VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VIỆT DŨNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP
ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VIỆT DŨNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP
ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng ai công bố trình bất cứ công
trình nào khác.
Tác giả luận văn
Trần Việt Dũng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN
HÀNG BẰNG PHƯƠNG THỨC TÒA ÁN .......................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng ............................................................................................................ 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo
đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án ....................................... 13
1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm
tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án ................................................ 17
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN
THẾ CHẤP BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG QUA THỰC TIỄN
XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ ......................... 27
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế-xã hội và Tòa án nhân dân tại tỉnh
Phú Thọ .............................................................................................................. 27
2.2. Khái quát chung về tình hình giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ ..... 30
2.3. Thực trạng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. .................................... 34
2.4. Kết luận chung rút ra từ thực trạng giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. ........... 44
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY
NGÂN HÀNG ........................................................................................................... 50
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài
sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án ................................ 50
3.2. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án ........ 54
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 80
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Việt Nam, trước nhu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triền kinh
tế, việc tạo lập, vận hành một thị trường tài chính tiền tệ lành mạnh thông qua
hệ thống Ngân hàng, hiệu quả là một nhu cầu tất yếu. Ngày nay, các Ngân
hàng ở Việt Nam có nhiều loại hình hoạt động với những tên gọi khác nhau.
Đến cuối năm 2018, hệ thống các Ngân hàng, tổ chức tín dụng trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ đang có tổng cộng 20 (chi nhánh Cấp 1) và 39 quỹ tín dụng
nhân dân.
Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển, đáng ghi
nhận. Hệ thống Ngân hàng và hoạt động tín dụng có những bước phát triển đột
phá, góp phần quan trọng trong nền kinh tể của nước ta. Mặc dù vậy, gần đây,
trong hoạt động của mình, Ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn. Những năm
gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường nên đời sống xã hội cũng
như kinh tế của người dân ngày càng được đảm bảo và nâng cao. Song, mặt
trái của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến nhiều người sống buông thả, coi
trọng vật chất, xem nhẹ tình cảm. Điều đó làm cho những tranh chấp về tài
sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng có tính quyết liệt, căng thẳng hơn,
nên việc giải quyết cũng gặp nhiều khó khăn.
Ở tỉnh Phú Thọ, những năm gần đây, số lượng các vụ án nói chung tại
địa bàn, đặc biệt là vụ án giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm
tiền vay Ngân hàng tại Tòa án tăng nhanh về số lượng, phức tạp về nội dung,
nhiều vụ tranh chấp rất gay gắt, khiếu nại kéo dài gây nhiều khó khăn cho các
cơ quan tiến hành tố tụng cũng như những người tham gia tố tụng. Hầu hết
các vụ án đều được giải quyết trong thời hạn luật định, thấu tình đạt lý, khách
quan, được sự đồng tình của người dân. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng còn gặp nhiều vướng
1
mắc, bất cập. Nhằm đảm bảo tiền vay của Ngân hàng, Ngân hàng phải khởi
kiện ra Tòa án nhân dân các cấp tại tỉnh Phú Thọ. Trải qua quy trình tố
tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự đó là khi chứng cứ trong
các hợp đồng tín dụng đã rất cụ thể, rõ ràng. Cũng cần thấy rằng, việc xét
xử của Tòa án từ cấp sơ thẩm, phúc thẩm, rồi khả năng giám đốc thẩm, tái
thẩm và thi hành bản án có hiệu lực pháp luật là cả một khoảng thời gian
rất dài.
Nhằm có sự đánh giá tổng thể về cơ sở lý luận và thực tiễn trong hoạt
động giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng
tại Tòa án ở tỉnh Phú Thọ và đánh giá những thuận lợi, khó khăn; vấn đề đảm
bảo công bằng giữa lợi ích các bên trong quan hệ tín dụng; việc áp dụng pháp
luật giải quyết trong việc giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm
tiền vay Ngân hàng hiện nay gặp những vướng mắc gì là cần thiết và có ý
nghĩa thực tế. Trước thực tế này tác giả đã lựa chọn đề tài: “Giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng từ thực tiễn xét xử
của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ” làm đề tài luận văn thạc sỹ là đáp ứng
yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân
ở tỉnh Phú Thọ cũng như hoạt động của các Ngân hàng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng ngày
được cải cách cho phù hợp với thực tiễn. Cùng với đó là việc giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng đã từng bước được
xây dựng cả về cơ sở pháp lý và tổng kết thực tiễn áp dụng. Với hệ thống các
văn bản pháp luật về hợp đồng dân sự nói chung, hợp đồng tín dụng Ngân
hàng nói riêng đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Việc làm này đã
giúp cho việc đảm bảo tiền vay của các ngân hàng từng bước có hiệu quả cao
2
hơn, đáp ứng yêu cầu thực tế.
Nhằm hạn chế sự gia tăng của tình trạng các khoản nợ không trả được,
Quốc hội đã ban hành riêng một Nghị quyết về xử lý, thu hồi nợ theo Nghị
quyết số 42/2017/NQ14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ
xấu của các Tổ chức tín dụng;
Đồng thời với đó là việc Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết
số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 Hướng dẫn áp dụng một số quy định
của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của
khoản nợ tại Tòa án nhân dân.
Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay cho Ngân hàng, đã có
nhiều công trình ở các cấp độ khác nhau nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Các công trình nghiên cứu có thể kể đến là:
- Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật
dân sự Việt Nam hiện hành, luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Thị Hồng Yến, Đại
học Luật Hà Nội, năm 2013.
- Bảo đảm tiền vay ngân hàng, thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sĩ
của tác giả Lê Thu Hiền, Đại học Luật Hà Nội, năm 2013.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Thương về đề tài: “Xử lý nợ
xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương theo pháp luật Việt Nam”
bảo vệ năm 2013 tại Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Quang Huy với đề tài: “Pháp luật
về nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại và thực tiễn áp
dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông” bảo vệ năm 2015 tại
Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Hoàn thiện pháp luật về quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng, luận văn
thạc sĩ của tác giả Lê Kim Thanh, Đại học Luật Hà Nội, năm 2008.
Ngoài những công trình nghiên cứu ở trình độ tiến sỹ và thạc sĩ như
3
đã nêu trên, có nhiều công trình nghiên cứu ở cấp độ thấp hơn, được đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành luật hoặc chuyên ngành kinh tế.
Đó là:
- Bài viết: “Giải quyết nợ xấu và ngăn chặn nợ xấu phát sinh” của tác
giả Trần Đình Định, nguyên Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam (đăng trong Tạp chí Ngân hàng 2013);
- Bài viết: “Trao đổi về giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống Ngân
hàng thương mại Việt Nam.
- Bài viết: “Pháp luật Việt Nam về hoạt động sử dụng vốn của ngân
hàng thương mại: Những bất cập và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn
Kiên Bích Tuyền – giảng viên Đại học Ngân hàng TP. HCM, nghiên cứu sinh
tại Đại học Luật TP. HCM (đăng trong tạp chí Tòa án nhân dân số 18/2018).
- Bài viết: “Thế chấp tài sản – biện pháp bảo đảm thông dụng và một số
vấn đề cần lưu ý” của tác giả Tưởng Duy Lượng – Nguyên Phó Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao (đăng trong tạp chí Tòa án nhân dân số 05/2019).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, pháp luật về giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp, thực tiễn giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để
đảm bảo tiền Ngân hàng tại Tòa án từ thực tiễn của Tòa án nhân dân ở tỉnh
Phú Thọ; từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả trong việc giải quyết lĩnh vực này.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề cơ bản nhất về tranh chấp về tài sản thế
chấp và giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân
hàng bằng phương thức Tòa án;
Thứ hai, đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những ưu
điểm, hạn chế trong thực hiện giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo
4
đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân ở
tỉnh Phú Thọ;
Thứ ba, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo
đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân
hàng tại Tòa án; Đồng thời là các hợp đồng tín dụng của các Ngân hàng khi
giải quyết các vụ án.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo
đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến nay.
- Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân ở tỉnh Phú Thọ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý lý luận:
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân
dân, nhất là nâng cao hiệu quả đảm bảo thực hiện pháp luật; các quan điểm,
đường lối của Đảng thể hiện trong các nghị quyết có đề cập đến vấn đề xây
dựng nhà nước pháp quyền và về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả vận
dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên
ngành, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp,
phân tích, so sánh, thống kê toán học và xin ý kiến chuyên gia.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, luận văn góp phần phân tích đã phân tích, hệ thống hóa, làm
sáng tỏ khái niệm, đặc điểm tranh chấp về tài sản thế chấp và giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
Về thực tiễn, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết tranh
chấp qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. Từ đó đề xuất
những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi pháp
luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân
hàng bằng phương thức Tòa án.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể vận dụng làm kinh nghiệm cho các
địa phương khác, tổng kết kinh nghiệm xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân.
Đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy,
học tập trong các cơ sở đào tạo luật và các cơ sở đào tạo chức danh tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ
lục, nội dung của Luận văn được kết cấu theo truyền thống gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp về tài sản
thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án.
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm
tiền vay Ngân hàng qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi
pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay
Ngân hàng tại Tòa án.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG
BẰNG PHƯƠNG THỨC TÒA ÁN
1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng
1.1.1. Khái niệm.
Tranh chấp phát sinh từ tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng
là một loại tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD), là tình trạng pháp lý trong
quan hệ HĐTD, mà ở đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với
nhau về những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ HĐTD. Tranh chấp hợp đồng
khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là hành vi pháp lý của các
bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong hợp đồng. Còn tranh
chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành vi vi phạm đó
hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được thể hiện
ra bên ngoài. Như vậy, có thể hiểu khái quát, tranh chấp HĐTD là những mâu
thuẫn, bất đồng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ trong HĐTD giữa bên cho vay
(ngân hàng) và bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ
gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản đảm bảo, thế chấp…
1.1.2. Một số đặc điểm trong quan hệ tranh chấp.
Tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng cũng là
một loại tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD) nói chung, do đó có đầy đủ
những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên, với bản chất
đặc thù của tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng, tranh chấp tài
sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng mang một số đặc trưng riêng
biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác. Có thể khái
7
quát đặc điểm của tranh chấp tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng
bằng các ý sau:
- Thứ nhất, giá trị của tranh chấp tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay
Ngân hàng thường có giá trị lớn hoặc thậm chí là rất lớn.
Khi kí kết hợp đồng thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà
không thể tự mình xoay sở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh
doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia
đình. Do đó, số tiền này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ
chức, cá nhân ngoài xã hội mà không phải là Ngân hàng.
Về phía bên cho vay là Ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung
ứng vốn cho nền kinh tế thì Ngân hàng còn đóng vai trò là người đi vay của
các chủ thể khác để cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các Ngân hàng
thường kí kết các HĐTD có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại
thời điểm cho vay. Do bên vay vốn dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư
cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên nếu bên vay không tuân thủ các cam
kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các Ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng xấu
đến hoạt động của Ngân hàng đó. Thực tế không hiếm các trường hợp các
Ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi
khách hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì Ngân
hàng sẽ là chủ thể bị thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các
biện pháp khắc phục, mục đích lợi nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián
đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp HĐTD phải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây
khó khăn cho Ngân hàng khi muốn thu hồi vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại
Tòa án thì thường là người đi vay không còn có khả năng trả nợ cho Ngân
hàng. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì Ngân hàng sẽ mất lòng tin
với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả khi
bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính của mình. Do đó, có thể
nói tranh chấp HĐTD là loại tranh chấp có giá trị thiệt hại lớn, không chỉ ảnh
8
hưởng đến bên cho vay mà còn cả đối với bên đi vay. Thậm chí nếu tranh
chấp xảy ra nhiều thì ảnh hưởng đó không chỉ ảnh hưởng đến một Ngân hàng
mà có thể ảnh hưởng dây chuyền đến các Ngân hàng khác trong nền kinh tế.
- Thứ hai, tranh chấp HĐTD Ngân hàng được giải quyết dựa trên
nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia
tranh chấp.
Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Bộ
Luật dân sự 2015 ghi nhận :“cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt
buộc đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn
trọng”. HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ
mang tính thỏa thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc
giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền thỏa
thuận để đạt được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra.
Việc tôn trọng quyền định đoạt này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ
dân sự giữa các bên mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh
lệnh - phục tùng như các quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên
tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận được với nhau thì việc giải quyết tranh
chấp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thiệt
hại về thời gian, tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ quan tài phán,
thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm nhẹ khối
lượng, áp lực công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra nhiều
và phức tạp như hiện nay.
Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối
với các Ngân hàng là Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng nước ngoài có vai
trò quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các Ngân hàng
trong nước, chịu sự điều chỉnh của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt
Nam và sự khác nhau trong quy định của pháp luật giữa Việt Nam và nước
khác là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc cho phép, tôn trọng quyền tự
9
thỏa thuận của các bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa những
xung đột pháp luật có thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh chấp.
Tuy nhiên, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải phù hợp với các quy
định của pháp luật Việt Nam.
Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên
cũng được Bộ Luật tố tụng dân sự thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa
giải là trách nhiệm của cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó
các bên có thể thỏa thuận về việc giải quyết vụ án. Ngay cả trước khi diễn ra
hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận
về việc giải quyết tranh chấp miễn sao thỏa thuận đó phù hợp với các quy
định của pháp luật.
- Thứ ba, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là Ngân
hàng và phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là tổ chức tín dụng
cho vay, bị đơn là bên đi vay.
Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến
những tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ
chức, cá nhân có thừa nguồn vốn trong xã hội nên Ngân hàng luôn đóng vai
trò trung gian trong mối quan hệ này. Sự tham gia của Ngân hàng là một dấu
hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng
vay tài sản thông thường giữa các tổ chức, cá nhân khác mà không phải là
Ngân hàng Ngân hàng
Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các Ngân hàng
và khách hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư
cách là chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối
với khách hàng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp
đồng thì hợp đồng thường do bên cho vay là các Ngân hàng soạn thảo với đội
ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó,
chủ thể đi vay là khách hàng thường là các tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên
10
môn về mặt pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi không được chú trọng đúng
mức. Và như vậy là hợp đồng được kí kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm
bảo đảm cho quyền lợi của Ngân hàng khi bên vay không trả nợ hay trả
không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì Ngân hàng luôn nắm
đằng chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng
trong hợp đồng được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp
xảy ra thì là do bên đi vay vi phạm, chứ ít khi Ngân hàng lại vi phạm chính
những điều khoản do chính mình soạn thảo.
Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay
thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất
việc giải ngân cho khách hàng thì Ngân hàng đã hoàn thành các nghĩa vụ của
mình. Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ
sơ tín dụng, nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản
đảm bảo...là ít quan trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý
do đó nên nếu có tranh chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ
của mình, rất hiếm gặp trường hợp bên đi vay khởi kiện Ngân hàng.
- Thứ tư, đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD Ngân hàng chính
là các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của
bên vay cho Ngân hàng, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trong HĐTD.
Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như: tranh chấp về chủ
thể xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn,
tranh chấp liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay...Tuy nhiên, tranh chấp
xảy ra nhiều nhất là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về
mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy là bởi vì những nghĩa vụ
này chính là những nghĩa vụ chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong quá trình
thực hiện HĐTD của các bên và việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến
quyền lợi của Ngân hàng. Các tranh chấp khác cũng có tác động đến các
11
Ngân hàng nhưng không phải là cơ bản nên ít xảy ra hơn so với tranh chấp về
nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi hay tranh chấp về lãi suất, về bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ.
- Thứ năm, tranh chấp HĐTD Ngân hàng thường là tiền đề làm phát
sinh và gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền vay
thông qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Các Ngân hàng khi tham gia vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ
việc cho vay đó vì bản chất của Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền
tệ. Để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông
thường Ngân hàng chỉ đồng ý cho bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố,
thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Các biện pháp bảo
đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng của Ngân hàng khi rủi ro xảy
ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo trong HĐTD thì các bên
kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó có thể là hợp
đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình thức chứng thư bảo lãnh
của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng
bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc vay vốn, xuất phát từ
hợp đồng tín dụng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc
trả nợ của bên đi vay.
Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra
khỏi HĐTD với tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối
quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối
quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này
có ảnh hưởng đến loại hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp
đồng có nghĩa vụ được bảo đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng
thì giao dịch bảo đảm chấm dứt, nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp
đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác”. Ngược lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu
12
không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác”. Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp HĐTD, với tư
cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và làm cơ sở phát sinh tranh chấp hợp
đồng bảo đảm - hợp đồng phụ trong quan hệ tín dụng giữa các bên.
- Thứ sáu, tranh chấp HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa
các bên tham gia tranh chấp.
Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên phải
xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong
quan hệ dân sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể
khởi kiện để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là
lợi ích của chính cơ quan, đoàn thể đó. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát
sinh từ HĐTD thì chỉ có chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ
mới có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay
hay Ngân hàng. Không có trường hợp nào mà tranh chấp HĐTD phát sinh do
tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia
HĐTD. Như vậy, tranh chấp phát sinh từ HĐTD chỉ phát sinh khi các bên
khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ
tín dụng, hay nói cách khác, tranh chấp HĐTD thường gắn liền với lợi ích của
các bên tranh chấp.
1.2. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp
để bảo đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án
1.2.1 Khái niệm giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp, theo Từ điển Tiếng Việt (1992) được hiểu là làm
cho các xung đột, bất đồng không còn thành vấn đề nữa. Khi xảy ra tranh
chấp các chủ thể thường lựa chọn, sử dụng một hoặc một số phương thức phù
hợp để giải quyết tranh chấp của mình. Việc chủ thể lựa chọn phương thức
nào để giải quyết tranh chấp để đảm bảo phù hợp và mang lại kết quả như
mong đợi còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bởi đối với mỗi loại tranh chấp có
13
các phương thức giải quyết khác nhau, bản thân mỗi phương thức lại có
những đặc trưng riêng, được thực hiện bằng các quy tắc, hình thức và thủ tục
của nó. Chính vì vậy, mỗi phương thức giải quyết tranh chấp đều có những ưu
điểm và hạn chế của mình.
Để lựa chọn được phương thức giải quyết phù với với mục tiêu đạt
được, bản chất tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi
phí dành cho việc giải quyết tranh chấp đòi hỏi các bên phải hiểu rõ bản chất
và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của từng phương thức. Tuy nhiên, dù là
phương thức giải quyết tranh chấp nào cũng phải đảm bảo quyền bình đẳng,
quyền tự định đoạt của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp theo quy
định của pháp luật.
1.2.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm
tiền vay Ngân hàng bằng phương thức tòa án.
Trên thế giới, tùy thuộc vào quan điểm, tư tưởng của các nhà lập pháp
của từng quốc gia mà luật pháp mỗi nước có những quy định khác nhau về
vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD Ngân hàng. Mặc dù vậy, hầu
hết các quốc gia đều thừa nhận các hình thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD
Ngân hàng nói riêng bao gồm: thương lượng; hòa giải; trọng tài thương mại
và toà án.
Thực tế cho thấy, mỗi hình thức giải quyết tranh chấp nói trên đều có
những lợi thế và đồng thời cũng thể hiện những điểm hạn chế nhất định. Tùy
thuộc vào tính chất của tranh chấp, mức độ phức tạp của tranh chấp, khả năng
và điều kiện cụ thể của các bên mà các chủ thể tranh chấp có thể lựa chọn
hình thức này hay hình thức khác, hoặc sử dụng phối hợp nhiều hình thức
khác nhau nhằm giải quyết tranh chấp đạt hiệu quả cao nhất.
Việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD
thông qua khởi kiện tại Tòa án thường được xem là hình thức cuối cùng mà
14
các bên lựa chọn trong trường hợp thương lượng hoặc hòa giải không thành
công. Việc phải nhờ đến quyền lực nhà nước để giải quyết mâu thuẫn là khi
các bên đã áp dụng các hình thức giải quyết tranh chấp khác nhưng không đạt
được kết quả và các bên không còn phương án lựa chọn nào khác.
Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính cưỡng chế cao,
được thực hiện tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, tiến hành
theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Toà
án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi
hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Chính điều này đã tạo nên ưu điểm
hơn hẳn của phương thức này đối với các phương thức khác đó là tố tụng chặt
chẽ và tính khả thi của hiệu lực phán quyết.
Việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án không phụ thuộc thỏa thuận
của các bên. Luật quy định, Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở
có thẩm quyền giải quyết, trừ trường hợp các bên có quyền tự thỏa thuận với
nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của
nguyên đơn giải quyết tranh chấp theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 39
về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Ưu điểm:
- Ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án là: Do
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của Tòa án có tính
cưỡng chế cao nhất. Nếu các bên không chấp hành bản án, quyết định của tòa
án thì sẽ bị cưỡng chế thi hành, quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm
bảo tuyệt đối nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.
- Thông thường chi phí để giải quyết một tranh chấp hợp đồng của Tòa
án sẽ thấp hơn so với trọng tài.
- Trình tự tố tụng nghiêm ngặt, chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
- Nguyên tắc xét xử công khai có tính răn đe đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật.
15
- Các Tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có điều kiện tốt hơn các
trọng tài viên trong việc tiến hành điều tra, có quyền cưỡng chế, triệu tập bên thứ
ba đến Tòa.
- Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án có nhiều cấp xét xử cũng có cái hay
là khả năng sửa sai nếu bản án của một cấp xét xử có sai sót. Ngược lại, một khi
trọng tài đã ra phán quyết, cho dù có sai sót đi chăng nữa cũng chịu vì phán
quyết đó có giá trị chung thẩm và có hiệu lực thi hành ngay.
- Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngoài ra chi phí hành
chính rất hợp lý.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua Tòa án còn có những hạn chế như:
- Hạn chế của phương thức này là thủ tục tại Tòa án thường thiếu linh
hoạt, trình tự tố tụng kéo dài, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh
doanh một cách bình thường của các bên chủ thể tranh chấp.
- Bên cạnh đó, nguyên tắc xét xử công khai được xem là tiến bộ, mang
tính răn đe nhưng lại là cản trở đối với doanh nhân và doanh nghiệp khi những bí
mật kinh doanh bị tiết lộ. Dù tranh chấp xuất phát từ bên cho vay hay từ bên vay
thì việc bị công khai sai phạm là điều mà các bên chủ thể hoàn toàn không mong
muốn.
- Phán quyết của Tòa án có thể bị kháng cáo dẫn đến vụ tranh chấp bị kéo
dài. Quá trình tố tụng có thể bị trì hoãn và kéo dài, có thể phải qua nhiều cấp xét
xử, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh doanh.
- Đối với các tranh chấp HĐTD có yếu tố nước ngoài thì phán quyết của
Tòa án thường khó đạt được sự công nhận quốc tế, vì luật các nước quy định
khác nhau. Phán quyết của Tòa án được công nhận tại một nước khác thường
thông qua hiệp định song phương hoặc theo nguyên tắc rất nghiêm ngặt.
16
Mặc khác, mặc dù Thẩm phán quốc gia có thể khách quan, họ vẫn phải
buộc sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ và thường
cùng quốc tịch với một bên.
1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo
đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức Tòa án
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì thủ tục tố tụng
để giải quyết các vụ án dân sự nói chung và vụ án tranh chấp tài sản thế chấp
bảo đảm tiền vay Ngân hàng nói riêng của Toà án được thực hiện theo trình
tự, thủ tục sau đây:
1.3.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án
Khởi kiện đó việc Ngân hàng, tổ chức tín dụng có thể tự mình hoặc
thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án về tranh chấp về tài sản
thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
Sau khi nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán được Chánh án phân
công tiến hành kiểm tra các vấn đề về quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện,
hình thức, nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi
kiện theo quy định từ Điều 186 đến Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015. Trường hợp cần sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện thì thông báo cho Ngân
hàng biết để họ sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 193 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trường hợp phải trả lại đơn khởi kiện theo quy
định tại Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án phải thông báo
bằng văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện cho Ngân hàng biết.
Việc thụ lý vụ án là việc Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của chủ thể
khởi kiện và ghi sổ thụ lý vụ án của Tòa án.
Do vậy, thụ lý vụ án là hành vi tố tụng đầu tiên của Tòa án trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự nói chung cũng như vụ án liên quan đến tài sản
thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng. Thụ lý vụ án là cơ sở để xác định tư
cách tham gia tố tụng của các đương sự. Việc Tòa án thụ lý kịp thời vụ án sẽ
17
tránh kéo dài hành vi trây ỳ, trốn tránh việc trả nợ, bảo vệ kịp thời, tối đa
những lợi ích hợp pháp của Ngân hàng và những người liên quan.
1.3.2. Tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ
Theo quy định tại Điều 91 và Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 thì trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự đặc biệt là vụ án về
giải quyết tranh chấp tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng thì
Ngân hàng, tổ chức tín dụng có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ
cho Tòa án, nếu Ngân hàng, tổ chức tín dụng không giao nộp hoặc giao nộp
không đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng
minh. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết pháp luật và dân trí của xã hội chúng ta
vẫn còn nhiều hạn chế nên nhiều đương sự chưa nắm bắt được các quy định
của pháp luật về nghĩa vụ chứng minh hoặc vì nhiều lý do khách quan họ
không thể tự mình thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Do vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 thì Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau
đây để thu thập tài liệu, chứng cứ sau đây:
“a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm
chứng;
c) Trưng cầu giám định;
d) Định giá tài sản;
đ) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;
g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe
được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự;
h) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;
i) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này” [2].
18
Ngoài các biện pháp thu thập chứng cứ nêu trên, theo quy định từ Điều
111 đến Điều 142 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2014 trong trường hợp cần
thiết theo yêu cầu của đương sự hoặc Tòa án có thể tự mình ra quyết định áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách
của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ
chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục
được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.
1.3.3. Thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử
Hòa giải là để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ
án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được
theo quy định tại Điều 206 và Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự hoặc vụ án
được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 thì hòa giải là nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết vụ án dân
sự, là chế định quan trọng của pháp luật tố tụng dân sự. Hòa giải trong giải
quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng rất quan
trọng. Nếu việc giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng thì việc hòa giải trước tiên sẽ giúp cho các bên thỏa thuận được
những vấn đề phát sinh về việc trả nợ gốc,lãi cho Ngân hàng hay việc không
bị lãi phạt. Đồng thời giúp cho bên có tài sản thế chấp không phải bán hay có
điều kiện lấy lại tài sản đã thế chấp.
Khi tiến hành hòa giải Tòa án phải tuân thủ theo các nguyên tắc tiến hành
hòa giải, trình tự theo quy định tại Điều 205, Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015. Thông qua việc tiếp cận, công khai chứng cứ, các đương sự thực hiện
quyền của mình trong đó có việc tranh tụng. Tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải trong vụ án dân sự là một thủ tục bắt buộc. Khi Tòa án tiến hành hòa
giải, đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên hòa giải để trình bày ý kiến
của mình về những nội dung tranh chấp liên quan đến tài sản thế chấp và đề xuất
những vấn đề cần hòa giải. Sau khi đương sự đã trình bày xong ý kiến của mình
19
thì Thẩm phán sẽ xác định lại những vấn đề các bên đã thống nhất, vấn đề chưa
thống nhất thì yêu cầu đương sự trình bày bổ sung, sau đó Thẩm phán kết luận
cuối cùng. Việc hòa giải phải lập biên bản, có chữ ký của các bên.
Sau khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn
bộ vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành, biên bản này phải gửi ngay
cho các đương sự tham gia hòa giải. Các đương sự có quyền thay đổi ý kiến
về vấn đề thỏa thuận trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải
thành, hết thời hạn 7 ngày nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến về việc
thỏa thuận thì Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự. Nội dung hòa giải chỉ có giá trị pháp lý đối với những đương sự có
mặt tại phiên hòa giải. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có
hiệu lực pháp luật ngay không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm. Nếu việc hòa giải không thành, Thẩm phán sẽ ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử.
1.3.4. Xét xử tại phiên tòa
Nếu Tòa án hòa giải không thành, các đương sự không thỏa thuận được
với nhau về những vấn đề đang tranh chấp về việc trả tiền vay Ngân hàng thì
Tòa án sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử
sơ thẩm các vụ án được quy định tại Điều 37, Điều 38 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 và Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm các vụ án được quy
định tại Điều 35, Điều 36 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp
bảo đảm tiền vay Ngân hàng bao gồm các bước sau đây:
1.3.4.1. Phần khai mạc phiên toà
Khai mạc phiên tòa là thủ tục bắt buộc phải thực hiện trước khi Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử. Việc thực hiện khai mạc phiên tòa được thực
hiện theo quy định tại Điều 239 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
20
+ Xem xét về đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch của đương sự nếu đương sự có yêu cầu và có căn cứ
để thay đổi người tiến hành tố tụng.
+ Xem xét, quyết định việc hoãn phiên toà khi có người vắng mặt được
thực hiện theo quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều
241 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định khi có người tham gia tố tụng
vắng mặt tại phiên tòa mà không thuộc trường hợp Tòa án phải hoãn phiên tòa
thì Chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu
có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định, có thể chấp nhận
hoặc không chấp nhận, trường hợp không chấp nhận phải nêu lý do.
1.3.4.2. Phần thủ tục hỏi tại phiên toà
Khi bắt đầu thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán sẽ hỏi nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có
thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình hay không.
Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự vẫn có thể rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu
của họ, việc thay đổi, bổ sung không được vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu.
Theo quy định tại Điều 246 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì sau
khi đã hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu, chủ tọa phiên tòa sẽ
hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án không,
nếu họ tự nguyện thỏa thuận và sự thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra công nhận sự
thỏa thuận đó. Trường hợp nếu các đương sự không thỏa thuận được và vẫn
giữ nguyên yêu cầu thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử bằng việc yêu cầu
đương sự trình bày ý kiến của mình theo thứ tự bắt đầu từ nguyên đơn, tiếp
đến là bị đơn, cuối cùng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nếu các
đương sự có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp sẽ trình bày thay đương sự (phiên tòa sơ thẩm).
Thứ tự hỏi tại phiên tòa sơ thẩm như sau:
21
a) Sau khi nghe lời trình bày của đương sự, việc hỏi từng người về từng
vấn đề được thực hiện theo thứ tự: Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị đơn, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
b) Những người tham gia tố tụng khác;
c) Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân;
d) Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Sau khi đã hỏi các đương sự, Thẩm phán sẽ công bố các tài liệu, chứng
cứ của vụ án, cho nghe hoặc xem băng, đĩa ghi âm, ghi hình tại phiên tòa theo
quy định của pháp luật.
1.3.4.3. Phần thủ tục tranh luận tại phiên toà
Tranh luận là việc các bên trình bày, đưa ra quan điểm của mình về
chứng cứ, pháp luật cần áp dụng và đề xuất đường lối giải quyết vụ án. Trình
tự phát biểu tranh luận tại phiên toà sơ thẩm như sau:
Đầu tiên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn (Đối
với vụ án có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn) sẽ phát
biểu trước, sau đó là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, cuối cùng là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, các đương sự có quyền bổ sung ý kiến. Người tham gia tranh luận có
quyền đối đáp lại ý kiến của người khác, chủ tọa phiên tòa không được hạn chế
thời gian tranh luận trừ trường hợp đương sự tranh luận những vấn đề không liên
quan đến vụ án [17, Điều 260, Điều 261].
Sau khi kết thúc phần tranh luận nếu có tình tiết của vụ án chưa được xem
xét, xem xét chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử
quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận
(Điều 263 và Điều 307 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Quy định này nhằm
khắc phục tình huống khi đã tranh luận xong nhưng có nhiều tình tiết của vụ án
22
chưa được làm rõ. Quy định này cũng khẳng định rằng Tòa án chỉ quyết định các
vấn đề của vụ án khi các tình tiết, sự kiện của vụ án đã được làm sáng tỏ.
Sau khi những người tham gia tố tụng tranh luận xong thì đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến quan điểm về việc giải quyết vụ án (Trên cơ sở về
mặt thủ tục tố tụng và nội dung vụ án). Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm
sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.
[17, Điều 262].
1.3.4.4. Nghị án và tuyên án
Nghị án là việc Hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án
trên cơ sở kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa.Việc nghị án được tiến hành
theo quy định tại Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khi nghị án mà
thấy chứng cứ, tài liệu chưa đủ thì Hội đồng quyết định xét hỏi, tranh luận lại
[17, Điều 265].
Khi tuyên án, có thể chủ tọa hoặc một thành viên Hội đồng xét xử
tuyên đọc bản án. Khi tuyên đọc xong có thể giải thích thêm về quyền kháng
cáo, về việc thi hành án và quyền được yêu cầu không công bố bản án trên
cổng thông tin điện tử của Tòa án những nội dung liên quan đến bí mật cá
nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh.
1.3.5.Thủ tục phúc thẩm (Từ Điều 270 đến Điều 315 Bộ luật tố tụng
dân sự)
1.3.5.1. Tính chất của xét xử phúc thẩm và kháng cáo, kháng nghị bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ
án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
bị kháng cáo, kháng nghị.
1.3.5.2. Chuẩn bị để xét xử phúc thẩm.
Thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án,
kháng cáo, kháng nghị và tài liệu chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm
tiến hành vào sổ và thụ lý vụ án.
23
Nhận tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình mà Tòa án cấp sơ thẩm đã
yầu giao nộp nhưng đương sự chưa cung cấp, giao nộp vì có lý do chính đáng;
Mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không
thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.
Ra các quyết định: Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm; Đình chỉ xét xử
phúc thẩm; Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
1.3.5.3. Thủ tục phiên tòa phúc thẩm
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị sẽ trình bày trước, sau đó
các đương sự có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trình bày [17, Điều 247,
Điều 302].
Trình tự phát biểu tranh luận tại phiên toà phúc thẩm (chỉ được tranh
luận về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại
phiên tòa phúc thẩm) theo Điều 305 Bộ luật Tố tụng dân sự, được thực hiện
theo thứ tự:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo trình
bày, người kháng cáo có quyền bổ sung ý kiến.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tranh luận, đối
đáp. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến.
Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương sự
tranh luận về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu về tính
hợp pháp, tính có căn cứ của kháng nghị. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về những vấn đề mà người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự đã nêu.
Sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp Kiểm sát viên phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn
24
phúc thẩm. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản
phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án. [17, Điều 306].
1.3.5.4. Nghị án và tuyên án
Nghị án là việc Hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án
trên cơ sở kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa.Việc nghị án được tiến hành
theo quy định tại Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khi nghị án mà
thấy chứng cứ, tài liệu chưa đủ thì Hội đồng quyết định hỏi, tranh luận lại [17,
Điều 307].
Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền:
1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
2. Sửa bản án sơ thẩm;
3. Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ
vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án lại theo thủ tục sơ thẩm;
4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;
5. Đình chỉ xét xử phúc thẩm;
6. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, sửa đổi,
bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản trả lời Tòa án
kết quả xử lý.
Khi tuyên án, có thể chủ tọa hoặc một thành viên Hội đồng xét xử
tuyên đọc bản án [17, Điều 313].
Ngoài ra tại Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ còn tiến hành thủ tục phúc
thẩm đối với quyết định của 13 Tòa án cấp huyện, thành phố, thị xã bị kháng
cáo, kháng nghị (Việc giải quyết được thực hiện theo Điều 314 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015).
25
Đối với Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án còn thường xuyên tiến
hành kiểm tra đối với những bản án, quyết định của 13 Tòa án cấp huyện,
thành phố, thị xã đã có hiệu lực pháp luật. Qúa trình kiểm tra nếu phát hiện
thấy có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thì làm văn bản trình Chánh
án tỉnh Phú Thọ kiến nghị lên Tòa án nhân dân cấp cao tiến hành xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm theo Thẩm quyền.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận văn tập trung luận giải những vấn đề lý luận về
giải quyết tranh chấp tài sản tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.
Luận văn đã đưa ra khái niệm, đặc điểm tranh chấp về tài sản thế chấp bảo
đảm tiền vay Ngân hàng và khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp tài sản
tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.
Đồng thời luận giải những quy định của pháp luật về giải quyết tranh
chấp tài sản tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương thức
Tòa án phải tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
theo đúng trình tự: Thụ lý vụ án và thông báo về việc thụ lý vụ án; Xác minh,
thu thập chứng cứ; Thủ tục hòa giải, chuẩn bị xét xử; Xét xử tại phiên tòa
(Khai mạc phiên toà; Thủ tục hỏi tại phiên toà; Thủ tục tranh luận tại phiên
toà; Nghị án và tuyên án). Ngoài ra, còn có những vụ án được giải quyết theo
trình tự phúc thẩm sau khi có kháng cáo của các đương sự và kháng nghị của
Viện kiểm sát để giải quyết các vụ án giải quyết tranh chấp tài sản tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng khi chưa đảm bảo quyền lợi cho các đương
sự ở giai đoạn sơ thẩm. Đây là cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng và
đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
thủ tục giải quyết tranh chấp về tài sản tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng tại Tòa án trong những chương tiếp sau.
26
Chương 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN
THẾ CHẤP BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG QUA THỰC TIỄN
XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH PHÚ THỌ
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế-xã hội và Tòa án nhân dân tại
tỉnh Phú Thọ
2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ.
Tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên 3533 km2 với vị trí nằm ở vùng tiếp
giáp giữa miền núi và đồng bằng Bắc Bộ, nằm trên trục hành lang kinh tế Hải
Phòng – Hà Nội – Lào Cai – Côn Minh; phía Bắc giáp Tuyên Quang, Yên
Bái; Đông giáp Vĩnh Phúc, Hà Nội; Tây giáp Sơn La; Nam giáp Hòa Bình.
Tỉnh Phú Thọ cách trung tâm thành phố Hà Nội 80 km, cách sân bay quốc tế
Nội Bài 50km, cách cảng Hải Phòng 160km và cách cửa khẩu Lào Cai và Hà
Giang 240km.
Về địa hình, tỉnh Phú Thọ nằm trong vùng trung du Bắc Bộ. Có tiềm năng
phát triển lâm nghiệp, khai thác khoảng sản và phát triển kinh tế trang trại.
Về khí hậu, tỉnh Phú Thọ thuộc vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có
nhiều đặc điểm gần với vùng đồng bằng Bắc Bộ, mùa mưa từ tháng 4 đến
tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ không khí trung
bình 23,40. Lượng mưa ngày lớn nhất 701,2 mm, trung bình năm 1.800mm.
Số giờ nắng trung bình năm 3000 giờ.
Tổng dân số có mặt tại Tỉnh Phú Thọ khoảng 1.463.726 người (thời
điểm 1/4/2019, dân số tạm trú bao gồm dân nhập cư, học sinh, sinh viên và
lao động tại các nhà máy, xí nghiệp 769.400 người. Cơ cấu dân số thành thị
18,1%, nông thôn chiếm 81,9%. Lao động trong độ tuổi chiếm 58%; lao động
tham gia vào nền kinh tế quốc dân qua đào tạo nghề có chứng chỉ trở lên
chiếm 22,7% số lao động trong nền kinh tế quốc dân.
27
Trong giai đoạn 2015-2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của
tỉnh đạt mức 32,5%, cao hơn 11% so giai đoạn 2010-2015 và đạt mức cao
nhất từ trước đến nay. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng Công nghiệp - Xây dựng, Thương mại - Dịch vụ. Năm 2018, cơ cấu
kinh tế các ngành Công nghiệp - Xây dựng là 37,86%; Thương mại - Dịch vụ:
40,57%; Nông lâm nghiệp và Thuỷ sản: 21,57%.
Tỉnh Phú Thọ có 13 huyện, thành, thị bao gồm: Thành phố Việt Trì, thị
xã Phú Thọ, Lâm Thao, Tam Nông, Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Thủy, Cẩm
Khê, Yên Lập, Thanh Ba, Hạ Hòa, Đoan Hùng và Phù Ninh.
Tỉnh hiện có gần 7.360 doanh nghiệp với hơn 769.400 lao động, có 02
trường Đại học, 03 viện nghiên cứu, 05 trường cao đẳng, 08 trường dạy nghề.
Năm 2018 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 7,4%, hoàn thành xoá xong nhà tạm
cho hộ nghèo. Giải quyết việc làm cho 16.261 người. Có thêm 33 trường
được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
Kết cấu hạ tầng được đầu tư và phát triển, 100% số xã có đường ô tô
đến trung tâm; 100% số xã có điện lưới quốc gia; hoàn thành phổ cập giáo
dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở ; 100%
số trạm y tế xã có bác sỹ và 100% thôn bản có cán bộ y tế; 93,6% hộ dân
được dùng nước sạch.
Tỉnh Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi, trung du phía Bắc đang
vươn mình là một trung tâm về văn hoá, khoa học kỹ thuật và trung tâm văn
hoá xã hội khu vực Tây Bắc.
2.1.2. Khái quát về Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ
Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ trực thuộc hệ thống Tòa án nhân dân
(Hệ thống Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ gồm 13 đơn vị Tòa án nhân
dân cấp huyện, thị, thành phố trực thuộc và 03 Tòa chuyên trách, 3 đơn vị
giúp việc – bộ phận hành chính tư pháp thuộc Tòa án nhân dân tỉnh).
28
Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ hiện có 48 công chức và người lao động,
trong đó có 10 Thẩm phán trung cấp; có 96,7% cán bộ, công chức có trình độ
Đại học trở lên (trong đó, 12,5% là trình độ trên đại học); 100% cán bộ lãnh
đạo Tòa, Thẩm phán có trình độ cao cấp lý luận chính trị. Thái độ, tinh thần
trách nhiệm phục vụ nhân dân và tính chuyên nghiệp trong tác phong, lề lối
làm việc của cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao. [22, tr.1].
Với chức năng, nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ việc và giải
quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời thực hiện việc
kiến nghị khi phát hiện bản án – quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có vi
phạm lên Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện quyền giám đốc thẩm, tái thẩm.
Từ khi thành lập đến nay, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã không ngừng
được xây dựng và hoàn thiện để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử và
thực hiện quyền tư pháp, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo,
chủ động, tích cực khắc phục mọi khó khăn, đổi mới toàn diện các mặt công
tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, vì công lý, vì nhân dân.
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ hiện có 234 công chức và người
lao động gồm có Tòa án nhân dân tỉnh và 13 đơn vị Tòa án nhân dân cấp
huyện, thị, thành phố trực thuộc; Trong đó có 01 Thẩm phán cao cấp, 29
Thẩm phán trung cấp, 47 Thẩm phán sơ cấp. Về trình độ chuyên môn thạc sỹ
là 29 người, cử nhân là 164 người; trình độ lý luận chính trị cao cấp là 46
người, trung cấp là 66 người, sơ cấp là 85 người; 100% cán bộ lãnh đạo Tòa,
phòng, Thẩm phán thuộc Tòa án nhân dân tỉnh và Chánh án, Phó chánh án
Tòa án nhân dân cấp huyện có trình độ cao cấp lý luận chính trị. Thái độ, tinh
thần trách nhiệm phục vụ nhân dân và tính chuyên nghiệp trong tác phong, lề
lối làm việc của cán bộ, công chức của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ
ngày càng được nâng cao; nhiều Thẩm phán được công nhận là “Thẩm phán
giỏi”, “Thẩm phán mẫu mực”. [22, tr.1].
29
Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chức năng, nhiệm vụ xét xử sơ
thẩm các vụ việc và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Từ
khi thành lập đến nay, các Tòa án nhân dân cấp huyện đã không ngừng được
xây dựng và hoàn thiện để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử và thực
hiện quyền tư pháp, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo, chủ
động, tích cực khắc phục mọi khó khăn, đổi mới toàn diện các mặt công tác,
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, vì công lý, vì nhân dân.
Với sự cống hiến, nỗ lực không ngừng cùng những thành tích đã đạt
được, nhiều tập thể Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ cùng nhiều cá nhân
đã vinh dự được Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Uỷ ban nhân dân tỉnh
Phú Thọ trao tặng những danh hiệu cao quý như: Huân chương lao động hạng
Nhất, Nhì, Ba, Cờ thi đua, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Cờ thi đua
ngành, Cờ thi đua UBND tỉnh, Kỷ niệm chương Hùng Vương,...; Đối với Tòa
án nhân dân tỉnh Phú Thọ được Tỉnh ủy tỉnh Phú Thọ tặng bức trướng với 8
chữ vàng: "Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư".
2.2. Khái quát chung về tình hình giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ
Cùng với sự phát triển của kinh tế và quá trình hội nhập thì các vụ án
dân sự nói chung trong đó có tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng ngày càng có chiều hướng gia tăng. Do nhu cầu nguồn vốn để tạo
động lực thúc đẩy nên kinh tế Việt Nam theo nền kinh tế thị trường có định
hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước. Dẫn đến, tranh chấp tài sản thế chấp
bảo đảm tiền vay Ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên
mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. Tranh chấp về tài sản tài sản
thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng chủ yếu là xác định trách nhiệm và
nghĩa vụ của chủ thể đi vay vốn của Ngân hàng, xác định giá trị tài sản thế
chấp, người bảo lãnh, quyền sử dụng đất và nhà ở. Trong những năm gần đây,
các vụ án dân sự về tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng
30
mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết hàng năm tăng về
số lượng (khoảng hơn 450 vụ việc/năm) và rất phức tạp về nội dung tranh
chấp. Việc giải quyết với số lượng lớn tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của đội ngũ
Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án cùng toàn thể cán bộ công chức và
người lao động của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ.
Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án về dân sự nói chung và tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng của Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2015-2018 thể hiện như sau:
Năm 2015, tổng số vụ việc Dân sự (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động) thụ lý 3.948 vụ, 64 việc, đã giải quyết, xét xử
3.492 vụ, 47 việc của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ; trong đó tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 351 vụ việc, chiếm
8,75% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý; Đã giải quyết được 309 vụ, việc đạt
tỷ lệ 88,03%, trong đó hòa giải thành là 79 vụ, việc đạt tỷ lệ 19,09%.
Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tổng số vụ việc là 215 vụ việc,
trong đó tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 27 vụ
việc, chiếm 12,55% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý. Trong đó án sơ thẩm là 07
vụ, việc và án phúc thẩm là 20 vụ, việc. Đã giải quyết được 24 vụ, việc đạt tỷ lệ
88,9%, (Án sơ thẩm là 05 vụ và án phúc thẩm là 19 vụ) trong đó hòa giải thành
là 02 vụ; Kết quả xét xử phúc thẩm: Hủy án sơ thẩm 02 vụ, sửa án sơ thẩm 06
vụ, giữ nguyên án sơ thẩm là 11; Có 02 vụ kháng cáo và 05 vụ có khiếu nại lên
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (Kết quả: Sửa 01 vụ án sơ thẩm và hủy cả
bản án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 03 vụ)
Năm 2016, tổng số vụ việc Dân sự (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động) thụ lý 4.097 vụ, 79 việc, đã giải quyết, xét xử
3.689 vụ, 68việc của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ; trong đó tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 365 vụ việc, chiếm
31
8,74% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý, đã giải quyết được 315 vụ, việc đạt tỷ
lệ 86,3%, trong đó hòa giải thành là 69 vụ, việc đạt tỷ lệ 21,9%.
Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tổng số vụ việc là 226 vụ việc,
trong đó tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 29 vụ
việc, chiếm 12,83% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý. Trong đó án sơ thẩm là 11
vụ, việc và án phúc thẩm là 18 vụ, việc. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã giải
quyết được 23 vụ, việc đạt tỷ lệ 79,3%, (Án sơ thẩm là 08 vụ và án phúc thẩm là
15 vụ) trong đó hòa giải thành là 03 vụ, việc đạt tỷ lệ 13,04%; Kết quả xét xử
phúc thẩm: Hủy án sơ thẩm 01 vụ, sửa án sơ thẩm 04 vụ, giữ nguyên án sơ thẩm
là 10 vụ; Có 03 vụ kháng cáo và 06 vụ có khiếu nại lên Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội (Kết quả: Sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ và hủy cả bản
án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ).
Năm 2017, tổng số vụ việc Dân sự (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động) thụ lý 4.133 vụ, 59 việc, đã giải quyết, xét xử
3.793 vụ, 46 việc của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ; trong đó tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 371 vụ việc, chiếm
8,85% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý, đã giải quyết được 319 vụ, việc đạt tỷ
lệ 85,98%, trong đó hòa giải thành là 63 vụ, việc đạt tỷ lệ 19,7%.
Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tổng số vụ việc là 238 vụ việc,
trong đó tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 31 vụ
việc, chiếm 13,02% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý (Trong đó án sơ thẩm là 08
vụ, việc và án phúc thẩm là 23 vụ, việc). Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã giải
quyết được 25 vụ, việc đạt tỷ lệ 80,6% (Án sơ thẩm là 06 vụ và án phúc thẩm là
19 vụ), trong đó hòa giải thành là 02 vụ, việc đạt tỷ lệ 6,45%. Kết quả xét xử
phúc thẩm: Hủy án sơ thẩm 01 vụ, sửa án sơ thẩm 08 vụ, giữ nguyên án sơ thẩm
là 10 vụ; Có 03 vụ kháng cáo và 06 vụ có khiếu nại lên Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội (Kết quả: Sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ và hủy cả bản
án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ).
32
Năm 2018, tổng số vụ việc Dân sự (dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động) thụ lý 4.948 vụ, 81 việc, đã giải quyết, xét xử
4.193 vụ, 67 việc của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ; trong đó tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 374 vụ việc, chiếm
7,4% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý, đã giải quyết được 322 vụ, việc đạt tỷ
lệ 86,09%, trong đó hòa giải thành là 69 vụ, việc đạt tỷ lệ 18,44%.
Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tổng số vụ việc là 316 vụ việc,
trong đó tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng là 34 vụ
việc, chiếm 10,75% tổng số vụ việc dân sự đã thụ lý (Trong đó án sơ thẩm là
09 vụ, việc và án phúc thẩm là 25 vụ, việc. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã
giải quyết được 27 vụ, việc đạt tỷ lệ 79,4% trong đó hòa giải thành là 03 vụ,
việc đạt tỷ lệ 11,1%. (Án sơ thẩm là 07 vụ và án phúc thẩm là 18 vụ), trong
đó hòa giải thành là 02 vụ, việc đạt tỷ lệ 5,88%. Kết quả xét xử phúc thẩm:
Sửa án sơ thẩm 04 vụ, giữ nguyên án sơ thẩm là 14 vụ; Có 03 vụ kháng cáo
và 07 vụ có khiếu nại lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (Kết quả: Sửa
01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ và hủy cả bản án phúc thẩm và sơ
thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ).
Như vậy, có thể thấy rằng, số lượng vụ việc dân sự mà Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết trong đó có tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng chiếm tỷ lệ khoảng 8,4% tổng số vụ việc
dân sự (gồm dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động)
và ngày càng tăng. Tuy nhiên, theo Báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án
nhân dân tỉnh Phú Thọ thì tỷ lệ hòa giải thành trong vụ án dân sự có tranh
chấp về tài sản sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng đạt tỷ lệ thấp (năm
2015 là 19,09%; năm 2016 là 21,9%; năm 2017 là 19,7%; năm 2018 là
18,44%. Điều này cho thấy những tranh chấp về tài sản sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng rất phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến người có tài sản thế
chấp phải thi hành, nên tỷ lệ hòa giải thành không cao.
33
2.3. Thực trạng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ.
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, về cơ bản các Thẩm phán đã áp dụng
đầy đủ những quy định pháp luật để giải quyết các tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nên tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung đạt
trên 86% (Năm 2015: 88,03%; Năm 2016: 86,3%; Năm 2017: 85,98%; Năm
2018: 86,09% [22, tr.4]).
Trải qua quá trình Ngân hàng và các khách hàng đi vay cung cấp chứng
cứ cùng với việc thu thập chứng cứ của Tòa án thì việc tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải là một bước quan trọng mà Tòa án phải thực hiện. Nếu
hòa giải thành, Tòa án sẽ không phải mở phiên tòa, giảm thời gian, chi phí
cho các bên tranh chấp, ngoài ra hòa giải thành sẽ giúp hạn chế tới mức tối đa
sự mâu thuẫn trong quan hệ giữa Ngân hàng với các khách hàng đi vay dẫn
đến khả năng thi hành án cao. Phần lớn Thẩm phán hiểu được việc xác minh
thu thập chứng cứ là một thủ tục quan trọng trong quyết định đến chất lượng
của bản án, quyết định, còn hòa giải là một phương thức để giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng mang lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên tỷ lệ hòa giải thành đối với các vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp
bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ chưa
đạt kết quả cao chỉ khoảng hơn 19%: Cụ thể, năm 2015 có 79 vụ, việc hòa
giải thành đạt tỷ lệ 19,09%; Năm 2016 có 69 vụ, việc hòa giải thành đạt tỷ lệ
21,9%; Năm 2017 có 63 vụ, việc hòa giải thành đạt tỷ lệ 19,7%; Năm 2018 có
69 vụ, việc đạt tỷ lệ 18,44%. Do vậy việc đảm bảo tiền vay Ngân hàng bằng
biện pháp hòa giải chưa thực sự có hiệu quả cao.
Các vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng
được đưa ra xét xử đều được thu thập đầy đủ chứng cứ, việc hòa giải cũng
được các Thẩm phán tiến hành với mục đích bảo đảm tiền vay cho Ngân
hàng. Tuy nhiên có nhiều vụ án bị hủy, sửa hoặc sau khi khiếu nại dẫn đến
34
hủy sửa cả án sơ thẩm và án phúc thẩm do sai sót về phần thu thập chứng cứ
hoặc đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ chính xác cũng như việc đưa thiếu người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng, cụ thể như sau: Năm 2015
Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã phải hủy 01 vụ án sơ thẩm và sửa án sơ
thẩm 03 vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện; Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội đã sửa 01 vụ án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ và hủy cả bản
án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ. Năm 2016 Tòa
án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã phải hủy 01 vụ án sơ thẩm và sửa án sơ thẩm 03
vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện; Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã
sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Thọ và hủy cả bản án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02
vụ. Năm 2017 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã hủy 01 vụ án sơ thẩm và sửa
án sơ thẩm 04 vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện; Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội đã sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm 01 vụ của Tòa án nhân
dân tỉnh Phú Thọ và hủy cả bản án phúc thẩm và sơ thẩm theo trình tự giám
đốc thẩm 02 vụ. Năm 2018 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã sửa 04 vụ án sơ
thẩm; Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã sửa 01 vụ án sơ thẩm, hủy án sơ
thẩm 01 vụ của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ và hủy cả bản án phúc thẩm và
sơ thẩm theo trình tự giám đốc thẩm 02 vụ [22, tr.4].
Theo quy định tại Điều 68, Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 106, Điều 101 Bộ luật dân sự năm 2015 thì khi giải quyết tranh chấp
hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của hộ
gia đình Toà án cần phải đưa các thành viên trong gia đình tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Đối với tranh chấp hợp đồng vay tài sản có tài sản bảo đảm (thường là
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất) là tài sản chung của vợ chồng hoặc
là tài sản của hộ gia đình nhưng Tòa án chưa xác minh, làm rõ tại thời điểm
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hộ gia đình này gồm những
35
ai để đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án là không đúng các quy định nêu trên.
Ví dụ: Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2016/KDTM-ST
ngày 30/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về việc “tranh chấp hợp
đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Quân đội với bị đơn là
ông Trương B, chủ Doanh nghiệp tư nhân Trương B.
Theo quy định tại Điều Điều 68, Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; Điều 106, Điều 101 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 317, Điều 320 Bộ
luật dân sự năm 2015, phải đưa người thế chấp tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và xem xét trách nhiệm của người thế
chấp. Đối với Hợp đồng thế chấp tài sản của người thứ ba để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ dân sự, khi giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm
Toà án không đưa người thế chấp tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng với các quy định nêu trên.
Khi giải quyết các vụ án liên quan đến tài sản thế chấp, Tòa án cấp sơ
thẩm không xem xét thực tế có ai sinh sống trên đất là tài sản được thế chấp
để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án là có thiếu sót.
Theo quy định tại Điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và
đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú,
trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết
được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi
kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ
lý, giải quyết theo thủ tục chung.”
36
Điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-
2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
“Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa
chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng
văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc
hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho
người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy
định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015
thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục
chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được
cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;”
Trong thực tiễn, theo Hợp đồng thế chấp tài sản thì người thế chấp có
địa chỉ cư trú rõ ràng. Khi Ngân hàng khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bị đơn
thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng và đề nghị Tòa án kê biên,
phát mại tài sản bảo đảm của bên thế chấp, Ngân hàng gửi kèm theo Hợp
đồng thế chấp, bản phô tô chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của người thế
chấp. Khi Tòa án thụ lý vụ án thì người thế chấp vắng mặt tại địa phương,
đương sự cung cấp được địa chỉ của bên thế chấp ở nước ngoài. Tòa án đã
tiến hành ủy thác tư pháp để thu thập chứng cứ nhưng cơ quan có thẩm quyền
thực hiện ủy thác đã thông báo cho Tòa án là “ủy thác không thành công vì lý
do không có đương sự có tên tại địa chỉ được yêu cầu thực hiện ủy thác”, Tòa
án đã tiến hành thông báo kết quả ủy thác cho các đương sự và yêu cầu họ
cung cấp địa chỉ khác của bên thế chấp tại nước ngoài nhưng các đương sự
không cung cấp được.
37
Có quan điểm cho rằng, trường hợp này không áp dụng quy định tại
Nghị quyết số 04 nêu trên vì Nghị quyết này chỉ áp dụng cho các vụ án không
có yếu tố nước ngoài. Còn trường hợp này là vụ án có yếu tố nước ngoài nên
phải căn cứ quy định tại điểm b khoản 6 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ án.
Quan điểm nêu trên là không đúng vì quy định tại điểm e khoản 1 Điều
192 Bộ luật Tố tụng dân sự và hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị
quyết số 04/2017/NQ-HĐTP như đã nêu trên áp dụng cho cả trường hợp vụ
án có yếu tố nước ngoài. Đối với tình huống nêu trên, bên thế chấp được coi
là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà
không đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Việc khách hàng trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng trong đó
khi hai vợ chồng cùng đứng ra để vay tiền của Ngân hàng và cùng ký vào các
hợp đồng. Nhưng khi Ngân hàng khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án tiến hành các
biện phán tố tụng nhưng chỉ có một bên vợ (hoặc chồng) có mặt ở địa phương
nên Tòa án buộc phải thu thập chứng cứ làm thủ tục giám định chữ ký và chữ
viết trong Hợp đồng tín dụng mới đảm bảo đúng thủ tục tố tụng với việc ra
bản án nghiêm khắc đối với bên vi phạm để giữ gìn trật tự môi trường kinh
doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. Hay Ngân hàng
không thu thập được tài liệu, chứng cứ là mẫu chữ ký, chữ viết của khách
hàng vay để lấy căn cứ giám định qua đó mới giải quyết được tranh chấp về
tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Trường
hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt thì người thực hiện việc cấp,
tống đạt, thông báo phải lập biên bản và giao cho người thân thích có đủ năng
lực hành vi dân sự cùng nơi cư trú với họ hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng
thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc để thực hiện việc ký nhận hoặc điểm chỉ và
yêu cầu người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt,
thông báo. Biên bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án.”
38
Một số Tòa án cấp huyện vẫn chưa thực hiện đúng quy định này dẫn
đến việc triệu tập đương sự không hợp lệ mà đã cho rằng đương sự được triệu
tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng để đình
chỉ xét xử là không đúng, không bảo đảm quyền lợi của ương sự.
Ví dụ: Tòa án nhân dân huyện T gửi giấy triệu tập cho ông Trần Văn K
và bà Nguyễn Thị Phi O qua đương bưu điện. Tại Giấy báo phát (do Bưu điện
chuyển trả cho Tòa án) thể hiện người nhận giấy triệu tập là bà “Y” nhưng
không thể hiện rõ người này có quan hệ với với ông K, bà O như thế nào và
có cam kết chuyển giấy triệu tập cho ông K, bà O không? Họ tên đầy đủ của
bà Y như thế nào, địa chỉ ở đâu cũng không rõ. Phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất
ông K và bà O vắng mặt. Tòa án nhân dân huyện T tiếp tục tiến hành gửi giấy
triệu tập cho ông K và bà O qua đường bưu điện. Tại Giấy báo phát (do Bưu
điện chuyển trả lại cho Tòa án) thể hiện người nhận là “TTY” và không thể
hiện rõ người này là ai, có quan hệ với ông K và bà O như thế nào và có cam
kết chuyển giấy triệu tập này cho ông K, bà O không? Cũng không rõ họ tên
đầy đủ của người nhận giấy triệu tập này là như thế nào? Tại phiên tòa sơ
thẩm lần thứ hai, ông K và bà O vắng mặt. Như vậy, việc triệu tập của Tòa án
nhân dân huyện T là chưa hợp lệ mà Tòa án đã cho rằng ông K, bà O được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng để
đình chỉ xét xử là không đúng, không bảo ảm quyền lợi của đương sự.
Nhiều Tòa án không thể đưa vụ án giải quyết đúng thời gian luật định.
Thực tế Tòa án nhân dân hai cấp ở tỉnh Phú Thọ đã không quyết định đưa vụ
án ra xét xử trong thời hạn tố tụng do pháp luật quy định (thời hạn tối đa 6
tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở
ngại khách quan). Thực tế, có vụ án kéo dài đến 2 năm kể từ ngày thụ lý vụ
án mà Tòa án vẫn không mở được phiên tòa xét xử. Do các Tòa án cần phải
xác minh lại, xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp, định giá tài
sản thế chấp (diện tích đất, chủ sở hữu tài sản...) theo hướng dẫn của Tòa án
39
cấp trên trực tiếp cũng như cần sự phối hợp cung cấp tài liệu chứng cứ của
các cơ quan liên quan.
Quá trình giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để đảm bảo tiền vay
cho Ngân hàng tại Tòa án còn gặp nhiều khó khăn trong việc xác định tài sản
bảo đảm là tài sản chung hay tài sản riêng. Trong khi ký hợp đồng thế chấp tài
sản không đủ căn cứ xác lập quyền tài sản chung hoặc riêng của vợ chồng.
Tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy đinh của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 đã quy định: “.... Người đang có vợ hoặc có chồng là:
Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; Người sống chung với người khác như
vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn; Người sống chung với người khác như vợ
chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với
nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn
(trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến
trước ngày 01/01/2003)”. Khi có người đi một mình đến ký hợp đồng thi buộc
phải có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của UBND xã, phường để đề
phòng trường hợp hôn nhân thực tế nêu trên. Trong thực tế lại có nhiều
trường hợp người có tài sản bảo đảm lại sống ở nhiều nơi, nhiều quãng thời
gian khác nhau, rất khó xác định tình trạng hôn nhân của người đó. Đối với
trường hợp này, có nhiều tổ chức hành nghề công chứng và ngân hàng lại căn
cứ vào Công văn số 2488/BTP-HCTP ngày 26/6/2006 "V/v thực hiện Nghị
định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch” để xác nhận tình
trạng hôn nhân của những người đã cư trú tại nhiều địa phương khác nhau (kể
cả cư trú ở nước ngoài). Nội dung Công văn này đã quy định: “Trong trường
hợp một người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau (kể cả thời gian cư trú ở
nước ngoài), thì khi đăng ký kết hôn, ngoài việc xác nhận tình trạng hôn nhân
40
của nơi cư trú hiện tại, đương sự phải viết tờ cam kết (không có mẫu riêng) và
chịu trách nhiệm về cam kết của mình về tình trạng hôn nhân trong thời gian
trước đó.”. Có thể hiểu nội dung này chỉ áp dụng cho việc làm thủ tục kết hôn
với người nước ngoài, không có liên quan đến việc chứng minh tài sản là
chung hay riêng, có vợ hay có chồng liên quan đến tài sản đang giao dịch. Đối
với trường hợp con người có “nhiều tình sử” này Ngân hàng cần phải hết sức
thận trọng và phải xác minh đến cùng mới cho thế chấp để vay vì đã có nhiều
trường hợp chỉ có người chồng đứng ra thế chấp tài sản để vay vốn tại Ngân
hàng nhưng đến khi Ngân hàng khởi kiện để giải quyết tranh chấp về tài sản
thế chấp thì “xuất hiện” người vợ đòi lại tài sản chung hợp nhất... cuối cùng
nợ xấu vẫn là nợ xấu. Cũng tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP đã quy
định: “3. Tài sản chung của vợ chồng (Điều 27). Thực tiễn cho thấy chỉ có tài
sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất...),
song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải
đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của
vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Mặt khác, Khoản
1 Điều 32 đã quy định cụ thế về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được
trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu,
nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng,
nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh
chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu
phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng
trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy
định tại Khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng
khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối
tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài
41
sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại Khoản 3 Điều
27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.”. Trong trường hợp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một người thì chỉ cần một người ký hợp
đồng. Như vậy, khi xảy ra tranh chấp thì Ngân hàng khởi kiện tại Tòa án sẽ
rất khó cho công tác giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng vì người còn lại sẽ khiếu kiện theo như nội dung của Nghị
quyết nêu trên, bởi đây là tài sản chung của hai vợ chồng, nhưng chỉ đứng tên
một người và chỉ có một người ký. Theo đó, bên thế chấp tài sản phải chứng
minh tài sản là của chung hay của riêng tức là phải chứng minh tình trạng hôn
nhân của mình, nếu đã có gia đình thì bắt buộc phải có đủ chữ ký của 02 vợ
chồng trong hợp đồng. Trong trường hợp là tài sản riêng của vợ hoặc chồng
thì phải có tài liệu chứng minh (bản đi chúc, hợp đồng tặng cho riêng...) hoặc
bản cam kết của người còn lại xác nhận tài sản mang ra giao dịch là tài sản
riêng. Khi đó các vụ án giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ được giải quyết
công tâm khách quan đúng pháp luật bảo vệ được quyền, lợi ích chính đáng
cho các bên đương sự.
Nhiều Tòa án nhân dân cấp huyện đã xác định hợp đồng thế chấp vô
hiệu một phần không đúng. Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị
định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch
bảo đảm thì: “ Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không
thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ
sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài
sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa
người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản
gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử
42
dụng đất.”. Ví dụ: Trường hợp khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế
chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02
tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3.5 tầng
chưa đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thế chấp tài sản gồm quyền sử
dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Tòa án xác định hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất có một phần vô hiệu (phần
có căn nhà 3.5 tầng) là không đúng. Lẽ ra, cần phải yêu cầu đương sự cung
cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng
nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích của những người đã bỏ
tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại nhà đó. Đồng thời cần hỏi ý kiến,
đề nghị các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản. Trường hợp bên thế chấp và
bên nhận thế chấp thỏa thuận thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản
bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản thuộc sở hữu của người
khác không phải người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được
quyền ưu tiên mua nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng). Cần lưu ý:
Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở
hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người
sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc
sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với
quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.
Đánh giá chung: Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh
doanh thương mại, hôn nhân và gia đình cũng như việc giải quyết các tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng của Tòa án nhân dân
dân tại tại tỉnh Phú Thọ nhìn chung đã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho
các bên đương sự; đã tuân thủ các quy định của pháp luật, chú trọng công tác
hòa giải do vậy đã có nhiều vụ án được hòa giải thành. Tuy nhiên vẫn có có
nhiều vụ án phải xét xử nhiều lần, qua nhiều vòng tố tụng do có thiếu sót
43
trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về tố tụng và nội dung liên
quan đến giao dịch bảo đảm tiền vay Ngân hàng.
2.4. Kết luận chung rút ra từ thực trạng giải quyết tranh chấp về
tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh
Phú Thọ.
2.4.1. Những ưu điểm cơ bản
Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ cơ bản đảm bảo được
tính độc lập khi xét xử, không bị áp lực trong xã hội, đảm bảo sự vô tư, khách
quan, công bằng, bình đẳng, không chậm chễ kéo dài, tuân thủ đúng pháp
luật, hạn chế tối đa sai sót xảy ra.
Quan tâm, chú trọng việc tổ chức hòa giải giữa các bên đương sự, nên
nhiều vụ án sau khi hòa giải, các bên đã thống nhất cách thức giải quyết và
Ngân hàng, tổ chức tín dụng đã rút đơn khởi kiện; đồng thời quan tâm làm tốt
công tác phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc xây dựng hồ sơ vụ án,
thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được
nhanh chóng, kịp thời.
Trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng tại Tòa án đã chú trọng đến việc thu thập chứng cứ, xem
xét, đánh giá, sử dụng chứng cứ phù hợp với yêu cầu của pháp luật trong từng
vụ án cụ thể. Nhiều vụ việc đã được giải quyết hợp lý ngay trong quá trình
hòa giải mà không cần phải mở phiên tòa mà vẫn bảo đảm tiền vay Ngân
hàng. Bản án, quyết định của Tòa đảm bảo tính thuyết phục ngay cả với người
bị kiện được xem là “đương sự khó tính” bậc nhất của tố tụng tư pháp.
“Ví dụ như vụ án giữa Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần
Đầu tư và phát triển Việt Nam, Chi nhánh Phú Thọ với bị đơn là anh Ngô
Quang T. Sau khi Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ đó là xem xét thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản. Tòa án tiến hành hòa giải cho các bên đương
44
sự thỏa thuận với nhau, anh T đề nghị Ngân hàng cho phép tự mình bán tài
sản thế chấp và Ngân hàng đồng ý khi đó Ngân hàng đã rút đơn khởi kiện đối
với anh T mà vẫn đảm bảo tiền vay cho Ngân hàng”.
Có nhiều phương pháp tiếp cận, cách thức xây dựng hồ sơ vụ án để giải
quyết vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại
Tòa án của đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đã được nâng
cao một bước và bảo đảm đúng trình tự thủ tục tố tụng.
Công tác kiểm tra giám sát định kỳ hay theo chuyên đề của Phòng
Kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh đến các Tòa án nhân dân cấp
huyện được tăng cường thường xuyên.
Mặc dù các vụ giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng tại Tòa án rất đa dạng phức tạp, nhưng nhìn chung công tác
giải quyết, xét xử loại án này trong thời gian qua các Tòa án nhân dân tại tỉnh
Phú Thọ tiếp tục được đảm bảo. Kỹ năng thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ
cần thiết đề giải quyết vụ án được chính xác, đầy đủ và toàn diện hơn, nhất là
kỹ năng tổ chức, điều hành thủ tục hòa giải giữa Ngân hàng, tổ chức tín dụng
với người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chú trọng
nên nhiều vụ án đã được kết thúc ngay từ giai đoạn hòa giải mà không phải
mở phiên tòa do các bên đã thống nhất được phương án giải quyết, Ngân
hàng, tổ chức tín dụng rút đơn khởi kiện.
2.4.2. Những tồn tại, hạn chế, bất cập
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc giải quyết tranh chấp về tài
sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú
Thọ trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần phải khắc
phục, đó là:
Thứ nhất, có nhiều các vụ án để quá thời hạn giải quyết theo quy định
của pháp luật do lỗi chủ quan của Tòa án chưa được khắc phục triệt để. Vẫn
còn tình trạng chậm gửi bản án, quyết định cho các đương sự, cơ quan có liên
45
quan hoặc chậm tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng. Chưa
khắc phục triệt để việc bản án tuyên không rõ ràng, một số bản án, quyết định
sai sót về thông tin người tham gia tố tụng nên phải đính chính, giải thích. Có
nhiều trường hợp tạm đình chỉ còn thiếu căn cứ hoặc lý do tạm đình chỉ được
thực hiện nhiều lần làm cho thời gian giải quyết vụ án phải kéo dài làm cho
Ngân hàng không thu được tiền để cung cấp nguồn vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai, trong quá trình thụ lý, giải quyết một số vụ án tranh chấp về
tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại một số Tòa án nhân dân cấp
huyện cũng như Tòa án nhân dân tỉnh đã áp dụng pháp luật không đúng, việc
thu thập đánh giá chứng cứ còn chưa khách quan toàn diện, chính xác; một số
vụ án xác định thiếu hoặc không đúng tư cách người tham gia tố tụng nên các
bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị hoặc khi có đơn khiếu nại lên
Tòa án nhân dân cấp cao dẫn đến bị sửa, hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán.
Thứ ba, trong quá trình khi giải quyết án, một số Thẩm phán – Chủ tọa
phiên tòa còn lúng túng thậm chí giải quyết vụ việc không đúng với quy định
của pháp luật; chưa có kỹ năng nhận diện chính xác về điều kiện khởi kiện,
của đối tượng khởi kiện, người có quyền khởi kiện; thiếu chính xác trong
đánh giá điều kiện thụ lý vụ án; chưa xác định được những vấn đề, những tình
tiết, chứng cứ có tính chất cốt lõi, nền tảng để khai thác, nhấn mạnh trong lập
luận để giải quyết bảo đảm tính thuyết phục; kỹ năng quản lý và điều hành tại
phiên tòa nhiều khi chưa thực sự “chuyên nghiệp”, còn nặng về áp đặt, quy
chụp. Việc nhận xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ chưa toàn diện, chưa đảm
bảo tính khách quan, chưa bảo đảm tính logic chưa cao.
2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, bất cập
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó, chủ yếu là các nguyên
nhân cơ bản sau đây:
46
Một là, Hệ thống pháp luật liên quan đến xét xử các vụ án giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án vẫn còn
có những vấn đề chưa đầy đủ, chưa thống nhất, có những quy định pháp luật
chưa đáp ứng thực tế; chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp, thiếu rõ ràng,
chưa chi tiết, cụ thể, thậm chí có xung đột nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung
hoặc ban hành văn bản hướng dẫn kịp thời, nên có nhiều Thẩm phán có
những cách hiểu khác nhau, không đồng nhất; có những quy định pháp luật
chưa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Các điều luật
quy định có tính chất bổ trợ trong hoạt động tố tụng như thủ tục cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng, giám định, thẩm định, định giá… chưa mang tính
xã hội hóa, còn ràng buộc trách nhiệm cho Tòa án.
Hai là, Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành còn nhiều hạn chế, chưa
chủ động đề ra các giải pháp, chưa thật sự quyết liệt đề ra những giải pháp cụ
thể, mang tính hiệu quả cao đối với nhiệm vụ giải quyết tranh chấp về tài sản
thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
Ba là, Năng lực về chuyên môn, đặc biệt là ý thức trách nhiệm, kỷ
cương, kỷ luật, tính gương mẫu của một bộ phận Thẩm phán, Thẩm tra viên,
Thư ký trong ngành Tòa án vẫn chưa nghiêm, chưa thường xuyên tự học hỏi
để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán.
Chưa nhận thấy hết được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong hoạt động
giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa
án. Một số Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án còn thụ động, thậm chí
ngại giải quyết xét xử, giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng tại Tòa án. Kỹ năng và bản lĩnh nghề nghiệp đôi khi còn hạn
chế, còn có biểu hiện đùn đẩy, né tránh; ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương
công vụ chưa nghiêm, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân chưa
tốt; chưa thực sự gần dân, giúp dân, học dân nên hiệu quả công tác chưa đáp
ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đã đề ra.
47
Bốn là, Số lượng các vụ án mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ
phải giải quyết tăng, thẩm quyền của Tòa án được mở rộng với tính chất vụ
án ngày càng phức tạp, trong khi biên chế Thẩm phán còn chưa được bổ sung.
Năm là, Công tác phối hợp với các cơ quan chuyên môn trong giải
quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án
còn nhiều hạn chế, chưa có quy định cụ thể nhiệm vụ và trách nhiệm của các
cơ quan chuyên môn trong công tác phối hợp cũng như chế tài khi cán bộ các
cơ quan chuyên môn không tham gia công tác phối hợp; đặc biệt vấn đề phối
hợp với cơ quan Tài nguyên và Môi trường, cơ quan Tài chính và các cơ quan
hữu quan trong việc thẩm định, định giá tài sản, cung cấp thông tin, tài liệu,
chứng cứ chưa được đầy đủ, kịp thời, thậm chí có trường hợp không cung cấp
thông tin hay thông tin chung chung cho Tòa án khi đã có yêu cầu hay né
tránh khi cung cấp; Hoặc đôi khi vụ án còn gặp nhiều khó khăn do thiếu sự
hợp tác của các đương sự nên một số vụ án còn bị kéo dài.
Sáu là, Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân
dân của ngành Tòa án nói riêng và hệ thống cơ quan tư pháp còn chưa được
thường xuyên kịp thời nên hiệu quả chưa cao dẫn đến sự hiểu biết và nhận
thức của người dân còn hạn chế. Nhận thức pháp luật của một số đương sự
chưa đầy đủ còn nhiều vấn đề cần phải được bổ sung, dẫn đến trong nhiều
trường hợp đương sự cố tình né tránh, đối phó, thậm chí chống đối bằng nhiều
hình thức như: gây khó khăn trong việc cung cấp lời khai, chứng cứ, không
đến Tòa theo giấy triệu tập, khiếu nại kéo dài,… làm ảnh hưởng đến thời hạn
và chất lượng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân
hàng tại Tòa án.
Bảy là, Điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của ngành Tòa
án nói chung, cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ nói
riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc. Không gian làm việc cho
Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án còn chật hẹp, thiếu phương tiện
48
thiết yếu phục vụ cho công việc. Công nghệ thông tin còn lạc hậu, cần truy
cập những thông tin, tài liệu, chứng cứ của các ngành khác như: Tài nguyên,
môi trường, Thuế, tài chính, Ngân hàng, kho bạc…để phục vụ cho việc giải
quyết án rất khó khăn, vướng mắc. Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công chức
đặc biệt là Thẩm phán còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc
nên nhiều khi chưa yên tâm công tác.
Tiểu kết chương 2
Bằng phương pháp khảo sát, nghiên cứu, phân tích thực tiễn, tác giả
luận văn đã đánh giá cụ thể, khách quan tình hình hoạt động giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án từ thực tiễn
xét xử tại Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. Hoạt động giải quyết tranh chấp
về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án đã được quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, hoạt động giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng tại Tòa án vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập về công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; về phẩm chất, năng lực của đội
ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; về áp dụng pháp luật cũng
như về sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong quá trình thực hiện cung
cấp chứng cứ, thẩm định, định giá… Những hạn chế, bất cập đó do nhiều
nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan. Do vậy, nghiên cứu để tìm ra giải pháp khả thi khắc phục những hạn
chế, bất cập, nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp về tài sản
thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhằm bảo đảm nguồn vốn để
phát triển kinh tế là một vấn đề hết sức cần thiết hiện nay.
49
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ TÀI SẢN THẾ CHẤP ĐỂ BẢO ĐẢM
TIỀN VAY NGÂN HÀNG
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phù hợp với quan điểm, yêu
cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Tiếp tục triển khai nghiêm túc văn bản chỉ đạo của Đảng và Quốc hội
về công tác tư pháp, các nhiệm vụ công tác của TAND tối cao đã đề ra; đẩy
mạnh việc quán triệt thi hành một số văn bản quy phạm pháp luật mới có liên
quan về công tác của Tòa án. Triển khai học tập Nghị quyết trung ương 8
khóa XII của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Qua đó tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân
hàng tại Tòa án trên cơ sở tiếp tục thể chế hoá Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 trên cơ sở bảo đảm phù hợp với các quy định của Hiến
pháp [22, tr.7]. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phải đáp ứng được các tiêu chí
đánh giá yêu cầu hoàn thiện pháp luật như tính thống nhất; đồng bộ và toàn
diện; tính khả thi và phù hợp với thực tiễn; tính công khai, minh bạch; phù
hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam; tính hiệu quả và khả năng dự báo,
tôn trọng quyền con người...
Do vậy, tính thống nhất phải được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật
50
về giải quyết các vụ án dân sự nói chung cũng như đối với từng văn bản quy
phạm pháp luật và từng quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài
sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nói riêng. Giữa pháp luật
về nội dung đó là Bộ luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng cũng như về hình
thức tố tụng phải bảo đảm được tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì
giữa các thành tố cấu tạo nên nó mới đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật về
giải quyết ttranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa
án được thực thi một cách có hiệu quả.
Về tính đồng bộ và toàn diện nghĩa là phải có đầy đủ chế định pháp luật
và quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực quản lý đặc biệt là lĩnh vực cho vay của Ngân hàng; Không
có các hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của các quy
phạm pháp luật trong mỗi bộ phận và trong từng bộ phận khác nhau của hệ
thống pháp luật. Để đảm bảo điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp
luật được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hoà về nội dung mà
còn phải bảo đảm tính thứ bậc của mỗi văn bản về giá trị pháp lý của chúng.
Về tính khả thi và phù hợp với thực tiễn thể hiện ở sự phù hợp của các
văn bản quy phạm pháp luật mà đặc biệt là của các văn bản luật với các quy
luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện vô cùng quan
trọng bảo đảm cho tính khả thi và hiệu quả của pháp luật; Sự phù hợp của
pháp luật phải đi đôi với điều kiện chính trị của đất nước, mà điều quan trọng
nhất là phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Hệ thống pháp luật của
Việt Nam hiện nay phải thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã được đề ra tại Đại hội lần thứ XII và các kỳ Đại
hội trước của Đảng, thể chế hóa chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội của Đảng trong điều kiện đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
51
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mở cửa, hội nhập quốc tế.
Về tính công khai, minh bạch đảm bảo mọi người dân đều được biết,
được tiếp cận pháp luật, đều có thể nắm bắt được pháp luật; Các quy định
pháp luật phải được quy định một cách dễ hiểu, dễ tiếp cận; Mọi người dân
đều có thể hiểu được các quyền và nghĩa vụ của mình qua đó mới tuân thủ
nghiêm túc và thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Về tính ổn định, hiệu quả và khả năng dự báo là yêu cầu cần thiết, bởi
không thể thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp
luật. Đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam; Tạo khung
pháp luật thống nhất cho việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế và hoạt
động tương trợ tư pháp, cũng như tạo cơ chế để bảo đảm thực thi các cam kết
quốc tế của Việt Nam nhằm tôn trọng quyền con người.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp về tài
sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án gắn với công tác cải
cách hành chính và cải cách tư pháp.
Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa
IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ:
“Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính.
Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng
giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án”. Do vậy, ngày
12/3/2014, Bộ Chính trị khóa XI đã có Kết luận số 92-KL/TW về việc tiếp tục
thực hiện Nghị Quyết số 49-NQ/TW tiếp tục khẳng định: Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 về cơ bản là đúng đắn. Các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương
cần phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, vướng
mắc, tiếp tục thực hiện mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp
nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX vẫn còn phù
52
hợp với thực tiễn. Đồng thời, quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương,
đường lối của Đảng nêu trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII và các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 có liên quan đến tổ chức,
hoạt động tư pháp. Cũng như tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Do vậy, cần nghiên cứu, tổng hợp, phân tích đề ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng
tại Tòa án phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập
kinh tế quốc tế. Kiện toàn tổ chức, bộ máy Tòa án nhân dân các cấp, tuyển dụng
đủ số lượng biên chế được giao, bảo đảm chất lượng cán bộ có chức danh tư pháp,
phân bổ biên chế hợp lý cho các đơn vị, địa phương; đẩy mạnh công tác đào tạo,
bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện đạo đức, phẩm chất cho đội
ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án cũng như người lao động.
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phải đảm bảo sự gắn kết giữa hoạt động xét xử,
công tác cho vay của hệ thống Ngân hàng và thi hành án dân sự. Tăng cường sự
phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và quy định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của
Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án và Ủy ban nhân dân các cấp trong hoạt động
thi hành án dân sự để bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi
hành có hiệu quả, thực chất, bền vững nhằm bảo đảm tiền vay Ngân hàng.
Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phải phù hợp với chủ trương cải
cách hành chính, cải cách tư pháp, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của
đất nước, đồng thời bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước
đối với hoạt động xét xử của Tòa án.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án phải đảm bảo tuân thủ pháp
luật, bảo vệ công lý, quyền con người.
Giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng
53
tại Tòa án là một cơ chế pháp lý cần thiết và không thể thiếu trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang xây dựng
Nhà nước pháp quyền mà ở đó điều kiện tiên quyết là tính tối thượng của
pháp luật phải được bảo đảm. Với tinh thần thượng tôn pháp luật của toàn xã
hội, không phân biệt ai, thuộc giai tầng nào, đẳng cấp nào trong xã hội đều
đối xử bình đẳng trước pháp luật. Tòa án nhân dân với vai trò là cơ quan “cầm
cân, nẩy mực” “Phụng công thủ pháp”, [22, tr.1] được Đảng và Nhà nước
giao phó, nhân dân tin cậy, không có tư cách nào khác ngoài mục tiêu cao
nhất là luôn luôn tuân thủ pháp luật một cách chính xác nhất, khách quan nhất
và trung thực nhất. Giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng tại Tòa án vận hành một cách hiệu quả, phát huy vai trò, tác dụng
tích cực trong xã hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi và góp phần quan trọng trong
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, mọi quyết
định của Tòa án luôn luôn được kiến tạo trên nền tảng pháp luật, luôn phù
hợp với pháp luật, đúng pháp luật trên tất cả các phương diện: thực hiện pháp
luật, áp dụng pháp luật và chấp hành pháp luật. Các bản án, quyết định giải
quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng phải “thấu
tình - đạt lý”, có tính thuyết phục cao, phán quyết vô tư, không thiên vị, được
sự đồng tình của đông đảo quần chúng nhân dân và dư luận xã hội được đảm
bảo thi hành trên thực tế. Đồng thời làm cho các bên trong quan hệ vay và cho
vay sử dụng nguồn vốn đạt hiệu quả cao.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án
Hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án là vấn đề hết
sức cần thiết hiện nay nhưng vấn đề này rất phức tạp, cần có kế hoạch khoa
học, có bước đi phù hợp với sự tham gia của nhiều tổ chức, nhiều lực lượng
tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó, trước mắt, cần tập trung thực
54
hiện các giải pháp sau:
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản thế chấp
bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân dân các cấp.
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, bởi những quy định của pháp
luật là cơ sở, căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ án nói chung, giải quyết
tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nói riêng. Các nội
dung quy định của pháp luật càng có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn xã
hội, rõ ràng, cụ thể, không chồng chéo, mâu thuẫn thì việc giải quyết vụ án
tranh chấp càng nhanh chóng, chính xác, bảo đảm quyền lợi của các bên
đương sự. Qua đó giúp các Ngân hàng thu hồi nguồn vốn đạt hiệu quả cao để
cung cấp nguồn vốn cho thị trường tạo động lực thúc đẩy cho nền kinh tế.
Hiện nay, các quy định của pháp luật và việc áp dụng vào giải quyết
các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng còn bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập; bởi lẽ, hệ thống pháp luật của nước ta có rất nhiều văn
bản quy phạm pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn. Vì vậy, cần thiết phải hoàn
thiện pháp luật để việc giải quyết tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng cho phù hợp với thực tiễn. Việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp tài thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng, theo tác giả luận văn,
cần tập trung vào các nội dung sau:
Thứ nhất, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể hơn về
giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng theo thủ
tục rút gọn. Theo rà soát sơ bộ, đến nay vẫn chưa có vụ án nào được áp dụng
trong thực tế theo hướng dẫn thủ tục rút gọn. Nguyên nhân trước hết là do sau
gần một năm Nghị quyết 42 có hiệu lực, đến ngày 15/5/2018 Tòa án Nhân
dân tối cao mới ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP (có hiệu lực từ
ngày 1/7/2018) hướng dẫn áp dụng các quy định của Nghị quyết 42. Khi đã
có hướng dẫn nêu trên, việc hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của Tòa án lại
khó khăn. Tiêu biểu như việc thực hiện quy định về xác nhận công nợ, tài liệu
55
về nơi cư trú của người bị kiện (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan). Khi
xảy ra nợ xấu, đa phần khách hàng trốn tránh, không hợp tác với Ngân hàng
để phối hợp xử lý, nên việc xác nhận này rất khó thực hiện. Ngoài ra, Tòa án
cấp dưới chưa mạnh dạn triển khai thực hiện thủ tục rút gọn vì chưa có "tiền
lệ", tâm lý "sợ sai sót" trong quá trình xét xử vẫn hiện hữu.
Thứ hai, cần có những quy định về thủ tục tố tụng, hướng dẫn cụ thể
đối với một số tranh chấp đặc thù như tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng. Việc pháp luật tố tụng không có những quy định riêng về
trình tự, thủ tục tố tụng đối với những tranh chấp có tính đặc thù này là một
khiếm khuyết không hề nhỏ làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả, chất lượng
giải quyết vụ án. Hiện nay, Nhà nước ta đã thông qua Luật tổ chức Tòa án,
Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của
các tổ chức tín dụng, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018
hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp
xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân. Như vậy
chúng ta càng cần có một quy định tố tụng cụ thể hơn về lĩnh vực giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.
Cùng với đó là việc Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục lựa chọn những
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật làm án lệ để cho Tòa án nhân dân
các cấp lựa chọn áp dụng khi giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo
đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về hòa giải trong giải quyết vụ án tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng.
Hòa giải là một chế định quan trọng trong tố tụng dân sự. Là hoạt động
do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án dân sự. Việc hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa
đảm bảo tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và công dân, giảm bớt giai đoạn tố
tụng kéo dài, vừa giải quyết triệt để các mâu thuẫn giữa các đương sự… Do
56
đó, nếu chế định hòa giải không được quan tâm trong việc giải quyết vụ án
dân sự nói chung, trong giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng thì quyền và lợi ích của các bên đương sự sẽ không được bảo
đảm.
Đối với các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng,
việc hòa giải và vai trò hòa giải của Tòa án là rất quan trọng. Mục đích hòa
giải mang nhiều ý nghĩa tích cực, nó liên quan đến quyền lợi và sự ổn định
của các mối quan hệ xã hội. Do đó, Thẩm phán tiến hành hòa giải phải là
người có kiên nhẫn và tâm huyết. Để công tác hòa giải mang lại hiệu quả luật
cần quy định khi hòa giải cần có các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế tham
gia hòa giải. Các chuyên gia kinh tế là những hiểu biết sâu sắc về các mối
quan hệ trong quan hệ kinh tế sự lắng nghe, phân tích thấu đáo của họ cũng sẽ
góp phần rất lớn cải thiện mối quan hệ và những xung đột tranh chấp giữa các
bên trong quan hệ vay và cho vay. Khi giải quyết vụ án, các tài liệu có tại
nhiều hồ sơ vụ án không thể hiện tài sản gắn liền với đất là gì, của ai, do
những ai quản lý, sử dụng… nhiều Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành xác
minh để tiến hành hỏa giải cho các bên thỏa thuận được quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất là tài sản bảo đảm thuộc quyền sử dụng của ai.
Đối với các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng
có liên quan đến quyền sử dụng đất, vẫn còn nhiều ý kiến không thống nhất
khi thụ lý, giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai năm
2013 thì Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi
tranh chấp đó đã được hòa giải ở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh
chấp. Như vậy, có tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất phải thông
qua hòa giải ở cơ sở là thủ tục bắt buộc.
Vậy đối với vụ án này có tranh chấp tài sản là quyền sử dụng đất và nhà
ở gắn liền với quyền sử dụng đất thì có phải thực hiện thủ tục hòa giải ở cơ sở
hay không. Hiện nay có ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có ý kiến cho rằng:
57
Tất cả những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình (kể cả tranh chấp về tài sản
thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng) mà có liên quan đến đất đai đều phải
thông qua thủ tục hòa giải ở cấp xã. Tuy nhiên, có một số ý kiến cho rằng
cách giải quyết này là không đúng quy định thực chất của Luật Đất đai. Bởi
lẽ, theo quy định của Luật Đất đai thì chỉ những trường hợp tranh chấp đất đai
mới thuộc đối tượng phải qua thủ tục hòa giải ở cơ sở mà cụ thể là Uỷ ban
nhân dân cấp xã trước khi khởi kiện đến Tòa án, còn vụ án liên quan đến giải
quyết tranh chấp về tài sản thế chấp có tài sản là quyền sử dụng đất hoặc
không có tài sản là quyền sử dụng đất thì quan hệ của vụ án là quan hệ tín
dụng giữa người cho vay và người đi vay, không phải là quan hệ đất đai. Mặt
khác, tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai; còn trong quan hệ tín
dụng Ngân hàng phải xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất nhằm bảo
đảm tiền vay Ngân hàng, chứ không phải dựa chủ yếu vào Luật Đất đai và Bộ
luật Dân sự để xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.
Qua thực tiễn xét xử ở Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ, do quy định
của pháp luật không hạn định loại tranh chấp đất đai nào phải qua hòa giải ở
cấp cơ sở nên nhiều Thẩm phán đã lựa chọn theo “giải pháp an toàn” là bất cứ
tranh chấp nào mà đối tượng của tranh chấp đề cập đến đất đai là đều yêu cầu
đương sự quay trở về hoà giải ở cấp cơ sở. Điều này dẫn đến nhiều trường
hợp gây khó khăn cho đương sự và kéo dài các thủ tục tố tụng, thậm chí việc
áp dụng quá cứng nhắc điều luật cũng đã dẫn đến nhiều vụ án việc hoà giải ở
cấp cơ sở chỉ mang tính hình thức. Ví dụ, tranh chấp đất đai không được hòa
giải, bản thân kết quả của việc hoà giải thành này cũng không có giá trị thực
hiện bởi lẽ, kể cả khi các bên đã bước vào quá trình tố tụng, Bộ luật Tố tụng
dân sự cũng đã quy định những vụ án không được tiến hành hoà giải. Tuy
nhiên, điều này lại không đặt ra đối với thủ tục hoà giải tiền tố tụng (Điều 203
58
Luật Đất đai năm 2013). Do vậy, theo quan điểm của tác giả luận văn, đối với
tranh chấp đất đai với mục đích bảo đảm tiền vay Ngân hàng thì không cần
qua hòa giải ở cơ sở vì bản chất đây đã được thể hiện rõ qua các hợp đồng tín
dụng đã được ký kết.
Thứ tư, Hoàn thiện cơ chế đảm bảo tiền vay cho Ngân hàng, tổ chức tín
dụng.
Cần có một cơ chế đảm bảo tiền vay theo hướng không qui định thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh là điều kiện vay vốn mà khách hàng vay bắt buộc phải
thực hiện hoặc được “ưu đãi” miễn thực hiện, mà chỉ nên qui định có tính khuôn
khổ pháp luật tách bạch rõ ràng tín dụng theo hướng thương mại và theo chính
sách.
Đối với tín dụng thương mại thì đưa ra nhiều biện pháp đảm bảo tiền
vay một cách phong phú, đa dạng, trên cơ sở đó các Ngân hàng lựa chọn
khách hàng, lựa chọn các dự án để tự quyết định cho vay cần có đảm bảo
hoặc không cần có đảm bảo bằng tài sản. Việc thực hiện được tiến hành đối
với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử. Đối
với tín dụng theo chính sách tức tín dụng ưu đãi của Nhà nước đối với một số
đối tượng khách hàng và dự án cần thiết thì do Chính phủ chỉ định cho vay và
không cần biện pháp đảm bảo bằng tài sản, khi bị tổn thất do các nguyên nhân
khách quan về các khoản vay thi được Chính phủ xử lý.
Cơ chế đảm bảo tiền vay như vậy sẽ khắc phục được một số vướng
mắc:
- Các cơ quan Chủ động phối hợp với Toà án Nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ Công an, Tổng cục địa chính để
nghiên cứu soạn thảo, ban hành một văn bản liên tịch nhằm hoàn thiện cơ sở
pháp lý, tạo thuận lợi và an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các khó khăn ách
tắc trong việc giải toả, phát mãi tài sản thế chấp, cầm cố ở các Ngân hàng hiện
59
nay.
- Hiện nay mặc dù tài sản thế chấp đã đưa ra Toà và để tiến hành giải
quyết tranh chấp theo pháp luật nhưng trình tự giải quyết thường kéo dài
ngoài ý muốn. Trong khi đó, lãi quá hạn vẫn phát sinh có thể dẫn đến không
thu hồi đủ nợ gốc và lãi. Do đó đề nghị Ngân hàng nên có văn bản cho phép
ngừng tính lãi kể từ ngày có quyết định của Toà án đối với những tài sản thế
chấp, cầm cố được tiến hành xử lý theo pháp luật.
- Hoàn thiện quy định về định giá tài sản bảo đảm: Chính phủ nên đưa
ra một khung giá “mở”, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng linh hoạt hơn
trong việc định giá tài sản không đi quá xa so với giá qui định của Nhà nước,
nhưng cũng không bị cố định vào khung giá đó, tránh được tình trạng giá theo
khung giá của Nhà nước thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường, đặc biệt là đối
với thị trường bất động sản. Qui định chặt chẽ công tác hạch toán của doanh
nghiệp để tránh cho việc đánh giá tài sản theo sổ sách kế toán không đúng, các
con số thường khác xa so với thực tế. Từng bước để thành lập một tổ chức chuyên
môn về định giá tài sản thế chấp, cầm cố. Trong các quan hệ tín dụng, khi đã hết
thời hạn vay vốn của khách hàng mà khách hàng chưa trả được nợ thì thường các
Ngân hàng không khởi kiện ngay mà tìm mọi cách thu nợ, đến khi đã có đủ căn
cứ để xác định là khách hàng không có khả năng trả nợ, khoảng thời gian này
thường kéo dài trên 6 tháng. Lúc này Ngân hàng mới khởi kiện ra Toà án thì đã
quá thời hiệu khởi kiện và bị Tòa án bác bỏ đơn kiện.
- Nâng cao quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng và
khách hàng trong việc quyết định cho vay và nghĩa vụ trả nợ; Nhà nước
không can thiệp quá sâu vào quá trình quyết định cho vay và đi vay của Ngân
hàng và khách hàng.
Thứ năm, nâng cao hơn nữa hiệu quả và hiệu lực của kết quả bán đấu
giá tài sản thế chấp. Thực tế, biện pháp xử lý thế chấp bằng việc bán đấu giá
ngày càng trở nên phổ biến, theo quy định Pháp luật. Để vừa tạo điều kiện
60
thuận lợi, thông thoáng cho các Ngân hàng vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng
cho các bên có liên quan, thiết nghĩ việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử
dụng đất thì Nhà nước nên:
- Tạo cơ chế thông thoáng hơn trong xử lý bán đấu giá;
- Tạo lập cơ chế cưỡng chế bảo đảm thực thi quyết định đấu giá, sau
khi trúng đấu giá, bất luận tài sản chưa thu giữ được vẫn phải bàn giao cho
Bên trúng đấu giá, cơ quan chức năng thực hiện cưỡng chế đối với tài sản để
thu giữ và bàn giao cho người mua, không cần đưa ra Tòa án...
- Khi đã thực hiện các biện đã nêu trên nhưng nếu sau thời hạn nhất
định kể từ ngày đến hạn trả nợ mà vẫn chưa xử lý được thì Ngân hàng được
trọn quyền trực tiếp xừ lý, bán tài sản để thu hồi nợ, kể cả việc nhận lại tài sản
từ các tổ chức bán đấu giá để bán. Trong trường hợp này, người có tài sản
đảm bảo không được quyền khiếu kiện.
- Đa dạng hóa hình thức xử lý, có cơ chế thuận lợi hơn để bảo đảm việc
cho phép các Ngân hàng được nhận tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất để
thay thế nghĩa vụ trả nợ nếu Ngân hàng xét thấy việc khai thác tài sản đảm
bảo có khả năng thu hồi nự hoặc có nhu cầu sử dụng đất để xây dựng trụ sở,
phòng giao dịch nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và
không chịu thuế, phí liên quan.
3.2.2. Nâng cao chất lượng xét xử các vụ án tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng
Chất lượng xét xử các vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng là những kết quả của quá trình đánh giá, sử dụng chứng cứ, áp dụng pháp
luật của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng và hệ thống Tòa án nhân dân nói
chung để đưa ra những phán quyết đúng đắn, khách quan phù hợp với quy định của
pháp luật, với chuẩn mực đạo đức xã hội nhằm giải quyết kịp thời các tranh chấp phát
sinh trong quan hệ pháp luật giữa Ngân hàng và các chủ thể đi vay.
Chất lượng giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
61
Ngân hàng là những phán quyết của Hội đồng xét xử phải hoàn thành các chỉ
tiêu công tác xét xử các vụ án về dân sự nói chung và vụ án về giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nói
riêng. Qua đó, thỏa mãn các chuẩn mực, các tiêu chuẩn, phù hợp với mục
đích của giải quyết tranh chấp của Tòa án. Chuẩn mực trong giải quyết tranh
chấp của Tòa án là sự phù hợp, sự chuẩn chỉ với các quy định của pháp luật tố
tụng cũng như pháp luật nội dung có liên quan đến tranh chấp về tài sản thế
chấp. Đồng thời, phù hợp với các quy chuẩn của đạo đức xã hội. Bản án,
quyết định của Tòa án “thấu lý - đạt tình”, trước hết được chính Ngân hàng và
người có tài sản thế chấp chấp nhận cũng như dư luận xã hội chấp thuận,
đồng tình, ủng hộ. Bản án, quyết định thực sự được hiện thực hóa trong đời
sống xã hội, thuyết phục được các bên đương sự trên cơ sở phán quyết của
Tòa án thực sự vô tư, khách quan, không thiên vị.
Để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án tranh chấp về tài sản thế chấp
bảo đảm tiền vay Ngân hàng, cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật khi giải quyết các
loại vụ án nói chung, trong đó có các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng nói riêng. Tăng cường công tác tập huấn các văn bản quy
phạm pháp luật mới có liên quan đến công tác xét xử án dân sự về giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án thường xuyên tổ chức kiểm tra
công tác để rút kinh nghiệm về những sai sót mà Tòa án nhân dân cấp huyện
thường gặp khi giải quyết vụ án về tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại đối với
Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án các cấp để nâng cao kiến thức đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về chuyên
môn nghiệp vụ, tăng cường kỹ năng cho Hội thẩm nhân dân hai cấp tỉnh Phú
62
Thọ để đảm bảo khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; bồi dưỡng Thẩm
phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án rèn luyện phẩm chất chính trị, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ để xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra
viên, Thư ký Tòa án vững về chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng
ngày càng cao của công cuộc cải cách tư pháp và yêu cầu của nhân dân.
Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao tăng cường công tác tập huấn để cải
thiện kỹ năng viết bản án, kỹ năng tiếp cận với công nghệ thông tin, hỗ trợ
cho công tác xét xử qua công tác trực tuyến. Thường xuyên tổ chức Hội thảo
chuyên đề để nâng cao chất lượng trong hoạt động xét xử và tham gia góp ý
xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Nâng cao, phát huy trách nhiệm, vai trò cá nhân của người đứng đầu cơ
quan Tòa án đặc biệt là đồng chí Chánh án. Tăng cường tinh thần trách nhiệm
của từng cán bộ, Thẩm phán trong công tác. Nâng cao hơn nữa kỷ luật công vụ.
Bảo đảm cơ sở vật chất và quan tâm hơn nữa về chế độ, chính sách cho
cán bộ làm công tác Tòa án. Trước hết, cần đảm bảo trang thiết bị, máy móc
phục vụ cho cán bộ, Thẩm phán làm việc; kịp thời sửa chữa, thay mới các
thiết bị đã hư hỏng hoặc quá lạc hậu. Mặc dù chế độ chính sách tiền lương đối
với cán bộ đã được quan tâm chỉnh sửa theo hướng tăng dần cho cán bộ; tuy
nhiên, so với sự phát triển chung của xã hội thì vẫn chưa đáp ứng đủ các nhu
cầu trong đời sống. Vì vậy, cần có giải pháp về chế độ chính sách về tiền
lương, phải cải tổ một cách mạnh mẽ để cán bộ an tâm công tác, phục vụ đất
nước, phục vụ nhân dân mới đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.
Đẩy nhanh việc đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc
theo hướng hiện đại kể cả việc xây dựng các phòng xử án theo mô hình mới;
đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, hoạt động
xét xử; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tiếp cận Toà án như nộp đơn
khởi kiện qua mạng; lưu trữ bản án, quyết định trên đường truyền mạng nội
63
bộ phục vụ nhanh chóng cho người dân khi có yêu cầu khai thác tài liệu.
Tiếp tục tăng cường, đổi mới công tác hòa giải tiến tới xây dựng Luật
hòa giải. Hòa giải là thủ tục bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ việc
dân sự. Vì vậy, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện
thuận lợi để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ
việc dân sự. Đối với những vụ án về tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án. Khi thực hiện công tác hòa giải, Tòa án giải
quyết trên nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự,
không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực bắt buộc các đương sự phải thỏa
thuận không phù hợp với ý chí của mình; nội dung thỏa thuận của các đương
sự không được trái pháp luật và trái đạo đức xã hội. Xuất phát từ nguyên tắc
này, Thẩm phán nên kiên trì hòa giải, giáo dục, thuyết phục để các bên đương
sự có thể hòa giải và thỏa thuận với nhau về những vấn đề đang tranh chấp
đặc biệt là phải giải quyết về tài sản đã thế chấp. Thông qua việc thực hiện
hòa giải theo luật định khi giải quyết các vụ việc dân sự, Thẩm phán giải thích
để các đương sự hiểu đúng pháp luật về vấn đề họ đang tranh chấp đó là việc
trả tiền cho Ngân hàng. Việc hòa giải thành có ý nghĩa rất quan trọng vì giúp
cho vụ án sớm được giải quyết; đảm bảo được sự đoàn kết, ổn định trong nội
bộ nhân dân; tiết kiệm và hạn chế tối đa chi phí về thời gian và tiền bạc cho
các bên tranh chấp…
Bên cạnh việc củng cố và kiện toàn hệ thống pháp luật, nâng cao điều
kiện về cơ sở vật chất và con người góp phần thực hiện có hiệu quả công tác
xét xử, giải quyết các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân
hàng, các cấp, các ngành cần quan tâm tăng cường công tác giáo dục, phổ
biến pháp luật để mọi công dân đều biết và thực hiện. Công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật cho công dân là nhiệm vụ chung của hệ thống các cơ quan
tư pháp, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật có thể được thực hiện ở nhiều
64
cơ quan, đơn vị. Đối với Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ nói riêng và hệ
thống Tòa án nhân dân nói chung việc giáo dục pháp luật là một trong những
chức năng, nhiệm vụ đặc biệt coi trọng mà thông qua hoạt động xét xử được
công khai. Vì, ngoài Hội đồng xét xử còn có đông đảo nhân dân theo dõi
phiên tòa, nhất cử nhất động của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa nói riêng, hội
đồng xét xử nói chung đều được những người tham gia tố tụng, đương sự của
vụ án và những người tham dự phiên tòa quan sát, đánh giá. Thông qua các
phiên tòa để tuyên truyền pháp luật cho nhân dân, để người dân có thể tự liên
hệ vào bản thân mình mà hiểu các quy định của pháp luật.
3.2.3. Chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ Thẩm phán, Thẩm tra
viên, Thư ký Tòa án
Đây là giải pháp hàng đầu có ý nghĩa quyết định. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muốn việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Theo đó, trong giải quyết
tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng, đội ngũ Thẩm phán,
Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định chất
lượng, hiệu quả của hoạt động này.
Thông qua Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới và Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đều xác định: “Rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh”, “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp,
bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền
hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị,
phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội
đối với từng loại cán bộ” và “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ
nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng
65
yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực. Theo đó, ngành Tòa án nhân dân nói
chung và Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ nói chung đã rất chú trọng
việc kiện toàn và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận,
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh của đội ngũ cán bộ,
công chức trong ngành, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Do đó, đội ngũ cán
bộ, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án ngành Tòa án nhân dân đã
không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng. Thực
tiễn cho thấy, trong những năm qua ngành Tòa án nhân dân đã không ngừng
lớn mạnh. Song song với việc triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên
môn, lãnh đạo ngành Tòa án nhân dân rất chú trọng tới công tác kiện toàn tổ
chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra
viên và Thư ký Tòa án đảm bảo về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành và của các địa phương. Đội ngũ cán bộ,
công chức, Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án của ngành Tòa án
nhân dân về cơ bản đã phát huy và giữ vững được bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân; đã tích lũy được nhiều
kinh nghiệm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ
động hội nhập kinh tế, quốc tế; là lực lượng quan trọng góp phần cùng toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án ngành
Tòa án nhân dân vẫn còn những hạn chế, bất cập như: Đội ngũ Thẩm phán,
Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án chưa thực sự ổn định, chuyên nghiệp; trình độ,
năng lực tuy đã được nâng lên một mức nhưng chưa ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ, nhất là tri thức về xã hội, kinh tế thị trường, trình độ ngoại ngữ và kiến
thức pháp luật quốc tế phục vụ cho hội nhập quốc tế, hành chính nhà nước, kỹ
năng thực thi công vụ, cũng như khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện
đại trong hoạt động công vụ; cơ chế quản lý, sử dụng và chế độ, chính sách đãi
66
ngộ, nhất là tiền lương, phụ cấp còn nhiều bất hợp lý, chưa tương xứng với tính
chất nghề nghiệp và chế độ trách nhiệm pháp lý, chưa thực sự có sức hấp dẫn,
chưa tạo được động lực khuyến khích đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư
ký Tòa án đề cao trách nhiệm, phấn đấu rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức,
năng lực công tác, chưa thu hút được người tài phục vụ cho cơ quan Tòa án…Do
vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án
vừa là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên vừa là đòi hỏi cấp thiết hiện nay để nâng
cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng. Nội dung nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và
Thư ký Tòa án phải được tiến hành toàn diện cả về phẩm chất và năng lực.
Tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành theo hướng phân công,
phân cấp hợp lý, phát huy tính chủ động sáng tạo và tăng cường trách nhiệm
của người đứng đầu. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán
bộ công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Tòa án trong sạch
vững mạnh, thường xuyên kiểm tra, thanh tra nội bộ, kịp thời phát hiện và xử
lý nghiêm minh các sai phạm. Rà soát tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo chủ trương của Đảng, Nhà nước và
TAND tối cao. Làm tốt công tác cán bộ theo Nghị quyết Hội nghị trung ương
7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín
của đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, trung thành với Tổ quốc, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và gắn với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
trọng dân, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân, phục vụ và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của nhân dân; trách nhiệm, tận tụy, sáng tạo, kỷ cương, phụng
công, thủ pháp, chí công vô tư trong công việc; đoàn kết, thân ái, hợp tác,
giúp đỡ để cùng tiến bộ với đồng nghiệp; thường xuyên nêu gương cần, kiệm,
67
liêm, chính, thượng tôn pháp luật; dũng cảm, kiên quyết bảo vệ công lý,
quyền con người; liêm khiết, trung thực, vô tư, khách quan, công khai, minh
bạch trong công việc.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký
Tòa án, cần tập trung thực hiện tốt các biện pháp sau:
Thứ nhất, công tác tuyển chọn phải được ưu tiên hàng đầu. Công tác
tuyển chọn phải được tiến hành chặt chẽ, đúng nguyên tắc, quy trình; bám sát
tiêu chí, tiêu chuẩn, không chỉ bảo đảm về số lượng tuyển chọn, bổ nhiệm mà
còn phải bảo đảm về tiêu chuẩn, chất lượng và được thực hiện một cách chặt
chẽ theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Nguồn tuyển chọn, bổ nhiệm các
chức danh như Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án phải là những
cán bộ đã có bằng Cử nhân luật, Đối với Thẩm phán có đủ thời gian làm công
tác pháp luật và đã qua đào tạo về nghiệp vụ xét xử. Thẩm phán đặc biệt phải
trải qua kỳ thi Thẩm phán qua Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán; có trình độ Cao
cấp lý luận chính trị (hoặc cử nhân chính trị), có thành tích xuất sắc nhiều năm
liền trong công tác và bảo đảm đủ độ tuổi bổ nhiệm ít nhất là một nhiệm kỳ.
Thứ hai, làm tốt khâu quy hoạch gắn với sử dụng đội ngũ Thẩm phán,
Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án. Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, dự báo tình
hình phát triển, quy mô, cơ cấu, tổ chức biên chế của Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Phú Thọ để xây dựng quy hoạch. Quy hoạch một chức danh phải có nhiều
nguồn, nhiều độ tuổi; một người có thể là nguồn quy hoạch của nhiều vị trí; gắn
quy hoạch nguồn tại chỗ với tạo nguồn trong toàn ngành. Định kỳ kiểm tra, rà
soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp; đồng thời, chú trọng bố trí, sắp
xếp, sử dụng cán bộ theo quy hoạch, sở trường, chuyên môn của mỗi người.
Thứ ba, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao chất
lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án theo hướng chuyên
nghiệp và hiện đại. Phải thường xuyên làm tốt công tác bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên bằng nhiều hình thức, phương
68
pháp. Trong đó, lấy việc bồi dưỡng thông qua thực tiễn công tác, người đi trước
bồi dưỡng người đi sau, cấp trên bồi dưỡng cấp dưới; đồng thời, kết hợp với gửi
đi đào tạo, tập huấn ở các cơ sở giáo dục, đào tạo về nghiệp vụ xét xử, nghiệp vụ
chuyên môn cũng như việc đào tạo lại tại Học viện Tòa án cũng như cử cán bộ
có năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị đạo đức đi đào tạo ở nước ngoài.
Thứ tư, nâng cao và phát huy hơn nữa vai trò tự học, tự nghiên cứu là
con đường ngắn nhất giúp đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa
án nhanh chóng tiến bộ, trưởng thành.
Thứ năm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và tạo điều kiện thuận
lợi để đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án yên tâm công tác,
trưởng thành, tiến bộ. Phải bám sát, thực hiện tốt chủ trương, chính sách, bảo
đảm đúng, đủ các tiêu chuẩn của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ Thẩm phán,
Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án, nhất là về chế độ tiền lương và các loại phụ
cấp khác như: phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên công tác, chế độ bồi
dưỡng phiên tòa, chế độ trang phục...; mặt khác, cần nghiên cứu, vận dụng
phù hợp với thực tiễn hoạt động của từng cơ quan, đơn vị, địa phương một
cách khách quan, công bằng; có chính sách để thu hút những người có năng
lực, tâm huyết. Bên cạnh đó, cần đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động của
Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án như tăng cường kinh phí, cơ sở
vật chất, phương tiện hoạt động của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ.
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm và
thường xuyên thực hiện việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc
đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo
đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án
Đây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa to lớn, cần được tiến hành
thường xuyên để đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài
sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
Một là, Tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành theo hướng phân
công, phân cấp hợp lý, phát huy tính chủ động sáng tạo và tăng cường trách
69
nhiệm của người đứng đầu. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho đội
ngũ cán bộ công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Tòa án trong
sạch vững mạnh, thường xuyên kiểm tra, thanh tra nội bộ, kịp thời phát hiện
và xử lý nghiêm minh các sai phạm. Rà soát tổ chức bộ máy, tinh giản biên
chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo chủ trương của Đảng, Nhà
nước và TAND tối cao. Làm tốt công tác cán bộ theo Nghị quyết Hội nghị
trung ương 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII
về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đầy đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát, xử lý vi phạm trong giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng tại Tòa án.
Kiểm tra, giám sát mang tính tất yếu do xu thế lạm quyền trở thành qui
luật phổ biến của việc tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Bất kỳ ai khi
có quyền lực trong tay, bất kỳ nơi nào có quyền lực thì đều có xu hướng mở
rộng quyền và sử dụng quyền cho đến khi nào gặp giới hạn. Xu hướng lạm
quyền đó sẽ trở thành phổ biến, chuyên quyền nếu không có cơ chế giám sát
quyền lực hiệu quả. Vì vậy, việc kiểm tra, giám sát thực hiện quyền lực Nhà
nước được coi là vấn đề cơ bản, trọng yếu của nhà nước pháp quyền, là một
trong những công cụ chính trị - pháp lý quan trọng để hạn chế việc lạm
quyền. Theo đó, kiểm tra, giám sát hoạt động của Tòa án cũng như giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng khi giải quyết tại
Tòa án là một vấn đề hết sức quan trọng hiện nay.
Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án cấp tỉnh phải thực hiện tốt
chức năng kiểm tra giám sát về chuyên môn nghiệp vụ đối với Tòa án nhân
dân cấp huyện, thành phố, thị xã cũng như các Tòa chuyên trách cấp tỉnh.
Tăng cường chức năng giám đốc hoạt động xét xử. Giám đốc xét xử là
việc Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao kiểm tra tính đúng đắn
về hoạt động xét xử của Toà án cấp dưới. Trong thực tiễn xét xử do những lý
do khác nhau Toà án cấp dưới có những sai lầm, thiếu xót trong quá trình giải
70
quyết vụ án, vì vậy việc giám đốc của Toà án cấp trên nhằm khắc phục những
sai lầm thiếu xót đó là cần thiết, góp phần vào bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, xử lý công minh, đảm bảo đúng pháp luật. Giám đốc việc xét xử thể
hiện ở việc Toà án cấp trên xét lại bản án hoặc quyết định của Toà án cấp
dưới thông qua các hoạt động: kiểm tra phát hiện những sai lầm, thiếu xót của
Toà án cấp dưới; giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội và của công dân về các bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật; tổng
kết kinh nghiệm xét xử; hướng dẫn Toà án cấp dưới áp dụng pháp luật thống
nhất; kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
giám đốc, tái thẩm. Thông qua các hoạt động này Tòa án cấp trên kịp thời uốn
nắn, khắc phục những sai lầm trong công tác xét xử của Tòa án cấp dưới.
Phòng tổ chức cán bộ và thi đua khen thưởng kết hợp với Phòng kiểm
tra nghiệp vụ và thi hành án cấp tỉnh, cần phải chủ động xây dựng kế hoạch
kiểm tra, xây dựng đội ngũ kiểm tra giám sát trong nội bộ cơ quan cũng như
xây dựng kế hoạch kiểm tra theo chuyên đề để tăng cường công tác quản lý và
kiểm điểm những vi phạm trong công tác giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nhằm hạn chế các hành vi tiêu cực can
thiệp vào quá trình giải quyết vụ án giúp cho Ngân hàng thu hồi hiệu quả
nguồn vốn.
Cần công khai hóa, minh bạch quá trình giải quyết án tranh chấp về tài
sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án. Trước hết là các bản án,
quyết định giải quyết của Tòa án để nhân dân có điều kiện thực hiện quyền giám
sát, phản biện xã hội đối với phán quyết của Tòa án. Thông qua đó phát hiện
những sai sót trong giải quyết án hành chính của Tòa án để kịp thời có cơ chế
pháp lý khắc phục. Mặt khác, cũng thông qua đó đánh giá được đạo đức (cả về
trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp) của Thẩm phán, của những người
tham gia giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại
Tòa án. Một trong những yêu cầu đặt ra là các hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ
khi bắt đầu cho tới khi kết thúc phải được công khai, minh bạch. Những bản án,
71
quyết định của Tòa án tiếp tục phải được công khai hóa trên mạng (trừ những
trường hợp đặc biệt) để tiện lợi cho hoạt động giám sát của các cơ quan, tổ chức
và nhân dân. Nâng cao vai trò phản biện xã hội của hệ thống chính trị và nhất là
các tổ chức chính trị - xã hội và đông đảo nhân dân đối với hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân.
Phát huy vai trò của báo chí, công luận trong kiểm tra, giám sát hoạt
động xét xử, giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân
hàng tại Tòa án.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với những vi phạm trong việc giải
quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án,
nhất là đối với những lỗi cố ý của những người tiến hành tố tụng. Thực hiện
nghiêm túc các chế định về bồi thường thiệt hại trong hoạt động tư pháp, kể
cả hoạt động hành chính nhà nước có liên quan đến xét xử, giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
Hai là, thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về giải
quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
Công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm là một công việc không thể
thiếu trong hoạt động của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ nói chung,
trong xét xử, giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân
hàng tại Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng. Bởi lẽ, thực hiện tốt việc sơ
kết, tổng kết, rút kinh nghiệm thực chất là nhằm đánh giá kết quả đạt được,
những hạn chế còn tồn tại, tìm ra nguyên nhân, những kinh nghiệm bổ ích cho
công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ về giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng trong thời gian tiếp theo.
Đảng ta khẳng định: “Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận
thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác chủ động và sáng tạo,
bớt được những sai lầm và bước đi quanh co, phức tạp” [3, tr.56]. Thực tế
những năm qua, việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong hoạt động của
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ nói chung, trong xét xử, giải quyết
72
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án nhân
dân hai tỉnh Phú Thọ nói riêng cũng đã được tiến hành, qua đó đã đánh giá được
ưu điểm, khuyết điểm, rút ra được một số kinh nghiệm nhưng việc sơ kết, tổng
kết chưa kịp thời, đánh giá thực trạng còn chung chung, có nội dung còn mang
tính hình thức, những kinh nghiệm rút ra chưa thực sự sát và mang tính đột phá.
Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án cũng như xét xử, giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án, hiện nay
và những năm tới cần phải làm tốt việc sơ kết, tổng kết hơn nữa.
Tổ chức việc sơ kết, tổng kết phải làm từng cấp, từ dưới lên. Phải căn
cứ vào mục tiêu, yêu cầu, nội dung mà sơ kết, tổng kết. Yêu cầu sơ kết, tổng
kết phải tiến hành chặt chẽ, cụ thể, tỷ mỷ đi sâu vào nội dung của từng vụ án
cụ thể, tránh hình thức, làm qua loa, đại khái. Qua đó mới tìm ra giải pháp
đảm bảo cho việc thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án. Thành phần phải bao gồm các
đối tượng có liên quan. Nội dung sơ kết, tổng kết có thể toàn diện hoặc chỉ đi
sâu vào một hoặc một số nội dung thủ tục giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án, nhưng phải nêu rõ đặc điểm tình
hình thuận lợi, khó khăn trong triển khai và tổ chức thực hiện, đánh giá đúng
thực trạng, tìm đúng nguyên nhân; trách nhiệm của từng tổ chức, lực lượng và
mỗi cán bộ, nhân viên; rút ra được những kinh nghiệm thiết thực để nâng cao
hiệu quả trong giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân
hàng tại Tòa án thời gian tiếp theo.
Ở đây, cần khắc phục hai khuynh hướng khi rút ra kinh nghiệm trong
sơ kết, tổng kết là: Thứ nhất, rút ra những kinh nghiệm mang tính công thức,
chung chung, không có giá trị phổ biến; Thứ hai, rút ra những kinh nghiệm
thiếu cơ sở thực tiễn (không có thật). Những kinh nghiệm này nói quá nhiều
đến công việc phải làm gì mà lại thiếu những chỉ dẫn cần và nên làm thế nào
cho có chất lượng và hiệu quả. Có như vậy, việc sơ kết, tổng kết mới có ý
73
nghĩa thiết thực, bảo đảm tính khả thi.
3.2.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế hỗ trợ giải
quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng
Một là, Làm tốt công tác xây dựng đảng, quán triệt và thực hiện nghiêm túc
Nghị quyết TW4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với yêu cầu xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức TAND trong sạch, vững mạnh. Tăng cường việc tổ chức các phiên
tòa rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng và kỹ năng nghiệp vụ
cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án. Đồng thời tăng cường bồi dưỡng, đào tạo
chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp của TAND hai cấp [22, tr.7].
Hai là, kiến nghị các cơ quan Chủ động phối hợp với Toà án Nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ Công an, Tổng cục địa chính
để nghiên cứu soạn thảo, ban hành một văn bản liên tịch nhằm hoàn thiện cơ sở
pháp lý, tạo thuận lợi và an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các khó khăn ách tắc
trong việc giải toả, phát mãi tài sản thế chấp, cầm cố ở các Ngân hàng hiện nay
nhằm bảo đảm việc thực thi trên thực tế về giải quyết tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng tại Tòa án tạo điều kiện tốt nhất cho Ngân hàng.
Ba là, Triển khai các biện pháp nhằm tăng cường thực hiện cải cách thủ
tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
xử lý công việc và công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án. Thực hiện
tốt việc công khai bản án, quyết định của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử
Tòa án nhân dân.
Bốn là, Tiếp tục triển khai áp dụng các giải pháp để nâng cao chất
lượng xét xử, hoàn thành các chỉ tiêu công tác của ngành Tòa án nói chung và
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Phú Thọ nói riêng. Cụ thể: Đảm bảo 90% các vụ
việc được giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định; Giải quyết, xét xử các vụ,
việc dân sự đạt từ 85% trở lên đặc biệt công tác giải quyết tranh chấp về tài sản thế
chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng đạt trên 95%; Số lượng vụ án dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động hòa giải thành so với số lượng vụ
74
án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà Tòa án cấp
sơ thẩm đã giải quyết đạt tỷ lệ đạt từ 60% trở lên; 99% quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
Đảm bảo 100% các bản án, quyết định của Toà án được ban hành trong thời hạn
luật định; Phấn đấu giảm tỷ lệ các bản án, quyết định bị huỷ, sửa do lỗi chủ quan
của Thẩm phán thấp hơn chỉ tiêu mà Tòa án nhân dân tối cao đã đặt ra [22, tr.5].
Đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xét xử các loại vụ án, thực hiện tốt
nguyên tắc tranh tụng, đảm bảo các phán quyết của Tòa án phải đúng pháp
luật, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
Chú trọng làm tốt công tác hòa giải, nghiên cứu áp dụng để triển khai
theo mô hình Đề án thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong
giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính của TAND tối cao.
Năm là, Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử và
đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật, chú trọng việc xây dựng và triển khai áp
dụng án lệ. Triển khai về đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử theo đúng tinh thần
cải cách tư pháp, đảm bảo phiên tòa thể hiện được tính uy nghiêm, thể hiện
văn hóa pháp đình, sự tôn trọng đối với Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm
sát; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng và
tôn trọng nội quy, trật tự phiên tòa.
Sáu là, tăng cường vai trò của đoàn thể và các cơ quan Nhà nước khác
trong việc hỗ trợ, phối hợp với Tòa án để giải quyết những tranh chấp.
Để công tác giải quyết các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp đảm bảo
tiền vay Ngân hàng có hiệu quả thì ngoài vai trò của Tòa án thì các đoàn thể như
Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Phòng tài nguyên và môi trường,
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất,… cũng là những cơ quan có thể đóng góp
rất lớn. Hiện nay, dù các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay Ngân
hàng ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp và trong các vụ án tranh chấp đó, các
đương sự liên quan không được bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, nhưng
thực tế cho thấy các cơ quan nêu trên trên với chức năng, nhiệm vụ của mình vẫn
còn chưa có được tiếng nói mạnh mẽ để bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự.
75
Do đó, cần phải có biện pháp tác động đến đoàn thể như: Ban hành các chính
sách, các quy định để các đoàn thể cùng tham gia tích cực trong việc bảo vệ nguồn
vốn của Ngân hàng nói riêng và Nhà nước nói chung tại địa phương, góp phần
cung cấp nguồn vốn cho thị trường tạo điều kiện phát triển kinh tế của đất nước.
Trong công tác xét xử các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay Ngân hàng thì Tòa án cần có sự phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát,
Công an, chính quyền địa phương và các cơ quan ban ngành khác trong việc
cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu liên quan đến công tác giải quyết vụ án
nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, kịp thời đảm bảo về mặt quyền lợi
của các đương sự. Do đó, cần tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ
quan trên với Tòa án và trách nhiệm của các cơ quan này trong việc phối hợp,
hỗ trợ Tòa án trong việc thực hiện tố tụng, cụ thể hơn cần quy định rõ chi tiết
những nhiệm vụ này trong luật để các cơ quan liên quan không chối bỏ hay
chậm trễ khi Tòa án có yêu cầu phối hợp.
Bảy là, tăng cường công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật.
Hiện nay do các quy định của pháp luật chúng ta vẫn còn những quy
định mâu thuẫn, chồng chéo, còn nhiều các quy định chưa cụ thể, rõ ràng nên
dẫn đến cách hiểu, cách áp dụng pháp luật chưa thống nhất về giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng trong hệ thống Tòa
án.Trong nhiều trường hợp cùng một điều luật, cùng một nội dung tranh chấp
về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nhưng các Tòa án lại có cách
nhìn nhận, đánh giá, áp dụng pháp luật và phán quyết khác nhau, gây mất
lòng tin trong dân chúng, chưa thực sự bảo đảm quyền và lợi ích cho các
đương sự cũng như thực sự bảo vệ quyền con người. Do đó, cần tăng cường
công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật mới có thể
mang lại sự thống nhất và hiệu quả của công tác xét xử.
Tám là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong
quần chúng nhân dân.
Cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế xã hội thì trong khi vay
76
vốn Ngân hàng nhiều chủ thể không trả nợ được cho Ngân hàng thường tỏ ra
trây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Bên cạnh đó, do trình độ kiến thức pháp luật
trong lĩnh vực tín dụng nhiều chủ thể vẫn còn hạn chế nên đã gây ra khó khăn
nhất định cho cơ quan trực tiếp giải quyết tài sản thế chấp. Vì vậy cần phải có
các biện pháp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các Ngân hàng cũng
như các quy định trong hợp đồng tín dụng đến người dân đặc biệt là các chủ
thể đi vay. Việc tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua báo chí, mạng
lưới truyền thanh cơ sở, internet, thông qua tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý
hay xét xử lưu động của Tòa án.
Tiểu kết chương 3
Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thủ tục giải quyết tranh chấp
về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án là một vấn đề
không đơn giản, cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, có kế hoạch khoa học, cụ thể
và bước đi phù hợp. Do vậy, cần phải có phương hướng cụ thể, phải đáp ứng
yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, gắn với cải cách hành chính và cải
cách tư pháp.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả thủ tục giải quyết tranh chấp về tài
sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án, cần phải tiến hành nhiều
nội dung biện pháp khác nhau, trong đó, trước mắt cần tập trung tạo sự
chuyển biến căn bản về nhận thức, trách nhiệm cho các tổ chức, các lực
lượng; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp về tài sản
thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án; nâng cao chất lượng xét xử
các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng; nâng cao
chất lượng của Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án; thường xuyên tổ
chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát, xử lý vi phạm và sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong giải quyết
77
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án.
KẾT LUẬN
Qua công tác xét xử, giải quyết tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Phú Thọ cho
thấy trong thời gian gần đây, các tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng có xu hướng ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất phức
tạp. Chủ yếu liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp của người vay hoặc xử
lý tài sản bảo lãnh, thế chấp của người thứ ba. Hệ thống pháp luật để giải
quyết loại tranh chấp này đã tương đối đầy đủ, toàn diện. Tuy nhiên, còn một
số điểm vướng mắc, bất cập, nhất là trong việc xử lý tài sản thế chấp của các
hợp đồng tín dụng. Khi xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng,
cần chú trọng các cam kết, thỏa thuận cụ thể của các bên trong hợp đồng tín
dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay. Thực tế đã cho thấy các tranh chấp về tài
sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng rất phức tạp, thường kéo dài, mất
nhiều thời gian, tiền của, công sức của các đương sự cũng như của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Luận văn đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận về giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng bằng phương
thức Tòa án. Trên cơ sở luận giải, làm rõ các khái niệm, luận văn đã đưa ra
khái niệm, đặc điểm về tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay
Ngân hàng; giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp để bảo đảm tiền vay
Ngân hàng; Pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản tài sản thế chấp để
bảo đảm tiền vay Ngân hàng; luận giải về thủ tục giải quyết tranh chấp về tài
sản thế chấp để bảo đảm tiền vay Ngân hàng (khai mạc phiên tòa; thủ tục hỏi;
tranh luận; nghị án và tuyên án).
Luận văn đã đánh giá cụ thể, khách quan thực trạng giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng qua thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân tại tỉnh Phú Thọ. Hoạt động xét xử nói chung, giải quyết
tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng nói riêng đã được
78
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay
Ngân hàng vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Những hạn chế, bất cập đó
do nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan.
Luận văn đã chỉ ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và
đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo
đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án. Đặc biệt, luận văn đã đề xuất một số giải
pháp cụ thể, khả thi để nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp về tài sản
thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng, đó là: tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa
án; đề nghị Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ thể về giải quyết tranh
chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án theo thủ tục
rút gọn; nâng cao chất lượng xét xử các vụ án tranh chấp tài sản thế chấp bảo
đảm tiền vay Ngân hàng; nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra
viên, Thư ký Tòa án; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm;
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm; đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; tăng cường sự phối hợp giữa các
cơ quan liên quan trong giải quyết tranh chấp về tài sản thế chấp bảo đảm tiền
vay Ngân hàng tại Tòa án.
Các giải pháp mà luận văn đề xuất có mối quan hệ biện chứng, tác
động, bổ sung cho nhau, nên cần được tiến hành đồng bộ, tránh tuyệt đối hóa
hoặc coi nhẹ một giải pháp nào. Có như vậy, công tác giải quyết tranh chấp về
tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay Ngân hàng tại Tòa án mới thực sự có chất
lượng, hiệu quả trên thực tế, qua đó tạo điều kiện cho Ngân hàng thu hồi được
nguồn vốn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, thực tiễn luôn luôn
vận động, phát triển. Do đó, vấn đề này vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu để
79
bổ sung, hoàn thiện.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình luận khoa học, Bộ luật dân sự năm 2015, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội 2017.
2. Nguyễn Thị Minh Chi (2004), Pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng
tín dụng, thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội Đảng.
4. Lê Thu Hiền (2003), Bảo đảm tiền vay ngân hàng, thực trạng và giải
pháp, luận văn thạc sỹ.
5. Dương Quỳnh Hoa (2012), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết
tranh chấp thay thế đối với các quan hệ thương mại trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta, luận án tiến sỹ.
6. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình kinh tế học
phát triển, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội 2004.
7. Hoàng Thị Huế, Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm
tiền vay Ngân hàng từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội, luận văn thạc sỹ.
8. Ngô Quốc Kỳ (2003), Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của
ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học.
9. Tưởng Duy Lượng (2019), Thế chấp tài sản – biện pháp bảo đảm thông
dụng và một số vấn đề cần chú ý, Tạp chí Tòa án nhân dân (Số 5-2019),
10. Tưởng Duy Lượng (2019), Thực tiễn giải quyết tranh chấp có liên quan
đến biện pháp bảo đảm tại cơ quan tài phán và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật, Tạp chí Tòa án nhân dân (Số 8-2019):
11. Tưởng Duy Lượng (2019), Thực tiễn giải quyết tranh chấp có liên quan
đến biện pháp bảo đảm tại cơ quan tài phán và kiến nghị hoàn thiện pháp
80
luật, Tạp chí Tòa án nhân dân (Số 9-2019):
12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Các tổ
chức tín dụng.
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất
đai.
15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn
nhân và gia đình.
16. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố
tụng dân sự.
17. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật dân
sự 2015.
18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017) Nghị quyết về
thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng số 42/2017/QH 14.
19. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm
2014.
20. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm
2015.
21. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm
2016.
22. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm
2017.
23. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày
15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng
dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về
xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân.
24. Nguyễn Kiên Bích Tuyền (2018), Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn
81
của Ngân hàng thương mại: Những bất cập và hướng hoàn thiện, Tạp chí
Tòa án nhân dân (Số 18-2018),
25. Từ điển luật học, – NXB Tư pháp, Hà Nội 2006.
26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật dân sự tập 2. NXB
Công an nhân dân năm 2017.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự,
82
NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2017.