VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VIỆT DŨNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP

ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VIỆT DŨNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP

ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên

cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và

trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính

xác và trung thực. Những kết luận khoa học của

luận văn chưa từng ai công bố trình bất cứ công

trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Việt Dũng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN

HÀNG BẰNG PHƯƠNG THỨC TÒA ÁN .......................................................... 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng ............................................................................................................ 7

1.2. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo

đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án ....................................... 13

1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm

tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án ................................................ 17

Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN

THẾ CHẤP BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG QUA THỰC TIỄN

XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ ......................... 27

2.1. Khái quát về tình hình kinh tế-xã hội và Tòa án nhân dân tại tỉnh

Phú Thọ .............................................................................................................. 27

2.2. Khái quát chung về tình hình giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ ..... 30

2.3. Thực trạng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. .................................... 34

2.4. Kết luận chung rút ra từ thực trạng giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. ........... 44

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY

NGÂN HÀNG ........................................................................................................... 50

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài

sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án ................................ 50

3.2. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án ........ 54

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 80

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tại Việt Nam, trước nhu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triền kinh

tế, việc tạo lập, vận hành một thị trường tài chính tiền tệ lành mạnh thông qua

hệ thống Ngân hàng, hiệu quả là một nhu cầu tất yếu. Ngày nay, các Ngân

hàng ở Việt Nam có nhiều loại hình hoạt động với những tên gọi khác nhau.

Đến cuối năm 2018, hệ thống các Ngân hàng, tổ chức tín dụng trên địa bàn

tỉnh Phú Thọ đang có tổng cộng 20 (chi nhánh Cấp 1) và 39 quỹ tín dụng

nhân dân.

Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển, đáng ghi

nhận. Hệ thống Ngân hàng và hoạt động tín dụng có những bước phát triển đột

phá, góp phần quan trọng trong nền kinh tể của nước ta. Mặc dù vậy, gần đây,

trong hoạt động của mình, Ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn. Những năm

gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường nên đời sống xã hội cũng

như kinh tế của người dân ngày càng được đảm bảo và nâng cao. Song, mặt

trái của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến nhiều người sống buông thả, coi

trọng vật chất, xem nhẹ tình cảm. Điều đó làm cho những tranh chấp về tài

sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng có tính quyết liệt, căng thẳng hơn,

nên việc giải quyết cũng gặp nhiều khó khăn.

Ở tỉnh Phú Thọ, những năm gần đây, số lượng các vụ án nói chung tại

địa bàn, đặc biệt là vụ án giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm

tiền vay Ngân hàng tại Tòa án tăng nhanh về số lượng, phức tạp về nội dung,

nhiều vụ tranh chấp rất gay gắt, khiếu nại kéo dài gây nhiều khó khăn cho các

cơ quan tiến hành tố tụng cũng như những người tham gia tố tụng. Hầu hết

các vụ án đều được giải quyết trong thời hạn luật định, thấu tình đạt lý, khách

quan, được sự đồng tình của người dân. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng còn gặp nhiều vướng

1

mắc, bất cập. Nhằm đảm bảo tiền vay của Ngân hàng, Ngân hàng phải khởi

kiện ra Tòa án nhân dân các cấp tại tỉnh Phú Thọ. Trải qua quy trình tố

tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự đó là khi chứng cứ trong

các hợp đồng tín dụng đã rất cụ thể, rõ ràng. Cũng cần thấy rằng, việc xét

xử của Tòa án từ cấp sơ thẩm, phúc thẩm, rồi khả năng giám đốc thẩm, tái

thẩm và thi hành bản án có hiệu lực pháp luật là cả một khoảng thời gian

rất dài.

Nhằm có sự đánh giá tổng thể về cơ sở lý luận và thực tiễn trong hoạt

động giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng

tại Tòa án ở tỉnh Phú Thọ và đánh giá những thuận lợi, khó khăn; vấn đề đảm

bảo công bằng giữa lợi ích các bên trong quan hệ tín dụng; việc áp dụng pháp

luật giải quyết trong việc giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm

tiền vay Ngân hàng hiện nay gặp những vướng mắc gì là cần thiết và có ý

nghĩa thực tế. Trước thực tế này tác giả đã lựa chọn đề tài: “Giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng từ thực tiễn xét xử

của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ” làm đề tài luận văn thạc sỹ là đáp ứng

yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân

ở tỉnh Phú Thọ cũng như hoạt động của các Ngân hàng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Thời gian qua, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án trong việc giải

quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng ngày

được cải cách cho phù hợp với thực tiễn. Cùng với đó là việc giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng đã từng bước được

xây dựng cả về cơ sở pháp lý và tổng kết thực tiễn áp dụng. Với hệ thống các

văn bản pháp luật về hợp đồng dân sự nói chung, hợp đồng tín dụng Ngân

hàng nói riêng đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Việc làm này đã

giúp cho việc đảm bảo tiền vay của các ngân hàng từng bước có hiệu quả cao

2

hơn, đáp ứng yêu cầu thực tế.

Nhằm hạn chế sự gia tăng của tình trạng các khoản nợ không trả được,

Quốc hội đã ban hành riêng một Nghị quyết về xử lý, thu hồi nợ theo Nghị

quyết số 42/2017/NQ14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ

xấu của các Tổ chức tín dụng;

Đồng thời với đó là việc Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết

số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 Hướng dẫn áp dụng một số quy định

của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của

khoản nợ tại Tòa án nhân dân.

Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay cho Ngân hàng, đã có

nhiều công trình ở các cấp độ khác nhau nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác

nhau. Các công trình nghiên cứu có thể kể đến là:

- Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật

dân sự Việt Nam hiện hành, luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Thị Hồng Yến, Đại

học Luật Hà Nội, năm 2013.

- Bảo đảm tiền vay ngân hàng, thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sĩ

của tác giả Lê Thu Hiền, Đại học Luật Hà Nội, năm 2013.

- Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Thương về đề tài: “Xử lý nợ

xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương theo pháp luật Việt Nam”

bảo vệ năm 2013 tại Trường Đại học Luật Hà Nội;

- Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Quang Huy với đề tài: “Pháp luật

về nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại và thực tiễn áp

dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông” bảo vệ năm 2015 tại

Trường Đại học Luật Hà Nội;

- Hoàn thiện pháp luật về quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng, luận văn

thạc sĩ của tác giả Lê Kim Thanh, Đại học Luật Hà Nội, năm 2008.

Ngoài những công trình nghiên cứu ở trình độ tiến sỹ và thạc sĩ như

3

đã nêu trên, có nhiều công trình nghiên cứu ở cấp độ thấp hơn, được đăng

tải trên các tạp chí chuyên ngành luật hoặc chuyên ngành kinh tế.

Đó là:

- Bài viết: “Giải quyết nợ xấu và ngăn chặn nợ xấu phát sinh” của tác

giả Trần Đình Định, nguyên Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển Nông thôn Việt Nam (đăng trong Tạp chí Ngân hàng 2013);

- Bài viết: “Trao đổi về giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống Ngân

hàng thương mại Việt Nam.

- Bài viết: “Pháp luật Việt Nam về hoạt động sử dụng vốn của ngân

hàng thương mại: Những bất cập và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn

Kiên Bích Tuyền – giảng viên Đại học Ngân hàng TP. HCM, nghiên cứu sinh

tại Đại học Luật TP. HCM (đăng trong tạp chí Tòa án nhân dân số 18/2018).

- Bài viết: “Thế chấp tài sản – biện pháp bảo đảm thông dụng và một số

vấn đề cần lưu ý” của tác giả Tưởng Duy Lượng – Nguyên Phó Chánh án Tòa

án nhân dân tối cao (đăng trong tạp chí Tòa án nhân dân số 05/2019).

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, pháp luật về giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp, thực tiễn giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để

đảm bảo tiền Ngân hàng tại Tòa án từ thực tiễn của Tòa án nhân dân ở tỉnh

Phú Thọ; từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả trong việc giải quyết lĩnh vực này.

3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề cơ bản nhất về tranh chấp về tài sản thế

chấp và giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân

hàng bằng phương thức Tòa án;

Thứ hai, đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những ưu

điểm, hạn chế trong thực hiện giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo

4

đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân ở

tỉnh Phú Thọ;

Thứ ba, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và

đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo

đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

4.1.Đối tượng nghiên cứu

Giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân

hàng tại Tòa án; Đồng thời là các hợp đồng tín dụng của các Ngân hàng khi

giải quyết các vụ án.

4.2.Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo

đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến nay.

- Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân ở tỉnh Phú Thọ.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Cơ sở lý lý luận:

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa; về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân

dân, nhất là nâng cao hiệu quả đảm bảo thực hiện pháp luật; các quan điểm,

đường lối của Đảng thể hiện trong các nghị quyết có đề cập đến vấn đề xây

dựng nhà nước pháp quyền và về cải cách tư pháp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả vận

dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên

ngành, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp,

phân tích, so sánh, thống kê toán học và xin ý kiến chuyên gia.

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận, luận văn góp phần phân tích đã phân tích, hệ thống hóa, làm

sáng tỏ khái niệm, đặc điểm tranh chấp về tài sản thế chấp và giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

Về thực tiễn, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết tranh

chấp qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. Từ đó đề xuất

những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi pháp

luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân

hàng bằng phương thức Tòa án.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể vận dụng làm kinh nghiệm cho các

địa phương khác, tổng kết kinh nghiệm xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân.

Đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy,

học tập trong các cơ sở đào tạo luật và các cơ sở đào tạo chức danh tư pháp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ

lục, nội dung của Luận văn được kết cấu theo truyền thống gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp về tài sản

thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án.

Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm

tiền vay Ngân hàng qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ.

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi

pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay

Ngân hàng tại Tòa án.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG

BẰNG PHƯƠNG THỨC TÒA ÁN

1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng

1.1.1. Khái niệm.

Tranh chấp phát sinh từ tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng

là một loại tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD), là tình trạng pháp lý trong

quan hệ HĐTD, mà ở đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với

nhau về những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ HĐTD. Tranh chấp hợp đồng

khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là hành vi pháp lý của các

bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong hợp đồng. Còn tranh

chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành vi vi phạm đó

hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được thể hiện

ra bên ngoài. Như vậy, có thể hiểu khái quát, tranh chấp HĐTD là những mâu

thuẫn, bất đồng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ trong HĐTD giữa bên cho vay

(ngân hàng) và bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ

gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản đảm bảo, thế chấp…

1.1.2. Một số đặc điểm trong quan hệ tranh chấp.

Tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng cũng là

một loại tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD) nói chung, do đó có đầy đủ

những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên, với bản chất

đặc thù của tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng, tranh chấp tài

sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng mang một số đặc trưng riêng

biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác. Có thể khái

7

quát đặc điểm của tranh chấp tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng

bằng các ý sau:

- Thứ nhất, giá trị của tranh chấp tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay

Ngân hàng thường có giá trị lớn hoặc thậm chí là rất lớn.

Khi kí kết hợp đồng thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà

không thể tự mình xoay sở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh

doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia

đình. Do đó, số tiền này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ

chức, cá nhân ngoài xã hội mà không phải là Ngân hàng.

Về phía bên cho vay là Ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung

ứng vốn cho nền kinh tế thì Ngân hàng còn đóng vai trò là người đi vay của

các chủ thể khác để cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các Ngân hàng

thường kí kết các HĐTD có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại

thời điểm cho vay. Do bên vay vốn dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư

cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên nếu bên vay không tuân thủ các cam

kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các Ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng xấu

đến hoạt động của Ngân hàng đó. Thực tế không hiếm các trường hợp các

Ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi

khách hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì Ngân

hàng sẽ là chủ thể bị thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các

biện pháp khắc phục, mục đích lợi nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián

đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp HĐTD phải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây

khó khăn cho Ngân hàng khi muốn thu hồi vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại

Tòa án thì thường là người đi vay không còn có khả năng trả nợ cho Ngân

hàng. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì Ngân hàng sẽ mất lòng tin

với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả khi

bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính của mình. Do đó, có thể

nói tranh chấp HĐTD là loại tranh chấp có giá trị thiệt hại lớn, không chỉ ảnh

8

hưởng đến bên cho vay mà còn cả đối với bên đi vay. Thậm chí nếu tranh

chấp xảy ra nhiều thì ảnh hưởng đó không chỉ ảnh hưởng đến một Ngân hàng

mà có thể ảnh hưởng dây chuyền đến các Ngân hàng khác trong nền kinh tế.

- Thứ hai, tranh chấp HĐTD Ngân hàng được giải quyết dựa trên

nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia

tranh chấp.

Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Bộ

Luật dân sự 2015 ghi nhận :“cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt

buộc đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn

trọng”. HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ

mang tính thỏa thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc

giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền thỏa

thuận để đạt được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra.

Việc tôn trọng quyền định đoạt này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ

dân sự giữa các bên mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh

lệnh - phục tùng như các quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên

tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận được với nhau thì việc giải quyết tranh

chấp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thiệt

hại về thời gian, tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ quan tài phán,

thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm nhẹ khối

lượng, áp lực công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra nhiều

và phức tạp như hiện nay.

Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối

với các Ngân hàng là Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng nước ngoài có vai

trò quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các Ngân hàng

trong nước, chịu sự điều chỉnh của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt

Nam và sự khác nhau trong quy định của pháp luật giữa Việt Nam và nước

khác là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc cho phép, tôn trọng quyền tự

9

thỏa thuận của các bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa những

xung đột pháp luật có thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh chấp.

Tuy nhiên, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải phù hợp với các quy

định của pháp luật Việt Nam.

Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên

cũng được Bộ Luật tố tụng dân sự thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa

giải là trách nhiệm của cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó

các bên có thể thỏa thuận về việc giải quyết vụ án. Ngay cả trước khi diễn ra

hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận

về việc giải quyết tranh chấp miễn sao thỏa thuận đó phù hợp với các quy

định của pháp luật.

- Thứ ba, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là Ngân

hàng và phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là tổ chức tín dụng

cho vay, bị đơn là bên đi vay.

Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến

những tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ

chức, cá nhân có thừa nguồn vốn trong xã hội nên Ngân hàng luôn đóng vai

trò trung gian trong mối quan hệ này. Sự tham gia của Ngân hàng là một dấu

hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng

vay tài sản thông thường giữa các tổ chức, cá nhân khác mà không phải là

Ngân hàng Ngân hàng

Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các Ngân hàng

và khách hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư

cách là chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối

với khách hàng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp

đồng thì hợp đồng thường do bên cho vay là các Ngân hàng soạn thảo với đội

ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó,

chủ thể đi vay là khách hàng thường là các tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên

10

môn về mặt pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi không được chú trọng đúng

mức. Và như vậy là hợp đồng được kí kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm

bảo đảm cho quyền lợi của Ngân hàng khi bên vay không trả nợ hay trả

không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì Ngân hàng luôn nắm

đằng chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng

trong hợp đồng được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp

xảy ra thì là do bên đi vay vi phạm, chứ ít khi Ngân hàng lại vi phạm chính

những điều khoản do chính mình soạn thảo.

Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay

thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất

việc giải ngân cho khách hàng thì Ngân hàng đã hoàn thành các nghĩa vụ của

mình. Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ

sơ tín dụng, nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản

đảm bảo...là ít quan trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý

do đó nên nếu có tranh chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ

của mình, rất hiếm gặp trường hợp bên đi vay khởi kiện Ngân hàng.

- Thứ tư, đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD Ngân hàng chính

là các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của

bên vay cho Ngân hàng, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ trong HĐTD.

Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như: tranh chấp về chủ

thể xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn,

tranh chấp liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay...Tuy nhiên, tranh chấp

xảy ra nhiều nhất là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về

mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy là bởi vì những nghĩa vụ

này chính là những nghĩa vụ chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong quá trình

thực hiện HĐTD của các bên và việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến

quyền lợi của Ngân hàng. Các tranh chấp khác cũng có tác động đến các

11

Ngân hàng nhưng không phải là cơ bản nên ít xảy ra hơn so với tranh chấp về

nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi hay tranh chấp về lãi suất, về bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ.

- Thứ năm, tranh chấp HĐTD Ngân hàng thường là tiền đề làm phát

sinh và gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền vay

thông qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.

Các Ngân hàng khi tham gia vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ

việc cho vay đó vì bản chất của Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền

tệ. Để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông

thường Ngân hàng chỉ đồng ý cho bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố,

thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Các biện pháp bảo

đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng của Ngân hàng khi rủi ro xảy

ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo trong HĐTD thì các bên

kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó có thể là hợp

đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình thức chứng thư bảo lãnh

của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng

bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc vay vốn, xuất phát từ

hợp đồng tín dụng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc

trả nợ của bên đi vay.

Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra

khỏi HĐTD với tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối

quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối

quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này

có ảnh hưởng đến loại hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp

đồng có nghĩa vụ được bảo đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng

thì giao dịch bảo đảm chấm dứt, nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp

đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ

trường hợp có thỏa thuận khác”. Ngược lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu

12

không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có

thỏa thuận khác”. Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp HĐTD, với tư

cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và làm cơ sở phát sinh tranh chấp hợp

đồng bảo đảm - hợp đồng phụ trong quan hệ tín dụng giữa các bên.

- Thứ sáu, tranh chấp HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa

các bên tham gia tranh chấp.

Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên phải

xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong

quan hệ dân sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể

khởi kiện để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là

lợi ích của chính cơ quan, đoàn thể đó. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát

sinh từ HĐTD thì chỉ có chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ

mới có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay

hay Ngân hàng. Không có trường hợp nào mà tranh chấp HĐTD phát sinh do

tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia

HĐTD. Như vậy, tranh chấp phát sinh từ HĐTD chỉ phát sinh khi các bên

khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ

tín dụng, hay nói cách khác, tranh chấp HĐTD thường gắn liền với lợi ích của

các bên tranh chấp.

1.2. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp

để bảo đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án

1.2.1 Khái niệm giải quyết tranh chấp

Giải quyết tranh chấp, theo Từ điển Tiếng Việt (1992) được hiểu là làm

cho các xung đột, bất đồng không còn thành vấn đề nữa. Khi xảy ra tranh

chấp các chủ thể thường lựa chọn, sử dụng một hoặc một số phương thức phù

hợp để giải quyết tranh chấp của mình. Việc chủ thể lựa chọn phương thức

nào để giải quyết tranh chấp để đảm bảo phù hợp và mang lại kết quả như

mong đợi còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bởi đối với mỗi loại tranh chấp có

13

các phương thức giải quyết khác nhau, bản thân mỗi phương thức lại có

những đặc trưng riêng, được thực hiện bằng các quy tắc, hình thức và thủ tục

của nó. Chính vì vậy, mỗi phương thức giải quyết tranh chấp đều có những ưu

điểm và hạn chế của mình.

Để lựa chọn được phương thức giải quyết phù với với mục tiêu đạt

được, bản chất tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi

phí dành cho việc giải quyết tranh chấp đòi hỏi các bên phải hiểu rõ bản chất

và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của từng phương thức. Tuy nhiên, dù là

phương thức giải quyết tranh chấp nào cũng phải đảm bảo quyền bình đẳng,

quyền tự định đoạt của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp theo quy

định của pháp luật.

1.2.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm

tiền vay Ngân hàng bằng phương thức tòa án.

Trên thế giới, tùy thuộc vào quan điểm, tư tưởng của các nhà lập pháp

của từng quốc gia mà luật pháp mỗi nước có những quy định khác nhau về

vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD Ngân hàng. Mặc dù vậy, hầu

hết các quốc gia đều thừa nhận các hình thức giải quyết tranh chấp kinh

doanh thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD

Ngân hàng nói riêng bao gồm: thương lượng; hòa giải; trọng tài thương mại

và toà án.

Thực tế cho thấy, mỗi hình thức giải quyết tranh chấp nói trên đều có

những lợi thế và đồng thời cũng thể hiện những điểm hạn chế nhất định. Tùy

thuộc vào tính chất của tranh chấp, mức độ phức tạp của tranh chấp, khả năng

và điều kiện cụ thể của các bên mà các chủ thể tranh chấp có thể lựa chọn

hình thức này hay hình thức khác, hoặc sử dụng phối hợp nhiều hình thức

khác nhau nhằm giải quyết tranh chấp đạt hiệu quả cao nhất.

Việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD

thông qua khởi kiện tại Tòa án thường được xem là hình thức cuối cùng mà

14

các bên lựa chọn trong trường hợp thương lượng hoặc hòa giải không thành

công. Việc phải nhờ đến quyền lực nhà nước để giải quyết mâu thuẫn là khi

các bên đã áp dụng các hình thức giải quyết tranh chấp khác nhưng không đạt

được kết quả và các bên không còn phương án lựa chọn nào khác.

Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính cưỡng chế cao,

được thực hiện tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, tiến hành

theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Toà

án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi

hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Chính điều này đã tạo nên ưu điểm

hơn hẳn của phương thức này đối với các phương thức khác đó là tố tụng chặt

chẽ và tính khả thi của hiệu lực phán quyết.

Việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án không phụ thuộc thỏa thuận

của các bên. Luật quy định, Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở

có thẩm quyền giải quyết, trừ trường hợp các bên có quyền tự thỏa thuận với

nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của

nguyên đơn giải quyết tranh chấp theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 39

về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Ưu điểm:

- Ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án là: Do

Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của Tòa án có tính

cưỡng chế cao nhất. Nếu các bên không chấp hành bản án, quyết định của tòa

án thì sẽ bị cưỡng chế thi hành, quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm

bảo tuyệt đối nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.

- Thông thường chi phí để giải quyết một tranh chấp hợp đồng của Tòa

án sẽ thấp hơn so với trọng tài.

- Trình tự tố tụng nghiêm ngặt, chặt chẽ theo quy định của pháp luật.

- Nguyên tắc xét xử công khai có tính răn đe đối với cá nhân, tổ chức vi

phạm pháp luật.

15

- Các Tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có điều kiện tốt hơn các

trọng tài viên trong việc tiến hành điều tra, có quyền cưỡng chế, triệu tập bên thứ

ba đến Tòa.

- Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án có nhiều cấp xét xử cũng có cái hay

là khả năng sửa sai nếu bản án của một cấp xét xử có sai sót. Ngược lại, một khi

trọng tài đã ra phán quyết, cho dù có sai sót đi chăng nữa cũng chịu vì phán

quyết đó có giá trị chung thẩm và có hiệu lực thi hành ngay.

- Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngoài ra chi phí hành

chính rất hợp lý.

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hình thức giải quyết tranh chấp thông

qua Tòa án còn có những hạn chế như:

- Hạn chế của phương thức này là thủ tục tại Tòa án thường thiếu linh

hoạt, trình tự tố tụng kéo dài, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh

doanh một cách bình thường của các bên chủ thể tranh chấp.

- Bên cạnh đó, nguyên tắc xét xử công khai được xem là tiến bộ, mang

tính răn đe nhưng lại là cản trở đối với doanh nhân và doanh nghiệp khi những bí

mật kinh doanh bị tiết lộ. Dù tranh chấp xuất phát từ bên cho vay hay từ bên vay

thì việc bị công khai sai phạm là điều mà các bên chủ thể hoàn toàn không mong

muốn.

- Phán quyết của Tòa án có thể bị kháng cáo dẫn đến vụ tranh chấp bị kéo

dài. Quá trình tố tụng có thể bị trì hoãn và kéo dài, có thể phải qua nhiều cấp xét

xử, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh doanh.

- Đối với các tranh chấp HĐTD có yếu tố nước ngoài thì phán quyết của

Tòa án thường khó đạt được sự công nhận quốc tế, vì luật các nước quy định

khác nhau. Phán quyết của Tòa án được công nhận tại một nước khác thường

thông qua hiệp định song phương hoặc theo nguyên tắc rất nghiêm ngặt.

16

Mặc khác, mặc dù Thẩm phán quốc gia có thể khách quan, họ vẫn phải

buộc sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ và thường

cùng quốc tịch với một bên.

1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo

đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì thủ tục tố tụng

để giải quyết các vụ án dân sự nói chung và vụ án tranh chấp tài sản thế chấp

bảo đảm tiền vay Ngân hàng nói riêng của Toà án được thực hiện theo trình

tự, thủ tục sau đây:

1.3.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án

Khởi kiện đó việc Ngân hàng, tổ chức tín dụng có thể tự mình hoặc

thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án về tranh chấp về tài sản

thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

Sau khi nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán được Chánh án phân

công tiến hành kiểm tra các vấn đề về quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện,

hình thức, nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi

kiện theo quy định từ Điều 186 đến Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015. Trường hợp cần sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện thì thông báo cho Ngân

hàng biết để họ sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 193 Bộ

luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trường hợp phải trả lại đơn khởi kiện theo quy

định tại Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án phải thông báo

bằng văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện cho Ngân hàng biết.

Việc thụ lý vụ án là việc Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của chủ thể

khởi kiện và ghi sổ thụ lý vụ án của Tòa án.

Do vậy, thụ lý vụ án là hành vi tố tụng đầu tiên của Tòa án trong quá

trình giải quyết vụ án dân sự nói chung cũng như vụ án liên quan đến tài sản

thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng. Thụ lý vụ án là cơ sở để xác định tư

cách tham gia tố tụng của các đương sự. Việc Tòa án thụ lý kịp thời vụ án sẽ

17

tránh kéo dài hành vi trây ỳ, trốn tránh việc trả nợ, bảo vệ kịp thời, tối đa

những lợi ích hợp pháp của Ngân hàng và những người liên quan.

1.3.2. Tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ

Theo quy định tại Điều 91 và Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015 thì trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự đặc biệt là vụ án về

giải quyết tranh chấp tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng thì

Ngân hàng, tổ chức tín dụng có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ

cho Tòa án, nếu Ngân hàng, tổ chức tín dụng không giao nộp hoặc giao nộp

không đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng

minh. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết pháp luật và dân trí của xã hội chúng ta

vẫn còn nhiều hạn chế nên nhiều đương sự chưa nắm bắt được các quy định

của pháp luật về nghĩa vụ chứng minh hoặc vì nhiều lý do khách quan họ

không thể tự mình thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Do vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật Tố tụng

dân sự năm 2015 thì Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau

đây để thu thập tài liệu, chứng cứ sau đây:

“a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;

b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm

chứng;

c) Trưng cầu giám định;

d) Định giá tài sản;

đ) Xem xét, thẩm định tại chỗ;

e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;

g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe

được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự;

h) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;

i) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này” [2].

18

Ngoài các biện pháp thu thập chứng cứ nêu trên, theo quy định từ Điều

111 đến Điều 142 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2014 trong trường hợp cần

thiết theo yêu cầu của đương sự hoặc Tòa án có thể tự mình ra quyết định áp

dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách

của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ

chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục

được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.

1.3.3. Thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử

Hòa giải là để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ

án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được

theo quy định tại Điều 206 và Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự hoặc vụ án

được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân

sự năm 2015 thì hòa giải là nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết vụ án dân

sự, là chế định quan trọng của pháp luật tố tụng dân sự. Hòa giải trong giải

quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng rất quan

trọng. Nếu việc giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng thì việc hòa giải trước tiên sẽ giúp cho các bên thỏa thuận được

những vấn đề phát sinh về việc trả nợ gốc,lãi cho Ngân hàng hay việc không

bị lãi phạt. Đồng thời giúp cho bên có tài sản thế chấp không phải bán hay có

điều kiện lấy lại tài sản đã thế chấp.

Khi tiến hành hòa giải Tòa án phải tuân thủ theo các nguyên tắc tiến hành

hòa giải, trình tự theo quy định tại Điều 205, Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự

năm 2015. Thông qua việc tiếp cận, công khai chứng cứ, các đương sự thực hiện

quyền của mình trong đó có việc tranh tụng. Tiếp cận, công khai chứng cứ và

hòa giải trong vụ án dân sự là một thủ tục bắt buộc. Khi Tòa án tiến hành hòa

giải, đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên hòa giải để trình bày ý kiến

của mình về những nội dung tranh chấp liên quan đến tài sản thế chấp và đề xuất

những vấn đề cần hòa giải. Sau khi đương sự đã trình bày xong ý kiến của mình

19

thì Thẩm phán sẽ xác định lại những vấn đề các bên đã thống nhất, vấn đề chưa

thống nhất thì yêu cầu đương sự trình bày bổ sung, sau đó Thẩm phán kết luận

cuối cùng. Việc hòa giải phải lập biên bản, có chữ ký của các bên.

Sau khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn

bộ vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành, biên bản này phải gửi ngay

cho các đương sự tham gia hòa giải. Các đương sự có quyền thay đổi ý kiến

về vấn đề thỏa thuận trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải

thành, hết thời hạn 7 ngày nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến về việc

thỏa thuận thì Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các

đương sự. Nội dung hòa giải chỉ có giá trị pháp lý đối với những đương sự có

mặt tại phiên hòa giải. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có

hiệu lực pháp luật ngay không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc

thẩm. Nếu việc hòa giải không thành, Thẩm phán sẽ ra quyết định đưa vụ án

ra xét xử.

1.3.4. Xét xử tại phiên tòa

Nếu Tòa án hòa giải không thành, các đương sự không thỏa thuận được

với nhau về những vấn đề đang tranh chấp về việc trả tiền vay Ngân hàng thì

Tòa án sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử

sơ thẩm các vụ án được quy định tại Điều 37, Điều 38 Bộ luật Tố tụng dân sự

năm 2015 và Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm các vụ án được quy

định tại Điều 35, Điều 36 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp

bảo đảm tiền vay Ngân hàng bao gồm các bước sau đây:

1.3.4.1. Phần khai mạc phiên toà

Khai mạc phiên tòa là thủ tục bắt buộc phải thực hiện trước khi Hội

đồng xét xử tiến hành xét xử. Việc thực hiện khai mạc phiên tòa được thực

hiện theo quy định tại Điều 239 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

20

+ Xem xét về đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám

định, người phiên dịch của đương sự nếu đương sự có yêu cầu và có căn cứ

để thay đổi người tiến hành tố tụng.

+ Xem xét, quyết định việc hoãn phiên toà khi có người vắng mặt được

thực hiện theo quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều

241 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định khi có người tham gia tố tụng

vắng mặt tại phiên tòa mà không thuộc trường hợp Tòa án phải hoãn phiên tòa

thì Chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu

có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định, có thể chấp nhận

hoặc không chấp nhận, trường hợp không chấp nhận phải nêu lý do.

1.3.4.2. Phần thủ tục hỏi tại phiên toà

Khi bắt đầu thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán sẽ hỏi nguyên

đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có

thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình hay không.

Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự vẫn có thể rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu

của họ, việc thay đổi, bổ sung không được vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu.

Theo quy định tại Điều 246 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì sau

khi đã hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu, chủ tọa phiên tòa sẽ

hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án không,

nếu họ tự nguyện thỏa thuận và sự thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của

pháp luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra công nhận sự

thỏa thuận đó. Trường hợp nếu các đương sự không thỏa thuận được và vẫn

giữ nguyên yêu cầu thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử bằng việc yêu cầu

đương sự trình bày ý kiến của mình theo thứ tự bắt đầu từ nguyên đơn, tiếp

đến là bị đơn, cuối cùng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nếu các

đương sự có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp sẽ trình bày thay đương sự (phiên tòa sơ thẩm).

Thứ tự hỏi tại phiên tòa sơ thẩm như sau:

21

a) Sau khi nghe lời trình bày của đương sự, việc hỏi từng người về từng

vấn đề được thực hiện theo thứ tự: Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của bị đơn, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

b) Những người tham gia tố tụng khác;

c) Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân;

d) Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

Sau khi đã hỏi các đương sự, Thẩm phán sẽ công bố các tài liệu, chứng

cứ của vụ án, cho nghe hoặc xem băng, đĩa ghi âm, ghi hình tại phiên tòa theo

quy định của pháp luật.

1.3.4.3. Phần thủ tục tranh luận tại phiên toà

Tranh luận là việc các bên trình bày, đưa ra quan điểm của mình về

chứng cứ, pháp luật cần áp dụng và đề xuất đường lối giải quyết vụ án. Trình

tự phát biểu tranh luận tại phiên toà sơ thẩm như sau:

Đầu tiên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn (Đối

với vụ án có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn) sẽ phát

biểu trước, sau đó là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, cuối cùng là

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan, các đương sự có quyền bổ sung ý kiến. Người tham gia tranh luận có

quyền đối đáp lại ý kiến của người khác, chủ tọa phiên tòa không được hạn chế

thời gian tranh luận trừ trường hợp đương sự tranh luận những vấn đề không liên

quan đến vụ án [17, Điều 260, Điều 261].

Sau khi kết thúc phần tranh luận nếu có tình tiết của vụ án chưa được xem

xét, xem xét chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử

quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận

(Điều 263 và Điều 307 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Quy định này nhằm

khắc phục tình huống khi đã tranh luận xong nhưng có nhiều tình tiết của vụ án

22

chưa được làm rõ. Quy định này cũng khẳng định rằng Tòa án chỉ quyết định các

vấn đề của vụ án khi các tình tiết, sự kiện của vụ án đã được làm sáng tỏ.

Sau khi những người tham gia tố tụng tranh luận xong thì đại diện Viện

kiểm sát phát biểu ý kiến quan điểm về việc giải quyết vụ án (Trên cơ sở về

mặt thủ tục tố tụng và nội dung vụ án). Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm

sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.

[17, Điều 262].

1.3.4.4. Nghị án và tuyên án

Nghị án là việc Hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án

trên cơ sở kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa.Việc nghị án được tiến hành

theo quy định tại Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khi nghị án mà

thấy chứng cứ, tài liệu chưa đủ thì Hội đồng quyết định xét hỏi, tranh luận lại

[17, Điều 265].

Khi tuyên án, có thể chủ tọa hoặc một thành viên Hội đồng xét xử

tuyên đọc bản án. Khi tuyên đọc xong có thể giải thích thêm về quyền kháng

cáo, về việc thi hành án và quyền được yêu cầu không công bố bản án trên

cổng thông tin điện tử của Tòa án những nội dung liên quan đến bí mật cá

nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh.

1.3.5.Thủ tục phúc thẩm (Từ Điều 270 đến Điều 315 Bộ luật tố tụng

dân sự)

1.3.5.1. Tính chất của xét xử phúc thẩm và kháng cáo, kháng nghị bản

án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ

án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật

bị kháng cáo, kháng nghị.

1.3.5.2. Chuẩn bị để xét xử phúc thẩm.

Thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án,

kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm

tiến hành vào sổ và thụ lý vụ án.

23

Nhận tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình mà Tòa án cấp sơ thẩm đã

yầu giao nộp nhưng đương sự chưa cung cấp, giao nộp vì có lý do chính đáng;

Mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không

thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.

Ra các quyết định: Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm; Đình chỉ xét xử

phúc thẩm; Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

1.3.5.3. Thủ tục phiên tòa phúc thẩm

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị sẽ trình bày trước, sau đó

các đương sự có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trình bày [17, Điều 247,

Điều 302].

Trình tự phát biểu tranh luận tại phiên toà phúc thẩm (chỉ được tranh

luận về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại

phiên tòa phúc thẩm) theo Điều 305 Bộ luật Tố tụng dân sự, được thực hiện

theo thứ tự:

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo trình

bày, người kháng cáo có quyền bổ sung ý kiến.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tranh luận, đối

đáp. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến.

Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương sự

tranh luận về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát:

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu về tính

hợp pháp, tính có căn cứ của kháng nghị. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về những vấn đề mà người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự đã nêu.

Sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp Kiểm sát viên phát biểu ý

kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn

24

phúc thẩm. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản

phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án. [17, Điều 306].

1.3.5.4. Nghị án và tuyên án

Nghị án là việc Hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án

trên cơ sở kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa.Việc nghị án được tiến hành

theo quy định tại Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khi nghị án mà

thấy chứng cứ, tài liệu chưa đủ thì Hội đồng quyết định hỏi, tranh luận lại [17,

Điều 307].

Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền:

1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;

2. Sửa bản án sơ thẩm;

3. Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ

vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án lại theo thủ tục sơ thẩm;

4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;

5. Đình chỉ xét xử phúc thẩm;

6. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, sửa đổi,

bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến

pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban

thường vụ quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp

trên cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản trả lời Tòa án

kết quả xử lý.

Khi tuyên án, có thể chủ tọa hoặc một thành viên Hội đồng xét xử

tuyên đọc bản án [17, Điều 313].

Ngoài ra tại Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ còn tiến hành thủ tục phúc

thẩm đối với quyết định của 13 Tòa án cấp huyện, thành phố, thị xã bị kháng

cáo, kháng nghị (Việc giải quyết được thực hiện theo Điều 314 Bộ luật Tố

tụng dân sự năm 2015).

25

Đối với Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án còn thường xuyên tiến

hành kiểm tra đối với những bản án, quyết định của 13 Tòa án cấp huyện,

thành phố, thị xã đã có hiệu lực pháp luật. Qúa trình kiểm tra nếu phát hiện

thấy có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thì làm văn bản trình Chánh

án tỉnh Phú Thọ kiến nghị lên Tòa án nhân dân cấp cao tiến hành xét xử giám

đốc thẩm, tái thẩm theo Thẩm quyền.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, luận văn tập trung luận giải những vấn đề lý luận về

giải quyết tranh chấp tài sản tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.

Luận văn đã đưa ra khái niệm, đặc điểm tranh chấp về tài sản thế chấp bảo

đảm tiền vay Ngân hàng và khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp tài sản

tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.

Đồng thời luận giải những quy định của pháp luật về giải quyết tranh

chấp tài sản tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức

Tòa án phải tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

theo đúng trình tự: Thụ lý vụ án và thông báo về việc thụ lý vụ án; Xác minh,

thu thập chứng cứ; Thủ tục hòa giải, chuẩn bị xét xử; Xét xử tại phiên tòa

(Khai mạc phiên toà; Thủ tục hỏi tại phiên toà; Thủ tục tranh luận tại phiên

toà; Nghị án và tuyên án). Ngoài ra, còn có những vụ án được giải quyết theo

trình tự phúc thẩm sau khi có kháng cáo của các đương sự và kháng nghị của

Viện kiểm sát để giải quyết các vụ án giải quyết tranh chấp tài sản tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng khi chưa đảm bảo quyền lợi cho các đương

sự ở giai đoạn sơ thẩm. Đây là cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng và

đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện

thủ tục giải quyết tranh chấp về tài sản tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng tại Tòa án trong những chương tiếp sau.

26

Chương 2

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN

THẾ CHẤP BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG QUA THỰC TIỄN

XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ

2.1. Khái quát về tình hình kinh tế-xã hội và Tòa án nhân dân tại

tỉnh Phú Thọ

2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ.

Tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên 3533 km2 với vị trí nằm ở vùng tiếp

giáp giữa miền núi và đồng bằng Bắc Bộ, nằm trên trục hành lang kinh tế Hải

Phòng – Hà Nội – Lào Cai – Côn Minh; phía Bắc giáp Tuyên Quang, Yên

Bái; Đông giáp Vĩnh Phúc, Hà Nội; Tây giáp Sơn La; Nam giáp Hòa Bình.

Tỉnh Phú Thọ cách trung tâm thành phố Hà Nội 80 km, cách sân bay quốc tế

Nội Bài 50km, cách cảng Hải Phòng 160km và cách cửa khẩu Lào Cai và Hà

Giang 240km.

Về địa hình, tỉnh Phú Thọ nằm trong vùng trung du Bắc Bộ. Có tiềm năng

phát triển lâm nghiệp, khai thác khoảng sản và phát triển kinh tế trang trại.

Về khí hậu, tỉnh Phú Thọ thuộc vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có

nhiều đặc điểm gần với vùng đồng bằng Bắc Bộ, mùa mưa từ tháng 4 đến

tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ không khí trung

bình 23,40. Lượng mưa ngày lớn nhất 701,2 mm, trung bình năm 1.800mm.

Số giờ nắng trung bình năm 3000 giờ.

Tổng dân số có mặt tại Tỉnh Phú Thọ khoảng 1.463.726 người (thời

điểm 1/4/2019, dân số tạm trú bao gồm dân nhập cư, học sinh, sinh viên và

lao động tại các nhà máy, xí nghiệp 769.400 người. Cơ cấu dân số thành thị

18,1%, nông thôn chiếm 81,9%. Lao động trong độ tuổi chiếm 58%; lao động

tham gia vào nền kinh tế quốc dân qua đào tạo nghề có chứng chỉ trở lên

chiếm 22,7% số lao động trong nền kinh tế quốc dân.

27

Trong giai đoạn 2015-2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của

tỉnh đạt mức 32,5%, cao hơn 11% so giai đoạn 2010-2015 và đạt mức cao

nhất từ trước đến nay. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ

trọng Công nghiệp - Xây dựng, Thương mại - Dịch vụ. Năm 2018, cơ cấu

kinh tế các ngành Công nghiệp - Xây dựng là 37,86%; Thương mại - Dịch vụ:

40,57%; Nông lâm nghiệp và Thuỷ sản: 21,57%.

Tỉnh Phú Thọ có 13 huyện, thành, thị bao gồm: Thành phố Việt Trì, thị

xã Phú Thọ, Lâm Thao, Tam Nông, Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Thủy, Cẩm

Khê, Yên Lập, Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hùng và Phù Ninh.

Tỉnh hiện có gần 7.360 doanh nghiệp với hơn 769.400 lao động, có 02

trường Đại học, 03 viện nghiên cứu, 05 trường cao đẳng, 08 trường dạy nghề.

Năm 2018 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 7,4%, hoàn thành xoá xong nhà tạm

cho hộ nghèo. Giải quyết việc làm cho 16.261 người. Có thêm 33 trường

được công nhận đạt chuẩn quốc gia.

Kết cấu hạ tầng được đầu tư và phát triển, 100% số xã có đường ô tô

đến trung tâm; 100% số xã có điện lưới quốc gia; hoàn thành phổ cập giáo

dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở ; 100%

số trạm y tế xã có bác sỹ và 100% thôn bản có cán bộ y tế; 93,6% hộ dân

được dùng nước sạch.

Tỉnh Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi, trung du phía Bắc đang

vươn mình là một trung tâm về văn hoá, khoa học kỹ thuật và trung tâm văn

hoá xã hội khu vực Tây Bắc.

2.1.2. Khái quát về Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ

Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ trực thuộc hệ thống Tòa án nhân dân

(Hệ thống Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ gồm 13 đơn vị Tòa án nhân

dân cấp huyện, thị, thành phố trực thuộc và 03 Tòa chuyên trách, 3 đơn vị

giúp việc – bộ phận hành chính tư pháp thuộc Tòa án nhân dân tỉnh).

28

Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ hiện có 48 công chức và người lao động,

trong đó có 10 Thẩm phán trung cấp; có 96,7% cán bộ, công chức có trình độ

Đại học trở lên (trong đó, 12,5% là trình độ trên đại học); 100% cán bộ lãnh

đạo Tòa, Thẩm phán có trình độ cao cấp lý luận chính trị. Thái độ, tinh thần

trách nhiệm phục vụ nhân dân và tính chuyên nghiệp trong tác phong, lề lối

làm việc của cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao. [22, tr.1].

Với chức năng, nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ việc và giải

quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời thực hiện việc

kiến nghị khi phát hiện bản án – quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có vi

phạm lên Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện quyền giám đốc thẩm, tái thẩm.

Từ khi thành lập đến nay, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã không ngừng

được xây dựng và hoàn thiện để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử và

thực hiện quyền tư pháp, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo,

chủ động, tích cực khắc phục mọi khó khăn, đổi mới toàn diện các mặt công

tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, vì công lý, vì nhân dân.

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ hiện có 234 công chức và người

lao động gồm có Tòa án nhân dân tỉnh và 13 đơn vị Tòa án nhân dân cấp

huyện, thị, thành phố trực thuộc; Trong đó có 01 Thẩm phán cao cấp, 29

Thẩm phán trung cấp, 47 Thẩm phán sơ cấp. Về trình độ chuyên môn thạc sỹ

là 29 người, cử nhân là 164 người; trình độ lý luận chính trị cao cấp là 46

người, trung cấp là 66 người, sơ cấp là 85 người; 100% cán bộ lãnh đạo Tòa,

phòng, Thẩm phán thuộc Tòa án nhân dân tỉnh và Chánh án, Phó chánh án

Tòa án nhân dân cấp huyện có trình độ cao cấp lý luận chính trị. Thái độ, tinh

thần trách nhiệm phục vụ nhân dân và tính chuyên nghiệp trong tác phong, lề

lối làm việc của cán bộ, công chức của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ

ngày càng được nâng cao; nhiều Thẩm phán được công nhận là “Thẩm phán

giỏi”, “Thẩm phán mẫu mực”. [22, tr.1].

29

Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chức năng, nhiệm vụ xét xử sơ

thẩm các vụ việc và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Từ

khi thành lập đến nay, các Tòa án nhân dân cấp huyện đã không ngừng được

xây dựng và hoàn thiện để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử và thực

hiện quyền tư pháp, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo, chủ

động, tích cực khắc phục mọi khó khăn, đổi mới toàn diện các mặt công tác,

hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, vì công lý, vì nhân dân.

Với sự cống hiến, nỗ lực không ngừng cùng những thành tích đã đạt

được, nhiều tập thể Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ cùng nhiều cá nhân

đã vinh dự được Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Uỷ ban nhân dân tỉnh

Phú Thọ trao tặng những danh hiệu cao quý như: Huân chương lao động hạng

Nhất, Nhì, Ba, Cờ thi đua, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Cờ thi đua

ngành, Cờ thi đua UBND tỉnh, Kỷ niệm chương Hùng Vương,...; Đối với Tòa

án nhân dân tỉnh Phú Thọ được Tỉnh ủy tỉnh Phú Thọ tặng bức trướng với 8

chữ vàng: "Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư".

2.2. Khái quát chung về tình hình giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ

Cùng với sự phát triển của kinh tế và quá trình hội nhập thì các vụ án

dân sự nói chung trong đó có tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng ngày càng có chiều hướng gia tăng. Do nhu cầu nguồn vốn để tạo

động lực thúc đẩy nên kinh tế Việt Nam theo nền kinh tế thị trường có định

hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước. Dẫn đến, tranh chấp tài sản thế chấp

bảo đảm tiền vay Ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên

mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. Tranh chấp về tài sản tài sản

thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng chủ yếu là xác định trách nhiệm và

nghĩa vụ của chủ thể đi vay vốn của Ngân hàng, xác định giá trị tài sản thế

chấp, người bảo lãnh, quyền sử dụng đất và nhà ở. Trong những năm gần đây,

các vụ án dân sự về tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng

30

mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết hàng năm tăng về

số lượng (khoảng hơn 450 vụ việc/năm) và rất phức tạp về nội dung tranh

chấp. Việc giải quyết với số lượng lớn tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của đội ngũ

Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án cùng toàn thể cán bộ công chức và

người lao động của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ.

Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án về dân sự nói chung và tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng của Tòa án nhân dân hai

cấp tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2015-2018 thể hiện như sau:

Năm 2015, tổng số vụ việc Dân sự (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh

doanh thương mại, lao động) thụ lý 3.948 vụ, 64 việc, đã giải quyết, xét xử

3.492 vụ, 47 việc của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ; trong đó tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 351 vụ việc, chiếm

8,75% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý; Đã giải quyết được 309 vụ, việc đạt

tỷ lệ 88,03%, trong đó hòa giải thành là 79 vụ, việc đạt tỷ lệ 19,09%.

Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tổng số vụ việc là 215 vụ việc,

trong đó tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 27 vụ

việc, chiếm 12,55% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý. Trong đó án sơ thẩm là 07

vụ, việc và án phúc thẩm là 20 vụ, việc. Đã giải quyết được 24 vụ, việc đạt tỷ lệ

88,9%, (Án sơ thẩm là 05 vụ và án phúc thẩm là 19 vụ) trong đó hòa giải thành

là 02 vụ; Kết quả xét xử phúc thẩm: Hủy án sơ thẩm 02 vụ, sửa án sơ thẩm 06

vụ, giữ nguyên án sơ thẩm là 11; Có 02 vụ kháng cáo và 05 vụ có khiếu nại lên

Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (Kết quả: Sửa 01 vụ án sơ thẩm và hủy cả

bản án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 03 vụ)

Năm 2016, tổng số vụ việc Dân sự (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh

doanh thương mại, lao động) thụ lý 4.097 vụ, 79 việc, đã giải quyết, xét xử

3.689 vụ, 68việc của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ; trong đó tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 365 vụ việc, chiếm

31

8,74% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý, đã giải quyết được 315 vụ, việc đạt tỷ

lệ 86,3%, trong đó hòa giải thành là 69 vụ, việc đạt tỷ lệ 21,9%.

Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tổng số vụ việc là 226 vụ việc,

trong đó tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 29 vụ

việc, chiếm 12,83% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý. Trong đó án sơ thẩm là 11

vụ, việc và án phúc thẩm là 18 vụ, việc. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã giải

quyết được 23 vụ, việc đạt tỷ lệ 79,3%, (Án sơ thẩm là 08 vụ và án phúc thẩm là

15 vụ) trong đó hòa giải thành là 03 vụ, việc đạt tỷ lệ 13,04%; Kết quả xét xử

phúc thẩm: Hủy án sơ thẩm 01 vụ, sửa án sơ thẩm 04 vụ, giữ nguyên án sơ thẩm

là 10 vụ; Có 03 vụ kháng cáo và 06 vụ có khiếu nại lên Tòa án nhân dân cấp cao

tại Hà Nội (Kết quả: Sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ và hủy cả bản

án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ).

Năm 2017, tổng số vụ việc Dân sự (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh

doanh thương mại, lao động) thụ lý 4.133 vụ, 59 việc, đã giải quyết, xét xử

3.793 vụ, 46 việc của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ; trong đó tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 371 vụ việc, chiếm

8,85% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý, đã giải quyết được 319 vụ, việc đạt tỷ

lệ 85,98%, trong đó hòa giải thành là 63 vụ, việc đạt tỷ lệ 19,7%.

Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tổng số vụ việc là 238 vụ việc,

trong đó tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 31 vụ

việc, chiếm 13,02% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý (Trong đó án sơ thẩm là 08

vụ, việc và án phúc thẩm là 23 vụ, việc). Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã giải

quyết được 25 vụ, việc đạt tỷ lệ 80,6% (Án sơ thẩm là 06 vụ và án phúc thẩm là

19 vụ), trong đó hòa giải thành là 02 vụ, việc đạt tỷ lệ 6,45%. Kết quả xét xử

phúc thẩm: Hủy án sơ thẩm 01 vụ, sửa án sơ thẩm 08 vụ, giữ nguyên án sơ thẩm

là 10 vụ; Có 03 vụ kháng cáo và 06 vụ có khiếu nại lên Tòa án nhân dân cấp cao

tại Hà Nội (Kết quả: Sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ và hủy cả bản

án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ).

32

Năm 2018, tổng số vụ việc Dân sự (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh

doanh thương mại, lao động) thụ lý 4.948 vụ, 81 việc, đã giải quyết, xét xử

4.193 vụ, 67 việc của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ; trong đó tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 374 vụ việc, chiếm

7,4% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý, đã giải quyết được 322 vụ, việc đạt tỷ

lệ 86,09%, trong đó hòa giải thành là 69 vụ, việc đạt tỷ lệ 18,44%.

Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tổng số vụ việc là 316 vụ việc,

trong đó tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 34 vụ

việc, chiếm 10,75% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý (Trong đó án sơ thẩm là

09 vụ, việc và án phúc thẩm là 25 vụ, việc. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã

giải quyết được 27 vụ, việc đạt tỷ lệ 79,4% trong đó hòa giải thành là 03 vụ,

việc đạt tỷ lệ 11,1%. (Án sơ thẩm là 07 vụ và án phúc thẩm là 18 vụ), trong

đó hòa giải thành là 02 vụ, việc đạt tỷ lệ 5,88%. Kết quả xét xử phúc thẩm:

Sửa án sơ thẩm 04 vụ, giữ nguyên án sơ thẩm là 14 vụ; Có 03 vụ kháng cáo

và 07 vụ có khiếu nại lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (Kết quả: Sửa

01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ và hủy cả bản án phúc thẩm và sơ

thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ).

Như vậy, có thể thấy rằng, số lượng vụ việc dân sự mà Tòa án nhân dân

hai cấp tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết trong đó có tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng chiếm tỷ lệ khoảng 8,4% tổng số vụ việc

dân sự (gồm dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động)

và ngày càng tăng. Tuy nhiên, theo Báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án

nhân dân tỉnh Phú Thọ thì tỷ lệ hòa giải thành trong vụ án dân sự có tranh

chấp về tài sản sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng đạt tỷ lệ thấp (năm

2015 là 19,09%; năm 2016 là 21,9%; năm 2017 là 19,7%; năm 2018 là

18,44%. Điều này cho thấy những tranh chấp về tài sản sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng rất phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến người có tài sản thế

chấp phải thi hành, nên tỷ lệ hòa giải thành không cao.

33

2.3. Thực trạng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ.

Qua thực tiễn xét xử cho thấy, về cơ bản các Thẩm phán đã áp dụng

đầy đủ những quy định pháp luật để giải quyết các tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nên tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung đạt

trên 86% (Năm 2015: 88,03%; Năm 2016: 86,3%; Năm 2017: 85,98%; Năm

2018: 86,09% [22, tr.4]).

Trải qua quá trình Ngân hàng và các khách hàng đi vay cung cấp chứng

cứ cùng với việc thu thập chứng cứ của Tòa án thì việc tiếp cận, công khai

chứng cứ và hòa giải là một bước quan trọng mà Tòa án phải thực hiện. Nếu

hòa giải thành, Tòa án sẽ không phải mở phiên tòa, giảm thời gian, chi phí

cho các bên tranh chấp, ngoài ra hòa giải thành sẽ giúp hạn chế tới mức tối đa

sự mâu thuẫn trong quan hệ giữa Ngân hàng với các khách hàng đi vay dẫn

đến khả năng thi hành án cao. Phần lớn Thẩm phán hiểu được việc xác minh

thu thập chứng cứ là một thủ tục quan trọng trong quyết định đến chất lượng

của bản án, quyết định, còn hòa giải là một phương thức để giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng mang lại hiệu quả cao.

Tuy nhiên tỷ lệ hòa giải thành đối với các vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp

bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ chưa

đạt kết quả cao chỉ khoảng hơn 19%: Cụ thể, năm 2015 có 79 vụ, việc hòa

giải thành đạt tỷ lệ 19,09%; Năm 2016 có 69 vụ, việc hòa giải thành đạt tỷ lệ

21,9%; Năm 2017 có 63 vụ, việc hòa giải thành đạt tỷ lệ 19,7%; Năm 2018 có

69 vụ, việc đạt tỷ lệ 18,44%. Do vậy việc đảm bảo tiền vay Ngân hàng bằng

biện pháp hòa giải chưa thực sự có hiệu quả cao.

Các vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng

được đưa ra xét xử đều được thu thập đầy đủ chứng cứ, việc hòa giải cũng

được các Thẩm phán tiến hành với mục đích bảo đảm tiền vay cho Ngân

hàng. Tuy nhiên có nhiều vụ án bị hủy, sửa hoặc sau khi khiếu nại dẫn đến

34

hủy sửa cả án sơ thẩm và án phúc thẩm do sai sót về phần thu thập chứng cứ

hoặc đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ chính xác cũng như việc đưa thiếu người

có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng, cụ thể như sau: Năm 2015

Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã phải hủy 01 vụ án sơ thẩm và sửa án sơ

thẩm 03 vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện; Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà

Nội đã sửa 01 vụ án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ và hủy cả bản

án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ. Năm 2016 Tòa

án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã phải hủy 01 vụ án sơ thẩm và sửa án sơ thẩm 03

vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện; Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã

sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ của Tòa án nhân dân tỉnh Phú

Thọ và hủy cả bản án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02

vụ. Năm 2017 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã hủy 01 vụ án sơ thẩm và sửa

án sơ thẩm 04 vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện; Tòa án nhân dân cấp cao

tại Hà Nội đã sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ của Tòa án nhân

dân tỉnh Phú Thọ và hủy cả bản án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám

đốc thẩm 02 vụ. Năm 2018 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã sửa 04 vụ án sơ

thẩm; Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ

thẩm 01 vụ của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ và hủy cả bản án phúc thẩm và

sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ [22, tr.4].

Theo quy định tại Điều 68, Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 106, Điều 101 Bộ luật dân sự năm 2015 thì khi giải quyết tranh chấp

hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của hộ

gia đình Toà án cần phải đưa các thành viên trong gia đình tham gia tố tụng

với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Đối với tranh chấp hợp đồng vay tài sản có tài sản bảo đảm (thường là

quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất) là tài sản chung của vợ chồng hoặc

là tài sản của hộ gia đình nhưng Tòa án chưa xác minh, làm rõ tại thời điểm

được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hộ gia đình này gồm những

35

ai để đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan trong vụ án là không đúng các quy định nêu trên.

Ví dụ: Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2016/KDTM-ST

ngày 30/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về việc “tranh chấp hợp

đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Quân đội với bị đơn là

ông Trương B, chủ Doanh nghiệp tư nhân Trương B.

Theo quy định tại Điều Điều 68, Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự năm

2015; Điều 106, Điều 101 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 317, Điều 320 Bộ

luật dân sự năm 2015, phải đưa người thế chấp tham gia tố tụng với tư cách là

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và xem xét trách nhiệm của người thế

chấp. Đối với Hợp đồng thế chấp tài sản của người thứ ba để đảm bảo thực hiện

nghĩa vụ dân sự, khi giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm

Toà án không đưa người thế chấp tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền

lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng với các quy định nêu trên.

Khi giải quyết các vụ án liên quan đến tài sản thế chấp, Tòa án cấp sơ

thẩm không xem xét thực tế có ai sinh sống trên đất là tài sản được thế chấp

để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan trong vụ án là có thiếu sót.

Theo quy định tại Điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự

quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và

đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú,

trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền

theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết

được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi

kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ

lý, giải quyết theo thủ tục chung.”

36

Điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-

2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:

“Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa

chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng

văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc

hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực

hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho

người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy

định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015

thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục

chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được

cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;”

Trong thực tiễn, theo Hợp đồng thế chấp tài sản thì người thế chấp có

địa chỉ cư trú rõ ràng. Khi Ngân hàng khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bị đơn

thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng và đề nghị Tòa án kê biên,

phát mại tài sản bảo đảm của bên thế chấp, Ngân hàng gửi kèm theo Hợp

đồng thế chấp, bản phô tô chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của người thế

chấp. Khi Tòa án thụ lý vụ án thì người thế chấp vắng mặt tại địa phương,

đương sự cung cấp được địa chỉ của bên thế chấp ở nước ngoài. Tòa án đã

tiến hành ủy thác tư pháp để thu thập chứng cứ nhưng cơ quan có thẩm quyền

thực hiện ủy thác đã thông báo cho Tòa án là “ủy thác không thành công vì lý

do không có đương sự có tên tại địa chỉ được yêu cầu thực hiện ủy thác”, Tòa

án đã tiến hành thông báo kết quả ủy thác cho các đương sự và yêu cầu họ

cung cấp địa chỉ khác của bên thế chấp tại nước ngoài nhưng các đương sự

không cung cấp được.

37

Có quan điểm cho rằng, trường hợp này không áp dụng quy định tại

Nghị quyết số 04 nêu trên vì Nghị quyết này chỉ áp dụng cho các vụ án không

có yếu tố nước ngoài. Còn trường hợp này là vụ án có yếu tố nước ngoài nên

phải căn cứ quy định tại điểm b khoản 6 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự

năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ án.

Quan điểm nêu trên là không đúng vì quy định tại điểm e khoản 1 Điều

192 Bộ luật Tố tụng dân sự và hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị

quyết số 04/2017/NQ-HĐTP như đã nêu trên áp dụng cho cả trường hợp vụ

án có yếu tố nước ngoài. Đối với tình huống nêu trên, bên thế chấp được coi

là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà

không đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Việc khách hàng trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng trong đó

khi hai vợ chồng cùng đứng ra để vay tiền của Ngân hàng và cùng ký vào các

hợp đồng. Nhưng khi Ngân hàng khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án tiến hành các

biện phán tố tụng nhưng chỉ có một bên vợ (hoặc chồng) có mặt ở địa phương

nên Tòa án buộc phải thu thập chứng cứ làm thủ tục giám định chữ ký và chữ

viết trong Hợp đồng tín dụng mới đảm bảo đúng thủ tục tố tụng với việc ra

bản án nghiêm khắc đối với bên vi phạm để giữ gìn trật tự môi trường kinh

doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. Hay Ngân hàng

không thu thập được tài liệu, chứng cứ là mẫu chữ ký, chữ viết của khách

hàng vay để lấy căn cứ giám định qua đó mới giải quyết được tranh chấp về

tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Trường

hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt thì người thực hiện việc cấp,

tống đạt, thông báo phải lập biên bản và giao cho người thân thích có đủ năng

lực hành vi dân sự cùng nơi cư trú với họ hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng

thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc để thực hiện việc ký nhận hoặc điểm chỉ và

yêu cầu người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt,

thông báo. Biên bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án.”

38

Một số Tòa án cấp huyện vẫn chưa thực hiện đúng quy định này dẫn

đến việc triệu tập đương sự không hợp lệ mà đã cho rằng đương sự được triệu

tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng để đình

chỉ xét xử là không đúng, không bảo đảm quyền lợi của ương sự.

Ví dụ: Tòa án nhân dân huyện T gửi giấy triệu tập cho ông Trần Văn K

và bà Nguyễn Thị Phi O qua đương bưu điện. Tại Giấy báo phát (do Bưu điện

chuyển trả cho Tòa án) thể hiện người nhận giấy triệu tập là bà “Y” nhưng

không thể hiện rõ người này có quan hệ với với ông K, bà O như thế nào và

có cam kết chuyển giấy triệu tập cho ông K, bà O không? Họ tên đầy đủ của

bà Y như thế nào, địa chỉ ở đâu cũng không rõ. Phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất

ông K và bà O vắng mặt. Tòa án nhân dân huyện T tiếp tục tiến hành gửi giấy

triệu tập cho ông K và bà O qua đường bưu điện. Tại Giấy báo phát (do Bưu

điện chuyển trả lại cho Tòa án) thể hiện người nhận là “TTY” và không thể

hiện rõ người này là ai, có quan hệ với ông K và bà O như thế nào và có cam

kết chuyển giấy triệu tập này cho ông K, bà O không? Cũng không rõ họ tên

đầy đủ của người nhận giấy triệu tập này là như thế nào? Tại phiên tòa sơ

thẩm lần thứ hai, ông K và bà O vắng mặt. Như vậy, việc triệu tập của Tòa án

nhân dân huyện T là chưa hợp lệ mà Tòa án đã cho rằng ông K, bà O được

triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng để

đình chỉ xét xử là không đúng, không bảo ảm quyền lợi của đương sự.

Nhiều Tòa án không thể đưa vụ án giải quyết đúng thời gian luật định.

Thực tế Tòa án nhân dân hai cấp ở tỉnh Phú Thọ đã không quyết định đưa vụ

án ra xét xử trong thời hạn tố tụng do pháp luật quy định (thời hạn tối đa 6

tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở

ngại khách quan). Thực tế, có vụ án kéo dài đến 2 năm kể từ ngày thụ lý vụ

án mà Tòa án vẫn không mở được phiên tòa xét xử. Do các Tòa án cần phải

xác minh lại, xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp, định giá tài

sản thế chấp (diện tích đất, chủ sở hữu tài sản...) theo hướng dẫn của Tòa án

39

cấp trên trực tiếp cũng như cần sự phối hợp cung cấp tài liệu chứng cứ của

các cơ quan liên quan.

Quá trình giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để đảm bảo tiền vay

cho Ngân hàng tại Tòa án còn gặp nhiều khó khăn trong việc xác định tài sản

bảo đảm là tài sản chung hay tài sản riêng. Trong khi ký hợp đồng thế chấp tài

sản không đủ căn cứ xác lập quyền tài sản chung hoặc riêng của vợ chồng.

Tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC số 02/2000/NQ-HĐTP

ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy đinh của Luật Hôn nhân và

gia đình năm 2000 đã quy định: “.... Người đang có vợ hoặc có chồng là:

Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn

nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; Người sống chung với người khác như

vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ

chồng mà không đăng ký kết hôn; Người sống chung với người khác như vợ

chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với

nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn

(trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến

trước ngày 01/01/2003)”. Khi có người đi một mình đến ký hợp đồng thi buộc

phải có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của UBND xã, phường để đề

phòng trường hợp hôn nhân thực tế nêu trên. Trong thực tế lại có nhiều

trường hợp người có tài sản bảo đảm lại sống ở nhiều nơi, nhiều quãng thời

gian khác nhau, rất khó xác định tình trạng hôn nhân của người đó. Đối với

trường hợp này, có nhiều tổ chức hành nghề công chứng và ngân hàng lại căn

cứ vào Công văn số 2488/BTP-HCTP ngày 26/6/2006 "V/v thực hiện Nghị

định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch” để xác nhận tình

trạng hôn nhân của những người đã cư trú tại nhiều địa phương khác nhau (kể

cả cư trú ở nước ngoài). Nội dung Công văn này đã quy định: “Trong trường

hợp một người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau (kể cả thời gian cư trú ở

nước ngoài), thì khi đăng ký kết hôn, ngoài việc xác nhận tình trạng hôn nhân

40

của nơi cư trú hiện tại, đương sự phải viết tờ cam kết (không có mẫu riêng) và

chịu trách nhiệm về cam kết của mình về tình trạng hôn nhân trong thời gian

trước đó.”. Có thể hiểu nội dung này chỉ áp dụng cho việc làm thủ tục kết hôn

với người nước ngoài, không có liên quan đến việc chứng minh tài sản là

chung hay riêng, có vợ hay có chồng liên quan đến tài sản đang giao dịch. Đối

với trường hợp con người có “nhiều tình sử” này Ngân hàng cần phải hết sức

thận trọng và phải xác minh đến cùng mới cho thế chấp để vay vì đã có nhiều

trường hợp chỉ có người chồng đứng ra thế chấp tài sản để vay vốn tại Ngân

hàng nhưng đến khi Ngân hàng khởi kiện để giải quyết tranh chấp về tài sản

thế chấp thì “xuất hiện” người vợ đòi lại tài sản chung hợp nhất... cuối cùng

nợ xấu vẫn là nợ xấu. Cũng tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP đã quy

định: “3. Tài sản chung của vợ chồng (Điều 27). Thực tiễn cho thấy chỉ có tài

sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận

quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất...),

song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải

đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của

vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Mặt khác, Khoản

1 Điều 32 đã quy định cụ thế về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền

lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được

trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu,

nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng,

nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh

chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu

phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng

trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy

định tại Khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng

khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối

tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài

41

sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại Khoản 3 Điều

27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.”. Trong trường hợp Giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một người thì chỉ cần một người ký hợp

đồng. Như vậy, khi xảy ra tranh chấp thì Ngân hàng khởi kiện tại Tòa án sẽ

rất khó cho công tác giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng vì người còn lại sẽ khiếu kiện theo như nội dung của Nghị

quyết nêu trên, bởi đây là tài sản chung của hai vợ chồng, nhưng chỉ đứng tên

một người và chỉ có một người ký. Theo đó, bên thế chấp tài sản phải chứng

minh tài sản là của chung hay của riêng tức là phải chứng minh tình trạng hôn

nhân của mình, nếu đã có gia đình thì bắt buộc phải có đủ chữ ký của 02 vợ

chồng trong hợp đồng. Trong trường hợp là tài sản riêng của vợ hoặc chồng

thì phải có tài liệu chứng minh (bản đi chúc, hợp đồng tặng cho riêng...) hoặc

bản cam kết của người còn lại xác nhận tài sản mang ra giao dịch là tài sản

riêng. Khi đó các vụ án giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ được giải quyết

công tâm khách quan đúng pháp luật bảo vệ được quyền, lợi ích chính đáng

cho các bên đương sự.

Nhiều Tòa án nhân dân cấp huyện đã xác định hợp đồng thế chấp vô

hiệu một phần không đúng. Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị

định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch

bảo đảm thì: “ Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không

thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ

sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài

sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa

người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có

thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản

gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử

42

dụng đất.”. Ví dụ: Trường hợp khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng

đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế

chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02

tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3.5 tầng

chưa đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thế chấp tài sản gồm quyền sử

dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Tòa án xác định hợp đồng thế

chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất có một phần vô hiệu (phần

có căn nhà 3.5 tầng) là không đúng. Lẽ ra, cần phải yêu cầu đương sự cung

cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng

nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích của những người đã bỏ

tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại nhà đó. Đồng thời cần hỏi ý kiến,

đề nghị các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản. Trường hợp bên thế chấp và

bên nhận thế chấp thỏa thuận thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản

bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản thuộc sở hữu của người

khác không phải người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được

quyền ưu tiên mua nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng). Cần lưu ý:

Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở

hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người

sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc

sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với

quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.

Đánh giá chung: Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh

doanh thương mại, hôn nhân và gia đình cũng như việc giải quyết các tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng của Tòa án nhân dân

dân tại tại tỉnh Phú Thọ nhìn chung đã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho

các bên đương sự; đã tuân thủ các quy định của pháp luật, chú trọng công tác

hòa giải do vậy đã có nhiều vụ án được hòa giải thành. Tuy nhiên vẫn có có

nhiều vụ án phải xét xử nhiều lần, qua nhiều vòng tố tụng do có thiếu sót

43

trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về tố tụng và nội dung liên

quan đến giao dịch bảo đảm tiền vay Ngân hàng.

2.4. Kết luận chung rút ra từ thực trạng giải quyết tranh chấp về

tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh

Phú Thọ.

2.4.1. Những ưu điểm cơ bản

Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ cơ bản đảm bảo được

tính độc lập khi xét xử, không bị áp lực trong xã hội, đảm bảo sự vô tư, khách

quan, công bằng, bình đẳng, không chậm chễ kéo dài, tuân thủ đúng pháp

luật, hạn chế tối đa sai sót xảy ra.

Quan tâm, chú trọng việc tổ chức hòa giải giữa các bên đương sự, nên

nhiều vụ án sau khi hòa giải, các bên đã thống nhất cách thức giải quyết và

Ngân hàng, tổ chức tín dụng đã rút đơn khởi kiện; đồng thời quan tâm làm tốt

công tác phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc xây dựng hồ sơ vụ án,

thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được

nhanh chóng, kịp thời.

Trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng tại Tòa án đã chú trọng đến việc thu thập chứng cứ, xem

xét, đánh giá, sử dụng chứng cứ phù hợp với yêu cầu của pháp luật trong từng

vụ án cụ thể. Nhiều vụ việc đã được giải quyết hợp lý ngay trong quá trình

hòa giải mà không cần phải mở phiên tòa mà vẫn bảo đảm tiền vay Ngân

hàng. Bản án, quyết định của Tòa đảm bảo tính thuyết phục ngay cả với người

bị kiện được xem là “đương sự khó tính” bậc nhất của tố tụng tư pháp.

“Ví dụ như vụ án giữa Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần

Đầu tư và phát triển Việt Nam, Chi nhánh Phú Thọ với bị đơn là anh Ngô

Quang T. Sau khi Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ đó là xem xét thẩm

định tại chỗ và định giá tài sản. Tòa án tiến hành hòa giải cho các bên đương

44

sự thỏa thuận với nhau, anh T đề nghị Ngân hàng cho phép tự mình bán tài

sản thế chấp và Ngân hàng đồng ý khi đó Ngân hàng đã rút đơn khởi kiện đối

với anh T mà vẫn đảm bảo tiền vay cho Ngân hàng”.

Có nhiều phương pháp tiếp cận, cách thức xây dựng hồ sơ vụ án để giải

quyết vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại

Tòa án của đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đã được nâng

cao một bước và bảo đảm đúng trình tự thủ tục tố tụng.

Công tác kiểm tra giám sát định kỳ hay theo chuyên đề của Phòng

Kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh đến các Tòa án nhân dân cấp

huyện được tăng cường thường xuyên.

Mặc dù các vụ giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng tại Tòa án rất đa dạng phức tạp, nhưng nhìn chung công tác

giải quyết, xét xử loại án này trong thời gian qua các Tòa án nhân dân tại tỉnh

Phú Thọ tiếp tục được đảm bảo. Kỹ năng thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ

cần thiết đề giải quyết vụ án được chính xác, đầy đủ và toàn diện hơn, nhất là

kỹ năng tổ chức, điều hành thủ tục hòa giải giữa Ngân hàng, tổ chức tín dụng

với người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chú trọng

nên nhiều vụ án đã được kết thúc ngay từ giai đoạn hòa giải mà không phải

mở phiên tòa do các bên đã thống nhất được phương án giải quyết, Ngân

hàng, tổ chức tín dụng rút đơn khởi kiện.

2.4.2. Những tồn tại, hạn chế, bất cập

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc giải quyết tranh chấp về tài

sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú

Thọ trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần phải khắc

phục, đó là:

Thứ nhất, có nhiều các vụ án để quá thời hạn giải quyết theo quy định

của pháp luật do lỗi chủ quan của Tòa án chưa được khắc phục triệt để. Vẫn

còn tình trạng chậm gửi bản án, quyết định cho các đương sự, cơ quan có liên

45

quan hoặc chậm tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng. Chưa

khắc phục triệt để việc bản án tuyên không rõ ràng, một số bản án, quyết định

sai sót về thông tin người tham gia tố tụng nên phải đính chính, giải thích. Có

nhiều trường hợp tạm đình chỉ còn thiếu căn cứ hoặc lý do tạm đình chỉ được

thực hiện nhiều lần làm cho thời gian giải quyết vụ án phải kéo dài làm cho

Ngân hàng không thu được tiền để cung cấp nguồn vốn cho nền kinh tế.

Thứ hai, trong quá trình thụ lý, giải quyết một số vụ án tranh chấp về

tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại một số Tòa án nhân dân cấp

huyện cũng như Tòa án nhân dân tỉnh đã áp dụng pháp luật không đúng, việc

thu thập đánh giá chứng cứ còn chưa khách quan toàn diện, chính xác; một số

vụ án xác định thiếu hoặc không đúng tư cách người tham gia tố tụng nên các

bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị hoặc khi có đơn khiếu nại lên

Tòa án nhân dân cấp cao dẫn đến bị sửa, hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán.

Thứ ba, trong quá trình khi giải quyết án, một số Thẩm phán – Chủ tọa

phiên tòa còn lúng túng thậm chí giải quyết vụ việc không đúng với quy định

của pháp luật; chưa có kỹ năng nhận diện chính xác về điều kiện khởi kiện,

của đối tượng khởi kiện, người có quyền khởi kiện; thiếu chính xác trong

đánh giá điều kiện thụ lý vụ án; chưa xác định được những vấn đề, những tình

tiết, chứng cứ có tính chất cốt lõi, nền tảng để khai thác, nhấn mạnh trong lập

luận để giải quyết bảo đảm tính thuyết phục; kỹ năng quản lý và điều hành tại

phiên tòa nhiều khi chưa thực sự “chuyên nghiệp”, còn nặng về áp đặt, quy

chụp. Việc nhận xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ chưa toàn diện, chưa đảm

bảo tính khách quan, chưa bảo đảm tính logic chưa cao.

2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, bất cập

Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên

nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó, chủ yếu là các nguyên

nhân cơ bản sau đây:

46

Một là, Hệ thống pháp luật liên quan đến xét xử các vụ án giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án vẫn còn

có những vấn đề chưa đầy đủ, chưa thống nhất, có những quy định pháp luật

chưa đáp ứng thực tế; chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp, thiếu rõ ràng,

chưa chi tiết, cụ thể, thậm chí có xung đột nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung

hoặc ban hành văn bản hướng dẫn kịp thời, nên có nhiều Thẩm phán có

những cách hiểu khác nhau, không đồng nhất; có những quy định pháp luật

chưa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Các điều luật

quy định có tính chất bổ trợ trong hoạt động tố tụng như thủ tục cấp, tống đạt,

thông báo văn bản tố tụng, giám định, thẩm định, định giá… chưa mang tính

xã hội hóa, còn ràng buộc trách nhiệm cho Tòa án.

Hai là, Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành còn nhiều hạn chế, chưa

chủ động đề ra các giải pháp, chưa thật sự quyết liệt đề ra những giải pháp cụ

thể, mang tính hiệu quả cao đối với nhiệm vụ giải quyết tranh chấp về tài sản

thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

Ba là, Năng lực về chuyên môn, đặc biệt là ý thức trách nhiệm, kỷ

cương, kỷ luật, tính gương mẫu của một bộ phận Thẩm phán, Thẩm tra viên,

Thư ký trong ngành Tòa án vẫn chưa nghiêm, chưa thường xuyên tự học hỏi

để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán.

Chưa nhận thấy hết được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong hoạt động

giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa

án. Một số Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án còn thụ động, thậm chí

ngại giải quyết xét xử, giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng tại Tòa án. Kỹ năng và bản lĩnh nghề nghiệp đôi khi còn hạn

chế, còn có biểu hiện đùn đẩy, né tránh; ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương

công vụ chưa nghiêm, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân chưa

tốt; chưa thực sự gần dân, giúp dân, học dân nên hiệu quả công tác chưa đáp

ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đã đề ra.

47

Bốn là, Số lượng các vụ án mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ

phải giải quyết tăng, thẩm quyền của Tòa án được mở rộng với tính chất vụ

án ngày càng phức tạp, trong khi biên chế Thẩm phán còn chưa được bổ sung.

Năm là, Công tác phối hợp với các cơ quan chuyên môn trong giải

quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án

còn nhiều hạn chế, chưa có quy định cụ thể nhiệm vụ và trách nhiệm của các

cơ quan chuyên môn trong công tác phối hợp cũng như chế tài khi cán bộ các

cơ quan chuyên môn không tham gia công tác phối hợp; đặc biệt vấn đề phối

hợp với cơ quan Tài nguyên và Môi trường, cơ quan Tài chính và các cơ quan

hữu quan trong việc thẩm định, định giá tài sản, cung cấp thông tin, tài liệu,

chứng cứ chưa được đầy đủ, kịp thời, thậm chí có trường hợp không cung cấp

thông tin hay thông tin chung chung cho Tòa án khi đã có yêu cầu hay né

tránh khi cung cấp; Hoặc đôi khi vụ án còn gặp nhiều khó khăn do thiếu sự

hợp tác của các đương sự nên một số vụ án còn bị kéo dài.

Sáu là, Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân

dân của ngành Tòa án nói riêng và hệ thống cơ quan tư pháp còn chưa được

thường xuyên kịp thời nên hiệu quả chưa cao dẫn đến sự hiểu biết và nhận

thức của người dân còn hạn chế. Nhận thức pháp luật của một số đương sự

chưa đầy đủ còn nhiều vấn đề cần phải được bổ sung, dẫn đến trong nhiều

trường hợp đương sự cố tình né tránh, đối phó, thậm chí chống đối bằng nhiều

hình thức như: gây khó khăn trong việc cung cấp lời khai, chứng cứ, không

đến Tòa theo giấy triệu tập, khiếu nại kéo dài,… làm ảnh hưởng đến thời hạn

và chất lượng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân

hàng tại Tòa án.

Bảy là, Điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của ngành Tòa

án nói chung, cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ nói

riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc. Không gian làm việc cho

Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án còn chật hẹp, thiếu phương tiện

48

thiết yếu phục vụ cho công việc. Công nghệ thông tin còn lạc hậu, cần truy

cập những thông tin, tài liệu, chứng cứ của các ngành khác như: Tài nguyên,

môi trường, Thuế, tài chính, Ngân hàng, kho bạc…để phục vụ cho việc giải

quyết án rất khó khăn, vướng mắc. Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công chức

đặc biệt là Thẩm phán còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc

nên nhiều khi chưa yên tâm công tác.

Tiểu kết chương 2

Bằng phương pháp khảo sát, nghiên cứu, phân tích thực tiễn, tác giả

luận văn đã đánh giá cụ thể, khách quan tình hình hoạt động giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án từ thực tiễn

xét xử tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. Hoạt động giải quyết tranh chấp

về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án đã được quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên

cạnh đó, hoạt động giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng tại Tòa án vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập về công tác

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; về phẩm chất, năng lực của đội

ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; về áp dụng pháp luật cũng

như về sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong quá trình thực hiện cung

cấp chứng cứ, thẩm định, định giá… Những hạn chế, bất cập đó do nhiều

nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ

quan. Do vậy, nghiên cứu để tìm ra giải pháp khả thi khắc phục những hạn

chế, bất cập, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp về tài sản

thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhằm bảo đảm nguồn vốn để

phát triển kinh tế là một vấn đề hết sức cần thiết hiện nay.

49

Chương 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM

TIỀN VAY NGÂN HÀNG

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp

về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phù hợp với quan điểm, yêu

cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Tiếp tục triển khai nghiêm túc văn bản chỉ đạo của Đảng và Quốc hội

về công tác tư pháp, các nhiệm vụ công tác của TAND tối cao đã đề ra; đẩy

mạnh việc quán triệt thi hành một số văn bản quy phạm pháp luật mới có liên

quan về công tác của Tòa án. Triển khai học tập Nghị quyết trung ương 8

khóa XII của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Qua đó tiếp tục hoàn thiện

pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân

hàng tại Tòa án trên cơ sở tiếp tục thể chế hoá Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết

số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020 trên cơ sở bảo đảm phù hợp với các quy định của Hiến

pháp [22, tr.7]. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phải đáp ứng được các tiêu chí

đánh giá yêu cầu hoàn thiện pháp luật như tính thống nhất; đồng bộ và toàn

diện; tính khả thi và phù hợp với thực tiễn; tính công khai, minh bạch; phù

hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam; tính hiệu quả và khả năng dự báo,

tôn trọng quyền con người...

Do vậy, tính thống nhất phải được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật

50

về giải quyết các vụ án dân sự nói chung cũng như đối với từng văn bản quy

phạm pháp luật và từng quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài

sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nói riêng. Giữa pháp luật

về nội dung đó là Bộ luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng cũng như về hình

thức tố tụng phải bảo đảm được tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì

giữa các thành tố cấu tạo nên nó mới đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật về

giải quyết ttranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa

án được thực thi một cách có hiệu quả.

Về tính đồng bộ và toàn diện nghĩa là phải có đầy đủ chế định pháp luật

và quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã

hội trong lĩnh vực quản lý đặc biệt là lĩnh vực cho vay của Ngân hàng; Không

có các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của các quy

phạm pháp luật trong mỗi bộ phận và trong từng bộ phận khác nhau của hệ

thống pháp luật. Để đảm bảo điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp

luật được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hoà về nội dung mà

còn phải bảo đảm tính thứ bậc của mỗi văn bản về giá trị pháp lý của chúng.

Về tính khả thi và phù hợp với thực tiễn thể hiện ở sự phù hợp của các

văn bản quy phạm pháp luật mà đặc biệt là của các văn bản luật với các quy

luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện vô cùng quan

trọng bảo đảm cho tính khả thi và hiệu quả của pháp luật; Sự phù hợp của

pháp luật phải đi đôi với điều kiện chính trị của đất nước, mà điều quan trọng

nhất là phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Hệ thống pháp luật của

Việt Nam hiện nay phải thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của

Đảng Cộng sản Việt Nam đã được đề ra tại Đại hội lần thứ XII và các kỳ Đại

hội trước của Đảng, thể chế hóa chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã

hội của Đảng trong điều kiện đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

51

nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mở cửa, hội nhập quốc tế.

Về tính công khai, minh bạch đảm bảo mọi người dân đều được biết,

được tiếp cận pháp luật, đều có thể nắm bắt được pháp luật; Các quy định

pháp luật phải được quy định một cách dễ hiểu, dễ tiếp cận; Mọi người dân

đều có thể hiểu được các quyền và nghĩa vụ của mình qua đó mới tuân thủ

nghiêm túc và thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Về tính ổn định, hiệu quả và khả năng dự báo là yêu cầu cần thiết, bởi

không thể thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp

luật. Đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam; Tạo khung

pháp luật thống nhất cho việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế và hoạt

động tương trợ tư pháp, cũng như tạo cơ chế để bảo đảm thực thi các cam kết

quốc tế của Việt Nam nhằm tôn trọng quyền con người.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp về tài

sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án gắn với công tác cải

cách hành chính và cải cách tư pháp.

Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa

IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ:

“Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính.

Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo

điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng

giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án”. Do vậy, ngày

12/3/2014, Bộ Chính trị khóa XI đã có Kết luận số 92-KL/TW về việc tiếp tục

thực hiện Nghị Quyết số 49-NQ/TW tiếp tục khẳng định: Nghị quyết số 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 về cơ bản là đúng đắn. Các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương

cần phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, vướng

mắc, tiếp tục thực hiện mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp

nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX vẫn còn phù

52

hợp với thực tiễn. Đồng thời, quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương,

đường lối của Đảng nêu trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII và các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 có liên quan đến tổ chức,

hoạt động tư pháp. Cũng như tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

Do vậy, cần nghiên cứu, tổng hợp, phân tích đề ra giải pháp hoàn thiện

pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng

tại Tòa án phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập

kinh tế quốc tế. Kiện toàn tổ chức, bộ máy Tòa án nhân dân các cấp, tuyển dụng

đủ số lượng biên chế được giao, bảo đảm chất lượng cán bộ có chức danh tư pháp,

phân bổ biên chế hợp lý cho các đơn vị, địa phương; đẩy mạnh công tác đào tạo,

bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện đạo đức, phẩm chất cho đội

ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án cũng như người lao động.

Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phải đảm bảo sự gắn kết giữa hoạt động xét xử,

công tác cho vay của hệ thống Ngân hàng và thi hành án dân sự. Tăng cường sự

phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và quy định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của

Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án và Ủy ban nhân dân các cấp trong hoạt động

thi hành án dân sự để bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi

hành có hiệu quả, thực chất, bền vững nhằm bảo đảm tiền vay Ngân hàng.

Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phải phù hợp với chủ trương cải

cách hành chính, cải cách tư pháp, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của

đất nước, đồng thời bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước

đối với hoạt động xét xử của Tòa án.

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phải đảm bảo tuân thủ pháp

luật, bảo vệ công lý, quyền con người.

Giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng

53

tại Tòa án là một cơ chế pháp lý cần thiết và không thể thiếu trong điều kiện

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang xây dựng

Nhà nước pháp quyền mà ở đó điều kiện tiên quyết là tính tối thượng của

pháp luật phải được bảo đảm. Với tinh thần thượng tôn pháp luật của toàn xã

hội, không phân biệt ai, thuộc giai tầng nào, đẳng cấp nào trong xã hội đều

đối xử bình đẳng trước pháp luật. Tòa án nhân dân với vai trò là cơ quan “cầm

cân, nẩy mực” “Phụng công thủ pháp”, [22, tr.1] được Đảng và Nhà nước

giao phó, nhân dân tin cậy, không có tư cách nào khác ngoài mục tiêu cao

nhất là luôn luôn tuân thủ pháp luật một cách chính xác nhất, khách quan nhất

và trung thực nhất. Giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng tại Tòa án vận hành một cách hiệu quả, phát huy vai trò, tác dụng

tích cực trong xã hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi và góp phần quan trọng trong

việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, mọi quyết

định của Tòa án luôn luôn được kiến tạo trên nền tảng pháp luật, luôn phù

hợp với pháp luật, đúng pháp luật trên tất cả các phương diện: thực hiện pháp

luật, áp dụng pháp luật và chấp hành pháp luật. Các bản án, quyết định giải

quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng phải “thấu

tình - đạt lý”, có tính thuyết phục cao, phán quyết vô tư, không thiên vị, được

sự đồng tình của đông đảo quần chúng nhân dân và dư luận xã hội được đảm

bảo thi hành trên thực tế. Đồng thời làm cho các bên trong quan hệ vay và cho

vay sử dụng nguồn vốn đạt hiệu quả cao.

3.2. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án

Hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án là vấn đề hết

sức cần thiết hiện nay nhưng vấn đề này rất phức tạp, cần có kế hoạch khoa

học, có bước đi phù hợp với sự tham gia của nhiều tổ chức, nhiều lực lượng

tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó, trước mắt, cần tập trung thực

54

hiện các giải pháp sau:

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản thế chấp

bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân các cấp.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, bởi những quy định của pháp

luật là cơ sở, căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ án nói chung, giải quyết

tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nói riêng. Các nội

dung quy định của pháp luật càng có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn xã

hội, rõ ràng, cụ thể, không chồng chéo, mâu thuẫn thì việc giải quyết vụ án

tranh chấp càng nhanh chóng, chính xác, bảo đảm quyền lợi của các bên

đương sự. Qua đó giúp các Ngân hàng thu hồi nguồn vốn đạt hiệu quả cao để

cung cấp nguồn vốn cho thị trường tạo động lực thúc đẩy cho nền kinh tế.

Hiện nay, các quy định của pháp luật và việc áp dụng vào giải quyết

các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng còn bộc lộ

nhiều hạn chế, bất cập; bởi lẽ, hệ thống pháp luật của nước ta có rất nhiều văn

bản quy phạm pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn. Vì vậy, cần thiết phải hoàn

thiện pháp luật để việc giải quyết tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng cho phù hợp với thực tiễn. Việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết

tranh chấp tài thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng, theo tác giả luận văn,

cần tập trung vào các nội dung sau:

Thứ nhất, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể hơn về

giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng theo thủ

tục rút gọn. Theo rà soát sơ bộ, đến nay vẫn chưa có vụ án nào được áp dụng

trong thực tế theo hướng dẫn thủ tục rút gọn. Nguyên nhân trước hết là do sau

gần một năm Nghị quyết 42 có hiệu lực, đến ngày 15/5/2018 Tòa án Nhân

dân tối cao mới ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP (có hiệu lực từ

ngày 1/7/2018) hướng dẫn áp dụng các quy định của Nghị quyết 42. Khi đã

có hướng dẫn nêu trên, việc hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của Tòa án lại

khó khăn. Tiêu biểu như việc thực hiện quy định về xác nhận công nợ, tài liệu

55

về nơi cư trú của người bị kiện (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan). Khi

xảy ra nợ xấu, đa phần khách hàng trốn tránh, không hợp tác với Ngân hàng

để phối hợp xử lý, nên việc xác nhận này rất khó thực hiện. Ngoài ra, Tòa án

cấp dưới chưa mạnh dạn triển khai thực hiện thủ tục rút gọn vì chưa có "tiền

lệ", tâm lý "sợ sai sót" trong quá trình xét xử vẫn hiện hữu.

Thứ hai, cần có những quy định về thủ tục tố tụng, hướng dẫn cụ thể

đối với một số tranh chấp đặc thù như tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng. Việc pháp luật tố tụng không có những quy định riêng về

trình tự, thủ tục tố tụng đối với những tranh chấp có tính đặc thù này là một

khiếm khuyết không hề nhỏ làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả, chất lượng

giải quyết vụ án. Hiện nay, Nhà nước ta đã thông qua Luật tổ chức Tòa án,

Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của

các tổ chức tín dụng, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018

hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp

xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân. Như vậy

chúng ta càng cần có một quy định tố tụng cụ thể hơn về lĩnh vực giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.

Cùng với đó là việc Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục lựa chọn những

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật làm án lệ để cho Tòa án nhân dân

các cấp lựa chọn áp dụng khi giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo

đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

Thứ ba, hoàn thiện quy định về hòa giải trong giải quyết vụ án tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.

Hòa giải là một chế định quan trọng trong tố tụng dân sự. Là hoạt động

do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc

giải quyết vụ án dân sự. Việc hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa

đảm bảo tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và công dân, giảm bớt giai đoạn tố

tụng kéo dài, vừa giải quyết triệt để các mâu thuẫn giữa các đương sự… Do

56

đó, nếu chế định hòa giải không được quan tâm trong việc giải quyết vụ án

dân sự nói chung, trong giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng thì quyền và lợi ích của các bên đương sự sẽ không được bảo

đảm.

Đối với các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng,

việc hòa giải và vai trò hòa giải của Tòa án là rất quan trọng. Mục đích hòa

giải mang nhiều ý nghĩa tích cực, nó liên quan đến quyền lợi và sự ổn định

của các mối quan hệ xã hội. Do đó, Thẩm phán tiến hành hòa giải phải là

người có kiên nhẫn và tâm huyết. Để công tác hòa giải mang lại hiệu quả luật

cần quy định khi hòa giải cần có các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế tham

gia hòa giải. Các chuyên gia kinh tế là những hiểu biết sâu sắc về các mối

quan hệ trong quan hệ kinh tế sự lắng nghe, phân tích thấu đáo của họ cũng sẽ

góp phần rất lớn cải thiện mối quan hệ và những xung đột tranh chấp giữa các

bên trong quan hệ vay và cho vay. Khi giải quyết vụ án, các tài liệu có tại

nhiều hồ sơ vụ án không thể hiện tài sản gắn liền với đất là gì, của ai, do

những ai quản lý, sử dụng… nhiều Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành xác

minh để tiến hành hỏa giải cho các bên thỏa thuận được quyền sử dụng đất và

tài sản gắn liền với đất là tài sản bảo đảm thuộc quyền sử dụng của ai.

Đối với các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng

có liên quan đến quyền sử dụng đất, vẫn còn nhiều ý kiến không thống nhất

khi thụ lý, giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai năm

2013 thì Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi

tranh chấp đó đã được hòa giải ở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh

chấp. Như vậy, có tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất phải thông

qua hòa giải ở cơ sở là thủ tục bắt buộc.

Vậy đối với vụ án này có tranh chấp tài sản là quyền sử dụng đất và nhà

ở gắn liền với quyền sử dụng đất thì có phải thực hiện thủ tục hòa giải ở cơ sở

hay không. Hiện nay có ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có ý kiến cho rằng:

57

Tất cả những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình (kể cả tranh chấp về tài sản

thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng) mà có liên quan đến đất đai đều phải

thông qua thủ tục hòa giải ở cấp xã. Tuy nhiên, có một số ý kiến cho rằng

cách giải quyết này là không đúng quy định thực chất của Luật Đất đai. Bởi

lẽ, theo quy định của Luật Đất đai thì chỉ những trường hợp tranh chấp đất đai

mới thuộc đối tượng phải qua thủ tục hòa giải ở cơ sở mà cụ thể là Uỷ ban

nhân dân cấp xã trước khi khởi kiện đến Tòa án, còn vụ án liên quan đến giải

quyết tranh chấp về tài sản thế chấp có tài sản là quyền sử dụng đất hoặc

không có tài sản là quyền sử dụng đất thì quan hệ của vụ án là quan hệ tín

dụng giữa người cho vay và người đi vay, không phải là quan hệ đất đai. Mặt

khác, tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử

dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai; còn trong quan hệ tín

dụng Ngân hàng phải xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất nhằm bảo

đảm tiền vay Ngân hàng, chứ không phải dựa chủ yếu vào Luật Đất đai và Bộ

luật Dân sự để xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.

Qua thực tiễn xét xử ở Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ, do quy định

của pháp luật không hạn định loại tranh chấp đất đai nào phải qua hòa giải ở

cấp cơ sở nên nhiều Thẩm phán đã lựa chọn theo “giải pháp an toàn” là bất cứ

tranh chấp nào mà đối tượng của tranh chấp đề cập đến đất đai là đều yêu cầu

đương sự quay trở về hoà giải ở cấp cơ sở. Điều này dẫn đến nhiều trường

hợp gây khó khăn cho đương sự và kéo dài các thủ tục tố tụng, thậm chí việc

áp dụng quá cứng nhắc điều luật cũng đã dẫn đến nhiều vụ án việc hoà giải ở

cấp cơ sở chỉ mang tính hình thức. Ví dụ, tranh chấp đất đai không được hòa

giải, bản thân kết quả của việc hoà giải thành này cũng không có giá trị thực

hiện bởi lẽ, kể cả khi các bên đã bước vào quá trình tố tụng, Bộ luật Tố tụng

dân sự cũng đã quy định những vụ án không được tiến hành hoà giải. Tuy

nhiên, điều này lại không đặt ra đối với thủ tục hoà giải tiền tố tụng (Điều 203

58

Luật Đất đai năm 2013). Do vậy, theo quan điểm của tác giả luận văn, đối với

tranh chấp đất đai với mục đích bảo đảm tiền vay Ngân hàng thì không cần

qua hòa giải ở cơ sở vì bản chất đây đã được thể hiện rõ qua các hợp đồng tín

dụng đã được ký kết.

Thứ tư, Hoàn thiện cơ chế đảm bảo tiền vay cho Ngân hàng, tổ chức tín

dụng.

Cần có một cơ chế đảm bảo tiền vay theo hướng không qui định thế chấp,

cầm cố hoặc bảo lãnh là điều kiện vay vốn mà khách hàng vay bắt buộc phải

thực hiện hoặc được “ưu đãi” miễn thực hiện, mà chỉ nên qui định có tính khuôn

khổ pháp luật tách bạch rõ ràng tín dụng theo hướng thương mại và theo chính

sách.

Đối với tín dụng thương mại thì đưa ra nhiều biện pháp đảm bảo tiền

vay một cách phong phú, đa dạng, trên cơ sở đó các Ngân hàng lựa chọn

khách hàng, lựa chọn các dự án để tự quyết định cho vay cần có đảm bảo

hoặc không cần có đảm bảo bằng tài sản. Việc thực hiện được tiến hành đối

với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử. Đối

với tín dụng theo chính sách tức tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với một số

đối tượng khách hàng và dự án cần thiết thì do Chính phủ chỉ định cho vay và

không cần biện pháp đảm bảo bằng tài sản, khi bị tổn thất do các nguyên nhân

khách quan về các khoản vay thi được Chính phủ xử lý.

Cơ chế đảm bảo tiền vay như vậy sẽ khắc phục được một số vướng

mắc:

- Các cơ quan Chủ động phối hợp với Toà án Nhân dân tối cao, Viện

kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ Công an, Tổng cục địa chính để

nghiên cứu soạn thảo, ban hành một văn bản liên tịch nhằm hoàn thiện cơ sở

pháp lý, tạo thuận lợi và an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các khó khăn ách

tắc trong việc giải toả, phát mãi tài sản thế chấp, cầm cố ở các Ngân hàng hiện

59

nay.

- Hiện nay mặc dù tài sản thế chấp đã đưa ra Toà và để tiến hành giải

quyết tranh chấp theo pháp luật nhưng trình tự giải quyết thường kéo dài

ngoài ý muốn. Trong khi đó, lãi quá hạn vẫn phát sinh có thể dẫn đến không

thu hồi đủ nợ gốc và lãi. Do đó đề nghị Ngân hàng nên có văn bản cho phép

ngừng tính lãi kể từ ngày có quyết định của Toà án đối với những tài sản thế

chấp, cầm cố được tiến hành xử lý theo pháp luật.

- Hoàn thiện quy định về định giá tài sản bảo đảm: Chính phủ nên đưa

ra một khung giá “mở”, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn

trong việc định giá tài sản không đi quá xa so với giá qui định của Nhà nước,

nhưng cũng không bị cố định vào khung giá đó, tránh được tình trạng giá theo

khung giá của Nhà nước thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường, đặc biệt là đối

với thị trường bất động sản. Qui định chặt chẽ công tác hạch toán của doanh

nghiệp để tránh cho việc đánh giá tài sản theo sổ sách kế toán không đúng, các

con số thường khác xa so với thực tế. Từng bước để thành lập một tổ chức chuyên

môn về định giá tài sản thế chấp, cầm cố. Trong các quan hệ tín dụng, khi đã hết

thời hạn vay vốn của khách hàng mà khách hàng chưa trả được nợ thì thường các

Ngân hàng không khởi kiện ngay mà tìm mọi cách thu nợ, đến khi đã có đủ căn

cứ để xác định là khách hàng không có khả năng trả nợ, khoảng thời gian này

thường kéo dài trên 6 tháng. Lúc này Ngân hàng mới khởi kiện ra Toà án thì đã

quá thời hiệu khởi kiện và bị Tòa án bác bỏ đơn kiện.

- Nâng cao quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng và

khách hàng trong việc quyết định cho vay và nghĩa vụ trả nợ; Nhà nước

không can thiệp quá sâu vào quá trình quyết định cho vay và đi vay của Ngân

hàng và khách hàng.

Thứ năm, nâng cao hơn nữa hiệu quả và hiệu lực của kết quả bán đấu

giá tài sản thế chấp. Thực tế, biện pháp xử lý thế chấp bằng việc bán đấu giá

ngày càng trở nên phổ biến, theo quy định Pháp luật. Để vừa tạo điều kiện

60

thuận lợi, thông thoáng cho các Ngân hàng vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng

cho các bên có liên quan, thiết nghĩ việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử

dụng đất thì Nhà nước nên:

- Tạo cơ chế thông thoáng hơn trong xử lý bán đấu giá;

- Tạo lập cơ chế cưỡng chế bảo đảm thực thi quyết định đấu giá, sau

khi trúng đấu giá, bất luận tài sản chưa thu giữ được vẫn phải bàn giao cho

Bên trúng đấu giá, cơ quan chức năng thực hiện cưỡng chế đối với tài sản để

thu giữ và bàn giao cho người mua, không cần đưa ra Tòa án...

- Khi đã thực hiện các biện đã nêu trên nhưng nếu sau thời hạn nhất

định kể từ ngày đến hạn trả nợ mà vẫn chưa xử lý được thì Ngân hàng được

trọn quyền trực tiếp xừ lý, bán tài sản để thu hồi nợ, kể cả việc nhận lại tài sản

từ các tổ chức bán đấu giá để bán. Trong trường hợp này, người có tài sản

đảm bảo không được quyền khiếu kiện.

- Đa dạng hóa hình thức xử lý, có cơ chế thuận lợi hơn để bảo đảm việc

cho phép các Ngân hàng được nhận tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất để

thay thế nghĩa vụ trả nợ nếu Ngân hàng xét thấy việc khai thác tài sản đảm

bảo có khả năng thu hồi nự hoặc có nhu cầu sử dụng đất để xây dựng trụ sở,

phòng giao dịch nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và

không chịu thuế, phí liên quan.

3.2.2. Nâng cao chất lượng xét xử các vụ án tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng

Chất lượng xét xử các vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng là những kết quả của quá trình đánh giá, sử dụng chứng cứ, áp dụng pháp

luật của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng và hệ thống Tòa án nhân dân nói

chung để đưa ra những phán quyết đúng đắn, khách quan phù hợp với quy định của

pháp luật, với chuẩn mực đạo đức xã hội nhằm giải quyết kịp thời các tranh chấp phát

sinh trong quan hệ pháp luật giữa Ngân hàng và các chủ thể đi vay.

Chất lượng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

61

Ngân hàng là những phán quyết của Hội đồng xét xử phải hoàn thành các chỉ

tiêu công tác xét xử các vụ án về dân sự nói chung và vụ án về giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nói

riêng. Qua đó, thỏa mãn các chuẩn mực, các tiêu chuẩn, phù hợp với mục

đích của giải quyết tranh chấp của Tòa án. Chuẩn mực trong giải quyết tranh

chấp của Tòa án là sự phù hợp, sự chuẩn chỉ với các quy định của pháp luật tố

tụng cũng như pháp luật nội dung có liên quan đến tranh chấp về tài sản thế

chấp. Đồng thời, phù hợp với các quy chuẩn của đạo đức xã hội. Bản án,

quyết định của Tòa án “thấu lý - đạt tình”, trước hết được chính Ngân hàng và

người có tài sản thế chấp chấp nhận cũng như dư luận xã hội chấp thuận,

đồng tình, ủng hộ. Bản án, quyết định thực sự được hiện thực hóa trong đời

sống xã hội, thuyết phục được các bên đương sự trên cơ sở phán quyết của

Tòa án thực sự vô tư, khách quan, không thiên vị.

Để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp

bảo đảm tiền vay Ngân hàng, cần thực hiện tốt các nội dung sau:

Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật khi giải quyết các

loại vụ án nói chung, trong đó có các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng nói riêng. Tăng cường công tác tập huấn các văn bản quy

phạm pháp luật mới có liên quan đến công tác xét xử án dân sự về giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án thường xuyên tổ chức kiểm tra

công tác để rút kinh nghiệm về những sai sót mà Tòa án nhân dân cấp huyện

thường gặp khi giải quyết vụ án về tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại đối với

Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án các cấp để nâng cao kiến thức đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về chuyên

môn nghiệp vụ, tăng cường kỹ năng cho Hội thẩm nhân dân hai cấp tỉnh Phú

62

Thọ để đảm bảo khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; bồi dưỡng Thẩm

phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án rèn luyện phẩm chất chính trị, nâng cao

trình độ chuyên môn nghiệp vụ để xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra

viên, Thư ký Tòa án vững về chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng

ngày càng cao của công cuộc cải cách tư pháp và yêu cầu của nhân dân.

Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao tăng cường công tác tập huấn để cải

thiện kỹ năng viết bản án, kỹ năng tiếp cận với công nghệ thông tin, hỗ trợ

cho công tác xét xử qua công tác trực tuyến. Thường xuyên tổ chức Hội thảo

chuyên đề để nâng cao chất lượng trong hoạt động xét xử và tham gia góp ý

xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

Nâng cao, phát huy trách nhiệm, vai trò cá nhân của người đứng đầu cơ

quan Tòa án đặc biệt là đồng chí Chánh án. Tăng cường tinh thần trách nhiệm

của từng cán bộ, Thẩm phán trong công tác. Nâng cao hơn nữa kỷ luật công vụ.

Bảo đảm cơ sở vật chất và quan tâm hơn nữa về chế độ, chính sách cho

cán bộ làm công tác Tòa án. Trước hết, cần đảm bảo trang thiết bị, máy móc

phục vụ cho cán bộ, Thẩm phán làm việc; kịp thời sửa chữa, thay mới các

thiết bị đã hư hỏng hoặc quá lạc hậu. Mặc dù chế độ chính sách tiền lương đối

với cán bộ đã được quan tâm chỉnh sửa theo hướng tăng dần cho cán bộ; tuy

nhiên, so với sự phát triển chung của xã hội thì vẫn chưa đáp ứng đủ các nhu

cầu trong đời sống. Vì vậy, cần có giải pháp về chế độ chính sách về tiền

lương, phải cải tổ một cách mạnh mẽ để cán bộ an tâm công tác, phục vụ đất

nước, phục vụ nhân dân mới đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.

Đẩy nhanh việc đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc

theo hướng hiện đại kể cả việc xây dựng các phòng xử án theo mô hình mới;

đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, hoạt động

xét xử; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tiếp cận Toà án như nộp đơn

khởi kiện qua mạng; lưu trữ bản án, quyết định trên đường truyền mạng nội

63

bộ phục vụ nhanh chóng cho người dân khi có yêu cầu khai thác tài liệu.

Tiếp tục tăng cường, đổi mới công tác hòa giải tiến tới xây dựng Luật

hòa giải. Hòa giải là thủ tục bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ việc

dân sự. Vì vậy, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện

thuận lợi để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ

việc dân sự. Đối với những vụ án về tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với

nhau về việc giải quyết vụ án. Khi thực hiện công tác hòa giải, Tòa án giải

quyết trên nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự,

không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực bắt buộc các đương sự phải thỏa

thuận không phù hợp với ý chí của mình; nội dung thỏa thuận của các đương

sự không được trái pháp luật và trái đạo đức xã hội. Xuất phát từ nguyên tắc

này, Thẩm phán nên kiên trì hòa giải, giáo dục, thuyết phục để các bên đương

sự có thể hòa giải và thỏa thuận với nhau về những vấn đề đang tranh chấp

đặc biệt là phải giải quyết về tài sản đã thế chấp. Thông qua việc thực hiện

hòa giải theo luật định khi giải quyết các vụ việc dân sự, Thẩm phán giải thích

để các đương sự hiểu đúng pháp luật về vấn đề họ đang tranh chấp đó là việc

trả tiền cho Ngân hàng. Việc hòa giải thành có ý nghĩa rất quan trọng vì giúp

cho vụ án sớm được giải quyết; đảm bảo được sự đoàn kết, ổn định trong nội

bộ nhân dân; tiết kiệm và hạn chế tối đa chi phí về thời gian và tiền bạc cho

các bên tranh chấp…

Bên cạnh việc củng cố và kiện toàn hệ thống pháp luật, nâng cao điều

kiện về cơ sở vật chất và con người góp phần thực hiện có hiệu quả công tác

xét xử, giải quyết các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân

hàng, các cấp, các ngành cần quan tâm tăng cường công tác giáo dục, phổ

biến pháp luật để mọi công dân đều biết và thực hiện. Công tác tuyên truyền,

giáo dục pháp luật cho công dân là nhiệm vụ chung của hệ thống các cơ quan

tư pháp, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật có thể được thực hiện ở nhiều

64

cơ quan, đơn vị. Đối với Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ nói riêng và hệ

thống Tòa án nhân dân nói chung việc giáo dục pháp luật là một trong những

chức năng, nhiệm vụ đặc biệt coi trọng mà thông qua hoạt động xét xử được

công khai. Vì, ngoài Hội đồng xét xử còn có đông đảo nhân dân theo dõi

phiên tòa, nhất cử nhất động của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa nói riêng, hội

đồng xét xử nói chung đều được những người tham gia tố tụng, đương sự của

vụ án và những người tham dự phiên tòa quan sát, đánh giá. Thông qua các

phiên tòa để tuyên truyền pháp luật cho nhân dân, để người dân có thể tự liên

hệ vào bản thân mình mà hiểu các quy định của pháp luật.

3.2.3. Chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ Thẩm phán, Thẩm tra

viên, Thư ký Tòa án

Đây là giải pháp hàng đầu có ý nghĩa quyết định. Chủ tịch Hồ Chí

Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muốn việc thành

công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Theo đó, trong giải quyết

tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng, đội ngũ Thẩm phán,

Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định chất

lượng, hiệu quả của hoạt động này.

Thông qua Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới và Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020 đều xác định: “Rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ

cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh”, “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp,

bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền

hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị,

phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội

đối với từng loại cán bộ” và “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ

nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng

65

yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực. Theo đó, ngành Tòa án nhân dân nói

chung và Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ nói chung đã rất chú trọng

việc kiện toàn và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận,

bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh của đội ngũ cán bộ,

công chức trong ngành, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Do đó, đội ngũ cán

bộ, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án ngành Tòa án nhân dân đã

không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng. Thực

tiễn cho thấy, trong những năm qua ngành Tòa án nhân dân đã không ngừng

lớn mạnh. Song song với việc triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên

môn, lãnh đạo ngành Tòa án nhân dân rất chú trọng tới công tác kiện toàn tổ

chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra

viên và Thư ký Tòa án đảm bảo về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành và của các địa phương. Đội ngũ cán bộ,

công chức, Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án của ngành Tòa án

nhân dân về cơ bản đã phát huy và giữ vững được bản lĩnh chính trị, phẩm

chất đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân; đã tích lũy được nhiều

kinh nghiệm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ

động hội nhập kinh tế, quốc tế; là lực lượng quan trọng góp phần cùng toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc

đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án ngành

Tòa án nhân dân vẫn còn những hạn chế, bất cập như: Đội ngũ Thẩm phán,

Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án chưa thực sự ổn định, chuyên nghiệp; trình độ,

năng lực tuy đã được nâng lên một mức nhưng chưa ngang tầm với yêu cầu

nhiệm vụ, nhất là tri thức về xã hội, kinh tế thị trường, trình độ ngoại ngữ và kiến

thức pháp luật quốc tế phục vụ cho hội nhập quốc tế, hành chính nhà nước, kỹ

năng thực thi công vụ, cũng như khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện

đại trong hoạt động công vụ; cơ chế quản lý, sử dụng và chế độ, chính sách đãi

66

ngộ, nhất là tiền lương, phụ cấp còn nhiều bất hợp lý, chưa tương xứng với tính

chất nghề nghiệp và chế độ trách nhiệm pháp lý, chưa thực sự có sức hấp dẫn,

chưa tạo được động lực khuyến khích đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư

ký Tòa án đề cao trách nhiệm, phấn đấu rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức,

năng lực công tác, chưa thu hút được người tài phục vụ cho cơ quan Tòa án…Do

vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án

vừa là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên vừa là đòi hỏi cấp thiết hiện nay để nâng

cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng. Nội dung nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và

Thư ký Tòa án phải được tiến hành toàn diện cả về phẩm chất và năng lực.

Tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành theo hướng phân công,

phân cấp hợp lý, phát huy tính chủ động sáng tạo và tăng cường trách nhiệm

của người đứng đầu. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán

bộ công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Tòa án trong sạch

vững mạnh, thường xuyên kiểm tra, thanh tra nội bộ, kịp thời phát hiện và xử

lý nghiêm minh các sai phạm. Rà soát tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và

cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo chủ trương của Đảng, Nhà nước và

TAND tối cao. Làm tốt công tác cán bộ theo Nghị quyết Hội nghị trung ương

7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về tập

trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín

của đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án phải có bản lĩnh

chính trị vững vàng, trung thành với Tổ quốc, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và gắn với việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;

trọng dân, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân, phục vụ và bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của nhân dân; trách nhiệm, tận tụy, sáng tạo, kỷ cương, phụng

công, thủ pháp, chí công vô tư trong công việc; đoàn kết, thân ái, hợp tác,

giúp đỡ để cùng tiến bộ với đồng nghiệp; thường xuyên nêu gương cần, kiệm,

67

liêm, chính, thượng tôn pháp luật; dũng cảm, kiên quyết bảo vệ công lý,

quyền con người; liêm khiết, trung thực, vô tư, khách quan, công khai, minh

bạch trong công việc.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký

Tòa án, cần tập trung thực hiện tốt các biện pháp sau:

Thứ nhất, công tác tuyển chọn phải được ưu tiên hàng đầu. Công tác

tuyển chọn phải được tiến hành chặt chẽ, đúng nguyên tắc, quy trình; bám sát

tiêu chí, tiêu chuẩn, không chỉ bảo đảm về số lượng tuyển chọn, bổ nhiệm mà

còn phải bảo đảm về tiêu chuẩn, chất lượng và được thực hiện một cách chặt

chẽ theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Nguồn tuyển chọn, bổ nhiệm các

chức danh như Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án phải là những

cán bộ đã có bằng Cử nhân luật, Đối với Thẩm phán có đủ thời gian làm công

tác pháp luật và đã qua đào tạo về nghiệp vụ xét xử. Thẩm phán đặc biệt phải

trải qua kỳ thi Thẩm phán qua Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán; có trình độ Cao

cấp lý luận chính trị (hoặc cử nhân chính trị), có thành tích xuất sắc nhiều năm

liền trong công tác và bảo đảm đủ độ tuổi bổ nhiệm ít nhất là một nhiệm kỳ.

Thứ hai, làm tốt khâu quy hoạch gắn với sử dụng đội ngũ Thẩm phán,

Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án. Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, dự báo tình

hình phát triển, quy mô, cơ cấu, tổ chức biên chế của Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Phú Thọ để xây dựng quy hoạch. Quy hoạch một chức danh phải có nhiều

nguồn, nhiều độ tuổi; một người có thể là nguồn quy hoạch của nhiều vị trí; gắn

quy hoạch nguồn tại chỗ với tạo nguồn trong toàn ngành. Định kỳ kiểm tra, rà

soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp; đồng thời, chú trọng bố trí, sắp

xếp, sử dụng cán bộ theo quy hoạch, sở trường, chuyên môn của mỗi người.

Thứ ba, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao chất

lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án theo hướng chuyên

nghiệp và hiện đại. Phải thường xuyên làm tốt công tác bồi dưỡng nâng cao trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên bằng nhiều hình thức, phương

68

pháp. Trong đó, lấy việc bồi dưỡng thông qua thực tiễn công tác, người đi trước

bồi dưỡng người đi sau, cấp trên bồi dưỡng cấp dưới; đồng thời, kết hợp với gửi

đi đào tạo, tập huấn ở các cơ sở giáo dục, đào tạo về nghiệp vụ xét xử, nghiệp vụ

chuyên môn cũng như việc đào tạo lại tại Học viện Tòa án cũng như cử cán bộ

có năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị đạo đức đi đào tạo ở nước ngoài.

Thứ tư, nâng cao và phát huy hơn nữa vai trò tự học, tự nghiên cứu là

con đường ngắn nhất giúp đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa

án nhanh chóng tiến bộ, trưởng thành.

Thứ năm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và tạo điều kiện thuận

lợi để đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án yên tâm công tác,

trưởng thành, tiến bộ. Phải bám sát, thực hiện tốt chủ trương, chính sách, bảo

đảm đúng, đủ các tiêu chuẩn của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán,

Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án, nhất là về chế độ tiền lương và các loại phụ

cấp khác như: phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên công tác, chế độ bồi

dưỡng phiên tòa, chế độ trang phục...; mặt khác, cần nghiên cứu, vận dụng

phù hợp với thực tiễn hoạt động của từng cơ quan, đơn vị, địa phương một

cách khách quan, công bằng; có chính sách để thu hút những người có năng

lực, tâm huyết. Bên cạnh đó, cần đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động của

Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án như tăng cường kinh phí, cơ sở

vật chất, phương tiện hoạt động của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ.

3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm và

thường xuyên thực hiện việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc

đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo

đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án

Đây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa to lớn, cần được tiến hành

thường xuyên để đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài

sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

Một là, Tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành theo hướng phân

công, phân cấp hợp lý, phát huy tính chủ động sáng tạo và tăng cường trách

69

nhiệm của người đứng đầu. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho đội

ngũ cán bộ công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Tòa án trong

sạch vững mạnh, thường xuyên kiểm tra, thanh tra nội bộ, kịp thời phát hiện

và xử lý nghiêm minh các sai phạm. Rà soát tổ chức bộ máy, tinh giản biên

chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo chủ trương của Đảng, Nhà

nước và TAND tối cao. Làm tốt công tác cán bộ theo Nghị quyết Hội nghị

trung ương 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII

về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đầy đủ phẩm chất, năng lực và

uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám

sát, xử lý vi phạm trong giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng tại Tòa án.

Kiểm tra, giám sát mang tính tất yếu do xu thế lạm quyền trở thành qui

luật phổ biến của việc tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Bất kỳ ai khi

có quyền lực trong tay, bất kỳ nơi nào có quyền lực thì đều có xu hướng mở

rộng quyền và sử dụng quyền cho đến khi nào gặp giới hạn. Xu hướng lạm

quyền đó sẽ trở thành phổ biến, chuyên quyền nếu không có cơ chế giám sát

quyền lực hiệu quả. Vì vậy, việc kiểm tra, giám sát thực hiện quyền lực Nhà

nước được coi là vấn đề cơ bản, trọng yếu của nhà nước pháp quyền, là một

trong những công cụ chính trị - pháp lý quan trọng để hạn chế việc lạm

quyền. Theo đó, kiểm tra, giám sát hoạt động của Tòa án cũng như giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng khi giải quyết tại

Tòa án là một vấn đề hết sức quan trọng hiện nay.

Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án cấp tỉnh phải thực hiện tốt

chức năng kiểm tra giám sát về chuyên môn nghiệp vụ đối với Tòa án nhân

dân cấp huyện, thành phố, thị xã cũng như các Tòa chuyên trách cấp tỉnh.

Tăng cường chức năng giám đốc hoạt động xét xử. Giám đốc xét xử là

việc Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao kiểm tra tính đúng đắn

về hoạt động xét xử của Toà án cấp dưới. Trong thực tiễn xét xử do những lý

do khác nhau Toà án cấp dưới có những sai lầm, thiếu xót trong quá trình giải

70

quyết vụ án, vì vậy việc giám đốc của Toà án cấp trên nhằm khắc phục những

sai lầm thiếu xót đó là cần thiết, góp phần vào bảo vệ pháp chế xã hội chủ

nghĩa, xử lý công minh, đảm bảo đúng pháp luật. Giám đốc việc xét xử thể

hiện ở việc Toà án cấp trên xét lại bản án hoặc quyết định của Toà án cấp

dưới thông qua các hoạt động: kiểm tra phát hiện những sai lầm, thiếu xót của

Toà án cấp dưới; giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã

hội và của công dân về các bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật; tổng

kết kinh nghiệm xét xử; hướng dẫn Toà án cấp dưới áp dụng pháp luật thống

nhất; kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục

giám đốc, tái thẩm. Thông qua các hoạt động này Tòa án cấp trên kịp thời uốn

nắn, khắc phục những sai lầm trong công tác xét xử của Tòa án cấp dưới.

Phòng tổ chức cán bộ và thi đua khen thưởng kết hợp với Phòng kiểm

tra nghiệp vụ và thi hành án cấp tỉnh, cần phải chủ động xây dựng kế hoạch

kiểm tra, xây dựng đội ngũ kiểm tra giám sát trong nội bộ cơ quan cũng như

xây dựng kế hoạch kiểm tra theo chuyên đề để tăng cường công tác quản lý và

kiểm điểm những vi phạm trong công tác giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nhằm hạn chế các hành vi tiêu cực can

thiệp vào quá trình giải quyết vụ án giúp cho Ngân hàng thu hồi hiệu quả

nguồn vốn.

Cần công khai hóa, minh bạch quá trình giải quyết án tranh chấp về tài

sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án. Trước hết là các bản án,

quyết định giải quyết của Tòa án để nhân dân có điều kiện thực hiện quyền giám

sát, phản biện xã hội đối với phán quyết của Tòa án. Thông qua đó phát hiện

những sai sót trong giải quyết án hành chính của Tòa án để kịp thời có cơ chế

pháp lý khắc phục. Mặt khác, cũng thông qua đó đánh giá được đạo đức (cả về

trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp) của Thẩm phán, của những người

tham gia giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại

Tòa án. Một trong những yêu cầu đặt ra là các hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ

khi bắt đầu cho tới khi kết thúc phải được công khai, minh bạch. Những bản án,

71

quyết định của Tòa án tiếp tục phải được công khai hóa trên mạng (trừ những

trường hợp đặc biệt) để tiện lợi cho hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức

và nhân dân. Nâng cao vai trò phản biện xã hội của hệ thống chính trị và nhất là

các tổ chức chính trị - xã hội và đông đảo nhân dân đối với hoạt động xét xử của

Tòa án nhân dân.

Phát huy vai trò của báo chí, công luận trong kiểm tra, giám sát hoạt

động xét xử, giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân

hàng tại Tòa án.

Xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với những vi phạm trong việc giải

quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án,

nhất là đối với những lỗi cố ý của những người tiến hành tố tụng. Thực hiện

nghiêm túc các chế định về bồi thường thiệt hại trong hoạt động tư pháp, kể

cả hoạt động hành chính nhà nước có liên quan đến xét xử, giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

Hai là, thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về giải

quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

Công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm là một công việc không thể

thiếu trong hoạt động của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ nói chung,

trong xét xử, giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân

hàng tại Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng. Bởi lẽ, thực hiện tốt việc sơ

kết, tổng kết, rút kinh nghiệm thực chất là nhằm đánh giá kết quả đạt được,

những hạn chế còn tồn tại, tìm ra nguyên nhân, những kinh nghiệm bổ ích cho

công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ về giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng trong thời gian tiếp theo.

Đảng ta khẳng định: “Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận

thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác chủ động và sáng tạo,

bớt được những sai lầm và bước đi quanh co, phức tạp” [3, tr.56]. Thực tế

những năm qua, việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong hoạt động của

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ nói chung, trong xét xử, giải quyết

72

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân

dân hai tỉnh Phú Thọ nói riêng cũng đã được tiến hành, qua đó đã đánh giá được

ưu điểm, khuyết điểm, rút ra được một số kinh nghiệm nhưng việc sơ kết, tổng

kết chưa kịp thời, đánh giá thực trạng còn chung chung, có nội dung còn mang

tính hình thức, những kinh nghiệm rút ra chưa thực sự sát và mang tính đột phá.

Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án cũng như xét xử, giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án, hiện nay

và những năm tới cần phải làm tốt việc sơ kết, tổng kết hơn nữa.

Tổ chức việc sơ kết, tổng kết phải làm từng cấp, từ dưới lên. Phải căn

cứ vào mục tiêu, yêu cầu, nội dung mà sơ kết, tổng kết. Yêu cầu sơ kết, tổng

kết phải tiến hành chặt chẽ, cụ thể, tỷ mỷ đi sâu vào nội dung của từng vụ án

cụ thể, tránh hình thức, làm qua loa, đại khái. Qua đó mới tìm ra giải pháp

đảm bảo cho việc thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án. Thành phần phải bao gồm các

đối tượng có liên quan. Nội dung sơ kết, tổng kết có thể toàn diện hoặc chỉ đi

sâu vào một hoặc một số nội dung thủ tục giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án, nhưng phải nêu rõ đặc điểm tình

hình thuận lợi, khó khăn trong triển khai và tổ chức thực hiện, đánh giá đúng

thực trạng, tìm đúng nguyên nhân; trách nhiệm của từng tổ chức, lực lượng và

mỗi cán bộ, nhân viên; rút ra được những kinh nghiệm thiết thực để nâng cao

hiệu quả trong giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân

hàng tại Tòa án thời gian tiếp theo.

Ở đây, cần khắc phục hai khuynh hướng khi rút ra kinh nghiệm trong

sơ kết, tổng kết là: Thứ nhất, rút ra những kinh nghiệm mang tính công thức,

chung chung, không có giá trị phổ biến; Thứ hai, rút ra những kinh nghiệm

thiếu cơ sở thực tiễn (không có thật). Những kinh nghiệm này nói quá nhiều

đến công việc phải làm gì mà lại thiếu những chỉ dẫn cần và nên làm thế nào

cho có chất lượng và hiệu quả. Có như vậy, việc sơ kết, tổng kết mới có ý

73

nghĩa thiết thực, bảo đảm tính khả thi.

3.2.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế hỗ trợ giải

quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng

Một là, Làm tốt công tác xây dựng đảng, quán triệt và thực hiện nghiêm túc

Nghị quyết TW4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn,

đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với yêu cầu xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức TAND trong sạch, vững mạnh. Tăng cường việc tổ chức các phiên

tòa rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng và kỹ năng nghiệp vụ

cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án. Đồng thời tăng cường bồi dưỡng, đào tạo

chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp của TAND hai cấp [22, tr.7].

Hai là, kiến nghị các cơ quan Chủ động phối hợp với Toà án Nhân dân tối

cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ Công an, Tổng cục địa chính

để nghiên cứu soạn thảo, ban hành một văn bản liên tịch nhằm hoàn thiện cơ sở

pháp lý, tạo thuận lợi và an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các khó khăn ách tắc

trong việc giải toả, phát mãi tài sản thế chấp, cầm cố ở các Ngân hàng hiện nay

nhằm bảo đảm việc thực thi trên thực tế về giải quyết tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng tại Tòa án tạo điều kiện tốt nhất cho Ngân hàng.

Ba là, Triển khai các biện pháp nhằm tăng cường thực hiện cải cách thủ

tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả

xử lý công việc và công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án. Thực hiện

tốt việc công khai bản án, quyết định của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử

Tòa án nhân dân.

Bốn là, Tiếp tục triển khai áp dụng các giải pháp để nâng cao chất

lượng xét xử, hoàn thành các chỉ tiêu công tác của ngành Tòa án nói chung và

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ nói riêng. Cụ thể: Đảm bảo 90% các vụ

việc được giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định; Giải quyết, xét xử các vụ,

việc dân sự đạt từ 85% trở lên đặc biệt công tác giải quyết tranh chấp về tài sản thế

chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng đạt trên 95%; Số lượng vụ án dân sự, hôn nhân

và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động hòa giải thành so với số lượng vụ

74

án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà Tòa án cấp

sơ thẩm đã giải quyết đạt tỷ lệ đạt từ 60% trở lên; 99% quyết định công nhận sự

thỏa thuận của các đương sự không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;

Đảm bảo 100% các bản án, quyết định của Toà án được ban hành trong thời hạn

luật định; Phấn đấu giảm tỷ lệ các bản án, quyết định bị huỷ, sửa do lỗi chủ quan

của Thẩm phán thấp hơn chỉ tiêu mà Tòa án nhân dân tối cao đã đặt ra [22, tr.5].

Đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xét xử các loại vụ án, thực hiện tốt

nguyên tắc tranh tụng, đảm bảo các phán quyết của Tòa án phải đúng pháp

luật, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.

Chú trọng làm tốt công tác hòa giải, nghiên cứu áp dụng để triển khai

theo mô hình Đề án thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong

giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính của TAND tối cao.

Năm là, Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử và

đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật, chú trọng việc xây dựng và triển khai áp

dụng án lệ. Triển khai về đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử theo đúng tinh thần

cải cách tư pháp, đảm bảo phiên tòa thể hiện được tính uy nghiêm, thể hiện

văn hóa pháp đình, sự tôn trọng đối với Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm

sát; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng và

tôn trọng nội quy, trật tự phiên tòa.

Sáu là, tăng cường vai trò của đoàn thể và các cơ quan Nhà nước khác

trong việc hỗ trợ, phối hợp với Tòa án để giải quyết những tranh chấp.

Để công tác giải quyết các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp đảm bảo

tiền vay Ngân hàng có hiệu quả thì ngoài vai trò của Tòa án thì các đoàn thể như

Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Phòng tài nguyên và môi trường,

Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất,… cũng là những cơ quan có thể đóng góp

rất lớn. Hiện nay, dù các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay Ngân

hàng ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp và trong các vụ án tranh chấp đó, các

đương sự liên quan không được bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, nhưng

thực tế cho thấy các cơ quan nêu trên trên với chức năng, nhiệm vụ của mình vẫn

còn chưa có được tiếng nói mạnh mẽ để bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự.

75

Do đó, cần phải có biện pháp tác động đến đoàn thể như: Ban hành các chính

sách, các quy định để các đoàn thể cùng tham gia tích cực trong việc bảo vệ nguồn

vốn của Ngân hàng nói riêng và Nhà nước nói chung tại địa phương, góp phần

cung cấp nguồn vốn cho thị trường tạo điều kiện phát triển kinh tế của đất nước.

Trong công tác xét xử các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm

tiền vay Ngân hàng thì Tòa án cần có sự phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát,

Công an, chính quyền địa phương và các cơ quan ban ngành khác trong việc

cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu liên quan đến công tác giải quyết vụ án

nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, kịp thời đảm bảo về mặt quyền lợi

của các đương sự. Do đó, cần tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ

quan trên với Tòa án và trách nhiệm của các cơ quan này trong việc phối hợp,

hỗ trợ Tòa án trong việc thực hiện tố tụng, cụ thể hơn cần quy định rõ chi tiết

những nhiệm vụ này trong luật để các cơ quan liên quan không chối bỏ hay

chậm trễ khi Tòa án có yêu cầu phối hợp.

Bảy là, tăng cường công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng thống

nhất pháp luật.

Hiện nay do các quy định của pháp luật chúng ta vẫn còn những quy

định mâu thuẫn, chồng chéo, còn nhiều các quy định chưa cụ thể, rõ ràng nên

dẫn đến cách hiểu, cách áp dụng pháp luật chưa thống nhất về giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng trong hệ thống Tòa

án.Trong nhiều trường hợp cùng một điều luật, cùng một nội dung tranh chấp

về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nhưng các Tòa án lại có cách

nhìn nhận, đánh giá, áp dụng pháp luật và phán quyết khác nhau, gây mất

lòng tin trong dân chúng, chưa thực sự bảo đảm quyền và lợi ích cho các

đương sự cũng như thực sự bảo vệ quyền con người. Do đó, cần tăng cường

công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật mới có thể

mang lại sự thống nhất và hiệu quả của công tác xét xử.

Tám là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong

quần chúng nhân dân.

Cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế xã hội thì trong khi vay

76

vốn Ngân hàng nhiều chủ thể không trả nợ được cho Ngân hàng thường tỏ ra

trây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Bên cạnh đó, do trình độ kiến thức pháp luật

trong lĩnh vực tín dụng nhiều chủ thể vẫn còn hạn chế nên đã gây ra khó khăn

nhất định cho cơ quan trực tiếp giải quyết tài sản thế chấp. Vì vậy cần phải có

các biện pháp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các Ngân hàng cũng

như các quy định trong hợp đồng tín dụng đến người dân đặc biệt là các chủ

thể đi vay. Việc tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua báo chí, mạng

lưới truyền thanh cơ sở, internet, thông qua tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý

hay xét xử lưu động của Tòa án.

Tiểu kết chương 3

Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thủ tục giải quyết tranh chấp

về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án là một vấn đề

không đơn giản, cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, có kế hoạch khoa học, cụ thể

và bước đi phù hợp. Do vậy, cần phải có phương hướng cụ thể, phải đáp ứng

yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, gắn với cải cách hành chính và cải

cách tư pháp.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả thủ tục giải quyết tranh chấp về tài

sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án, cần phải tiến hành nhiều

nội dung biện pháp khác nhau, trong đó, trước mắt cần tập trung tạo sự

chuyển biến căn bản về nhận thức, trách nhiệm cho các tổ chức, các lực

lượng; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp về tài sản

thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án; nâng cao chất lượng xét xử

các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng; nâng cao

chất lượng của Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án; thường xuyên tổ

chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; tăng cường công tác kiểm tra, giám

sát, xử lý vi phạm và sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong giải quyết

77

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.

KẾT LUẬN

Qua công tác xét xử, giải quyết tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Phú Thọ cho

thấy trong thời gian gần đây, các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng có xu hướng ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất phức

tạp. Chủ yếu liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp của người vay hoặc xử

lý tài sản bảo lãnh, thế chấp của người thứ ba. Hệ thống pháp luật để giải

quyết loại tranh chấp này đã tương đối đầy đủ, toàn diện. Tuy nhiên, còn một

số điểm vướng mắc, bất cập, nhất là trong việc xử lý tài sản thế chấp của các

hợp đồng tín dụng. Khi xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng,

cần chú trọng các cam kết, thỏa thuận cụ thể của các bên trong hợp đồng tín

dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay. Thực tế đã cho thấy các tranh chấp về tài

sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng rất phức tạp, thường kéo dài, mất

nhiều thời gian, tiền của, công sức của các đương sự cũng như của các cơ

quan tiến hành tố tụng.

Luận văn đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận về giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương

thức Tòa án. Trên cơ sở luận giải, làm rõ các khái niệm, luận văn đã đưa ra

khái niệm, đặc điểm về tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay

Ngân hàng; giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay

Ngân hàng; Pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản tài sản thế chấp để

bảo đảm tiền vay Ngân hàng; luận giải về thủ tục giải quyết tranh chấp về tài

sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng (khai mạc phiên tòa; thủ tục hỏi;

tranh luận; nghị án và tuyên án).

Luận văn đã đánh giá cụ thể, khách quan thực trạng giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng qua thực tiễn xét xử của

Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. Hoạt động xét xử nói chung, giải quyết

tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nói riêng đã được

78

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy

nhiên, bên cạnh đó, giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay

Ngân hàng vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Những hạn chế, bất cập đó

do nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên nhân khách quan và nguyên

nhân chủ quan.

Luận văn đã chỉ ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và

đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo

đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án. Đặc biệt, luận văn đã đề xuất một số giải

pháp cụ thể, khả thi để nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp về tài sản

thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng, đó là: tiếp tục hoàn thiện pháp luật về

giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa

án; đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ thể về giải quyết tranh

chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án theo thủ tục

rút gọn; nâng cao chất lượng xét xử các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp bảo

đảm tiền vay Ngân hàng; nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra

viên, Thư ký Tòa án; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm;

tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm; đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; tăng cường sự phối hợp giữa các

cơ quan liên quan trong giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền

vay Ngân hàng tại Tòa án.

Các giải pháp mà luận văn đề xuất có mối quan hệ biện chứng, tác

động, bổ sung cho nhau, nên cần được tiến hành đồng bộ, tránh tuyệt đối hóa

hoặc coi nhẹ một giải pháp nào. Có như vậy, công tác giải quyết tranh chấp về

tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án mới thực sự có chất

lượng, hiệu quả trên thực tế, qua đó tạo điều kiện cho Ngân hàng thu hồi được

nguồn vốn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho việc xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, thực tiễn luôn luôn

vận động, phát triển. Do đó, vấn đề này vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu để

79

bổ sung, hoàn thiện.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bình luận khoa học, Bộ luật dân sự năm 2015, NXB Công an nhân dân,

Hà Nội 2017.

2. Nguyễn Thị Minh Chi (2004), Pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng

tín dụng, thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ.

3. Đảng cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội Đảng.

4. Lê Thu Hiền (2003), Bảo đảm tiền vay ngân hàng, thực trạng và giải

pháp, luận văn thạc sỹ.

5. Dương Quỳnh Hoa (2012), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết

tranh chấp thay thế đối với các quan hệ thương mại trong giai đoạn hiện

nay ở nước ta, luận án tiến sỹ.

6. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình kinh tế học

phát triển, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội 2004.

7. Hoàng Thị Huế, Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm

tiền vay Ngân hàng từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà

Nội, luận văn thạc sỹ.

8. Ngô Quốc Kỳ (2003), Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của

ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học.

9. Tưởng Duy Lượng (2019), Thế chấp tài sản – biện pháp bảo đảm thông

dụng và một số vấn đề cần chú ý, Tạp chí Tòa án nhân dân (Số 5-2019),

10. Tưởng Duy Lượng (2019), Thực tiễn giải quyết tranh chấp có liên quan

đến biện pháp bảo đảm tại cơ quan tài phán và kiến nghị hoàn thiện pháp

luật, Tạp chí Tòa án nhân dân (Số 8-2019):

11. Tưởng Duy Lượng (2019), Thực tiễn giải quyết tranh chấp có liên quan

đến biện pháp bảo đảm tại cơ quan tài phán và kiến nghị hoàn thiện pháp

80

luật, Tạp chí Tòa án nhân dân (Số 9-2019):

12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Các tổ

chức tín dụng.

13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất

đai.

15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn

nhân và gia đình.

16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố

tụng dân sự.

17. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật dân

sự 2015.

18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017) Nghị quyết về

thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng số 42/2017/QH 14.

19. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm

2014.

20. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm

2015.

21. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm

2016.

22. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm

2017.

23. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày

15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng

dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về

xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân.

24. Nguyễn Kiên Bích Tuyền (2018), Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn

81

của Ngân hàng thương mại: Những bất cập và hướng hoàn thiện, Tạp chí

Tòa án nhân dân (Số 18-2018),

25. Từ điển luật học, – NXB Tư pháp, Hà Nội 2006.

26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật dân sự tập 2. NXB

Công an nhân dân năm 2017.

27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự,

82

NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2017.