử xã hội đã chứng minh rằng sự tiến bộ của xã hội sẽ chậm lại nếu

trong xã hội có một bộ phận đông đảo người bị áp bức bóc lột, bị hạn chế hoặc bị

loại trừ. Vì vậy vấn đề giải phóng phụ nữ đã được đặt ra từ rất lâu. Từ giữa thế kỷ

thứ XIX chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời đã góp phần rất quan trọng trong việc giải

phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ (mà ngày nay theo cách gọi của các nhà

khoa học hiện đại ở Việt Nam là bình đẳng giới) như là một trong những nội dung

của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đây

cũng là một trong những đóng góp vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với sự phát

triển của khoa học giới trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, phụ nữ luôn giữ

vị trí quan trọng và có những cống hiến to lớn, góp phần xây dựng truyền thống vẻ

vang của dân tộc, đồng thời cũng tạo nên truyền thống của chính giới mình.

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của phụ nữ, ngay sau khi giành được độc lập

năm 1945, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và đặt nền móng cho sự nghiệp

giải phóng phụ nữ. Điều 9 trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa năm 1946 đã khẳng định quyền bình đẳng nam nữ. Trải qua nhiều lần sửa đổi

Hiến pháp, song tư tưởng về bình đẳng giới luôn được bổ sung và hoàn thiện. Tất cả các

Hiến pháp từ 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định: phụ nữ có quyền bình đẳng với

nam giới về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngoài ra còn có hàng loạt các

văn bản, chỉ thị, nghị quyết khác khẳng định quyền bình đẳng nam nữ như Nghị

quyết 04 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 37 CT/TW, Chỉ thị 44/CT... Gần đây nhất, sau khi

thực hiện thành công Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của

phụ nữ đến năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt Chiến lược

quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 và Kế hoạch hành động vì

sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2005.

Nhìn chung, trong những năm qua việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của

Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất đáng

ghi nhận. Địa vị của người phụ nữ Việt Nam ngày càng được khẳng định và đề cao

bởi những đóng góp to lớn của họ trong thành tựu chung của cả nước và sự quan tâm

của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tuy nhiên, do chưa nhận thức đầy đủ sự khác biệt về giới, chưa vận dụng

tiếp thu những thành tựu lý luận quan trọng mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã để lại cho

khoa học giới nên sự nghiệp bình đẳng giới vẫn còn một số hạn chế nhất định. Tư

tưởng "trọng nam khinh nữ", nạn ngược đãi đối với phụ nữ, tác phong gia trưởng,

chuyên quyền, độc đoán của không ít đàn ông, sự thiếu bình đẳng trong việc ra các

quyết định lớn như đầu tư sản xuất, định hướng hôn nhân, nghề nghiệp cho con cái

vẫn đang tồn tại ở không ít nơi trong nhiều gia đình. Maởt khaực xã hội và gia đình

chưa thực sự nhìn nhận, đánh giá hết những cống hiến của phụ nữ cũng như những

khó khăn của họ, về mặt nào đó còn nặng về huy động, khai thác sự đóng góp của phụ

nữ mà chưa coi trọng đúng mức việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, tạo điều

kiện cho phụ nữ phát triển, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của cuộc sống. Chính

những điều này đã làm chậm quá trình thực hiện mục tiêu công bằng xã hội và bình

đẳng giới ở nước ta hiện nay.

Tình hình trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên

cứu lý luận về giải phóng phụ nữ một cách thấu đáo từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin

đến thực tiễn Việt Nam, góp phần khẳng định và tìm ra những điều kiện cơ bản, giải pháp

chủ yếu nhằm thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò phụ nữ trên tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa thời

sự cấp bách, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn đảng, toàn dân, trước hết là các ngành, các cấp,

các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Chính thực tế trên đã thôi thúc tôi

chọn đề tài: "Giải phóng phụ nữ: từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin đến tư tưởng

Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn ở nước ta" làm

luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vấn đề giải phóng phụ nữ từ lâu đã được nhiều nhà tư tưởng và các nhà kinh

điển của chủ nghĩa Mác - Lênin quan tâm nghiên cứu và được đề cập rất sớm trong

nhiều tác phẩm, điển hình như: "Mác - Ăngghen - Lênin về giải phóng phụ nữ"; "Ba

cuộc cách mạng với vấn đề giải phóng phụ nữ" (1976); "Bác Hồ với sự nghiệp giải

phóng phụ nữ" (1990). Ngoài ra còn có những tác phẩm lý luận quan trọng của C.Mác,

Ph.Ăngghen và V.I.Lênin như: "Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh"; "Gia đình thần

thánh"; "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản"; "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu

và của nhà nước"; "Chủ nghĩa tư bản và lao động nữ"…

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu của cách mạng

cũng giành sự quan tâm thích đáng trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính

sách nhằm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ. Với sự quan tâm của

Đảng và Nhà nước, sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, sự tâm huyết của các nhà khoa

học, một số vấn đề lý luận và thực tiễn nghiên cứu phụ nữ đã được đặt ra, xem xét và

có hướng giải quyết đúng đắn. Nhiều cuộc Hội thảo khoa học ở các Trung tâm

nghiên cứu đã đi vào các khía cạnh khác nhau về vai trò của phụ nữ như những công

trình: "Thực trạng gia đình Việt Nam và vai trò của phụ nữ trong đình" (1990); "Gia

đình, người phụ nữ và giáo dục gia đình" (1993); "Gia đình Việt Nam trong sự

nghiệp đổi mới đất nước và vấn đề xây dựng con người" (1995); "Đánh giá sự tiến

bộ của phụ nữ từ 1985-1995" (1995). Những công trình trên đã chỉ ra thực trạng vai

trò của phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội ở nước ta, nêu lên những kiến nghị nhằm

thay đổi và bổ sung những chính sách xã hội đối với phụ nữ để họ có điều kiện phát

huy hết vai trò của mình trong sự nghiệp đổi mới. Giáo sư Lê Thị Nhâm Tuyết với

quyển "Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại" đã làm nổi bật vai trò phụ nữ Việt Nam

trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, từ buổi đầu dựng nước đến những năm 1968.

Nhiều công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước về vai trò của phụ nữ

trong gia đình như: "Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân

cách con người Việt Nam" do Giáo sư Lê Thi làm chủ nhiệm; "Phụ nữ giới và phát

triển" (1996) của tác giả Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng; "Phụ nữ và bình đẳng

giới trong đổi mới ở Việt Nam" (1998) của Giáo sư Lê Thi; "Luận cứ về khoa học

cho việc đổi mới chính sách xã hội đối với phụ nữ và gia đình" do Phó giáo sư Trần

Thị Vân Anh làm chủ nhiệm. Tất cả những công trình trên đều phản ánh những thay

đổi về vai trò của phụ nữ trong gia đình và bước đầu đã có một số kiến nghị nhằm

phát huy vai trò của phụ nữ trong gia đình và trong công cuộc đổi mới. Ngoài ra còn có

các luận văn, luận án như "Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông

Hồng hiện nay" (2002) của tác giả Chu Thị Thoa; "Gia đình Việt Nam và vai trò của

người phụ nữ trong gia đình hiện nay" của tác giả Dương Thị Minh; "Học thuyết Mác -

Lênin về phụ nữ và liên hệ với thực tiễn hiện nay ở nước ta" (2002) của tác giả Lê Ngọc

Hùng... Đó là những tác phẩm, luận văn, luận án bước đầu đặt cơ sở lý luận cho việc

nghiên cứu phụ nữ và gia đình theo phương pháp tiếp cận giới - một phương pháp nghiên

cứu mới mẻ nhưng lại rất hiệu quả. Các công trình nghiên cứu kể trên là những tư liệu

tham khảo hết sức quan trọng giúp tôi hoàn thành đề tài luận văn.

Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, những nghiên cứu chuyên sâu các quan điểm

cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về phụ nữ còn rất ít. Trong thư mục các công trình

nghiên cứu và bài viết đã công bố, xuất bản của cán bộ Trung tâm nghiên cứu khoa

học về gia đình và phụ nữ có rất ít ấn phẩm chuyên bàn về vấn đề giải phóng phụ nữ.

Trước tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Giải phóng phụ nữ: từ quan điểm chủ nghĩa

Mác - Lênin đến tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và

thực tiễn ở nước ta" với mong muốn được góp một phần công sức nhỏ bé vào sự nỗ lực

chung của toàn xã hội đối với vấn đề giải phóng phụ nữ cả về phương diện lý luận lẫn

thực tiễn.

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về giải phóng phụ nữ, tác giả luận

chứng những điều kiện cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm giải phóng phụ nữ,

thực hiện bình đẳng giới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích đề ra, tác giả luận văn tập trung giải quyết những

nhiệm vụ sau đây:

- Hệ thống hóa, khái quát hóa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về

vấn đề giải phóng phụ nữ và làm rõ sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề

giải phóng phụ nữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Làm rõ thực trạng vấn đề giải phóng phụ nữ ở nước ta hiện nay.

- Phân tích những điều kiện cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm thực

hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới trong tình hình hiện nay.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tiến trình giải phóng phụ nữ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta trong lịch sử cũng như hiện nay ở Việt Nam, cả về lý

luận và thực tiễn.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải phóng phụ

nữ, thực hiện bình đẳng giới.

- Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: lôgíc và lịch sử;

phân tích và tổng hợp tư liệu thực tế để giải quyết nhiệm vụ đặt ra. Tác giả luận văn

cũng đã kế thừa các công cụ phân tích giới để tìm hiểu, phân tích, lý giải thực trạng

bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn

- Lần đầu tiên vấn đề giải phóng phụ nữ trong lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta được nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống.

Tác giả luận văn bước đầu đã kết hợp chặt chẽ quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam với phương pháp tiếp cận

giới trong xem xét và lý giải vấn đề bình đẳng giới, đây được coi là bước phát triển

lôgíc của quá trình nhận thức, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của chủ

nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới.

- Luận văn chỉ ra những điều kiện cơ bản và những giải pháp chủ yếu thực

hiện công cuộc giải phóng phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Với những đóng góp mới về mặt khoa học trên đây, luận văn góp phần vào

việc nghiên cứu những vấn đề lý luận đối với công cuộc giải phóng phụ nữ, thực

hiện bình đẳng giới đồng thời cung cấp thêm các cơ sở khoa học, các căn cứ cho việc

hoạch định chiến lược tổng thể và chính sách cụ thể vì sự tiến bộ của phụ nữ, thực

hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ nhằm phát huy mọi khả năng sáng tạo của họ trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy

lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, giảng dạy về gia đình, về giới trong hệ thống các

trường Đảng, các trường đào tạo cán bộ nữ và các trường trung cấp lý luận chính trị

ở nước ta.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được

kết cấu làm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ 1.1. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN BÀN VỀ ĐỊA VỊ NGƯỜI PHỤ NỮ

TRONG XÃ HỘI TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

1.1.1. Địa vị người phụ nữ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa

“Vấn đề giải phóng phụ nữ” từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, nói đến giải phóng phụ nữ là nói đến địa vị người phụ nữ trong xã hội có giai cấp đối kháng. Loại ý kiến khác lại cho rằng, giải phóng phụ nữ là vấn đề có tính lịch sử nên trong xã hội có giai cấp đối kháng giải phóng phụ nữ thực chất là bàn về địa vị người phụ nữ trong xã hội. Còn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giải phóng phụ nữ là đề cập đến vai trò phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Nhìn chung, mỗi loại ý kiến đều có tính hợp lý của nó, song một cách hệ thống và khái quát thì các quan niệm trên đều chưa đạt tới, còn loại bỏ tính phong phú, đa dạng của thuật ngữ này.

Khi bàn về cách mạng Trung Quốc với việc giải phóng phụ nữ vào năm 1923, Chủ

tịch Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề giải phóng phụ nữ là:

Quyền bình đẳng về giáo dục, kinh tế, chính trị cho cả đàn ông cũng như cho cả đàn bà thi hành hệ thống trường học thống nhất, tức là thành lập trường học, trong đó con trai và con gái cùng học, trả công như nhau cho sự lao động như nhau. Quyền được nghỉ ngơi và tiền trợ cấp cho trường hợp đau ốm, có mang [38, tr.11].

Các nhà khoa học xã hội Xô viết trước đây quan niệm rằng:

Vấn đề giải phóng phụ nữ là vấn đề địa vị người phụ nữ dưới chủ nghĩa tư bản, về những con đường và phương pháp giải phóng lao động phụ nữ về mặt xã hội và thực hiện sự bình đẳng thực sự của họ, về sự tham gia của họ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản [58, tr.390]. Tổng hợp các ý kiến trên có thể nhận thấy: “Vấn đề giải phóng phụ nữ” về thực

chất là bàn về địa vị, vai trò của phụ nữ trong xã hội và những con đường giải phóng phụ

nữ, đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn

hóa, xã hội nhằm phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã

hội.

“Địa vị người phụ nữ” là phức thể các điều kiện kinh tế - xã hội đặc trưng cho cuộc

sống lao động sản xuất và sinh hoạt của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Để khắc họa địa vị

người phụ nữ trong xã hội, nhất là trong xã hội tư bản chủ nghĩa, các nhà kinh điển đã sử dụng

hàng loạt các khái niệm khác nhau như “địa vị xã hội”; “sự thống trị ”; “sự bất công”; “sự bất

bình đẳng xã hội”...

Nói đến địa vị người phụ nữ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa C.Mác và

Ph.Ăngghen đã tố cáo kiểu bóc lột tư bản chủ nghĩa đối với lao động nữ. Bọn chủ tư bản

đã bỏ tiền ra mua sức lao động của phụ nữ và bắt họ làm việc đến kiệt sức trong điều kiện

không đảm bảo vệ sinh dẫn đến bệnh tật, tử vong. Tỷ lệ mắc bệnh của phụ nữ bao giờ

cũng cao hơn nam giới. C.Mác chỉ rõ: “trong những nghề nghiệp của phụ nữ như bông,

len, lụa và đồ gốm tỷ lệ bình quân chết vì bệnh phổi trong 100 nghìn người đàn bà là 643

người nhiều hơn so với tỷ lệ đàn ông là 610 người” [34, tr.428].

Như vậy, hội chứng “chết vì lao động quá sức” đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX

đặc biệt là đối với người phụ nữ, điều này đã được các nhà nghiên cứu đặt ra câu hỏi lớn:

phải chăng với những điều kiện lao động dưới chủ nghĩa tư bản như vậy phụ nữ mới mắc

những chứng bệnh hiểm nghèo? Các ông cũng tìm ra câu trả lời rằng: trong xã hội tư bản

chủ nghĩa, có thể nói lao động như nô lệ của phụ nữ đã dẫn đến tình trạng trên. Phụ nữ làm

việc lẫn lộn với đàn ông, họ làm việc hết sức nặng nhọc trong những điều kiện không phù

hợp với sức khỏe và nhân phẩm, C.Mác viết: "Công nhân gồm đàn ông và đàn bà, người

lớn và trẻ em thuộc cả hai giới… trong một số ngành thì ban đêm đàn bà và nữ thanh niên

làm việc lẫn lộn với đàn ông” [34, tr.377].

Bọn chủ tư bản bóc lột sức lao động của phụ nữ bằng cách kéo dài thời gian lao động của họ trong môi trường thiếu vệ sinh, thiếu không khí. Họ phải làm việc cật lực trung bình ngày 16 giờ và trong mùa may mặc thì có khi làm một mạch 30 giờ không nghỉ. Hậu quả của tình trạng trên dẫn đến sức khỏe suy sụp về tinh thần và thể xác, thậm chí tử vong. Động cơ của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận, là làm giàu nên họ bất chấp tất cả. C.Mác viết:

Tất cả các nữ công nhân may mặc, nữ công nhân may thời trang, nữ công nhân may áo và nữ công nhân may thông thường đều chịu 3 thứ tai họa: lao động quá sức, thiếu không khí và thiếu ăn… Nếu một nữ công nhân may áo tạo ra được một ít khách hàng, thì sự cạnh tranh bắt buộc người đó phải làm việc cho đến chết ở nhà để giữ khách và nhất định phải bắt người giúp việc mình cũng làm quá mức như thế [34, tr.374]

Không những vậy họ còn phải chịu những điều kiện khắc khổ của cuộc sống, nơi ở rất chật chội, bẩn thỉu, thiếu ánh sáng, thiếu không khí. C.Mác đã miêu tả họ phải sinh hoạt trong những điều kiện giống thú vật hơn là giống người: “Tình trạng chen chúc chật

chội đến cao độ hầu như nhất định phải dẫn đến chỗ bỏ hết mọi thứ lịch sự, chung đụng

một cách bẩn thỉu về thân thể và về những chức năng của cơ thể, trai gái lõa lồ, đến nỗi

tất cả đều giống như thú vật hơn là giống người” [34, tr.922].

Vào những năm 1844, 1845 C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra một xu hướng chung về việc sử dụng lao động của giới chủ tư bản, đó là việc bọn chủ tư bản tăng cường tuyển dụng lao động phụ nữ và trẻ em gái, tất cả là vì mục đích lợi nhuận, vì lao động của đàn bà và trẻ em rẻ hơn lao động của đàn ông. Đây là sự tính toán tinh vi của giới chủ tư bản nhằm đạt được lợi ích kinh tế cao nhất. Tính tham lam, bỉ ổi của giai cấp tư sản đã tạo nên bao nhiêu là bệnh tật. Phụ nữ không thể sinh đẻ, trẻ con tàn tật, đàn ông yếu đuối xanh xao, chân tay tàn phế, toàn bộ nhiều thế hệ bị hủy hoại, hom hem yếu đuối, tất cả chỉ là để nhét cho đầy túi của giai cấp tư sản - giai cấp vỗ ngực là từ bi và không vụ lợi nhưng thực tế chỉ có mục đích duy nhất là nhét đầy túi với bất cứ giá nào.

Không những thế bọn chủ xưởng tư bản còn dùng những biện pháp hà khắc tàn khốc nhất để bòn rút những khoản tiền phạt giáng vào đầu công nhân, cắt xén từng xu, từng nửa xu của những người vô sản xác xơ để làm tăng thêm lợi nhuận của chúng. “Li- sơ kể lại rằng ông ta nhiều lần thấy nhiều nữ công nhân có mang gần đẻ vì ngồi nghỉ một lát trong thời gian làm việc, mà bị phạt 6 pen-ni” [31, tr.72]. Do không khí ngột ngạt của nơi làm việc và nơi ở, do phải thường xuyên ngồi còng lưng gập ngực, do đồ ăn không tốt, khó tiêu và chủ yếu là do thời gian lao động quá dài, thiếu không khí trong sạch nên sức khỏe họ bị tàn phá ghê gớm

Không mấy chốc họ đã thấy mệt mỏi, kiệt sức, suy nhược, ăn mất ngon,

đau vai, đau lưng, đau thắt lưng, nhất là đau đầu; sau đó là xương sống bị vẹo,

hai vai nhô cao và biến dạng, gầy mòn, mắt sưng, chảy nước mắt và nói chung

nhức nhối, cận thị, ho, ngực lép, khó thở và mọi thứ bệnh phụ nữ [31, tr.589].

Với những đức tính gần như thiên bẩm của phụ nữ “dịu dàng, nết na, ngoan ngoãn, hiền thục, dễ bảo” đã bị bọn chủ tư bản lợi dụng. C.Mác đã tố cáo sự lợi dụng, sự bóc lột tinh vi, dã man và tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Phụ nữ phải lao động nặng nhọc trong những điều kiện hết sức khắc khổ, bị đối xử còn kém hơn cả so với súc vật, họ chẳng có chút địa vị, vai trò nào trong xã hội. Chúng ta thấy rõ, ngay ở nước Anh, đất nước của nền đại công nghiệp phát triển rất sớm nhưng phụ nữ còn phải làm những công việc tốn nhiều sức lực như kéo thuyền thay cho ngựa. C.Mác đã miêu tả tình cảnh đó như sau: “để kéo thuyền dọc sông Đào, thỉnh thoảng người ta vẫn còn dùng phụ nữ thay cho ngựa” [34, tr.568].

Như vậy, dưới chế độ tư hữu, phụ nữ phải chịu đựng một nghịch lý: vai trò thì lớn

nhưng địa vị thì thấp hèn cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội, họ luôn chịu cảnh bất bình

đẳng với nam giới, bị bóc lột, bị tha hóa. Trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau, các hình

thức bất bình đẳng tuy có thay đổi nhưng bản chất thì không thay đổi. Trong các công

xưởng tư bản chủ nghĩa, phụ nữ phải chịu bao nỗi nhục nhã, đắng cay, phải lao động cực

nhọc từ lúc mang thai cho đến lúc sinh nở, họ phải cật lực làm việc, thậm chí không được

nghỉ cho con bú và khi con ốm. Với đồng lương ít ỏi không đủ nuôi sống gia đình, việc làm

bấp bênh, nên nhiều phụ nữ khi sinh con vài ba ngày đã phải đến công xưởng để làm việc

trong điều kiện hết sức tồi tệ. Do lao động quá lâu trong một tư thế nên thân hình nhiều

phụ nữ trở nên dị dạng. Bác sĩ Hây ở Lít-dờ, người thầy thuốc làm việc 18 năm ở bệnh

viện cũng đã chứng minh:

Cột sống bị vẹo là thứ tật rất thường gặp ở công nhân công xưởng; trong

một số trường hợp, đó chỉ là hậu quả của lao động quá sức; trong một số

trường hợp khác thì lại là hậu quả của lao động quá kéo dài đối với một cơ thể

bẩm sinh yếu ớt hay vì bồi dưỡng kém mà suy nhược… Ở đây, những dị tật

các loại có thể thường thấy hơn tật vẹo cột sống; đầu gối cong lõm vào trong,

gân mắc cá thường nhão ra, xương đùi của chân bị vặn cong; đầu to của những

xương đùi ấy đặc biệt bị vặn cong và to ra quá độ, những bệnh ấy đều đến từ

những công xưởng có ngày lao động quá dài [31, tr.520].

Chính vì lao động quá sức nên không có một người con gái nào vóc người cao

dỏng và đều đặn. Họ đều thấp bé, cằn cỗi, ngực hẹp, hình người rất khó coi. Ngoài những

bệnh tật và biến hình như miêu tả ở trên, một số công nhân còn bị tàn phế nữa.

Trong tác phẩm: “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng:

lao động của phụ nữ và trẻ em dưới chủ nghĩa tư bản là thứ lao động rẻ mạt, sử dụng nguồn

lao động này nhà tư bản thu được món lợi kếch sù. Các ông chủ tư bản luôn tìm mọi biện

pháp để thải hồi nam công nhân và thu hút lao động của phụ nữ và trẻ em để thế chân họ.

Vì vậy trong các công xưởng tư bản, phụ nữ và trẻ em có khối việc làm, nhưng lại không có việc cho đàn ông. Chính vì thuê phụ nữ với giá rẻ cùng với những đức tính “thiên bẩm”

(chăm chỉ, dễ bảo…) nên bọn chủ tư bản thích sử dụng đàn bà hơn đàn ông

Ông E… một chủ xưởng cho biết rằng ông ta chỉ toàn dùng phụ nữ để đứng máy dệt thôi, ông thích sử dụng đàn bà có chồng rồi, nhất là những người có gia đình mà họ phải nuôi; họ chăm chỉ hơn và dễ bảo hơn là những người phụ nữ chưa chồng và hơn nữa họ buộc phải làm việc cật lực để kiếm được những tư liệu sinh hoạt cần thiết [34, tr.578].

Như vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh cũng như trong giai đoạn độc quyền chủ nghĩa, địa vị người phụ nữ không có gì thay đổi, thậm chí còn tồi tệ hơn. Vì muốn cả nhà được ăn no, mặc ấm, bằng một số tiền hết sức ít ỏi nên chị em hàng

ngày phải tính toán chi li, phải đầu tắt mặt tối với công việc, chỉ có sức lao động của mình

là không hề tiếc. Vì vậy họ sẳn sàng nhận số tiền công hết sức rẻ mạt để kiếm thêm cho bản

thân hoặc gia đình một mẩu bánh mì. Chính vì những đức tính đặc biệt của phụ nữ đã biến

họ thành công cụ, thành nô lệ và làm cho họ ngày càng đau khổ.

1.1.2. Địa vị người phụ nữ trong hôn nhân và gia đình dưới chế độ tư bản chủ

nghĩa

Lĩnh vực cơ bản và quan trọng nhất của tái sản xuất xã hội là hôn nhân và gia đình.

Nòi giống được duy trì và phát triển, sức người và sức lao động được nuôi dưỡng, chăm

sóc và bảo vệ như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hôn nhân và gia đình. Gia đình là bức tranh thu nhỏ của xã hội, trong đó bộc lộ đầy đủ và rõ ràng địa vị người phụ nữ trong mối

tương quan xã hội với nam giới.

Dưới xã hội tư bản chủ nghĩa có hai loại gia đình là gia đình tư sản và gia

đình vô sản, giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất là giai cấp thống trị và bóc lột giai cấp

không có tư liệu sản xuất, điều này được thể hiện rõ trong gia đình tư sản, nơi mà

những người đàn ông nắm giữ vị thế thống trị kinh tế, đồng thời cũng nắm giữ vị thế

thống trị những người đàn bà không có tư liệu sản xuất. Với tính cách là đơn vị của

tế bào xã hội, gia đình cũng chứa đựng tất cả các mối quan hệ bất công và bất bình

đẳng xã hội. Ph.Ăngghen đã viết: “Trong gia đình, người chồng là nhà tư sản, người

vợ đại biểu cho giai cấp vô sản” [33, tr.116].

Trước khi học thuyết Mác ra đời, vấn đề giải phóng phụ nữ đã được nhiều nhà tư

tưởng quan tâm nghiên cứu, bởi họ không những được tôn vinh là phái đẹp mà với thiên

chức làm vợ, làm mẹ họ còn có vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy nhiên,

dưới chế độ tư bản chủ nghĩa cũng như dưới các chế độ áp bức, bóc lột khác, phụ nữ phải

luôn chịu cảnh bất bình đẳng với nam giới, họ không có chút địa vị nào trong hôn nhân và

gia đình.

Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: trong

xã hội có giai cấp đối kháng phụ nữ là nạn nhân trực tiếp của sự áp bức giai cấp và của sự

bất bình đẳng trong gia đình và ngoài xã hội. Sự ra đời của chế độ tư hữu dẫn đến tình

trạng áp bức, nô dịch của giai cấp có của đối với giai cấp không có của, từ đây trong gia

đình người phụ nữ trở nên phụ thuộc hoàn toàn về kinh tế, phải phục tùng tuyệt đối quyền

lực của người chồng và thậm chí người chồng có thể giết vợ cũng chỉ là để thực hiện

quyền lực của mình mà thôi.

Theo sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, trong các xã hội dựa trên chế độ

tư hữu, sự biến đổi của các hình thức hôn nhân và gia đình, sự phụ thuộc của người phụ

nữ vào chồng luôn có sự thay đổi nhưng bản chất không hề thay đổi. Sự thay đổi các hình

thức hôn nhân trong xã hội thể hiện sự tiến bộ của nhân loại nhưng đồng thời cũng chứng

minh một thực tế là đàn bà ngày càng mất đi quyền tự do tính giao kiểu chế độ quần hôn.

Trong chế độ gia trưởng và chế độ tư bản chủ nghĩa, người đàn ông có quyền lấy nhiều

vợ, có quyền li dị vợ và có quyền ngoại tình. Luật pháp đã tạo mọi điều kiện cho đàn ông

thả sức sử dụng “những xa xỉ phẩm của lịch sử” miễn là người đó không dắt tình nhân về

nhà mình.

Trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền này của người đàn ông được sử dụng dưới

nhiều hình thức khác nhau, với quan niệm coi vợ “chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất

đơn thuần” [32, tr.620], nhưng ngược lại nếu phụ nữ mắc tội danh này họ sẽ bị trừng phạt

nghiêm khắc hơn bất cứ thời đại nào trước kia. Còn các ông chủ tư bản thì thỏa sức dâm

đãng với vợ và con gái giai cấp vô sản. Ph.Ăngghen vạch trần: “các ngài tư sản chưa thỏa

mãn là sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai,

các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt” [32, tr.620]. Chính

tình trạng này đã làm bại hoại đạo đức xã hội, làm trụy lạc những người phụ nữ nào không

may rơi vào hoàn cảnh đó và làm bại hoại nhân cách toàn thế giới đàn ông.

Ngay trong gia đình dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, người đàn ông cũng nắm lấy

nguồn cai quản, còn nhiều người đàn bà thì bị nô dịch, bị biến thành nô lệ cho đàn ông.

PhĂngghen đã chỉ rõ những mâu thuẫn tồn tại trong gia đình dưới chế độ tư hữu, đó là

hình thức thu nhỏ của những mặt đối lập, của những mâu thuẫn tồn tại trong xã hội có

phân chia giai cấp. Người phụ nữ trong gia đình dưới chế độ tư hữu xét cho cùng chỉ là

mẹ của những đứa con kế thừa chính thức tài sản dòng dõi của chồng, là người quản gia

chính của nhà chồng và là người cai quản các tì thiếp của chồng. Vì vậy trong xã hội tư

bản chủ nghĩa chế độ một vợ một chồng chỉ riêng đối với người đàn bà, chứ không phải đối với đàn ông. Nếu người vợ có muốn vượt ra ngoài khuôn khổ ấy thì lập tức họ sẽ bị

lên án và bị trừng phạt nghiêm khắc, họ chỉ là một vật để lo việc gia đình, để đẻ con và chỉ là một người đầy tớ chính trong gia đình.

Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” khi

đề cập đến hôn nhân và gia đình tư sản Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: trong tất cả các giai cấp

trong lịch sử (loại trừ giai cấp tư sản) - giai cấp thống trị, việc quyết định một cuộc hôn

nhân là việc có tính toán lợi hại do cha mẹ thu xếp. Kể cả trong môi trường đạo Thiên chúa

hay đạo Tin lành thì phụ nữ trong chế độ tư bản đều dựa trên địa vị giai cấp của đôi bên. Vì

vậy:

Hôn nhân luôn luôn là hôn nhân có tính toán… Hôn nhân có tính toán

đó thường thường biến thành sự mại dâm ty tiện nhất - có khi là của cả đôi

bên, nhưng thông thường nhất là về phía người vợ; nếu ở đây, người đàn bà có

khác với gái đĩ thường chỉ là vì người đó không bán thể xác mình từng thời gian một như người nữ công nhân làm thuê bán sức lao động của mình mà là

bán mãi mãi, như người nữ nô lệ [33, tr.112].

Ngay trong đạo Thiên chúa, cha mẹ vẫn tìm vợ cho con, lựa chọn người vợ xứng

đáng và vì thế đã dẫn đến kết quả “làm cho mâu thuẫn chứa đựng trong chế độ một vợ một chồng phát triển đầy đủ nhất: chế độ hê-ta-ia về phía người chồng là chế độ hê-ta-ia

bừa bãi, về phía vợ, là ngoại tình lu bù” [33, tr.111]. Hoặc như trong đạo Tin lành, việc

người con trai ít nhiều được lựa chọn vợ trong cùng giai cấp thì chế độ hê-ta-ia của người

chồng được thực hành ít kiên quyết hơn và nạn ngoại tình của người vợ cũng ít thành lệ hơn. Song kết quả “cũng vẫn chỉ mang lại cho cuộc sống chung một nỗi buồn nặng trĩu

mà người ta gọi là hạnh phúc gia đình” [33, tr.112].

Như vậy: hôn nhân và gia đình tư sản chủ yếu dựa trên cơ sở quan hệ kinh tế bất

bình đẳng giữa nam và nữ. Gia đình tư sản chứa đựng và bộc lộ rõ mối quan hệ thống trị

bóc lột của chồng đối với vợ, của đàn ông với đàn bà, của toàn thể giai cấp đàn ông tư sản

đối với giai cấp đàn bà vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch trần sự ghê sợ quá ư đạo

đức giả của hôn nhân và gia đình tư sản, trong đó người phụ nữ trở thành phương tiện và

công cụ sản xuất, thành kẻ nô lệ của đàn ông. Điều này cũng đã được Lênin làm rõ vào

nửa đầu thế kỷ XX. Ông tố cáo rằng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, phụ nữ, tức một nửa

nhân loại luôn bị hai tầng áp bức, ngay ở những nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất phụ

nữ vẫn ở trong tình cảnh “một cổ hai tròng” tức là vẫn bị bất bình đẳng, bị bóc lột và bị

nô lệ cùng một lúc trong xã hội và trong chính gia đình họ.

Năm 1921, Lênin vạch rõ phụ nữ ở những nước tư bản tiên tiến nhất phải chịu

cảnh đọa đày, cảnh bất bình đẳng với nam giới:

Một là họ hoàn toàn không có quyền gì cả, vì pháp luật không cho họ có quyền bình đẳng với nam giới, hai là - và đây là điều chủ yếu - họ bị giam hãm trong “chế độ nô lệ gia đình”, họ là những “nô lệ cho gia đình”, bị nghẹt thở dưới cái gánh những công việc bếp núc nhỏ nhặt nhất, lam lũ nhất, khổ cực nhất và làm cho mụ người nhất, và nói chung, dưới cái gánh công việc nội trợ - gia đình cá thể [28, tr.463].

Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã cụ thể hoá các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã

hội. Là dân một nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc cảm nhận rất sâu sắc nổi khổ nhục của người dân mất nước, đặc biệt là phụ nữ, với xứ thuộc địa thì mọi thứ tự do, bình đẳng, bác ái, chân lý, nhân quyền chẳng bao giờ có cả. Giai cấp tư sản thường giương cao ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái, nhưng trong thực tế chúng là những kẻ chà đạp lên tự do, bình đẳng, bác ái. Vì vậy khi đến thăm tượng thần tự do ở Mỹ, Người đã nhận xét: trong khi người ta tượng trưng tự do và công lý bằng tượng một người đàn bà thì trong thực tế, họ lại hành hạ những người đàn bà bằng xương, bằng thịt. Bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của cách mạng Pháp năm 1789 tuyên bố: “Người ta sinh ra được tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do bằng bình đẳng và quyền lợi”. Thế nhưng nước Pháp lại đem quân đi xâm lược, tước đi quyền tự do của dân tộc Việt Nam. Để tố cáo chế độ thực dân Pháp Nguyễn Ái Quốc đã viết tác phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp” Người khẳng định chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ con và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa.

Dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân bị áp bức bóc lột thì phụ nữ ta bị áp bức bóc lột càng nặng nề hơn. Phụ nữ không được hưởng những thành quả lao động do bàn tay, khối óc của mình làm ra. Công lao của họ rất lớn nhưng họ không có vị trí xứng đáng ở trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Mỗi khi dân tộc mất độc lập, nhân dân mất tự do thì phụ nữ chịu nhiều đau khổ hơn ai cả. Chủ nghĩa thực dân không từ một hành động bạo ngược nào để đi áp bức, bóc lột phụ nữ và trẻ em. Nguyễn Ái Quốc miêu tả: những người phụ nữ bản xứ được coi như súc vật, họ bị đánh đập, bị hành hạ, bị bóc lột một cách thê thảm. Công việc làm như nhau nhưng tiền lương của phụ nữ bao giờ cũng thấp hơn nam giới. Sinh đẻ là chức năng của phụ nữ, nhưng chị em sinh đẻ lại không được nghỉ, thậm chí còn có nguy cơ mất việc làm. Phụ nữ còn phải nộp sưu cao, thuế nặng, phải mua rượu và thuốc phiện, nếu không có tiền mua thì phải đi tù.

Dưới chế độ thực dân phụ nữ luôn bị hành hạ, bị làm nhục và bị giết hại. Bọn thực dân luôn cho mình có quyền được chửi mắng, đánh đập phụ nữ Việt Nam ở bất cứ chỗ nào họ muốn: “Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược của bọn người xâm lược... Ngay giữa chợ Sài Gòn - mà người ta bảo là một thành phố Pháp - những người gác chợ cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh người đàn bà bản xứ để bắt họ tránh cho khỏi nghẽn lối!” [17, tr.5].

Hơn thế nữa, bọn thực dân đã dùng mọi thủ đoạn dã man nhất để gọi là “trừng phạt” mỗi khi phụ nữ “phạm tội” như: phải mang nặng gông xiềng đi quét đường vì tội không nộp nổi thuế; bị bắt giam vì tội “vi phạm luật thương chính” (không mua rượu và thuốc phiện). Có nơi bọn quan cai trị còn dùng những hình phạt đau đớn nhất đối với phụ nữ như bắt đội đá trên đầu đứng nắng cả ngày, bắt làm “vật thế chấp”, thậm chí “đổ cả

nhựa cao su nóng bỏng vào bộ phận sinh dục nữ”. Là phụ nữ bản xứ, kể cả những cụ già 80 tuổi, em bé 12,13 tuổi, phụ nữ có thai hay đang cho con bú… đều bị xúc phạm một cách dã man và tàn bạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải thốt lên: “Chưa có bao giờ, ở một nước nào, một thời đại nào, người ta lại vi phạm mọi quyền làm người một cách dã man độc ác đến thế” [17, tr.13].

Dưới chế độ thực dân phụ nữ còn bị giết hại một cách man rợ. Bọn chúng gồm toàn những tên lưu manh, những bọn người lười biếng, những tên giết người, đó là những “tinh hoa của những cặn bã, lượm lặt tất cả ở các nước châu Âu” để đưa đến các nước thuộc địa. Bọn họ thả những tên sát nhân này vào trong đám dân thường tội nghiệp để hoành hành theo thú tính tàn bạo của bọn chúng. Chúng thiêu sống người già, giết chết trẻ em, hãm hiếp phụ nữ, gây ra bao cảnh tang tóc đau thương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát một cách chính xác, đầy đủ về chủ nghĩa thực dân: “Người ta nói: chế độ thực dân là chế độ ăn cướp. Chúng tôi xin nói thêm: Chế độ hãm hiếp đàn bà và giết người” [17, tr.6].

Như vậy: Chủ nghĩa thực dân đã gây ra bao cảnh tang tóc đau thương cho phụ nữ: bị áp bức bóc lột, bị xúc phạm nhân phẩm, bị hãm hiếp, bị giết hại, bị tù đày bắt bớ, bị mất quyền tự do, dân chủ và quyền làm người. Chính sách “Ngu dân” của bọn thực dân đã kìm hãm phụ nữ trong sự dốt nát và lạc hậu triền miên. Tất cả những tội ác này toàn bộ chế độ thực dân phải chịu trách nhiệm trước lịch sử - đây cũng là dự báo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

1.2. HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ 1.2.1. Nguồn gốc của sự bất bình đẳng nam nữ - Nguồn gốc kinh tế Vào thế kỷ XVII - XVIII, nhiều nhà tư tưởng cho rằng phụ nữ phải bị lệ thuộc vào đàn ông và là nô lệ của đàn ông, đó là điều tự nhiên vì phụ nữ có giá trị thấp hơn đàn ông. Điều này đã bị các nhà triết học thời kỳ khai sáng như Điđơrô, J.Rutxô và đặc biệt là Phuriê phê phán. Theo các nhà tư tưởng này thì chính sự độc đoán của giai cấp phong kiến cùng với những tệ nạn là nguyên nhân đẩy người phụ nữ rơi vào hoàn cảnh phải phụ thuộc nam giới, có vị trí thấp hèn trong gia đình và cả ngoài xã hội.

Để bác bỏ quan niệm cho rằng từ khi có xã hội loài người, đàn bà đã là nô lệ của đàn ông, sự tồn tại và phát triển của các hình thức gia đình, sự bất bình đẳng về mặt xã hội giữa nam và nữ hoặc hoàn toàn là do những yếu tố tự nhiên, sinh học, hoặc hoàn toàn là do yếu tố tôn giáo chi phối… Chủ nghĩa Mác đã khái quát sự biến đổi địa vị của người phụ nữ qua hai thời kỳ lịch sử đó là thời kỳ chế độ mẫu quyền và chế độ phụ quyền, đồng thời đưa ra sự lý giải có căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn lịch sử về nguồn gốc của sự bất bình đẳng nam nữ.

Xã hội mẫu hệ được hình thành ngay từ buổi bình minh của xã hội loài người khi con người đang cố gắng tách ra khỏi các động vật khác. Giai đoạn này được C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là chế độ cộng sản nguyên thủy, với phương thức sản xuất chủ yếu là hái lượm và trồng trọt. Người đàn bà giữ vị trí quan trọng trong gia đình, con cái sinh ra chỉ biết có mẹ, mang huyết thống mẹ và kế thừa tài sản của mẹ. Do tính chất công việc nên phụ nữ tỏ rõ sự ưu trội và có vai trò nổi bật hơn so với nam giới. Ph.Ăngghen đã viết: “kinh tế gia đình cộng sản… là cơ sở hiện thực của quyền thống trị của người đàn bà, cái quyền thống trị phổ biến khắp mọi nơi trong thời nguyên thủy” [33, tr.83]. Chế độ mẫu quyền đã tồn tại hàng vạn năm trong lịch sử nhân loại từ suốt thời đại mông muội đến giai đoạn thấp của thời đại dã man. Theo năm tháng, con người dần dần có kinh nghiệm và có kiến thức hơn trong công việc tổ chức cuộc sống của mình. Những người thông minh đã bắt đầu biết cách tích trữ của cải, những người có quyền điều hành đã dựa vào quyền lực của mình để chiếm đoạt của công thành của riêng. Đây là quá trình xuất hiện và xác lập chế độ tư hữu.

Sự phát triển lực lượng sản xuất đã làm cho xã hội chuyển từ hái lượm, trồng trọt sang kinh tế sản xuất với nghề chăn nuôi, săn bắn, năng suất lao động cao hơn trước. Trong nền sản xuất mới, đàn ông tỏ rõ ưu thế hơn đàn bà bởi vì tài sản chủ yếu của gia đình lúc này là do họ làm ra. Đây cũng là thời kỳ mà chế độ phụ quyền bắt đầu đặt những viên gạch đầu tiên cho sự thống trị của mình. Khi nói về quá trình chuyển đổi này, Ph.Ăngghen nhận xét: “Sự thay thế mẫu quyền bằng phụ quyền là một trong những cuộc cách mạng triệt để nhất mà loài người đã trải qua, cuộc cách mạng này đã đánh dấu sự thất bại có tính chất toàn thế giới của giới nữ” [34, tr.93]. Đàn ông từ địa vị thấp kém, phụ thuộc trở thành người có địa vị cao và nắm quyền cai quản. Còn đàn bà thì bị hạ cấp, bị nô dịch, biến thành nô lệ cho sự dâm đãng của đàn ông, thành một công cụ sinh đẻ đơn thuần. Ở đây, Ph.Ăngghen đã dùng thuật ngữ “cuộc cách mạng” mang tính chất ẩn dụ sâu sắc nói lên sự thống trị của đàn ông đối với đàn bà. Cuộc cách mạng này thật “nhẹ nhàng” và rất “dễ dàng” bởi vì hầu như nó không gặp phải một sự phản kháng mãnh liệt nào từ phía đối thủ, người phụ nữ đã bị đẩy xuống hàng “nô lệ” một cách rất tự nhiên. Sự kiện này đã khoác cho sự áp bức về giới một tấm áo hào nhoáng song vô cùng chắc chắn.

Như vậy: sự tan rã của chế độ công hữu nguyên thủy và thay thế nó bởi chế độ tư hữu cũng kéo theo sự thay đổi của các hình thức gia đình vì chế độ gia đình hoàn toàn bị quan hệ sở hữu chi phối. Quyền chuyên chế của người đàn ông một khi được xác lập thì kết quả đầu tiên thể hiện ra trong hình thức gia đình gia trưởng, trong đó quyền lực hầu như tập trung tuyệt đối vào người đàn ông, địa vị người phụ nữ ngày càng thấp kém.

Sang thế kỷ XX, tình trạng bất bình đẳng nam nữ vẫn tiếp tục diễn ra như đã từng xảy ra trong lịch sử, thậm chí còn có phần sâu sắc và tinh vi hơn. Bọn chủ tư bản ngày càng sử dụng nhiều thủ đoạn gian xảo để che đậy bản chất thống trị và bóc lột của nó. Năm 1920, nhân kỷ niệm ngày phụ nữ lao động quốc tế Lênin đã vạch trần: “sự bất bình đẳng nam nữ về mặt kinh tế - xã hội là một trong những điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản”.

Từ việc xác định đúng nguồn gốc nảy sinh và phát triển của sự bất bình đẳng trong quan hệ nam nữ, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra chính xác nguyên nhân của sự bất bình đẳng đó là sự áp bức của đàn ông đối với đàn bà về mặt kinh tế. Ph.Ăngghen đã viết: “tình trạng không bình quyền giữa đôi bên, do những quan hệ trước kia để lại cho chúng ta, tuyệt nhiên không phải là nguyên nhân, mà là kết quả của việc áp bức đàn bà về mặt kinh tế” [33, tr.115], và hơn thế nữa “sự thống trị của đàn ông trong hôn nhân chỉ đơn thuần là kết quả của sự thống trị của họ về mặt kinh tế, và sẽ tiêu vong cùng với sự thống trị về kinh tế” [33, tr.127]. Như vậy kết luận của chủ nghĩa Mác trong vấn đề này là khi cơ sở kinh tế của xã hội biến đổi thì tính chất của mối quan hệ nam nữ về mặt xã hội cũng biến đổi theo.

Về nguyên nhân kinh tế - xã hội của sự bất bình đẳng nam nữ, Từ điển chủ nghĩa

cộng sản khoa học 1986 có viết:

Nguyên nhân kinh tế - xã hội là cơ sở của sự bất bình đẳng của người phụ nữ, rằng sự xuất hiện chế độ tư hữu dẫn đến sự phụ thuộc về mặt kinh tế của người phụ nữ vào người chồng, vào người cha, còn trong các giai cấp bị bóc lột thì nó đồng thời dẫn đến sự nô dịch người phụ nữ về mặt giai cấp. Người phụ nữ bị tước mất những quyền về kinh tế và chính trị, bị nô dịch về tinh thần thì cũng bị cô lập với xã hội, phạm vi hoạt động của họ bị giới hạn trong công việc nội trợ trong gia đình [58, tr.391].

Như vậy: cơ sở kinh tế như thế nào thì đặc điểm và tính chất của mối quan hệ nam nữ cũng như thế ấy. Trong nền kinh tế cộng sản nguyên thủy do đàn bà nắm giữ kinh tế nên đồng thời cũng nắm quyền cai quản xã hội và gia đình. Nhưng khi sự thống trị kinh tế của đàn bà bị mất và đàn ông nắm lấy quyền thống trị thì sự thống trị đó trở nên phổ biến không chỉ trong nền sản xuất vật chất của xã hội mà cả trong nền tái sản xuất của xã hội, tức trong hôn nhân và cả gia đình.

- Nguồn gốc nhận thức, văn hóa - xã hội Không chỉ dừng lại ở nguyên nhân kinh tế - mặc dù đó là nguyên nhân quyết định nhất, chủ nghĩa Mác còn chỉ ra các nguyên nhân khác thuộc về nhận thức chính trị, văn hóa (đặc biệt là phong tục tập quán), tôn giáo đối với gia đình và sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Việc nhấn mạnh vai trò quyết định của cơ sở kinh tế không có nghĩa là xem

nhẹ các yếu tố phi kinh tế mà chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau làm tiền đề cho sự phát triển. Ph.Ăngghen đã nêu rõ quan điểm này như sau:

Chúng tôi coi những điều kiện kinh tế là cái cuối cùng quyết định sự phát triển lịch sử - nhưng chủng tộc cũng là một nhân tố kinh tế… Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật là dựa trên sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cũng tác động đến cơ sở kinh tế. Hoàn toàn không phải điều kiện kinh tế là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác có tác dụng thụ động. Trái lại, có sự tác động qua lại trên cơ sở tính tất yếu kinh tế, là một tính tất yếu, xét đến cùng, bao giờ cũng tự vạch ra con đường đi của nó [32, tr.788].

Trình độ nhận thức, thói quen suy nghĩ và các phong tục tập quán phản ánh sự bất bình đẳng kinh tế giữa phụ nữ và nam giới đã ăn sâu bám chắc trong đầu óc con người thành tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Những phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ, đạo đức phong kiến “tam tòng, tứ đức” được khuyến khích duy trì để trói buộc, đày đọa người phụ nữ, chà đạp lên tình cảm và nhân phẩm của chị em… dần dần thành thói ứng xử thô bạo của người đàn ông đối với đàn bà. Đó cũng chính là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc văn hóa xã hội của sự bất bình đẳng nam nữ. Tư tưởng này dần dần trở thành quy tắc, thành thông lệ, không cần có luật pháp bảo vệ, nó vẫn có tác động cưỡng chế, điều chỉnh hành vi ứng xử của người đàn ông đối với đàn bà. Ngay khi cơ sở kinh tế của sự bất bình đẳng nam nữ đã bị phá bỏ Ph.Ăngghen viết:

Tính ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân, thì một phần là kết quả của các điều kiện kinh tế, trong đó chế độ một vợ một chồng phát sinh, và phần nữa là một truyền thống của thời kỳ trong đó mối liên hệ giữa những điều kiện kinh tế ấy với chế độ một vợ một chồng còn chưa được người ta hiểu một cách đúng đắn và đã bị tôn giáo thổi phòng lên [33, tr.127]. Không chỉ bị “tôn giáo thổi phòng lên” mà cả tư tưởng và luật pháp của giai cấp tư sản cũng ra sức bảo vệ cho sự bất bình đẳng nam nữ. Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ: cùng với nguồn gốc kinh tế, sự thống trị của người đàn ông đối với đàn bà còn bắt nguồn từ trong nhận thức, niềm tin và thói quen, phong tục tập quán đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người. Sự quan tâm, lo lắng về đời sống của bản thân người phụ nữ cũng là yếu tố bắt buộc họ phải chấp nhận và cam chịu sự thống trị của người đàn ông, một khi đời sống kinh tế của họ còn chưa được điều chỉnh thì tất yếu còn bất bình đẳng. Như vậy theo nhận thức chung của mọi người, nguồn gốc của bất bình đẳng không chỉ là kết quả của các tác nhân kinh tế mà còn là sản phẩm của các tác nhân xã hội khác như phong tục tập quán, truyền thống, thói quen cùng với tư tưởng trọng nam khinh nữ và

tàn dư của xã hội cũ để lại. Điều này được thể hiện rõ thông qua địa vị của phụ nữ thời kỳ chế độ phong kiến - thời kỳ để lại những dấu ấn đậm nét của hệ tư tưởng Nho giáo.

Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thế kỷ VI - V trước Công Nguyên và được truyền bá vào Việt Nam những năm đầu Công Nguyên. Nho giáo có những ưu điểm nhất định, góp phần quan trọng vào việc tổ chức cuộc sống xã hội có nề nếp, kỷ cương. Trong giáo dục con người, Nho giáo hướng vào lòng yêu thương đồng loại, khuyến khích sự say mê trong học tập, tinh thần phấn đấu vươn lên... Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, Nho giáo cũng bộc lộ những hạn chế tiêu cực, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống xã hội ở Việt Nam. Một trong những hạn chế cơ bản của Nho giáo là tư tưởng trọng nam khinh nữ, đề cao phụ quyền, đề cao gia trưởng, đề cao người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội. Giai cấp phong kiến Việt Nam đã sử dụng các phương tiện khác để biến hệ tư tưởng Nho giáo thành ý thức và hành vi của mọi người, để duy trì quyền lực đối với phụ nữ. Trong phạm vi quan hệ giới, tinh thần Nho giáo thể hiện tập trung ở niềm tin là phụ nữ thấp kém hơn so với nam giới, thể hiện ở yêu cầu đối với phụ nữ là "tam tòng, tứ đức". Tinh thần này được thể hiện điển hình trong gia đình gia trưởng, phụ nữ không có vị trí chính thống nào trong xã hội, làng xóm và họ hàng, họ cũng không có tiếng nói trong gia đình mặc dù là người lao động chính. Vì thế, hầu hết các tác giả Việt Nam và nước ngoài đều đề cập đến vai trò của Nho giáo một khi họ bàn đến chủ đề địa vị của phụ nữ Việt Nam, bởi vì sự thực hành Nho giáo được coi như là cốt lõi của sự áp bức phụ nữ ở Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.

Dưới chế độ phong kiến, quyền hành quốc gia tập trung vào tay vua. Trong gia đình thì tập trung vào người đàn ông gia trưởng. Người phụ nữ được coi là tài sản của chồng, vì vậy luật nhà Trần cho phép: đàn ông nếu có vợ ngoại tình được coi vợ như nô tỳ và được phép cầm bán. Phép nhà Hồ quy định, nếu binh sĩ ra trận mà nhút nhát thì vợ, con, điền sản phải xung công. Triều đình phong kiến nhà Lý còn có tục bắt cung nữ chết theo vua hoặc hoàng hậu bằng cách đưa họ lên hỏa thiêu...

Hôn nhân dưới chế độ phong kiến không dựa trên tình yêu mà dựa trên quyền lợi của dòng họ, tất cả vì mục đích chính trị. Người phụ nữ trở thành vật đánh đổi, hy sinh cho những mưu đồ của thế lực cầm quyền. Theo bà Lê Thị Nhâm Tuyết thì các thứ bậc cao trong xã hội đều giành cho hoàng gia, hoàng tộc, quân đội của triều đình và một tầng lớp trí thức gồm toàn đàn ông, những người chỉ có nhiệm vụ học hành để ra làm quan. Giai cấp thống trị đã sử dụng các phương tiện khác nhau để biến hệ tư tưởng Nho giáo thành công cụ duy trì quyền lực đối với phụ nữ.

Một mạng lưới tinh vi và phức tạp của các lý thuyết Nho giáo đã trói buộc nhiều thế hệ phụ nữ Việt Nam. Với quan niệm "đàn bà là giống khó dạy" nên cần phải được giáo huấn, tuyên truyền để nhồi sọ những lý lẽ, tín điều của chế độ tôn pháp và lễ giáo

Khổng Mạnh. Mặt khác, họ còn dùng cả luật pháp để giam hãm, đọa đày, trừng bị những phụ nữ muốn thoát khỏi vòng trói buộc trên, dồn phụ nữ vào cuộc sống chật hẹp với đạo tam tòng, biến họ thành những nô lệ trong gia đình. Luật Gia Long là điển hình của sự áp bức, coi thường phụ nữ của chế độ phong kiến Việt Nam. Luật này quy định các cực hình, nhục hình dành riêng cho phụ nữ như thả bè trôi sông; gọt gáy bôi vôi, cho voi giày... "Nhục hình gọt gáy bôi vôi còn có chứng tích ở ngôi miếu nhỏ cạnh chùa Bích Lư (Hà Nội), đây là nơi thờ "cậu" - vị thần gọt gáy bôi vôi phụ nữ" [57, tr.138].

Hơn thế nữa, giai cấp phong kiến còn duy trì đạo "tam tòng". Từ khi sinh ra, con gái đã bị phân biệt đối xử, không được học hành mở mang trí óc mà phải làm việc phục vụ cho cha mẹ để sau này phục vụ nhà chồng. Sách "Nữ huấn" của Trần Kim dạy rằng: "sự nghe lời là cái phận thứ nhất của đứa con gái". Bên cạnh đạo "tam tòng" người phụ nữ còn bị trói buộc bởi đạo "tứ đức": công, dung, ngôn, hạnh. Công bằng mà nói, những giá trị đạo đức này cũng có nhiều điểm tích cực đối với người phụ nữ trong việc tu dưỡng, rèn luyện để làm tốt chức năng người mẹ, người vợ trong gia đình. Song, dưới chế độ phong kiến "tam tòng, tứ đức" thực sự là công cụ của giai cấp thống trị, của người đàn ông để áp bức về tinh thần đối với phụ nữ theo chuẩn mực "phu xướng phụ tùy".

Tồn tại suốt mấy nghìn năm, Nho giáo đã có nhiều tác động tiêu cực, gây hậu quả xấu, ảnh hưởng nghiêm trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, đặc biệt là hạ thấp địa vị, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Nho giáo đã làm cho bao thế hệ phụ nữ Việt Nam bị đẩy xuống tận cùng của sự áp bức bóc lột và đối xử tàn bạo. Có thể nói rằng khinh miệt, coi thường phụ nữ có lẽ là điều sai lầm lớn nhất về lý luận và thực tiễn của những người sáng lập ra đạo Nho. Tệ hại hơn là những câu ca dao, tục ngữ mang nặng tư tưởng "trọng nam khinh nữ", những câu hát duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác gây nên tâm lý tự ti ở người phụ nữ. Vì vậy, cuộc đấu tranh để thực hiện quyền bình đẳng nam nữ không chỉ là cuộc đấu tranh chống thói gia trưởng trong đàn ông mà còn là cuộc đấu tranh chống tư tưởng tự ti ở người phụ nữ, chống những thói quen dành sự ưu đãi trong mọi sinh hoạt cho đàn ông. Tất nhiên phải xác định đây là cuộc đấu tranh lâu dài và không ít khó khăn.

1.2.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ - Cuộc cách mạng về lý luận giải phóng phụ nữ do C.Mác và Ph.Ăngghen thực

hiện

Từ giữa thế kỷ XIX, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra tiền đề kinh tế - xã hội cho cuộc đấu tranh giải phóng các giai cấp bị áp bức bóc lột, giải phóng phụ nữ. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, kế thừa những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, cùng với sự uyên bác về trí tuệ cá nhân C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện cuộc cách mạng thật sự về lý luận trong vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ.

C.Mác và Ph.Ăngghen bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, với tư cách là những nhà dân chủ và nhân đạo cách mạng, hai ông đã giành tình yêu thương cho con người, lo lắng cho số phận của những con người bị áp bức, bị nô dịch, dày công nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội tư bản, từ đó phát hiện ra con đường giải phóng con người nói chung, giai cấp công nhân nói riêng. Truyền thống đấu tranh cho quyền con người của nhân loại là cơ sở hình thành lý luận về giải phóng con người, giải phóng phụ nữ của chủ nghĩa Mác - Lênin. Lý luận đó không chỉ thấm đượm bản chất nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn vượt lên tầm cao mà trước đó tư tưởng của nhân loại chưa thể vươn tới - đó là quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử coi con người là con người thực tiễn, là chủ thể duy nhất có khả năng nhận thức và cải tạo thế giới.

C.Mác, Ph.Ăngghen đều đánh giá rất cao vai trò, vị trí và khả năng của phụ nữ trong các cuộc cách mạng. Theo các ông: “Trong lịch sử nhân loại, không có một phong trào to lớn nào của những người áp bức mà lại không có phụ nữ lao động tham gia, phụ nữ lao động là những người bị áp bức nhất trong tất cả những người bị áp bức” [35, tr.60], chính vì vậy nên không bao giờ họ đứng ngoài và cũng không thể đứng ngoài các cuộc đấu tranh giải phóng. Phong trào giải phóng của những người nô lệ như chúng ta đều biết, đã có hàng trăm, hàng ngàn liệt nữ cao quý và nữ anh hùng. Trong hàng ngũ những người đấu tranh giải phóng nông nô, cũng có hàng vạn phụ nữ lao động. Trong các cuộc chiến đấu để xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, thiết lập nền cộng hòa tư sản thì lực lượng phụ nữ cũng chiếm một vị thế không nhỏ. Một nhà quan sát tư sản được chứng kiến Công xã đã viết hồi tháng 5 năm 1871 trong một tờ báo Anh như sau: “Nếu dân tộc Pháp chỉ gồm toàn phụ nữ thì sẽ là một dân tộc đáng ghê sợ biết chừng nào”.

Như vậy, C.Mác không những rất đề cao vai trò của phụ nữ mà còn nêu lên như một điều kiện không thể thiếu trong các cuộc cách mạng. Song với vai trò và khả năng to lớn ấy không phải khi nào địa vị của phụ nữ cũng được xác nhận như là một tất yếu khách quan mà chỉ khi chủ nghĩa Mác ra đời, vị trí của phụ nữ mới được nhận thức một cách khoa học và đầy đủ.

Chủ nghĩa tư bản phát triển đã tạo ra các tiền đề kinh tế, xã hội cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp bị áp bức, bóc lột, giải phóng phụ nữ nhưng bản thân chủ nghĩa tư bản khi xác lập vị trí của nó trên vũ đài chính trị lại không thể giải phóng được con người nói chung, người phụ nữ nói riêng khỏi sự áp bức gia đình và xã hội, thậm chí nó còn tăng cường sự áp bức bóc lột và làm tha hóa phụ nữ. Việc này chỉ có thể được giải quyết dưới chủ nghĩa xã hội, vấn đề là làm thế nào để giải phóng được phụ nữ cả trong gia đình và ngoài xã hội? Theo chủ nghĩa Mác, phải giải phóng phụ nữ khỏi mọi áp bức, bất công, mọi ràng buộc của sự bất bình đẳng. Điều đó chỉ có thể được thực hiện bằng một cuộc

cách mạng vô sản - cuộc cách mạng giải phóng cho toàn bộ nhân loại. Để giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ, theo Ph.Ăngghen cần phải thực hiện các điều kiện sau:

Thứ nhất: phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu chính là thủ tiêu sự lệ thuộc kinh tế của người đàn bà đối với người đàn ông, điều này sẽ tạo cơ sở để xây dựng gia đình bình đẳng giữa vợ và chồng.

Thứ hai: không thể cột chặt người phụ nữ vào công việc gia đình, phải đưa họ tham gia vào nền sản xuất xã hội. Xã hội cần phải giúp phụ nữ giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình, công việc gia đình phải trở thành một bộ phận của công việc xã hội. Chỉ khi nào phụ nữ không còn phải lựa chọn hoặc tham gia sản xuất, hoặc làm việc nhà mà họ đồng thời làm tốt được hai việc đó thì địa vị của họ mới được khẳng định.

Thứ ba: phải đồng thời xây dựng hôn nhân và gia đình tiến bộ, hôn nhân tự nguyện trên cơ sở tình yêu chân chính chứ không bị lợi ích kinh tế chi phối. Hôn nhân phải dựa trên cơ sở tình yêu mới hợp đạo đức và mới lâu bền.

Trong kinh tế gia đình cộng sản cổ đại, bao gồm nhiều cặp vợ chồng với con cái của họ thì việc nội trợ giao cho phụ nữ là một việc rất cần thiết. Vì vậy trong số các điều kiện tiên quyết thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ thì quan trọng nhất cần kể tới là sự tham gia của phụ nữ vào sản xuất xã hội và công việc gia đình cá thể không còn là địa vị kinh tế xã hội. Gắn liền đồng thời với hai điều kiện này là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Việc người chồng phải kiếm tiền, là người nuôi dưỡng gia đình đã đem lại cho người đàn ông một địa vị thống trị mà không cần phải có một đặc ân nào của pháp luật. Do đó để giải phóng phụ nữ thì cần phải thu hút phụ nữ tham gia vào nền sản xuất của xã hội. Theo Ph.Ăngghen: sự giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa nam và nữ đều không thể có được và mãi mãi không thể có được, chừng nào mà phụ nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động sản xuất xã hội còn phải bị bó hẹp trong công việc riêng tư của gia đình. Vì vậy, muốn thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ thì “điều kiện tiên quyết là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền sản xuất xã hội, và điều kiện đó lại đòi hỏi phải làm cho gia đình cá thể không còn là một đơn vị kinh tế của xã hội nữa” [33, tr.116]. Ngoài các điều kiện trên còn phải chú ý đến các điều kiện xã hội quan trọng khác như xóa bỏ phong tục tập quán cũ kỹ, lạc hậu, tâm lý coi thường phụ nữ, thường xuyên giáo dục và vận động mọi thành viên của xã hội nâng cao nhận thức và thực hiện mục tiêu bình đẳng nam nữ trên thực tế. Khi sự phân công lao động trong xã hội trở nên bình đẳng, điều kiện kinh tế công bằng đối với phụ nữ và nam giới thì sự phân công lao động gia đình cũng biến đổi theo hướng cân bằng, lúc đó địa vị xã hội của phụ nữ cũng sẽ có sự thay đổi sâu sắc cùng với sự biến đổi của kinh tế và khi “tư liệu sản xuất chuyển thành tài sản chung, thì gia đình cá thể sẽ không còn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa. Nền kinh tế gia đình tư nhân biến thành một nghành lao động xã hội. Việc nuôi dạy con cái trở thành công việc

- Lênin phát triển và hiện thực hóa lý tưởng giải phóng phụ nữ, thực hiện bình

của xã hội” [33, tr.118]. Do đó con đường giải phóng phụ nữ là tổ chức lại cách phân công lao động trong xã hội và gia đình theo hướng phụ nữ tham gia ngày càng bình đẳng với nam giới trong nền sản xuất xã hội, đồng thời lao động trong gia đình của họ phải ngày càng giảm đi. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ chỉ có thể được thực hịên một cách triệt để khi lao động gia đình biến thành lao động xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “chỉ có thể giải phóng được người phụ nữ khi người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một quy mô xã hội rộng lớn và chỉ phải làm công việc trong nhà rất ít” [33, tr.241]. Nhưng như thế thì người phụ nữ không làm tròn chức năng người mẹ, người vợ trong gia đình vì nếu họ làm tròn nghĩa vụ trong gia đình thì phải đứng ra ngoài lề sản xuất xã hội và không thể có thu nhập nào cả. Đó là mâu thuẫn mà phụ nữ bao đời không có điều kiện giải quyết, vì vậy phụ nữ phải luôn chịu cảnh bất công, áp bức của giới tính và của xã hội. Để phụ nữ trở lại tham gia công việc xã hội theo Ph.Ăngghen cần phải đưa những công việc nội trợ của gia đình cá thể trở thành công việc chung của xã hội, biến nội trợ gia đình thành lao động hàng hóa. Tư tưởng này được Lênin kế thừa và phát triển trong điều kiện xây dựng xã hội mới. Là học trò xuất sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen chính Lênin đã thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ trên toàn nước Nga Xô viết. đẳng nam nữ Học thuyết Mác - Lênin coi thực chất của sự bình đẳng là bình đẳng giữa các giai cấp, bình đẳng nam nữ là một bộ phận hữu cơ của sự bình đẳng giai cấp. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: khái niệm bình đẳng sẽ là một thiên chức ngu ngốc nhất nếu nó không được gắn liền với xóa bỏ giai cấp, cần phải thực hiện bình đẳng về địa vị kinh tế và địa vị xã hội. Do đó thủ tiêu sự bất bình đẳng về kinh tế là cơ sở của việc thực hiện bình đẳng thật sự giữa phụ nữ và nam giới. Lênin còn chỉ rõ:

Thủ tiêu giai cấp có nghĩa là làm cho tất cả mọi công dân đều có địa vị ngang nhau đối với những tư liệu sản xuất của toàn thể xã hội… Khi những người xã hội chủ nghĩa nói tới bình đẳng thì họ hiểu rằng đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội chứ quyết không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực cá nhân [23, tr.449].

Bằng lý luận và bằng chính thực tiễn của nước Nga Xô viết, Lênin đã đấu tranh kiên quyết chống lại luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác về tình yêu, hôn nhân và gia đình của giai cấp tư sản, đồng thời vạch trần bộ mặt thật của chế độ tư bản và hiến pháp tư sản. Trên báo Sự thật ngày 6/11/1919 Lênin viết:

Trên lời nói, chế độ dân chủ tư sản hứa hẹn bình đẳng và tự do. Trong thực tế, không có một nước cộng hòa tư sản nào, dù là nước tiên tiến nhất, đã để lại cho một nửa loài người là nữ giới được hoàn toàn bình đẳng với nam giới trước pháp luật và giải phóng phụ nữ khỏi sự bảo trợ và sự áp bức của nam giới [23, tr.325].

Không hi vọng gì ở những lời hứa của giai cấp tư sản, Lênin đã đứng lên kêu gọi phụ nữ vùng lên làm cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng chính mình. Sau khi thành lập chính quyền Xô viết tại nước Nga, một trong những việc đầu tiên Lênin đã làm là từng bước thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Đảng Bônsêvích và chính quyền Xô viết chủ trương phụ nữ được bình đẳng với nam giới về mọi mặt. Để thực hiện được điều đó, Nhà nước Xô viết đã thủ tiêu chế độ đẳng cấp, thực hiện quyền bình đẳng cho mọi công dân, không phân biệt trai gái trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Lênin chỉ ra: “trong các đạo luật của Chính quyền xô-viết, người ta không thấy một chút dấu vết gì về việc phụ nữ bị đối đãi bất bình đẳng” [26, tr.230]. Quan điểm của Lênin trước hết là phải xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật mới đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Trong thư “Gửi nữ công nhân” viết năm 1920 Lênin tố cáo pháp luật tư sản giành đặc quyền cho nam giới và đặt phụ nữ vào tình trạng bất bình đẳng. Do đó để tiến tới giải phóng phụ nữ theo Lênin cần phải thực hiện các chính sách cụ thể và thiết thực như sau: Thứ nhất: phải hủy bỏ pháp luật tư sản, ban hành pháp luật mới tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ. Theo Người, trong pháp luật mới, người ta không còn thấy một chút dấu vết gì về việc phụ nữ bị đối đãi bất bình đẳng. Thứ hai: không chỉ giải phóng phụ nữ bằng luật pháp, để phụ nữ thật sự được bình đẳng, có quyền tham gia quyết định vận mệnh của đất nước mình mà còn phải đưa phụ nữ trực tiếp tham gia quản lý nhà nước, xây dựng, củng cố chính quyền. Lênin tin rằng trong quản lý, phụ nữ sẽ được học tập nhanh chóng và đuổi kịp nam giới. Lênin kêu gọi phụ nữ phải thể hiện sự quan tâm đến quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan nhà nước. Giai cấp công nhân phải coi quyền bầu cử của phụ nữ là một bộ phận hữu cơ của quyền lợi giai cấp và là sự nghiệp của giai cấp vô sản, phấn đấu giành quyền bầu cử cho phụ nữ là một bước quan trọng trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Đây là biện pháp tích cực để đưa phụ nữ vào hoạt động chính trị xã hội và quan tâm đến tình hình đất nước. Phải bầu phụ nữ vào các xí nghiệp, bổ nhiệm phụ nữ vào các ban thanh tra, các thẩm phán… đó là những việc làm có ý nghĩa sâu sắc, làm thay đổi địa vị người phụ nữ trong xã hội. Lênin còn kêu gọi: hãy bầu nhiều công nhân nữ hơn nữa “miễn sao họ là những

công nhân trung thực, biết làm việc và có tình có lý và tận tâm… Giai cấp vô sản sẽ không đạt được tự do hoàn toàn, nếu không giành được tự do hoàn toàn cho phụ nữ” [27, tr.183]. Thứ ba: không chỉ giải phóng phụ nữ ở ngoài xã hội mà phải giải phóng họ ngay trong gia đình vì chính nơi đây là gánh nặng công việc đang đè lên vai họ, làm cho họ không thể phát triển như nam giới . Theo Lênin ngay trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng, phụ nữ vẫn bị trói buộc vì toàn bộ công việc gia đình đều trút lên vai họ. Phần lớn trường hợp lao động gia đình do phụ nữ gánh vác là loại lao động hết sức vụn vặt, nặng nhọc, không giúp ích chút nào cho sự tiến bộ của phụ nữ, vì thế:

Mặc dù có mọi luật lệ giải phóng, nhưng phụ nữ cứ vẫn còn là nô lệ trong gia đình, vì những công việc nội trợ linh tinh còn đè nặng lên lưng họ, làm cho họ nghẹt thở, mụ mẫm, nhục nhằn, ràng buộc họ vào bếp núc, vào buồng con cái, lãng phí sức lực của họ vào một công việc cực kỳ kém năng suất, tủn mủn, làm cho họ nhọc nhằn, đần độn, bị gò bó [26, tr.27-28].

Như vậy phải làm sao cho phụ nữ giảm bớt gánh nặng công việc gia đình, để vừa có thêm thời gian để học tập, lao động, vừa làm tròn trách nhiệm với gia đình và với xã hội? Lênin yêu cầu các cơ quan, các cơ sở sản xuất phải lập ra “một số cơ quan kiểu mẫu như nhà ăn, nhà giữ trẻ, để giúp cho phụ nữ thoát khỏi công việc gia đình. Việc lập ra những cơ quan đó, trước hết phải do chính phụ nữ đảm nhiệm” [26, tr.231]. Nhà nước Xô viết còn đưa ra chính sách: tất cả phụ nữ lao động có con nhỏ đều được giành thời gian cho con bú vào các khoảng cách nhau không quá 3 giờ, được nhận một số tiền phụ cấp và chỉ làm việc 6 giờ mỗi ngày, cấm dùng phụ nữ lao động ban đêm, phụ nữ được nghỉ lao động tám tuần trước khi sinh và tám tuần sau khi sinh mà vẫn được hưởng lương như thường lệ, không phải trả tiền chữa bệnh và tiền thuốc.

Lênin cũng đánh giá rất cao vai trò phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa vì kinh nghiệm của tất cả các phong trào giải phóng chứng tỏ rằng thắng lợi của cách mạng là tùy thuộc vào mức độ tham gia của phụ nữ. Bởi vậy, không chỉ trong cương lĩnh mà trên thực tế Lênin và Chính quyền Xô viết đã làm hết sức mình để lôi cuốn phụ nữ tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm từng bước giải phóng phụ nữ. Lênin cũng chỉ ra rằng: phụ nữ chỉ được giải phóng, được phát triển khi họ nhận thức được vị trí vai trò của mình và có ý chí đấu tranh vì sự nghiệp cao cả ấy, “việc giải phóng lao động nữ phải là việc của bản thân phụ nữ” [26, tr.232]. Để thực hiện sự nghiệp giải phóng chính bản thân mình phụ nữ phải ra sức học tập nâng cao trình độ mọi mặt, nhanh chóng đuổi kịp nam giới. Lời căn dặn của Lênin: “Học, học nữa, học mãi!” là cho tất cả các đối tượng trong đó có phụ nữ. Chỉ có học tập, với trình độ học vấn cao, phụ nữ mới thực hiện tốt vai trò của mình đối với gia đình và đối với xã hội.

Như vậy: chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết khoa học cách mạng và tiên tiến nhất của thời đại ngày nay, là sự kế tục, phát triển những tư tưởng nhân loại về giải phóng phụ nữ, đã chỉ ra nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa nam và nữ là do phụ nữ bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất xã hội, chỉ ra vai trò và khả năng to lớn của phụ nữ đối với quá trình cách mạng vì tiến bộ xã hội, chỉ ra điều kiện để đi đến giải phóng phụ nữ là đưa phụ nữ trở lại tham gia lao động sản xuất xã hội và chuyển công việc nội trợ của gia đình thành công việc lớn của xã hội. Gắn sự nghiệp giải phóng phụ nữ với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xem vấn đề giải phóng phụ nữ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng vô sản. Những tiền đề về lý luận, nhận thức và thực tiễn đã cho phép ta kết luận: thời đại đã tạo ra những điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng thật sự đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Nguyên lý chỉ có thể trở thành hiện thực trong cuộc sống mỗi khi con người biết nhận thức đầy đủ về nó, vận dụng nó một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, không có công thức tuyệt đối cho mỗi vấn đề, cho từng trường hợp riêng biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt được phương châm, nguyên tắc đó và đã có tư tưởng giải phóng phụ nữ hết sức đúng đắn, vừa trung thành với những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam.

1.3. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN

DỤNG QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.3.1. Giải phóng phụ nữ gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,

giải phóng con người Vấn đề giải phóng phụ nữ là một bộ phận thống nhất, xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đồng thời thể hiện rõ tư tưởng nhân văn cao cả và đạo đức trong sáng của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đặt vị thế, vai trò của phụ nữ ngang với nam giới và cũng là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ tiêu biểu của thế giới đề cao sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam có niềm hãnh diện chính đáng trước phụ nữ năm châu về vị lãnh tụ kính yêu của mình. Một Giáo sư Sử học người Mỹ G.Steven đã dành những lời trân trọng nhất về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, Bà viết:

Hai thế kỷ qua đã sản sinh ra những lãnh tụ chính trị nổi tiếng trên thế giới nhiều hơn tất cả các giai đoạn khác trong lịch sử. Trong số những lãnh tụ là nam giới như T.Giécphécxen, M.Giăng đi, C.Mác, V.I.Lênin, Mao Trạch Đông... chỉ có Hồ Chí Minh đã luôn nói về quyền bình đẳng của phụ nữ được hưởng các quyền lợi khác nhau như nam giới. Chỉ có Hồ Chí Minh là thấy được rằng phụ nữ đã phải chịu đựng gánh nặng như nam giới và còn hơn thế nữa. Tất cả các lãnh tụ nói trên đều quan tâm sâu sắc đến công lý xã hội, cho

toàn thể xã hội, nhưng chỉ có Hồ Chí Minh đã thẳng thắn nói về chủ đề phụ nữ [49, tr.142].

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ có cội nguồn sâu xa. Một mặt, từ sự chứng kiến trực tiếp của Người qua cuộc sống gia đình và xã hội - suốt thời niên thiếu ngay ở quê hương xứ sở Nghệ Tĩnh nghèo khổ, dưới chế độ phong kiến, thực dân, người phụ nữ bị áp bức, bóc lột đến cùng cực, bị khinh rẻ đến mức mất cả tư cách làm người. Thân phận và địa vị của họ bị trói buộc bởi các quan niệm đạo đức phong kiến và các luật pháp phi lý của triều đình. Phụ nữ Việt Nam luôn chịu cảnh “một cổ hai tròng” vừa bị tư tưởng phong kiến coi thường về địa vị xã hội, vừa bị bọn thực dân bóc lột về sức lực, kinh tế, bị chà đạp nhân phẩm và quyền làm người. Người cũng đã từng chứng kiến những người làm công nhân cho thực dân Pháp bị vắt kiệt sức lao động, trong đó phụ nữ bị đối xử rất tệ hại, mỗi ngày nam giới được 32 xu thì phụ nữ chỉ có 28 xu, trẻ em 16 xu. Không những thế chúng còn giở trò bắt bớ, giam cầm, làm nhục phụ nữ. Vì thế, hầu hết trong các tác phẩm, báo chí, bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề nữ giới. Trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực Pháp” xuất bản tại Pari năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành cả một chương với chủ đề: “Nỗi khổ nhục của người đàn bà bản xứ” để trình bày cho toàn thế giới biết về thân phận người phụ nữ. Người viết: “Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài phố, trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của bọn cai trị, sỹ quan, cảnh binh, nhà đoan, nhà ga [37,tr.5]. Tư tưởng giải phóng phụ nữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được hun đúc trong suốt quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, đến đâu Nguyễn Ái Quốc cũng thấy cảnh phụ nữ bị đối xử bất công, bị bóc lột và chà đạp nhân phẩm. Người so sánh nỗi khổ nhục của phụ nữ Việt Nam với phụ nữ các nước thuộc địa: mấy việc kể trên cũng đủ làm cho các chị em ở chính quốc nhìn thấy phụ nữ Việt Nam sống quằn quại trong cảnh lầm than và bị áp bức như thế nào rồi. Bây giờ chúng ta hãy xem người phụ nữ ở các nước thuộc địa khác có được tôn trọng hơn không? Trên cơ sở kết luận khoa học và bằng hành động thực tiễn cách mạng phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu một cách sâu sắc về chủ nghĩa thực dân, tìm ra quy luật tồn tại và diệt vong của nó. Từ đó Người đã đi đến kết luận chính xác và khoa học rằng: mọi áp bức, nô dịch đối với phụ nữ và trẻ em ở các nước thuộc địa không phải chỉ do các quan niệm lỗi thời, tư tưởng phong kiến, lạc hậu, mà chủ yếu là do chế độ áp bức dân tộc và bóc lột giai cấp của chủ nghĩa thực dân gây ra. Ở Việt Nam, chính sách tàn bạo của thực dân Pháp là nguyên nhân căn bản đẩy phụ nữ Việt Nam vào con đường đói khổ, tủi nhục. Vì vậy, quyền lợi của người phụ nữ phải gắn liền với quyền lợi của cả

dân tộc, của cả giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Do đó, muốn giải phóng phụ nữ thì phải giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: Để cứu nước và giải phóng dân tộc trong đó có giải phóng phụ nữ, Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng tháng Mười. Vì vậy mục tiêu của cách mạng là giải phóng dân tộc, thực hiện quyền tự do bình đẳng cho mọi người, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, theo Người không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Người đề ra chiến lược, sách lược từ cách mạng giải phóng dân tộc phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một quá trình cách mạng không ngừng, đồng thời Người cũng xác định mục tiêu trước mắt và lâu dài là làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người phải đồng thời với giải phóng phụ nữ, vì chỉ khi đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc thì phụ nữ mới được giải phóng một cách căn bản. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và quyền sống của con người được gắn với nhau một cách hữu cơ, biện chứng. Quyền độc lập dân tộc thiêng liêng và quyền căn bản của con người chỉ có thể được thực hiện bằng một cuộc cách mạng vô sản. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là dân của một nước thuộc địa, phụ nữ muốn thoát khỏi áp bức bóc lột và nô dịch của chủ nghĩa đế quốc thỉ phải tự mình đứng lên làm cách mạng. Người chỉ ra rằng công cuộc giải phóng anh chị em chỉ có thể thực hiện được bằng chính sự nỗ lực của bản thân anh chị em mà thôi. Đối với Người giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người bởi vì “nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [41, tr.55]. Đó không chỉ là hoài bão, là lý tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là con đường cách mạng đúng đắn để dân tộc ta đi tới một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Trong tư tưởng giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có tư tưởng về giải phóng phụ nữ bởi vì làm cách mạng là để giành lấy tự do, độc lập, dân chủ, trai gái đều ngang quyền như nhau. Từ quan điểm nhất quán đó Người thường xuyên giao nhiệm vụ cho Đảng Cộng sản: Đảng và Nhà nước phải coi vấn đề giải phóng phụ nữ là nhiệm vụ, bổn phận của sự nghiệp cách mạng. Trong thư “Gửi phụ nữ toàn quốc” nhân kỷ niệm 30 năm ngày Quốc tế phụ nữ (08/03/1960) Người viết: “Đảng và Chính phủ ta luôn chú ý nâng cao địa vị của phụ nữ”. Quan điểm của Người về giải phóng phụ nữ còn gắn liền với công cuộc cải tạo xã hội, vì chỉ có tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, luật pháp,… mới tạo được tiền đề căn bản cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ trở thành hiện thực. Ngược lại muốn có một xã hội tốt đẹp thì cần phải giải phóng phụ nữ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh “giải phóng phụ nữ” không chỉ bao hàm nội dung thoát khỏi ách nô lệ, khỏi chế độ phong kiến mà còn phải xóa

bỏ tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, tạo mọi điều kiện để phụ nữ phát huy mọi khả năng của mình, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong Hội nghị thảo luận dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu quan điểm “luật lấy vợ, lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phân nửa xã hội, giải phóng người đàn bà, đồng thời tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong người đàn ông” [17, tr.34]. Như vậy vấn đề giải phóng phụ nữ phải được thực hiện từ trong gia đình, đây còn là cuộc đấu tranh lâu dài của nhân loại. Giải phóng phụ nữ từ trong gia đình thực chất là tạo quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa người và người, việc làm đó tưởng như đơn giản nhưng lại rất gay go, quyết liệt. Người phân tích:

Nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ: Hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em rửa bát, quét nhà, nấu cơm thế là bình đẳng, bình quyền. Lầm to! Đó là một cuộc cách mạng to và khó. Vì trọng nam khinh nữ là một thói quen mấy nghìn năm để lại, nó ăn sâu trong đầu óc mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội. Vì vậy, vũ lực của cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật, phải cách mạng từng người, từng gia đình đến toàn dân. To và khó nhưng nhất định thành công [17, tr.31].

Sau khi giành được chính quyền, với cương vị Chủ tịch nước Người rất chăm lo xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân, phát động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm nhưng vẫn không quên nhiệm vụ giải phóng phụ nữ. Điều này không còn mang ý nghĩa của một chủ trương, một đường lối thực hiện như trước mà đã được thể hiện ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946. Trong thời kỳ xây dựng đất nước, theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh giải phóng phụ nữ còn là quá trình giải phóng sức lao động để tạo điều kiện cho mọi phụ nữ phát huy hết khả năng sáng tạo của mình. Người nói: “Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động của phụ nữ. Phụ nữ là đội quân lao động rất đông. Phải giữ gìn sức khỏe cho phụ nữ để chị em tham gia sản xuất được tốt” [17, tr.64].

Quan điểm về giải phóng phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm khoa học có tính thực tiễn với tư duy khách quan mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Theo Người: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [17, tr.33].

Có thể nói, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ, đó là một trong những mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mà suốt đời Người đã phấn đấu, hy sinh cho mục tiêu lý tưởng đó. Đây cũng là sự nghiệp giải phóng chân chính, toàn diện và triệt để nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

1.3.2. Giải phóng phụ nữ là một bộ phận quan trọng trong chủ trương, chính

sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Trong lịch sử nhân loại không ít các bậc hiền triết, những nhà tư tưởng, những vị giáo chủ đã thể hiện thái độ trước nỗi đau và sự bất hạnh của người phụ nữ. Phần lớn họ chỉ biết thuyết giáo cho sự nhẫn nhục, hoặc cảm thông, an ủi cho số phận của phụ nữ. Họ bất lực trước vấn đề giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh không dừng lại ở sự cảm thông, thương xót số phận người phụ nữ mà Người còn tìm ra căn nguyên của sự bất bình đẳng, từ đó vạch ra những biện pháp để giải phóng phụ nữ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ không chỉ bó hẹp trong quan điểm giải phóng họ khỏi áp bức, nghèo nàn, không chỉ bằng sự đánh giá hay lý luận suông mà điểm mấu chốt là phải cụ thể hóa bằng chủ trương, chính sách, luật pháp phải được pháp lý hóa nghĩa là tư tưởng, chủ trương, đường lối giải phóng phụ nữ phải được thể chế hóa thành chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước để làm cơ sở pháp lý nâng cao trách nhiệm của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Vì vậy muốn cho phụ nữ được bình đẳng, bình quyền thì Đảng và Chính phủ phải tạo mọi điều kiện cho phụ nữ tham gia lao động sản xuất, bảo hộ sức khỏe, giảm nhẹ gánh nặng gia đình cho phụ nữ, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để phụ nữ có thể cống hiến hết khả năng cho đất nước.

Tư tưởng về giải phóng phụ nữ được thể hiện ngay trong lời nói và việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những lần đến thăm các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp Người thường quan tâm đến số lượng phụ nữ tham gia công tác quản lý, tham gia công tác xã hội… Nếu thấy số lượng ít quá, Người liền nhắc nhở hoặc nghiêm khắc phê bình thái độ thành kiến, hẹp hòi của các cấp lãnh đạo đối với việc cất nhắc, sử dụng cán bộ nữ. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị tuyên giáo miền núi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Cả Hà Nội có 2000 đại biểu thế mà lại có 5 phụ nữ, trong 5 phụ nữ lại không có phụ nữ dân tộc thiểu số nào… Một cuộc họp như thế này mà quên mất vai trò của phụ nữ thì chắc ở địa phương các chú cũng quên mất vai trò của phụ nữ” [39, tr.127].

Người thường xuyên nhắc nhở các cấp lãnh đạo phải triển khai chủ trương, đường lối và thực hiện chính sách một cách cụ thể, thiết thực, nói đi đôi với làm, không được xa rời quần chúng, phải luôn bám sát các hoạt động của phụ nữ để hướng dẫn, giúp đỡ họ tháo gỡ khó khăn. Tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ 3 năm 1961 Người nhấn mạnh: “Cán bộ đã cố gắng cần phải cố gắng hơn nữa, đoàn kết nội bộ chặt chẽ hơn nữa, chịu khó học tập hơn nữa… ra sức giúp đỡ chị em giải quyết những thắc mắc, khó khăn,… anh em cán bộ các cấp, các ngành cần hết lòng giúp đỡ chị em tiến bộ về mọi mặt. Các đồng chí làm được như vậy thì phong trào phụ nữ nhất định không ngừng nâng cao” [17, tr.45].

Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ những ngày đầu thành lập đã giương cao ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong các chủ trương, chính sách chung đã có những chính sách riêng đối với phụ nữ. Điều đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:

Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng, Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị người làm chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà [17, tr.45-46].

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng phụ nữ, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng đối với phụ nữ. Đảng ta đã có những Nghị quyết chuyên đề về vấn đề phụ nữ như: Nghị quyết số 152/153-NQ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác Phụ vận; Chỉ thị 44/BBT của Ban Bí thư về một số vấn đề trong công tác cán bộ nữ. Đồng thời để phát huy khả năng đóng góp và vai trò của phụ nữ trong đời sống chính trị của đất nước Nghị quyết 04 ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới đã coi: “giải phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới” và đề xuất nhiệm vụ mang tính chiến lược là xây dựng đội ngũ cán bộ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ phấn đấu, trưởng thành, tăng tỷ lệ nữ trong các cấp lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ vào tháng 5 năm 1994 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 37- CT/TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới với 6 biện pháp phát triển tiềm năng của phụ nữ. Chỉ thị đưa ra mục tiêu phải có nữ tham gia lãnh đạo trong các ngành, các cấp, các doanh nghiệp và nhiều vấn đề khác có liên quan đến phụ nữ. Ngoài ra còn có Nghị quyết 164/HĐ-BT về đổi mới công tác cán bộ nữ trong tình mới. Những vấn đề liên quan phụ nữ cũng được thể chế hóa bằng Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Nhà nước . Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã khẳng định quyền bình đẳng nam nữ trong mọi phương diện chính trị, kinh tế và văn hóa, chẳng hạn điều 9 trong bản Hiến pháp này nêu rõ: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Như vậy ngay từ khi mới thành lập nước, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện sự quan tâm đến vấn đề bình đẳng nam nữ và thể hiện rõ chính sách của Nhà nước bảo đảm cho người phụ nữ được hoàn toàn bình đẳng tham gia vào các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong ba bản Hiến pháp tiếp theo: Hiến pháp 1959, 1980, 1992 các quyền bình đẳng nam nữ đã được cụ thể hóa hơn, nội dung ngày càng đầy đủ và phù hợp với tình hình thực tế.

Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội”. Hiến pháp năm 1980 cụ thể hơn: “phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nhà nước và xã hội chăm lo, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghề nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội”. Ngày 18/12/1979 Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn Công ước CEDAW “Chống mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” và Công ước này chính thức có hiệu lực từ ngày 3/ 9/1981. Việt Nam là một trong những nước ký công ước CEDAW sớm nhất. Do vậy, trong Hiến pháp năm 1992 quan điểm: “Chống mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” đã được thể hiện rõ trong điều 63: “công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm người phụ nữ.” Trên cơ sở các nguyên tắc Hiến định, các quyền bình đẳng nam nữ được cụ thể hóa trong hệ thống các ngành luật đảm bảo cho phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới. Chẳng hạn trong Luật Hôn nhân và gia đình ban hành lần đầu năm 1959 đã công nhận quyền bình đẳng của công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, không phân biệt giới tính, địa vị xã hội, thành phần dân tộc. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có những quy định xóa bỏ những tàn tích cổ hủ, lạc hậu như cưỡng hôn, tảo hôn. Đặc biệt luật này còn quy định về các nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Bộ luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 1994 đặc biệt quan tâm đến quyền bình đẳng giới. Bộ luật này có cả một chương riêng (chương X) về lao động nữ, điều 109 của Bộ luật này nêu rõ: “Nhà nước đảm bảo quyền làm việc cho phụ nữ bình đẳng mọi mặt với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động, tạo điều kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên”. Bộ luật Hình sự thông qua năm 1989, có quy định tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ. Bên cạnh đó Nhà nước còn nhiều chính sách ưu tiên cho phụ nữ như: chế độ thai sản, chế độ bảo vệ phụ nữ trong các ngành lao động độc hại, chế độ phụ cấp công tác phí, sinh hoạt phí khi đi công tác hoặc đi học dài hạn,…

Sau Hội nghị lần thứ IV của Quốc tế phụ nữ được tổ chức tại Bắc Kinh năm 1995, Việt Nam đã xây dựng “Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000”. Đến tháng 1 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010. Trên cơ sở các mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược này, Ủy ban quốc gia đã xây dựng Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2005 nhằm cụ thể hóa việc thực hiện chiến lược trong giai đoạn một. Gần đây, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã thảo luận và chính thức ghi vào

văn kiện những tư tưởng, chủ trương, đường lối về bình đẳng giới nhằm giải phóng phụ nữ. Đại hội khẳng định “đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới” [14, tr.126].

Các quan điểm của Đảng và Nhà nước không chỉ được ghi nhận rõ trong hệ thống các Văn kiện của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, được cụ thể hóa bằng các Văn bản, những Chỉ thị, Nghị định mà còn đã và đang được thực thi trong cuộc sống nhằm phát huy vai trò, vị trí và tiềm năng của phụ nữ trong xã hội. Tổ chức UNDP của Liên hợp quốc tại Việt Nam đã ghi nhận: "Việt Nam có thể tự hào về những thành quả của mình trên bước đường tiến tới sự bình đẳng về giới. Những thành quả này, một phần nhờ sự cam kết về chính trị của Chính phủ Việt Nam, mở đầu bằng việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao vai trò và tiềm năng của phụ nữ" [63, tr.1].

Có thể nói: “Từ ngày nước ta được giải phóng đến nay, phụ nữ đều tiến bộ rõ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhưng một trong những tiến bộ rõ rệt nhất là phụ nữ ta hiện nay tham gia chính quyền ngày càng nhiều mà thời kỳ thuộc Pháp, phụ nữ ta làm gì được tham gia chính quyền” [17, tr.41]. Như vậy trong lịch sử nước nhà, chưa bao giờ phụ nữ có điều kiện vươn lên giành quyền bình đẳng về mọi mặt, chưa bao giờ phụ nữ được quan tâm, chăm sóc và được bảo vệ như hiện nay. Điều đó thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, chứng tỏ tư tưởng giải phóng phụ nữ của Hồ Chủ tịch đang từng bước trở thành hiện thực trong cuộc sống.

Mặc dù phụ nữ tham gia chính quyền ngày càng nhiều nhưng thực tế nhiều nơi chưa mạnh dạn và chưa tin tưởng vào khả năng của phụ nữ, điều này đã được chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuy vậy, cũng có một số người chưa thấy rõ vai trò của phụ nữ hiện nay cũng như sau này nên còn tư tưởng xem thường khả năng phụ nữ” [17, tr.41]. Chính vì vậy quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về việc gắn sự nghiệp giải phóng phụ nữ với các chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước là quan điểm khách quan trên cơ sở tư duy biện chứng và duy vật lịch sử, là cơ sở khoa học trong quá trình cách mạng, tiến tới giải phóng phụ nữ một cách toàn diện trong thời kỳ mới.

1.3.3. Giải phóng phụ nữ là sự nghiệp của bản thân giới nữ Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nhưng trước hết phải là sự nghiệp của bản thân giới nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ phải “mang sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Như vậy, để thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền, phụ nữ không chỉ trông vào việc thực thi các chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước mà phải tự vươn lên, tự đấu tranh để khẳng định vị trí của mình.

Khi tham gia dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình ngày 10/10/1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “luật lấy vợ, lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phần nửa xã hội… Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh” [17, tr.34]. Trong bài “Phải thực sự đảm bảo quyền cho phụ nữ” đăng trên báo Nhân dân ngày 28/12/1962 Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “lợi quyền của phụ nữ cần được thực sự đảm bảo, bản thân phụ nữ phải đấu tranh tự cường, tự lập, để giữ lấy quyền lợi của mình”. Bởi vì trong thực tế, Người đã thấy rõ bản tính nhút nhát, tự ti của phụ nữ cũng như điều kiện, hoàn cảnh khó khăn chưa tạo cơ hội cho phụ nữ vươn lên. Người đã chỉ ra những hạn chế chung của phụ nữ và nêu hướng khắc phục: “phụ nữ chúng ta còn một số nhược điểm: bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; cần nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền” [37, tr.54].

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định: phụ nữ cũng như nam giới là những công dân, là người chủ đất nước. Tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ III ngày 09/03/1961 Người đã nói về trách nhiệm làm chủ của phụ nữ: “Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước… Muốn làm trọn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ty và ỷ lại; phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật” [17, tr.44 ]. Người khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ là rất cần thiết nhưng phụ nữ cũng cần phải ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp chung đó.

Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vì vậy chị em phụ nữ phải nhận rõ địa vị làm chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà, phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm tròn nhiệm vụ của mình. Rõ ràng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh sự nghiệp giải phóng phụ nữ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng yếu tố có ý nghĩa quyết định là bản thân phụ nữ phải có quyết tâm phấn đấu, phải tự khẳng định mình trong mọi việc. Tại Đại hội phụ nữ tổ chức tại Thủ đô lần thứ II (08/03/1960) Người phát biểu:

Từ trước đến nay, phụ nữ Việt Nam ta đã có nhiều đóng góp cho cách mạng, phụ nữ ta rất đáng kính, phụ nữ ta có rất nhiều tiến bộ. Nhưng Đảng, Chính phủ và Bác còn mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa. Hiện nay trong các ngành, số phụ nữ tham gia còn ít. Đảng và Chính quyền rất hoan nghênh, sẵn sàng cất nhắc và giao cho phụ nữ những chức trách quan trọng… Muốn vậy, bản thân phụ nữ phải:

- Gắng học tập chính trị, học tập văn hóa, kỹ thuật.

- Nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa. - Hăng hái thi đua thực hiện “Cần kiệm xây dựng tổ quốc, cần kiệm xây

dựng gia đình” [17, tr.38].

Như vậy, để giải phóng mình, phụ nữ phải tự ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, chống tư tưởng tự ti, ỷ lại, bảo thủ, phủ nhận, thủ tiêu đấu tranh làm nhụt ý chí chiến đấu. Một đất nước đi lên từ nền kinh tế kém phát triển, hơn 95% dân số mù chữ, bao nhiêu hủ tục phong kiến lạc hậu kìm hãm sự phát triển phụ nữ, vì vậy, để vươn tới sự tiến bộ và văn minh, điều kiện kiên quyết đầu tiên là phụ nữ cần phải học. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử, ứng cử.

Cách mạng đã xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột và bất công nhưng tư tưởng coi thường phụ nữ, bất bình đẳng với phụ nữ chưa phải đã đẩy lùi về quá khứ, mà nó vẫn còn ngự trị trong số đông nam giới và còn tồn tại trong xã hội. Chính tư tưởng đó đã tạo ra vật cản không nhỏ cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Giải phóng người đàn bà, đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư sản trong người đàn ông” [42, tr.499]. Chống tư tưởng coi thường phụ nữ là công cuộc thường xuyên, liên tục và kiên quyết trong mỗi người đàn ông, trong toàn xã hội, kể cả các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Có như thế phụ nữ mới được giải phóng trọn vẹn, mọi khả năng to lớn mới được phát huy, phụ nữ sẽ có những đóng góp xứng đáng hơn vào nghiệp cách mạng nước ta. Cùng với sự động viên, khích lệ các tầng lớp phụ nữ cố gắng vươn lên, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhắc nhở phải xây dựng khối đoàn kết trong lực lượng phụ nữ, bởi vì nếu chỉ có quyết tâm mà không đồng tâm thì sự cố gắng ấy cũng không trở thành sức mạnh giúp chị em vươn tới cái đích phấn đấu cuối cùng. Quan điểm ấy xuất phát từ tư tưởng “Đại đoàn kết” vì theo Người: “Đoàn kết là sức mạnh, là nền tảng của mọi thành công”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng, sự nghiệp cách mạng nói chung, sự nghiệp giải phóng phụ nữ nói riêng, đòi hỏi phải có phong trào cách mạng quần chúng rộng rãi mới có sức lôi cuốn lực lượng phụ nữ tham gia. Chỉ có phong trào ấy mới thu hút đông đảo phụ nữ vào công cuộc đấu tranh chung nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, làm cho phụ nữ tin vào sức mạnh của mình, đồng thời rèn luyện ý chí tự lập tự cường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách cũng như nhược điểm của bản thân để giành chiến thắng. Chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng và Chính phủ ta luôn quan tâm hướng dẫn phụ nữ đứng lên tập hợp lực lượng, từ Hội phụ nữ dân chủ, Hội phụ nữ phản đế đến Hội phụ nữ cứu quốc. Thông qua các tổ chức chính trị, Hội phụ nữ đã thu hút ngày càng đông phụ nữ tham gia cách mạng, sau đó lớn mạnh dần

thành Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Đảng và Bác Hồ xác định đây là tổ chức chính trị xã hội nhằm tập hợp lực lượng phụ nữ, phát huy mọi khả năng cách mạng của phụ nữ dưới ngọn cờ của Đảng. Sự nỗ lực phấn đấu, tự thân vận động, đoàn kết vùng lên đã trở thành một sức mạnh không gì ngăn cản nổi, góp phần vào làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của dân tộc, giành độc lập tự do và xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Như vậy, tư tưởng giải phóng phụ nữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, nó đáp lại tiếng gọi thiết tha được giải phóng của phụ nữ Việt Nam trong những năm nửa đầu thế kỷ XX. Vì vậy, những quan điểm, tư tưởng đó đã được cuộc sống đón nhận, phụ nữ Việt Nam đã được giải phóng một cách căn bản, nguyện vọng của chị em đã được thỏa mãn một phần đáng kể. Song, chúng ta chưa thực hiện triệt để, trọn vẹn tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những vấn đề mà yêu cầu sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã đặt ra.

Ngày nay, công cuộc đổi mới đất nước đang đòi hỏi phải giải phóng con người một cách toàn diện. Do đó vấn đề giải phóng phụ nữ càng trở nên bức thiết. Cần phải đánh giá lại những thành quả đã đạt được trong sự nghiệp này để tiếp tục phát huy và những hạn chế cần phải khắc phục nhằm thực hiện trọn vẹn những mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và phát huy nguồn lực phụ nữ cho phát triển bền vững của đất nước.

Chương 2 THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI

PHÓNG PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM Sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trên nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế nhất định. Ở phần này, tác giả luận văn chủ yếu đề cập trên một số lĩnh vực cơ bản nhất của đời sống xã hội, cụ thể như sau: 2.1.1. Trong lĩnh vực việc làm, thu nhập Vào những năm cuối thế kỷ XX nhân loại đã nhận thức được rằng, bình đẳng giới là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đối với phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nhận thức được điều này, nhiều nước đã có những nỗ lực to lớn trong việc tạo điều kiện, cơ hội và việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ. Nhờ vậy, sự tham gia của phụ nữ vào thị trường lao động và mức độ tự chủ trong hoạt động kinh tế ngày càng tăng. Các nước trên thế giới hiện nay có những cách hiểu không giống nhau về khái niệm “người có việc làm” nhưng đa số đều có nhận thức phù hợp với quan điểm của tổ chức lao động thế giới (ILO). Theo ILO “người có việc làm” là những người làm một việc gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình mà không được trả tiền công hoặc hiện vật [64, tr.58]. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có sự thay đổi mới trong quan niệm về việc làm. Trước đây, quan niệm “người có việc làm” chủ yếu là ở thành phần kinh tế nhà nước và tập thể, lao động theo kế hoạch từ trên xuống, thu nhập bình quân là chính, không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, lao động dư thừa. Hiện nay ở nước ta, lực lượng lao động là thành phần dân số có độ tuổi từ 15 đến 55 đối với nữ và từ 16 đến 60 đối với nam và “mọi lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều thừa nhận là việc làm” [64, tr.62]. Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã tập trung thực hiện nhiều biện pháp để tạo ra các cơ hội việc làm nhằm đảm bảo tạo điều kiện bình đẳng cho mọi người dân trong tham gia các hoạt động kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và đã đạt được những thành tựu nổi bật như sau: Số liệu điều tra lao động - việc làm qua các năm cho thấy phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên và có chiều hướng gia tăng. Dân số trong tuổi lao động nữ năm 2002 chiếm 59,55%, trong đó thành thị 64,74% và nông thôn 57,79%. Về góc độ phân chia theo

ngành kinh tế, nữ chiếm 48,20% và chiếm tỷ lệ cao trong các ngành: chế biến (48,72%); thủy sản (49,78%); thương nghiệp (63,75%); khách sạn, nhà hàng (68%) [7, tr.34]. Như vậy phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế với tỷ lệ khá cao, nhất là các ngành dịch vụ, thương mại, xuất khẩu… phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có nhiều lợi thế và góp phần tăng nhanh tỷ trọng thu nhập bình quân đầu người. Trong những năm qua, số người được giải quyết việc làm năm sau cao hơn năm trước. Năm 2002 đã tạo việc làm mới cho 1,42 triệu lao động, trong đó nữ chiếm khá cao. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nữ trong độ tuổi lao động ở nông thôn cũng ngày càng tăng, năm 2002 là 75,25% và năm 2003 là 77, 74% [7, tr.34]. Theo quy định mới từ năm 2003, các hộ gia đình, hợp tác xã, cơ sở sản xuất nhỏ và vừa được vay vốn từ Chương trình quốc gia giải quyết việc làm dưới 15 triệu đồng không phải thế chấp, trong đó ưu tiên đối tượng người tàn tật và lao động nữ. Hàng năm Chính phủ dành một khoản ngân sách khoảng 200 tỷ đồng để chi cho giải quyết việc làm: “kết quả năm 2002 đã đưa được hơn 4,6 vạn lao động đi xuất khẩu, trong đó nữ chiếm 22%” [7, tr.34]. Quan niệm trước đây cho rằng, nam giới là trụ cột chính trong gia đình nên hầu như mọi hoạt động kinh tế đều do họ đảm nhận, phụ nữ chỉ lo việc bếp núc, tề gia nội trợ trong gia đình. Chính tư tưởng này đã làm hạn chế việc phát huy vai trò của phụ nữ vì khi còn sự lệ thuộc về kinh tế thì dễ dẫn đến bất bình đẳng giới. Xã hội ngày nay đã khác, tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế đối với nam giới và phụ nữ hầu như là đồng nhất: tỷ lệ này là 86% đối với phụ nữ và 86,8% đối với nam giới [6, tr.24]. Tỷ lệ phụ nữ thiếu việc làm những năm gần đây cũng đã giảm đáng kể, từ 62% năm 1993 xuống còn 52% năm 1998. Đối với nam giới tỷ lệ này đã giảm từ 59% xuống còn 53% trong cùng thời gian. Tỷ lệ thất nghiệp trung bình của phụ nữ ở thành thị chỉ còn 3,9% và nam là 4,18% [6, tr.24]. Hiện nay đa số phụ nữ nước ta sống ở các vùng nông thôn nên tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các hoạt động nông nghiệp cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn. Số liệu thống kê cho thấy 68% lực lượng lao động nữ tham gia các công việc trồng trọt, lâm nghiệp, chăn nuôi; phụ nữ chiếm 54% lực lượng lao động nông nghiệp và chiếm 92% trong những nghề mới trong nông nghiệp được tạo ra mỗi năm. Thị trường lao động cũng đang là vấn đề bức xúc ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ những người lao động ở Việt Nam là những nông dân tự tạo việc làm khá cao: “có 58% nam giới và 65% phụ nữ là những nông dân tự tạo việc làm, chỉ có 20% lao động nam giới và 10% lao động nữ hoạt động trong các khu vực chính thức” [7, tr.61].

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Nhà nước, trong những năm qua, nhất là trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, phụ nữ nước ta đã đạt được những thành tích hết sức nổi bật trong lĩnh vực việc làm, tăng thu nhập. Tuy nhiên chúng ta chưa thể bằng lòng với những kết quả đã đạt được. Phụ nữ nước ta hiện nay mặc dù đã có những tiến bộ nhảy vọt, nhưng vẫn đang còn phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề. Một bộ phận đáng kể phụ nữ không có hoặc không đủ việc làm, thu nhập thấp. Nhiều chị em còn phải làm việc trong các điều kiện nặng nhọc, độc hại, sức khỏe phụ nữ nhìn chung giảm sút rất nhiều nhất là những phụ nữ ở các vùng miền núi, vùng nông thôn hẻo lánh. Trong những năm đầu thập kỷ 90, các xí nghiệp quốc doanh, các cơ quan hành chính nhà nước phải tổ chức lại sản xuất và phải giảm biên chế: “kết quả khoảng 550.000 phụ nữ bị mất việc so với khoảng 300.000 nam giới, phụ nữ chiếm tới 60% trong tổng số người bị ra khỏi biên chế” [6, tr.25]. Phụ nữ thường bị thôi việc với các lý do là làm việc thường không liên tục (nghỉ sinh con, nghỉ con ốm…), vì vậy không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cơ chế kinh tế hiện nay. Khoảng cách về thời gian làm việc giữa phụ nữ và nam giới vẫn còn chênh lệch khá nhiều: “phần lớn trong số lao động làm việc trên 50 giờ một tuần là phụ nữ. Ở mọi lứa tuổi, phụ nữ phải làm việc nhà nhiều hơn nam giới. Ở lứa tuổi từ 25 đến 55, một năm người phụ nữ phải làm đến khoảng 700 giờ việc nhà, thì nam giới chỉ là khoảng 300 giờ” [64, tr.63]. Riêng ở nông thôn khoảng cách này còn chênh lệch nhiều hơn. Các nghiên cứu chuyên sâu cho thấy phụ nữ ở nông thôn Việt Nam “làm việc khoảng 16 đến 18 giờ trong một ngày, trung bình nhiều hơn nam giới khoảng 6 đến 8 tiếng trong một ngày” [6, tr.26]. Phụ nữ có nhiều khó khăn hơn nam giới trong việc tìm kiếm việc làm vì phải thực hiện chức năng sinh đẻ, nội trợ gia đình, chăm sóc con cái. Chính những điều đó đã níu kéo phụ nữ, khiến họ ít có thời gian để nâng cao trình độ học vấn, vì thế đa số phụ nữ chỉ làm ở các khâu chuyên môn thuần túy nên thu nhập của họ cũng thấp hơn nam giới: “lương thực tế trung bình một giờ mà phụ nữ kiếm được chỉ bằng 85,4% của nam giới” [6, tr.27]. Con số này trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp còn thấp hơn nhiều: “trong sản xuất nông nghiệp tiền công bình quân của phụ nữ chỉ bằng 62% của nam giới” [7,tr.10]. Bên cạnh những hạn chế về vấn đề việc làm thì tình trạng ô nhiễm môi trường cũng gây tác hại không nhỏ đến tính mạng và sức khỏe của người lao động, nhất là lao động nữ vì thực tế cho thấy: “tỷ lệ lao động nữ phải chịu ảnh hưởng của bụi trong quá trình làm việc chiếm 44,36% tổng số lao động nữ trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Tỷ lệ lao động nữ phải chịu ảnh hưởng của hơi khí độc trong quá trình làm việc chiếm 15,45% tổng số lao động nữ trong phi nông nghiệp” [64, tr.70]. Nghiêm trọng hơn là trong tổng số

những ngành lao động nặng nhọc, độc hại nguy hiểm thì: “tỷ lệ phụ nữ chiếm tới 76% so với nam giới; có 8,66% tổng số doanh nghiệp có lao động nữ đang làm các nghề cấm sử dụng lao động nữ” [64, tr.70]. Ở các vùng nông thôn, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng lên, vì vậy tình trạng nữ công nhân mắc bệnh phụ khoa ngày càng nhiều thêm. Ở các ngành công nghiệp, người lao động mắc bệnh nghề nghiệp có chiều hướng ngày càng tăng, nhất là các bệnh: bụi phổi, viêm xạm da, điếc nghề nghiệp… Như vậy: trong vấn đề tạo việc làm cho nam và nữ, nguyên tắc bình đẳng và công bằng dần được hoàn thiện trong sự gắn bó chặt chẽ. Quan tâm tạo việc làm cho cả hai giới là bình đẳng, nhưng phụ nữ có những điều kiện, hoàn cảnh đặc thù khó khăn hơn nam giới (do chức năng sinh đẻ, nuôi con nhỏ và chăm lo gia đình…) thì cũng đòi hỏi cần tạo cho họ những điều kiện tốt hơn, dễ dàng tiếp cận hơn với việc làm, thu nhập. Ngày nay, Việt Nam đang đi vào quá trình hội nhập, nền kinh tế thị trường đang phát huy ảnh hưởng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực, kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng để lại những hậu quả về nhiều mặt. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khuyết tật lớn nhất của kinh tế thị trường là tăng tình trạng bất bình đẳng, bất công trong xã hội. Phụ nữ vốn chịu nhiều bất công thì trong điều kiện kinh tế thị trường sự bất công lại càng lớn, nhiều nguyên tắc bình đẳng đã bị vi phạm nhất là trong tuyển dụng lao động, trong trả lương. Một thực tế là các doanh nghiệp hiện nay không muốn tuyển lao động nữ bởi chi phí bảo hiểm xã hội cho họ thường lớn hơn nam giới rất nhiều. Một trong những yêu cầu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay là phụ nữ phải có trí tuệ, có trình độ học vấn, có kiến thức… Vì vậy, cần phải mở những lớp đào tạo nghề phù hợp với phụ nữ, có khả năng thu hút nhiều lao động nữ, phải có những chính sách thích hợp nhằm phát huy tối đa những tiềm năng về thể chất, trí tuệ, sự khéo léo của phụ nữ vào việc xây dựng, củng cố gia đình, cộng đồng và công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.

2.1.2. Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo Quyền được giáo dục của phụ nữ đã được khẳng định một cách vững chắc vào những năm đầu của thế kỷ XX. Sự tham gia của phụ nữ vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp đã trở nên phổ biến trên thế giới -điều mà trong những thế kỷ trước đó không tồn tại. Đến cuối thế kỷ XX, nhân loại đã nhận thức được rằng, giáo dục là một trong những biện pháp quan trọng nhất để thực hiện bình đẳng giới, thúc đẩy vị thế các quyền con người cho phụ nữ. Bởi vậy, nhiều quốc gia đã có những cam kết mạnh mẽ và phân bổ những nguồn lực đáng kể để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật đảm bảo quyền

được học tập của tất cả phụ nữ, đồng thời đã nổ lực xóa bỏ những định kiến truyền thống bất lợi với phụ nữ ở lĩnh vực này.

Trong những năm gần đây Nhà nước tiếp tục tạo điều kiện, bảo đảm cho phụ nữ được tham gia bình đẳng trong các hoạt động đào tạo nghề: “giai đoạn 1998 - 2000 có 45% phụ nữ trong tổng số 1,65 triệu người được đào tạo. Chỉ riêng năm 2002 đã đào tạo được trên một triệu người, trong đó đào tạo dài hạn hơn 16 vạn” [6, tr.9].

Với phương châm: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, Nhà nước Việt Nam xác định mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, không phân biệt nam nữ. Từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân” (điều 59). Đến nay, một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh và thống nhất đã được hình thành. Hệ thống giáo dục đã được mở rộng về quy mô và bước đầu đã đa dạng hóa về loại hình, phương thức và nguồn lực, mở ra nhiều cơ hội cho người dân, nhất là phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi tham gia học tập. Tỷ lệ trẻ em gái và phụ nữ tham gia học tập theo nhiều phương thức này chiếm khoảng 38 - 40% [6, tr.9]

Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của các cấp chính quyền đoàn thể nên trong thời gian qua nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước đã hoàn thành thắng lợi công tác phổ cập giáo dục: “tính đến tháng 4 năm 2003, cả nước có 15/61 tỉnh, thành phố phổ cập trung học cơ sở; 94% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ, số năm đi học trung bình của nữ là 5,3 năm (tăng 0,4 năm so với năm 1993)” [6, tr.9].

Phụ nữ Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều đóng góp to lớn trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Đội ngũ cán bộ nữ trong lĩnh vực này cũng ngày càng phát triển “năm 2002, tỷ lệ giáo viên ở cấp tiểu học là 77,9% (tăng 0,49% so với năm 1997), trung học cơ sở là 68,9% (tăng 0,31%), trung học phổ thông là 56% (tăng 6%), cao đẳng đại học là 39,7% (tăng 3,7%)” [6, tr.9].

Phụ nữ trong các cơ quan nghiên cứu, quản lý khoa học và đào tạo cũng ngày càng phát triển. Tỷ lệ nữ giáo sư là 3,3%, phó giáo sư là 13,34%, nữ tiến sĩ và phó tiến sĩ là 17,55%, nữ thạc sĩ là 39,10% [6, tr.31].

Trong tổng số cán bộ nữ có trình độ đại học, cao đẳng trở lên, nhiều phụ nữ đã làm chủ những đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Kết quả nghiên cứu các công trình khoa học ấy được đánh giá cao, được ứng dụng vào trong sản xuất và đời sống mang lại hiệu quả to lớn. Các nhà khoa học và chuyên gia nữ đã có nhiều thành công trong hoạt động khoa học, lao động sáng tạo, cũng như trong học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Đến năm 1997 có 3 nữ nhà giáo nhân dân, 4 nữ thầy thuốc nhân dân, 84 thầy thuốc ưu tú. Năm 1998 có 467 phụ nữ được nhận bằng lao động sáng tạo của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, 106 nhà khoa học nữ được tặng huy chương vì sự nghiệp khoa

học, công nghệ và các danh hiệu ưu tú khác: “đến cuối năm 2001 có 24 nhà khoa học nữ và 8 tập thể nữ được nhận giải thưởng Côvalépxkaia - giải thưởng dành cho các nhà khoa học nữ trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học giáo dục [36, tr.117].

Tuy đã đạt được những thành tích đáng kể trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, song đội ngũ nữ càng lên cao thì tỷ lệ càng giảm và tỷ lệ nữ làm lãnh đạo trong các ngành giáo dục còn thấp: “Hiện nay ngành giáo dục mới chỉ có một nữ thứ trưởng, một nữ vụ trưởng, 6 nữ phó vụ trưởng ở cơ quan Bộ và 11 nữ giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo ở các tỉnh thành; tỷ lệ nữ hiệu trưởng trường phổ thông là 28,86%, trường đại học, cao đẳng là 6,7%” [6, tr.12].

Ở cơ quan cấp Bộ như Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Trung tâm Khoa học và Công nghệ quốc gia, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Khoa học và Công nghệ không có phụ nữ trong lãnh đạo cấp bộ, trong các trường đại học và cao đẳng chỉ có 6,5% hiệu trưởng là phụ nữ. Ví dụ: Trong Trung tâm Khoa học và Công nghệ quốc gia có 18 viện, cũng chỉ có 2 phụ nữ là Viện trưởng và 5 Viện phó là nữ. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có 28 đầu mối Vụ, Viện nhưng không có phụ nữ là Viện trưởng và chỉ có 5 nữ giữ chức vụ phó. Về trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ của số đông phụ nữ hiện nay còn thấp hơn so với nam giới rất nhiều. Tỷ lệ mù chữ của Việt Nam là trên 10%, 70% trong số này là phụ nữ. Tỷ lệ này khác nhau theo vùng: 88% số người mù chữ sống ở nông thôn, 47% ở miền núi, 31% ở đồng bằng sông Cửu Long [7, tr.16]. Số năm đi học trung bình của toàn dân là 5,4 năm, trong đó số năm đi học trung bình của phụ nữ là 4,9; của nam giới là 5,9. So với tỷ lệ dân số nam và nữ thì tỷ lệ học sinh nữ ít hơn nam từ 4% đến 6% [7, tr.16]. Nếu xét theo giới, tỷ lệ các em trai không đi học ở bậc tiểu học là 11% thì tỷ lệ em gái là 16%. Mức chênh lệch này còn cao hơn ở cấp trung học cơ sở: 32% ở các em gái và 20% ở các em trai. Trong số học sinh bỏ học thì học sinh nữ chiếm 70% [6, tr.53]. Có thể thấy rằng, trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bên cạnh những thuận lợi cũng còn không ít những khó khăn, vì vậy để đạt được bình đẳng giới trên lĩnh vực này Việt Nam sẽ còn phải trải qua một cuộc đấu tranh gian khổ, lâu dài.

2.1.3. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ Với quan điểm thừa nhận sự khác biệt về giới và giới tính giữa nam và nữ, đặc biệt là khác biệt liên quan đến chức năng làm mẹ của phụ nữ, cùng với việc khẳng định nguyên tắc bình đẳng nam nữ, Nhà nước Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp đặc biệt để bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ. Công tác chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em được nhấn mạnh trong Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân ban hành năm 1989. sức khỏe phụ nữ cũng là một trong những

mục tiêu ưu tiên mà Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đề ra trong Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000. Sức khỏe của phụ nữ tiếp tục là một trong sáu lĩnh vực trọng tâm của Kế hoạch hành động giai đoạn 2001 - 2005 và Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010. Từ khi đổi mới đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong phát triển hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia. Bất chấp sự eo hẹp trong ngân sách, Chính phủ Việt Nam đã đầu tư những nguồn lực đáng kể trong lĩnh vực y tế: đến cuối năm 2002, 100% số xã, phường, thị trấn trong cả nước có cán bộ y tế, trong số đó xã có bác sĩ tăng từ 33,86% năm 1999 lên 60,60% năm 2002. Tính đến tháng 4 năm 2003, 90% số trạm y tế có nữ hộ sinh. Số thôn, bản có nhân viên y tế hoạt động tăng từ 59,41% năm 1999 lên 89,18% năm 2002. Tại 61 Trung tâm bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em và Kế hoạch hóa gia đình có 321 thạc sỹ chuyên khoa sản, 60 bác sỹ chuyên khoa nhi, 228 y sỹ sản nhi và 367 nữ hộ sinh [7, tr.23].

Sự phát triển nhanh chóng của các điểm bán thuốc lẻ cũng đã tạo nên mạng lưới cung ứng thuốc thiết yếu đến tận các xã, phường, vùng sâu, vùng xa. Đây là điều kiện quan trọng đảm bảo cho phụ nữ Việt Nam được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngày càng thuận lợi. Việc khám chữa bệnh cho phụ nữ nghèo cũng được đảm bảo nhờ có Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định việc mua thẻ bảo hiểm y tế hoặc thanh toán trực tiếp cho mọi dịch vụ khám chữa bệnh từ 50.000 - 70.000 VNĐ\ người\ năm. Khoảng 6 triệu phụ nữ được hưởng chính sách này hàng năm. Nhờ những cố gắng nỗ lực của Chính phủ và các ngành, các cấp nên tình hình sức khỏe cho phụ nữ nói chung đã có những chuyển biến đáng kể. So với năm 1995 tuổi thọ bình quân của phụ nữ tăng 5,5 năm và đạt 73 tuổi, nam tăng 7 tuổi và đạt 70 tuổi. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe lan rộng khắp trên toàn quốc là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ chết mẹ và trẻ em ở Việt Nam. Tỷ lệ hút thai cũng giảm từ 44,5% năm 2000 xuống còn 41,22% năm 2001. Số người tiếp cận và sử dụng các biện pháp tránh thai ngày càng nhiều, tăng từ 62,10% năm 1999 lên 76,9% năm 2002 [7, tr. 23-24]. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản và Kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam cũng đã có nhiều nỗ lực lớn tập trung cho chăm sóc sản nhi, đặc biệt là chăm sóc sản phụ trước và sau khi sinh đẻ. Tỷ lệ sinh con tại các cơ sở y tế hoặc với sự giúp đỡ của cán bộ y tế được đào tạo đang tăng lên. Trong 10 năm qua, số ca tai biến sản khoa giảm 52%. Theo Tổng điều tra dân số năm 1999 thì mức sinh trung bình của phụ nữ giảm xuống còn 2,3 con. Mức sinh giảm trong tất cả các nhóm phụ nữ nhưng đặc biệt giảm mạnh trong các nhóm tuổi 25-29; 30-34 và 35-39. Trong năm 1999, Việt Nam đã vinh dự nhận giải thưởng của Liên hợp quốc về thành tích trong công tác Kế hoạch hóa gia đình.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, nhưng không phải tất cả các vùng, các nhóm phụ nữ đều được hưởng lợi như nhau từ việc cải cách hệ thống chăm sóc sức khỏe phụ nữ, đặc biệt là những người thuộc nhóm nghèo, dân tộc thiểu số và những người sống ở các vùng sâu, vùng xa vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu. Hiện nay các dịch vụ chăm sóc y tế được cung cấp cho hơn 90% dân số, tuy nhiên việc chăm sóc y tế vẫn còn nhiều khó khăn do thiếu các thiết bị y tế và dịch vụ chăm sóc sức khỏe đảm bảo chất lượng đặc biệt tại cấp huyện, xã và các khu vực miền núi. Nhìn chung các dịch vụ này mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ trong dân số. Ngoài ra, việc ăn uống thiếu thốn, làm việc quá căng thẳng trong môi trường độc hại, thiếu chất dinh dưỡng cũng là nguyên nhân làm giảm sút sức khỏe của phần lớn phụ nữ nông thôn. Việc chăm sóc thai nghén là điều hết sức quan trọng của các bà mẹ, nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của họ mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến thai nhi. Thế nhưng ở nông thôn người ta lại ít coi trọng việc này, họ quan niệm có thai rồi sinh con như một quy luật tự nhiên. Vì vậy có rất ít phụ nữ nghỉ làm việc trước lúc sinh, thậm chí họ còn cố làm hết mọi việc bù vào khi phải nghỉ đẻ, lại thêm quan niệm có chữa làm việc nhiều cho dễ đẻ. Nhìn chung phụ nữ nông thôn còn nhiều vất vả, gia đình chưa thật sự quan tâm, chăm sóc sức khỏe các bà mẹ, bản thân phụ nữ cũng ít quan tâm đến sức khỏe của mình. Khi hỏi về những hiểu biết xung quanh việc chăm sóc sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình chỉ có “45,8% biết cách chữa các bệnh thông thường. Trong đó 12,8% cho rằng họ được thế hệ trước truyền lại; 14% tìm hiểu qua bạn bè; 26% qua sinh hoạt Hội và 26,5% qua trạm y tế. Cũng chỉ có 14% ý kiến cho rằng những kiến thức về y tế, sức khỏe có được là do nghe đài, đọc báo” [47, tr.136]. Do nhận thức hạn chế về y tế và sức khỏe của bản thân người phụ nữ, cùng với việc triển khai chương trình y tế cộng đồng ở nông thôn còn chậm nên sức khỏe của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bị suy giảm đáng kể. Trong số 400 phụ nữ được phỏng vấn có 32,2% không sử dụng các biện pháp tránh thai nên tình trạng đẻ dày diễn ra khá cao ở các vùng nông thôn. Số bà mẹ đi khám thai chỉ chiếm 42,7%. Chính tình trạng đẻ dày và đẻ nhiều gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe phụ nữ. Như vậy, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ và đã đạt được nhiều thành tích đáng kể, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế nhất định. Những năm sắp tới, cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chăm sóc sức khỏe, phải có sự phối kết hợp giữa Đoàn thể và các ngành chức năng thì công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân nói chung và phụ nữ nói riêng sẽ đạt được kết quả tốt nhất. 2.1.4. Trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý

Nửa cuối thế kỷ XX là thời gian đánh dấu những thành tựu vượt bậc của nhân loại tiến bộ trong việc bảo đảm quyền bình đẳng về chính trị cho phụ nữ. Một loạt điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề này đã được ban hành, trong đó có một công ước riêng về quyền chính trị cho phụ nữ ra đời năm 1952. Tầm quan trọng của việc bảo đảm cho phụ nữ được tham gia đầy đủ và bình đẳng với nam giới đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Nhiều quốc gia đã đưa ra những chính sách kiên quyết và tích cực, với những mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể để tạo lập và thúc đẩy các cơ hội tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội cho phụ nữ. Các cơ chế đảm bảo quyền bình đẳng về chính trị cho phụ nữ được phát triển nhanh chóng, ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế. Vào những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI sự tham gia của phụ nữ Việt Nam vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý tăng lên rõ rệt, biểu hiện cả về số lượng lẫn chất lượng, nhất là trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở:

“Ở Quốc hội Khóa II trong số 362 đại biểu miền Bắc có 49 phụ nữ. Trong cuộc tổng tuyển cử Quốc hội khóa III, có 447 người được giới thiệu ra ứng cử thì 85 người là phụ nữ. Kết quả đầu tiên ở Hà Nội, 36 vị được bầu vào Quốc hội thì có 5 đại biểu nữ” [17, tr.55]. Đến Quốc hội khóa IX (1992 - 1997) số lượng phụ nữ chiếm 18,84% và khóa X là 26,22%, khóa XI là 27,3% [7, tr.41]. Chính tỷ lệ này đã đưa Việt Nam lên hàng thứ hai về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thuộc vào nhóm nước có tỷ lệ phụ nữ trong Quốc hội cao nhất trên thế giới. Những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực này đã được cộng đồng Quốc tế thừa nhận và đánh giá rất cao.

Trong những năm gần đây, chỉ số phát triển về giới của Việt Nam luôn được UNDP xếp ở vị trí cao hơn so với chỉ số phát triển kinh tế và chỉ số phát triển con người. Tỷ lệ phụ nữ ở vị trí lãnh đạo và ra quyết định tăng lên trong 10 năm vừa qua, rõ rệt nhất là trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp: từ năm 1994 đến 2004 phụ nữ trong Quốc hội tăng 8,8%, có 3/7 chủ nhiệm Ủy ban Quốc hội là phụ nữ chiếm 42%, còn phụ nữ trong Hội đồng nhân dân các cấp tăng từ 3 - 5% [6, tr.30]. Có phụ nữ ở vị trí lãnh đạo cao như Phó Chủ tịch nước, Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng, Bộ trưởng và tương đương. Ở cấp địa phương có phụ nữ giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện và xã.

Trong các cơ quan quản lý Nhà nước, khóa 1992 - 1997, phụ nữ có một Phó Chủ tịch nước; 11,9% Bộ trưởng và tương đương; 4,4% cấp Thứ trưởng và tương đương; cấp Tỉnh có 7,3% Giám đốc Sở và tương đương. Tỉ lệ cán bộ nữ tham gia Ban Chấp hành của các tổ chức Đoàn thể (nhiệm kỳ 1992 - 1997) cấp Trung ương là 42,4% [7, tr.37]. Đến tháng 6 năm 2003 có một Phó Chủ tịch nước là nữ; 11,29% Bộ trưởng và tương đương; 12,85% Thứ trưởng và tương đương; 12,2% Vụ trưởng và tương đương;

8,1% Vụ phó và tương đương; 1,6% Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh, Thành phố [7, tr.42].

Điều đáng lưu ý là trong mấy năm gần đây, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý các xí nghiệp, tổng công ty, công ty kinh doanh tăng lên rõ rệt: “hiện nay có hơn 30.000 doanh nghiệp đang hoạt động theo các luật doanh nghiệp và luật công ty thì có khoảng 15% là do phụ nữ đứng đầu hoặc nắm giữ những cương vị chủ chốt” [7, tr.37]. Ngoài ra, trong các hộ kinh doanh gia đình thì phụ nữ điều hành cũng chiếm tỷ lệ rất cao: “trong số 90.000 hộ kinh doanh gia đình có 27% là do phụ nữ điều hành. Số phụ nữ làm công tác lãnh đạo trong các tổ chức đoàn thể quần chúng chiếm từ 20 - 45% ở cấp trung ương và cấp tỉnh/ thành” [7, tr.37]. Theo báo cáo đánh giá 10 năm thực hiện chỉ thị 37/CT/TW về công tác cán bộ nữ năm 2004 thì đội ngũ cán bộ nữ không chỉ tăng về số lượng mà còn phát triển rõ rệt về chất lượng. Nhiều chị em có năng lực chuyên môn và kinh nghiệm công tác đã trở thành những người lãnh đạo và quản lý giỏi trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Nét nổi bật của cán bộ nữ là: không ngừng phấn đấu vươn lên, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có nhiều đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước và cho sự bình đẳng giới. Ở bất kỳ vị trí công tác nào, cán bộ nữ cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, trung thực, thẳng thắn, khiêm tốn, biết lắng nghe, dân chủ trong lãnh đạo và quản lý, có khả năng thuyết phục, tác phong sâu sát, liêm khiết, tiết kiệm, ít tham nhũng nên được xã hội tin cậy. Tuy đã đạt được những thành tựu hết sức đáng kể, phụ nữ Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực vào quá trình phát triển đất nước, tiềm năng của chị em rất dồi dào, song có thể nói, vai trò, vị thế của phụ nữ chưa tương xứng với tiềm năng đó. Trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý, sự bình đẳng nam nữ vẫn còn một khoảng cách rất xa và có xu hướng ngày càng rộng hơn khi chuyển sang cơ chế thị trường.

Trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng tỷ lệ nữ tham gia rất thấp và giảm dần. Khóa VIII có một nữ là Ủy viên Bộ Chính trị, khóa IX không có nữ tham gia; Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII tỷ lệ nữ chiếm 10,58%, khóa IX chỉ chiếm 8,6%.

Ở Quốc hội, trong nhiều khóa tỷ lệ tham gia của phụ nữ giảm liên tục. Trong hai khóa gần đây, tỷ lệ phụ nữ bắt đầu tăng lên nhưng không đáng kể, chỉ mới chiếm 27,3% (khóa XI), “nữ đại biểu Quốc hội khóa VI (1976 - 1981) chiếm 26,8%, đến khóa VII (1981 - 1986) nữ chiếm 21,7%; khóa VIII (1986 - 1992) nữ chiếm 17,8%, khóa IX nữ chiếm 18,5%; khóa X là 26,2%” [64, tr.99].

Đội ngũ cán bộ chủ chốt trong Hội đồng nhân dân cũng đã tăng lên đáng khích lệ, song chủ yếu chỉ ở cấp phó: “tỷ lệ nữ phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân 26,56%; nữ Chủ

tịch Ủy ban nhân dân là 4,68% và chỉ có 32/64 tỉnh có nữ phó chủ tịch Ủy ban nhân dân” [6, tr.32]. Điều đáng lưu ý hiện nay là ngay cả trong Quốc hội thì sự phân công lao động theo giới vẫn còn nhiều tồn tại. Tỷ lệ phụ nữ tập trung cao nhất trong một số Ủy ban mang tính đoàn thể, xã hội; còn các Ủy ban liên quan đến kinh tế, quyền lực cao thì tỷ lệ phụ nữ rất thấp. Phụ nữ thường chỉ làm cấp phó, giúp việc cho cấp trưởng là nam giới: Ở Ủy ban giáo dục, thiếu niên nhi đồng, tỷ lệ nữ chiếm 41,2%; Ủy ban các vấn đề xã hội là 32,3%, trong khi đó Ủy ban kinh tế và ngân sách phụ nữ chỉ chiếm 3,1% [64, tr.99]. Như vậy, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và nhất là so với vai trò to lớn của lực lượng lao động nữ trong nền kinh tế quốc dân thì quy mô và mức độ tham gia của phụ nữ vào lĩnh vực chính trị còn nhiều hạn chế, điều này thể hiện năng lực của phụ nữ chưa được phát huy đúng với thực tế của nó. Đây là một trong những tồn tại lớn trong việc thực hiện bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Tóm lại: Sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở Việt Nam trong những năm qua không chỉ được thể hiện trên bốn lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội mà bước đầu chị em cũng đã được giải phóng khỏi gánh nặng công việc nội trợ gia đình, khỏi sự tự ti, mặc cảm, kém cỏi của bản thân, cụ thể như sau:

2.1.5. Trong công việc nội trợ gia đình Cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội đất nước, gia đình Việt Nam cũng có những thay đổi lớn lao. Vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình cũng ngày càng được khẳng định vì phụ nữ không chỉ là chủ thể mà còn là người đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế gia đình. Họ là lao động chính ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội; chăn nuôi; buôn bán; dịch vụ. Mặc dù chính họ đã tạo nên các nguồn của cải nuôi sống gia đình nhưng chị em vẫn chiếm vị thế chủ yếu trong việc thực hiện các công việc nội trợ. Gánh nặng công việc nội trợ vẫn còn đè trên vai phụ nữ và hầu như sự chia sẻ của người chồng, của nam giới là chưa đáng kể. Rõ ràng vị thế, vai trò của phụ nữ trở nên hết sức quan trọng trong việc thực hiện những công việc nhằm nuôi dưỡng và tái sản xuất sức lao động của các thành viên trong gia đình, quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong nhiều khía cạnh của cuộc sống đã có những thay đổi căn bản so với trước đây, nhưng đồng thời phải thực hiện hai vai trò quan trọng là kinh tế và nội trợ gia đình đã vắt kiệt sức lực và trí tuệ của phụ nữ. Dễ nhận ra là mặc dù các quan hệ kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi nhưng quan hệ giới hầu như chưa có sự chuyển biến kịp thời. Do vậy, phụ nữ thay vì được giải phóng, được chia sẻ trong xã hội hiện đại thì vô hình trung họ lại trở thành người phải gánh chịu nhiều trách nhiệm và chịu nhiều thiệt thòi.

“Công việc nội trợ” là một cụm từ khá quen thuộc. Nó gợi lên hàng loạt những công việc lặt vặt không tên như nấu ăn, quét dọn nhà cửa, giặt quần áo, chăm sóc con, dạy con học, giáo dục con, chăm sóc người già, người ốm… những công việc này hầu như chiếm hết phần lớn thời gian, tâm trí và sức lực của người phụ nữ trong gia đình. Theo quan niệm truyền thống, người phụ nữ phải tham gia làm những công việc trên vì đó là “thiên chức” của họ. Ngày nay chúng ta cần phải nhìn nhận một cách công bằng về những công việc nội trợ trong gia đình. Cần phải thấy rằng vai trò của công việc gia đình vô cùng quan trọng và đó là một khối lượng công việc rất lớn, tiêu tốn rất nhiều thời gian và sức lực của người thực hiện. Trái với quan niệm thông thường về việc nội trợ gia đình, quan điểm giới khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của loại lao động này. Họ cho rằng, công việc này là lao động xã hội và về mặt giá trị lao động, lao động gia đình có giá trị xã hội gần tương đương với tổng giá trị sản xuất kinh doanh của xã hội loài người. Vì lẽ đó, họ đòi hỏi xã hội cần phải thay đổi cách đánh giá về lao động gia đình và phải trả thù lao xứng đáng cho những người làm loại lao động này. Theo tác giả Nguyễn Linh Khiếu: “Những công việc gia đình riêng người vợ thực hiện đặc biệt cao là: nấu ăn 77,9%; mua thực phẩm 86,9%; giặt quần áo 77,6% và chăm sóc con 43,3%” [19, tr.225]. Như vậy các công việc như nấu ăn, mua thực phẩm, giặt quần áo, chăm sóc con và chăm sóc người già… chủ yếu là do phụ nữ đảm nhiệm. Người đàn ông cũng có tham gia thực hiện những công việc này nhưng tỷ lệ lại rất thấp, chẳng hạn: “nấu ăn 2,1%; mua thực phẩm 2,3%; giặt quần áo 1,9%; chăm sóc con 2,3%; chăm sóc người già, người ốm 3,7%” [19, tr.225]. Ngày nay, sự cùng chia sẻ những công việc này giữa vợ và chồng trong gia đình dần dần đã có sự thay đổi đáng kể. Đó cũng là một sự chuyển biến tích cực trong phân công lao động gia đình. Người làm chính những công việc nội trợ gia đình tiếp cận theo góc độ vùng, miền, cũng có sự khác nhau. Nếu xét theo tương quan vùng điều tra (đồng bằng; miền núi; nông thôn; thành thị) ta thấy người vợ làm chính những công việc gia đình không chỉ ở nông thôn mà cả ở thành phố, không chỉ ở đồng bằng mà cả ở miền núi, trung du

Có thể thấy, các công việc nội trợ gia đình những người vợ ở đồng bằng thực hiện chiếm tỷ lệ cao nhất (nấu ăn 80,1%, mua thực phẩm 89,3%, giặt quần áo 82,7%, và chăm sóc con 51,4%), sau đó là những người vợ ở miền núi và trung du (nấu ăn 76,7%, mua thực phẩm 87%, giặt quần áo 82,8% và chăm sóc con 37,8%), và cuối cùng là những người vợ trong các gia đình thành phố (nấu ăn 74,3%, mua thực phẩm 80,9%, giặt quần áo 56,9% và chăm sóc con 31,3%) [19, tr.227].

Sở dĩ, ở khu vực thành thị tỷ lệ người vợ làm công việc nội trợ có giảm đi là do ngày nay có nhiều dịch vụ giảm nhẹ gánh nặng công việc cho phụ nữ, một số gia đình khá giả đã sắm được các tiện nghi hiện đại (bếp ga, tủ lạnh, lò sấy, máy giặt…), nhiều ông chồng đã bước đầu tự giác chia sẻ công việc nhà cùng vợ và một số gia đình khác đã thuê người giúp việc… Dẫu là đang có một sự chuyển biến tích cực trong các gia đình thành phố về sự chia sẻ công việc gia đình của người chồng đối với người vợ, nhưng về cơ bản vẫn tuân theo phân công lao động theo giới truyền thống. Người phụ nữ vẫn là người đóng vai trò chính, vẫn tốn nhiều thời gian và công sức. Sự gia tăng tỷ lệ người chồng - nam giới tham gia thực hiện các công việc chăm sóc con, chăm sóc người già, người ốm và dạy bảo con không có nghĩa là vai trò của người phụ nữ kém đi trong những loại công việc này mà chứng tỏ trong điều kiện chuyển đổi hiện nay các gia đình đều nhìn nhận đây là những công việc quan trọng, nhất là việc dạy bảo con. Tóm lại: Bình đẳng giới trong gia đình không đồng nghĩa với việc chia đều công việc gia đình giữa nam và nữ, cũng không bắt phụ nữ từ bỏ việc chăm sóc gia đình - công việc vốn được rất nhiều phụ nữ quan tâm. Song khi gánh nặng công việc do “vai trò kép” của phụ nữ trong gia đình quá lớn sẽ làm cản trở tới sự phát triển của họ. Vì vậy, sự cảm thông, chia sẻ của người chồng là rất cần thiết, nó càng làm cho tình cảm vợ chồng thêm gắn bó, gia đình yên vui, hạnh phúc. 2.1.6. Giải phóng phụ nữ khỏi sự tự ti, mặc cảm, kém cỏi của bản thân Cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay nói riêng sẽ không thể giành được thắng lợi nếu không có sự tham tích cực của phụ nữ. Nghị quyết 04/NQ-TW của Bộ Chính trị về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới” ra ngày 12/07/1993 đã khẳng định rằng: “Phải xem giải phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, nhất là trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, các tầng lớp phụ nữ nước ta đã phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, đã đoàn kết, đổi mới, sáng tạo trong lao động, công tác, đạt được nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước, làm đẹp thêm những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Để đạt được những thành tích nêu trên là nhờ sự quan tâm, giúp đỡ của các ngành, các cấp. Tuy nhiên sự phấn đấu nỗ lực của bản thân là hết sức quan trọng và là yếu tố quyết định. Nhiều chị em trong điều kiện không thuận lợi, có trường hợp đặc biệt khó khăn đã vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác. Phụ nữ Việt Nam đã dần dần thoát khỏi tâm lý tự ti, mặc cảm, kém cỏi của bản thân. Đa số chị em đã nhận thức được chỗ mạnh cũng như những hạn chế của mình

để phát huy, khắc phục, không trông chờ sự giúp đỡ chính từ bên ngoài hay tin vào “số phận may rủi” mà dựa vào năng lực trí tuệ và sự phấn đấu của chính mình.

Trong xã hội ta hiện nay không thiếu những nữ chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, những nữ chủ doanh nghiệp quản lý tốt những xí nghiệp công ty lớn, những chị em giữ chức vụ lãnh đạo ở các cấp chính quyền, các ngành chuyên môn được mọi người kính nể, yêu mến, điển hình như chị Trần Ngọc Sương - Giám đốc Nông trường Sông Hậu; chị Hà Thị Vinh - Giám đốc công ty TNHH gốm sứ Bát Tràng; chị Nguyễn Thị Minh Nguyệt - Giám đốc công ty TNHH Việt Hưng…Trong công tác lãnh đạo, quản lý như ngành Ngoại giao với tên tuổi một số phụ nữ được cả bạn bè thế giới biết đến như: Tôn Nữ Thị Ninh; Nguyễn Ngọc Dung, Nguyễn Thị Hồi…

Mặc dù phải đảm nhận những trọng trách quan trọng nhưng họ vẫn là những người vợ, người mẹ cố gắng làm tròn trách nhiệm, xây dựng, vun đắp cho hạnh phúc gia đình mình, vì vậy có rất nhiều chị em phụ nữ vừa làm chủ trong sản xuất kinh doanh nhưng cũng quản lý gia đình rất tốt, điển hình như chị Nguyễn Thị Tâm - Giám đốc nhà máy dệt Minh Khai, đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lao động, vừa giỏi việc nước, vừa đảm việc nhà.

Để đạt được những thành tích như trên nhìn chung họ cũng chẳng có được ưu ái gì nhiều so với các chị em khác, thành công của họ do sự tự phấn đấu là chính. Họ phải đổ mồ hôi, công sức, đầu tư trí tuệ, khắc phục những nhược điểm của bản thân, khai thác những điều kiện khách quan hiện có để vươn lên làm chủ công việc của mình và đóng góp tích cực cho xã hội. Họ cũng đã gặp những thất bại trong quá trình mày mò trên con đường đi lên do chưa có kinh nghiệm, nhưng tất cả đã không nản chí mà tiếp tục công việc với quyết tâm cao hơn. Chính vì vậy họ đã thành công và thu được những kết quả hết sức phấn khởi trong công việc gia đình cũng như trong xã hội.

Trên đây là một trong những thành công rất đáng tự hào của phụ nữ Việt Nam. Nếu như trước kia họ chỉ quanh quẩn trong công việc gia đình, một số chị em tự bằng lòng với những gì mình đã có, lại thêm tâm lý mặc cảm tự ti, an phận, gia đình và xã hội chưa tạo điều kiện cho họ phát triển thì thực tế ngày nay đã khác, phụ nữ tham gia hoạt động xã hội ngày càng nhiều hơn, trình độ học vấn của họ ngày càng được nâng cao, họ mạnh dạn tham gia vào các lĩnh vực mà trước đây không phải của giới nữ như tham gia lãnh đạo, quản lý, kinh doanh; tham gia các hoạt động thể dục, thể thao như bóng đá, bóng chuyền… Hoạt động nổi bật của phụ nữ trong những năm qua thể hiện tính năng động, sánh tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

Nhìn chung, trong những năm qua, phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành đã không ngừng phấn đấu vươn lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có

nhiều đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước và sự bình đẳng giới. Ở vị trí nào đội ngũ cán bộ nữ cũng thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm cao. Trong thời kỳ chiến tranh, phụ nữ vừa đảm đang việc nhà, việc nước và họ làm rất tốt và khi hòa bình lập lại, phụ nữ cho rằng cần phải trả lại công việc lãnh đạo, quản lý cộng đồng cho đàn ông để lui về lo việc nhà. Nhìn vào logíc ấy, người ta cho rằng phụ nữ sẽ đỡ vất vả hơn nhưng có thể nói từ đây khoảng cách địa vị xã hội của nam và nữ ngày càng lớn. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn tìm cách tăng tỷ lệ cán bộ nữ trong các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân…). Chỉ thị 44CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1984- 1994) đã nêu lên quan điểm “Tăng cường cán bộ nữ không phải chỉ để làm công tác vận động phụ nữ mà chính là phát huy khả năng trí tuệ của chị em đóng góp vào sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và công việc quản lý của Nhà nước”. Tuy nhiên, chúng ta chưa thể bằng lòng với những kết quả đã đạt được. Phụ nữ nước ta hiện nay mặc dù đã có những bước tiến nhảy vọt so với trước nhưng vẫn đang còn phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề. Chúng ta còn nặng về huy động, khai thác sự đóng góp của phụ nữ mà chưa coi trọng đúng mức việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ, tạo điều kiện cho chị em phát triển trên tất cả các lĩnh vực, chưa chú ý đến nhu cầu phụ nữ. Một số cán bộ nữ có phẩm chất và năng lực tốt chưa được bố trí vào các cương vị xứng đáng, chưa được bồi dưỡng hay bổ sung vào các cương vị thích hợp. Tâm lý “trọng nam khinh nữ” vẫn còn phổ biến trong xã hội hiện nay. Những tồn tại đó đang ảnh hưởng xấu đến việc giải phóng và sự phát triển của phụ nữ. Giai đoạn hiện nay, nước ta đang tiến bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà trước mắt là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Vì phụ nữ là lực lượng nòng cốt đóng góp cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn nên công tác khuyến nông, thông tin khoa học kỹ thuật nông nghiệp, thông tin về thị trường phải gắn với lao động nữ. Thế nhưng một nghịch lý hiện nay là phụ nữ đảm nhiệm 75% công việc nhà nông nhưng thường bị coi là hạn chế về trình độ, các cuộc tập huấn về kỹ thuật phần lớn đối tượng học lại là nam giới. Ở các vùng nông thôn đa số trình độ học vấn của phụ nữ thường thấp hơn nam giới rất nhiều nên việc tiếp thu và vận dụng các kiến thức khoa học kỹ thuật còn rất khó khăn. Hầu hết các buổi tập huấn đa số chị em cho rằng “lẽ ra để chồng mình đi thì tốt hơn”. Chính vì điều này ảnh hưởng rất nhiều việc phát huy vai trò phụ nữ, họ chưa thích ứng kịp với sự phát triển khoa học kỹ thuật nên chưa thể vươn lên bình đẳng với nam giới.

Vì vậy để đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ, Nhà nước cần có nhiều chính sách mang tính chất “đối xử đặc biệt” giành cho phụ nữ nông thôn. Giải quyết được vấn đề này cũng chính là thực hiện mục tiêu quan trọng đặt ra cho các nhà hoạch định chiến lược phát triển nông thôn nói chung, phát triển giáo dục ở nông thôn nói riêng, đồng thời đây

còn là trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình cần quan tâm giải quyết để phụ nữ thực sự được giải phóng, thực sự khẳng định được vị thế của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Tóm lại: Mặc dù còn rất nhiều hạn chế, nhưng có lẽ những thập kỷ vừa qua, mối quan hệ giữa nam và nữ được thể hiện một cách rất đáng phấn khởi. Vào thời điểm hiện nay nhìn chung vai trò và vị thế của người phụ nữ đã được nâng cao, sức khỏe và trình độ học vấn của phụ nữ đã được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý xã hội và cộng đồng không ngừng tăng lên ở nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, phụ nữ Việt Nam bước đầu cũng được giải phóng khỏi gánh nặng công việc nội trợ gia đình, khỏi sự tự ti, mặc cảm, kém cỏi của bản thân. Có lẽ chưa bao giờ Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế lại quan tâm và đầu tư vào vấn đề bình đẳng giới như hiện nay. Và cũng có lẽ chưa bao giờ Việt Nam lại hướng sự chú ý của mình nhằm góp phần tạo lập mối quan hệ bình đẳng giới như hiện nay. Chính thực tế sôi động đó đã không ngừng nâng cao vai trò và vị thế của phụ nữ trong xã hội hiện đại và cũng đang hứa hẹn một thời đại mới của phụ nữ. Cần phải xác định rằng để đạt được điều đó nhân loại sẽ còn phải trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ nhưng nếu mỗi người đều có quyết tâm thì chắc chắn sẽ đạt được.

2.2. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ TIẾN TRÌNH GIẢI PHÓNG

PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1. Nguyên nhân kinh tế - xã hội Bình đẳng giới hiện nay vẫn đang là một mục tiêu lớn của Chính phủ Việt Nam. Đó không chỉ là sự tiếp nối trung thành và có hiệu quả những mục tiêu ban đầu của cách mạng Việt Nam, mà còn phù hợp với quan điểm về văn minh và phát triển bền vững hiện nay trên thế giới. Từ nhận thức này, các tổ chức quốc tế ngày càng quan tâm đến việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào chiến lược hoạt động và các chương trình hỗ trợ phát triển. Nhiều Chính phủ cũng có những nỗ lực lớn để lồng ghép vấn đề giới vào các chính sách và chương trình kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho phụ nữ được tiếp cận bình đẳng với các cơ hội kinh tế. Nhiều sáng kiến đã được đưa ra, nhằm thúc đẩy các cơ hội về việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ. Nhờ vậy sự tham gia của phụ nữ vào thị trường lao động và mức độ tự chủ trong hoạt động kinh tế của phụ nữ ngày càng tăng. Phụ nữ ngày càng được hưởng lợi ích nhiều hơn từ chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở các nước.

Mặc dù có nhiều thuận lợi, song không vì thế mà con đường tiến tới bình đẳng của phụ nữ Việt Nam lại ngắn và đơn giản hơn các nước khác do ở Việt Nam hiện tượng giới đã có từ rất lâu, nhưng chỉ trở thành vấn đề bất bình đẳng giới khi xã hội bước vào giai đoạn lịch sử có chế độ tư hữu và giai cấp. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, bình đẳng

nam nữ mang tính tự nhiên và tự phát, đã có sự khác biệt về giới nhưng khoảng cách không lớn và thuần túy (không mang tính bất bình đẳng). Khi xuất hiện chế độ mẫu hệ thì phụ nữ lại được yêu mến và kính trọng hơn cả, chỉ khi có sự xuất hiện của chế độ tư hữu mới làm nảy sinh giai cấp, từ đó dẫn đến tình trạng áp bức giai cấp, áp bức xã hội và cũng chính từ đây bất bình đẳng xảy ra nhiều hơn, chủ yếu về phía phụ nữ.

Như vậy: Chính sức mạnh kinh tế là yếu tố nền tảng của đời sống xã hội. Lực lượng nào chiếm lĩnh và chi phối nhiều hơn trong lĩnh vực kinh tế sẽ làm chủ, và do vậy để duy trì chế độ nam quyền, phụ quyền thì bất bình đẳng cũng bắt đầu xuất hiện giữa nam và nữ trong gia đình và cả ngoài xã hội.

Hiện nay nhiều người quan niệm trong gia đình hay ngoài xã hội nếu cá nhân nào có việc làm, có thu nhập cao, kinh tế độc lập thì người đó luôn có tiếng nói quan trọng hơn và thường giữ vai trò quyết định. Ở nước ta đa số phụ nữ có thu nhập thấp hơn nam giới, nhất là phụ nữ ở các vùng nông thôn (thường làm những việc không mang lại giá trị kinh tế cao hoặc những công việc nội trợ… ) nên đa số phụ thuộc kinh tế vào chồng. Chính vì vậy tiếng nói của họ ít có trọng lượng, ít có vị trí và thường không có vai trò quyết định. Đây cũng chính là nguyên nhân kinh tế sâu xa dẫn đến bất bình đẳng giới. Tất cả chúng ta cần phải nhận thức được vấn đề này, nhất là đối với lãnh đạo các ngành, các cấp, để từ đó có những giải pháp thiết thực tạo việc làm, nâng cao thu nhập, giúp họ có vốn kinh tế độc lập. Đây cũng chính là chiếc chìa khóa vạn năng để mở cánh cửa bình đẳng giới.

Khi nền kinh tế thị trường bắt đầu xuất hiện thì sự khác biệt về mức sống và thu nhập giữa nông thôn và thành thị đang kéo theo nhiều vấn đề kinh tế, xã hội phức tạp như vấn đề di cư từ nông thôn ra thành thị, vấn đề nghèo đói, vấn đề dân số tăng nhanh, giá dịch vụ y tế, giáo dục cao. Một trong những bất lợi lớn của phụ nữ khi đi vào kinh tế thị trường là vấn đề việc làm. Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp của cả nước là 7,4% trong đó phụ nữ chiếm hơn một nửa. Phụ nữ khó cạnh tranh được với nam giới, tình trạng thất nghiệp của phụ nữ đã khiến nhiều người phải chấp nhận làm những công việc nặng nhọc, lương thấp hoặc chế độ làm việc không đảm bảo, phải chịu sự quấy rối tình dục của chủ hoặc đồng nghiệp nam. Thất nghiệp cũng khiến cho một số phụ nữ phải chấp nhận làm bất cứ việc gì để kiếm sống kể cả làm gái mại dâm và buôn bán ma túy.

Hiện nay cường độ và thời gian lao động của phụ nữ Việt Nam là quá cao. Theo thống kê, phụ nữ lao động từ 16 đến 18 giờ/ngày trong khi nam giới chỉ lao động từ 8 đến 10 giờ/ngày. Điều này đã khiến cho phụ nữ không có hoặc có rất ít thời gian nghỉ ngơi, học tập và hưởng thụ văn hóa. Phụ nữ vẫn còn là nhóm xã hội ít được hưởng các chính sách và phúc lợi xã hội.

Tư tưởng "trọng nam khinh nữ" vẫn còn khá nặng nề ở nhiều địa phương ảnh hưởng rất nhiều đến việc thực hiện quyền con người của phụ nữ. Do ảnh hưởng của tư tưởng cũ nên nhiều người vẫn còn quan niệm đàn ông lo kiếm tiền, còn đàn bà chỉ lo thu vén gia đình. Chính vì thế nên vấn đề giới trong lĩnh vực kinh tế được xã hội chấp nhận như là điều hiển nhiên, rồi dần dần thành “nếp”, nếu trong tư duy thì tạo nên những định kiến giới, còn trong thực tế tạo thành phân công lao động theo giới, vai trò giới… Tất cả vẫn còn in đậm dấu và chi phối đến tận bây giờ.

Ngày nay, sự hiểu biết về luật pháp của phụ nữ và người dân vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là vấn đề quyền của phụ nữ. Nhiều người không tín nhiệm phụ nữ ở vị trí lãnh đạo, những việc này còn tồn tại là do hệ tư tưởng phụ quyền còn tồn tại dai dẳng trong cả gia đình và xã hội. Chế độ phụ quyền ngự trị trong xã hội hàng ngàn năm và tư tưởng Khổng giáo về địa vị thấp kém của phụ nữ kéo dài hàng thế kỷ đã ăn sâu vào trong tâm thức của mọi thành viên trong xã hội. Mặc dù đã có những thay đổi tích cực về vai trò, địa vị của phụ nữ ngày nay, song quan niệm của nhiều người, kể cả phụ nữ vẫn cho rằng nam giới là người nắm quyền lực.

Ngoài ra còn các nguyên nhân khác hạn chế tiến trình giải phóng phụ nữ như vấn đề quyền sinh sản, sức khoẻ sinh sản của phụ nữ chưa hoàn thiện. Hiện nay phụ nữ vẫn là người thực hiện chính các chương trình kế hoạch hóa gia đình mà ít nhận được sự chia sẻ trách nhiệm của nam giới. Số phụ nữ gặp rủi ro trong thai sản, sinh đẻ và trẻ em thiếu dinh dưỡng, bệnh tật còn khá cao. Tại một số khu vực nông thôn, 70 - 80% phụ nữ mang thai bị thiếu máu và 42% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng. Tỷ lệ này tương đối cao so với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á.

Phụ nữ, đặc biệt là các em gái ở nông thôn là những người còn chịu thiệt thòi trong giáo dục. Ngày nay đã xuất hiện nhiều vấn đề xã hội phức tạp mà phụ nữ là nạn nhân đau khổ nhất, đó là nạn bạo lực chống phụ nữ, bao gồm bạo lực xã hội và bạo lực gia đình, nạn hãm hiếp, nạn buôn bán phụ nữ nhằm các mục đích bóc lột lao động và bóc lột tình dục. Theo thống kê của 18 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong 8 năm gần đây nhất đã xảy ra 11.630 vụ bạo lực gia đình, phần lớn các vụ nói trên thuộc diện bạo lực của chồng đối với vợ hoặc người lớn đối với trẻ em. Vấn đề bức xúc hiện nay là tình hình mại dâm và buôn bán, lừa gạt phụ nữ và trẻ em. Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, trong vòng 10 năm qua có khoảng 1 vạn phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán sang Trung Quốc và Campuchia. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội, căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS.

Một trong những nguyên nhân cản trở việc phát huy vai trò phụ nữ chính là trách nhiệm của phụ nữ đối với công việc gia đình. Tuy bước đầu đã có sự chia sẻ của nam giới trong công việc gia đình (phần nhiều ở thành thị), song phụ nữ vẫn phải đảm nhiệm hầu

hết công việc nhà. Đây chính là nguyên nhân khiến phụ nữ thiếu thời gian cho việc học tập, thiếu cơ hội giao tiếp xã hội và tiếp cận thông tin, ít có thời gian và điều kiện tham gia công việc xã hội. Phần bị chi phối bởi công việc gia đình, phần do quan niệm công việc xã hội là việc của nam giới, hơn nữa điều kiện kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn làm cho nhiều chị em an phận, tự ti, tự bằng lòng với những gì mình đã có. Chính vì những lý do này đã cản trở tiến trình giải phóng phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới.

Phải thừa nhận rằng những tồn tại nêu trên đang ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chung của phụ nữ. Những khó khăn của phụ nữ và phong trào phụ nữ không tách rời những khó khăn chung của cả nước, tuy nhiên, phải khẳng định đó là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong thời gian qua mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng Đảng ta vẫn còn chậm đổi mới công tác vận động phụ nữ, chậm bổ sung, sửa đổi chính sách liên quan đến phụ nữ, chưa tổ chức tốt việc thực hiện đường lối, chính sách đã đề ra về công tác phụ nữ. Tất cả những điều đó đã tạo nên sự bất bình đẳng giới trên lĩnh vực kinh tế, từ đó dẫn đến bất bình đẳng trong các lĩnh vực khác. Vì vậy nếu tìm ra nguyên nhân và có hướng giải quyết đúng đắn thì sự nghiệp giải phóng phụ nữ tiến tới bình đẳng giới chắc chắn sẽ đạt được kết quả tốt đẹp.

2.2.2 Nguyên nhân nhận thức, văn hóa truyền thống Trong những năm gần đây, nhiều học giả đã lên tiếng báo động về sự quay trở lại của tâm lý “trọng nam khinh nữ” mà có một thời chúng ta đã gần như giải quyết bằng luật pháp, bằng dư luận xã hội và bằng chính phong trào giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói rằng: trọng nam khinh nữ là thói quen mấy nghìn năm để lại vì nó ăn sâu trong đầu óc mọi người, nhiều gia đình, nhiều tầng lớp xã hội, nó trở thành một vấn đề tâm lý xã hội. Bởi vậy cuộc đấu tranh chống sự phân biệt đối xử với phụ nữ là một cuộc đấu tranh tư tưởng lâu dài, khó khăn để xóa bỏ được những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ còn tồn tại dai dẳng trong xã hội ta. Hiện nay cuộc tiến công vào tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã được thực hiện trên mọi lĩnh vực gia đình, xã hội, kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán,… và đã đạt được những thành tích to lớn. Trong mấy chục năm qua, phong trào giải phóng phụ nữ đã có những bước tiến khá dài. So với phụ nữ các nước đang phát triển và phụ nữ trong khu vực thì phụ nữ Việt Nam trên nhiều phương diện đã được xã hội tôn trọng và quan tâm. Nhận thức của xã hội về phụ nữ đã có sự thay đổi, phụ nữ đã tham gia vào hầu hết các lĩnh vực sản xuất và một số phụ nữ đã vươn lên vị trí lãnh đạo. Tuy nhiên, do đất nước còn nghèo, do hậu quả của chiến tranh kéo dài, do trình độ quản lý còn thấp nên phong trào giải phóng phụ nữ đã có không ít những khó khăn và hạn chế. Điều đặc biệt là nhận thức của xã hội về vấn đề phụ nữ còn chung chung và đơn giản, còn bị ảnh hưởng của những tư tưởng phong kiến lạc hậu. Chính vì thế vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong công

cuộc đổi mới hiện nay còn bị hạn chế bởi họ ít có cơ hội và điều kiện để thực hiện vai trò của mình trong gia đình cũng như trong xã hội.

Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” là sản phẩm của chế độ phân biệt giai cấp. Các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản có thể khác về hình thức nhưng điều giống nhau về quan điểm khinh rẻ phụ nữ. Quan điểm này bắt đầu từ luật pháp sau đó trở thành tâm lý xã hội. Chẳng hạn luật pháp thời phong kiến ở Việt Nam quy định phụ nữ phải chăm lo việc gia đình và phải phục tùng nam giới, dần dần tâm lý xã hội cũng cho rằng phụ nữ không có khả năng quản lý xã hội và luôn luôn là đối tượng phải được dạy dỗ và giáo dục. Nhiều người chồng đã tự cho mình là gia trưởng, có quyền dạy vợ ngay cả khi bản thân anh ta cũng rất thiếu giáo dục.

Hiện nay nhiều cuộc điều tra xã hội học đã cho thấy phụ nữ chưa thật sự được bình đẳng so với nam giới, cũng ngày tám tiếng như chồng nhưng phụ nữ phải gánh vác công việc trong gia đình nhiều hơn. Từ tâm lý thương chồng, chiều chồng, nhiều chị em đã trở nên sợ chồng, không dám trái ý chồng. Dưới chế độ phong kiến, phân biệt nam nữ là một định kiến rõ rệt. Phụ nữ là người bị áp bức, trói buộc nhiều nhất trong gia đình và xã hội. Quan điểm Nho giáo cho phụ nữ là đối tượng khó dạy, tâm tính hèn mọn, tri thức nông cạn… do vậy họ phải được dạy bảo trong khuôn phép “tam tòng, tứ đức”. Phụ nữ không có vị trí chính thống nào trong xã hội, làng xóm và họ hàng, họ cũng không có tiếng nói trong gia đình, mặc dù họ là những lao động chính. Trong một số gia đình, phụ nữ có vị trí không hơn một nô lệ, một thứ tài sản có thể chuyển nhượng, cầm cố. Chức năng cơ bản của phụ nữ là phải sinh cho gia đình chồng những đứa con trai để nói dõi tông đường theo tinh thần “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Chế độ đa thê lại khuyến khích “trai anh hùng năm thê bảy thiếp” nhưng “gái chính chuyên chỉ có một chồng”, làm vợ phải biết “gọi dạ bảo vâng” phải biết chiều chuộng, nín nhịn khi chồng giận dữ, đánh đập. Chuẩn mực “công, dung, ngôn, hạnh” đòi hỏi người phụ nữ phải đảm đương mọi việc trong gia đình, phục vụ, hy sinh cho chồng con một cách vô điều kiện.

Như vậy thói quen, phong tục, tập quán có sức mạnh ghê gớm, nó như một bộ luật không thành văn hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của con người và cả xã hội. Việt Nam là nước nông nghiệp nên định kiến “trọng nam khinh nữ” đã ăn sâu trong đầu óc mỗi người. Định kiến này được coi là khuôn mẫu và được xem là tiêu chuẩn để đánh giá phẩm chất chung của phụ nữ, xã hội trước đây lấy nó làm cơ sở để đối xử, phân biệt nam nữ trong cuộc sống. Ngày nay sự phân biệt, đối xử ấy còn ảnh hưởng khá phổ biến và biểu hiện phức tạp trên nhiều lĩnh vực từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Đa số mọi người vẫn cho rằng phụ nữ chỉ nên tập trung lo cho gia đình, xây dựng một gia đình hạnh phúc còn các công việc xã hội khác không phải là công việc chính. Nhận thức trên đã hạn chế việc phát huy vai trò phụ nữ, hạn chế tiến trình giải phóng phụ nữ.

Như vậy: với những biểu hiện “trọng nam khinh nữ”, tác phong gia trưởng, chuyên quyền độc đoán của không ít đàn ông, những phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ, đạo đức phong kiến “tam tòng, tứ đức” được khuyến khích… tất cả duy trì để trói buộc người phụ nữ, làm cho họ không thể phát huy được tất cả những khả năng vốn có của mình.

Tâm lý “trọng nam khinh nữ” còn biểu hiện sâu sắc ngay trong chính giới phụ nữ. Nhiều bậc cha mẹ đã bộc lộ sự khao khát có con trai của họ đến mức đã nạo những bào thai bé gái hoặc sinh đẻ nhiều lần để có con trai, thậm chí có những người lén lút cưới vợ lẽ cho chồng, hậu quả đưa đến lại khá nghiêm trọng. Cũng xuất phát từ nguyện vọng muốn có con trai nên trong cuộc điều tra xã hội học của PTS Nguyễn Quốc Triệu ở Hà Nội năm 1997 thì 2/3 số người được hỏi đã nêu nguyện vọng muốn sinh con thứ ba để có được con trai.

Một số phụ nữ khác thì phân biệt đối xử giữa các con trai và con gái của mình ngay từ khi chúng còn thơ bé, cũng chính họ đã góp phần nuôi dưỡng sự phân biệt nam nữ mà suốt đời họ phấn đấu để được giải phóng. Từ việc nhận thức như vậy nên trong cách giáo dục một số bậc cha mẹ vẫn còn bị ảnh hưởng rất nặng nề bởi “khuôn mẫu về giới” như con trai phải được học hành cao, gánh vác những việc lớn, con gái chỉ cần giỏi nội trợ, đảm nhiệm tốt những công việc gia đình. Ngay trong cách giáo dục đó vô hình trung đã hạn chế các em gái trong suy nghĩ và hành động. Các em gái bỏ học nhiều hơn, mù chữ nhiều hơn, học lên cao ít hơn so với các em nam. Vì vậy, khi trưởng thành tỷ lệ phụ nữ giữ các cương vị cao trong xã hội cũng rất ít.

Ngày nay nếu tư tưởng “trọng nam khinh nữ” chỉ là sản phẩm đơn thuần của cơ sở kinh tế xã hội, là nguyên nhân tạo ra sự bất bình đẳng nam nữ thì việc xoá bỏ nó chắc chắn không đến nỗi khó khăn. Đã từ lâu, sự phân biệt đối xử với phụ nữ đã ăn sâu trong đầu óc mỗi con người, nó đã trở thành tập quán, những khuôn mẫu ứng xử, những chuẩn mực xã hội được hình thành từ nhiều đời nay. Sống trong bầu không khí như vậy, mỗi người đều “nhập tâm” vào tư tưởng trọng nam khinh nữ đó mà không hề thắc mắc về nó, không cảm thấy bất bình thường, thậm chí còn tiếp tay cho việc củng cố, duy trì và tái tạo những tư tưởng đó một cách tự nhiên. Bối cảnh xã hội ngày nay đã khác, cơ cấu kinh tế xã hội đang chuyển đổi mạnh mẽ, đòi hỏi phải có sự chuyển biến tương ứng hệ thống giá trị theo hướng giải phóng con người với ý nghĩa đầy đủ nhất của nó. Xóa bỏ tâm lý “trọng nam khinh nữ”, xóa bỏ bất bình đẳng nam nữ không chỉ là vấn đề kiến thức, sự hiểu biết mà còn phụ thuộc vào thiện chí và trách nhiệm của cả nam giới và phụ nữ trong xã hội. Đó là công việc khó khăn nhưng nếu có biện pháp giải quyết chắc chắn sẽ thành công.

2.2.3.Tâm lý tự ti, mặc cảm của bản thân phụ nữ Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới cần phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi người phụ nữ phải có tác phong công nghiệp, lối sống văn hóa, đó là sự khẩn trương, sự

tự tin, mạnh dạn, sáng tạo, quyết đoán trong công việc, thông minh nhạy bén trước cái mới, biết điều hành công việc chung cũng như biết sắp xếp công việc gia đình một cách khoa học để mang lại hiệu quả cao nhất, đồng thời có thời gian nghỉ ngơi, giải trí, học tập, nâng cao tri thức và sức khỏe. Trong thời gian qua vấn đề này vẫn còn nhiều hạn chế mà một trong những hạn chế cơ bản mang tính chất chủ quan đó là tâm lý tự ti, mặc cảm của bản thân phụ nữ.

Ngay từ những ngày đầu thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ, Hồ Chí Minh khẳng định yếu tố có tính chất quyết định là “bản thân phụ nữ phải tự mình vươn lên”. Người quan tâm đến cuộc đấu tranh giúp phụ nữ vượt khỏi tư tưởng an phận với cuộc sống gia đình, với hạnh phúc chật hẹp, động viên họ mang những khả năng vốn có của mình tham gia và đóng góp cho các công việc xã hội. Phụ nữ phải phấn đấu học tập, tự tin, tự giải phóng mình “phụ nữ phải xóa bỏ tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập” [44, tr.295]. Tuy vậy tâm lý tự ti, mặc cảm của phụ nữ trong những năm qua vẫn còn thể hiện rõ trong gia đình và cả ngoài xã hội.

- Trong gia đình: Do ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” từ ngàn xưa để lại nên chính trong bản thân phụ nữ vẫn còn tư tưởng tự ti, an phận, cam chịu, thụ động. Điều này đã hạn chế trực tiếp sự độc lập suy nghĩ sáng tạo, khả năng cống hiến của chính phụ nữ, đó là những lực cản bên trong kìm hãm họ. Về mặt tâm lý truyền thống, phụ nữ Việt Nam có xu hướng “nhường bước” nam giới trong việc giành những chức vụ cao trong kinh doanh và khoa học. Ngay những người phụ nữ có khả năng xuất chúng, được hưởng một nền giáo dục đặc biệt, có những kỹ năng cao cấp cũng có xu hướng chấp nhận địa vị thấp hơn các bạn đồng sự là nam giới.

Một phần thói quen phổ biến hiện nay người chồng vẫn khó chấp nhận người vợ hơn mình, nhất là về trình độ học vấn. Ở nông thôn người chồng là nông dân càng khó chấp nhận vợ làm cán bộ và đa số người vợ xem đó là “chuyện ngược đời”. Nhiều chị tự ti về năng lực, trình độ học vấn của mình, thiếu tinh thần học tập vươn lên, bằng lòng với cuộc sống hiện tại, lui về với cuộc sống gia đình, sẵn sàng dành cơ hội thăng tiến cho chồng.

Hiện nay đa số phụ nữ do gánh nặng công việc gia đình, phải lam lũ kiếm sống nên ít có điều kiện được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, khoa học và chuyên môn nghiệp vụ, bởi vậy chị em ít có cơ hội tiếp thu thông tin phục vụ đời sống xã hội. Hầu hết phụ nữ suốt ngày chỉ lo làm ăn nên không có điều kiện đọc báo, nghe đài, xem tivi, họ trở nên lạc hậu với thực tế, nhận thức xã hội còn hạn chế. Chính những điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến công cuộc giải phóng phụ nữ.

- Ngoài xã hội: Điều quan trọng nhất bao hàm là lòng tự tin của người phụ nữ, đánh giá đúng khả năng của mình để tự quyết định công việc một cách chủ động dám chịu trách

nhiệm về quyết định của mình và phải biết tự khẳng định mình. Thế nhưng, một biểu hiện của sự mặc cảm của phụ nữ là sự kém tự tin, rụt rè, ít dám phát biểu ý kiến, tự cho trình độ hiểu biết của mình còn non kém, trình độ tay nghề còn thấp, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn…, đó là nhược điểm của nhiều chị em hiện nay. Do ảnh hưởng của tâm lý “trọng nam khinh nữ” kéo dài trong lịch sử nước ta, tư tưởng coi thường phụ nữ, cho phụ nữ kém hơn nam giới về mọi mặt, đặc biệt về trí tuệ, sự giáo dục của gia đình qua nhiều thế hệ cùng với trình độ ứng xử trong xã hội khiến người phụ nữ sinh ra rụt rè, kém tự tin vào chính khả năng của mình.

Tuy nhiên vẫn có một bộ phận không nhỏ vượt qua mọi khó khăn, phấn đấu vươn lên tự khẳng định mình nhưng vẫn chưa được tạo điều kiện, gia đình và xã hội chưa thật sự chấp nhận nên phần lớn quay về với sự mặc cảm, tự ti vốn có ban đầu. Chính những điều đó không thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy, cần thiết phải có sự thay đổi về tâm lý, nếp tư duy của chị em, đồng thời cũng cần sự thay đổi về trình độ, cách suy nghĩ của xã hội, đặc biệt là của nam giới trong việc đánh giá khả năng của phụ nữ. Sự mạnh dạn vươn lên của chị em phụ nữ không ai có thể khác là bản thân phụ nữ phải tự vượt lên chính mình, phải cố gắng khắc phục khó khăn để vươn lên hoàn thiện mình. Tuy vậy cũng rất cần sự động viên, cổ vũ của xã hội, sự hỗ trợ của Nhà nước, của đồng nghiệp và gia đình.

Trong thời gian qua sự phấn đấu vươn lên của một bộ phận phụ nữ chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Một số chị em chưa vượt lên những cản trở gia đình, ngại phấn đấu trong học tập, nghiên cứu khoa học và công tác cũng như tham gia hoạt động xã hội. Một số phụ nữ chưa nắm vững luật pháp, chính sách, từng nơi, từng lúc đã tham gia làm mất ổn định chính trị xã hội. Mặt khác, dưới tác động của cơ chế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng rõ nét, tình trạng hạn chế về học vấn và tay nghề, thiếu việc làm, đời sống bấp bênh đã dẫn đến tệ nạn xã hội gia tăng, một số phụ nữ vừa là nạn nhân, vừa là tác nhân của tệ nạn xã hội đã tạo ra sự bất ổn trong cuộc sống gia đình cũng như của xã hội.

Người ta dự đoán rằng, thế kỷ XXI là thế kỷ của phụ nữ. Vị trí của phụ nữ sẽ được nâng cao, sự bình đẳng về giới được xác định trên các mặt trong đời sống xã hội và gia đình. Phụ nữ sẽ được hưởng quyền tự do cá nhân, sự thoải mái, hài hòa giữa gia đình với sự nghiệp, giữa sự phát triển cá nhân và sự phát triển xã hội. Thế nhưng ở điểm xuất phát thấp hơn nam giới, đứng trước những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển xã hội, phụ nữ cần phải nỗ lực vươn lên nếu như họ không muốn bị tụt hậu.

Như vậy: Nếu gia đình và xã hội đã tạo ra các cơ hội, điều kiện để phụ nữ vươn lên bình đẳng cùng nam giới thì chính bản thân người phụ nữ phải tự khẳng định được quyền bình đẳng của mình. Phụ nữ phải xóa bỏ tư tưởng tự ti, mặc cảm, không dám đấu

tranh cho quyền bình đẳng của mình. Cùng với quá trình đó phụ nữ phải ra sức học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt để rút ngắn, đi tới xóa bỏ hoàn toàn khoảng cách phát triển của họ so với nam giới. Thế kỷ XXI không thể thiếu được vai trò của phụ nữ, chỉ có tri thức, năng lực, trí tuệ, tay nghề cao và lòng nhân ái mới có thể giúp họ khẳng định chỗ đứng trong thế giới hiện tại và tương lai, đó cũng chính là những phẩm chất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới.

2.2.4.Việc hoạch định và thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước chưa

thể hiện rõ trách nhiệm giới

Về thuật ngữ khái niệm giới được sử dụng rộng rãi trong phong trào phụ nữ ở các nước phương Tây vào nửa đầu thế kỷ XX. Ở Việt Nam khái niệm giới xuất hiện vào khoảng cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Giới (Gender) là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân loại học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ. Nói đến giới là còn nói đến địa vị xã hội, thái độ và hành vi ứng xử giữa nam và nữ do hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hóa tạo nên.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trước hết bằng hệ thống chính sách, pháp luật vì sự tiến bộ phụ nữ. Song việc biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước thành hiện thực cuộc sống còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân là lãnh đạo các cấp, các ngành, các đoàn thể chưa quan tâm đúng mức việc quán triệt quan điểm giới vào việc hoạch định và thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, vì vậy chưa thể hiện được trách nhiệm giới, điều này đã được Nghị quyết 04 Bộ Chính trị chỉ rõ: Đảng ta còn chậm đổi mới công tác vận động, Nhà nước thiếu và chậm thể chế hóa chế độ chính sách với phụ nữ, Hội Liên hiệp Phụ nữ chưa bao quát hết các đối tượng, chưa đề xuất đầy đủ và kịp thời để Đảng và Nhà nước bổ sung và sửa đổi một số chế độ chính sách liên quan đến phụ nữ.

Chính vì vậy việc đổi mới và hoàn thiện chính sách đối với phụ nữ phù hợp với sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội là điều kiện tiên quyết để chị em tham gia tích cực vào các hoạt động trong gia đình và xã hội. Để đổi mới và hoàn thiện chính sách đối với phụ nữ cần thiết phải xuất phát từ thực tiễn, phải có quan điểm giới và sự phát triển, tìm hiểu người phụ nữ đang sống như thế nào, đang mong muốn gì, đang gặp khó khăn thuận lợi gì trong đời sống gia đình và đời sống cá nhân, đâu là vấn đề then chốt cần giải quyết bằng những chính sách cụ thể để từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của phụ nữ.

Việc hoạch định và thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước trước hết phải là chính sách chung cho cả hai giới nam và nữ, đặt trong chương trình phát triển chung, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng về quyền lợi, nghĩa vụ cho cả hai giới. Tuy nhiên nếu chỉ có

chính sách chung mà không quan tâm đến đặc thù riêng của giới nữ thì chính sách sẽ chỉ có lợi cho nam giới. Vì vậy, cần phải có chính sách riêng cho phụ nữ, nhưng nếu tách rời với chính sách chung thì lại khó hoàn thiện và trở thành bất lợi cho phụ nữ.

Trong thực tế hiện nay do nhận thức thiếu khoa học nên đã hình thành những quan niệm sai lầm về vai trò của mỗi giới, từ đó dẫn đến bất bình đẳng trong phân công lao động. Trong khi phụ nữ phải thực hiện “vai trò ba mặt” (công việc tái sản xuất, công việc sản xuất và công việc cộng đồng), đó là những công việc phần lớn không được trả công, thì nam giới chỉ tham gia chủ yếu vào hai loại vai trò là công việc sản xuất và lãnh đạo cộng đồng. Những công việc này được trả công một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Chính vì nhận thức chưa đúng về vai trò mỗi giới nên bất bình đẳng xảy ra là điều không thể tránh khỏi, những công việc của phụ nữ thường không được xã hội đánh giá đầy đủ vì không tạo ra giá trị bằng tiền (nội trợ, chăm sóc con cái, công việc cộng đồng). Vì vậy phụ nữ khó có thể phát huy vai trò của mình thật sự có hiệu quả.

Trên quan điểm tiếp cận giới đòi hỏi việc hoạch định và thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước phải thể hiện rõ trách nhiệm giới, đảm bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ trong việc tham gia vào mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và việc hưởng thụ các kết quả làm ra. Phải có những biện pháp, chính sách cụ thể trong thực tiễn cuộc sống. Chính trên cơ sở đảm bảo quyền bình đẳng của cả hai giới trong phát triển mà hoàn thành những chính sách hỗ trợ cho phụ nữ để họ có khả năng và điều kiện theo kịp tiến độ phát triển chung.

Bình đẳng toàn diện giữa nam và nữ là lý tưởng mà nhân loại đã đấu tranh từ nhiều thế kỷ nay. Trong báo cáo phát triển con người của chương trình phát triển Liên hợp quốc năm 1995 đã nhận định rằng: thế giới đã có bước tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao mức bình đẳng giới, song không phải nước nào cũng thực hiện được điều đó. Ngay cả ở những nước kinh tế phát triển cao, đời sống hiện đại, văn minh nhưng phụ nữ vẫn không được hưởng quyền bình đẳng như nam giới. Nếu mức độ bình đẳng lý tưởng là 1 thì hiện nay chỉ số so sánh về mức độ bình đẳng giới cao nhất mới chỉ ở con số 0,92 và còn 45 nước trên thế giới chỉ số này dưới mức 0,5. Vấn đề này đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà hoạt động, tổ chức chính trị xã hội quốc tế, nhiều quốc gia trên thế giới. Do vậy, quan điểm về chính sách giới hiện nay cần phải được quán triệt trong các phương hướng hoạt động và kế hoạch phát triển nhận thức xã hội của các quốc gia.

Việt Nam đang trên con đường đổi mới, nhiều chính sách về bình đẳng giới đã được thi hành. Song quan điểm về giới cũng như sự tham gia của nam giới và phụ nữ trong các chương trình, dự án chưa được rõ ràng. Có thể nói rằng việc hoạch định chính sách chưa được đề cập một cách đầy đủ và chưa dựa trên quan điểm giới nên trong thực hiện còn

nhiều hạn chế. Phần lớn chỉ là những chính sách chung chung, không tính đến đặc thù của lao động nữ. Do vậy về tổng thể những chính sách thường là có lợi cho nam giới.

Ví dụ: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có chính sách khuyến khích cán bộ công chức tham gia học Ngoại ngữ, đây là chính sách rất đáng hoan nghênh vì đã tạo điều kiện cho cán bộ trong việc nâng cao tri thức, phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Thế nhưng thời gian học lại bắt đầu từ lúc 17 giờ nên đối tượng tham gia học phần lớn là nam giới vì phụ nữ còn phải lo cơm nước cho gia đình (chưa kể những phụ nữ có con nhỏ). Vì vậy, khi đề ra chính sách cần phải chú ý đến yếu tố giới, tạo điều kiện để nam nữ được bình đẳng như nhau.

Ngoài ra còn có những chính sách mang tính chất ưu tiên cho giới nữ nhưng thực chất có tác dụng ngược lại. Ví dụ: Chính sách tuổi về hưu, chính sách con ốm mẹ nghỉ, chính sách thai sản…

Đối với chính sách tuổi về hưu: Hiện nay Bộ Luật Lao động nước ta quy định tuổi về hưu của phụ nữ là 55 tuổi, sớm hơn 5 tuổi so với nam giới là điều còn đang được bàn luận. Nhiều ý kiến cho rằng, trừ một số ngành lao động nặng nhọc và độc hại, còn đa số các ngành, đặc biệt là lao động nghiên cứu khoa học, việc nghỉ hưu sớm hơn gây hạn chế cho phụ nữ trong việc hưởng trọn vẹn lợi ích hưu trí, điều này đã và sẽ còn ngăn cản chị em được thăng tiến tới vị trí lãnh đạo cao hơn.

Đối với chính sách con ốm mẹ nghỉ, chính sách thai sản được coi là “ưu tiên” cho giới nữ nhưng thực chất ngược lại. Theo Báo cáo của các tổ chức phi chính phủ thì đa số phụ nữ bị mất việc là do nghỉ đẻ, do con ốm nên thời gian làm việc không liên tục, do đó không thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, thay vì phụ nữ được “ưu tiên” thì cuối cùng lại bị mất việc, đây là nguyên nhân rất bất hợp lý vì việc đó luôn được coi là “thiên chức” của phụ nữ. Vì vậy khi đề ra chính sách cần phải chú ý đến yếu tố giới, phải thật sự tạo mọi cơ hội và điều kiện để phụ nữ phát huy hết mọi khả năng vốn có của mình. Nếu thực hiện được việc đó thì sự nghiệp giải phóng phụ nữ mới có thể hoàn thành thắng lợi.

Như vậy: vì quyền lợi của bản thân, người phụ nữ đang không ngừng đấu tranh chống những tư tưởng phong kiến, tư sản, coi khinh, coi rẻ người đàn bà, đấu tranh để phụ nữ có điều kiện học tập, có vốn kiến thức văn hoá và khoa học cao. Mặt khác, chị em đang cố gắng vươn lên, gạt bỏ những tư tưởng tự ti, rụt rè cùng với bệnh lười học tập, suy nghĩ, ngại bước vào lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Chỉ có sự giải phóng hoàn toàn về tư tưởng, sự phát triển đầy đủ về trình độ của phụ nữ mới làm cho công cuộc giải phóng phụ nữ ở nước ta được triệt để và sâu rộng.

Trong những năm qua, công cuộc đổi mới đã mang lại nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi bộ mặt xã hội, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân trong đó có phụ nữ. Sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ trong thời kỳ đổi mới thông qua việc ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết liên quan đến vấn đề giải phóng phụ nữ đã đem lại nhiều thắng lợi đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Từ thực tiễn vấn đề giải phóng phụ nữ có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

- Cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu, phải có quan điểm, nhận thức đúng đắn, sâu sắc về bình đẳng giới, có tư duy cách mạng trong việc xây dựng chiến lược, chính sách đối với phụ nữ. Chủ trương, chính sách của Đảng phải bám sát với đời sống, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ thì mới được nhân dân nói chung và phụ nữ nói riêng đồng tình hưởng ứng và thực hiện tốt.

- Các cấp chính quyền: Có nhiệm vụ cụ thể hóa, xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức thực hiện có tính khả thi, đưa các chủ trương, chính sách của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.

Trong công cuộc giải phóng phụ nữ cần phải coi trọng việc xây dựng Chiến lược về cán bộ nữ trong việc xây dựng chiến lược chung về công tác cán bộ của Đảng. Phải trên cơ sở nhìn nhận đúng vị trí, vai trò của phụ nữ mà bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đối với cán bộ nữ cần quan tâm đầy đủ tới đặc điểm giới, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho cán bộ nữ phát triển. Ngoài ra cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả thực hiện các quyền bình đẳng giới của các cơ quan Nhà nước có liên quan. Bên cạnh đó cần phải xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa các cơ quan Nhà nước với các tổ chức xã hội khác ở trung ương và địa phương trong việc tổ chức triển khai, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá tình hình thực hiện các quyền cơ bản của phụ nữ. Thực hiện tốt những điều đó sẽ góp phần tích cực cho công cuộc giải phóng phụ nữ.

- Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phải là cầu nối giữa Đảng với các tầng lớp phụ nữ thông qua việc quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là các chủ trương, chính sách có liên quan đến phụ nữ. Mặt khác, Hội phải thực hiện được công tác tham mưu, tư vấn cho các cấp ủy đảng về các vấn đề cơ cấu cán bộ nữ, vấn đề tạo nguồn… Hội phải sâu sát, phản ánh đúng tâm tư của chị em phụ nữ, tham mưu và đề xuất với Đảng những chủ trương, chính sách phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nói chung và phụ nữ nói riêng.

Trong những năm tới Hội cần đổi mới nội dung, phương thức hoạt động với phương châm là chỉ đạo dọc, phối hợp ngang, tập trung chỉ đạo hướng về cơ sở, quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc của phụ nữ, chăm lo quyền và lợi ích thiết thân của phụ nữ.

- Bản thân phụ nữ cần phải nâng cao nhận thức cho chính mình và gia đình, khắc phục tư tưởng tự ti, an phận, xây dựng ý chí phấn đấu vươn lên, chủ động khắc phục khó

khăn, tự khẳng định mình qua việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngoài ra cần phải tăng cường phát huy dân chủ đại diện của các tầng lớp phụ nữ và nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, thông qua các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội đại diện quyền làm chủ của nhân dân và phụ nữ. Tóm lại: tất cả các nguyên nhân trên làm cho quá trình bình đẳng giới ở Việt Nam diễn ra còn chậm chạp. Mỗi người đều mong muốn đạt đến sự bình đẳng về giới nhưng làm như thế nào để đạt được còn nhiều tranh luận. Với những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ vừa qua, đồng thời chỉ ra được những nguyên nhân dẫn tới bất bình đẳng giới sẽ là căn cứ quan trọng để chúng ta xây dựng những điều kiện căn bản và những giải pháp chủ yếu để tiến tới giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ.

Chương 3 NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC THỰC HIỆN SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN THỰC HIỆN SỰ NGHIỆP GIẢI

PHÓNG PHỤ NỮ

3.1.1. Phát triển kinh tế - xã hội tạo mọi điều kiện giải phóng phụ nữ Bình đẳng Giới là một nội dung của phát triển xã hội. C.Mác đã từng nói: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi”. Phụ nữ Việt Nam chiếm 50,8% dân số và 50,6% lực lượng lao động xã hội. Phụ nữ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước trước đây, và ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, họ đang sát cánh cùng nam giới phấn đấu vì mục tiêu chung của cả nước. Trong những năm qua, phụ nữ Việt Nam đã có nhiều đóng góp đáng kể trong thành tích xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Với tư cách người vợ, người mẹ, phụ nữ đã có những cống hiến to lớn trong việc nuôi dưỡng các thế hệ công dân của đất nước, chăm lo xây dựng gia đình theo chuẩn mực “ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”. Phụ nữ còn là nhân tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế chung của cả nước.

Vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận sự đóng góp to lớn của phụ nữ trong quá trình phát triển xã hội nhưng lại chưa có một quốc gia nào, phụ nữ có được cơ hội bình đẳng thực sự với nam giới. Mặc dù tăng trưởng kinh tế (GDP) là một chỉ báo quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, nhưng tự thân nó cũng không đem lại công bằng, bình đẳng xã hội, đặc biệt là bình đẳng giới.

Để đạt tới bình đẳng giới thật sự còn là cuộc đấu tranh lâu dài, trong quá trình đó, các quốc gia cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình để vạch ra những điều kiện cơ bản nhằm thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ. Với tinh thần ấy, Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên phải tạo ra sự phát triển toàn diện, cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tạo môi trường tốt nhất để phát triển nguồn nhân lực nữ. Tuy nhiên, điều kiện căn bản quyết định là phải phát triển kinh tế - xã hội, tạo mọi điều kiện giải phóng phụ nữ.

Chính sách kinh tế và chính sách xã hội gắn bó hữu cơ với nhau trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách kinh tế phải hướng tới mục tiêu xã hội. Ngược lại, chính sách xã hội phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, làm nảy sinh những nhân tố động lực xã

hội cho sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người (nam cũng như nữ) có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.

Cũng là con người nên nam và nữ có những nhu cầu và lợi ích giống nhau, song giữa họ cũng có các nhu cầu, lợi ích khác nhau trong quá trình phát triển. Tình trạng bất bình đẳng giới khiến cho các nhu cầu, lợi ích của phụ nữ thường đặt ra mang tính bức xúc hơn nam giới. Vì vậy, khi xây dựng và thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội cần tính tới yếu tố này, giành cho nó sự quan tâm thích đáng, sự quan tâm này chính là việc thực hiện các “đối xử đặc biệt” để đạt tới bình đẳng. Trong Chiến lược phát triển kinh tế cần hướng vào giải quyết vấn đề lao động, việc làm, việc làm có thu nhập cao và cải thiện điều kiện làm việc cho phụ nữ. Mục tiêu thứ nhất trong Chiến lược vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2001-2010 có ghi: “Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, việc làm nhằm nâng cao địa vị kinh tế và cải thiện đời sống cho phụ nữ” .

Yêu cầu cơ bản của nhân dân Việt Nam hiện nay là có sự phát triển kinh tế, văn hóa mạnh mẽ của đất nước, mức sống vật chất và sự hưởng thụ văn hóa của họ được nâng cao, tạo sự ổn định cả về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, đảm bảo dân chủ, công bằng xã hội. Nguyện vọng tha thiết của các tầng lớp phụ nữ là được sống trong hòa bình, có việc làm, thu nhập gia tăng, gia đình hạnh phúc, bản thân được học hành tiến bộ, được bình đẳng và dân chủ. Điều kiện để thỏa mãn nhu cầu nói trên thì nhiều, nhưng điều kiện mấu chốt là có sự phát triển kinh tế với năng suất cao, hiệu quả lớn, gắn liền với nó là việc nâng cao không ngừng trình độ kiến thức và chuyên môn. Vì vậy, đối với phụ nữ, cần giúp chị em làm kinh tế tốt, có việc làm và làm có hiệu quả.

Tiếp cận vấn đề từ góc độ Giới, chúng ta thấy có tình hình như sau: Do đặc thù của lao động nữ, chị em có chức năng mang thai, sinh nở và nuôi con nhỏ, họ phải cùng một lúc đảm nhiệm hai chức năng xã hội nặng nề là sản xuất và chăm lo gia đình. Đồng thời lại do ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ, mặc dù Hiến pháp nước ta từ lâu đã công nhận quyền bình đẳng mọi mặt giữa nam và nữ nhưng trên thực tế phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi. Trong vấn đề việc làm, đa số họ phải làm những công việc lao động giản đơn nặng nhọc mà thu nhập lại thấp (vì họ ít được chú ý đào tạo về chuyên môn và ít có điều kiện học tập như nam giới). Sự tiến bộ của nữ thường chậm chạp hơn đồng nghiệp nam, cả trình độ chuyên môn, về thu nhập và địa vị công tác. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là không chỉ tạo việc làm cho phụ nữ mà công việc đó cần thích hợp với khả năng, điều kiện lao động nữ, để họ có thể hoàn thành tốt, có thu nhập khá, có cơ hội phát triển tài năng và nâng cao địa vị bình đẳng của mình.

Do đặc thù nước ta là một nước nông nghiệp lại đang trên quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà mục tiêu trước mắt là phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp nông thôn nên cần đặc biệt lưu ý đến lao động nữ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, kinh tế hộ đi liền với tổ chức, phân công lại lao động một cách hợp lý, cần chống xu hướng phụ nữ hóa nông nghiệp. Phụ nữ có thể vẫn giữ một tỷ lệ nhất định trong sản xuất nông nghiệp nhưng ít sản xuất trực tiếp trên đồng ruộng mà cần tập trung trong khâu chế biến, bảo quản sản phẩm của nông nghiệp. Trong phân công lao động phải tính tới các yếu tố sinh học của phụ nữ, tránh để họ làm các công việc nặng nhọc, độc hại hay căng thẳng về cường độ và thời gian lao động. Cần xóa bỏ sự phân công lao động theo giới truyền thống vốn bất lợi cho phụ nữ. Trong mỗi gia đình, tùy điều kiện, khả năng từng người mà phân công lao động làm sao vừa tăng thu nhập, vừa phát huy khả năng của từng người. Khi có được việc làm ổn định, có thu nhập khá, phụ nữ sẽ có vốn kinh tế độc lập, có thể mua sắm các thiết bị hiện đại, thuê dịch vụ… nhằm giảm bớt gánh nặng công việc gia đình đặc biệt là công việc nội trợ, phụ nữ sẽ có thời gian nghỉ ngơi, giải trí, có điều kiện, cơ hội học tập để nâng cao trình độ.

Đi lên từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, với nền kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí còn thấp, lại trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài, Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: muốn sự nghiệp giải phóng thành công vấn đề cơ bản là phải tạo ra cơ sở hạ tầng cho chủ nghĩa xã hội, mà cơ sở hạ tầng chỉ có thể ra đời từ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Muốn thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trước hết phải tập trung vào công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, bởi vậy việc nâng cao năng lực toàn diện cho phụ nữ ở nông thôn vừa là đòi hỏi tất yếu, vừa là nhu cầu cấp bách.

Ở nông thôn hiện nay, lao động nữ chiếm hơn 70%, chị em làm việc chủ yếu là lao động chân tay và theo kinh nghiệm cổ truyền. Vì vậy, nếu đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các quy trình sản xuất trên lĩnh vực nông nghiệp thì sẽ có hàng chục vạn lao động thiếu hoặc không có việc làm, bởi các quy trình sản xuất hiện đại không cần nhiều người và điều quan trọng hơn là lao động giản đơn không còn phù hợp với điều kiện lao động mới. Đó là một thực tế, vì vậy phụ nữ muốn phát huy vai trò của mình, chỉ có con đường duy nhất là học tập, nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật, nâng cao trình độ nghề nghiệp và tác phong công nghiệp. Bên cạnh sự nỗ lực của chị em, Đảng và Nhà nước cần phải tạo điều kiện cho chị em phụ nữ có cơ hội thể hiện năng lực của mình.

Hiện nay ở nông thôn việc phụ nữ đứng tên chủ hộ là rất thấp, điều này ảnh hưởng ít nhiều đến việc phụ nữ vay vốn, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống gia đình và cho bản thân. Ở các nước Châu phi Hạ Sahara, việc trao quyền sỡ hữu đất đai cho phụ nữ đã giúp tăng năng suất trên những mảnh ruộng do phụ nữ quản lý, nhờ đó tăng thu nhập cho cả gia đình. Ở Bănglađét, khi năng lực vay vốn từ các chương trình tín

dụng nhỏ của phụ nữ tăng lên thì địa vị và tiếng nói của họ trong gia đình cũng được coi trọng hơn. Ở Việt Nam, đối với những gia đình mà phụ nữ đóng vai trò chủ hộ thì việc đầu tư cho sản xuất mạnh dạn hơn, việc chọn hướng kinh doanh để đạt hiệu quả cao đúng đắn hơn và thực hiện nghĩa vụ thuế đất đối với Nhà nước nghiêm túc hơn. Qua phân tích số liệu điều tra hộ gia đình, chương trình phát triển Liên hợp quốc khẳng định: “Những gia đình do phụ nữ làm chủ hộ không thua kém về kinh tế so với gia đình do nam giới làm chủ hộ” [63, tr.31]. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước còn tạo ra những phương tiện hiện đại phục vụ cuộc sống gia đình, giảm cường độ lao động của phụ nữ, khắc phục tình trạng ràng buộc phụ nữ bởi những công việc vụn vặt trong gia đình. Muốn vậy cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc mở các dịch vụ trông trẻ, giảm bớt chi phí chăm sóc con cái, cho phép người phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế rộng rãi hơn và các bé gái ở tuổi học đường được đi học nhiều hơn. Thực hiện tốt những việc đó, phụ nữ sẽ yên tâm hơn, giảm bớt thời gian chăm sóc con mà tập trung vào lĩnh vực kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho chính bản thân mình và cho cả gia đình. Đây cũng là một trong những điểm căn bản nhằm thực hiện tốt công cuộc giải phóng phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.

Nhân loại đang bước vào nền văn minh trí tuệ, khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các nước đang phát triển, nó đòi hỏi lực lượng lao động phải có những cố gắng vượt bậc. Cuộc điều tra năm 1993, Ngân hàng thế giới đã rút ra kết luận: Đầu tư giáo dục cho phụ nữ là một loại đầu tư đem lại nhiều lợi ích nhất. Khi trình độ phụ nữ được nâng lên họ sẽ có điều kiện phát triển mọi mặt. Vì vậy, mục tiêu thứ hai trong Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2001-2010 nêu rõ: “Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong giáo dục - đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt”.

Đầu tư giáo dục cho phụ nữ cũng là một khía cạnh tạo quyền cho phụ nữ (nâng cao trình độ, năng lực cá nhân), để họ khẳng định được quyền bình đẳng thật sự với nam giới. Đầu tư giáo dục cho phụ nữ, một mặt, nhằm khắc phục những yếu kém của họ trong hiện tại, mặt khác còn giúp họ vươn lên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới hiện nay. Để thực hiện tốt việc giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ của phụ nữ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, tổ chức phụ nữ, gia đình và địa phương. Nâng cao trình độ năng lực của phụ nữ để họ khẳng định được quyền bình đẳng của mình, đó là quyền lợi và nghĩa vụ của phụ nữ, là trách nhiệm mà xã hội và mỗi gia đình cần phải thực hiện vì sự tiến bộ của phụ nữ chính là sự tiến bộ của gia đình và xã hội. Mỗi gia đình và xã hội cần nhận thức đúng và làm tốt vấn đề này. Có như vậy việc nâng cao

trình độ giáo dục cho phụ nữ trong những năm tới mới có thể đạt được kết quả như mong muốn, mới có thể giải phóng hoàn toàn cho phụ nữ, để phụ nữ ngày càng khẳng định được quyền của mình trong cuộc sống. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hướng vào phát triển phụ nữ không chỉ đem lại lợi ích cho phụ nữ mà còn đem lại sự phát triển cho gia đình và cả xã hội.

3.1.2. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả Chiến lược tổng thể vì sự

tiến bộ của phụ nữ đối với tất cả các cấp, các ngành

Từ cuối thập kỷ 70 nước ta lâm vào tình trạng khó khăn kéo dài và dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Sau 10 năm đổi mới, nước ta chuyển sang thời kỳ mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tại Đại hội VIII (1996), quan điểm có ý nghĩa quan trọng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được đề ra đó là: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải quan tâm đến việc phát huy vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội bởi vì chăm lo phát triển nguồn nhân lực không thể tách rời với việc chăm lo phát triển phụ nữ, không thể có nguồn nhân lực dồi dào nếu phụ nữ đứng ngoài hoạt động lao động xã hội. Cũng không thể có nguồn nhân lực với chất lượng cao nếu người phụ nữ không có điều kiện, cơ hội học tập, lĩnh hội tri thức mới, rèn luyện kĩ năng phù hợp. Thế nhưng cuộc đời người phụ nữ gắn liền với cuộc sống gia đình. Gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với người phụ nữ Việt Nam. Vì vậy, phụ nữ chỉ có thể tham gia hoạt động lao động xã hội một cách rộng rãi, có thời gian và quyết tâm học tập nâng cao trình độ khi họ có chỗ dựa vững chắc là gia đình.

Nhận rõ vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết 04 khóa VII về việc "Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới" nhằm phát huy vai trò phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Việc phát huy vai trò phụ nữ có thể đạt được kết quả tốt nếu phụ nữ được giải phóng một cách hoàn toàn triệt để. Muốn làm được việc đó cần phải có một Chiến lược tổng thể vì sự tiến bộ của phụ nữ.

“Chiến lược vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam” vừa xây dựng năm 1995 đã được Thủ tướng phê duyệt thành chương trình hành động (năm 1997) là một văn bản thể hiện quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phụ nữ. Chiến lược khẳng định giải phóng phụ nữ là một trong những mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất nước, nhấn mạnh sự tiến bộ của phụ nữ không chỉ xuất phát từ lợi ích riêng của phụ nữ, của gia đình mà còn xuất phát từ lợi ích chung của xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề này, Chính

phủ Việt Nam đã xây dựng Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000 và Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. Các chiến lược này có vai trò cốt yếu trong khuôn khổ chung của Chính phủ nhằm thực hiện và duy trì bình đẳng giới.

Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000 được xây dựng với mục tiêu tổng quát: tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng, nâng cao vai trò, vị trí và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội, thực hiện có hiệu quả mục tiêu của Hội nghị thế giới lần 4 về phụ nữ: “Hành động vì Bình đẳng - Phát triển và Hòa bình” và mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh; nâng cao chất lượng cuộc sống cho phụ nữ”.

Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 01 năm 2002 là sự tiếp nối Chiến lược quốc gia một và nhằm thúc đẩy hơn nữa sự tiến bộ của phụ nữ trên mọi lĩnh vực một cách bền vững. Chiến lược bao gồm 5 mục tiêu với các chỉ tiêu riêng cho từng lĩnh vực phải đạt được vào năm 2010 và cũng nêu rõ trách nhiệm phối hợp hoạt động của các Bộ, ngành chủ chốt. Tất cả các mục tiêu này đều góp phần thực hiện mục tiêu lớn là bình đẳng giới một cách bền vững.

Trên cơ sở Chiến lược quốc gia, tháng 3 năm 2002, Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đã xây dựng Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2005 nhằm hướng dẫn, triển khai hoạt động trong 5 năm đầu của Chiến lược đến năm 2010. Kế hoạch được xây dựng dựa trên các mục tiêu của Chiến lược và kiến nghị từ cơ sở cũng như các kết quả của kiểm điểm 5 năm thực hiện Cương lĩnh hành động Bắc Kinh của Liên hợp quốc. Kế hoạch đã đưa ra 5 mục tiêu với các chỉ tiêu và biện pháp thực hiện cho từng mục tiêu.

Thực hiện Chiến lược trong giai đoạn đầu, Việt Nam đã đạt được những thành quả vô cùng quan trọng trong các lĩnh vực lao động, việc làm, giáo dục, y tế và tham chính, cụ thể là: tạo việc làm thường xuyên cho 19 triệu lao động nữ - chiếm 48% lao động trong các thành phần kinh tế; hoàn thành mục tiêu quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ trên toàn quốc; 95,8% phụ nữ khi sinh con được cán bộ y tế chăm sóc. Hơn 10 năm qua, vai trò và địa vị của phụ nữ ở Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt. Việt Nam tiếp tục khẳng định vị trí đứng đầu trong khu vực châu Á về tỷ lệ 23,7% nữ đại biểu Quốc hội (nhiệm kỳ 2002 - 2007), tăng gần 10% so với nhiệm kỳ 1992 - 1997. Đến nay, đã có 90,9% phụ nữ biết đọc và biết viết so với 82,3% năm 1993. Quyền năng kinh tế của phụ nữ đang dần được nâng lên thông qua việc pháp luật quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận về đất đai, nhà ở và tài sản. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia đã hoàn thành Báo cáo lần thứ 5,6 về tình hình thực hiện Công ước CEDAW. Hiện nay Việt Nam đang xây dựng Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ

nữ giai đoạn 2006 - 2010, đồng thời cũng đang khẩn trương xây dựng Luật bình đẳng giới, dự kiến hoàn tất vào năm 2007.

Mặc dù việc thực hiện Chiến lược và Kế hoạch hành động giai đoạn đầu đã đạt được một số thành tích nổi bật như trên, song mục tiêu bình đẳng giới vẫn còn gặp nhiều khó khăn và trở ngại:

-Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn cao. Giờ công thu

nhập thực tế của lao động nữ chỉ bằng 78% so với nam giới.

- Ở các bậc học càng cao, tỷ lệ nữ càng giảm. Số phụ nữ tham gia đào tạo sau đại học và theo học các ngành khoa học, công nghệ cao rất hạn chế. Tỷ lệ phụ nữ mù chữ ở độ tuổi 15 - 35 gấp đôi nam giới, đặc biệt là phụ nữ sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người.

-Tình trạng thể lực kém còn tương đối phổ biến trong lao động nữ. Trách nhiệm

thực hiện dân số - kế hoạch hóa gia đình chủ yếu do chị em đảm nhiệm.

-Tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo nhìn chung còn thấp, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý

nhà nước và ở các cấp chính quyền cơ sở.

- Gánh nặng công việc gia đình làm cho phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn chịu nhiều thiệt thòi về vật chất, tinh thần, thể lực và cũng do đó phụ nữ ít có điều kiện tham gia hoạt động xã hội. Tư tưởng trọng nam khinh nữ còn bộc lộ trong một bộ phận cán bộ và nhân dân. Một số tệ nạn xã hội và tệ ngược đãi trong gia đình đang gây tổn hại nghiêm trọng tới một bộ phận phụ nữ.

Với những thành tựu và hạn chế nêu trên, thời gian tới khi đề ra Chiến lược cần phải được tập trung hơn, cụ thể hơn và phải mang tính khả thi hơn. Trước khi bắt tay vào soạn thảo cần phải xin ý kiến đóng góp của tất cả các Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ ở cấp Bộ, ngành, địa phương. Chiến lược cần phải bám sát tình hình thực tế, có tính thực tiễn, phải quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng ngành, từng cấp. Những vấn đế đó phải thật cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn và dễ hiểu. Muốn vậy, cần phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền, phải tiếp tục xây dựng và thực hiện hệ thống luật pháp, chính sách bình đẳng giới. Thực hiện lồng ghép có hiệu quả nội dung bình đẳng giới vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm. Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm học tập, chia sẻ kinh nghiệm về bình đẳng giới. Việc nâng cao năng lực thu thập, xử lý, cung cấp thông tin và phát triển phong trào phụ nữ cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được thông qua sự hỗ trợ kinh phí của các cấp chính quyền. Nếu thực hiện tốt những yêu cầu trên nhất định việc thực hiện Chiến lược trong những năm tới sẽ thu được

những kết quả tốt đẹp, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung, sự tiến bộ của phụ nữ nói riêng.

3.1.3. Phụ nữ cần phải chủ động, tích cực, vượt qua những mặc cảm, tự ti của

bản thân, nỗ lực phấn đấu vươn lên tự giải phóng mình Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội, nhưng trước hết phải là sự nghiệp của chính bản thân giới nữ. Mỗi chị em cần phải chủ động, tích cực không ngừng phấn đấu vươn lên để tự giải phóng mình. Muốn làm được việc đó, phụ nữ cần phải thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:

Phụ nữ phải giải phóng mình khỏi những thiên kiến cũ để nhận thức đúng vị

trí, vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội Trong xã hội cũ, do bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến khắt khe, do ảnh hưởng nặng nề của học thuyết Nho giáo “tam tòng, tứ đức” do trình độ học vấn còn thấp kém, do bị buộc chặt vào công việc nội trợ, bếp núc nên hầu như phụ nữ bị tước hết chức năng xã hội, bị loại khỏi công việc quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Vì vậy muốn giải phóng khỏi những thiên kiến cũ, tư tưởng cổ hủ, lạc hậu “trọng nam khinh nữ”, muốn khẳng định vai trò, vị trí cũng như khả năng tham gia lãnh đạo, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đòi hỏi phụ nữ phải phấn đấu vươn lên, phải tự khẳng định bằng chính năng lực thực tiễn của mình. Như thế vẫn chưa đủ, mà điều quan trọng là phụ nữ phải được sự quan tâm, giúp đỡ của các ngành, các cấp mà trực tiếp nhất là Hội Liên hiệp phụ nữ. Thông qua các phong trào phụ nữ, các tổ chức Hội cần phát hiện kịp thời và giới thiệu những phụ nữ có đủ phẩm chất về năng lực, đạo đức, có ý thức về giới… tham gia vào các cơ quan và bộ máy chính quyền từ cấp xã đến trung ương. Việc đưa phụ nữ vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và bộ máy Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Để tiến hành công cuộc giải phóng chính bản thân mình, trước hết phụ nữ phải tự giải phóng khỏi những lễ giáo phong kiến cũ kỹ, lạc hậu, những phong tục, tập quán cổ hủ trong vấn đề hôn nhân và gia đình. Cần chống lại quan điểm “trọng nam khinh nữ”, trọng con trai, xem thường con gái, giành cho con trai sự ưu tiên đặc biệt cả trong học hành, lẫn trong hưởng thụ và trong kế thừa tài sản… Phụ nữ cần phải mạnh dạn, tự tin, quyết đoán trong công việc, phải có tác phong năng động, nhanh nhẹn, tháo vát trong cuộc sống hằng ngày. Phụ nữ cần khắc phục lối làm việc lề mề, chậm chạp, gặp đâu hay đó… Muốn làm được những việc trên phụ nữ cần có tinh thần học tập, kiên trì khắc phục trở ngại để nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ của mình. Đây cũng là nhiệm vụ tiếp theo mà phụ nữ cần phải làm trong công cuộc giải phóng chính bản thân mình. Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, giai đoạn mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, để đáp

ứng nhu cầu có việc làm và việc làm có thu nhập cao, đòi hỏi phụ nữ phải có trình độ học vấn, có tri thức khoa học kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ. Trong cuộc sống gia đình và trong quan hệ xã hội, đức tính dịu hiền, vị tha, độ lượng của phụ nữ là rất quan trọng, song chưa đủ, xã hội càng phát triển, càng không ít những mối quan hệ mới đòi hỏi chị em phải có trình độ học vấn và lối sống phong phú mới xử lý, giải quyết vấn đề có tình, có lý. Đồng thời cũng phải trên nền học vấn nhất định, phụ nữ mới có thể chủ động, có kế hoạch trong tổ chức, xây dựng gia đình “ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”, thực hiện bình đẳng thực sự giữa vợ và chồng trong luật định và cả trong thực tế. Hơn nữa để làm tốt vai trò người vợ, người mẹ trong gia đình cũng đòi hỏi phụ nữ phải có một nền học vấn và một trình độ nhận thức nhất định. Phụ nữ có tiến bộ, có hiểu biết mới hoàn thành xuất sắc chức năng người thầy đầu tiên trong việc giáo dục các thế hệ tương lai. Rõ ràng sự tiến bộ của phụ nữ không phải vì quyền lợi riêng của phụ nữ mà còn vì sự tiến bộ chung gia đình và xã hội tương lai. Vì vậy phụ nữ cần phấn đấu vươn lên học hỏi để không ngừng tiến bộ, để ngày càng phát triển hơn. Ngoài ra phụ nữ cũng cần nâng cao sự hiểu biết về hôn nhân, về đời sống gia đình, về giới và giới tính, về tâm sinh lý, sở thích của các thành viên trong gia đình để ứng xử phù hợp, chân thành, tế nhị, tạo bầu không khí tinh thần ổn định, đầm ấm, bình yên, duy trì, củng cố tình yêu và hạnh phúc gia đình. Như vậy: để thực hiện tốt chức năng người vợ, người mẹ, người công dân tốt trong gia đình và ngoài xã hội đòi hỏi phụ nữ phải không ngừng học tập, kiên trì khắc phục trở ngại, nâng cao trình độ kiến thức của mình một cách đa dạng và phong phú. Cần chú ý nắm bắt thông tin xã hội thông qua giao tiếp bạn bè, qua sách báo, phương tiện thông tin đại chúng, cần có sự nhạy bén với cái mới, cái tiến bộ đi đôi với đầu óc thực tế, không chỉ cảm tính trước mắt hay giáo điều sách vở… đây là vấn đề rất khó với phụ nữ vì họ thường bị ngập chìm trong những công việc gia đình, con cái nên thời gian học tập rất ít ỏi, cơ hội học tập rất hiếm hoi. Vì vậy họ rất cần sự hỗ trợ của gia đình, sự quan tâm của Nhà nước và sự cổ vũ, ủng hộ của cộng đồng xã hội. Tuy nhiên yếu tố quyết định nhất vẫn là tự chính bản thân mỗi phụ nữ. Chúng ta tin rằng với sức mạnh, sự nỗ lực và trí thông minh vốn có của phụ nữ, cộng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp tích cực của các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội... chắc chắn sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở nước ta sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp và phụ nữ Việt Nam sẽ trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình thực hiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phụ nữ cần phải kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, cần tích cực chủ động tham gia xây dựng gia đình mới và các hoạt động xã hội khác

Phụ nữ Việt Nam đã từng có cống hiến to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Họ đã từng khẳng định trước lịch sử, trước dân tộc khả năng to lớn và lòng dũng cảm của mình, Bà Trưng, Bà Triệu đã mở đầu cho trang sử vàng đánh giặc cứu nước của dân tộc. Không chỉ giỏi trong đánh giặc cứu nước, tham gia công việc xã hội mà trong gánh vác việc nhà họ còn là những người rất mực đảm đang. Cần cù, chăm chỉ, chịu khó, yêu chồng, thương con, hiếu thảo với cha mẹ, có tấm lòng vị tha, nhân hậu, đó là những đức tính tốt đẹp, những phẩm chất rất đáng trân trọng của phụ nữ Việt Nam cần được giữ gìn và phát huy. Tuy nhiên trong thời kỳ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước ta đã xuất hiện những yếu tố ngoại lai về hôn nhân và gia đình. Ngày nay, trong việc mở cửa giao lưu văn hóa với các nước cũng xuất hiện không ít những loại văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại. Vì vậy trong quá trình tiếp nhận cần phải có sự chọn lọc kỹ càng, giảm thiểu tối đa tàn dư độc hại, những tàn dư làm ảnh hưởng đến giá trị truyền thống của dân tộc. Phụ nữ Việt Nam cần phải nhận thức rõ điều đó, phải tích cực chủ động hơn trong việc chăm lo đời sống gia đình đặc biệt là những vấn đề xây dựng gia đình văn hoá mới. Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức nhưng cũng là cơ hội cho những tài năng nảy sinh và phát triển. Không chỉ trong phạm vi gia đình, phụ nữ cũng cần phải tham gia các hoạt động xã hội khác vì qua đó phụ nữ mới có điều kiện mở mang tri thức, nâng cao tầm hiểu biết và ngày càng hoàn thiện chính bản thân mình. Trên đây là những điều kiện cơ bản để tiến hành công cuộc giải phóng phụ nữ nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tuy nhiên công cuộc giải phóng chỉ có thể hoàn thành nhanh hay chậm tùy thuộc vào việc chúng ta xây dựng được một hệ thống giải pháp có phù hợp và khả thi không.

3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ, TIẾN TỚI

BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức Thế kỷ XXI là thế kỷ có nhiều thay đổi, trong đó vị trí của phụ nữ sẽ được nâng cao, sự bình đẳng giới được xác định trên các mặt trong đời sống xã hội. Để khẳng định được vị trí của mình, phụ nữ cần phải cố gắng rất nhiều, phải nỗ lực vươn lên cả trong nhận thức và hành động.

Cho đến ngày nay, các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định rằng một trong những nguyên nhân chủ yếu, bản chất cản trở việc thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ vẫn là nguyên nhân nhận thức. Định kiến giới vẫn còn tồn tại dai dẳng trong nhận thức chung của xã hội. Nhận thức về bình đẳng giới trong các cấp ủy đảng, chính quyền ở nhiều nơi còn giản đơn, phiến diện, chưa đầy đủ, thiếu quan tâm, phân tích giới trong việc xây dựng chính

sách, kế họach phát triển. Tư tưởng phong kiến, hẹp hòi, thiếu tin tưởng, chưa đánh giá đúng năng lực cán bộ nữ còn tồn tại khá phổ biến; yêu cầu, tiêu chuẩn đối với cán bộ nữ còn khắt khe hơn đối với cán bộ nam, chưa mạnh dạn giao việc cho cán bộ nữ đúng lúc, đúng tầm… Tất cả những định kiến giới nói trên đã trở thành lực cản của việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

Chúng ta biết rằng, việc làm chuyển biến nhận thức, hành vi, thái độ ứng xử với phụ nữ trong toàn xã hội là cực kỳ khó khăn vì trọng nam khinh nữ là thói quen được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhiều người, ngay cả đối với phụ nữ hầu như đã chấp nhận một trật tự bất bình đẳng giới từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm thay đổi nhận thức và thái độ của xã hội về quan hệ giới, phải chỉ ra cho mọi người thấy được nguồn gốc của định kiến giới và của bất bình đẳng giới vì thay đổi nhận thức sẽ dẫn đến thay đổi thái độ và hành vi. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt là phải đẩy mạnh việc bồi dưỡng, nâng cao nhận thức giới cho tất cả mọi người, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ hoạch định chính sách các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở. Muốn thực hiện được điều đó cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, làm thay đổi nhận thức ở mỗi người, đặc biệt phải làm sao cho nhận thức đó chuyển hóa thành các hành vi, thái độ ứng xử bình đẳng với phụ nữ.

Đối tượng được tuyên truyền là tất cả mọi người nam cũng như nữ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt của Đảng, Chính quyền, Đoàn thể ở các địa phương và nhất là những đối tượng cá biệt, những người có hành vi coi thường, ngược đãi phụ nữ. Mỗi phụ nữ cần phải thấy rằng, vị thế thấp kém của họ so với nam giới không phải là “điều tự nhiên” mà là kết quả sự phân biệt đối xử với phụ nữ theo một hệ thống, song hiện nay nó được xem là cái cớ để duy trì sự bất bình đẳng. Điều này chỉ được xóa bỏ bằng chính năng lực của phụ nữ mà thôi.

Để thay đổi nhận thức đó mỗi phụ nữ phải đấu tranh chống lại những phong tục tập quán lạc hậu, áp bức coi thường, trói buộc bản thân mình. Họ phải chiến thắng chính mình bằng sự tự tin và phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Chịu thương, chịu khó, biết hy sinh, vì chồng con, có lòng vị tha…, đó là những đức tính tốt của phụ nữ, song không thể biến nó thành thứ hào quang phủ lên cuộc đời của mình để từ đó chỉ là chiếc bóng mờ của người khác, mất đi tính độc lập, tự chủ, sáng tạo. Tất cả những điều đó khi nhận thức sai chỉ làm cho phụ nữ càng kém cỏi, lệ thuộc. Phụ nữ Việt Nam chỉ có thể được giải phóng hoàn toàn, được phát huy vai trò của mình trong gia đình và cả trong xã hội khi đất nước tiến vững chắc trên con đường đổi mới, xây dựng nền kinh tế phát triển ổn định, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn xã hội. Với những điều kiện trên phụ nữ Việt Nam mới có đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh để thực hiện vai trò của mình một cách xuất sắc nhất.

Nội dung tuyên truyền: Cần tập trung vào việc nâng cao kiến thức về bình đẳng giới, phân tích để mọi người thấy bất bình đẳng giới đang còn tồn tại dai dẳng với nhiều biểu hiện đa dạng, nó để lại hậu quả tiêu cực cho sự phát triển của phụ nữ, của gia đình và của xã hội. Cán bộ tuyên truyền cần chỉ rõ nguyên nhân của tình trạng trên là từ đâu? Mỗi người cần làm gì để có thể xoá bỏ nó một cách triệt để và khi đã xóa bỏ được thì sẽ đem lại lợi ích gì cho gia đình và xã hội? Trong những năm sắp tới nội dung tuyên truyền cần phải được đẩy mạnh hơn nữa nhằm làm cho toàn xã hội, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp nhận thức ngày một đúng đắn và sâu sắc về lợi ích của việc xóa bỏ bất bình đẳng giới. Có như vậy mới có sự đầu tư đúng mức cho việc phát triển toàn diện của phụ nữ. Cần xác định tuyên truyền là để tất cả mọi người thấy được ý nghĩa nhân văn của việc giải phóng phụ nữ. Giải phóng là nhằm mang lại công bằng, bình đẳng cho phụ nữ, đó cũng là bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà tất cả các chế độ xã hội trước không thể có. Cần phải thấy được hiệu quả của việc giải phóng phụ nữ để từ đó tuyên truyền cho mọi người, trước hết cho bản thân mỗi phụ nữ nhận rõ một điều: phụ nữ được giải phóng, được phát triển thì họ sẽ có văn hóa, có kiến thức, đảm bảo cho mình cơ hội hòa nhập và tham gia các lĩnh vực của đời sống xã hội một cách tự tin và bình đẳng. Khi có được vốn kiến thức, phụ nữ sẽ nhanh chóng tìm được việc làm, nâng cao thu nhập, trẻ em sẽ được đi học và chăm sóc tốt hơn vì có rất nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em chịu nhiều thiệt thòi trực tiếp từ việc mẹ chúng mù chữ. Không có kiến thức phụ nữ sẽ không thể chăm sóc con cái tốt, thực tế cho thấy những bà mẹ có trình độ giáo dục cao hơn thường có những kiến thức tốt hơn trong việc sinh con, nuôi con và dạy con. Nếu trẻ em được đi học và chăm sóc tốt, phụ nữ sẽ có thêm nhiều thời gian và cơ hội tiếp cận các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Như vậy, nếu có được việc làm, có thu nhập, có các thị trường lao động năng động thì lao động làm thuê sẽ thay thế cho lao động phụ nữ trong những công việc đồng áng, công việc nội trợ hàng ngày, phụ nữ sẽ có nhiều thời gian tham gia phát triển kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập cho bản thân và cả gia đình. Việc làm này sẽ giảm bớt gánh nặng rất nhiều cho nam giới trong việc kiếm tiền nuôi sống gia đình. Trên cơ sở đó vợ chồng cũng sẽ có sự cảm thông sâu sắc và trách nhiệm với nhau, với gia đình và cả con cái, đảm bảo cuộc sống yên vui, hạnh phúc. Mặt khác, gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có phát triển thì xã hội mới tiến bộ, vì vậy nếu phát huy tốt vai trò của phụ nữ trong gia đình cũng có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển xã hội. Bình đẳng trong gia đình nếu được củng cố và phát triển sẽ dẫn tới việc cải thiện đời sống, nâng cao năng suất lao động, góp phần làm cho xã hội ngày càng phát triển.

Nếu thực hiện tốt những nội dung tuyên truyền như đã nêu trên thì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới ở nước ta trong những năm tới chắn chắn sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp.

Hình thức tuyên truyền: Trước hết phát huy tác dụng tuyên truyền qua đài truyền hình, đài phát thanh trung ương, hệ thống loa đài ở cơ sở, các loại sách báo, tạp chí về gia đình và phụ nữ. Cần nêu gương điển hình tiên tiến là cán bộ nữ các ngành, các cấp, gương phụ nữ tài năng thời kỳ đổi mới để khẳng định vai trò của phụ nữ, cán bộ nữ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, có thể mở các lớp tập huấn nâng cao nhận thức về giới kết hợp với các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa... tuỳ theo nhu cầu của từng địa phương, có thể đưa nội dung tuyên truyền về bình đẳng giới vào các câu lạc bộ gia đình do địa phương tổ chức. Đặc biệt phải chú ý lồng ghép các kiến thức giới vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội, vào chương trình đào tạo ở tất cả các bậc học, vào hoạch định và thực hiện chính sách. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản được nêu ra trong kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2001- 2010: "Thực hiện lồng ghép yếu tố giới vào toàn bộ hệ thống luật pháp nhà nước, vào các khâu hoạch định và thực hiện chính sách phát triển và các chương trình, dự án, kế hoạch công tác ở mọi ngành, mọi cấp" [59, tr.5].

Giai đoạn hiện nay cần tiếp tục đưa vấn đề giới vào nội dung chương trình giảng dạy trong các Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các Trường Chính trị tỉnh, mở các lớp tập huấn, hội thảo, hội nghị. Cần phấn đấu đến năm 2007, 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ hoạch định chính sách của các Bộ, ban, ngành và đoàn thể từ trung ương tới cơ sở được bồi dưỡng kiến thức về giới.

Như vậy, công tác tuyên truyền vận động vì bình đẳng giới là rất quan trọng, đây chính là một phần của quá trình lồng ghép giới. Những người có vai trò chính trong hoạt động lồng ghép giới cần phải có các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng trình bày, khả năng ứng phó... Đồng thời những người tham gia vào tuyên truyền, vận động giới cần phải được trang bị một số cơ sở lý luận, thực tiễn về bình đẳng giới để thuyết phục đối tượng được tuyên truyền, vận động như lý lẽ về công bằng và hiệu quả, về phát triển bền vững và chất lượng cuộc sống. Người đi tuyên truyền vận động cần phải nắm được một số công cụ thuyết phục như Công ước CEDAW, Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010, các Nghị quyết, Chỉ thị về công tác cán bộ nữ... Những luận cứ này góp phần quan trọng vào thành công của quá trình tuyên truyền vận động vì bình đẳng giới.

3.2.2. Nhóm giải pháp kinh tế “Lĩnh vực kinh tế” là một mặt của đời sống xã hội nói chung. Nó là thành phần rất quan trọng trong đời sống mỗi người. Vì vậy nếu bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế được thực hiện thì sẽ tạo ra điều kiện bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác. Nhận thức

được vị trí của vấn đề đó, Đảng ta chủ trương: phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc đổi mới đất nước. Điều 63 của Hiến pháp năm 1992 quy định “công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình”. Trước hết cần phải thấy được tầm quan trọng của việc bất bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế để đưa ra những giải pháp mang tính khả thi. Phải làm rõ hậu quả, tác hại của bất bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, đây là một dạng của bất bình đẳng giới nói chung nhưng đồng thời là nguyên nhân chính gây ra và duy trì những bất bình đẳng giới khác nhau. Việt Nam đang phấn đấu cho mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì bất bình đẳng giới nói chung sẽ đi ngược lại và cản trở không nhỏ đến mọi giá trị của mục tiêu chung của đất nước. Nói đến kinh tế không thể không nói đến việc làm vì đó là một trong những lĩnh vực cơ bản của phát triển kinh tế. Trong những năm qua nước ta đã có những giải pháp thực hiện Chương trình quốc gia về việc làm giai đoạn 2001 - 2005. Trong đó, đã đưa ra các mục tiêu, phương hướng cơ bản để thực hiện và phấn đấu mỗi năm giải quyết từ 1,4 đến 1,5 triệu lao động mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 6% và nâng tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn lên 80%. Đến nay nhìn lại mục tiêu này thì thị trường lao động nước ta đều đã đạt và vượt. Vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục thực hiện chương trình này và cần nắm vững những phương hướng cơ bản để đưa ra những giải pháp có tính khả thi hơn. Khi phát triển kinh tế, mở rộng cơ hội việc làm thì cũng làm tăng tỉ suất lợi tức đầu tư vào vốn con người, tăng cường khuyến khích các gia đình đầu tư vào chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và giáo dục cho con cái để tham gia vào lực lượng lao động của đất nước. Phát triển kinh tế, tạo việc làm sẽ tăng thu nhập và giảm đói nghèo thì bất bình đẳng giới cũng sẽ thu hẹp vì hầu hết các gia đình có thu nhập thấp đều buộc lòng phải thắt chặt chi tiêu cho giáo dục, y tế và bồi dưỡng thì phụ nữ và bé gái thường phải chịu thiệt phần lớn, và khi thu nhập của hộ gia đình tăng lên thì sự phân biệt giới trong gia đình thường giảm. Phát triển kinh tế cũng sẽ làm xuất hiện những thị trường lao động mà trước đây chưa hề có. Khi đó, nó không chỉ tạo ra hoặc củng cố những tín hiệu thị trường về hiệu suất của lao động mà còn loại bỏ một số khả năng phi hiệu quả kinh tế. Chẳng hạn, các dịch vụ nhận giúp việc gia đình, dịch vụ chăm sóc trẻ em, hoặc các cửa hàng chế biến thực phẩm sẳn… tất cả đều có thể giảm bớt thời gian mà phụ nữ phải dành cho việc chăm sóc nhà cửa và con cái. Điều này giúp ích rất nhiều cho phụ nữ, chị em sẽ có nhiều thời gian đầu tư cho các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống gia đình. Như vậy, nếu kinh tế phát triển thì không chỉ có lợi cho riêng phụ nữ mà

còn cho cả gia đình và xã hội. Chính vì thế, để thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới cần phải hết sức chú ý đến nhóm giải pháp này. Tuy nhiên, nước ta là một nước nông nghiệp, lúc sinh thời Bác đã từng nhấn mạnh: "Nông nghiệp là quan trọng nhất". Vì vậy, Đảng ta khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay tập trung trước hết cho nông nghiệp, nông thôn. Phát triển nông nghiệp toàn diện và xây dựng nông thôn mới phải gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Với đặc điểm của nông thôn, lực lượng lao động dồi dào nhưng chủ yếu là lao động thủ công nên cần phải kết hợp công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, sử dụng công nghệ mới gắn với yêu cầu tạo việc làm. Việc này vừa tạo điều kiện cho người lao động, đặc biệt là lao động nữ, vừa cải thiện điều kiện làm việc, tăng thu nhập. Mặt khác có thể đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động trong nông thôn, đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, từng bước rút dần lao động nông nghiệp sang phát triển ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong khu vực nông nghiệp nông thôn... Tất cả những việc đó đều có thể tăng cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng nguồn lao động nữ, từ đó đem lại lợi ích kinh tế ngày càng cao hơn. Sự nghiệp đổi mới trong nông nghiệp, nông thôn đã chứng minh tiềm năng to lớn của phụ nữ nhưng cũng cho thấy họ còn bị hạn chế các điều kiện để nâng cao năng lực tự quyết. Thực tế cho thấy số phụ nữ đứng tên chủ hộ là rất ít. Mặc dù luật đất đai ở Việt Nam không phân biệt nam nữ nhưng đa số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai trong gia đình lại ghi tên người chồng, vì thế phần lớn các ông chồng có quyền quyết định đối với việc sử dụng đất đai. Chính vì phụ nữ không được tiếp cận, kiểm soát đất đai nên cản trở đến việc phụ nữ vay vốn. Nếu không có vốn phụ nữ sẽ không thể làm kinh tế dẫn đến bất bình đẳng trong gia đình và cả trong xã hội. Vì vậy, trước hết cần tăng tỷ lệ phụ nữ đứng tên chủ hộ, đây là việc đầu tiên khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ trong gia đình. Việc phụ nữ đứng tên chủ hộ sẽ giúp họ năng động, tháo vát hơn trong công việc, có khả năng quyết đoán, tiếp cận và kiểm soát nguồn lực sản xuất. Khi tạo điều kiện cho phụ nữ trong việc vay vốn, Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi đối với phụ nữ trong lĩnh vực này, cần khai thác mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đáp ứng yêu cầu vay của phụ nữ. Thời gian hoàn trả vốn cần được gia tăng để họ có điều kiện yên tâm đầu tư vào sản xuất, mặt khác chị em cũng rất cần có sự ưu đãi về lãi suất để có điều kiện mở mang quy mô sản xuất và có khả năng trả lãi. Ở cơ sở, cần nhân rộng hơn nữa nhóm phụ nữ tiết kiệm để phụ nữ cùng giúp nhau phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho chính bản thân và cho cả gia đình. Phát triển kinh tế - xã hội, tạo mọi điều kiện giải phóng phụ nữ, giải pháp này chỉ có thể thực hiện được khi các chủ thể - các lực lượng Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính

trị, xã hội và chính bản thân người lao động (đặc biệt là phụ nữ) nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện vấn đề này. Hiện nay các cấp ủy đảng, chính quyền và cơ sở có vai trò quan trọng trong công tác bình đẳng giới đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Giải phóng phụ nữ về mặt kinh tế không chỉ đạo thêm cho phụ nữ những cơ hội phát triển tài năng trí tuệ của mình mà còn đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - đây cũng là yếu tố quyết định việc thực hiện tốt hơn đối với công tác bình đẳng giới ở Việt Nam.

3.2.3. Nhóm giải pháp xây dựng chính sách pháp luật có trách nhiệm giới Đảng ta khẳng định, quan điểm giải phóng phụ nữ phải được thể chế hóa và cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngay từ khi mới thành lập nước, cùng với việc ban hành nhiều bản Hiến pháp, pháp luật, Nhà nước ta đã sớm đề cập đến quyền bình đẳng của phụ nữ. Cho đến nay, có thể nói Việt Nam là một trong các quốc gia đi tiên phong trong việc xây dựng, thực hiện pháp luật vì sự tiến bộ của phụ nữ. Chính sách, pháp luật tác động đến tất cả mọi người nhưng không hoàn toàn giống nhau giữa nam và nữ. Chính vì vậy trong việc xây dựng chính sách pháp luật đòi hỏi phải có trách nhiệm giới, đây cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản được nêu ra trong Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2001-2010 “Thực hiện lồng ghép yếu tố giới vào toàn bộ hệ thống pháp luật nhà nước, vào các khâu hoạch định và thực thi chính sách phát triển và các chương trình, dự án, kế hoạch công tác ở mọi ngành, mọi cấp”.

Phụ nữ và nam giới trải nghiệm cuộc sống khác nhau, có các nhu cầu, nguyện vọng và những ưu tiên rất khác nhau, họ cũng chịu sự tác động khác nhau từ cùng một chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc đưa vấn đề giới vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách sẽ đảm bảo cho chính sách nhà nước đáp ứng các nhu cầu khác nhau của phụ nữ và nam giới, đồng thời phân phối lợi ích xã hội một cách bình đẳng.

“Chính sách có trách nhiệm giới” là chu trình chính sách trong đó vấn đề giới được đề cập ngay từ đầu và xuyên suốt qua 10 khâu cơ bản như: xác định vấn đề; thu thập thông tin; xây dựng chính sách; thẩm định chính sách; phê duyệt và ban hành; phân phối nguồn lực; thực hiện chính sách; giám sát; đánh giá; rút kinh nghiệm và điều chỉnh. Từ nay đến năm 2010, để nhóm giải pháp xây dựng chính sách có trách nhiệm giới đạt hiệu quả cao chúng ta cần phải tập trung vào những vấn đề cụ thể sau đây:

Thứ nhất: Cần mở rộng tuyên truyền, phổ biến kiến thức về Giới nhằm từng bước thay đổi thành kiến giới của xã hội, đồng thời giúp họ nhận rõ vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của mình

Giữa nam và nữ, trong lĩnh vực và quan hệ xã hội này quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ có thể như nhau, nhưng trong lĩnh vực và loại quan hệ xã hội khác, quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ có thể khác nhau. Vì vậy khi tuyên truyền, phổ biến chính sách luật pháp cần xác định rõ đối tượng là nam hay nữ? Nội dung phải cụ thể cho từng đối tượng để họ nắm bắt quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan trực tiếp đến mình, trên cơ sở đó họ sẽ thực hiện để bảo vệ quyền và nghĩa vụ chính đáng đó.

Một bộ phận không nhỏ trong xã hội hiện nay còn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng “định kiến giới”, vì vậy cần phải phổ biến kiến thức giới để tạo ra những cách nhìn mới, cách tiếp cận mới về người phụ nữ, vị thế, vai trò của phụ nữ và mối quan hệ nam nữ trong đời sống xã hội. Sở dĩ cần phải tăng cường hơn nữa công tác truyền bá giới ở nước ta là vì có tạo lập được bình đẳng giới trong đời sống xã hội mới có thể tạo điều kiện và cơ hội để người phụ nữ phát huy tiềm năng to lớn của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy nhiên khi phổ biến kiến thức về giới cần tiếp thu những tinh hoa tiến bộ, phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc, tránh những tư tưởng nữ quyền cực đoan ảnh hưởng xấu đến sự tồn tại và phát triển của phụ nữ Việt Nam.

Muốn thực hiện được điều đó đòi hỏi cán bộ tuyên truyền, vận động phải có một kiến thức nhất định về vấn đề giới để có thể lý giải, phân tích giúp mọi người hiểu thêm, tránh tình trạng tuyên truyền chung chung, qua loa, hình thức… Ngày nay, vẫn còn một số cán bộ quan niệm các chính sách đối với phụ nữ là quá nhiều, quá cụ thể... Vì vậy không cần có những chính sách “ưu tiên” đặc biệt hơn nữa, nếu không sẽ dẫn đến “thiệt thòi” cho nam giới. Quan niệm trên là hoàn toàn sai lầm vì điều kiện, hoàn cảnh, cơ hội phụ nữ không giống với nam giới, họ cần phải có sự quan tâm, chia sẻ thì mới phát huy hết khả năng vốn có của mình. Phụ nữ phát triển không chỉ có lợi cho họ mà cả cho gia đình và xã hội. Vì vậy, trong xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật đòi hỏi bắt buộc phải có trách nhiệm giới.

Thứ hai: Khi tổ chức, thực hiện chính sách và luật pháp cũng rất cần có trách nhiệm giới. Cần cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, pháp luật bằng các văn bản dưới luật nhằm giải quyết tốt các nhu cầu đặt ra

Muốn thực hiện được điều này cần tuân thủ nghiêm túc chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó phát hiện những điều bất hợp lý đối với phụ nữ để có kiến nghị, bổ sung, sửa đổi những điều chưa phù hợp. Tránh tình trạng cho rằng luật là đúng, là miễn bàn, cứ thế mà làm…. Cần phân tích giới nhằm phát hiện các nhu cầu giới của phụ nữ nhất là phụ nữ ở nông thôn để có những chính sách “ưu tiên” đặc biệt hơn nếu điều kiện kinh tế, xã hội cho phép. Cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các quy định trong chính sách, luật pháp với phong tục, tập quán địa phương vì một số nơi còn quan niệm “phép vua thua lệ làng”.

Có thể nói ở các địa phương, nhất là ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn duy trì khá nhiều tập quán lạc hậu, trói buộc, kìm hãm người phụ nữ. Các “điều luật” không thành văn này nhiều khi có sức mạnh hơn cả luật pháp, vì vậy, khi triển khai, thực hiện chính sách phải chú ý đến yếu tố này. Tất cả phải được tiến hành một cách đồng bộ, với sự kết hợp chặt chẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và mỗi gia đình. Cần hiểu rằng chúng ta có Công ước quốc tế “Chống phân biệt đối xử với phụ nữ”, có hệ thống chính sách và pháp luật vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, vấn đề là biến các cơ sở pháp lý đó trở thành nếp sống hàng ngày của toàn xã hội.

Có thể nhận thấy chính sách hiện nay của chúng ta không phân biệt đối xử nhưng thường mang tính chất trung tính nên đa số có lợi cho nam hơn nữ vì nam và nữ có nhu cầu khác nhau, có nhiều đặc trưng khác nhau về giới tính và giới. Do vậy, chính sách không phân biệt đối xử nhưng khi thực hiện lại trở thành phân biệt đối xử. Vì thế, chính sách luật pháp có trách nhiệm giới đòi hỏi phải tính đến đặc thù và sự khác biệt của hai giới, nhất là phụ nữ. Hiện nay các quy định bảo hộ thị trường lao động thường là con dao hai lưỡi, vừa gây ra chi phí, vừa mang lại lợi ích cho phụ nữ làm việc trong khu vực chính thức. Thí dụ, khi chi phí nghỉ đẻ hoàn toàn do các doanh nghiệp phải chịu thì doanh nghiệp có thể ngần ngại khi thuê phụ nữ. Nhưng khi những chi phí này do phụ nữ chịu hoàn toàn thì động cơ để phụ nữ tiếp tục làm việc lại giảm đi. Những giải pháp giúp san sẻ chi phí có con (hay các quyết định gia đình khác) giữa người chủ, công nhân thậm chí cả Nhà nước nữa, có thể làm lợi ích tăng hơn so với chi phí đối với phụ nữ và gia đình họ.

Vấn đề bảo trợ xã hội hiện nay cũng đòi hỏi phải tính đến yếu tố giới. Phụ nữ và nam giới thường phải đối phó với những rũi ro liên quan đến vấn đề giới trong các cú sốc kinh tế và những lần cải cách chính sách. Phụ nữ đòi hỏi ít nguồn lực hơn để giảm nhẹ tác động của các cú sốc, trong khi đó nam giới với vai trò là trụ cột gia đình lại tỏ ra đặc biệt dễ bị tổn thương trước những căng thẳng do sự thay đổi của thị trường hay điều kiện làm việc gây ra. Vì vậy để bảo vệ phụ nữ và cả nam giới, đòi hỏi các chương trình bảo trợ xã hội cần tính đến yếu tố có thể gây ra sự thiên vị giới cả về khía cạnh tham gia chương trình lẫn hưởng thụ lợi ích. Thí dụ, các chương trình mạng lưới an sinh (thường có thể là vô tình) gạt người phụ nữ ra ngoài do không tính đến sự khác biệt về giới trong hành vi cung cấp lao động, khả năng tiếp cận thông tin…Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là không nên áp dụng một cách máy móc mọi quy định được đề ra mà cần phải phát hiện những bất hợp lý, những nhược điểm không còn phù hợp hoặc những vấn đề chưa được luật pháp nhìn nhận để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nâng cao chất lượng của chính sách và luật pháp. Đây là một việc làm thường xuyên, liên tục, nó không chỉ đặt ra đối với người làm

luật mà yêu cầu còn đối với tất cả chúng ta - những người đang vận dụng nó trong cuộc sống. Nếu ai cũng nhận thức được điều đó là cần thiết và tất yếu thì chắc chắn công cuộc giải phóng phụ nữ ở nước ta sẽ sớm được hoàn thành thắng lợi.

3.2.4. Nhóm giải pháp về tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng, Chính quyền, Đoàn thể đặc biệt là Hội Liên hiệp phụ nữ và Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ

Vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ không phải là việc riêng của phụ nữ, cũng không phải là sự “ban phát” của xã hội đối với phái yếu mà tất cả vì lợi ích chung, vì sự phát triển của con người và xã hội loài người. Bởi vậy sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách nhiệm của toàn Đảng, của Nhà nước, các đoàn thể và các tổ chức xã hội khác. Các cấp ủy đảng phải thường xuyên quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện cho cấp Hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhà nước cần phải xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh pháp luật và những chính sách liên quan đến phụ nữ. Các đoàn thể có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia tích cực vào phong trào cách mạng, các hoạt động xã hội chăm lo đời sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ. Trong những năm qua các cấp, các ngành đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Tuy nhiên kết quả vẫn chưa được như mong muốn, điều này đã được Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới” nhận định:

Giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ là trách nhiệm của toàn xã hội, song trách nhiệm trước hết thuộc về các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân. Trong thực tế, có lúc, có nơi còn thỏa mãn về thành tựu giải phóng phụ nữ trên lĩnh vực chính trị, chưa nhận thức đầy đủ yêu cầu, nội dung giải phóng phụ nữ về kinh tế - xã hội, đặc biệt trong phạm vi gia đình. Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước đang mở ra những khả năng to lớn cho việc đổi mới tư duy, đưa quan điểm giới vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên cho đến nay quan điểm này mới chỉ dừng lại ở văn bản, các cuộc diễn đàn, tập huấn, việc vận dụng nó trong thực tế chưa đồng bộ, thậm chí còn có những mơ hồ sai lệch.

Sở dĩ còn tình trạng trên là do nhận thức của cán bộ chủ chốt ở một số địa phương còn hạn chế. Họ cho rằng vấn đề phụ nữ đã nằm trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung nên việc tập trung vào nhiều lĩnh vực thuộc chuyên môn nghiệp vụ là không cần thiết, đã có nhiều chương trình, dự án dành riêng cho phụ nữ mà nam giới lại không có, như vậy là phụ nữ đã được “ưu tiên” lắm rồi. Cần phải hiểu rằng Chương trình phát triển kinh tế - xã hội trực tiếp tác động đến con người, nhưng sự tác động lại không

giống nhau giữa nam và nữ. Mặt khác, yếu tố giới luôn tiềm ẩn trên mọi lĩnh vực hoạt động của cuộc sống nên cần phải phát hiện và có biện pháp thích hợp tác động giải quyết vấn đề giới. Các ưu tiên đối với phụ nữ không chỉ tạo điều kiện cho họ được bình đẳng mà còn đem lại hiệu quả cao nhất cho chương trình phát triển.

Muốn biến quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới thành hiện thực thì trước hết và quan trọng nhất phải thông qua vai trò của các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể. Các tổ chức này cần mở rộng các lớp tập huấn nâng cao kiến thức về giới cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Mỗi cán bộ, cơ quan, ban ngành cần có sự nhạy cảm về giới, quan tâm đúng mức và có kỹ năng lồng ghép giới vào hoạch định, triển khai chương trình phát triển kinh tế - xã hội đối với lĩnh vực mình phụ trách, cụ thể: Các cấp ủy đảng: cần phải có biện pháp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao hơn nữa sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm vì bình đẳng giới. Phải có quan điểm đúng đắn về công tác giới trong việc hoạch định các chính sách và hoạch định mục tiêu kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cấp ủy đảng cũng phải thường xuyên chỉ đạo hoạt động của các cấp Hội phụ nữ, tạo điều kiện để Hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

Các cấp chính quyền: cần xây dựng chương trình nghiên cứu và ban hành kịp thời pháp luật, chính sách có liên quan đến phụ nữ. Đối với các ngành đông nư, Nhà nước cần quan tâm đến đời sống, việc làm, nâng cao tay nghề, tăng thu nhập, bảo vệ sức khỏe và đảm bảo chế độ chính sách đối với lao động nữ. Bên cạnh đó các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội phối hợp với Hội phụ nữ tổ chức bồi dưỡng, tuyên truyền, động viên các tầng lớp phụ nữ thực hiện các phong trào hoạt động cách mạng, chăm lo đời sống, giải quyết và bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ.

Phải xác định rằng công cuộc giải phóng phụ nữ chỉ có thể triển khai tốt, đạt hiệu quả cao khi các cấp, các ngành và toàn thể xã hội quán triệt tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ và Ủy ban vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, được thành lập ngày 20 tháng 10 năm 1930. Hội có gần 12 triệu hội viên tham gia sinh hoạt tại 12.000 chi hội phụ nữ cơ sở. Mục đích của Hội là chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ được bình đẳng, được phát triển. Chức năng của Hội là vận động các tầng lớp phụ nữ thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước đề ra, trực tiếp tham gia vào việc dự thảo luật pháp, chính sách có liên quan đến phụ nữ. Hội còn giúp đỡ hội viên nâng cao trình độ mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, giúp phụ nữ nâng cao nhận thức đầy đủ về chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia tích cực vào các chương trình

phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời gian qua Hội đã có những việc làm thiết thực như giúp vốn và hướng dẫn phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, dạy nghề và giới thiệu việc làm cho phụ nữ để tăng thu nhập cải thiện đời sống.

Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, tổ chức quản lý xã hội phải theo cơ chế mới nên công tác vận hành chưa được suông sẻ, mục tiêu phấn đấu còn cự li khá xa. Vì vậy, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội cần đổi mới theo phương hướng: đa dạng hóa về hình thức tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của Hội phải theo lứa tuổi, ngành nghề sở thích, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, bảo đảm lợi ích thiết thực cho hội viên. Để nâng cao chất lượng hoạt động, Hội cần củng cố, kiện toàn các cấp Hội, không ngừng tuyên truyền, vận động phụ nữ có ý thức trách nhiệm tham gia học tập bằng nhiều hình thức nhằm nâng cao trình độ văn hóa, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của sự nhiệp đổi mới, tất cả vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bên cạnh đó cần phải phát huy vai trò của Ủy ban vì sự tiến bộ của phụ nữ, đặc biệt là ở cơ sở.

Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 72/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25 tháng 2 năm 1993 và được tiếp tục kiện toàn theo Quyết định số 92/TTg ngày 11/6/2001. Ủy ban có nhiệm vụ tham mưu trong việc xây dựng và kiểm tra thực hiện chiến lược, đồng thời phối hợp với các cơ quan ban ngành trong việc xây dựng pháp luật, chính sách nhà nước có liên quan đến sự bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Để thực hiện tốt vai trò của mình đối với công tác bình đẳng giới Ủy ban vì sự tiến bộ của phụ nữ cần xây dựng chương trình hành động với các mục tiêu cụ thể về bình đẳng giới mang tính định lượng, có tính khả thi, có thời gian hoàn thành cụ thể (tránh chung chung, quá nhiều mục tiêu).

Trước hết cần phải thực hiện một cách nghiêm túc Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ và Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. Đây là chiến lược có vai trò đặc biệt quan trọng trong khuôn khổ chính sách của Chính phủ nhằm đạt được và duy trì mục tiêu bình đẳng giới. Mục tiêu tổng quát của chiến lược là: Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ, tạo mọi điều kiện cần thiết để thực hiện các quyền cơ bản của phụ nữ, để họ tham gia và hưởng lợi đầy đủ và bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ bao gồm 5 mục tiêu chính với các chỉ

tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực đến năm 2010 như sau:

Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động và việc làm. Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục. Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để tăng số phụ nữ được giới thiệu và bầu tham gia lãnh đạo các cấp, các ngành.

Tăng cường năng lực hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Tất cả các mục tiêu trên đều nhằm đạt được mục đích lớn hơn là bình đẳng giới

bền vững.

Ủy ban vì sự tiến bộ của phụ nữ cần thực hiện sự phối hợp hành động giữa các tổ chức, các ban ngành… để tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện các chương

trình liên quan đến phụ nữ. Phải tăng cường mở các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức

giới và các hoạt động phát triển giới cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt (kể cả nam giới).

Tóm lại: Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, các cấp, các ngành phải coi đây là

công việc thường xuyên, liên tục, không giao khoán trách nhiệm cho riêng một tổ chức

nào. Tất cả đều phải gánh vác trách nhiệm chung, cùng phối hợp hành động. Có như vậy công cuộc giải phóng phụ nữ mới hoàn thành thắng lợi như lời dạy của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Toàn xã hội chăm lo cho phụ nữ, chắc chắn sức sáng tạo của hàng

chục triệu phụ nữ lao động và tấm lòng nhân hậu của hàng triệu bà mẹ sẽ càng đóng góp

cho xã hội được nhiều hơn.” [10, tr.191].

3.2.5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, nhờ có đường lối đúng đắn và

sáng tạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khéo léo động viên và lôi cuốn đông đảo phụ nữ tham gia, do đó cách mạng đã thành công rực rỡ. Trong hòa bình, xây dựng đất nước nhất

là công cuộc đổi mới hiện nay vị trí, vai trò phụ nữ ngày càng được phát huy. Tuy vậy,

vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Vì thế hiện nay yêu cầu tiếp tục đẩy

mạnh công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ đang là đòi hỏi bức xúc.

Công tác nghiên cứu về phụ nữ đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, đặc

biệt là ở Thụy Điển. Người ta nghiên cứu về phụ nữ với ý nghĩa đòi quyền bình đẳng cho

phụ nữ, đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng tạo nên sự bình đẳng giới cao ở Thụy Điển nói riêng và ở Bắc Âu nói chung, và đó cũng là cơ sở để có được một tỷ

lệ phụ nữ tham chính cao nhất trên thế giới. Các tác giả nghiên cứu phụ nữ đã thẳng thắn tuyên bố mục đích của mình:

Bởi vì thực sự cái mà chúng ta muốn có không khác gì hơn là một cuộc cách mạng về tri thức: chúng ta thách thức nền văn hóa thống soái ngay từ cội nguồn của nó... như Elizabeth Minich đã diễn đạt… Những gì chúng ta đang làm có thể so sánh với việc Copernicus phá vỡ quan niệm trái đất là trung tâm của vũ trụ, với việc Darwin phá vỡ quan niệm cũ về loài. Chúng ta đang phá vỡ quan niệm phụ quyền, và sự thay đổi này cũng cơ bản, cũng nguy hiểm và sôi sục không kém [48, tr.17].

Ở nước ta, công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ, về quyền bình đẳng giữa nam và nữ đã được một số tác giả cận đại và hiện đại đề cập tới, chủ yếu dưới góc độ văn hóa, nghệ thuật, thi ca và sử học. Từ năm 1945 Hiến pháp nước Việt Nam đã ban hành quyền bình đẳng nam nữ. Từ đó đến nay có rất nhiều bài báo, nhiều tác giả tiếp tục nghiên cứu vấn đề này. Đặc biệt vào tháng 5 năm 1987 Ủy ban khoa học xã hội đã ra quyết định thành lập Trung tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ, đây là cơ quan chuyên trách việc nghiên cứu về người phụ nữ. Cơ quan này có trách nhiệm tập hợp lực lượng các ngành có liên quan và phối hợp cùng nghiên cứu một số chương trình, đề tài liên quan đến vấn đề phụ nữ, cũng từ đây công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ ngày càng trở nên phổ biến. Có thể nói đây là công tác nghiên cứu dựa trên sự khảo sát, quan sát thực trạng đời sống của phụ nữ cùng với các quan hệ xã hội có liên quan, trong lao động, việc làm, sinh hoạt gia đình và hoạt động xã hội, hưởng thụ văn hóa và vật chất, địa vị và quyền lực... từ đó cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn cho công tác vận động phụ nữ, đề xuất những phương hướng hành động và giải pháp nhằm thực hiện sự bình đẳng về giới, sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ Việt Nam.

Từ những năm 90, quan điểm tiếp cận giới trong việc xem xét vấn đề phụ nữ và sự bình đẳng giữa nam nữ rất được hoan nghênh và vận dụng cả trong các công trình nghiên cứu và các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Cách tiếp cận mới trong việc nghiên cứu là chú ý đến mối quan hệ giữa hai giới trên mọi mặt của đời sống xã hội từ trong lao động và hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ trong gia đình; về địa vị, vị trí của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Những thiệt thòi, yếu kém của phụ nữ xuất phát từ nguyên nhân nào? Khoảng cách giữa nam nữ và phương hướng khắc phục ra sao để đem lại sự bình đẳng giữa hai giới về mọi mặt?

Từ trong lịch sử đã tồn tại sự bất bình đẳng về giới trong gia đình, sự phân biệt đối xử với phụ nữ do những phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống và quy ước của các tôn giáo, sự đánh giá thấp của xã hội về khả năng, giá trị lao động nữ trong lao động sản xuất, sáng tạo và quản lý đã giam hãm phụ nữ ở địa vị thấp kém trong gia đình và xã hội với tất cả những bất công, thiệt thòi.

Một thời gian dài việc nghiên cứu về người phụ nữ chúng ta đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng, không biết do vô tình hay hữu ý một số tác giả đã không phân biệt được những đặc điểm sinh học tự nhiên bẩm sinh của phụ nữ với đặc điểm xã hội do con người tạo ra. Vì vậy khi đề ra những chính sách liên quan đến phụ nữ lại rất khó thực hiện. Cần lưu ý khi nghiên cứu về người phụ nữ phải tính đến đặc điểm tự nhiên, đặc biệt là chức năng sinh sản của họ. Chức năng này rất ảnh hưởng đến sức khỏe và hoạt động của phụ nữ, nhưng nếu tuyệt đối hóa về nó, coi đó là những yếu tố quyết định không thể nào thay đổi được là hoàn toàn sai lầm. Trong nghiên cứu, nếu chỉ tập trung nghiên cứu

cái riêng của phụ nữ mà tách rời cái chung của hai giới, thiếu sự nghiên cứu, so sánh tình trạng nam nữ trong các tình huống cần thiết là bất lợi cho chính người phụ nữ. Vì vậy công tác nghiên cứu cần phải được xem xét trong tính tổng thể và gắn bó hữu cơ với nhau thì mới mang lại hiệu quả cao nhất.

Tuy còn có những hạn chế nhất định, song công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ đã có sự hợp tác với các nhà khoa học nữ trên thế giới và trong khu vực. Sự hợp tác đó đã tạo đà cho các nhà nghiên cứu phụ nữ ở Việt Nam có thêm tri thức và kinh nghiệm mới. Những kết quả nghiên cứu được công bố đã góp phần tích cực đối với việc hoạch định các chiến lược vì sự tiến bộ của phụ nữ, bổ sung, hoàn thiện các chính sách kinh tế - xã hội có liên quan đến phụ nữ. Thiết nghĩ, đó cũng chỉ mới là những thành tựu nghiên cứu bước đầu. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, để cung cấp những luận chứng khoa học cho Đảng, Nhà nước nhằm hoạch định các chủ trương, chính sách về phụ nữ, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ trên những phương diện chủ yếu sau đây:

Thứ nhất: Công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ ở tầm vĩ mô cần đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và phương pháp luận về vấn đề phụ nữ, vấn đề giới đặc biệt là vấn đề bình đẳng giới. Từ đó đề xuất những phương hướng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu hữu hiệu về vấn đề phụ nữ. Đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong công tác nghiên cứu phụ nữ ở nước ta. Để thực hiện được yêu cầu quan trọng đặc biệt này, các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học cần có sự đầu tư thỏa đáng và sự hợp tác chặt chẽ trong quá trình nghiên cứu. Bên cạnh đó cần tiếp tục nghiên cứu những vấn đề nảy sinh từ thực tế cuộc sống nhất là ảnh hưởng của kinh tế thị trường hiện nay tác động đến lý trí, tình cảm, nhu cầu, thị hiếu, lối sống của phụ nữ. Đồng thời cũng cần làm rõ sự tác động trở lại của phụ nữ đối với phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong giải quyết các vấn đề xã hội, tệ nạn xã hội. Trên cơ sở những kết luận được rút ra từ thực tiễn cuộc sống, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học lấy đó làm cơ sở luận chứng để điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi những chính sách, luật pháp liên quan đến phụ nữ, góp phần tích cực vào công cuộc giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ.

Thứ hai: Nghiên cứu phụ nữ phải đặt trong mối tương tác với gia đình, đặc biệt là với người chồng. Phải làm rõ vai trò của người phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới trong gia đình vì qua đó mới có thể rút ra được những ưu và nhược điểm của phụ nữ để có thể điều chỉnh những chính sách cho phù hợp với sự phát triển của họ. Để thực hiện tốt vai trò người vợ, người mẹ trong gia đình đòi hỏi phụ nữ phải có kiến thức. Vì vậy việc nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ là hết sức cần thiết. Thông qua các hình thức tuyên truyền, các phương tiện thông tin đại chúng như sách báo, phim ảnh, các hoạt động văn hóa, văn

nghệ, các lớp tập huấn, bồi dưỡng mà mở rộng tầm hiểu biết của phụ nữ, đặc biệt là những kiến thức sơ đẳng về những vấn đề pháp luật, y tế, chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình, về giáo dục con, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ sắc đẹp và giữ gìn hạnh phúc gia đình. Những nội dung trên vừa mang tính cấp bách, vừa lâu dài, đòi hỏi phải được quan tâm, nghiên cứu một cách thường xuyên và liên tục thì mới có kết quả.

Thứ ba: Công tác nghiên cứu phụ nữ cần phải được sự quan tâm, giúp đỡ của các đoàn thể, các tổ chức xã hội, đặc biệt là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam - đơn vị trực tiếp nhất đối với mọi hoạt động của phong trào phụ nữ. Hội phải thường xuyên tổ chức các hoạt động xã hội để phát huy mọi vai trò vốn có của phụ nữ, phát hiện, động viên kịp thời mọi khó khăn của phụ nữ nhằm tạo lập mối quan hệ hòa thuận trong gia đình, góp phần ổn định quan hệ xã hội. Thông qua các hoạt động xã hội mà tìm ra những điểm mạnh và hạn chế của mỗi tổ chức, đoàn thể đối phụ nữ.

Để công tác nghiên cứu khoa học về phụ nữ đạt được kết quả như mong muốn Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để mỗi tổ chức hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Nghiên cứu vấn đề này phải đặt trong tổng thể nghiên cứu Chiến lược quốc gia toàn diện, lâu dài, phải gắn với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, giáo dục của đất nước. Mặt khác, công tác nghiên cứu phải xuất phát từ quan điểm lịch sử cụ thể, phải có sự tác động của yếu tố thời đại, của xu thế hội nhập và đổi mới.

Như vậy: ở nước ta, trong giai đoạn hiện nay phụ nữ muốn được bình đẳng, được phát triển, hoàn thành tốt trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội thì công tác nghiên cứu về phụ nữ phải được đặt ra một cách nghiêm túc, với sự nổ lực của toàn đảng, của các cấp, các ngành có liên quan đặc biệt là các nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ.

KẾT LUẬN

Trong các hình thức bất bình đẳng xã hội thì bất bình đẳng về giới xuất hiện sớm

nhất và tồn tại dai dẳng nhất. Hậu quả của nó không chỉ hạn chế sự phát triển của phụ nữ

mà còn cản trở tiến trình phát triển của cả gia đình và xã hội. Mục tiêu của cuộc cách

mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng nhân loại, trong đó bao hàm cả giải phóng phụ nữ -

một nửa hợp thành của nhân loại. Đấu tranh thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội đương

nhiên phải bao hàm công bằng, bình đẳng giữa nam và nữ. Chủ nghĩa Mác chỉ rõ điều

kiện, phương pháp, cách thức để thực hiện mục tiêu giải phóng phụ nữ không hoàn toàn

giống với lý luận về giải phóng con người nói chung. Vì vậy mặc dù cuộc đấu tranh giải

phóng giai cấp, giải phóng dân tộc đã giành thắng lợi ở một loạt nước, nhưng phụ nữ vẫn là

nạn nhân của sự áp bức về giới.

Ngày nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về giải phóng con người

nhưng bình đẳng giới vẫn còn tồn tại phổ biến ở nhiều quốc gia. Thực tế này đòi hỏi

những người cộng sản phải biết kết hợp tính vững vàng khoa học để giải thích đúng đắn

và sâu sắc các phạm trù, quy luật cho cuộc đấu tranh giải phóng con người, đồng thời

phải nắm bắt được những tri thức của các nhà khoa học hiện đại để làm phong phú, sâu

sắc thêm nội dung cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ.

Bằng các cơ sở khoa học đầy tính thuyết phục chủ nghĩa Mác đã thực hiện cuộc

đấu tranh giải phóng phụ nữ. Từ sự kế thừa quan điểm của các bậc tiền bối, Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng

phụ nữ. Điều đó đã trở thành ngọn đuốc soi sáng cho mọi bước đường của cách mạng

Việt Nam. Dưới ánh sáng đó, các tầng lớp phụ nữ Việt Nam đã được giải phóng khỏi

những áp bức, bất công, những trói buộc bởi hủ tục và quan niệm phong kiến nặng nề để

bước lên địa vị làm chủ cuộc đời, làm chủ bản thân.

Từ khi có Đảng lãnh đạo, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ đã được cụ thể hóa bằng các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, thể chế hóa bằng luật pháp, chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên trên thực tế việc vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Do đó, mục tiêu phấn đấu để giải phóng phụ nữ, để đấu tranh cho sự bình đẳng thực sự vẫn là mục tiêu lâu dài của Đảng và Nhà nước ta.

Ngày nay, đấu tranh cho giải phóng phụ nữ - một nửa của xã hội loài người luôn đặt chúng ta trong việc xem xét và giải quyết một loạt các mối quan hệ. Quan hệ giữa phụ nữ với nam giới, giữa gia đình và xã hội, giữa cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ với cuộc cách mạng xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tư tưởng, văn hóa... Thực tế cho thấy, ngày nay không phải “trao quyền” bình đẳng là phụ nữ có thể bình đẳng mà phải “tạo quyền” cho phụ nữ.

Quá trình tạo quyền là sự kết hợp chặt chẽ cả hai yếu tố, sự nỗ lực chủ quan của phụ nữ và sự tác động, tạo điều kiện khách quan từ phía xã hội. Khi mà cơ hội và điều kiện phát triển của phụ nữ còn thấp hơn nam giới; khi mà phụ nữ còn chịu những thiệt thòi ngay từ trong gia đình của mình thì "đối xử đặc biệt" với phụ nữ là hết sức cần thiết, để họ đạt tới sự bình đẳng với nam giới. Để thực hiện được điều này cần có một cơ chế, chính sách từ phía xã hội, từ các nhà lãnh đạo quản lý, với cách nhìn tiến bộ, thái độ ủng hộ thật sự đối với phụ nữ; cũng cần có sự nhận thức đúng đắn và thái độ ủng hộ tích cực của chính những người nam giới trong mỗi gia đình. Tất cả đều có thể góp phần vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại hội IX của Đảng đề ra: Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn, có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo

và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc [14, tr.126].

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Trọng Ân (2004), Tìm hiểu tác phẩm: Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và

của Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (2000), Tổng quan đưa vấn

đề giới vào phát triển, Hà Nội.

3. Ba cuộc cách mạng với vấn đề giải phóng phụ nữ (1976), Nxb Phụ nữ.

4. Bác Hồ và sự nghiệp giải phóng phụ nữ (1990), Nxb Phụ nữ.

5. Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam (1982), Nxb Phụ nữ.

6. Báo cáo của các tổ chức phi chính phủ về 10 năm thực hiện Cương lĩnh hành động

Bắc Kinh tại Việt Nam (tháng 02 năm 2005)

7. Báo cáo 10 năm thực hiện Cương lĩnh hành động Bắc Kinh của Hội Liên Hiệp Phụ

nữ Việt Nam (tháng 02 năm 2005)

8. Báo cáo quốc gia lần thứ 2,3,4,5,6 về tình hình thực hiện Công ước CEDAW.

9. Chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn (1998), Nxb Khoa học xã hội.

10. Di chuực Baực Hoà vaứ coõng taực nghieõn cửựu, tuyeõn truyeàn cuỷa baỷo taứng

Hoà Chớ Minh (2002), Nxb Haứ Noọi.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ

Chính trị về "đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình

mới".

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Lê Quý Đức, Vũ Thy Huệ (2003), Người phụ nữ trong văn hóa gia đình đô thị, Nxb

Chính trị quốc gia.

16. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các năm 1946, 1959, 1980,

1992.

Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), Nxb Phụ nữ. 17.

18.

Leõ Ngoùc Huứng(2002), “Hoùc thuyeỏt MaựcLeõnin veà phuù nửừ vaứ lieõn heọ vụựi thửùc tieón hieọn nay ụỷ nửụực ta”, Luaọn vaờn toỏt nghieọp lụựp Cao caỏp lyự luaọn chớnh trũ, Hoùc vieọn Chớnh trũ quoỏc gia Hoà Chớ Minh.

19. Nguyễn Linh Khiếu (2003), Nghiên cứu phụ nữ giới và gia đình, Nxb Khoa học

xã hội.

20. Kế hoạch hành động quốc gia và sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000,

Nxb Phụ nữ, 1997.

Vũ Ngọc Khánh (1998), Văn hóa gia đình Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc. 21.

V.I.Lênin (1979), Toaứn taọp, taọp 7, Nxb Tieỏn boọ, Maựtxcụva. 22.

V.I. Lênin (1980), Toaứn taọp, taọp 24, Nxb Tieỏn boọ, Maựtxcụva. 23.

V.I. Lênin (1981), Toaứn taọp, taọp 31, Nxb Tieỏn boọ, Maựtxcụva. 24.

V.I. Lênin (1977), Toaứn taọp, taọp 37, Nxb Tieỏn boọ, Maựtxcụva. 25.

V.I. Lênin (1977), Toaứn taọp, taọp 39, Nxb Tieỏn boọ, Maựtxcụva. 26.

V.I. Lênin (1977), Toaứn taọp, taọp 40, Nxb Tieỏn boọ, Maựtxcụva. 27.

V.I. Lênin (1977), Toaứn taọp, taọp 42, Nxb Tieỏn boọ, Maựtxcụva. 28.

Lênin với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), Nxb Phụ nữ. 29.

30.

ẹaởng Thũ Linh (1997), “Vaỏn ủeà phuù nửừ trong gia ủỡnh ụỷ Vieọt Nam hieọn nay. Thửùc traùng vaứ giaỷi phaựp”, Luaọn aựn phoự tieỏn sú Trieỏt hoùc, Vieọn nghieõn cửựu Chuỷ nghúa Maực-Leõnin vaứ tử tửụỷng Hoà Chớ Minh, Haứ Noọi.

31. C.Maực - Ph.Aấngghen (1995), Toaứn taọp, taọp 2, Nxb Chớnh trũ quoỏc gia,

Sửù thaọt, Haứ noọi.

32. C.Maực - Ph.Aấngghen (1993), Toaứn taọp, taọp 4, Nxb Chớnh trũ quoỏc gia,

Haứ Noọi.

33. C.Maực - Ph. Aấngghen (1995), Toaứn taọp, taọp 21, Nxb Chớnh trũ quoỏc gia,

Haứ Noọi.

34. C.Maực - Ph. Aấngghen (1993), Toaứn taọp, taọp 23, Nxb Chớnh trũ quoỏc gia,

Haứ Noọi.

35. C.Maực vaứ Ph. Aấngghen vụựi vaỏn ủeà giaỷi phoựng phuù nửừ (1967), Nxb

Sửù thaọt, Haứ Noọi.

36. Dửụng Thũ Minh (2004), Gia ủỡnh Vieọt Nam vaứ vai troứ ngửụứi phuù nửừ

trong giai ủoaùn hieọn nay, Nxb Chớnh trũ quoỏc gia, HaứNoọi.

37. 38. 39. 40. 41. 42. 43. 44. 45. 46. 47. Hoà Chớ Minh vụựi sửù nghieọp giaỷi phoựng phuù nửừ (1990), Nxb Phuù nửừ. Hoà Chớ Minh (1980), Toaứn taọp, taọp 1, Nxb Sửù thaọt, Haứ Noọi. Hoà Chớ Minh (1995), Toaứn taọp, taọp 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoà Chớ Minh (1995),Toaứn taọp, taọp 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoà Chớ Minh (1981), Toaứn taọp, taọp 5, Nxb Sửù thaọt, Haứ Noọi. Hoà Chớ Minh (1989), Toaứn taọp, taọp 8, Nxb Sửù thaọt, Haứ Noọi. Hoà Chớ Minh (1989), Toaứn taọp, taọp 9, Nxb Sửù thaọt, Haứ Noọi. Hoà Chớ Minh (1989), Toaứn taọp, taọp 10, Nxb Sửù thaọt, Haứ Noọi. Nghiên cứu phụ nữ lý thuyết và phương pháp (1996), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Phụ nữ và cách mạng xã hội chủ nghĩa (1959), Nxb Sự thật, Hà Nội. Phụ nữ nghèo nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường (1996), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

48. G.Renate Dullikein (1996), Nghieõn cửựu phuù nửừ- Lyự thuyeỏt vaứ phửụng

phaựp, Nxb Phuù nửừ, Haứ Noọi.

49.

G.Steven (1990), Vai troứ cuỷa Hoà Chớ Minh trong lũch sửỷ tieỏn boọ cuỷa phuù nửừ, Hoọi thaỷo quoỏc teỏ veà Hoà Chớ Minh, Nxb Khoa hoùc xaừ hoọi, Haứ Noọi.

50.

51.

ẹoó Thũ Thaùch (1995), “Tử tửụỷng Hoà Chớ Minh veà giaỷi phoựng phuù nửừ: Nguoàn goỏc vaứ giaự trũ hieọn thửùc”, Khoa hoùc veà phuù nửừ, (4), tr. 3-5. ẹoó Thũ Thaùch (1999), Trớ thửực nửừ Vieọt Nam trong coõng cuoọc ủoồi mụựi hieọn nay - tieàm naờng vaứ phửụng hửụựng xaõy dửùng, Luaọn aựn tieỏn sú chuyeõn ngaứnh CNXHKH, Hoùc vieọn Chớnh trũ quoỏc gia Hoà Chớ Minh, Haứ Noọi.

52. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt

Nam, Nxb Phụ nữ.

53. Lê Thi (1999), Việc làm, đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

54. 55. 56.

Toựm taột tỡnh hỡnh theỏ giụựi cuỷa UNDP. Truyền thống phụ nữ Việt Nam (2000), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Trung taõm nghieõn cửựu khoa hoùc lao ủoọng nửừ vaứ vaờn phoứng lao ủoọng quoỏc teỏ Giụnevụ (1998), Quyeàn lao ủoọng nửừ ụỷ Vieọt Nam trong thụứi kyứ ủoồi mụựi, Haứ Noọi.

57. Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nxb Khoa học xã

hội.

58. Tửứ ủieồn Chuỷ nghúa coọng saỷn khoa hoùc (1986), Nxb Tieỏn boọ Matxcụva,

Nxb Sửù thaọt, Haứ Noọi.

59.

UÛy ban vỡ sửù tieỏn boọ cuỷa phuù nửừ Vieọt Nam (2000), Dửù thaỷo Chieỏn lửụùc haứnh ủoọng quoỏc gia vỡ sửù tieỏn boọ cuỷa phuù nửừ Vieọt Nam giai ủoaùn 2001-2010, Haứ Noọi.

60. Vaờn phoứng lao ủoọng quoỏc teỏ Giụnevụ (1998), Tieõu chuaồn lao ủoọng

quoỏc teỏ veà lao ủoọng nửừ.

Vấn đề giải phóng phụ nữ (1982), Nxb Phụ nữ. Vấn đề phụ nữ đã được giải quyết ở Liên Xô như thế nào? (1959), Nxb Phụ nữ. Vieọt Nam qua laờng kớnh giụựi (1995), Chửụng trỡnh phaựt trieồn cuỷa Lieõn 61. 62. 63.

hieọp quoỏc (UNDP), Haứ Noọi, Vieọt Nam.

64.

Vieọn Chuỷ nghúa xaừ hoọi khoa hoùc (2004), Taọp baứi giaỷng Khoa hoùc giụựi, (Daứnh cho lụựp cao hoùc vaứ nghieõn cửựu sinh chuyeõn ngaứnh CNXHKH), Haứ Noọi.

65. 15.