BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
_________
PHAN THỊ MINH
GIẢNG DẠY THƠ ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
DƯỚI GÓC NHÌN CỦA THI PHÁP HỌC
Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học môn văn
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CẢM ƠN
_________
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình, công lao truyền thụ kiến thức của tập
thể quý thầy cô khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Tp. HCM.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Tp.
HCM, phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, Ban giám hiệu và các giáo viên
Trường Trung học cơ sở Lam Sơn, trường Trung học cơ sở Hai Bà Trưng đã nhiệt tình
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi được tham gia khóa học và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi cũng xin kính lời biết ơn sâu sắc đến PGS. Trần Xuân Đề, thầy đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình cùng các anh chị đồng khoá học
đã động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Tp. HCM, tháng 11, năm 2007
Học viên
Phan Thị Minh
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu về việc đổi mới phương pháp dạy học văn trong
nhà trường phổ thông hiện nay
Đã ngót hai mươi năm trôi qua, kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI (Đại hội của đổi
mới) tới Đại hội Đảng lần thứ X. Hai mươi năm chưa hẳn là dài với một đời người,
nhưng đó là những năm tháng gắn với biết bao chuyển đổi lớn lao trong đời sống xã
hội cũng như trong lĩnh vực giáo dục. Từ đó đến nay, công cuộc đổi mới ở Việt Nam
đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế,
văn hóa xã hội và văn học nghệ thuật. Thành tựu đó được lý giải bởi nhiều nguyên
nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng được biết đến là tinh thần chủ
động hội nhập, tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế mà sự kiện nổi bật là Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chính vì vậy nền giáo dục Việt Nam
gánh trên vai một trọng trách không nhỏ là làm thế nào để đào tạo được những con
người phát triển toàn diện, có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ để đưa đất
nước phát triển lên một tầm cao mới, sánh vai với các cường quốc năm châu như ý
nguyện của vị Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam – Hồ Chí Minh. Bởi vì ở lĩnh vực
xã hội nào cũng vậy, đều cần người tài, ở thời nào cũng vậy, chính trị giỏi cốt là quy
tụ được nhiều người tài đức, có học vấn, lấy họ làm gốc để trị nước.
Trong xu thế đó, việc đào tạo một thế hệ trẻ tương lai đáp ứng được những yêu
cầu trên luôn được Đảng và Nhà Nước quan tâm. Đặc biệt là việc đổi mới về phương
pháp dạy và học các bộ môn trong nhà trường phổ thông là một vấn đề rất cần thiết.
Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và bộ môn Văn nói riêng trong
nhà trường phổ thông không phải là vấn đề mới mẻ. Từ những năm 80, việc thay sách
Văn và Tiếng Việt ở bậc trung học cơ sở, đến nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ
hai (khóa VIII) tiếp tục được triển khai ở trung học phổ thông đã thể hiện việc đổi
mới nội dung và phương pháp dạy học Văn. Đặc biệt, bộ sách giáo khoa Ngữ văn bậc
trung học cơ sở được biên soạn theo chương trình trung học cơ sở ban hành kèm theo
Quyết định số 03/2002/QĐ–BGD&ĐT, ngày 24 tháng 1 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Bên cạnh những hướng cải tiến chung của Bộ, các chương trình
như: giảm tải, tăng thực hành, gắn với đời sống. Nét cải tiến nổi bật nhất của chương
trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn là hướng tích hợp gồm ba phân môn Văn,
Tiếng Việt và Tập làm văn. Đến nay, chương trình đổi mới đã thực hiện đến bậc
trung học phổ thông, sách giáo khoa Ngữ văn 10 và 11 tiếp tục thực hiện tinh thần
tích hợp ở trung học cở sở. Tuy nhiên, làm sao tìm được nhiều biện pháp có hiệu quả
để thực hiện chủ trương đổi mới là một vấn đề không dễ dàng chút nào. Điều này làm
cho nhiều người làm công tác giảng dạy và nhất là giáo viên dạy Văn như chúng tôi
thực sự trăn trở.
Vì vậy, với đề tài “Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn
của thi pháp học” là một hướng tiếp cận tác phẩm văn học trong giờ dạy văn có khả
thi và chúng tôi mong rằng sẽ góp một phần khiêm tốn vào việc đổi mới phương pháp
dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay.
1.2. Từ thực trạng dạy học văn trong nhà trường hiện nay nói chung và
vấn đề dạy học mảng văn học nước ngoài còn nhiều hạn chế
Nói về lĩnh vực kinh tế, khoa học kĩ thuật, trong những năm gần đây nước ta
luôn phát triển và phát triển không ngừng, nhưng chất lượng giáo dục lại không phát
triển theo tỉ lệ thuận với sự phát triển đó, thế hệ trẻ được đào tạo khi ra trường không
đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Điều này không phải chỉ ở bậc đại học, cao đẳng mà ngay
từ các cấp học phổ thông cũng thế. Đối với bộ môn Văn lại là vấn đề trở nên nhức
nhối. Do chạy theo cơ chế thị trường, nhiều học sinh không hứng thú với môn văn mà
thích học các môn khoa học tự nhiên. Hậu quả là học sinh rất kém cỏi trong việc hành
văn (cả văn nói và văn viết).
Trong kỳ thi tuyển sinh vào Trường Đại học năm 2007 mới đây thực sự đáng
lo ngại. “Ở câu 1 đề thi văn khối C yêu cầu: Anh chị hãy trình bày ngắn gọn những
đặc điểm thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng 8 – 1945? Một thí sinh hồn nhiên
cho rằng: “Đặc điểm thơ Xuân Diệu chỉ có Xuân Diệu mới có!”... Có thí sinh còn gán
cho ông cái tội tưởng tượng: “Xuân Diệu tham gia vào hàng ngũ cách mạng và đã
gây nhiều tai tiếng cho nền văn học Việt Nam”... Nhiều thí sinh bình giảng trớt lớt ý
nghĩa hoặc sai kiến thức văn học. Câu “Đưa người ta chỉ đưa người ấy” được thí sinh
bình giảng rất ngô nghê: “Trong thời gian ngắn ngủi ngoài con người ấy ta không đưa
đưa con người nào khác nữa bắt buộc ta phải đưa được con người này qua được con
sông” [65, tr. 9]. Bài làm của học sinh trong kỳ thi tuyển sinh đại học môn văn năm
2007 vừa nêu cũng như thực trạng dạy và học môn văn trong những năm gần đây đã
cho thấy rõ thực trạng việc dạy và học môn Văn ở bậc phổ thông hiện nay. Tính từ
đầu thập niên 80 đến nay, chương trình và sách giáo khoa đã trải qua nhiều đợt cải
cách, trong đó có chương trình và sách giáo khoa môn văn, tiếng việt và làm văn: cải
cách không chuyên ban, cải cách chuyên ban, rồi chỉnh lý - hợp nhất. Từ năm học
2002 lại bắt đầu thí điểm một vòng cải cách chương trình và sách giáo khoa. Cải cách
liên tục như vậy, nhưng kết quả dạy - học môn văn vẫn tiếp tục sa sút. Một thực trạng
thật đáng buồn!
Khi nói về thực trạng dạy học văn trong nhà trường, Giáo sư Phan Trọng Luận
cũng từng cho rằng: “Một trong những môn học trong nhà trường có khả năng mạnh
mẽ lâu bền trong trong việc giáo dục tình cảm nhân văn cho tuổi trẻ là bộ môn văn
học… Phương pháp giảng dạy văn học nhiều thập kỷ qua cũng có phần cứng nhắc,
giản đơn, biến việc giảng dạy văn học nặng nề về xã hội học… Sức mạnh riêng của
văn chương do đó bị hạn chế khá nhiều trong việc hình thành và phát triển những tình
cảm nhân văn thẩm mỹ cho học sinh” [27, tr. 111].
Ý kiến trên thiết nghĩ không có gì là quá. Mặc dù Bộ trưởng Bộ Giáo dục
Nguyễn Thiện Nhân luôn kêu gọi và đã có những động thái tích cực như: chống bệnh
thành tích, gian lận trong thi cử, nói không với tiêu cực... để làm thay đổi một cơ chế,
một thói quen không phải ngày một ngày hai mà là cả một quá trình.
Trong chương trình Văn ở trường phổ thông, mảng Văn học nước ngoài cũng
như thơ Đường chiếm một vị trí quan trọng, vì thơ Đường là thành tựu rực rỡ của thơ
ca Trung Quốc và nhân loại. Đây là bộ phận văn học có ảnh hưởng sâu rộng đến văn
học Việt Nam mà đặc biệt là phần văn học trung đại. Tuy nhiên, vấn đề dạy học thơ
Đường ở trường phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế, giáo viên gặp không ít khó
khăn.
Xuất phát từ thực trạng trên, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài: “Giảng dạy thơ
Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học”. Là giáo viên Văn,
chúng tôi mong muốn đề cập đến những khó khăn vướng mắc trong quá trình giảng
dạy thơ Đường, từ đó tìm ra hướng giải quyết phù hợp cho việc dạy và học thơ
Đường ở trường phổ thông.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Ở phương diện là một bộ môn khoa học về phương pháp giảng dạy thì đề tài
“Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học” là
một vấn đề khá mới mẻ, nói chung chưa có công trình nào đi vào nghiên cứu một
cách cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu, tìm hiểu về thơ Đường, thi
pháp thơ Đường đã có rất nhiều bài phê bình, nghiên cứu, đánh giá phân tích từ
những góc độ khác nhau, ở những cấp độ khác nhau phản ánh vị trí quan trọng của
thơ Đường đối với nền văn học Việt Nam. Nhưng do phạm vi nghiên cứu của đề tài,
chúng tôi chỉ chú trọng vào những công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài. Tiêu
biểu là các công trình:
- Thơ Đỗ Phủ, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1976.
- Thơ Đường (tập 2) của Trần Trọng Kim, Nxb Văn học Hà Nội, 1978.
- Văn học Trung Quốc (tập 2) của Nguyễn Khắc Phi, Nxb Giáo dục, 1987.
- Đỗ Phủ, nhà thơ dân đen của Phan Ngọc, Nxb Đà Nẵng, 1990.
- Thơ Đường của Trần Trọng San, Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM, 1990.
- Thơ Đường ở trường phổ thông của Hồ Sĩ Hiệp, Nxb Văn Nghệ Tp.HCM, 1995.
- Diện mạo thơ Đường của Lê Đức Niệm, Nxb Văn hoá thông tin, 1995.
- Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ truyệt đời Đường của Nguyễn Sĩ Đại, Nxb
Văn học Hà Nội, 1996.
- Tinh hoa văn học Trung Quốc của Trần Xuân Đề, Hồ Sĩ Hiệp, Đại học Sư phạm
Tp.HCM, 1997.
- Thi pháp thơ Đường của Nguyễn Thị Bích Hải, Nxb Thuận Hóa, 1997.
- Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh
của Nguyễn Khắc Phi, Nxb Giáo dục, 2001.
- Lịch sử văn học Trung Quốc của Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục, 2002.
● Nhận xét khái quát về các công trình nghiên cứu:
Các công trình, bài viết đề cập rất đa dạng và phong phú về mặt nội dung, nghệ
thuật của thơ Đường. Với các công trình nghiên cứu trên, các tác giả tập trung vào hai
hướng chính:
- Hướng thứ nhất: gồm các tác giả Trần Xuân Đề, Lê Đức Niệm. Nội dung
khái quát bức tranh toàn cảnh thơ Đường, giới thiệu được những giá trị nổi bật về nội
dung, nghệ thuật của các tác giả tiêu biểu cho thi ca đời Đường như: Lí Bạch, Đỗ
Phủ, Bạch Cư Dị.
- Hướng thứ hai: gồm các tác giả Nguyễn Thị Bích Hải, Hồ Sĩ Hiệp, Nguyễn
Quốc Siêu, Trương Đình Tín, Lê Giảng… Nội dung chú trọng về thi luật, thi pháp
thơ Đường và phân tích, bình giảng thơ.
Như vậy, từ hai hướng trên ta thấy, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến
nhiều khía cạnh nội dung, nghệ thuật thơ Đường. Song vẫn chưa hoàn thiện, chưa đi
sâu tìm hiểu phân tích; đặc biệt chưa hướng đến nội dung phương pháp giảng dạy ở
trường phổ thông. Đó cũng là điều tất yếu vì các vấn đề trong thơ Đường quá đa
dạng, quá phong phú nên thường chỉ được các nhà nghiên cứu đề cập đến để kết hợp
lý giải, phân tích những vấn đề mang tính bao quát hơn.
Trên tinh thần kế thừa, học tập các thế hệ đi trước, chúng tôi đã tổng hợp
những tài liệu phong phú có liên quan đến đề tài để làm cơ sở cho việc nghiên cứu
cho luận văn của chúng tôi.
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Vấn đề giảng dạy thơ Đường là một vấn đề lớn có liên quan đến nhiều cấp học.
Trong chương trình trung học cơ sở ban hành kèm theo Quyết định số 03/2002/QĐ–
BGD&ĐT, ngày 24 tháng 1 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, học
sinh lớp 7 bước đầu được làm quen với các bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng thời Đường
như Hạ Tri Chương, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Trương Kế. Đề tài “Giảng dạy thơ Đường ở
trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học” chỉ nhằm nghiên cứu và đặt ra
phương hướng giảng dạy khả thi trong khuôn khổ nhà trường phổ thông, cụ thể trong
chương trình văn lớp 7 và lớp 10 cải cách hiện hành. Bên cạnh đó chúng tôi còn tham
khảo thêm một số tác phẩm, tác giả thuộc thơ Đường ngoài chương trình để thuận lợi
cho việc nghiên cứu, đối chiếu. Do điều kiện hạn chế, chúng tôi chỉ thực hiện khảo
sát, thăm dò, điều tra tình hình việc học của học sinh và việc giảng dạy của giáo viên
chủ yếu ở một số trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và mục đích của luận văn,
chúng tôi thực hiện đề tài theo những phương pháp sau:
● Phương pháp nghiên cứu liên ngành: vận dụng thành tựu của nhiều ngành:
nghiên cứu văn học, lý luận văn học, ngôn ngữ học, tâm lý học, giáo dục học, Văn
hoá học… trong đó đặc biệt chú trọng vận dụng những thành tựu của những công
trình nghiên cứu về thơ Đường, thi pháp thơ Đường và những thành tựu khoa học về
phương pháp dạy học văn.
● Phương pháp điều tra thăm dò, thống kê, phân tích: điều tra, thăm dò, dự
giờ các đối tượng là giáo viên Trung học cơ sở, Trung học phổ thông và học sinh
Trung học cơ sở, Trung học phổ thông để rút ra thực trạng dạy và học thơ Đường ở
trường phổ thông, những thuận lợi, khó khăn, nguyện vọng và ý kiến; thống kê, phân
tích để đánh giá thực trạng việc dạy và học ở trường phổ thông hiện nay.
● Phương pháp miêu tả, so sánh, qui nạp: miêu tả thực trạng dạy, học thơ
Đường ở trường phổ thông, so sánh đối chiếu các tài liệu, sách hướng dẫn dành cho
giáo viên, học sinh, các tư tưởng, quan điểm, ý kiến khác nhau xung quanh việc
nghiên cứu, giảng dạy thơ Đường; quy nạp thành những vấn đề có ý nghĩa phương
pháp luận.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- “Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp
học” của chúng tôi là một đề tài mang tính chất học tập và thử nghiệm là chủ yếu.
Tuy nhiên, chúng tôi mong muốn sẽ giúp giáo viên một biện pháp để hướng dẫn học
sinh học tập đồng thời nâng cao chất lượng trong việc cảm thụ và giảng dạy tác phẩm
văn học, nhất là trong tình hình đất nước đang phát triển, xây dựng mối quan hệ với
các nước trên thế giới theo tinh thần giao thoa và hội nhập. Mặt khác, với “Giảng
dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học”, giáo viên sẽ
phần nào thoát khỏi những lúng túng, bế tắc khi thực hiện yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học văn trong nhà phổ thông hiện nay.
- Qua việc điều tra, thống kê một cách nghiêm túc, luận văn sẽ góp phần phản
ánh thực tại dạy và học thơ Đường ở trường phổ thông hiện nay.
- Mạnh dạn đề xuất một số ý kiến cho việc giảng dạy và học tập văn học nước
ngoài nói chung, thơ Đường nói riêng trong nhà trường phổ thông.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài các phần “Mở đầu”, “Kết luận”, “Tài liệu tham khảo” và “Phụ lục”, kết
cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Văn học nước ngoài trong chương trình phổ thông hiện nay.
Chương 2: Thơ Đường và thi pháp thơ Đường.
Chương 3: Ứng dụng thi pháp học vào giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông.
Chương 1: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG
TRÌNH PHỔ THÔNG HIỆN NAY
1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG
TRÌNH VĂN HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1.1. Một cái nhìn tổng thể về những tinh hoa văn học và những trường
phái văn học tiêu biểu của văn học nước ngoài
Văn học có lịch sử phát triển của riêng mình trong các nền văn hoá, nó đề cập
đến tình cảm và tâm hồn của nhân loại, có khá nhiều bình diện chung trong các nền
văn hoá khác nhau, dễ dàng tạo nên sự hiểu biết, tâm đắc và cộng hưởng giữa con
người thuộc các nền văn hóa và khoa học khác nhau… Xét về một ý nghĩa nào đó,
văn học không chỉ vượt ra ngoài biên giới quốc gia, mà nó còn có một sức hấp dẫn lạ
kỳ, trở thành nhịp cầu và sợi dây kết nối quan trọng trong sự giao lưu giữa các quốc
gia, các dân tộc có nền văn hóa khác nhau.
Nhìn lại lịch sử văn học và văn hóa Việt Nam có thể thấy, chính quá trình tiếp
xúc và giao lưu đã mang đến những thay đổi và biến đổi lớn lao về cấu trúc cũng như
phẩm chất của nền văn học. Do tác động của yếu tố lịch sử, văn hóa dân tộc đã tiếp
thu những giá trị, tinh hoa ưu việt trên tinh thần dung nạp, giao hòa. Hàng nghìn năm
tiếp xúc với phương Bắc, hàng trăm năm tiếp xúc với phương Tây, văn hóa và văn
học Việt Nam đã chứng tỏ khả năng thanh lọc và thích ứng; khả năng không thay đổi
(tĩnh) và khả năng tự biến đổi (động) để tồn tại và phát triển. Với phẩm chất đó, văn
học Việt Nam vừa bám rễ sâu vào mảnh đất dân tộc, vừa vươn rộng theo những
nguồn ánh sáng và dưỡng chất mới để không ngừng nảy nở và sinh sôi.
Dù rằng, hình tượng văn học không hiện hữu một cách trực tiếp như các ngành
nghệ thuật khác để có thể nhìn, nắm, lấy được nhưng lại có sức hấp dẫn tuyệt vời
thông qua việc tác động vào trí tưởng tượng và liên tưởng của người đọc.
Ở trường phổ thông, học sinh bắt đầu làm quen với văn học nước ngoài từ khi
bước vào cấp II với những câu chuyện thần thoại, cổ tích của các nước Nga, Đức,
Đan Mạch... Từ những câu chuyện đó, một thế giới thần kỳ đã được tái hiện, kích
thích và khơi gợi trí tưởng tượng của học sinh. Thông qua các nhân vật, bước đầu
hình thành cách nhìn nhận đánh giá, bình phẩm và nhận xét giữa: ác - thiện, chính
nghĩa - bất nghĩa, để từ đó hình thành nhân cách của các em. Ở những cấp học tiếp
theo, các em được tiếp cận những tác phẩm văn học nổi tiếng, tiêu biểu cho các nền
văn học rực rỡ của nhân loại. Ở phương Đông có thể kể đến các bậc thánh thơ: Lí
Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị; các tiểu thuyết gia cổ điển: Thi Nại Am, La Quán Trung,
Tào Tuyết Cần; nhà văn, nhà tư tưởng lớn thời hiện đại Lỗ Tấn, thi sĩ của những tâm
hồn: Ra-bin-đra-nát Ta-go. Ở phương Tây, không thể không nhắc đến hai bộ sử thi
kinh điển của Hôme, những kịch gia nổi tiếng như Sếchxpia, Mô-li-e, nhà văn, nhà
thơ lãng mạn V.Hugo, A.Pu-Skin... và bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực Banzắc, văn
hào vĩ đại của Nga Mác-xim Go-rơ-ki… Mỗi một tác giả đều là những người đại diện
xuất sắc cho nền văn học của quốc gia mình và tạo được một chỗ đứng trong lòng
hầu hết độc giả trên thế giới.
Văn học là xương sống của nền văn hóa dân tộc. Nếu làm đúng theo chức năng
xã hội của nó, thì văn học là tấm gương phản chiếu trung thực và đầy đủ cuộc sống
về mọi khía cạnh, vật chất và tinh thần, những ý nghĩ, tình cảm và ước mơ, là hơi thở
và nhịp đập của trái tim, ít nhất là của một thế hệ. Văn học trước hết nói lên sức sống
của cộng đồng dân tộc sản sinh ra nó. Chính nó, cùng với các ngành nghệ thuật mà nó
là hạt giống, là bằng chứng hùng hồn của sức sống ấy. Vì vậy, trách nhiệm của nó đối
với xã hội là vun xới, bồi đắp, tỏa hương vị và thanh sắc của sức sống ấy, đồng thời
dọn dẹp, quét tước những bụi bặm, rác rớm trên cơ sở của xã hội và ở từng cá nhân.
Dĩ nhiên, không phải một tác phẩm văn học, một thể loại sáng tác văn học hay nền
văn học của một dân tộc có thể đảm đương hết những nhiệm vụ kể trên, hoặc giải đáp
hết được những câu hỏi do cuộc sống đặt ra.
Mặc dù bị giới hạn bởi không gian, thời gian, nội dung, thể loại…, song văn
học giữa các dân tộc đều có nét chung là hướng tới những giá trị nghìn đời của cái
đẹp, đó là: chân, thiện, mỹ; giúp cho con người sống tốt hơn, nhân ái, bao dung và độ
lượng hơn, sống đúng nghĩa với chữ Người. Và đó cũng chính là cái đích, mục tiêu
mà văn học nhà trường hướng tới. Có thể nói những tinh hoa văn học thế giới là di
sản tinh thần quý giá chung của cả nhân loại và là bộ phận không thể thiếu trong hành
trang văn hóa của học sinh trong nhà trường phổ thông.
Với sự đa dạng về chiều rộng, sâu sắc về chiều sâu, văn học nước ngoài đã
cung cấp tri thức cho học sinh trên nhiều phương diện mà nếu chỉ riêng văn học Việt
Nam thì có lẽ sẽ còn nhiều khiếm khuyết, không toàn diện.
1.1.2. Đối sánh Văn học nước ngoài với Văn học Việt Nam
Như đã trình bày, sự đa dạng của văn học dân tộc các nước, cùng với sự phong
phú về thể loại, nội dung chương trình Văn học nước ngoài trong trường phổ thông
đã mở ra một cái nhìn theo hướng mở, giúp học sinh nhận ra và phát hiện những tinh
hoa cũng như những thành tựu của văn học thế giới từ đó có sự đối sánh với văn học
nước nhà.
Văn học nước ngoài trong chương trình phổ thông đại diện cho văn học của
các dân tộc trên khắp châu lục trên thế giới. Tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn
hóa, văn học của nhân loại là một trong những cách thức tự làm phong phú thêm nền
văn học của dân tộc mình. Mỗi một nền văn hóa đều mang trong mình những sắc
thái văn hóa đặc thù về con người, đất nước, phong tục, tập quán lối sống. Với ý
nghĩa đó, tìm hiểu Văn học nước ngoài để học sinh Việt Nam khám phá những giá trị,
những tinh hoa, vẻ đẹp của văn học trên thế giới mà văn học trong nước có thể chưa
đáp ứng một cách đầy đủ được, và từ đó tìm ra những điểm chung, riêng giữa văn học
các nước, đặc biệt là những nước có ảnh hưởng cùng một vùng văn hóa như Trung
Quốc. Chẳng hạn khi học “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn, các em có thể liên hệ so
sánh với truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao…
Mục đích của việc học văn là để học sinh cảm thụ được cái hay, cái đẹp mà
nhà văn muốn gửi gắm vào tác phẩm của mình, trên cơ sở đó mà tích hợp giá trị của
nhân cách. Sự tích hợp này vừa mang sắc thái cá nhân vừa mang sắc thái cộng đồng.
Dù được sáng tác theo thể loại nào, một công trình sáng tác văn học có giá trị nếu nó
phát ra được một bức tranh làm rung động tâm hồn, truyền cho người tiếp nhận sự
thông cảm đối với cái đáng kính, đáng yêu, đáng khích lệ, cũng như một lòng phẫn
nộ, căm ghét đối với những điều bất công, tàn bạo, phi đạo lý. Văn chương bồi đắp
cho học sinh những tình cảm cao đẹp. Hoài Thanh đã nói: “Văn chương gây cho ta
những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có” [48, tr. 60]. Ví dụ, khi
học sinh học truyện ngắn “Cố hương” của Lỗ Tấn sẽ giáo dục các em một tình cảm
yêu mến, gắn bó với nông thôn, có cách nhìn và yêu mến người nông dân thực sự. Đó
là một bài học tốt, giúp các em rung cảm trước sự vật, sự việc và con người để từ đó
có tình cảm và tâm hồn văn chương. Thật không sai khi cho rằng văn chương có tác
dụng thanh lọc tâm hồn con người, nâng đỡ con người là thế.
Như vậy, mục đích cuối cùng của văn học vẫn là vì con người, hướng về con
người, con người là vấn đề trung tâm của văn học. Là một bộ phận của văn học thế
giới, Văn học Việt Nam không thể đi khỏi chủ đạo chung ấy, cho nên giữa những nền
văn học khác nhau, học sinh vẫn tìm ra tiếng nói chung giữa các dân tộc.
Cùng với văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài trong trường phổ thông với
sự đa dạng của nhiều nền văn học từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim đã tạo nên những
điển hình đặc sắc với những giá trị riêng. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà nhắc đến
Nguyễn Du là người ta nghĩ ngay đến xã hội phong kiến Việt Nam trong thời kỳ suy
thoái, mà ở đó số phận của con người - đặc biệt là số phận của những người tài hoa bị
chà đạp, nhắc đến An-đécxen là người ta nghĩ đến đất nước Đan Mạch với những câu
chuyện cổ tích chan chứa tính nhân văn, qua thơ A.Pu-Skin, truyện ngắn Mác-xim
Go-rơ-ki ta hiểu thêm về đất nước và con người Nga, hay đến với thơ Đường ta hiểu
thêm nét đẹp văn hóa trong tư duy của người Trung Quốc cổ. Có thể nói đi vào tìm
hiểu thế giới nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ có trong chương trình Văn học nước
ngoài cũng chính là mở rộng tầm hiểu biết thêm một nét văn hóa của một dân tộc.
Văn học là chiếc cầu nối, giúp con người hiểu và thông cảm nhau hơn trong
tình thân ái. Chương trình văn học nước ngoài trong nhà trường phổ thông chính là
tiền đề để đưa văn học dân tộc, đưa học sinh hội nhập với văn học thế giới. Từ đó vốn
văn hoá, văn học của học sinh chắc chắn sẽ được phong phú hơn.
1.2. NỘI DUNG, CẤU TRÚC, THỜI LƯỢNG VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
TRONG SÁCH GIÁO KHOA Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.2.1. Cấp trung học cơ sở
Lớp 6 (theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2002 – 2003)
Bảng 1.1: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 6
TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết
1 Cây bút thần Truyện cổ tích - Trung Quốc 2
2 Ông lão đánh cá và con cá vàng A.Pu-Skin Nga 2
3 Mẹ hiền dạy con Liệt nữ truyện - Trung Quốc 1
4 Buổi học cuối cùng An-Phông-xơ Đô-đê Pháp 2
5 Bức thư của thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn Mỹ 2
Lớp 7 (theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2003 – 2004)
Bảng 1.2: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 7
TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết
Ét-môn-đô đơ-A-mi- I-ta-li-a 1 1 Mẹ tôi xi
Trung 1 2 Vọng Lư Sơn bộc bố Lí Bạch Quốc
Trung 1 3 Tĩnh dạ tư Lí Bạch Quốc
Trung 1 4 Hồi hương ngẫu thư H ạ Tri Chương Quốc
Đọc Trung 5 Phong Kiều dạ bạc Trương Kế thêm Quốc
Trung Mao ốc vị thu phong sở phá 1 Đỗ Phủ 6 Quốc ca
Lớp 8 (theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2004 – 2005)
Bảng 1.3: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 8
TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết
2 1 Cô bé bán diêm An-đécxen Đan Mạch
Tây Ban 2 Đánh nhau với cối xay gió Xéc-van-tét 2 Nha
2 3 Chiếc lá cuối cùng Ohenri Mỹ
2 4 Hai cây phong Ai-ma-tốp Nga
2 5 Đi bộ ngao du Ru-xô Pháp
2 6 Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục Mô-li-e Pháp
Lớp 9 (theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2005 – 2006)
Bảng 1.4: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 9
TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết
Đấu tranh cho một thế giới Ga-bri-en Gác xi-a 1 Cô-lôm-bi-a 2 hòa bình Mác-két
2 Cố hương Lỗ Tấn Trung Quốc 2
3 Những đứa trẻ Mác-xim Go-rơ-ki Nga 2
4 Bàn về đọc sách Chu Quang Tiềm Trung Quốc 2
Chó sói và cừu trong thơ ngụ Hi-pô-lít ten Pháp 2 5 ngôn của La Phông-ten
Ra-bin-đra-nát Ta- Ấn Độ 1 6 Mây và sóng go
4 Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang Đe-ni-ơn Đi-phô Anh 1
5 Bố của Xi-mông Guy đơ Mô-pa-xăng Pháp 2
6 Con chó Bấc Giắc Lân-đơn Mỹ 1
- Tổng số tiết Văn học nước ngoài ở bậc trung học cơ sở : 41 tiết.
- Tổng số tiết Văn học Việt Nam ở bậc trung học cơ sở : 138 tiết.
1.2.2. Cấp trung học phổ thông
Lớp 10 (theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2006 –2007)
Bảng 1.5: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 10
Số TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia tiết
Sử thi - Hi Lạp 1 Uy-lít-xơ trở về 2
Sử thi - Ấn Độ 2 Ra-mà buộc tội 2
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Lí Bạch Trung Quốc 1 3 Nhiên chi Quảng Lăng
Đỗ Phủ Trung Quốc 4 Thu Hứng 1
Thôi Hiệu Trung Quốc 5 Hoàng Hạc Lâu 1
Vương Xương Linh Trung Quốc 6 Khuê oán 1
Vương Duy Trung Quốc 4 Điểu minh giản 1
Ba-sô Nhật 5 Thơ hai-cư 1
6 Hồi trống Cổ thành La Quán Trung Trung Quốc 2
Tào Tháo uống rượu luận anh La Quán Trung Trung Quốc 1 7 hùng
Lớp 11 (theo SGK cải cách áp dụng từ năm 2007 – 2008)
Bảng 1.6: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 11
TT Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết
1 Tình yêu và thù hận Uy-li-am Sếch-xpia Anh 2
2 Tôi yêu em A.Pu-Skin Nga 2
Đọc Bài thơ số 28 (Trích Người Ra-bin-đra-nát Ta- Ấn Độ 3 thêm làm vườn) go
An-tôn Páp-lô-vích Nga 2 4 Người trong bao Sê-khốp
Người cầm quyền khôi phục
5 uy quyền (Trích Những Vích-to Huy- gô Pháp 2
người khốn khổ)
Lớp 12 (theo SGK thí điểm áp dụng năm 2007)
Bảng 1.7: Nội dung, thời lượng Văn học nước ngoài ở lớp 12
Tác phẩm Tác giả Quốc gia Số tiết TT
Số phận con người Sôlôkhốp Nga 2 1 Một con người ra đời (đọc thêm) M.Gorky
Thuốc Trung Lỗ Tấn Đại đoàn viên - trích AQ chính Quốc truyện (đọc thêm) 2 2 Mãi mê chinh chiến và yêu
đương – trích Những cuộc phiêu Mac Tu-ên Mỹ
lưu của Tom-xo-y-ơ (đọc thêm)
Con người không thể đánh bại – Hê-minh-uê Mỹ trích Ông già và biển cả 3 2
Tự do Ê-luy-a Pháp
- Tổng số tiết Văn học nước ngoài ở bậc trung học phổ thông: 27 tiết.
- Tổng số tiết Văn học Việt Nam ở bậc trung học phổ thông : 131 tiết.
1.2.3. Nhận xét cấu trúc, thời lượng của Văn học nước ngoài và thơ Đường
trong sách giáo khoa văn ở trường phổ thông
● Về Văn học nước ngoài
Bên cạnh văn học Việt Nam, trong chương trình phổ thông, mảng văn học
nước ngoài đã đã bao quát hầu hết nền văn học của các nước trên thế giới: châu Á
(Nhật, Ấn Độ, Trung Quốc), châu Âu (Anh, Pháp, Đức, Nga, Hy Lạp, Tây Ban Nha,
Đan Mạch, I-ta-li-a), châu Mỹ (Mỹ, Braxin, Côlômbia), với những tác phẩm của các
tác gia lỗi lạc, tiêu biểu cho các giai đoạn, thời kỳ lịch sử. Đây là thuận lợi cho học
sinh có một cái nhìn khái quát về văn học cũng như hiểu biết thêm những tinh hoa
văn học của các quốc gia khác.
Theo chương trình cải cách hiện hành, mục đích của giáo dục theo hướng đồng
tâm được thực hiện ở cả hai cấp (Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) liên
thông: từ căn bản đến nâng cao, từ những vấn đề đơn giản đến những vấn đề lớn lao
của thời đại, điều này đòi hỏi chiều sâu của tư duy và phát huy được năng lực suy
luận của học sinh.
Các thể loại: văn học dân gian (truyền thuyết, cổ tích, sử thi), thơ, kịch, truyện
ngắn, tiểu thuyết… rất đa dạng, phong phú, giúp học sinh có cơ sở đối sánh với các
tác phẩm văn học Việt Nam cùng chung đặc điểm về thể loại.
Nội dung những tác phẩm văn học nước ngoài được sắp xếp một cách khoa
học theo tiến trình văn học sử, song song với văn học Việt Nam. Chẳng hạn, ngay từ
lớp 6, học sinh không chỉ được đến với những câu chuyện thần thoại, cổ tích, ngụ
ngôn của Việt Nam mà còn được tiếp nhận những câu chuyện thần thoại, cổ tích, ngụ
ngôn của các nước khác trên thế giới. Với việc sắp xếp chương trình như vậy, học
sinh vừa có cơ hội mở rộng tầm hiểu biết, vừa củng cố kiến thức và có điều kiện đối
chiếu với văn học trong nước.
Với tinh thần kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn học thế giới,
mảng Văn học nước ngoài được giảng dạy ở trường phổ thông chiếm một vị trí quan
trọng và phù hợp với chương trình: Văn học Việt Nam 269 tiết (chiếm 79,8%), Văn
học nước ngoài 68 tiết (chiếm 20,2%).
Văn học các nước trên thế giới được đưa giảng dạy trong chương trình là
những tác phẩm tiêu biểu của các tác giả nổi tiếng cho từng giai đoạn sáng tác. Thể
loại rất phong phú và đa dạng. Cũng như văn học Việt Nam, đối với những tác phẩm
văn xuôi có dung lượng dài, học sinh sẽ được học những đoạn trích tiêu biểu, riêng
những tác phẩm ngắn, đặc biệt là thơ, học sinh được học trọn vẹn tác phẩm.
Phần chú thích về tác giả, tác phẩm, từ khó khá cụ thể và dễ hiểu. Các câu hỏi
ở phần “hướng dẫn đọc – hiểu văn bản” rõ ràng, hướng vào nội dung chính của văn
bản, giúp học sinh tiếp cận văn bản đúng hướng. Tuy nhiên, ở một số câu hỏi khó
(câu hỏi có dấu *) đôi lúc còn mơ hồ, không những rất khó đối với học sinh mà ngay
cả giáo viên cũng gặp trở ngại, khó tìm ra được đáp án phù hợp, thậm chí sách giáo
viên cũng bỏ ngỏ, không có hướng giải quyết.
Phân bố thời gian cho từng bài tương đối phù hợp. Riêng đối với những tác
phẩm khó (thơ Đường), dài (tiểu thuyết) thì thời gian còn ít mà yêu cầu nội dung phải
truyền đạt lại nhiều. Nếu giáo viên giảng kỹ sẽ không đủ thời gian, còn nếu giảng
lướt qua thì thật là tiếc vì truyền đạt kiến thức không sâu, không đủ thời gian hướng
dẫn học sinh khám phá hết vẻ đẹp ở các phương diện của tác phẩm. Điều này khiến
cho nhiều giáo viên lúng túng, có khi phải tự điều chỉnh thời gian của những tiết học
này với tiết học khác, hoặc phải tự dạy bù vào những giờ ngoại khóa.
● Về thơ Đường
Mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc có
nguồn gốc từ xa xưa, trong đó giao lưu văn học luôn luôn xuyên suốt và chưa từng bị
gián đoạn. Có thể nói, nhân dân hai nước Việt – Trung đang không ngừng tăng cường
sự hiểu biết, gắn kết tâm hồn và tình cảm lẫn nhau qua nhịp cầu kết nối là sự giao lưu
văn hóa, văn học. Việt Nam là một trong những nước mà ở đó, các tác phẩm văn học
cổ điển nổi tiếng của Trung Quốc như "Tam quốc diễn nghĩa", "Hồng lâu mộng",
"Thủy hử" được dịch, giới thiệu sớm nhất cũng như được quảng bá rộng rãi nhất.
Đơn cử, công chúng Việt Nam đều có thể thuộc lòng các mối quan hệ giữa nhiều
nhân vật, nhiều tình tiết lắt léo phức tạp trong "Tam quốc diễn nghĩa", "Thủy hử"…
Tác phẩm văn học cận, hiện đại Trung Quốc ở các thời kì khác cũng luôn luôn được
dịch và giới thiệu ở Việt Nam, trong đó truyện ngắn của Lỗ Tấn còn được chọn và
đưa vào sách giáo khoa văn học của học sinh phổ thông Việt Nam. Trong lĩnh vực
nghiên cứu văn học, ở Việt Nam có nhiều chuyên gia, học giả nghiên cứu về văn học
Trung Quốc. Từ thế hệ đàn anh như Đặng Thai Mai cho đến thế hệ các chuyên gia,
giáo sư hiện vẫn còn đang hoạt động sôi nổi trong lĩnh vực này như Trần Xuân Đề,
Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ, Lê Đức Niệm, Nguyễn Khắc Phi… Họ đã làm rất
nhiều những công việc gian khổ và tinh tế về mặt dịch thuật, giới thiệu và nghiên cứu
văn học Trung Quốc, nhằm đóng góp cho quá trình tìm hiểu và giao lưu giữa hai nền
văn hóa, văn học của hai nước Việt – Trung. Ở Trung Quốc, cũng có một số tác phẩm
văn học các thời kỳ cổ, kim khác nhau của Việt Nam được dịch và giới thiệu như
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du cùng các tác phẩm thơ ca, truyện dài, truyện ngắn,
phóng sự… Những báo cáo khoa học hoặc chuyên luận nghiên cứu về văn học Việt
Nam cũng đã được công bố rộng rãi cho đọc giả Trung Quốc.
Về thơ Đường, sách giáo khoa Ngữ văn ở trường phổ thông, thơ Đường được
đưa vào giảng dạy ở lớp 7 và lớp 10, gồm thơ của 7 tác giả, trong đó thơ của Lí Bạch
và Đỗ Phủ là trọng tâm.
Bảng 3.8: Tổng hợp số tiết thơ Đường trong chương trình trung học cơ sở và trung
học phổ thông
Trường Trường trung Nội dung trung học cơ sở học phổ thông
Tổng số tiết Văn học Việt Nam (tiết) 138 131
Văn học nước ngoài (tiết) 41 27
Trong đó thơ Đường (tiết) 4 3
41/179 27/158 Văn học nước ngoài/ tổng số tiết văn bản (%) (22,9%) (17,1%)
4/138 3/131 Thơ Đường/ tổng số tiết Văn học Việt Nam (%) (2,8%) (2,2%)
Thơ Đường/ Văn học nước ngoài (%) 4/41 (9,8%) 3/27 (11,1%)
Tổng số tiết thơ Đường/ Văn học nước 7/68
ngoài ở trường phổ thông (%) (10,3%)
Như vậy, trong phần Văn học nước ngoài ở trường phổ thông thì thơ Đường
được dành nhiều thời gian hơn (7/68 tiết, chiếm 10,3%). Điều này cũng phù hợp, vì
thơ Đường là thành tựu đặc sắc của thơ ca nhân loại mà nó còn ảnh hưởng sâu sắc đối
với văn học Việt Nam. Cha ông ta trong quá trình xây dựng nền văn học viết đã tiếp
nhận ảnh hưởng của văn học Trung Quốc quả là không nhỏ, đặc biệt là thơ Đường
luật. Thơ Việt Nam thời trung – cận đại có khoảng 3/4 số bài được sáng tác theo thể
thơ Đường luật, gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm. Không những thế, âm hưởng thơ
Đường vẫn còn rõ ở trong thơ hiện đại Việt Nam. Cụ thể, trong phần thơ Việt Nam
được học ở trường phổ thông, các bài thơ sáng tác theo thể thơ Đường luật chiếm một
số lượng rất lớn.
Trong số 7 tác giả được tuyển vào sách giáo khoa, chỉ có Hạ Tri Chương ở thời
Sơ Đường, còn 6 tác giả ở thời Thịnh Đường. Trong số 10 bài được tuyển, chỉ có 1
bài thuộc thơ cổ thể, còn 9 bài là thơ cận thể (luật thi và tuyệt cú). Một điều đáng chú
ý nữa là trong số ấy có 6 bài là thơ tuyệt cú (4 câu) chiếm 2/3 thơ 8 câu (3 bài). Điều
đó cũng phù hợp với nhu cầu thưởng thức văn chương nghệ thuật trong cuộc sống
hiện đại hôm nay. Các bài thơ ngắn như Tuyệt cú, Bát cú là sự kết tinh độc đáo của
nghệ thuật thơ ca, dễ mang đến những rung cảm tinh tế, những khoảnh khắc thăng
hoa của tâm hồn.
● Nhận xét chung
Nhìn chung, cấu trúc, thời lượng, nội dung chương trình Văn học nước ngoài
đưa vào dạy và học trong chương trình phổ thông khá phong phú, có sự đổi mới, điều
chỉnh phù hợp với từng cấp học tương ứng với trình độ cảm thụ văn chương theo lứa
tuổi học sinh. Trong những giờ học văn thông qua các tác phẩm nghệ thuật, học sinh
đã bắt đầu nhận thức cuộc sống sâu sắc hơn, bên cạnh đó hình thành, phát triển năng
khiếu tư duy thẩm mỹ và nhân cách. Để đạt được như vậy, đó là nhờ kết quả của quá
trình nghiên cứu nghiêm túc của các soạn giả để thiết kế một chương trình học hữu
ích, lý thú phù hợp với học sinh và bối cảnh của xã hội.
Nghệ thuật là tiếng nói tình cảm của con người, tiếng nói đó được biểu hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau trong tác phẩm. Theo Giáo sư Lê Ngọc Trà: “Tư
tưởng tình cảm nhà văn được thể hiện trong hình tượng nghệ thuật: trong các chi tiết
nghệ thuật, trong đó cốt truyện, trong cách xử lý không gian, thời gian và nhất là cách
xây dựng nhân vật…” [67, tr. 16-17]. Như vậy, nội dung và hình thức của tác phẩm
văn học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cho nên, vận dụng thi pháp học vào giảng
dạy thơ Đường một mặt vừa soi sáng thêm bản chất và phạm trù nội dung của văn
học, vừa mở ra thêm một cách tiếp cận với tác phẩm, liên quan trực tiếp tới việc cảm
thụ, nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn học.
____________________
Chương 2: THƠ ĐƯỜNG VÀ THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG
2.1. VỀ NÉT VỀ THƠ ĐƯỜNG
2.1.1. Thời đại hoàng kim của thơ ca
Thơ Đường (608-907) đạt nhiều thành tựu nhất, là đỉnh cao sáng chói của mấy
nghìn năm lịch sử Văn học Trung Quốc. Mỗi bài thơ Đường là một bức tranh sống
động với các màu sắc hài hòa, có âm vang kỳ diệu và sức truyền cảm tuyệt vời, gợi
mở, quyến rũ và đi thẳng vào lòng người đọc, để lại những suy tư trầm lắng và rung
động không nguôi.
Đường thi là sự kết tụ mỹ thuật, tinh hoa văn học nghệ thuật, xứng đáng là viên
ngọc quí vô giá lung linh sáng chói, chẳng bao giờ phai nhạt theo thời gian… Gần
300 năm tồn tại của nhà Đường, người Trung Quốc đã sáng tạo nên một nền thơ ca vĩ
đại. Bộ “Toàn Đường thi” đã tập hợp 48.900 bài thơ của hơn 2.300 nhà thơ. Con số
thực của thơ Đường chắc còn lớn hơn, vì bộ “Toàn Đường thi” được sưu tập sau
1.000 năm với rất nhiều thăng trầm biến cố lịch sử. Nhưng đó là mới nói đến số
lượng, cái quan trọng hơn lại là chất lượng nội dung, nghệ thuật của thơ Đường.
Dựa vào sự biến chuyển của các triều đại nhà Đường, thơ Đường có thể chia ra
làm 3 thời kỳ sau:
- Thời Sơ Đường (618-713): mang phong cách của thời Lục Triều, thi vị cung
đình, lời lẽ hoa mỹ ca ngợi vua chúa (thời Võ Tắc Thiên cầm quyền, mua chuộc kẻ sĩ,
văn nhân tài tử để làm thơ tán tụng nhà vua) hoặc thi ca tình cảm ủy mị, phần nhiều
chú trọng hình thức hơn nội dung, thơ theo đúng những qui luật về thanh điệu và biền
ngẫu. Trong giai đoạn này có sự xuất hiện “Sơ Đường tứ kiệt”, tức là bốn nhà thơ trẻ
Vương, Dương, Lư, Lạc. Vì ảnh hưởng của chinh chiến, ly loạn, nên thơ văn của họ
gần thực tế hơn, phản ảnh được đời sống đau thương, thực trạng xã hội đương thời,
những hình ảnh oai hùng ở chốn biên cương hay bày tỏ thái độ uẩn ức đối với chế độ
phong kiến đương thời. Thời Sơ Đường còn có những nhà thơ nổi tiếng như Trần Tử
Ngang đề cao khuynh hướng “phục cổ”, Trương Cửu Linh với những bài thơ tình
cảm nhẹ nhàng, Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư với những bài thơ diễn tả tình
cảm tha thiết hoặc tả cảnh thiên nhiên với bút pháp tài hoa điêu luyện. Họ đã kết hợp
được trường phái hiện thực với lãng mạn
- Thời Thịnh Đường (713-846): Lí Long Cơ (tức Đường Minh Hoàng) lên
ngôi đề ra sự “phục bích” (dựng lại bức tường cũ), nhắc lại sự việc lật đổ Võ Tắc
Thiên (705), diệt Vi Hậu (713) khôi phục nhà Đường. Đường Minh Hoàng là nhà vua
có nhiều tài năng, là một nghệ sĩ (tự nhuận sắc khúc Nghê Thường), say mê ca múa
thi văn, quí trọng văn nhân thi sĩ. Đây là thời kỳ thơ Đường đạt lên đỉnh cao chói lọi
mà đại diện là ba nhà thơ: Lí Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị . Ngoài ra còn có Vương
Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Vương Xương Linh, Cao Thích, Sầm Tham, Vương Hàn,
Thôi Hiệu, Vương Kiến, Trương Tịch, Hàn Dũ, Mạnh Giao, Giả Đảo, Trương Kế...
Mỗi nhà thơ có một phong cách tài hoa điêu luyện khác nhau, mỗi người một vẻ
không sao kể xiết trong thời kỳ thịnh đạt này.
- Thời Vãn Đường (846-907): Thời kỳ này nhà Đường đã xuống dốc, xã hội
suy thoái, hỗn loạn, nhiều cuộc nổi dậy khắp nơi vì quan lại tham nhũng, sưu cao
thuế nặng. Nền văn học Trung Quốc cũng bị chuyển biến, thơ văn đề cao tình yêu trai
gái thoát vòng lễ giáo, tuy nhiên cũng có những bài thơ vịnh sử phê phán gay gắt giai
cấp quan liêu thống trị, sự tệ hại của vua quan, nỗi đau khổ của dân nghèo cô thế.
Giai đoạn này có những nhà thơ nổi tiếng như Đỗ Mục, Ôn Đình Quân, Lí Thường
Ẩn…
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hưng thịnh của thơ Đường. Là một đất nước
có nền văn hóa lâu đời, trong lịch sử xã hội phong kiến Trung quốc, đời Đường là
một quốc gia phát triển, phồn vinh trên tất cả các phương diện: kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa nghệ thuật. Đây là một thời kỳ mà nền văn hóa, học thuật và nghệ thuật
đã có một bề dày lịch sử với sự kết tinh của bao thế hệ thơ ca trong suốt mấy nghìn
năm của quá trình hình thành lịch sử dân tộc.
Thời Tiên Tần đã từng có một nền triết học, tư tưởng phát triển với nhiều học
thuyết sâu sắc và độc đáo. Từ đời Hán về sau, do chủ trương “độc tôn Nho thuật, bãi
truất bách gia” nên hơn 2.000 năm suốt thời kỳ phong kiến chuyên chế của Trung
Quốc chỉ có Nho gia được đề cao, về cơ bản, không có tự do tư tưởng. Đến đời
Đường có một hiện tượng đặc biệt: Nhà nước phong kiến Lí Đường không độc tôn
Nho giáo mà cho phép tất cả các trào lưu tư tưởng được tự do truyền bá. Tất cả các
tôn giáo ngoại lai, kể cả tư tưởng triết học của Trung Quốc đều được phát triển.
Trong đó sự hưng thịnh của ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Đạo là đặc trưng nổi bật
trong diện mạo tư tưởng của đời Đường. Kế thừa chế độ khoa cử đời Tùy, nhà Đường
cũng tổ chức các khoa thi để chọn người vào hàng ngũ cai trị; mà thơ là một bộ môn
phải thi nên sĩ tử thời bấy giờ tích cực trau dồi tri thức và nghệ thuật làm thơ. Các nhà
thơ hầu hết đều đỗ tiến sĩ và làm quan, vua thời Đường cũng làm thơ và rất trọng thi
sĩ, tạo nên một phong khí trọng thơ trong toàn xã hội. Hoàng đế, quan lại, ni cô, đạo
sĩ, hòa thượng, chú tiểu cho đến ngư, tiều, kĩ nữ… cũng làm thơ. Đó là điều kiện rất
thuận lợi cho sự phát triển của thơ ca.
Mặt khác, các bộ môn nghệ thuật như vũ đạo, âm nhạc, kiến trúc, điêu khắc,
thư pháp đặc biệt là hội họa đều phát triển. Thơ ca chịu ảnh hưởng của các bộ môn
nghệ thuật ấy. Cũng như thơ, hội họa đời Đường tư duy bằng quan hệ, chú trọng sự
biểu hiện bằng quan hệ hơn là miêu tả tỉ mỉ hiện thực. Người Trung Quốc rất yêu
thích hội họa vì họ vốn chuộng sự ít lời mà hội họa được coi là “vô thanh thi” (thơ
không lời). Những quan niệm nghệ thuật chung của hội họa và thơ đều có liên hệ sâu
xa với những quan niệm “vô ngôn chi giáo”, “đối diện đàm tâm” của đạo gia, với
“niêm hoa vi tiếu”, “tĩnh lự”… của Thiền Tông (Thiền Tông là một tông phái của
Phật giáo Trung Quốc).
Đặc biệt, thơ Đường là sự kế thừa và phát triển đến đỉnh cao của hơn mười thế
kỷ thơ Trung Quốc. Khởi nguyên từ “Kinh thi” và “Sở từ”, thơ Trung Quốc đến đời
Đường đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm nghệ thuật quý báu. Những hình thức thi,
từ, ca hành, nhạc phủ, cổ phong có từ các giai đoạn trước đều được kế thừa, riêng luật
thi đã manh nha từ thời Lục triều đến bây giờ đã được hoàn thiện
Tinh thần hiện thực, tinh thần chống chiến tranh có từ Kinh thi, Nhạc phủ đời
Hán và thơ Kiến An, dân ca Bắc triều; tinh thần lãng mạn, thái độ an bần lạc đạo, trở
về với thiên nhiên có từ “Sở từ”, thơ Khuất Nguyên, Đào Tiềm, Tạ Linh Vận và dân
ca Nam triều… là tiền đề cho sự hình thành các phái thơ và phong cách thơ Đường.
Người Trung Quốc bấy giờ đã tự giác về ngôn ngữ đơn tiết đa thanh của mình và có ý
thức về đặc điểm ấy trong việc làm thơ. Tất cả những ngọn nguồn ấy đều hội tụ ở thơ
Đường, cho nên sự hưng thịnh của thơ Đường là kết tinh của một quá trình chịu sự
qui định và ảnh hưởng nhiều mặt của thời đại, của phương pháp tư duy, của các triết
thuyết và kế thừa truyền thống của bản thân nghệ thuật thơ ca.
Thơ ca nhà Đường vươn lên đỉnh cao mới phong phú đa dạng hơn nhưng vẫn
không thoát ly khỏi bản sắc cố hữu của thi ca Trung Quốc cổ, như một cái cây mà rễ
bám sâu vào đất, hút mọi tinh hoa của đất để sản sinh hoa trái tuyệt vời. Tuy thơ
Đường mang hình thức mới nhưng nó vẫn giữ được cái chất, cái hồn của thơ ca
Trung Quốc trong mấy nghìn năm, nó làm cho thơ Đường đẹp hơn, tuyệt vời hơn cả
sắc lẫn hương.
2.1.2. Sự phong phú đa dạng của thơ ca
● Đề tài
Như trên đã nhận xét: Thơ Đường quả là bức tranh toàn cảnh về thời đại. Đọc
thơ Đường ta thấy có những cảnh thiên nhiên đẹp đến nao lòng người, có thác nước,
có non cao, có âm thanh chùa vắng, có những hàng liễu buồn man mác trong cảnh
chia tay. Thơ Đường có những cảnh đời trái ngược: kẻ giàu sang coi miếng ăn tầm
thường “rượu, thịt ôi”, kẻ nghèo hèn đói rét “xương chết buốt”. Có tiếng ca bi phẫn
bên bàn rượu và cũng có hồn thơ khóc than cho cảnh loạn ly máu đổ xương rơi. Thơ
Đường có cảnh tiễn biệt của tình bạn thâm giao, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình –
khi có người ra trận – cảnh tiễn đưa trên bến sông hay thương nhớ đợi chờ bên khung
cửa. Thơ Đường có hành động anh hùng hiệp khách lại có nước mắt chàng Tư Mã vì
tiếng đàn kĩ nữ mà khóc than số phận, thơ Đường có thế giới kỳ lạ của thần tiên thì
cũng có những tủi nhục của người bán thân, nhặt thóc rơi, phu kéo xe trong trời nắng.
Thơ Đường có cái đẹp bi hùng lại có cái đẹp tao nhã, chất liệu cuộc sống được thể
hiện trong thơ ca rất phong phú nhưng không thừa thãi. Đôi khi lại là nét chấm phá
như bức tranh thủy mặc mà vẫn mang một hồn thơ lai láng. Tuy thơ Đường vẫn bị gò
bó trong khuôn khổ nhưng ý tình lại toát lên mạnh mẽ từ phong cảnh diễm lệ hùng
tráng cho đến những cảnh bi thương sầu hận đều làm rung động lòng người.
Trong “Diện mạo thơ Đường”, tác giả Lê Đức Niệm có nhận xét: “Những bài
thơ Đường sử dụng đề tài hết sức rộng rãi, đề tài xã hội, thiên nhiên, lịch sử, cá nhân,
đề tài chiến tranh, đề tài cuộc sống con người xã hội. Ngòi bút thi nhân đã len sâu vào
tất cả mọi nơi, xung phá vào chốn cung đình nắm vững như đi vào giữa quần chúng
nhân dân”.
“Khen rằng: Giá đáng Thịnh Đường, Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!”
(Nguyễn Du). Đúng thế, khi nói đến thơ Đường là người ta không quên nhắc đến thời
Thịnh Đường, thời đại hoàng kim của thơ Đường, thời kỳ có nhiều trường phái với
nhiều tác giả, tác phẩm thơ ca nổi tiếng còn lưu lại đến ngày nay và mãi mãi mai sau.
Đề tài trong thơ Đường có những nội dung đa dạng và phong phú, với nhiều hình
thức diễn đạt phóng khoáng từ những đề tài về an nhàn ẩn dật, vui thú điền viên, tả
cảnh thiên nhiên, đến những bài thơ nói về cung đình, biên tái, chiến chinh, những đề
tài liên quan đến xã hội, cảnh nghèo đói áp bức, nỗi bất công của phụ nữ, những bài
thơ tâm tình, từ tình bè bạn thiên nhiên, đến tình yêu nam nữ, rồi những đề tài vịnh
sử, hoặc những bài thơ mang hương vị Thiền…
Dựa trên phạm vi đề tài được nhà thơ phản ánh, trong “Đường thi tuyển dịch”,
tác giả Lê Nguyễn Lưu đã chia thơ Đường ra làm các nhóm là: Cung đình, Nhàn dật,
Điền viên sơn thủy, Biên tái, Xã hội, Tâm tình, Vịnh sử [33, tr. 42-48]. Chia ra như
vậy nhưng không nhất thiết là mỗi nhà thơ chỉ có mặt trong một thi phái. Nhiều tác
giả đã thành công trong nhiều đề tài khác nhau. Lí Bạch, Đỗ Phủ là một ví dụ: hầu
như ở trường phái nào, hai tác giả này cũng có mặt và thành công.
● Trường phái
Để phản ánh hiện thực xã hội phong phú muôn màu muôn vẻ đó, thơ ca đời
Đường xuất hiện nhiều trường phái, phong cách và phát triển một cách rầm rộ, nhiều
tác giả, tác phẩm nổi tiếng ở thời kỳ này được đời sau truyền tụng và ca ngợi. Căn cứ
vào đề tài sáng tác, các nhà văn sử học Trung Quốc đã chia thơ Đường thành các
trường phái sau:
- Trường phái Điền viên sơn thủy: Phái Điền viên sơn thủy còn được gọi là
phái “Vương – Mạnh” bởi vì hai thi nhân tiêu biểu của phái này đó là Mạnh Hạo
Nhiên (689 – 740) và Vương Duy (701 – 761). Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ sống gần
gũi với với cảnh thôn quê lặng lẽ, bình dị. Hình ảnh thiên nhiên nơi thôn dã trong thơ
ông được miêu tả đẹp đẽ biết bao. Đó là cảnh thanh nhàn êm ả của làng quê, cảnh
núi sông hùng vĩ và tráng lệ… Người thứ hai đó là Vương Duy tự Ma Cật, tuy suốt
đời làm quan nhưng ông thường sống như một ẩn sĩ, là người sùng tín đạo Phật, thơ
mang đậm ý vị thiền nên được mọi người tôn vinh là Thi Phật. Ông là một người rất
đa tài, không những nổi tiếng về thơ mà còn am hiểu về âm nhạc, có tài thư pháp và
là một danh họa. Khi nhận xét về Vương Duy, Tô Thức đời Tống cho rằng: “Thi
trung hữu họa, họa trung hữu thi” (Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa, xem họa
Ma Cật thấy trong họa có thơ).
- Trường phái Biên tái: Phái Biên Tái còn được gọi là phái “Cao – Sầm”, đó là
Cao Thích (702 – 765) và Sầm Tham (716 – 770). Thơ của Cao Thích mang đậm chất
trữ tình hào phóng nhưng lại khẳng khái hiên ngang, trong khi đó thơ của Sầm Tham
thì mỹ lệ huyền ảo, âm điệu dồn dập vút cao. Ngoài ra còn có một số tác giả cũng góp
phần quan trọng cho thi phái này như: Vương Xương Linh (698? – 757) và Lí Kỳ
(690 – 751).
- Trường phái lãng mạn: Một trong những cây đại thụ lớn của phái này không
ai khác là Lí Bạch (701 – 762). Thơ của ông kết hợp hài hòa giữa tính hiện thực và
tính lãng mạn. Tuy nhiên, tính hiện thực trong thơ Lí Bạch không bằng Đỗ Phủ và
Bạch Cư Dị nhưng thơ ca lãng mạn có nội dung tích cực của ông lại vượt trội hơn.
Người đời tôn ông là “Thi tiên” (ông tiên làm thơ) cũng không có gì là quá. Trong
thơ ông, ý, cảnh, tình hòa quyện vào nhau, vừa diễm lệ, kỳ vĩ; vừa mênh mông bát
ngát. Tính cuồng phong, hùng tráng, diễm lệ, phiêu dật, trầm thống đều có ở trong
thơ của ông. Đúng như lời khen của Đỗ Phủ: “Lí Bạch thơ không ai địch nổi, siêu
nhân ý khác thường” [17, tr. 17].
- Trường phái hiện thực: Một kiện tướng của phái hiện thực trong thời kỳ này
là Đỗ Phủ (712 – 770). Theo Nguyễn Văn Đường và Hoàng Dân: “Nếu Lí Bạch là
nhà thơ lãng mạn vĩ đại (Thi tiên) thì Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại – Thi sử thi
thánh – ông thánh làm thơ” [9, tr. 242]. Đỗ Phủ để lại cho đời gần 1.500 bài thơ, trầm
uất buồn đau, nhưng sáng ngời tinh thần nhân ái bao la. Thơ ông là bức tranh phơi
bày hiện thực xã hội phong kiến đen tối, phơi bày cuộc sống khốn cùng của tầng lớp
mang thân phận “con ong, cái kiến”.
Những ngòi bút hướng theo trường phái này còn có Nguyên Kết (719-772), Cổ
Huống (725-816). Về sau, người kế tục xứng đáng và xuất sắc nhất là Bạch Cư Dị
(772-846), họ đã góp phần đưa thi ca hiện thực lúc bấy giờ lên đỉnh cao, mặc dù
trường phái hiện thực khai sinh muộn hơn so với các trường phái khác.
Với những thành tựu đạt được từ thực tế sáng tác đã quy tụ các trường phái thơ
đời Đường thành hai trường phái lớn, có ảnh hưởng sâu rộng nhất và có những thành
tựu lớn nhất. Đó là trường phái lãng mạn đại biểu là Lí Bạch và trường phái hiện thực
tiêu biểu là Đỗ Phủ đều đem thiên tài thơ ca riêng của mình, sự tu dưỡng nghệ thuật
rộng lớn và tinh tế của mình, tình yêu với tổ quốc nhân dân, cũng như sự vận dụng
những phương pháp sáng tác nghệ thuật khác nhau, xây dựng những phong cách nghệ
thuật của riêng mình để phản ánh thời đại và biến động qua các mặt. Sự sáng tạo của
họ đã cho chúng ta biết bao kiệt tác khác nhau, đưa nghệ thuật thơ ca lãng mạn và
hiện thực lên đỉnh cao. Họ xứng đáng là những đại biểu kiệt xuất nhất của hai trường
phái đó trong lịch sử thơ ca cổ điển Trung Quốc.
Từ những nhận xét trên, có thể thấy thơ Đường phong phú về đề tài, nổi bật và
tập trung nhất vào hai khuynh hướng sáng tác là: hiện thực và lãng mạn. Như một giá
trị lịch sử văn học bất biến, dù phải trải qua bao thử thách, bao biến cố của thời đại,
nhưng hai khuynh hướng ấy vẫn trường tồn mãi mãi. Nó là kết quả của một quá trình
lĩnh hội những tinh hoa rực rỡ của đời Đường mà thi ca cổ trước đó chưa bao giờ đạt
đến được. Hiện thực và lãng mạn là hai bộ phận thống nhất trong một chỉnh thể của
thi ca đời Đường góp phần cống hiến to lớn cho văn học Trung Quốc.
2.2. THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG
2.2.1. Thi pháp và thi pháp học
Việc nghiên cứu về thi pháp ở nước ta trong những năm gần đây đang được
nhiều nhà khoa học quan tâm. Trước đây, do những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử -
xã hội, đối với bộ môn văn học, các nhà nghiên cứu chưa quan tâm nhiều đến hình
thức của tác phẩm mà còn chú trọng vào khía cạnh nội dung tư tưởng. Một tác phẩm
văn học, nội dung và hình thức không thể tách rời nhau vì “nội dung” chỉ có giá trị
khi tồn tại trong một hình thức nhất định và “hình thức” chỉ thực sự là hình thức khi
biểu đạt một nội dung.
Trong Lý luận và văn học ở mục một số vấn đề về thi pháp học, GS. Lê Ngọc
Trà đã định nghĩa: “Thi pháp học là một lĩnh vực của khoa văn học, nghiên cứu hệ
thống các phương tiện, cách thể hiện và tổ chức ý thức nghệ thuật trong sáng tạo văn
chương.
…Đối tượng nghiên cứu đầu tiên của thi pháp học các yếu tố và cấu trúc của
tác phẩm văn học như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật, kết cấu và chủ thể nghệ thuật.
Lớp yếu tố thứ nhất đó là ngôn từ nghệ thuật.
…Lớp thứ hai là thế giới nghệ thuật bao gồm nhân vật, cốt truyện và các chi
tiết được mô tả, thời gian và không gian nghệ thuật.
…Tiếp đó thi pháp học khảo sát kết cấu của tác phẩm… Cuối cùng thi pháp
học có nhiêm vụ nghiên cứu phương pháp nghệ thuật và phong cách của nhà văn.
… Thi pháp học chia ra hai bộ phận chủ yếu: thi pháp học lý luận và thi pháp
học lịch sử” [67, tr. 142-145].
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, mục “Thi pháp học và thi pháp” (Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) định nghĩa:
“Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức hệ thống, phương thức
phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học.
Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ
thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mỹ, chiều sâu
phản ánh của sáng tạo nghệ thuật.
Xét các chỉnh thể văn học mang thi pháp có thể nói tới thi pháp tác phẩm cụ
thể, thi pháp sáng tác của một nhà văn, thi pháp một trào lưu, thi pháp văn học dân
tộc, thi pháp văn học một thời đại, thời kỳ lịch sử.
Xét các phương tiện, phương thức nghệ thuật đã được chia tách, có thể nói đến
thi pháp của thể loại, thi pháp của phương pháp, thi pháp của phong cách, thi pháp
kết cấu, thi pháp không gian, thời gian, thi pháp ngôn ngữ…
Xét về cách tiếp cận, thi pháp học có ba phạm vi nghiên cứu:
- Thi pháp học đại cương (còn gọi là thi pháp học lý thuyết, thi pháp học hệ thống
hóa hay thi pháp học vĩ mô).
- Thi pháp học chuyên biệt (hay còn gọi là thi pháp học miêu tả vi mô).
- Thi pháp học lịch sử.
… Thi pháp học chuyên biệt tiến hành miêu tả tất cả các phương diện nói trên
(tức thi pháp thể loại, không gian, thời gian, kết cấu, ngôn ngữ, mô típ…) của sáng
tác văn học nhằm xây dựng “mô hình”- hệ thống hóa cá biệt của các thuộc tính tác
động thẫm mỹ. Vấn đề ở đây chính là các tương quan của tất cả các yếu tố nói trên
trong chỉnh thể nghệ thuật.
… Thi pháp học chuyên biệt có thể miêu tả tác phẩm văn học cá biệt cũng như
cụm tác phẩm trong sáng tác của một nhà văn, của một thể loại, một trào lưu văn học
hoặc một thời đại văn học.
Thi pháp học giúp ta công cụ để thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm, cốt cách tư
duy của tác giả cũng như nắm bắt “mã” văn hoá nghệ thuật của các tác giả và các thời
kỳ văn học nghệ thuật, từ đó nâng cao cảm thụ tác phẩm.
Thi pháp học cổ xưa nặng về tính chất qui phạm, cẩm nang. Thi pháp học hiện
đại nặng về phát hiện, miêu tả các ngôn ngữ nghệ thuật đang hình thành và song hành
với sự vận động của văn học”. [14, tr. 206-207].
Từ hai định nghĩa trên cho thấy rằng, dù cách diễn đạt có chỗ khác nhau nhưng
quan niệm của hai cách về thi pháp và thi pháp học căn bản cùng thống nhất ở một số
nét chính:
- Thi pháp là hệ thống các phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình
tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học (hệ thống đó bao gồm: thể loại, kết cấu,
không gian, thời gian, ngôn ngữ).
- Thi pháp học là bộ môn khoa học nghiên cứu hệ thống thi pháp đó.
- Có thể chia thi pháp học thành ba bộ phận chủ yếu. Nhưng khi miêu tả các
phương diện của thi pháp tác phẩm, tác giả, trào lưu, thời đại, dân tộc thì đó là
nhiệm vụ của thi pháp học chuyên biệt.
Tóm lại, theo chúng tôi thì thi pháp tức là hệ thống hình thức nghệ thuật như:
kết cấu của tác phẩm, ngôn từ nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật… mà
nhà văn dùng để biểu hiện nội dung của tác phẩm văn học thì thi pháp học nghiên
cứu hệ thống hình thức. Do vậy, từ những nhận định trên, chúng tôi sẽ tìm hiểu một
số phương diện về thi pháp thơ Đường.
2.2.2. Các phương diện trong thi pháp thơ Đường
Trong Thi pháp thơ Đường, Nguyễn Thị Bích Hải nhận xét: “Thơ Đường là
“tập đại thành” của thơ cổ điển Trung Quốc, cho nên những phương diện của thi pháp
thơ cổ điển ở đây đều tiêu biểu” [12, tr. 9]. Thi pháp mà chúng ta nghiên cứu để áp
dụng vào giảng dạy ở trường phổ thông thuộc về “Thi pháp chuyên biệt” (hay thi
pháp miêu tả). Từ lý thuyết của thi pháp học đại cương để nghiên cứu thi pháp thơ
Đường, một giai đoạn trong lịch sử thơ của Trung Quốc. Về hình thức, thơ Đường
cũng chịu ảnh hưởng của thời đại, tư tưởng triết học, các loại hình nghệ thuật khác và
các giai đoạn thơ ca trước đó.
Trong cuốn “Hán văn học sử cương yếu”, Lỗ Tấn viết: “Đến đời Đường, văn
xuôi và thơ Trung Quốc có một sự biến đổi lớn”. Sự đột biến này là kết quả của một
quá trình tích lũy lâu dài những kinh nghiệm nghệ thuật của hơn 10 thế kỷ thơ ca đã
đến độ chín muồi. Sự đột biến này thể hiện ở kiểu tư duy nghệ thuật, một hệ thống thi
pháp mới mẻ và độc đáo, tạo nên cái mốc quan trọng trên con đường phát triển của
thơ ca Trung Quốc.
Thi pháp thơ Đường rất phong phú, đa dạng. Với khuôn khổ của đề tài chúng
tôi chỉ trình bày một số yếu tố tiểu biểu trong hệ thống thi pháp thơ Đường qua các
phương diện sau:
- Quan niệm nghệ thuật về con người.
- Không gian nghệ thuật.
- Thời gian nghệ thuật.
- Thể loại và ngôn ngữ.
● Quan niệm nghệ thuật về con người
Trong văn học, con người là chủ thể, là đối tượng và đồng thời là mục đích.
Sáng tác văn học là một hoạt động nhận thức có tính thẫm mĩ, nhiệm vụ của văn học
là phản ánh hiện thực cuộc sống muôn hình vạn trạng nên văn học không thể thiếu
quan niệm về con người. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ xét quan niệm nghệ
thuật về con người trong thơ Đường, tức là quan niệm ở một thời đại thơ ca của một
dân tộc. Đối tượng trung tâm của văn học là con người, cho nên trong hệ thống thi
pháp nó cũng là yếu tố trung tâm so với các yếu tố khác. Trong thơ Đường, có hai
kiểu con người chủ yếu, đó là con người vũ trụ và con người xã hội.
- Con người vũ trụ: Quan điểm về con người trong nghệ thuật với quan niệm
triết học có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Triết học cổ đại Trung Quốc nói riêng
cũng như các dân tộc thời cổ nói chung quan niệm con người được đặt trong mối
tương thông tương hợp với thiên nhiên “Thiên nhân tương dữ”. Con người là một
“tiểu vũ trụ” trong lòng “đại vũ trụ”. Quan niệm đó chi phối toàn bộ các hoạt động,
kể cả hoạt động nghệ thuật lúc bấy giờ và nó tồn tại mãi trong suốt thời phong kiến,
và ngay đến thời hiện đại. Con người xuất hiện trong tư thế vũ trụ, đứng giữa đất trời
“đầu đội trời, chân đạp đất”, hòa hợp đất trời. Con người trong thơ Đường luôn luôn
khát vọng hòa hợp với thiên nhiên, ở giữa đất trời, cảm ứng với đất trời “Tống hữu
nhân” của Lí Bạch, “Đăng Cao” của Đỗ Phủ là một ví dụ tiêu biểu.
Trong con mắt, tình cảm của người nghệ sĩ, thiên nhiên, vạn vật đều hữu tình
vì “vạn vật dữ ngã vi nhất” (Vạn vật với ta là một). Thơ Đường đặc biệt quan tâm thể
hiện quan hệ tương giao, hòa hợp giữa con người với con người. Con người trong thơ
Đường đặc biệt đề cao cái tâm được thể hiện rõ trong đề tài bằng hữu. Thơ Đường
nói nhiều về tình bạn vì đó là thanh khí tự nhiên, tri âm, tri kỷ. Hơn nữa các quan hệ
trong xã hội phong kiến, chỉ có quan hệ tình bạn là bình đẳng, là thuần túy tình cảm,
tự nguyện, khiến con người, thi sĩ bày tỏ tâm sự và thể hiện khát vong tri âm một
cách dễ dàng, cho nên hiếm nhà thơ nào lại không viết về tình bạn. Có thể nói, đến
đời Đường, con người vũ trụ được thể hiện trong thơ ca đã đạt đến trình độ tuyệt vời.
Hình tượng con người vũ trụ thể hiện khát vọng của con người được sống thanh bình,
hòa hợp vào nhịp sống của vũ trụ vô biên.
- Con người xã hội: Thơ Đường khi phản ánh con người mà chủ yếu là tầng
lớp nhân dân thấp cổ bé họng, con người xã hội được phản ánh bằng quan hệ mâu
thuẫn, đối lập gay gắt điều này được thể hiện rất rõ trong bộ phận thơ sáng tác theo
khuynh hướng hiện thực mà tiêu biểu là Đỗ Phủ. Mọi nỗi đau khổ của con người đặc
biệt là con người bất hạnh, đến những bất công xã hội của vua quan phong kiến đều
được các nhà thơ hiện thực phản ánh bằng tất cả tấm lòng nhân đạo, cảm thông.
Tóm lại, hình tượng con người bất hạnh làm cho ta thấy được những bất công
xã hội đồng thời thấy được nỗi đau và tinh thần trách nhiệm của nhà thơ, khơi gợi
lòng nhân ái sự cảm thông và tinh thần trách nhiệm đối với đời. Từ đó ta thấy rằng
con người trong thơ Đường mang tính nhân văn sâu sắc, nó bồi đắp cho tâm hồn ta
những tình cảm cao đẹp, lòng nhân ái, hướng ta về với chân, thiện, mỹ. Đó là sự đóng
góp to lớn của thơ Đường cho Trung Quốc và cả nhân loại.
● Không gian nghệ thuật
Cũng như quan niệm nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật trong thơ
Đường cũng có hai kiểu không gian, đó là: không gian vũ trụ và không gian đời
thường.
- Không gian vũ trụ: “Không gian vũ trụ là nơi tồn tại của con người vũ trụ”
[12, tr. 26]. Từ một điểm trung tâm, con người nhìn ra mọi phía: đông, tây, nam, bắc
và con người là yếu tố trung tâm nên không gian mang tính đối xứng, con người
chính là tâm đối xứng của không gian ấy. “Không gian vũ trụ là hào khí của thơ
Đường nhưng cũng là mối sầu của thơ Đường” [44, tr. 24]. Điều này khiến con người
cảm thấy nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ mênh mông vô tận. Từ đó con người luôn khao
khát chiếm lĩnh không gian mà “Vọng Nhạc” của Đỗ Phủ, “Tĩnh dạ tư” của Lí Bạch
là một mô típ tiêu biểu. Để chiếm lĩnh không gian vũ trụ, con người thường dùng hai
cách, đó là: lên cao và đi xa. Vì vậy không gian vũ trụ trong thơ Đường là không gian
mở. Thi sĩ tạo dựng không gian vũ trụ chính là để đưa không gian nội tâm hòa hợp
cùng thế giới. Sự giao hòa giữa không gian nội tâm và không gian ngoại giới đã cho
ta cảm giác như đang bước vào một thế giới hòa điệu khi bước vào thế giới thơ
Đường. Đúng như lời Trần Đình Sử đã nhận xét: “Không gian trong thơ Đường
tương tự như nghệ thuật tạo vườn của người Trung Quốc, thích tạo cảnh sơn thủy kề
nhau, cây rừng trùng điệp, đỉnh non hiện qua khung cửa, bóng hoa chiếu lên trên
tường, đường núi quanh co, ngoài vườn có vườn, ngoài cảnh có cảnh. Nó cũng tựa
như hội họa và thi pháp Trung Hoa chú trọng phối hợp gần xa, thưa dày, hữu vô, tĩnh
động” [44, tr. 27].
- Không gian đời thường: Trong thơ Đường, con người được phản ánh trong
quan hệ mâu thuẫn đối lập với thế lực áp bức họ và lúc này không gian vũ trụ cũng
nhường chỗ cho không gian đời thường.
Không gian tồn tại của lớp người “thấp cổ bé họng” là không gian đời thường.
Trong không gian ấy đầy nỗi bi ai, con người bị vây bủa, trói buộc. Họ phải đi (hoặc
chạy) trong những thôn xóm, làng mạc, chiến trường. Đây là kiểu không gian xuất
hiện nhiều trong thơ hiện thực. Với tư cách là người đại diện để cất lên tiếng nói của
nhân dân, các thi sĩ đã tái hiện lại những cảnh đời vất vả, tất bật để tồn sinh một cách
khó nhọc, vẽ lại cảnh tiêu điều hiu hắt thê lương trên quê hương bị chiến tranh tàn
phá. Cho nên không gian đời thường rất thực, gần gũi. Thế giới cảnh vật quanh cuộc
đời vất vả đều mang màu sắc u tối, nhợt nhạt thiếu sức sống, các thi nhân miêu tả nó
một cách cụ thể và có khi rất chi tiết.
Qua việc tìm hiểu, chúng ta thấy có sự khác biệt giữa không gian vũ trụ và
không gian đời thường, có điều trong thơ Đường không gian vũ trụ vẫn chiếm ưu thế
hơn. Không gian nghệ thuật của thơ Đường đã đạt đến mức hoàn mĩ, tiêu biểu cho
không gian nghệ thuật thơ Trung Quốc.
● Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật của Thơ Đường là sự đúc kết những tinh hoa của thời
gian trong thơ ca Trung Quốc. Theo Trần Đình Sử: “Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận
về thế giới và con người thì thời gian, không gian nghệ thuật chính là hình thức để
con người cảm thụ thế giới và con người. Bởi vì người ta không thể cảm thụ bất cứ
cái gì ngoài thời gian và không gian” [44, tr. 6].
Các nhà thơ, nhà văn xây dựng con người trong tác phẩm bằng hình tượng, cho
nên thời gian trong tác phẩm cũng sẽ là thời gian của hình tượng. Ở thơ Đường chúng
ta cảm thấy đầy ắp thời gian. Khi nghiên cứu về thời gian, Trần Đình Sử chia thời
gian nghệ thuật trong thơ Đường làm năm phạm trù, đó là: thời gian sinh mệnh cá thể
, thời gian vũ trụ - tự nhiên, thời gian lịch sử, thời gian sinh, thời gian siêu nhiên.
Cũng như quan niệm về con người nghệ thuật, không gian nghệ thuật, chúng ta có thể
chia năm phạm trù về thời gian đó tương ứng với hai kiểu thời gian chính trong thơ
Đường đó là: thời gian vũ trụ và thời gian đời thường.
- Thời gian vũ trụ: Nói đến thời gian vũ trụ tức là nói đến thời gian trong mối
quan hệ với không gian. Khi quan niệm không gian, chúng ta hình dung về nó rõ hơn
vì không gian là cái có thể nhìn thấy được, còn thời gian thì vô hình nhưng thời gian
vũ trụ trong thơ Đường luôn có mối quan hệ biện chứng với không gian, người ta
dùng không gian để thể hiện thời gian và ngược lại. Trong thơ Đường có rất nhiều địa
danh và đằng sau địa danh ấy vẫn thấy sự tiềm ẩn, bóng dáng của thời gian. Với tư
cách là thời gian vũ trụ, thời gian nghệ thuật, thơ Đường ít chịu đóng khung trong
thời hiện tại mà luôn có xu hướng vận hành trong vòng lưu chuyển của thời gian,
ngược về quá khứ, xuôi đến hiện tại (rộng mở), nhàn nhã khoan thai. Ta thấy rằng,
trong thơ luôn ưu tiên cho quá khứ và chủ yếu được thể hiện dưới hai dạng: thời gian
hoài cổ và thời gian ký ức. Vì vậy mà có rất nhiều bài thơ hoài cổ: Bạch đế hoài cổ,
Tây Thi vịnh, Xích Bích hoài cổ... Ẩn chứa trong thời gian hoài cổ là niềm xót
thương cho hiện tại và lo lắng cho tương lai. “hoài cổ” không chỉ thể hiện trong văn
học mà còn thể hiện trong phong tục tập của người phương Đông như việc thờ cúng
tổ tiên, tức là nhớ về quá khứ một phần do lòng biết ơn đối với tổ tiên ông bà, cha mẹ
và một phần là muốn nhắc nhỡ con cháu đời sau luôn nhớ đến và kế thừa những điều
tốt đẹp của thế hệ đi trước. Chính điều này đã làm cho thời gian vũ trụ của thơ Đường
mang tính nhân văn.
- Thời gian đời thường: Khi phản ánh đời sống của con người trong xã hội,
thời gian nghệ thuật là thời gian đời thường. Thời gian đời thường chủ yếu là thời
hiện tại, có tính cụ thể. Ở đây người ta không kể về cái đã thuộc về quá khứ xa xăm
mà kể về cái đang diễn ra rất thực, rất đời thường, chính vì thế mà thời gian đời
thường gấp gáp, tất bật và đầy tính ký sự.
“Vào cửa nghe kêu gào
Con thơ đói vừa mất”
(Đỗ Phủ - Tự kinh phó Phụng tiên...)
Khi nghiên cứu, chúng ta thấy rằng, trong hệ thống thế giới hình tượng, thời
gian nghệ thuật giữ một vai trò quan trọng, nó có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố
khác. Trong thơ Đường, thời gian vũ trụ và thời gian đời thường không chỉ tiêu biểu
cho thời gian nghệ thuật trong thơ cổ điển Trung Quốc mà còn ảnh hưởng sâu đậm
trong những sáng tác thơ ca chữ Hán và chữ Nôm của Việt Nam.
● Thể loại và ngôn ngữ
- Thể loại: Về phương diện thể thơ, các nhà thơ đời Đường sử dụng hai thể thơ
chính là cổ thể và kim thể.
+ Thơ cổ thể: Hai dạng của thơ cổ thể là cổ phong và nhạc phủ.
Cổ phong thường là thơ 5 chữ hoặc 7 chữ. Còn nhạc phủ là tên chung của
nhiều thể khác nhau và chúng thường được dùng để phổ nhạc.
Thơ cổ thể không có luật lệ nhất định - số câu trong bài không hạn chế, số chữ
trong câu không bị bó buộc. Không chỉ thế, về niêm luật và đối ngẫu ở thể thơ này
cũng không qui định nghiêm ngặt nên gần gũi với đời thường. Ví dụ các bài: Tương
tiến tửu – Lí Bạch, Thạch hào lại – Đỗ Phủ, Tỳ bà hành – Bạch Cư Dị.
+ Thơ kim thể: Thơ kim thể đã có từ trước và đến đời Đường đạt đến thành tựu
đặc sắc, thơ kim thể có hai dạng chính là luật thi và tuyệt cú.
Luật thi gồm thất ngôn bát cú (thất luật) và ngũ ngôn bát cú (ngũ luật).
Tuyệt cú (tứ tuyệt), mỗi bài thơ chỉ có 4 câu, gồm Thất ngôn tuyệt cú (thất
tuyệt). Thất ngôn tuyệt cú thực chất là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi bốn câu
đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật
đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6 và Ngũ ngôn tuyệt cú (ngũ tuyệt). Ngũ ngôn tuyệt cú thực
chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn
giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần. Ví dụ: bài Ô ly hạng – Lưu Vũ Tích là bài
Thất ngôn tuyệt cú, Xuân hiểu – Mạnh Hạo Nhiên là bài Ngũ ngôn tuyệt cú.
Cả luật thi và tuyệt cú đều là thơ cách luật. Tuyệt cú ra đời sau luật thi, nó có
quan hệ mật thiết với luật thi. Niêm luật của thơ tuyệt cú tương ứng với luật thi.
Sự qui định của luật thi rất chặt chẽ, không được vi phạm, cụ thể như sau: Một
bài thơ phải đạt sáu yêu cầu: niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục.
Niêm: là qui tắc phối thanh theo chiều dọc làm các liên thơ kết với nhau. Trong
một bài thơ có 4 liên, các liên thơ đi với nhau từng đôi một (câu 1 liên với câu 2, câu
3 liên với câu 4, câu 5 liên với câu 6, câu 7 liên với câu 8). Niêm làm cho các liên thơ
dính lại căn cứ từ chữ thứ 2 của mỗi câu theo qui định: bằng niêm với bằng, trắc
niêm với trắc. Câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu 7, câu
8 niêm với câu 1. Qui định này làm cho bài thơ dính lại với nhau thành một vòng
khép kín, tạo nên một cấu trúc nội tại vững chắc.
Luật: Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ
thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu
huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Các luật của thơ Đường là Luật bằng trắc. Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng
thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi
là bài có "luật trắc". Trong từng câu phải hòa hợp, cân xứng các thanh bằng trắc, cứ
một câu 4 trắc 3 bằng lại đến một câu 4 bằng 3 trắc... cứ thế luân phiên xen kẽ nhau
sao cho thanh điệu được cân bằng. Luật thi yêu cầu “nhị , tứ, lục phân minh” các chữ
2, 4, 6 phải nhất định đúng thanh điệu, nếu thay đổi thì thanh điệu sẽ phá vỡ làm mất
đi sự hài hòa cân đối của câu thơ. Do đó chữ thứ 2 và 6 cùng thanh, cụ thể là: nếu chữ
thứ 4 là bằng thì chữ thứ 2 và 6 sẽ là trắc, còn ngược lại nếu chữ thứ 4 là trắc thì chữ
2 và 6 sẽ là bằng. Trong đó chữ thứ 4 là tâm đối xứng. Luật phối thanh bảo đảm bằng
trắc cân bằng, âm điệu hài hòa. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này
thì được gọi "thất luật".
Vận (vần): Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống
nhau, dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng
tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một
bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì
được gọi "thất vận". Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính",
những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Một bài thơ bát cú có 5 vần
(tuyệt cú 2 hoặc 3 vần). Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các
ngoại lệ.
Đối: Cũng là một nguyên tắc bắt buộc của luật thi. Với thơ Đường luật thì đối
thơ cũng là yếu tố bắt buộc. Phải đối liên (liên 2: câu 3, 4 còn liên 3: câu 5, 6 - tức là
câu 4 đối với câu 3, câu 6 đối với câu 5), đối cả thanh (bằng đối với trắc, trắc đối với
bằng), đối từ (từ loại nào đối với từ loại đó), đối ý. Đó là 4 yêu cầu phải được tuân
thủ nghiêm ngặt trong một bài luật thi.
Tiết tấu (cách ngắt nhịp): Tiết tấu trong thơ Đường nhìn chung ở câu thơ 7 chữ
và 5 chữ đều là chẵn trước, lẻ sau (4/3 hoặc 2/2/3 ở câu thơ 7 chữ và 2/3 ở câu thơ 5
chữ). Cách ngắt nhịp theo chẵn/lẻ là cố định tạo nên sự hài hòa.
Bố cục: Có ba cách chủ yếu về chia bố cục của một bài luật thi cụ thể như sau:
- Chia làm 4 phần: đề, thực, luận và kết. Cứ mỗi “liên thơ” là một phần.
+ Hai câu đầu gọi là đề, câu thứ nhất là phá đề (mở ý đầu của bài ra). Câu thứ hai là
thừa đề (tiếp ý của câu thứ nhất để chuyển vào thân bài).
+ Câu 3, 4 gọi là thực (giải thích rõ ý của phần đề).
+ Câu 5, 6 gọi là phần luận (phát triển ý của của phần đề).
+ Hai câu cuối gọi là kết (kết thúc ý của toàn bài).
Ở nước ta cũng chia bố cục theo cách này, và hiện nay ở trường phổ thông, khi
giảng dạy một bài luật thi, giáo viên chủ yếu vẫn chia bố cục theo cách này.
- Chia làm 3 phần: (2/4/2). Cách chia này tương đối mới, gần với cách chia bố
cục của một văn bản hiện đại: có 3 phần (mở bài, thân bài và kết bài).
- Cách chia làm 2 phần (4/4). Bốn câu đầu tả cảnh và trong cảnh có tình. Trên
cái nền phong cảnh đã tạo trước đó, bốn câu cuối thể hiện tình cảm.
Chia bố cục theo ba cách trên đều có những ưu điểm riêng của nó, nhưng việc
chia theo bố cục đều xuất hiện ở thời sau còn ở thời Đường, điều mà các nhà thơ
quan tâm là sao cho bài thơ đạt được tính toàn vẹn và theo sự vận hành đi từ ngoại
cảnh đến nội tâm (cảm xúc trước cảnh mà nảy sinh tình).
Cả luật thi và tuyệt cú là thơ trữ tình nội tâm, nên khi tâm tình đã được bộc
bạch thì bài thơ kết thúc.
- Ngôn ngữ: Khi nói về ngôn ngữ thơ Đường, trong “Đường thi tuyển dịch”,
tác giả Lê Nguyễn Lưu đã nhận xét rằng “Ngôn ngữ thơ Đường kết tinh được nhiều
cái biểu cảm mà còn có khả năng biểu ý, kết hợp cảm quan với nhận thức truyền
thống và cách tân, kế thừa và sáng tạo. Ngôn ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc ấy là do
các biện pháp tu từ tạo ra. Nhiều khi các biện pháp tu từ xen kẽ chồng chéo lên nhau,
làm bật lên cái “tứ” sâu xa như người ta vẫn thường nói “Ý tại ngôn ngoại” (ý ở
ngoài lời). Bài thơ nhất là tứ tuyệt và bát cú rất ngắn gọn, sao cho trong một số câu
nhất định, một số từ có hạn phải diễn đạt hết cảm nghĩ của tác giả… Cho nên nó rất
cô đọng và hàm súc: lượng thông tin của nó tất nhiên không chỉ nằm trong ngữ nghĩa.
Bài thơ như khung cửa sổ mở ra trước vườn hoa, người đọc qua đó để ngắm nhìn
cảnh vật bên ngoài. Vì thế các biện pháp tỉ dụ, ẩn dụ được vận dụng phổ biến và rất
đa dạng.
Cách dùng điển cố trong thơ Đường – một hình thức khác của ẩn dụ – cũng
uyển chuyển, linh hoạt, trở thành phương thức biểu đạt tư tưởng hàm súc nhất. Dùng
điển cố một cách tự nhiên làm cho người đọc dù không diễn đạt nhưng nắm được
điển cố thì giúp cho sự lĩnh hội, cảm thụ thêm sâu sắc mà thôi, chứ không lấy lời làm
hại ý. Hơn nữa lượng điển cố trong thơ Đường chẳng có bao nhiêu so với thơ các đời
sau. Chúng ta nên phân biệt rằng, ngày nay khi đọc thơ Đường, gặp phải một số chi
tiết cần có chú giải mới hiểu được, nhưng đối với đương thời chúng chỉ là vấn đề thời
sự, chưa trở thành điển cố hoặc chúng được rút ra từ những truyện xưa tích cũ đã phổ
biến trong dân gian như: lầu Hoàng Hạc, đài Anh Vũ, đài Phụng Hoàng, nàng Tây
Thi, Chiêu Quân… Dù sao chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, các nhà thơ đời
Đường đã vận dụng những điển cố để hỗ trợ cho sự biểu đạt và rồi đến lượt nó, thơ
Đường cũng sẽ trở thành kho tàng điển cố phong phú cho nhân văn thi sĩ đời sau.
Một biện pháp nghệ thuật của ngôn ngữ nữa đáng kể là phép đảo trang. Vị trí
các thành phần trong câu văn cổ vốn đã khá linh hoạt, trật tự của từ, góp phần quyết
định ý nghĩa của câu. Nhà thơ lại dùng phép đảo trang để gia thêm một tầng hình ảnh,
một tầng cảm xúc” [33, tr. 73-75].
Trong “Thi pháp thơ Đường”, tác giả Nguyễn Thị Bích Hải nhận xét: “Ngôn
ngữ thơ Đường cũng ở trong hệ thống thi pháp thơ Đường. Nó cũng được tập hợp
theo hai “trường” với sự khu biệt khá rõ… thể hiện ở cả các cấp độ chính của ngôn
ngữ: ngữ pháp, từ vựng và ngữ âm. Về ngữ pháp, trong bộ phận thơ thể hiện con
người vũ trụ… thường thiên về loại câu chỉ quan hệ.Đó là loại câu phán đoán, suy lý,
và thường là câu phức hợp với lối ghép chính – phụ… Nhưng bộ phận thơ hiện thực
thì ngược lại… Về từ loại, trong thơ thể hiện con người vũ trụ… danh từ chiếm tỷ lệ
cao hơn. Trong khi đó trong thơ hiện thực…động từ, trạng từ chiếm tỷ lệ cao hơn…
Về ngữ âm… thơ thể hiện con ngườ vũ trụ… thường dùng thơ kim thể… âm điệu thơ
êm dịu, hài hòa... Còn trong thơ cổ thể…được dùng để phản ánh xã hội thì ngữ âm lại
phong phú, linh hoạt và nhiều thanh trắc.” [12, tr. 56-61].
Qua sự nhận xét của các tác giả trên, ta thấy thơ Đường có những đặc trưng nổi
bật như sau:
Ngôn ngữ thơ Đường là ngôn ngữ tinh luyện, có tính khái quát cao, giàu
hình ảnh và cảm xúc: Số chữ được dùng rất ít (chỉ 20 chữ ở thơ ngũ ngôn tứ truyệt
và 56 chữ ở thơ thất ngôn bát cú) đã làm cho thơ Đường không thể sử dụng tùy tiện.
Đương thời, nhà thơ Đỗ Phủ từng nói: “Tự bất kinh nhân, tử bất hưu” (Chữ dùng
chưa làm cho người kinh hồn thì chết chưa yên), quả không sai.
Biện pháp đảo trang và tĩnh lược thành phần câu thơ: Do sự qui định chặt
chẽ của vần, luật, nhất là để nhấn mạnh ý muốn nói, cấu trúc câu thơ có hiện tượng
đảo thành phần thi pháp (đảo trang).
Ví dụ:
“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm”
(Thu hứng – Đỗ Phủ)
Dịch nghĩa: “Hoa cúc nở đã hai lần [làm] tuôn rơi nước mắt ngày cũ”, con
thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ.
Lẽ ra, theo cấu trúc bình thường câu trên sẽ là: Hai lần (nhà thơ) rơi nước mắt
(vì) thấy hoa cúc nở.
Hay trong bài thơ “Sơn cư thu minh” của Vương Duy có câu:
“…Trúc huyên qui cán nữ
Liên động hạ ngư chu…”
(Vương Duy, Sơn cư thu minh)
Dịch thơ:
“…Giặt về cô gái tre rung động
Thuyền ghé anh chài sen lắc lay …”
(Trần Nhất Lang dịch)
Theo cấu trúc thuận sẽ là: “Cán nữ qui huyên trúc, ngư chu hạ động liên”; mấy
động từ: qui, huyên, hạ động tạo nên nét linh hoạt cho bức tranh.
Một điểm nổi bật nhất của thơ Đường là sự vận dụng rộng rãi, triệt để thủ pháp
tĩnh lược. Bất cứ từ loại nào, dù chúng đảm nhiệm chức năng gì trong câu đều có thể
bị tĩnh lược. Điều hấp dẫn là sự bỏ bớt ấy không làm cho câu thơ ít nghĩa, tối nghĩa
mà làm cho nó thêm thâm thúy hơn mà thôi.
Như vậy, biện pháp đảo trang và tĩnh lược làm cho câu thơ, đặc biệt là những
bài bát cú và tuyệt cú càng mang tính chất hàm súc nổi bật, vừa khái quát vừa tăng
giá trị biểu cảm.
Ngôn ngữ thơ Đường được tập hợp theo hai “trường”: Đó là mang tính đặc
trưng của hai khuynh hướng sáng tác (khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng hiện
thực) được tập hợp thành hai hệ thống.
Hệ thống thơ thể hiện con người vũ trụ, ngôn ngữ mang tính khái quát, cổ kính
trang nhã, nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng, gợi liên tưởng. Ngữ âm hài hoà, thể
hiện tâm tình sâu lắng, suy tư.
Hệ thống thơ phản ánh hiện thực, ngôn ngữ mang tính cụ thể, tỷ lệ động từ, câu
trần thuật cao, ngữ âm sôi động, nhiều thanh trắc.
____________________
Chương 3: ỨNG DỤNG THI PHÁP HỌC VÀO GIẢNG DẠY
THƠ ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
3.1. VIỆC DẠY VÀ HỌC THƠ ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY
Thơ Đường là tinh hoa của văn hóa thế giới và là niềm tự hào của nền văn hóa
Phương Đông. Thơ Đường phát triển rực rỡ ở Trung quốc từ thế kỷ thứ VII đến cuối
thế kỷ thứ IX với khoảng 48.000 bài thơ của 2.300 nhà thơ. Trải qua 14 thế kỷ với
biết bao thăng trầm, biến cố của lịch sử; đến nay thơ Đường đã ảnh hưởng khá sâu
rộng đến nền văn hóa các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước lân cận trong đó có
Việt Nam. Có 10 bài thơ Đường của 7 tác giả tiếng được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa
vào chương trình dạy và học ở trường phổ thông.
Nhằm tìm hiểu và đánh giá chính xác thực trạng việc dạy và học thơ Đường ở
trường phổ thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, chúng tôi đã tiến
hành khảo sát, điều tra và phỏng vấn 557 đối tượng là giáo viên và học sinh của 21
trường thuộc 6 quận trong địa bàn thành phố.
Cụ thể:
- 77 giáo viên dạy Văn thuộc 12 trường trung học cơ sở. Trong đó, quận 6 (10
trường), quận 3 (2 trường) và 1 Phòng Giáo dục. Các trường ở quận 6: Trường trung
học cơ sở Phú Định, Nguyễn Văn Luông, Đoàn Kết, Phan Bội Châu, Nguyễn Đình
Chiểu, Bình Tây, Hậu Giang, Lam Sơn, Phạm Đình Hổ, Văn Thân; Phòng Giáo dục
quận 6. Các trường ở quận 3: Trường trung học cơ sở Hai Bà Trưng và Lê Quí Đôn.
- 38 giáo viên dạy Văn thuộc 5 trường trung học phổ thông. Trong đó, quận 3
(2 trường), quận 1 (1 trường), quận 10 (1 trường) và quận 4 (1 trường). Các trường
trung học phổ thông Lê Quí Đôn và Nguyễn Thị Minh Khai (quận 3); Lê Thánh Tôn
(quận 1), Hùng Vương (quận 10) và Nguyễn Trãi (quận 4).
- 246 học sinh trung học cơ sở trường Hai Bà Trưng (quận 3) và Lam Sơn
(quận 6).
- 196 học sinh trung học phổ thông thuộc trường Lê Quí Đôn (quận 3) và Hùng
Vương (quận 5).
Chúng tôi áp dụng phương pháp điều tra nhanh có sự tham gia của 115 giáo
viên và 442 học sinh ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông trên địa
bàn Tp.HCM thông qua 4 mẫu bảng câu hỏi. Học sinh tham gia điều tra tương đối
toàn diện, ngẫu nhiên; gồm học sinh thuộc các trường công lập, bán công và dân lập
với trình độ giỏi, khá, trung bình và yếu. Kết quả tổng hợp, phân tích và đánh giá từ
các phiếu điều tra sẽ giúp phản ánh khách quan thực tế việc dạy và học thơ Đường ở
trường trung học cơ sở và trung học phổ thông hiện nay dưới góc độ phương pháp,
chuyên môn về phía người học (học sinh) lẫn người dạy (giáo viên) hiện nay.
3.1.1. Những thuận lợi, khó khăn của giáo viên và học sinh khi tiếp cận
thơ Đường
Thuận lợi
Thơ Đường với đặc điểm nổi bật là ngắn gọn, súc tích, giàu cảm xúc nên dễ
thuộc, dễ nhớ. Nội dung thơ Đường chan chứa tính nhân văn, những rung động sâu
lắng đối với thiên nhiên, tình yêu, tình bạn; hình ảnh con người trong thơ rất gần gũi
và quen thuộc với hình ảnh con người trong thơ văn Việt Nam. Chính những điều đó
đã tạo điều kiện thuận lợi cho các em học sinh yêu thích, dễ tiếp cận và cảm thụ thơ
Đường.
Mặc khác, sách giáo khoa có trích dẫn đầy đủ bản phiên âm, dịch nghĩa, dịch
thơ; giới thiệu về tác giả nên học sinh và giáo viên có thể tham khảo, tìm hiểu văn
bản trước khi lên lớp. Việc giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông cũng giúp ích
rất nhiều cho học sinh trong việc cảm thụ văn học trong nước. Có 89,6% giáo viên
cùng đồng tình với ý kiến trên.
Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, việc học và dạy thơ Đường ở trường phổ thông
cũng gặp rất nhiều khó khăn về phía người học và người dạy.
Về phía người học
Nội dung thơ Đường thường có nhiều điển tích, điển cố, từ ngữ cổ. Niêm luật
thơ Đường khó nên học sinh không cảm thấy hấp dẫn. Thơ Đường hàm súc, cô đọng
nên đôi lúc gây khó hiểu cho học sinh... Chính những nguyên nhân trên không thu hút
sự quan tâm của học sinh khi tiếp cận. Mặt khác, bản phiên âm và bản dịch thơ nhiều
khi chưa sát nghĩa, gây lúng túng cho cả học sinh và giáo viên khi học và dạy thơ
Đường.
- Học sinh ít hứng thú, chưa có tâm thế khi học tập. Qua trao đổi với giáo viên,
nhiều người cho rằng học sinh hiện nay thiếu trí tưởng tượng, lạ lẫm không hứng thú,
khó cảm thụ, đôi lúc cảm thấy xa lạ với lối tư duy trong thơ cổ nói chung cũng như
về thơ Đường. Khi lý giải điều này, có nhiều nguyên nhân:
Một phần chính là do khoảng cách về không gian, thời gian lịch sử và một
phần là do khoảng cách về tâm lí học. Nhịp sống hiện đại với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, công nghệ thông tin đã thu hút sự quan tâm của thế hệ trẻ trong nhà
trường, khiến họ trở nên bận rộn hơn và ít hứng thú trước những tác phẩm văn học
của quá khứ.
Học sinh chưa vượt qua được “rào chắn” của từ ngữ, vì thế chưa thực sự hiểu
và rung cảm với bài học. Lẽ đương nhiên muốn lĩnh hội được nội dung tác phẩm,
trước hết phải hiểu cho được lớp từ ngữ vốn là thứ công cụ vô cùng quan trọng để
nhà văn thể hiện được tư tưởng và tình cảm của mình. Các em còn chưa hiểu thấu đáo
từ ngữ trong tác phẩm thì làm sao có thể hiểu thấu đáo nội dung của nó?
Chính những điều trên đã ảnh hưởng ít nhiều đến xúc cảm của giáo viên cũng
như học sinh khi đến với những tác phẩm thơ Đường. Khi quan sát tâm lý của học
sinh khi tiếp cận thơ Đường, chỉ có 23,5% học sinh tỏ ra thích thú, còn 76,5% học
sinh thì bình thường hoặc tỏ ra không thích. Trong quá trình điều tra, chúng tôi phát
hiện một điều lý thú bất ngờ là có sự khác biệt rất rõ giữa tâm lý tiếp cận thơ Đường
của học sinh các trường thuộc quận 5, 6 với quận 3. Các em học sinh ở quận 5 và 6
thích học thơ Đường hơn và số bài thơ Đường các em thuộc lòng nhiều hơn, ít sai sót
khi nêu tên bài thơ cũng như tác giả. Điều này có thể lý giải được vì đa phần các học
sinh này là người Hoa hoặc người Việt gốc Hoa.
Ở học sinh, tình trạng hứng thú ít trong học tập là rất phổ biến. Điều này được
thể hiện ở thái độ thờ ơ, thụ động, ít phát biểu xây dựng bài, không thắc mắc trong
các giờ học. Giờ học vì thế khá đơn điệu và tẻ nhạt, hầu như chỉ có giáo viên hoạt
động. Kết quả điều tra về mức độ hiểu của học sinh về thơ Đường chúng tôi ghi nhận:
Bảng 3.9: Kết quả điều tra sự cảm thụ thơ Đường của học sinh trung học phổ thông
Học sinh Số lượng % Nội dung điều tra trả lời
Có 26 13,3 Khi đọc một bài thơ Đường, em
Không 21 10,7 có hiểu nội dung và nghệ thuật
Không đầy đủ 149 76 qua văn bản không?
Tổng cộng 196 100
Bảng thống kê trên cho thấy ở bậc trung học phổ thông tỉ lệ học sinh không
hiểu hoặc hiểu không đầy đủ nội dung và nghệ thuật của tác phẩm là 86,7%, như vậy
hiện tượng học sinh coi nhẹ, không hứng thú trong giờ học thơ Đường là khá phổ
biến. Những kiến thức mà các em có được sau giờ học có tính chất bề mặt hơn là
chiều sâu.
Chương trình môn Văn trong nhà trường phổ thông, với những định hướng
giáo dục, đã lựa chọn có tính chất áp đặt những tác phẩm, tác giả văn học của nhiều
thời kỳ, nhiều giai đoạn văn học. Giáo viên và học sinh đương nhiên cũng phải chịu
sự áp đặt ấy. Mặc dù các bài thơ Đường được lựa chọn giảng dạy đều hết sức đặc sắc
về nội dung và nghệ thuật, có tác dụng giáo dục lớn nhưng chưa hẳn đã phù hợp với
sở trường của người dạy và đặc biệt với tâm lý lứa tuổi 12 - 13 của học sinh lớp 7.
Kết quả điều tra giáo viên ở trường trung học cơ sở được ghi nhận như sau:
Bảng 3.10: Kết quả điều tra mức độ phù hợp của thơ Đường đối với học sinh trung
học cơ sở
Nội dung câu hỏi Nội dung trả lời Số lượng Tỉ lệ
Theo anh (chị), các bài thơ Có phù hợp 40/77 51,9%
Đường có phù hợp với chương Không phù hợp 30/77 39%
trình học của học sinh không? Không có ý kiến 7/77 9,1%
Kết quả trên chứng tỏ rằng đưa thơ Đường vào giảng dạy ở bậc trung học cơ sở
cho học sinh lớp 7 là chưa phù hợp. Đây cũng là một khó khăn trong sự nỗ lực của
người dạy và người học, để có thể biến sự áp đặt của chương trình thành sự lựa chọn
tự nguyện của bản thân. Kết quả khảo sát cho thấy có 46,1% giáo viên cho rằng có
nhiều bài thơ Đường không phù hợp với chương trình học của học sinh và 13,9% số
người khảo sát đề nghị không nên đưa thơ Đường vào giảng dạy ở trường phổ thông,
đặc biệt là bậc trung học cơ sở.
Về phía người dạy
Về thời lượng chương trình và nội dung thi: Theo chương trình cải cách do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành, tổng số tiếng dạy Văn trong trường phổ thông là 337
tiết/ niên học, trong đó văn học nước ngoài chiếm 68 tiết (20,2%), văn học Trung
Quốc chiếm 18 tiết (chủ yếu là thơ Đường). Số lượng tuy không nhiều nhưng những
bài được chọn vào giảng dạy là tiêu biểu. Song việc phân bố thời gian dạy chỉ bốn
mươi lăm phút cho một bài thơ là quá ít, không đủ để phân tích đầy đủ nội dung và
thi luật. Chính do phân phối thời gian giảng dạy trong khuôn khổ tiết học đã được
quy định sẵn như vậy nên giáo viên gặp rất nhiều khó khăn. Kết quả thăm dò cho
thấy có 56,5% giáo viên cho rằng việc phân phối thời gian giảng dạy thơ Đường
trong chương trình chưa hợp lý. Đối với các bài đọc thêm, giáo viên và học sinh chưa
chú trọng. Những bài đọc thêm về thơ Đường được đưa vào sách giáo khoa hiện nay
gồm: Phong Kiều dạ bạc (Trương Kế), Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu), Khuê oán
(Vương Xương Linh), Điểu minh giản (Vương Duy). Việc được đọc, được tiếp xúc
với những bài đọc thêm ngoài chương trình chính khóa là một cơ hội để học sinh tìm
hiểu thêm về thơ Đường bởi vì mỗi bài thơ đều có một vẻ đẹp riêng tiêu biểu cho thơ
Đường. Phỏng vấn một số giáo viên, chúng tôi được biết họ không có thì giờ dành
cho việc hướng dẫn học sinh đọc thêm. Điều này có nguyên nhân từ phía chương
trình. Thực tế với thời gian eo hẹp (7 tiết), giáo viên phải rất cố gắng mới hoàn tất
được bài dạy chính khoá. Họ hầu như không quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh
tìm hiểu một số bài thơ trong phần đọc thêm này.
Mặt khác, trong những kỳ thi tốt nghiệp và tuyển sinh Đại học, Văn học nước
ngoài hầu như không không đặt trọng tâm nên cả học sinh lẫn giáo viên đều không
chú trọng việc dạy và học. Có 22,6% giáo viên có tư tưởng xem nhẹ thơ Đường so
với giảng dạy văn học trong nước.
Về tài liệu tham khảo: Một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến
chất lượng giảng dạy thơ Đường là do tài liệu tham khảo của giáo viên còn hạn chế,
sách hướng dẫn sơ sài, còn quá tràn lan, không có gì mới mẻ. So với văn bản tiếng
Việt thì thơ Đường ít có sách tham khảo hơn.
Giáo viên gặp khó khăn về từ ngữ: vốn từ Hán của giáo viên còn hạn chế,
không trình bày hết ý tưởng tác giả, gây khó khăn khi khai thác các yếu tố về thi pháp
thơ Đường. Không có bài khái quát về thơ Đường. Một số bài thơ Đường không có
bản phiên âm, dịch nghĩa (ví dụ bài Mao ốc vị thu phong sở phá ca) nên rất dễ bị hiểu
sai khi nghiên cứu qua bản dịch thơ chưa sát nghĩa, nhiều bản dịch không theo thể
loại thơ Đường.
Giáo viên còn mơ hồ trong cách hiểu giữa thơ Đường và thơ Đường luật trung
đại của Việt Nam. Kết quả khảo sát thật sự bất ngờ khi thực tế phản ánh có 13/77
giáo viên khối Trung học cơ sở (chiếm 16,9%) hiểu sai khi nêu tên những bài thơ và
tác giả của những bài thơ Đường mà giáo viên giảng dạy trong chương trình, có một
số giáo viên lẫn lộn với những bài thơ và tác giả của văn học Việt Nam thời trung đại
như: Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan), Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương),
Bạn đến chơi nhà (Nguyễn Khuyến), Thương vợ (Trần Tế Xương)… Cụ thể như sau:
Bảng 3.11: Kết quả khảo sát mức độ am hiểu thơ Đường của giáo viên trung học cơ
sở
Nội dung điều tra Kết quả trả lời Số lượng %
Nêu tên và tác giả của các bài thơ Hiểu sai 13/77 16,9%
Đường mà anh (chị) giảng dạy Hiểu đúng 64/77 83,1% theo chương trình.
Sự nhầm lẫn nghiêm trọng này cho thấy tư tưởng xem nhẹ của một số anh chị
em giáo viên về mảng Văn học nước ngoài trong chương phổ thông trong đó có thơ
Đường – một thể thơ mà ảnh hưởng của nó đến văn học nước nhà không nhỏ. Có
6/115 giáo viên (chiếm 5%) khi khảo sát cho rằng thơ Đường không ảnh hưởng gì
đến văn học Việt Nam. Việc đánh giá như vậy vô cùng lệch lạc. Đây thực sự là con
số đáng lo ngại.
Sự lúng túng về phương pháp giảng dạy: Với phương pháp giảng dạy theo kiểu
diễn giảng đang phổ biến trong trường phổ thông hiện nay thì việc giảng dạy một bài
thơ Đường chưa thật sự hiệu quả. Kết quả điều tra cho thấy, để chuẩn bị cho một tiết
dạy thơ Đường, giáo viên thường không kết hợp đầy đủ các yếu tố như nội dung,
nghệ thuật, điển tích, lời bình và hình ảnh minh họa mà chủ yếu tập trung vào nội
dung (30,2%), nghệ thuật (22,4 – 26,7%), điển tích (21 – 22,7%). Với cách dạy như
thế rất khó tạo một sự khởi đầu, đưa các em đi tiếp vào thế giới rộng lớn “Thơ
Đường”. Hầu hết giáo viên dạy theo những kiến thức đã qui định và học sinh buộc
phải ghi nhớ những đơn vị kiến thức cần thiết để có điểm khi kiểm tra. Cách dạy học
áp đặt, máy móc này làm các em mau chóng quên đi những kiến thức mà lẽ ra trở
thành thứ của cải quý giá làm giàu cho bản thân khi bước vào đời. “Độc diễn” khi
giảng dạy, là nhận xét có tính khái quát của chúng tôi khi dự một số giờ dạy của giáo
viên. Một giờ dạy Văn thực sự mang lại hiệu quả phải là giờ học có sự tham gia tích
cực của học sinh dưới sự gợi ý, hướng dẫn của người thầy. Học sinh phải tìm thấy ở
giờ học sự hứng thú, niềm say mê, kích thích sự tìm tòi và sáng tạo. Với quan niệm
như vậy, giờ dạy học Văn sẽ không bao giờ bị bó buộc trong khuôn khổ cứng nhắc
mà chính là điểm khởi đầu để học sinh bước vào một chân trời rộng mở của tri thức,
của hứng thú và khám phá. Để khơi dậy được niềm yêu thích ở học sinh, người thầy
cần phải biết phối hợp nhiều phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng và
nội dung giảng dạy của từng bài, cần đến sự vận dụng các phương pháp làm sao khắc
phục khó khăn, phát huy thuận lợi, mang lại hứng thú cho người học.
Nhìn chung, phần lớn giáo viên có tâm lí ngán ngại đối với việc giảng dạy thơ
Đường. Đây là mảng văn học đòi hỏi giáo viên Văn phải có một sự hiểu biết rộng rãi,
đặc biệt là những kiến thức văn hóa, văn học cổ. Số lượng giáo viên thông thạo chữ
Hán càng ngày càng trở nên hiếm hoi. Những giáo viên trẻ bên cạnh những ưu thế
nhất định, lại chưa kịp trang bị cho mình những hiểu biết, những kiến thức cần thiết
để có thể dạy tốt bộ phận văn học rất quan trọng này.
3.1.2. Đi tìm nguyên nhân
Dạy văn là sự giải mã một cách nghệ thuật cái vô hình sau cái hữu hình, cái im
lặng sau cái âm thanh, cái thần thái của mỗi con chữ, cái đa nghĩa, cái lấp lửng, cái
không xác định… Dạy và học văn là một niềm vui nếu giáo viên làm cho học sinh
rung động, yêu đời, yêu cuộc sống và lớn lên một chút. Dạy văn không đơn thuần là
dạy kiến thức mà dạy tâm hồn. Nhưng thực tế hiện nay môn văn trong nhà trường đối
với học sinh không lấy gì làm hấp dẫn nếu không muốn nói là "liều thuốc gây mê".
Đi tìm nguyên nhân lý giải cho việc trên, chúng tôi nhận thấy có hai nhóm nguyên
nhân sau:
Nguyên nhân khách quan
Việc dạy học thơ Đường trong nhà trường phổ thông hiện nay không đạt kết
quả như mong muốn có nguyên nhân từ “sự chuyên chế của những khoảng cách” như
đã trình bày ở trên. Sự khác biệt về phong cách nghệ thuật, về không gian, thời gian
lịch sử, ngôn ngữ và đặc biệt là về tâm lí giữa người dạy, người học ngày hôm nay
với các tác giả, tác phẩm văn học quá khứ vừa là những khó khăn lại vừa là những
nguyên nhân có tính khách quan dẫn đến thực trạng này. Những bài thơ Đường nhìn
chung là xa lạ, không gần gũi với cuộc sống của các em, học sinh không thể hiểu sâu
sắc vẻ đẹp thâm thúy của các bài thơ bởi vì các em chưa đủ vốn sống, chưa có những
trải nghiệm về cuộc đời. Cuộc sống hiện tại có những biểu hiện của lối sống thực
dụng ít nhiều đã có những ảnh hưởng tới học sinh ngày hôm nay, khiến các em không
dễ chấp nhận cách nghĩ, cách cảm của người xưa. Cho nên việc người thầy tạo ra
được một không khí gần gũi với các em để có thể nắm bắt những suy nghĩ mà học
sinh không dễ bộc lộ, quan tâm đến việc học sinh nghĩ gì, hiểu như thế nào trước
những vấn đề đặt ra trong bài học là rất quan trọng vì điều đó sẽ mang lại hiệu quả
giáo dục không nhỏ.
Đó là chưa kể đến khuynh hướng ngày càng có nhiều học sinh chạy theo các
môn học tự nhiên, coi nhẹ môn Văn cũng như các môn học thuộc lĩnh vực xã hội
khác.
Sự hạn chế thời lượng của những tiết học đã khiến cho người thầy không có cơ
hội thực hiện một số công việc nhằm kích thích hứng thú học tập ở học sinh. Ví dụ,
thời gian dạy bài thơ “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” (Đỗ Phủ) là 1 tiết thì làm sao
giáo viên có thể đủ thời gian để truyền tải kiến thức đầy đủ đến học sinh, buộc giáo
viên phải dạy lướt qua nên học sinh cũng gặp những khó khăn trong việc lĩnh hội tri
thức. Chính vì hạn chế về thời lượng mà những bài đọc thêm về thơ Đường trong
sách giáo khoa không được học sinh và giáo viên chú ý tới.
Để học sinh biết cách đọc, cần có sự phối hợp của nhiều yếu tố trong đó sách
giáo khoa đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên sách giáo khoa hiện nay có một số câu
hỏi gợi ý hướng dẫn học bài nhưng chưa thành hệ thống, chưa có câu hỏi kiểm tra sự
hiểu của học sinh. Như vậy so với mục tiêu, yêu cầu đào tạo giáo dục hiện nay, sách
giáo khoa chưa thực sự đổi mới. Thậm chí sách giáo viên vẫn chưa có những hướng
dẫn cụ thể về phương pháp để giáo viên nghiên cứu, tham khảo.
Giáo viên giảng dạy theo kiểu đối phó: Theo quan niệm giáo dục từ xưa đến
nay, người dạy học phải có kiến thức cao hơn học sinh một cái đầu, phải trang bị kiến
thức nhất định về môn học mà mình đang phụ trách, đồng thời phải có vốn kiến thức
phổ thông mà bất kỳ người nào được gọi là trí thức trong xã hội cũng cần phải có.
Thế nhưng, rất nhiều người làm nghề dạy học mà chẳng có số vốn kiến thức gì ngoài
mấy trang giáo án được viết đi viết lại từ năm này sang năm khác. Đối với người
thầy, ngoài kiến thức đã được học ở nhà trường, phải được trang bị thêm rất nhiều từ
cuộc sống và tự học. Tự làm cho kiến thức càng ngày càng phong phú và tiếp thu
những cái hay cái mới đang thay đổi hàng ngày là trách nhiệm của người thầy. Bởi có
được số vốn kiến thức như vậy thì người thầy mới có tự tin để giảng dạy và có sức
thuyết phục đối với học trò.
Trong các kì thi dạy giỏi hay các buổi dự giờ, thầy cô giáo thường tổ chức như
là một vở kịch khôi hài. Các câu hỏi được soạn rất kĩ lưỡng, và có khi được dạy trước
đó; gợi ý khi phát biểu, cho học sinh giỏi giơ tay phải, học sinh yếu tay trái!...
Một vấn đề nữa cần được đề cập là điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho việc
dạy học Văn. Số lượng băng hình, tranh ảnh dành riêng cho việc dạy học thơ Đường
chưa đáp ứng được nhu cầu của giáo viên và học sinh. Vì chưa có đủ điều kiện cơ sở
vật chất nên giáo viên thường không sử dụng các hình thức hỗ trợ này. Vài giáo viên
tự tìm lấy tranh ảnh minh họa để sử dụng trong những tiết thao giảng chứ chưa có sự
hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Bên cạnh đó, do đời sống của giáo viên còn nhiều khó khăn nên họ ít có điều
kiện đầu tư vào việc dạy học.
Nguyên nhân chủ quan
Về năng lực chuyên môn: Nhìn chung đội ngũ giáo viên hiện nay không đồng
đều về chất lượng, một số chưa chuẩn hóa. Lực lượng giáo viên trẻ qua dự giờ thấy
bộc lộ nhiều hạn chế về nghiệp vụ chuyên môn do hệ thống lý luận giáo dục và
chương trình giảng dạy ở các trường sư phạm quá lạc hậu, thiếu thực tế. Sinh viên
học lý thuyết nhiều mà thực hành lại quá ít. Chỉ chưa đầy một chục tiết dạy trong
mấy tuần thực tập đã thành nghề!
Việc dạy tác phẩm văn chương lâu nay ở nhiều giáo viên hình như còn dở
dang, chưa đi trọn con đường phải đi mặc dù vẫn đủ năm bước lên lớp. Giảng dạy
môn văn trong nhà trường là giúp cho học sinh hiểu được giá trị của tác phẩm, từ đó
nâng cao trình độ nhận thức bồi dưỡng tâm hồn cho các em. Việc để cho học sinh
trực tiếp tiếp xúc với cái đẹp, với nội dung phong phú của tác phẩm là quan trọng
nhất, nhưng đa số giáo viên lại không làm như vậy, mà chỉ cho học sinh cảm thụ tác
phẩm theo cái cảm thụ của mình, hay nói rõ ra là giáo viên diễn lại cảm nhận của
mình cho học sinh. Một số lại có xu hướng cung cấp kiến thức về văn chương hơn là
giảng cho học sinh thấy và say mê cái đẹp do tác phẩm mang lại. Hiệu quả một giờ
dạy không phải là khối lượng kiến thức mà ở phương pháp phát huy năng lực của học
sinh. Mục đích giáo dục trong giảng văn là phát huy năng lực tư duy độc lập và óc
thông minh sáng tạo của học sinh, để các em có thể vận dụng những kiến thức tiếp
thu được trên ghế nhà trường vào thực tiễn cuộc sống mai sau. Không khí cởi mở trao
đổi thân mật giữa thầy và trò về những vấn đề của cuộc sống mà nhà văn, nhà thơ nêu
lên sẽ góp phần quan trọng vào sự thành công của tiết giảng.
Vai trò người thầy trong quá trình dạy học theo quan điểm lấy người học là
trung tâm không thể bị mờ nhạt mà trái lại còn rõ nét hơn, người thầy vẫn là “linh
hồn” của giờ học sinh động và sáng tạo. Bởi vì, để có thể làm người hướng dẫn, cung
cấp thông tin, trọng tài, cố vấn… người thầy phải hiểu biết sâu sắc những kiến thức
cơ bản của môn học mình đảm nhiệm, đồng thời phải tự bổ sung vốn kiến thức của
mình thường xuyên và có định hướng rõ ràng qua tài liệu, sách báo…
Người thầy phải nắm vững bản chất và các quy luật của quá trình dạy học để
có thể tìm ra hoặc ứng dụng những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng của
mình nhất. Trong dạy học Văn, người thầy là chiếc cầu nối không thể thiếu để học
sinh đến được với giá trị đích thực của tác phẩm văn học. Bằng kiến thức và khả năng
sư phạm của mình, người thầy mang lại cho học sinh những điều mới mẻ, khơi gợi sự
hứng thú và niềm yêu mến văn chương ở các em.
Muốn học sinh yêu mến, say mê môn Văn, bản thân người thầy phải có được
niềm say mê, yêu mến đó. Muốn như thế, người thầy phải trải qua một quá trình khổ
luyện để học hỏi, để hiểu biết và khám phá. Không có được những hiểu biết và say
mê đối với nghề, giờ dạy Văn sẽ không tránh khỏi sự giả tạo và gượng ép.
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng dạy học thơ Đường ở trường phổ
thông, chúng tôi nhận thấy một thực tế: sự khiếm khuyết về kiến thức, nhất là những
kiến thức về thơ Đường.
Thơ Đường là những tác phẩm văn học của quá khứ, lẽ đương nhiên chứa đựng
trong đó những dấu ấn về ngôn ngữ, về văn hóa của một thời. Muốn cho việc giảng
dạy thơ Đường đạt hiệu quả, giáo viên phải được trang bị vốn hiểu biết sâu rộng mà
trước hết là kiến thức về văn hóa, văn học, phải có một vốn kiến thức khá sâu rộng về
thế giới cổ đại phương Đông.
Sự lúng túng về phương pháp của giáo viên cũng là nguyên nhân vừa có tính
chất khách quan vừa chủ quan. Phương pháp mới không phải là cái gì xa lạ, mà chính
là biết phối hợp tốt giữa phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại. Đó là
phương pháp tổng hợp bởi không có phương pháp vạn năng dù đó là phương pháp tốt
nhất. Trên thực tế, giáo viên chưa được hướng dẫn một cách kỹ càng về phương pháp
dạy học chuyên mục này. Chính vì vậy, những bài thơ Đường cũng được giáo viên áp
dụng giảng dạy theo phương pháp giống như các nội dung khác trong chương trình.
Và cũng vì chưa được định hướng cho nên mới xảy ra tình trạng giáo viên mất nhiều
thời gian hướng dẫn, dạy lại những kiến thức mà học sinh đã học ở những lớp trước
đó (lớp 7). Bên cạnh đó một số giáo viên chưa mạnh dạn đầu tư vào giờ dạy bằng
phương pháp mới để kích thích hứng thú học tập của học sinh. Thực ra, đây là một
vấn đề không dễ giải quyết trong tình hình hiện nay. Nhiều giáo viên cũng muốn áp
dụng những phương pháp mới nhưng không có đủ điều kiện vật chất, thời gian... Đó
là những lí do khiến giáo viên vẫn phải áp dụng kiểu dạy học cũ – kiểu dạy nhồi nhét
kiến thức. Màn “độc diễn” khi giảng dạy vẫn cứ tồn tại, và thực tế đã tạo ra những
giờ học tẻ nhạt, kém hiệu quả, phản ánh sự lúng túng của người thầy trong việc tìm ra
phương pháp tối ưu, do bản thân người giáo viên thiếu năng động, chậm đổi mới, do
các nhà trường quan tâm chưa thỏa đáng đến việc cải tiến Phương pháp dạy học. Một
vấn đề quan trọng là, nhiều giáo viên nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới
phương pháp nhưng rất khó từ bỏ các phương pháp đã quen dùng. Do đó, muốn thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học thì trước hết là bản thân mỗi giáo viên phải ý thức
được để chủ động kết hợp, kế thừa ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống
và phát huy các phương pháp mới.
Thiếu lòng tin đối với học sinh: Một thực tế khó phủ nhận là học sinh ngày nay
bị suy giảm khá nhiều về khả năng tự học và các hoạt động tư duy như phân tích, so
sánh, tóm tắt, quy nạp... Nguyên nhân cũng khó phủ nhận là do hậu quả từ phương
pháp giáo dục áp đặt, nhồi nhét trong thời gian khá dài của hệ thống giáo dục phổ
thông. Đa số giáo viên cho rằng giáo dục phổ thông mới chỉ phù hợp với học sinh khá
giỏi, thích hợp cho các trường chuyên hoặc trường công lập có chất lượng cao, không
phù hợp cho các trường bán công hoặc có chất lượng đầu vào thấp. Có giáo viên nói
thẳng: Nếu giảng dạy những phương pháp trên thì học sinh sẽ không biết gì. Dẫn
chứng đưa ra là những bài kiểm tra có tính suy luận hầu như các em đồng loạt bỏ giấy
trắng.
Quan niệm trên không những thể hiện việc thiếu niềm tin đối với học sinh mà
còn trái với lôgic về lý luận. Thực ra, muốn học sinh phát huy được khả năng tư duy
để làm được những bài suy luận thì chỉ có cách duy nhất là đổi mới phương pháp
giáo dục.
Cơ chế quản lý chưa đủ sức mạnh và còn nhiều bất cập: Đặc thù nghề dạy học
là giáo viên có "khoảng trời chuyên môn" riêng, dạy hết giờ, hết bài là hoàn thành
nhiệm vụ. Còn chất lượng thế nào khó ai bắt bẻ được. Hiện tượng có giáo viên dạy
trên lớp qua loa để giữ "bí quyết" nhằm lôi kéo học sinh về nhà học thêm là có thực,
nhưng nhà trường biết cũng đành chịu. Trong khi đó, cuộc vận động đổi mới phương
pháp giáo dục hiện nay không kèm theo một thể chế thi đua khen thưởng hoặc giám
sát, kiểm tra đánh giá nào. Phát động xong, ai muốn thực hiện hay không thì tùy. Khó
có thể đặt hy vọng lớn vào một công việc nửa vời như vậy.
Mặt khác, đổi mới phương pháp giáo dục đòi hỏi phải đổi mới phương pháp
đánh giá giờ dạy. Thế nhưng hiện nay, các trường phổ thông vẫn phải sử dụng
"hướng dẫn đánh giá giờ dạy" đã quá lạc hậu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
cách đây nhiều năm. Chẳng khác gì nhét một đồ vật đã biến dạng vào cái khuôn cũ.
Bệnh thành tích làm thui chột ý chí của giáo viên: Đại đa số giáo viên muốn
đánh giá đúng thực chất kết quả học tập của học sinh, nhưng sau một năm làm việc
nghiêm túc, cuối năm học lại phải tự "phủ nhận" kết quả nghiêm túc của mình để tìm
cách nâng điểm cho học sinh do chỉ tiêu thi đua khống chế. Đó là sự thực ở nhiều
trường phổ thông hiện nay. Cho nên nếu nhìn thẳng vào sự thực thì bệnh thành tích
chủ yếu là của các cấp quản lý. Từ đó sinh ra kết quả chất lượng ảo "bảo hiểm" cho
học sinh dẫn tới hiện tượng chây lười học tập và hình thành thói quen ỷ lại, trông chờ
vào ngoại cảnh. Trong bối cảnh như vậy, giáo viên dễ bị thui chột ý chí và lòng nhiệt
tình, không mặn mà với sự đổi mới.
Ngoài ra, tình trạng học sinh thiếu cố gắng, ý thức học tập chưa cao ở phần
Văn học nước ngoài, tâm lý nghiêng về Văn học Việt Nam để phục vụ cho nhu cầu
thi cử cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho việc dạy học. Đây là một vấn đề cần
được sự quan tâm đúng mức của nhà trường, gia đình và xã hội.
3.2. ỨNG DỤNG THI PHÁP HỌC VÀO GIẢNG DẠY NHỮNG BÀI THƠ
ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Như đã trình bày, “Giảng dạy thơ Đường dưới góc nhìn của thi pháp học” là
một đề tài mới mẻ của bộ môn Phương pháp giảng dạy cho nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định nhưng chúng tôi thử đưa ra một số ý kiến để khai thác tác
phẩm từ góc độ thi pháp học, với hi vọng sẽ cung cấp thêm những tri thức để có một
cách nhìn toàn diện hơn về các tác giả với những bài thơ Đường trong chương trình
phổ thông.
Bên cạnh đó, hệ thống thi pháp thơ Đường rất đa dạng và phong phú. Nó dàn
trải hầu hết trong các bài thơ Đường của nhiều tác giả, mà ngay từ một tác giả cũng
có hàng trăm bài, đặc biệt là các nhà thơ lớn như Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị…
Cho nên, ở phần này, chúng tôi chỉ đề cập đến những tác giả, tác phẩm được đưa vào
giảng dạy ở trường phổ thông.
3.2.1. Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương)
● Hạ Tri Chương
Hạ Tri chương (659 – 744) tự Quý Chân, quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay là
huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang). Năm đầu niên hiệu Chứng Thánh thời Võ Tắc
Thiên (695), ông đỗ tiến sĩ và từ đó giữ nhiều chức quan ở triều đình. Suốt năm mươi
năm làm quan ở triều đình, trải qua bốn đời vua, nội bộ nhà Đường rất biến động,
nhưng Hạ Tri Chương luôn được quý trọng, không hề bị biếm trích. Đây là điều rất
hiếm đối với quan lại – thi sĩ thời phong kiến. Năm Thiên Bảo thứ ba (744), ông xin
cáo lão về quê quy ẩn ở Kính Hồ, không lâu sau thì mắc bệnh qua đời, thọ tám mươi
sáu tuổi.
● Hồi hương ngẫu thư
Xa quê, nhớ quê, buồn rầu xa xứ là những đề tài quen thuộc trong thơ cổ -
trung đại phương Đông. Nhưng mỗi nhà thơ trong hoàn cảnh riêng lại có những cách
thể hiện riêng độc đáo, không trùng lặp. Còn gì vui mừng xốn xang hơn khi xa quê
lâu năm nay mới có dịp về thăm lại nơi mình đã từng chôn nhau cắt rốn? Rồi khi gặp
lại có những chuyện bất ngờ không sao nói lên lời. Hạ Tri Chương trong một lần về
thăm quê sau năm mươi năm xa cách cũng gặp một chuyện nao lòng như thế trong
bài Hồi hương ngẫu thư.
Phiên âm:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Dịch nghĩa:
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi nhưng tóc mai đã rụng.
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
Dịch thơ:
Bản dịch thứ nhất:
Khi đi trẻ, lúc về già,
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con gặp, lạ lùng sao,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch)
Bản dịch thứ hai:
Trẻ đi, già trở lại nhà,
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu.
Gặp nhau mà chẳng biết nhau,
Trẻ cười hỏi: Khách từ đâu đến làng?
(Trần Trọng San dịch)
Chữ ngẫu trong nhan đề ‘‘Hồi hương ngẫu thư’’ cho thấy nhà thơ không hề cố
ý làm thơ, cũng không hề nhắc đến năm mươi năm làm quan ở chốn cung đình,
chứng tỏ tất cả tâm tình đặt ở cái đích hồi hương. Bài thơ là một bức tranh sinh hoạt
giản dị, hồn nhiên; lời thơ tự nhiên, bình dị, như giọng nói chân chất của quê nhà
không hề trau chuốt.
Điều đặc biệt, cái thâm thúy của bài thơ là ở các mối quan hệ.
Bài thơ chỉ có bốn câu. Ba câu trước mang hình thức tự đối, tức là mỗi câu đều
tách ra thành hai vế đối nội bộ với nhau trong một dòng thơ. Riêng câu thứ tư, lại đối
lập với ba câu trước:
Thiếu tiểu li gia >< lão đại hồi,
Hương âm vô cải >< mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến >< bất tương thức,
><
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Ở ba câu đầu, thể hiện tâm trạng bồi hồi xao xuyến của nhà thơ: Vừa vui vừa
buồn; nửa mừng nửa tủi. Đây là tâm trạng rất thực của con người bao năm xa cách
quê hương, giờ mới trở về. Dòng cảm xúc ấy như những ngọn triều tình cảm, những
đợt sóng lòng, buồn vui, mừng tủi cứ thế hòa quyện, không tự chủ được. Đọc câu thơ,
ta như hình dung thấy được bước chân hấp tấp, lập cập, líu ríu tay bắt mặt mừng,
nước mắt rơi xuống ướt cả nụ cười trên môi. Không kìm nén được, cụ già tám mươi
sáu tuổi ấy bỗng hóa trẻ thơ không điều khiển được cảm xúc của mình. Cũng đúng
thôi, đã bao nhiêu năm ra vào chốn lầu son gác tía, vinh hoa phú quý đã từng, dẫu giờ
đây đã là ông già đầu tóc bạc phơ nhưng vẫn là đứa con của quê hương với “giọng
quê không đổi” – lòng không thay đổi, vẫn nhớ quê hương dù thời gian có đổi.
“Giọng quê không đổi” cần được hiểu cả theo nghĩa rộng, nghĩa bóng. Đó là
tấm lòng không đổi, trách nhiệm với làng quê không đổi... Tâm tư khắc khoải, không
biết quê hương có còn nhớ mình chăng?
Gặp gỡ trẻ thơ, niềm vui khôn xiết (nhi đồng tương kiến), nhưng trẻ thơ lại
chẳng biết ông (bất tương thức)! Đột ngột, ngỡ ngàng và hụt hẫng biết bao! Không
thể trách chúng được. Ngày ra đi, chúng và ngay cả cha mẹ chúng cũng chưa ra đời,
chúng không biết và thực ra nhà thơ cũng không biết đó là con cái nhà ai. Mạch thơ
đến đây bỗng chững lại.
“Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?”
Câu này tách ra, đối lập với ba câu trên. Tâm trạng ông lão thì náo nức... đầy
vẻ vồ vập, mà bọn trẻ lại xa lạ. Thái độ xa lạ với câu hỏi càng xa lạ hơn của bọn trẻ
đối lập hoàn toàn với tâm trạng của nhà thơ. Trước câu hỏi vô tư, thái độ ngoan
ngoãn thân thiện của trẻ thơ, ẩn dấu nỗi buồn thấm thía của tác giả. Còn gì buồn hơn
khi trở về nhà mình, quê mình lại trở thành khách lạ. Vì sao bài thơ không nhắc đến
những người lớn trong làng? Đó mới là chỗ trống đáng suy nghĩ trong thơ văn. Nhà
thơ chỉ mượn trẻ con để trách người lớn thờ ơ lãnh đạm với ông mà thôi. Người làng
quê thường biết ơn những người trực tiếp đem lợi ích cho làng, ai biết đâu cái ông
quan ở triều đình đến già mới về!
Không hề nói về tình cảm mà tình cứ hiện ra phập phồng xốn xang trên từng
câu, từng chữ. Trở về nơi chôn nhau cắt rốn mà được xem là khách, sự hớn hở vui
mừng đón khách của trẻ bao nhiêu thì nỗi lòng của nhà thơ càng tan nát bấy nhiêu.
Tình huống bất ngờ ấy đã tạo nên màu sắc đặc biệt của ý thơ, giọng thơ bi hài thấp
thoáng ẩn hiện sau lời tường thuật khách quan trầm tĩnh. Sinh động, chân thật biết
bao!
3.2.2. Vọng Lư Sơn bộc bố, Tĩnh dạ tư, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch)
● Lí Bạch
Lí Bạch sinh năm 701 mất năm 762, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, sinh
ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê
ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thủy - tức Lũng Tây ngày xưa). Lí Bạch xuất thân
trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm. Lớn lên thích
giang hồ ngao du sơn thủy, năm 25 tuổi “chống kiếm viễn du”, cùng năm người bạn
lên núi Thái Sơn “ẩm tửu hàm ca” (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục
dật (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được tiến cử với Đường Minh Hoàng,
ông về kinh đô Tràng An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một “văn nhân
ngự dụng” nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thủy. Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết
làm bạn “vong niên” (bạn “quên tuổi tác”, không coi trọng tuổi tác - Đỗ Phủ nhỏ hơn
Lí Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, săn bắn được
nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương Nam. Những năm
cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông
Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm
trăng mà chết. Người đời gọi ông là “Thi tiên” (ông tiên trong làng thơ), “Tửu trung
tiên” (ông tiên trong làng rượu). Thơ Lí Bạch hiện nay còn khoảng 1.800 bài.
Qua thơ ca ông, có thể thấy quan niệm làm thơ của ông là theo phương châm
“kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân”, ông ra sức học tập Hán nhạc phủ. Vì
quán triệt phương châm kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân nên ông đạt được
những cống hiến trong thực tiễn sáng tác.
Tư tưởng Nho gia và Đạo gia đều tác động vào ông, nhưng tư tưởng Đạo gia
sâu sắc hơn nhiều. Ngay cả tư tưởng du hiệp cũng đóng góp phần hình thành phong
cách đặc biệt của ông.
Sáng tác của Lý Bạch là sự kết hợp hài hòa giữa tính lãng mạn và tính hiện
thực, trong đó tính lãng mạn chiếm phần thượng phong. Tuy nhiên, thơ ca phản ánh
hiện thực, tố cáo giai cấp thống trị và cảm thông với nhân dân lao động thì Lí Bạch
còn thua xa về chất lượng cũng như số lượng so với Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Ông chỉ
vượt hai người này về thơ ca lãng mạn có nội dung tích cực. Thơ của ông bay bổng
như muốn thoát ly khỏi đời thường, xem thường vinh hoa phú, tìm chén rượu tiêu
sầu, cầu tiên phỏng đạo và ngao du sơn thủy. Từ đó ông truyền cho thơ ca một hơi
thở mới, một nội dung tân kỳ ít thấy trong văn học cổ điển. Ông gửi gắm tâm hồn của
mình vào thiên nhiên. Thiên nhiên như một người bạn tri âm tri đắc, hiểu rõ nỗi lòng
ông, an ủi, giúp đỡ ông xua tan những cái xấu xa, đưa lại những điều tốt đẹp. Ngôn
ngữ thơ ông sinh động, hoa mỹ nhưng trong sáng, giản dị, tự nhiên, không hề có dấu
vết chạm trổ tỉ mỉ công phu. Thơ thất ngôn tuyệt cú của ông – cùng với Vương
Xương Linh – là thất ngôn tuyệt cú bậc nhất đời Đường, được xưng tặng là “tay
thánh tuyệt cú”. Đỗ Phủ cũng phải thán phục ông: “Bạch dã thi vô địch”. Vô địch ở
số lượng hơn hai mươi nghìn bài, vô địch ở chất lượng như lời Bì Nhật Hưu thời vãn
Đường nhận xét: “Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến nay, ngữ ngôn ra ngoài trời
đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì long ôm
bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải là lời của thế gian, thì có thơ Lí Bạch”.[Dẫn
theo 17, tr. 23]
● Vọng Lư sơn bộc bố
Nếu như thơ Đỗ Phủ là những trang hiện thực của bao nỗi cơ cực buồn thương
thì thơ Lí Bạch là tiếng lòng lãng mạn trữ tình lành mạnh. Ta dễ bắt gặp ở thơ ông sự
liên tưởng độc đáo, mạnh mẽ của trí tưởng tượng phong phú, sự rung động sâu xa của
tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước nồng nàn mà bài thơ Vọng Lư Sơn bộc bố là một
điển hình.
Phiên âm:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên,
Phi lực trực há tam yên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa:
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía,
Xa nhìn dòng thác trên dòng sông phía trước,
Thác đổ như bay ba ngàn thước,
Ngỡ là sông Ngân Hà rơi xuống tự chín tầng mây.
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này,
Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch)
Núi Lư (một quả núi ở tỉnh Giang Tây) có đỉnh Hương Lư (Hương Lô). Ngắm
nhìn thác núi Lư đổ nước xuống trắng xóa, xúc cảm trước cảnh đẹp thiên nhiên hùng
vĩ, Lí Bạch sáng tác bài thơ “Vọng lư sơn bộc bố”. Cá tính mãnh liệt, hào phóng của
ông thể hiện rõ trong bài thơ này.
Bài thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt, với hai mươi tám chữ mà nhà thơ đã dựng
lên trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh thác núi Lư.
“Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên”
Câu đầu tiên tả khung cảnh và thế đứng uy nghi của núi Lư, lấy làn mây vẽ nên
cái nền rực rỡ của ngọn thác, mặt trời chiếu vào đỉnh núi sinh khói tía. Trong một câu
thơ Lí Bạch đã tả thế núi, ánh nắng mặt trời và màu khói tía bốc lên. Tất cả các hình
ảnh ấy được sắp xếp bằng những từ ngữ dễ hiểu, tự nhiên thể hiện óc quan sát, cách
miêu tả độc đáo, gây ấn tượng. Câu hai và ba miêu tả ngọn thác từ chính diện:
“Dao khan bộc bố quải tiền xuyên,
Phi lưu trực há tam thiên xích”
Từ xa nhìn, ngọn thác như từ trong mây tía tuôn ra. “Chữ quải” là lấy tĩnh tả
động, dòng chảy liên tục kết thành một dải rất hợp với “phi lưu” ở câu dưới. Ba câu
thơ đầu vừa truyền thần vừa truyền tình cảm.
“Nghi thị Ngân Hà tuột khỏi mây”
Thác núi Lư trắng xóa, lấp lánh, nhà thơ ngỡ ngàng tưởng như giải Ngân Hà
với những triệu vì sao tinh tú lấp lánh, rực rỡ, kéo dài rực sáng bỏ bầu trời để rơi
xuống mặt đất. Sự so sánh hợp lí, thú vị đã tạo nên một chi tiết vừa hư vừa thực phù
hợp với phong cách lãng mạn của nhà thơ.
Bức tranh thiên nhiên về thác núi Lư được miêu tả thật tinh tế. Tả thác nước
mà có núi sông, ánh nắng mặt trời, giải ngân hà... Hình ảnh con người không thấy
xuất hiện ở đây nhưng người đọc vẫn hình dung được, thấy con người nhỏ bé bị bao
trùm bởi khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Dưới ngòi bút của Lí Bạch, hình ảnh thác
sống động, mãnh liệt và dữ dội. Thác núi Lư là tác phẩm của thiên nhiên, kì quan của
thiên nhiên, còn Vọng Lư sơn bộc bố là kì quan nghệ thuật của “Thi tiên” Lí Bạch.
● Tĩnh dạ tư
“Vọng nguyệt hoài hương” là đề tài khá quen thuộc trong thơ Đường. Hình
ảnh vầng trăng tròn là biểu tượng của sự đoàn viên. Khi xa quê, trăng sáng, tròn bao
nhiêu thì càng gợi nhớ về quê cũ bấy nhiêu. Đêm yên tĩnh trên đường lữ thứ, tình quê
hương ngổn ngang trăm mối, tức cảnh sinh tình, nhà thơ viết lên một bài thơ tuyệt
diệu. Đề tài về trăng trong bài “Tĩnh dạ tư” đã mang lại cho người đọc biết bao rung
động và sự đồng cảm sâu xa.
Phiên âm:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa:
Ánh trăng sáng đầu giường,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng,
Cúi đầu nhớ quê cũ.
Dịch thơ:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Tương Như dịch)
Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên thanh tĩnh. Nếu thời gian trong bài “Vọng
Lư sơn bộc bố” là ban ngày có ánh nắng mặt trời chiếu rọi thì thời gian trong “Tĩnh
dạ tư” là ban đêm, ánh trăng sáng bàng bạc, là nỗi suy tư trong đêm trăng sáng.
Ba câu thơ đầu ngắn gọn hàm súc, miêu tả cảnh đêm thanh tĩnh. Ánh trăng
chan hòa, dịu hiền chiếu sáng trên bầu trời, mặt đất, vào tận phòng cho biết đêm sâu,
thanh bình yên tĩnh nên gió trăng mặc sức đến chơi. Nhận thấy ánh trăng rọi sáng đầu
giường, rõ ràng là người không ngủ. Trước ánh sáng lung linh vằng vặc ngỡ rằng
“mặt đất phủ sương”, sự liên tưởng phong phú đã tạo nên một hình ảnh thơ tuyệt đẹp.
Một tâm hồn đa cảm dạt dào cảm xúc như Lí Bạch làm sao có thể không rung động
trước vẻ lộng lẫy hấp dẫn của chị Hằng? Động tác “cử đầu” chỉ trong khoảnh khắc
cho thấy trăng ở đây còn là biểu tượng của một mảnh hồn cô đơn mơ tìm tâm hồn tri
âm tri kỷ, thấy trăng như thấy “cố tri”, thấy trăng mà sinh ra nỗi nhớ, nỗi nhớ luôn
tiềm ẩn trong tâm thức. Đó là tâm tình hết sức tự nhiên.
Hai câu thơ cuối đối nhau rất chỉnh cả ý và từ (cử - đê; vọng – tư; minh nguyệt
– cố hương). Trăng viên mãn mà người xa cách, xúc cảnh sinh tình, nỗi nhớ quê từ đó
mà dấy lên, ánh trăng làm xót xa lòng người lữ thứ “tư cố hương”, câu thơ cuối là câu
thơ khép, điểm gút của bài thơ, là đỉnh cao cảm xúc của tác giả dồn nén lại.
Tình yêu quê hương đậm đà, như hơi thở, như máu trong tim của tác giả. Cả
bài thơ là vần bằng êm ả, nhẹ nhàng. “Ý tại ngôn ngoại”, chỉ với hai mươi chữ đơn
giản mà tình yêu thiên nhiên thơ mộng tuyệt vời, tình thương nỗi nhớ quê hương bao
la của Lí Bạch được hiện lên qua từng câu từng chữ trong bài “ngũ ngôn tứ tuyệt”
tuyệt diệu này.
● Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Phiên âm:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”.
Dịch nghĩa:
Bạn cũ giã từ lầu Hoàng Hạc, ở phía tây,
Xuôi về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói.
Bóng cánh buồm lẻ loi xa dần, mất hút vào khoảng không
xanh biếc,
Chỉ thấy sông Trường Giang chảy vào cõi trời.
Dịch thơ:
Bạn từ lầu Hạc lên đường,
Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.
(Ngô Tất Tố dịch)
Chúng ta biết rằng, đề tài trong thơ của Lí bạch rất đa dạng và phong phú, viết
về tình bạn cũng là một trong những phương diện sáng tác thành công của ông. Có
thể nói rằng, Lí bạch là nhà thơ của tình bạn. Cuộc sống tha hương đây đó giúp ông
tiếp xúc với nhiều lớp người, kết giao với đủ hạng người. Tình bạn trong thơ Lí Bạch
không phân biệt tuổi tác, địa vị sang hèn, ông đặc biệt trân trọng những người bạn
văn chương, đó là những người bạn tri âm tri kỷ như Mạnh Hạo Nhiên, Đỗ Phủ…
Những người bạn ấy đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong thơ ông.
“Chia li, tống biệt” cũng là đề tài quen thuộc trong thơ Đường. “Hoàng Hạc
lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” là sự kết hợp giữa hai đề tài: tống biệt và
hữu nhân.
Bài thơ thuộc thể loại “thất ngôn truyệt cú” (còn gọi là thất ngôn tứ tuyệt). Kết
cấu của một bài thơ tuyệt cú có hai phần. Hai câu đầu tả cảnh mà trong cảnh có tình,
hai câu sau thể hiện tình cảm trên nền phong ảnh đã tạo trước đó và khi cái tình đã
được thoát ra thì bài thơ cũng chấm dứt. Bản dịch trong sách giáo khoa hiện hành
trích từ “Thơ Đường, tập 2, Nxb Văn học Hà Nội, 1987) do Ngô Tất Tố dịch bằng thể
thơ lục bát. Đây là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, dễ thuộc dễ nhớ cũng
như ở phương diện biểu đạt tâm tình.
Trong thơ Lí Bạch, chúng ta thường thấy xuất hiện hình ảnh người phụ nữ,
người hiệp khách, người lao động và đặc biệt là hình tượng nhân vật trữ tình – tác giả
thì ở đề tài nào cũng có. Trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng
Lăng, vừa khai bút, tác giả đã nói đến cố nhân, một tình bạn sâu nặng gắn bó không
thể xa rời nhưng cảnh tống biệt vẫn cứ diễn ra. Nhà thơ đã mượn cảnh ngụ tình, lấy
cái ra đi để nói cái ở lại. Lấy cái động để nói cái tĩnh, lấy thiên nhiên để nói lòng
mình.
Cả bài thơ ngoài một tên người (Mạnh Hạo Nhiên) và bốn địa danh (Hoàng
Hạc lâu, Quảng Lăng, Dương Châu, Trường Giang), về nghĩa của từ trong bài thơ
cũng không khó hiểu, nhưng ẩn ý sâu xa của bài thơ lại vô cùng.
“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu”,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Trong cuốn “Đường thi tam bách thủ” do Lưu Đại Trường chú giải đã hiểu câu
này như sau: “Bạn cũ đi về hướng Đông, từ biệt tại bên lầu Hoàng Hạc này”. Còn
Trần Trọng Kim thì lại dịch: “Bạn cũ dời khỏi lầu Hoàng Hạc, ở phía tây”. Ngô Tất
Tố cũng đã hiểu câu này như sau: “Bạn cũ giã từ lầu Hoàng Hạc, ở phía Tây”.
Như vậy, Mạnh Hạo Nhiên đi từ phía Tây (tức là từ lầu Hoàng Hạc) đi xuống
phía Đông (tức là Dương Châu). Hay nói cách khác, Dương Châu ở hướng đối diện
với lầu Hoàng Hạc. Chỉ trong một câu thơ rất đơn giản mà nhà thơ đã gợi lên bao
nhiêu ý nghĩa. Ở đây không những là nhân vật mà còn là không gian, phương
hướng, vị trí, hành trình của người ra đi.
- “Yên hoa” là “hoa khói”, và có thể hiểu là hoa lồng khói, đồng thời từ “yên
hoa” còn gợi lên nét phồn hoa đô hội nơi mà bạn cũ sẽ đến (Dương Châu). Trong thơ
Đường ta thường bắt gặp chữ yên, mà yên lại thường đi với giang, với thủy “Yên ba
giang thượng sử nhân sầu” (Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu). Từ đó có thể thấy được
tính liên kết chặt chẽ gần như tuyệt đối của thơ Đường.
Ở câu thứ nhất, tả nơi bạn chia tay còn mở ra cái hướng mà bạn mình sẽ đi.
Đến câu thứ hai, không chỉ tả thời gian lúc chia tay mà còn gợi lên được cái nơi bạn
mình sắp đến. Địa danh Dương Châu ấy bắt đầu hiện lên trong tấm lòng người ở lại.
Khoảng cách giữa người đi kẻ ở là một dòng sông li biệt, thế cho nên tâm hồn của thi
nhân cứ dõi theo một cánh buồm của Mạnh Hạo Nhiên
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận”
Không gian tống biệt là cả bầu trời, mặt nước, một màu bích không tận. Chữ
yên thường đi liền với hình ảnh sông nước, nhưng ở đây chưa đề cập đến sông nước
cụ thể mà đã thấy xuất hiện “Cô phàm” (cánh buồm lẻ loi). Câu trên liên ý với câu
dưới. Thuyền đã đi xa nên người mới trông theo cánh buồm cho đến khi cánh buồm
mất hút, lúc đầu còn rõ (cô phàm), rồi mờ dần, thấp thoáng, như thực, như hư (viễn
ảnh), cho đến khi cánh buồm cũng mất hút, chỉ còn thấy dòng Trường Giang mênh
mông sông nước. Cánh buồm tự bản thân nó không hề mang tâm trạng gì, song ở đây
nó lại đang trong một hoàn cảnh gợi nên sự hoang vắng, cô đơn làm cho con người
nghĩ đến sự cô lẻ: sông Trường Giang dài và rộng. Một cánh buồm so sánh với con
sông dài thì quả là bao la rộng lớn. Nhưng con sông dù dài rộng bao nhiêu thì vẫn
làm sao có thể sánh bằng với khoảng không gian xanh biếc vô tận trên đầu. Đó chính
là vũ trụ, vũ trụ bao la rộng lớn mà con người không bao giờ có thể thấy hay đo được
ranh giới của nó. Không gian mênh mông vô tận ấy thể hiện khát vọng vươn tới
của con người trước vũ trụ bao la và nỗi xót thương trước cảnh ly biệt, chia lìa.
Một cánh buồm lẻ loi đơn độc cứ xa dần, xa dần rồi mất hút vào khoảng xanh
vô tận, người đứng dõi theo chỉ còn thấy dòng sông dài chảy từ miệt trời xuống “Duy
kiến Trường Giang thiên tế lưu”. Sông Trường Giang đâu phải chảy từ cõi trời xuống
mặt đất, vậy tại sao Lí Bạch lại có sự nhầm lẫn đó? Chắc chắn là không, ông không
hề nhầm lẫn, sở dĩ ông viết như thế vì bây giờ, trước mắt ông: cánh buồm cô đơn, con
sông dài và khoảng trời xanh vô tận nó đã hòa làm một không còn phân biệt được
nữa. Những hình ảnh tương phản: cánh buồm, dòng sông là hữu hạn; khoảng không
gian xanh biếc là vô hạn. Cái hữu hạn và vô hạn khi đã hòa làm một thành một chỉnh
thể thống nhất đã không còn đối lập nhau mà chỉ bổ sung cho nhau. Cánh buồm càng
lẻ loi đơn độc, thì dòng sông càng dài càng rộng và sông càng rộng càng dài làm cho
bầu trời xanh đã bao la mênh mông càng thêm bất tận.
Dưới ngòi bút trữ tình đậm đà của ông, tứ thơ hiện lên giản dị mà trau chuốt,
nói ít gợi nhiều. Các yếu tố thanh nhịp vần đối và câu thơ đều được tài thơ lão luyện,
khéo léo đưa vào dụng ý biểu đạt tâm hồn thơ và tình điệu của bài thơ. Tất cả hòa
quyện trong một chỉnh thể nghệ thuật vừa đẹp vừa tinh luyện. Bài thơ chỉ có hai mươi
tám chữ, Lí Bạch không hề dùng một chữ buồn, chữ bi, chữ luyến. Không nói tình mà
thấy tình, không nói buồn mà cảm giác được cả một nỗi buồn man mác mênh mông.
Diễn tả cảm giác chia ly, người ta đâu nhất thiết phải dùng chữ sầu, chữ thương chữ
khổ. Cái hay cái tài là thế, đấy chính là cái tuyệt diệu của thơ Đường nói chung và thơ
Lí bạch nói riêng: lời ít ý nhiều “ý ngoài lời” (Ý tại ngôn ngoại).
Ta đã từng biết một Lí Bạch yêu tự do, phóng khoáng, mãnh liệt, ngang tàng
và kiêu hãnh… Với những bài thơ về tình bạn, ta lại biết thêm một Lí Bạch đằm thắm
ân tình. Tình bạn chân thành, chung thủy, muôn đời vẫn là tình cảm đẹp của con
người.
3.2.3. Mao ốc vị thu phong sở phá ca, Thu hứng (Đỗ Phủ)
● Đỗ Phủ sinh năm 712 mất năm 770, tự Tử Mĩ, người ở huyện Củng, tỉnh Hà
Nam, xuất thân trong một gia đình Nho học, làm quan suốt mấy đời, nhưng đến đời
ông thì sa sút nghiêm trọng. Ông lại sống trọn vẹn trong hoàn cảnh loạn ly (loạn An
Sử), ngược xuôi chạy loạn, gia đình ly tán, con chết đói... và rồi ông cũng chết thảm
thương vì đói và bệnh tật trong một chiếc thuyền rách nát trên sông Tương nơi đất
khách quê người.
Thơ của Đỗ Phủ thấm máu và nước mắt của nhân dân trong thời buổi loạn ly.
Nếu trong thơ Lí Bạch có dòng sông hát ca, chim muông ríu rít, vầng trăng duyên
dáng thì trong thơ Đỗ Phủ dòng sông nức nở, vầng trăng thổn thức và chim muông,
cỏ cây câm lặng, úa vàng.
Người đời gọi thơ ông là một tập Thi sử (một bộ sử viết bằng thơ). Men theo
năm tháng của các bài thơ ra đời, chúng ta có thể thấy được những nét chính của đời
sống chính trị, xã hội đời Đường trước và sau loạn An - Sử. Gọi thơ ông là Thi sử bởi
vì cái ấn tượng binh đao khói lửa nội chiến mà thơ ông gieo vào lòng người còn sâu
sắc gấp trăm lần các bộ sách viết về thời này. Nhưng Đỗ Phủ không hề “viết sử” một
cách khách quan. Ông đã đứng hẳn về phía “dân đen”, coi nỗi đau của họ như nỗi đau
của chính mình, ước mong san sẻ gánh nặng cơm áo và dằn vặt tâm linh với họ. Tư
tưởng nhân đạo của Đỗ Phủ là đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo dưới thời phong kiến.
Một nhà nho suốt đời long đong lận đận nhưng luôn quan tâm đến vận nước, mà quan
tâm đến vận nước cốt để giảm nhẹ gánh nặng cơm áo và sự dằn vặt tâm linh của
người dân bình thường. Bài “Mao ốc vi thu phong sở phá ca” (Túp lều tranh bị gió
cuốn sập) thể hiện rõ nhân cách của ông.
Ông viết về mọi đề tài nhưng hầu như không có đề tài nào thoát ly thời cuộc.
Ảnh hưởng của Đỗ Phủ đến đời sau rất sâu sắc. Đó là ảnh hưởng về nhân cách, luôn
luôn đồng cam cộng khổ với nhân dân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Đó còn là
tài năng thơ ca, một tài năng siêu việt được Nguyễn Du tôn làm bậc thầy của văn
chương muôn thuở. Đỗ Phủ để lại cho đời hơn 1.400 bài thơ, phân thành hai loại lớn:
cổ thể thi và cận thể thi.
Với nhân cách cao thượng, tài năng trác việt, Đỗ Phủ được người dân Trung
Quốc gọi là “Thi Thánh”, xứng đáng với danh hiệu “Danh nhân văn hoá thế giới”.
Bút pháp hiện thực cũng như tinh thần nhân đạo cao cả của thơ ông đã ảnh hưởng
rộng đến thơ ca Trung Quốc đời sau.
● Mao ốc vị thu phong sở phá ca
Sau bao nhiêu năm vất vả, lận đận, cơm không đủ no áo không đủ ấm. Năm
760, được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng được một căn nhà tranh bên
cạnh khe Cán Hoa phía tây Thành Đô. Vừa được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió phá
nát, không còn nơi nương tựa. Xót xa trước cảnh này, ông đã làm bài thơ “Mao ốc vị
thu phong sở phá ca”.
Phiên âm:
Bát nguyệt thu cao phong nộ hào,
Quyển ngã ốc thượng tam trùng mao.
Mao phi độ giang sái giang giao,
Cao giả quải quyển trường lâm sao,
Hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao.
Nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực,
Nhẫn năng đối diện vi đạo tặc.
Công nhiên bão mao nhập trúc khứ,
Thần tiêu khẩu táo hô bất đắc,
Quy lai ỷ trượng tự thán tức.
Nga khoảnh phong định, vân mặc sắc,
Thu thiên mạc mạc hướng hôn hắc.
Bố khâm đa niên lãnh tự thiết,
Kiêu nhi ác ngoạ đạp lí liệt.
Sàng đầu ốc lậu vô can xứ,
Vũ cước như ma vị đoạn tuyệt.
Tự kinh táng loạn thiểu thuỵ miên,
Trường dạ triêm thấp hà do triệt!
An đắc quảng hạ thiên vạn gian,
Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
Phong vũ bất động, an như sơn.
Ô hô! Hà thì nhãn tiền đột ngột hiện thử ốc,
Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc!
Dịch nghĩa:
Tháng tám , đang mùa giữa thu, gió gào dữ dội,
Cuốn phăng cả mấy lớp nhà tranh trên mái nhà ta.
Tranh bay qua sông, rải rác khắp cả vùng ven sông,
Cái bay cao thì mắc trên ngọn cây rứng,
Cái bay thấp thì quay lộn rồi rơi xuống vùng chuôm ao
chìm nghỉm.
Lũ trẻ xóm Nam khinh ta già yếu,
Trước mắt ta dám làm kẻ cướp:
Cứ ngang nhiên ôm tranh chạy khuất vào bụi tre,
Rát cổ bỏng họng, gào chẳng ăn thua gì,
Ta đành quay về chống gậy đứng thở dài!
Chốc lát gió yên,mây đen như mực,
Cảnh trời thu mịt mờ, mỗi lúc một tối,
Chiếc khăn vải đã cũ, lạnh như đồng,
Thằng con xấu nết, nằm trái thói, lục đục đạp rách toang.
Nhà đã dột giường không chỗ nào khô,
Mưa cứ rả rích không ngớt hạt.
Từ khi loạn lạc mình đã ít ngủ,
Nay lại bị dầm nước thâu đêm, chịu sao nỗi được đến sáng!
Ước gì có hàng vạn gian nhà rộng rãi,
Để che đủ cho tất cả hàn sĩ trong thiên hạ,
Khiến mặt mũi ai cũngvui tươi,
Vững như núi chẳng sợ mưa gió lay chuyển!
Than ôi! Bao giờ được trông thấy ngôi nhà ấy hiện ra cao ngất,
Thì dù một cái nhà ta nát, một mình ta chết rét cũng cam lòng!
Dịch thơ:
Tháng tám thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.
Trẻ con thôn Nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào luỹ tre.
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Giây lát gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát.
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu,
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót!
Ước gì nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
(Khương Hữu Dụng dịch)
Trong thơ Đường, để phản ánh hiện thực đầy biến động, cuộc đời phức tạp bộn
bề với bao ưu hoạn, vất vả của con người đời thường nên bộ phận thơ hiện thực
thường sử dụng thơ cổ thể và Mao ốc vị thu phong sở phá ca là một trong những bài
được sáng tác theo thể thơ đó.
Thời gian và không gian nghệ thuật trong bài này rất rõ. Thời gian vào tháng
tám, đang bước vào mùa thu, bầu trời cao, gió thổi lớn. Năm câu đầu gieo liền năm
vần bằng (hào, mao, giao, sao, ao) ở cuối như vẽ nên âm thanh và cảnh tượng từng
trận gió thu liên tiếp từ trời cao thổi tới, liên tiếp cuốn từng lớp tranh bay đi tứ tung.
Tiếng gió gào mãnh liệt “phong nộ hào” (gió gào giận dữ) ta như nghe thấy âm thanh
gào rít của gió. Chữ “nộ” (giận dữ) đã nhân cách hóa trận gió khiến cho những câu
sau có tính hành động, đồng thời hàm ẩn sắc thái tình cảm. Các động từ (cuốn, bay,
rải, mắc, chìm) vẽ nên một cách sinh động sự giận dữ của cuồng phong trước con mắt
hốt hoảng, bất lực của con người. Cách tả của Đỗ Phủ rất cô đọng. Qua sự miêu tả
hầu như khách quan, nhà thơ vẫn thể hiện rõ sắc thái tâm trạng của con người, gây ấn
tượng mạnh, tạo sự đồng cảm và khiến cho người đọc cảm thương với nỗi tiếc xót,
hốt hoảng của nhà thơ trước cảnh tượng gió thu thổi tốc mái nhà tranh.
Từ việc nhà tốc mái, dẫn đến nhiều cảnh đời đau khổ xót xa. Những tấm tranh
rải khắp bờ sông, treo tót ngọn rừng xa, quay lộn vào mương sa khó lòng lấy lại
được. Thế nhưng, thấy Đỗ Phủ già yếu, lũ trẻ con nghèo khổ thôn Nam ngỗ ngược
chạy đến cướp tranh. Mặc cho ông cố gắng quát tháo cũng không giữ được những
cọng tranh, đành bất lực nhẫn nhịn nhìn đám trẻ, quay về vịn gậy thở than. Lòng giận
mà không ghét lũ trẻ, ông nhìn thấy đằng sau hành vi đạo tặc của đám trẻ một cảnh
sống khốn cùng. Nếu không quá khốn đốn thì nhà thơ đâu đến nỗi quay quắt tiếc mấy
tấm tranh xơ xác, lũ trẻ nếu không quá nghèo khổ túng thiếu thì đâu dám lao vào giữa
trận cuồng phong để giành giật mấy tấm tranh còm của một cụ già. Lòng thông cảm
những con người nghèo khổ được thể hiện dưới những câu thơ mủi lòng, kín đáo.
Hai câu: “Nga khoảng phong định, vân mặc sắc; Thu thiên mạc mạc hướng
hôn hắc”, trong cả nguyên văn và bản dịch đều gieo vần “nhập thanh – trắc”, vừa vẽ
nên cảnh trời đất tối sầm vừa nhuốm màu tâm trạng thảm sầu của con người. Gió yên,
tưởng đã qua cơn khổ nạn, ngờ đâu gió yên khi đã làm xong cái việc cuốn phăng mấy
lớp tranh trên nhà, để rồi mưa ập đến gieo khổ nạn nặng nề hơn.
Cảnh đêm rét, nhà dột, suốt đêm không ngủ. Ngôi nhà lộ thiên để lộ nỗi khốn
cùng của nhà thơ. Hình ảnh khổ sở, tủi nhục, ê chề đau đớn của một thiên tài hiện lên
làm xoáy gan, cháy ruột lòng người.
Giá trị bài thơ chính là từ nỗi đau riêng của một người, nỗi bất hạnh của một
gia đình, Đỗ Phủ còn biểu hiện nỗi thống khổ của thời đại, cuộc sống nhân dân thời
Đường lúc bấy giờ “Tự kinh táng loạn thiểu thụy miên” do chiến tranh loạn lạc. Đó là
tình trạng nghèo khổ, cơ cực của nhân dân, trong đó có người trí thức mà Đỗ Phủ là
một điển hình.
Trong thời điểm lạnh lẽo tối tăm đến tận cùng ấy, nước đã tràn bờ, làm bùng
lên một ước mơ: “An đắc quảng hạ thiên vạn gian; Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan
nhan; Phong vũ bất động, an như san”. Ba câu thơ liên tiếp gieo vần bằng như dòng
thác tuôn đổ xuống, giải tỏa hết khổ đau u uất. Ước mơ thật thực tế và cụ thể. Trong
thời buổi nhà Đường hỗn chiến, ước mơ ấy có thể không có cơ sở, nhưng đó là ước
mơ đầy chất lãng mạn của con người “vì dân đen buồn tủi quanh năm”.
Hai câu cuối bài thơ chân thành xúc động, phát ra từ trái tim yêu thương con
người. Ước mơ – niềm tin và hy vọng của Đỗ Phủ được diễn tả bằng ngôn ngữ thơ
ca: “Ô hô! Hà thì nhãn tiền đột ngột hiện thử ốc”, và đứng trên đỉnh cao ước mơ ấy
nhà thơ tự nguyện: “Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc!”. Lời nguyện ấy vị tha và
nhân ái biết bao!
Từ bút pháp hiện thực ở phần đầu, Đỗ Phủ chuyển sang bút pháp lãng mạn ở
phần cuối, sự kết hợp thật hài hoà. Ngôn ngữ thơ giản dị, dễ hiểu. Hình tượng thơ
đẹp, gợi cảm. Hình tượng con người được tác giả khắc họa sinh động, gây xúc động.
● Thu Hứng
Phiên âm:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch nghĩa:
Sương móc trắng xoá làm tiêu điều cả rừng cây phong,
Núi Vu, Kẽm Vu làm hơi thu hiu hắt.
Giữa dòng sông sóng vọt lên tận lưng trời,
Trên cửa ải mây sa sầm giáp mặt đất âm u.
Khóm trúc nở hoa đã hai lần [làm] tuôn rơi nước mắt ngày trước,
Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ.
Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
Về chiều, thành Bạch Đế cao, tiếng chày đập áo nghe càng
dồn dập.
Dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt khí thu lòa.
Lưng trời sóng gợn dòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm trú tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chắt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
(Nguyễn Công Trứ dịch)
Khi đất nước kiệt quệ vì chiến tranh loạn li thì Đỗ Phủ cũng lưu lạc tới Ba
Thục, ngụ ở Quỳ Châu (Tứ Xuyên), trong mùa thu năm 766, ở nơi núi non hùng vĩ,
hiểm trở, xa cách quê hương gia đình mấy nghìn dặm đã khơi nguồn cho nhà thơ
sáng tác một chùm thơ mùa thu gồm tám bài gọi là “Thu hứng”. Chùm thơ thể hiện
những suy tư sâu lắng, nhiều cảm xúc và lòng thương nhớ quê hương da diết của Đỗ
Phủ lúc bấy giờ. Bài Thu hứng thứ 1 trong chương trình Trung học phổ thông được
xem là “cương lĩnh sáng tác” của cả chùm thơ.
Về mặt đề tài, Thu hứng nói lên cảm hứng, suy nghĩ của Đỗ Phủ về mùa thu.
Kim Thánh Thán từng viết: “Gái đẹp đương xuân thì ý nồng nàn, chí sĩ trước thu thì
tình sâu xa” [57, tr. 47]. Đúng vậy, mùa thu là chủ đề ngâm vịnh muôn thuở của thi
nhân. Thu hứng nói lên cảm xúc, ngẫu hứng của thi nhân trước cảnh mùa thu buồn
bã, u sầu, gợi những nỗi nhớ nhung da diết. Một khoảng rừng thu, một bầu trời thu,
một hàng cây thu… đều gợi lên những cảm giác buồn tẻ, lẻ loi.
Xét về mặt bố cục, thông thường một bài thơ Đường Luật gồm 4 phần: đề,
thực, luận và kết, nhưng toàn bài thơ, ta thấy nổi lên hai ý rõ rệt: bốn câu đầu tả cảnh
thu, bốn câu sau thể hiện tình cảm trước cảnh thu ở nơi đất khách.
Mùa thu mà Đỗ Phủ nói đến trong bài thơ không phải là mùa thu chung chung,
cũng không phải mùa thu ở Hà Nam mà là mùa thu ở vùng Quỳ Châu (Tứ Xuyên).
Hai địa danh Vu Sơn, Vu Giáp thuộc thượng lưu sông Trường Giang, núi non hiểm
trở, vào thu nơi đây càng ảm đạm mịt mờ.
Lạnh lùng, buồn bã là hai cảm giác đầu tiên ta bắt gặp khi đọc câu thơ đầu.
“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm”
Khi tả mùa thu, các nhà thơ Đường thường nói đến cây phong – một loại cây
về mùa thu lá úa vàng, tượng trưng để khắc họa cảnh thu.
Tính động từ “điêu thương” không chỉ để tả rừng phong mà còn thể hiện nỗi
buồn thương của lòng người. Rừng phong điêu tạ, lòng người bi thương. Cả một rừng
cây phong xơ xác tiêu điều bị sương móc trắng xóa bao phủ. Mùa thu buồn, rừng thu
lá thu vàng úa lại thêm những hạt sương móc làm cho cả rừng phong tàn tạ, điêu linh,
gợi lên cảm giác u buồn, một nỗi buồn âm thầm lặng lẽ.
Chẳng những rừng thu mà Đỗ Phủ còn nói đến khí thu:
“Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm”.
Tiếp sau “Vu Sơn” “Vu Giáp” là cái khí “tiêu sâm” (mờ mịt), tất cả đều lạnh
lùng vắng lặng. Rừng thu đã buồn, khí thu càng thêm hiu hắt. Tất cả thấm đượm màu
thu, tình thu. Hai câu thơ đầu là hai cảnh thu: một cảnh ở rừng phong, một cảnh thu ở
núi. Bằng không gian (rừng núi, hơi sương) mà thấy thời gian (mùa thu). Tuy ở hai
nơi, hai cảnh có khác nhau nhưng nhà thơ nhìn nó với tâm trạng và cảm giác buồn và
nhớ quê da diết.
Hai câu tiếp theo, Đỗ Phủ tả cảnh thu ở lòng sông, lưng trời, mặt đất và cửa ải.
“Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm”.
Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh về lời và ý, tạo nên hai bức tranh đối nghịch:
một bên sóng vọt cao lên lưng trời; một bên mây lại sà xuống tiếp giáp mặt đất. Ở Vu
Sơn, Vu Giáp ngước mắt nhìn sông, chỉ thấy sông vọt ngất trời, nhìn lên cửa ải chỉ
thấy gió mây mịt mờ liền đất.
Người ta thường nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trước cảnh trời
mây hiu hắt của mùa thu, một cách tự nhiên, con người trở về với thực tại, đối diện
với cảnh vật trước mắt:
“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm”
Trong bài Xuân vọng, vì cảm thương thời thế mà ông nhìn hoa cũng thấy hoa
nghẹn ngào rơi lệ: “Cảm thời hoa tiễn lệ”. Giờ đây, một lần nữa, nhà thơ nhìn cúc nở
mà tưởng như cúc đã nhỏ lệ, “nhật lệ” có nghĩa tác giả không chỉ khóc một lần mà đã
khóc nhiều lần và khóc từ lâu rồi. Câu thơ hàm súc, khiến ai đọc cũng cảm thấy xúc
động trước tình cảm thương nhớ quê hương của ông trong những tháng ngày tha
phương phiêu bạt.
Hình ảnh “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ” đối xứng với “Cô chu nhất hệ cố
viên tâm” rất chuẩn (danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, tính từ đối với
tính từ). Đó chính là tấm lòng của nhà thơ luôn hướng về quê hương, chỉ vì chiến
tranh loạn lạc mà phải ở lại nơi này càng làm cho lòng thêm sầu muộn, tâm tư lúc nào
cũng thương cũng nhớ. Đang chìm lặng trong nỗi nhớ thương, thì:
“Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm”
Mùa thu rồi sẽ qua đi nhường bước cho mùa đông giá lạnh. Đối với Đỗ Phủ,
mùa thu buồn gợi nhiều nỗi nhớ nhung, mùa đông đang đến lại là nỗi lo khôn xiết.
Một kẻ xa quê, tứ cố vô thân như ông, thì mùa đông đến là nỗi kinh hoàng.
Việc chuẩn bị cho mùa đông thật khẩn trương, công việc may áo, đập vải được
diễn đạt trong hai câu thơ vừa có tiết tấu, nhịp điệu lại vừa có âm thanh.
“Xứ, xứ” (nơi nơi) nhưng nhà thơ lại buộc lòng mình ở Bạch Đế thành phía
đông Quỳ phủ. Nói gần để chỉ xa, lòng nghĩ “dao thước” trong nhà tai chỉ nghe thấy
tiếng châm thành Bạch Đế. Tai xa nghe, mắt xa trông vì thế mà nỗi khổ của người
viễn khách thêm mực thê lương.
Thu hứng là một bài thơ có nhiều ẩn ý, gợi nhiều liên tưởng. Cảnh vật và tâm
tình của bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn. Cảnh đượm vẻ buồn mà tình của thi nhân
cũng da diết, sầu thương. Mùa thu là mùa của gợi nhớ mông lung, nhớ nhà, nhớ quê,
nhớ gia đình của những kẻ phải mang kiếp sống tha phương lênh đênh nơi xứ lạ quê
người, cái nỗi niềm cô độc lầm than của một kiếp sống ly hương. Thông qua cảm xúc
trước mùa thu quê người, Đỗ Phủ thể hiện tình quê thấm đượm sự thầm kín của lòng
mình.
3.2.4. Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu)
● Thôi Hiệu (704-754) quê ở Biện Châu (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh
Hà Nam). Năm Khai Nguyên thứ 11 (723), ông đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức Tư huân
Viên ngoại lang.
Thôi Hiệu là một nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường. Thời trẻ, phong cách thơ
ông phù diễm (đẹp mà không sâu). Về sau do đi du ngoạn nhiều nơi, chứng kiến
nhiều cảnh đời, nhất là lại tòng quân nơi biên tái nên phong cách thơ của ông có
nhiều chuyển biến, khẳng khái hùng hồn. Ông sáng tác không nhiều, thường viết về
đề tài tình yêu nam nữ và chinh chiến nơi biên cương. Thơ ông trong sáng, sinh động
gần gũi với dân ca. Trong tập Toàn Đường thi, thơ của ông có 48 bài, nhưng chỉ với
bài thơ Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu cũng đã nổi tiếng. Nghiêm Vũ đời Tống trong
Thương Lăng thi thoại có lời bình: “Đường nhân thất ngôn luật thi, đương dĩ Thôi
Hiệu “Hoàng Hạc lâu” vi đệ nhất” (Luật thi bảy tiếng của người đời Đường thì bài
Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu là nhất). Lời nhận xét đó cũng có nghĩa là các nhà thơ
đời sau rất khâm phục Thôi Hiệu và bài thơ Hoàng Hạc Lâu.
● Hoàng Hạc lâu
Hoàng Hạc lâu là tên một cái lầu ở trên ghềnh đá Hoàng Hộc, ở huyện Vũ
Xương, tỉnh Hồ Bắc. Theo truyền thuyết, Phí Văn Vi sau khi lên tiên, cưỡi hạc vàng
trở về nghỉ tại đây. Theo Tề hài chí, tiên nhân Tử An cưỡi hạc vàng qua nơi đây [57,
tr. 29]. Theo sách Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10 (tập 1): truyền thuyết kể rằng, xưa
có chàng buồn vì thi hỏng, lang thang trên bãi Anh Vũ, bên bờ Trường Giang. Bỗng
có con hạc vàng đáp xuống. Phí Văn Vi cưỡi hạc bay về trời [10, tr. 398]. Người đời
sau dựng lầu Hoàng Hạc để ghi nhớ sự tích ấy.
Thôi Hiệu nhân đến Hoàng Hạc lâu, hoài niệm thần tiên quá khứ, cảm khái
trước hiện tại nhân thế mà viết nên bài thơ này.
Phiên âm:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản.
Bạch vân thiên tải không du du,
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng thử nhân sầu.
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi rồi,
Nơi đây còn trơ lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi đã bay đi, không trở lại nữa,
Mây trắng nghìn năm còn bay chơi vơi,
Hàng cây đất Hán Dương phản chiếu rõ mồn một trên
dòng sông tạnh,
Trên bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mỡn xanh tươi.
Chiều tối [tự hỏi] đâu là quê hương?
Khói và sóng trên sông khiến cho người buồn.
Dịch thơ:
Bản dịch thứ nhất:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Tản Đà dịch)
Bản dịch thứ hai:
Ai cưỡi Hạc vàng đi mất hút,
Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi!
Hạc vàng một đã đi, đi biệt,
Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi.
Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng,
Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh ngời.
Hoàng hôn về đó quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.
(Khương Hữu Dụng dịch)
Nếu như chọn hai mươi nhà thơ trong số 2.300 thi sĩ thời Đường sẽ không có
Thôi Hiệu, nhưng thử chọn 10 bài hay nhất trong số hơn 48.000 bài thơ Đường thì
không thể không có Hoàng Hạc lâu. Thực vậy, dẫu chỉ là một bài lưu dấu nhưng cũng
đủ cho nhiều độc giả ngân lên một niềm rung cảm chân thành nhất cùng với thi nhân.
Một Hoàng Hạc lâu tuyệt diệu đã thật sự làm rung động tâm hồn, tình cảm người đọc.
Nó như vừa gói trọn lại, vừa bộc lộ nỗi lòng sâu kín của thi nhân. Tâm trạng u hoài
ngàn năm đó được tác giả mô tả hết sức điêu luyện, tài nghệ qua ngòi bút của mình
đứng trước cảnh sắc nên thơ nơi lầu Hoàng Hạc.
Xuất phát từ những góc độ khác nhau mà Hoàng Hạc lâu có khá nhiều cách
cảm nhận. Song thơ Đường không phải là món ăn giải trí nhẹ nhàng, bởi đó là loại
thơ có tính tư duy cao, đòi hỏi người đọc phải có sự suy ngẫm, khám phá, giải mã
mới có thể hiểu được những kết luận bất ngờ ẩn sau từng câu chữ mà nhà thơ muốn
gửi gắm.
Bài thơ được viết theo thể luật thi thất ngôn bát cú. Qui định của luật thi rất
chặt chẽ, rất kị phá cách về thanh luật. Ở đây, Thôi Hiệu đã vượt qua được trở ngại
đó. Cả ba câu thơ đầu của Hoàng Hạc lâu đều phá cách. Nếu đúng luật thì thanh của
chữ thứ 4 phải ngược với chữ thứ 2 và 6 để tạo đòn cân thanh điệu cân xứng theo
kiểu (bằng-trắc-bằng) hoặc (trắc-bằng-trắc), theo nguyên tắc “nhị tứ lục phân minh”.
Nhưng thực tế, thanh điệu ở câu đầu là (bằng-bằng-trắc), câu hai là (trắc-bằng-trắc)
và câu ba là (trắc-trắc-trắc). Phá cách vì chữ cuối câu thơ đầu là “khứ”, thanh (trắc),
bỏ vận. Dụng ý của nhà thơ là bỏ thanh lấy ý vì chỉ có “khứ” mới gồm cả hai nghĩa
“đi” và “mất”.
Hiện tượng phá cách còn thể hiện ở câu thứ 3, 6 thanh (trắc) đi liền nhau và
câu thứ 4 lại có 5 thanh (bằng). Nhà thơ dùng hai mảng âm bằng và trắc để chọi nhau:
“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản; Bạch vân thiên tải không du du”, nhưng đối vẫn
rất chỉnh: màu sắc đối với màu sắc (vàng – trắng), danh từ đối với danh từ (hạc –
mây, nhất - thiên), mặc dù câu trên là: b/t/t/t/t/t/t câu dưới lại là: t/b/b/t/b/b/b.
Mặc dù đòn cân thanh điệu không được cân xứng nhưng sáu thanh trắc ở câu
thứ ba đi liền phối hợp với nhau, âm điệu trầm đục nặng nề diễn tả được tâm trạng
đau đớn trước thực trạng người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi không còn quay trở lại,
điều đó cũng có nghĩa rằng cái đẹp, cái huy hoàng linh thiêng đã mất. Câu thơ thứ tư
lại có năm thanh bằng tạo cảm giác êm dịu.
Câu thơ sóng đôi, ý đối lập, tương phản cùng các điệp từ khứ, hư từ không, và
một trường hợp ngoại lệ nữa đó là cách dùng từ đồng âm dị nghĩa. Từ “Hoàng hạc”
được lặp lại ba lần. Hoàng hạc (chim) ở câu một, Hoàng Hạc (lầu) ở câu hai và hoàng
hạc (chim) ở câu ba. Sự lặp lại này có dụng ý nghệ thuật
Nghệ thuật đối thật điêu luyện “Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương
thảo thê thê Anh Vũ châu”. Đối thanh, đối ý, đối từ loại đều cân xứng hài hòa: danh
từ đối với danh từ “tình xuyên – phương thảo; Hán Dương thụ - Anh Vũ châu”, tính
từ đối với tính từ “lịch lịch – thê thê” (rõ mồn một – rậm rạp) làm sống dậy bức tranh
thiên nhiên sắc màu tươi sáng, đường nét hài hòa đầy sức sống của cánh rừng, dòng
sông, bãi cỏ như cố sức vẫy gọi con người đang đắm chìm trong mộng tưởng trở về
với thực tại.
Những nét trữ tình bay bổng được nhà thơ miêu tả bằng một bút pháp điêu
luyện tuyệt vời, với một sự chọn lọc từ ngữ, ý cảnh cô đọng, hàm súc, gợi nhiều liên
tưởng. Toàn bài thơ chỉ có 8 câu, 56 chữ vẻn vẹn, nhưng bức tranh thiên nhiên và con
người được tái hiện ở đây thật sinh động, tài tình.
Về bố cục có thể chia bài thơ làm hai phần, bốn câu đầu là sự hoài niệm về quá
khứ, bốn câu sau là sự thất vọng trước hiện tại và nỗi lòng buồn nhớ quê hương của
tác giả...
Hình tượng con người trong thơ là nhân vật trữ tình – nhà thơ. Trong thơ cổ,
thi nhân ít chịu gò ép mình, trói mình trong một tư thế gượng gạo mà họ muốn lên
thật cao để chiếm lĩnh không gian, thời gian. Họ coi mình là một tiểu vũ trụ trong cái
đại vũ trụ bao la rộng lớn, họ xuất hiện với một tư thế đĩnh đạc để nói lên tiếng nói
giữa đất trời mênh mông. Đó là con người tương thông với vũ trụ, giao hòa cùng
thiên nhiên. Chỉ có quên cái hữu hạn, hòa mình vào thiên nhiên, con người mới cảm
thấy tự do, thư thái để chiêm nghiệm với đất trời, tưởng nhớ cái đã qua, nghĩ về hiện
tại và tương lai. Khi ấy, tâm hồn họ sẽ siêu thoát, cảm xúc ắt sẽ thăng hoa. Trong
Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu cũng xuất hiện ở một độ cao nhất định: trên lầu Hoàng
Hạc, ở nơi ấy hồn thơ như trải rộng, để rồi nhà thơ hoài niệm:
“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản.
Bạch vân thiên tả không du du”
Bốn câu thơ là một loạt những đối lập: giữa con người và sự vật, giữa mất và
còn, giữa cõi tiên và cõi trần, giữa quá khứ và hiện tại. Sở dĩ cái còn kia – lầu Hoàng
Hạc, là vì có cái mất vĩnh viễn – chàng Tử An cưỡi hạc qua đây, cả hạc vàng, người
cưỡi hạc, người lầu Hoàng Hạc đã lùi vào dĩ vãng, trở thành hư vô. Đó là cái đã mất,
song cái mất đó là tiền đề của cái còn. Người xưa không còn mà chim hạc cũng chẳng
thấy, Thôi Hiệu mượn giai thoại của người xưa để nói về sự mất còn của ngày hôm
nay, cái cao quý, cái linh thiêng, cái hồn đã không còn nữa “bất phục phản”, chỉ trơ
lại, sót lại một thực thể vô hồn. Cõi tiên đã mất đi chỉ còn lại cõi đời trần tục, dấu vết
của một sự tích, và hình ảnh bạch vân không còn là hình ảnh mây trắng cụ thể nữa mà
đó là cái huyền thoại xa xăm, gói trọn tâm cảnh của thi nhân vào đấy.
Một điều đặc biệt ở đây là trong bốn câu, chỉ có một câu Thôi Hiệu tả lầu, ba
câu kia tả người xưa. Theo Kim Thánh Thán: “câu 1 tả người xưa, câu 3 nghĩ người
xưa, câu 4 là ngóng người xưa” [57, tr. 30] Như thế, lòng của thi nhân chỉ nghĩ đến
người xưa, trông ngóng người xưa chứ tuyệt nhiên không để mắt đến lầu.
Từ chốn thần tiên, tác giả đưa ta trở về với thực tại, để người nay thổ lộ tâm tư
hoài vọng của mình:
“Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng thử nhân sầu”.
Buổi chiều ở lầu Hoàng Hạc không còn là ảo tưởng xa xôi mà là hiện thực.
Nắng chiều, hàng cây, bến sông, cỏ xanh… thật đìu hiu cô quạnh khiến người xa quê
càng thêm sầu não, tự hỏi lòng: đã già mà vẫn bôn ba, số phận mình cứ mãi lênh
đênh. Ở đây thơ và tâm hồn nhà thơ là một, cảnh sắc thiên nhiên: trời, mây, sông,
nước, cỏ cây hòa lẫn làm một.
Thi nhân đã đặt tâm hồn mình vào khoảng thời gian và không gian vô tận.
Không gian lầu Hoàng Hạc như gắn liền với trời cao và khoảng không rộng lớn.
Cảnh ở đây giờ chỉ còn trơ trọi một lầu Hoàng Hạc giữa cảnh bãi vắng, sông trôi,
giữa đất trời bao la. Nó cuốn hút tác giả vào chốn xa xôi bay theo mây gió, mặc cho
thời gian lặng lẽ trôi qua trong cái không gian tĩnh mịch ấy
Lầu Hoàng Hạc như một ám ảnh nghệ thuật. Ba lần xuất hiện, hạc vàng đều có
liên quan chặt chẽ với nhau. Hạc vàng bay lên trời là tiền đề cho Hoàng Hạc lâu tồn
tại, lầu còn đó nhưng hạc vàng đã bay mất đi không bao giờ trở lại.
Không gian mênh mông như nối liền bầu trời lầu Hoàng Hạc với bầu trời châu
Anh Vũ và lan tận biển Đông. Cái mênh mông của trời đất ấy cũng đổi thay bao độ.
Hoàng Hạc thời Đường vẫn tồn tại trong không gian của Hoàng Hạc sơn. Thời gian
cứ trôi đi không bao giờ trở lại, những khoảnh khắc nối tiếp cứ sinh ra mãi trong
không gian.
Thời gian nghệ thuật được nhà thơ chuyển đổi thật tài tình, từ chỗ không bằng
lòng với hiện tại, quay về với quá khứ, nhưng quá khứ một đi không trở lại, không
thể vãn hồi, nhà thơ lại về thực tại. Thời gian nghệ thuật ở đây không vận động một
chiều mà nó được tái tạo dưới dạng hoài cổ ký ức, theo trường cảm xúc của thi nhân.
Cảm nhận thời gian, con người cảm thấy ngắn ngủi, chóng tàn với thời gian vũ trụ
tĩnh tại bất biến là hai chủ đề thời gian tiêu biểu trong thi ca Trung Quốc.
Đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn về phía Hán Dương, trời quang mây tạnh, hiện
rõ mồn một hàng cây bên bờ, đấy là cái còn. Hàng cây ấy cũng đã có bao cây đã mất
rồi được trồng lại cũng giống như cái lầu kia, cả hai vẫn tồn tại mãi giữa không gian,
cạnh đó là bãi Anh Vũ xanh đầy cỏ non. Những nét chấm phá tuy đơn sơ, bình dị
nhưng gợi cảm: có màu vàng của nắng chiều, màu xanh của cỏ, cây, màu trắng của
khói. Thế nhưng, nếu cảnh này dậy lên với trời trong nắng sớm của bình minh, cảnh
vật sống động và rộn rã thì chiều đến khi hoàng hôn buông xuống càng khiến tâm tư
con người thêm sầu muộn.
Không gian nghệ thuật được tác giả xây dựng theo cách con người cảm thụ là
trung tâm. Quy mô không gian có ý nghĩa đặc biệt biểu hiện sức mạnh tâm hồn.
Người xưa nói: hùng tâm đại chí – chí lớn gắn với chiếm lĩnh không gian lớn. Không
gian lớn có tác dụng phóng tầm nhìn, nên không phải ngẫu nhiên mà thơ Đường
thường có các động tác trữ tình: đăng cao, cúi, ngửa, vọng viễn… Mặc dù trong bài
thơ không trực tiếp sử dụng các động tác trữ tình ấy nhưng qua cách thức diễn đạt,
hẳn độc giả vẫn có thể hình dung ra không gian trong bài thơ là không gian động,
thoắt ẩn thoắt hiện, thoắt ở chỗ này thoắt ở chỗ kia.
Dường như không tìm được sợi dây liên hệ tình cảm nào trước không gian
vắng lặng, nhà thơ như thất vọng và chuyển điểm nhìn về với chính mình và bất giác
chạnh lòng: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng thử nhân sầu”.
Hoàng hôn đã khuất bóng, sự vật xung quanh trở về với dáng vẻ đìu hiu, cô
quạnh. Trên sông sóng gợn nhấp nhô, khói tỏa lờ mờ, khiến cho lòng khách tha
hương thêm buồn da diết, khắc khoải. Thời gian thì “nhật mộ”, không gian thì “hà xứ
thị?” với hình ảnh gợi sầu “yên ba giang thượng”. Nhà thơ quay về đối diện với chính
mình. Cảnh hoàng hôn lữ thứ không nhà làm cho con người nghĩ tới tuổi già, không
biết đâu là bến đậu để được bình an giữa những biến động cuộc đời.
Nỗi buồn phủ kín, tất cả như bế tắc trong không gian và cả thời gian để rồi tất
cả thời gian và không gian chỉ còn đọng lại một chữ sầu rơi xuống ở cuối bài. Một
chữ sầu gói trọn nỗi đau của cả một đời người, một thời đại, vời vợi giữa không gian,
thời gian và nhân gian.
Chỉ để lại cho đời mấy chục bài thơ, tập hợp vào một quyển nhưng chỉ bài
Hoàng Hạc lâu cũng đã đủ làm cho danh tiếng nhà thơ vang dội qua bao thế hệ. Có lẽ
cuộc đời, con người cụ thể và cả thái độ, nhân cách, xử thế của nhà thơ đã qua đi với
thời gian, song Hoàng Hạc lâu vẫn còn sống mãi. Bụi thời gian không thể nào lấp phủ
một bài thơ của Thôi Hiệu.
3.2.5. Phong Kiều dạ bạc (Trương Kế)
● Trương Kế
Trương Kế năm sinh năm mất không rõ, chỉ biết ông sống vào khoảng cuối
thời Thịnh Đường sang đầu thời Trung Đường. Trương Kế tự là Ý Tôn, quê ở Tương
Châu (nay thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc). Ông đỗ tiến sĩ trong khoảng
niên hiệu Thiên Bảo (742 - 756), có giữ một số chức quan nhỏ, mất tại nhiệm sở
trong cảnh nghèo nàn. Thơ Trương Kế hiện còn khoảng 51 bài. Trong đó bài “Phong
Kiều dạ bạc” được hâm mộ nhất, được đời sau truyền tụng, “vĩnh thùy bất hủ” (còn
mãi không mờ).
● Phong Kiều dạ Bạc
Phiên âm:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch nghĩa:
Trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời,
(Khách) nằm ngủ trước cảnh buồn của đèn chài và lùm cây
phong bên sông.
Chùa Hàn Sơn ở ngoài thành Cô Tô,
Nửa đêm tiếng chuông văng vẳng đến thuyền khách.
Dịch thơ:
Trăng tà chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
(K.D. dịch, trong thơ Đường, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1978)
Đêm lữ thứ tha hương, thi nhân đỗ thuyền ở bến Phong Kiều, thành Cô Tô (nay
thuộc thành phố Tô Châu, tỉnh Giang Tô). Cảnh sắc thanh u bến vắng gợi nỗi sầu
trong lòng lữ khách cô đơn. Trương Kế xuống bút, phác họa cảnh vật thanh âm mình
cảm nhận được lúc nửa đêm thành một bài thơ trang nhã.
Ai cũng có thể nói trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời. Cảnh vật, âm thanh ấy
không có gì xa lạ. Vậy mà khi đặt chúng bên nhau trong một câu thơ thì cảnh tượng
tĩnh mịch lúc nửa đêm bỗng hiện lên. Trăng thượng huyền (ngày 8 tháng 9 âm lịch)
nửa đêm đã xế, để lại màn đêm mông lung. Ba cảnh tượng do ba giác quan cảm nhận:
nhìn thấy trăng tà, nghe tiếng quạ kêu, cảm thấy sương lạnh. Quá trình của thời gian –
lúc nửa đêm, được thể hiện qua quá trình của cảm giác.
Câu thứ hai vẽ tiếp cảnh tượng đặc trưng và cảm thụ của người lữ khách trong
đêm ở bến Phong Kiều. Trong màn đêm mông lung, cảnh vật mờ ảo không rõ nét, chỉ
thấy mờ mờ vòm cây bên sông “giang phong ngư hoả đối sầu miên”, trong màn
sương mờ mịt, trên mặt sông nhấp nháy những đốm lửa thuyền chài. “Giang phong”
và “ngư hoả” – một tĩnh một động, một tối một sáng. Mãi đến lúc này, thơ mới tả về
người lữ khách – “sầu miên”. Sầu miên chính là tâm trạng của người lữ khách đang
mơ màng trong giấc ngủ buồn. Nỗi sầu mơ hồ, miên man chập chờn trong cảnh vật
sánh đôi với nỗi buồn trong lòng người.
Xét theo luật thi, câu 2 vốn là câu thực mà đã sớm nói ra “nỗi lòng” (sầu) thì
khó lòng đi tới câu kết. Theo luật làm thơ cận thể, đặc biệt là thơ tuyệt cú, thì phần
kết phải là trọng tâm ý nghĩa của toàn bài. Chỉ có mười bốn chữ mà hai câu trước đã
vẽ được sáu cảnh, tất cả cái hay đã đúc kết ở hai câu trước mất rồi, còn gì để nói nữa
đây? Do vậy, nhà thơ bối rối. Và may nhờ tiếng chuông chùa Hàn San, nhà thơ bừng
tỉnh và tìm ra cách làm hai câu sau (câu 3 và 4).
Hàn San là tên vị hoà thượng xây dựng và trụ trì chùa này trong thời nhà
Đường. Có giai thoại kể rằng: trong đêm ấy, Trương Kế viết hai câu thơ mở đầu
Phong kiều dạ bạc thì bế tắc, cùng lúc hoà thượng trên chùa Hàn San làm được hai
câu đầu bài tứ tuyệt thì bí lối. Hoà thượng trằn trọc. Chú tiểu lại vấn an, hoà thượng
nói rằng mới làm được hai câu thơ như sau:
“Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung,
Bán tự ngân câu, bán tự cung”
(Mồng ba mồng bốn ánh trăng mông lung,
Vừa giống cái móc câu bạc, lại vừa giống cái cung).
Chú tiểu xin làm tiếp:
“Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,
Bán trầm thuỷ để bán phù không”
(Một mảnh hồ trong xanh chia (vầng trăng) ra hai phần,
Nửa chìm đáy nước, nửa nổi trên không)
Dịch thơ:
Đêm nay đầu tháng trăng mờ,
Nửa như móc bạc nửa ngờ vành cung.
Hồ xanh ai xẻ đôi vừng,
Nửa chìm đáy nước nửa lòng trên mây”
(Theo bản thuyết minh phim Trung Hoa du ký, tập 4. Đài Truyền hình Tp.HCM
sản xuất 2004).
Bốn câu hợp lại vừa khéo thành bài thất tuyệt. Hoà thượng vui mừng bảo chú
tiểu đi thỉnh chuông, còn ông thắp hương để tạ ơn Phật tổ đã phù hộ cho hai thầy trò
làm được bài thơ hay. Trương Kế đang ở bến Phong Kiều gần đó chợt nghe tiếng
chuông vọng đến thuyền, bắt được ý thơ cho hai câu chót. Nhà thơ đã tìm ra lối giải
thoát là: Phật giáo.
Hai câu sau của Trương Kế cũng chỉ mười bốn chữ, chỉ độc tôn tiếng chuông
thong thả buông trong đêm tĩnh mịch, đem sự thanh thản, bình yên đến cho mọi
người. Cả bốn câu thơ dập dềnh như sóng, như con thuyền đậu bến. Câu một thấy
thường nhưng đến câu hai thật hay, câu ba như một bước lùi để làm nền cho câu bốn
xuất thần nâng bài thơ lên một tầng cao, trở thành một tác phẩm tuyệt diệu của
Đường thi.
3.2.6. Khuê oán (Vương Xương Linh)
● Vương Xương Linh
Vương Xương Linh (698? – 756?), tự Thiếu Bá quê ở Kinh Triệu (nay thuộc
thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây). Thời Huyền Tông Khai Nguyên thứ 15 (727)
ông đỗ tiến sĩ, được bổ nhiệm làm huyện úy Phạm Thủy, rồi điều đi làm việc ở Lĩnh
Nam. Năm sau ông trở về Trường An nhận chức huyện thừa ở Giang Ninh, người đời
gọi ông là Vương Giang Ninh. Sau đó ông lại bị giáng chức làm huyện úy ở Long
Tiêu. Trong loạn An- Sử, ông trở về quê lánh nạn ở Hào Châu và bị tên thứ sử Hào
Châu là Lư Khâu Hiểu giết hại. Ông kết bạn thân với Mạnh Hạo Nhiên, Lí Bạch,
thường làm thơ tặng đáp qua lại.
Vương Xương Linh là một trong những nhà thơ nổi tiếng Thịnh Đường. Tác
phẩm “Hà nhạc anh linh tập” của Đường Ân Phan ghi chép tác phẩm của mười hai
nhà thơ trong đó thơ Vương Xương Linh nhiều nhất. Ân Phan cho rằng Vương
Xương Linh là nhà thơ đã kế thừa cốt cách rằn rỏi trong thơ văn của Kiến An, chuyển
đổi phong cách thơ hời hợt của thời Tề Lương. Thơ ông thường đề cập đến cuộc sống
của tướng sĩ nơi biên cương, nỗi oán hờn của người cung nữ, nỗi li sầu biệt hận của
người thiếu phụ khuê các, tình bằng hữu chân thành, trong sáng…
Thơ của Vương Xương Linh rất tinh tế, trang nhã, thanh tân, ý cảnh thâm thúy.
Ông sành các thể thơ, trong đó đặc sắc nhất là thất ngôn tuyệt cú (tứ tuyệt). Nhiều bài
tuyệt cú của Vương Xương Linh được người thời Đường gọi là “thần phẩm”. Thơ
của ông hiện còn khoảng 186 bài; trong đó những bài như Xuân tái, Thái liên khúc,
Phù Dung lâu tống Tân Tiệm, Khuê oán… rất được người đời hâm mộ.
● Khuê oán
Phiên âm:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Dịch nghĩa:
Người đàn bà trẻ nơi phòng khuê không biết buồn,
Ngày xuân trang điểm lộng lẫy, bước lên lầu đẹp.
Chợt thấy sắc [xuân] của cây dương liễu đầu đường,
Hối hận đã để chồng đi [tòng quân lập công, làm quan]
kiếm tước hầu!
Dịch thơ:
Bản dịch thứ nhất:
Trẻ trung nàng biết chi sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm gương.
Nhác trông vẻ liễu bên đường,
“Phong hầu”, nghĩ lại, xui chàng kiếm chi!
(Tản Đà dịch)
Bản dịch thứ hai:
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.
Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.
(Nguyễn Khắc Phi dịch)
Trừ một trăm năm thịnh vượng, còn phần lớn thời gian nhà Đường rơi vào
cảnh chiến tranh loạn lạc. Chiến tranh thời Đường có chiến tranh mở rộng bờ cõi biên
cương, chiến tranh chống sự xâm lược từ bên ngoài và chiến tranh trong nộ bộ các
tập đoàn thống trị.
Để mở rộng lãnh thổ và đề phòng sự xâm lấn, nhà Đường đã nhiều lần chủ
trương dùng sức mạnh vũ lực gây chiến tranh với các ngoại tộc ở các vùng biên giới.
Đã có chiến tranh là có chia li, có đau thương mất mát, mà có lẽ người chịu nhiều mất
mát nhất là người phụ nữ khi có chồng ra chiến trận. Thấu hiểu được điều đó, Vương
Xương Linh đã cho ra đời một kiệt tác: Khuê oán. Khuê oán là tác phẩm thuộc mảng
đề tài về chiến tranh và phụ nữ - Đó là đề tài rất thành công của Vương Xương Linh.
Bài thơ thể hiện diễn biến tâm trạng của một người thiếu phụ có chồng đi chinh chiến
để lập công danh, chức tước.
Vương Xương Linh viết bài thơ này trước cuộc binh biến An Lộc Sơn, khi nhà
Đường còn đang hùng mạnh và tiến hành cuộc chiến tranh để mở rộng biên cương.
Việc này đã khiến nhiều người rất bất bình, Đỗ Phủ đã từng băn khoăn:
“Biên đình lưu huyết thành hải thủy,
Vũ hoàng khai biên ý vị dĩ!”
(Binh xa hành)
(Ngoài biên cương máu đã chảy thành biển mà ý định mở rộng biên cương của nhà
vua vẫn chưa nguôi).
Đây là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, luật bằng, đảm bảo các yêu cầu nghiêm ngặt
của luật thi. Bài thơ chỉ có 28 chữ mà thể hiện thật khúc chiết, thấm đẫm tâm trạng ai
hoài vô vọng của người chinh phụ.
Cuộc đời con người là quá trình tìm kiếm chân lý. Nhưng không phải ai cũng
tìm ra hoặc hiểu được một chân lý nào đó của cuộc sống khi nhìn lại chặng đường đời
không mấy ngắn ngủi của mình đã trải qua. Có những người có khả năng bừng ngộ
những chân lý trước một tình huống nào đó của cuộc sống hoặc sau những trải
nghiệm của chính cuộc đời mình. Chân lý cuộc sống lại thường được thể hiện dưới
những hình thức rất hàm súc và cô đọng. Khuê oán của Vương Xương Linh thể hiện
một quá trình bừng ngộ chân lý của người thiếu phụ. Đó là chân lý về hạnh phúc, mối
quan hệ giữa hạnh phúc và sự nghiệp.
Hình tượng con người trong bài thơ là người thiếu phụ, một nạn nhân khổ đau
trong chiến tranh, họ đón nhận cảnh hạnh phúc lứa đôi chẳng được bao lâu đã chịu
chia lìa để làm người chinh phụ, sống lẻ loi.
Từ hình ảnh người chinh phụ trong Khuê oán, ta lại chợt chạnh lòng nhớ tới
hình ảnh người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, cũng trải qua
cuộc sống bi thảm như “khuê phụ”, không thể nào ghi xiết nỗi khổ đau của họ.
Không gian nghệ thuật trong bài thơ là không gian hẹp, cụ thể nơi khuê các
nhưng nó xen lẫn với không gian mênh mông, cao rộng thể hiện vị trí quan sát ở trên
cao. Thời gian hiện tại, sự việc đang diễn ra trước mắt xen kẽ thời gian tâm trạng.
Sống trong không gian tĩnh lặng với cảnh phòng không chiếc bóng nhưng
người thiếu phụ không biết sầu “bất tri sầu”, luôn đinh ninh một niềm tin về tương lai
tươi sáng rạng ngời. Đó là ngày chồng “kiến công lập nghiệp” trở về, nên lòng nàng
vẫn bình yên theo năm tháng.
Nhưng rồi, theo định luật tuần hoàn của vũ trụ, xuân không tự hẹn mà đến.
Xuân đến như hơi thở ngọt ngào, như nhịp tim đập tự nhiên của đất trời… và xuân
đến với lòng người. Thiếu phụ say sưa, vui vẻ trong cảnh ngày xuân tươi đẹp, nàng
trang điểm xong lên lầu ngắm cảnh xuân. Bức tranh ngày xuân thật viên mãn và tươi
đẹp như tuổi xuân đang độ rực rỡ của nàng. Gương mặt trang điểm lộng lẫy hòa trong
sắc màu xanh biếc của cây cỏ mùa xuân. Không gian, cảnh vật thật thanh thoát không
vướng chút âu sầu.
Từ chốn phòng khuê, người thiếu phụ bước lên lầu “thướng thúy lâu”, thế là
mọi việc thay đổi, không gian giờ đây có sự biến chuyển. Trong thơ Đường ta nhận
thấy mỗi khi lên cao là lúc con người có niềm tâm sự. Lên cao, để trông xa, để có
được tầm nhìn bao quát. Bất chợt nàng bắt gặp sắc màu dương liễu ở đầu đường thay
đổi:
“Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc”
Lập tức tâm trạng người chinh phụ cũng đổi thay: Từ vô tư thành buồn và hối hận.
“Hối giao phu tế mịch phong hầu”
Khi ngắm cảnh ngày xuân, mọi người vẫn thường ngắm mai, liễu. Trong văn
học truyền thống của Trung Quốc, mai và liễu là biểu tượng của mùa xuân, báo hiệu
thời gian của mùa xuân, sắc xuân và tuổi xuân. Mai liễu còn thường chỉ người con gái
đẹp đang ở tuổi xuân, và liễu cũng là biểu tượng của sự li biệt. Vì thế, không phải
ngẫu nhiên mà ánh mắt của người thiếu phụ lại đột nhiên dừng ở cây dương liễu. Sắc
xuân của cành dương liễu nói được bao điều: là hình ảnh người thiếu phụ đẹp đang
độ xuân thì, là mùa xuân – mùa của hạnh phúc, tình yêu, của tình phu thê quấn quýt,
nỗi niềm ly biệt... Nó tác động vào nỗi lòng của người khuê phụ khiến nàng bừng
tỉnh. Chữ “hối” (hối hận) là linh hồn của bài thơ, “hối” là tự trách mình. Nàng tự ăn
năn hối hận tại sao không biết giữ chồng mà để chồng ra trận, vào chỗ hiểm nguy?
Ấn phong hầu còn có nghĩa gì khi thời gian cứ trôi đi mang theo tuổi xuân, niềm vui,
hạnh phúc?
Với 28 chữ của một bài tuyệt cú, Vương Xương Linh thể hiện tiếng nói phản
đối chiến tranh phi nghĩa của nhân dân thời Đường, cũng là tiếng nói của toàn nhân
loại từ cổ chí kim. Bài thơ thể hiện quá trình diễn biến tâm lí, kể cả phần tiềm thức
của con người làm. Giá trị nhân văn của thi phẩm thể hiện ở sự trân trọng khát vọng
hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, ở tiếng nói lên án chiến tranh phi nghĩa đã
cướp đi của con người không chỉ tuổi thanh xuân, hạnh phúc mà cả cuộc đời. Với
việc thể hiện sự chuyển biến tâm lí của người thiếu phụ, nhà thơ thể hiện quá trình
chuyển biến nhận thức của chính mình: từ con người khao khát lập công danh bằng
đao kiếm trên lưng ngựa đến con người có tư tưởng phản chiến khi nhận ra được sự
tàn khốc của chiến tranh.
3.2.7. Điểu minh giản (Vương Duy)
● Vương Duy
Vương Duy sinh năm 699 mất năm759, tự là Ma Cật, người huyện Kỳ (thuộc
phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm. Do
đó, Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Vương Duy tài hoa từ nhỏ,
đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng. Năm 21 tuổi, thi đậu tiến sĩ, được
bổ làm Ðại nhạc thừa rồi bị giáng làm tham quân ở Tế Châu. Khi Trương Cửu Linh
làm Trung Thư lệnh, ông được mời về làm Hữu Thập di, Giám sát ngự sử, rồi thăng
làm Lại bộ lang trung. Trong thời gian này, thanh danh của ông và em là Vương Tấn
vang dậy Trường An. Sau đó đến lượt Trương Cửu Linh bị biếm, Vương Duy đi sứ
ngoài biên ải và ở Lương Châu một thời gian. Khi An Lộc Sơn chiếm kinh thành,
Vương Duy bị bức bách làm chức Cấp sự trung, sau khi bị câu lưu tại chùa Bồ Ðề.
Sau khi loạn yên, Vương Duy được tha tội và phục chức. Về sau, Vương Duy làm
đến chức Thượng thư hữu thừa.
Vương Duy ưa tiêu dao, nên tuy làm việc với triều đình nhưng vẫn thích nơi có
cảnh quan yên tĩnh. Ông được gần vua, các cận thần và được quý trọng vì am hiểu
văn chương nghệ thuật. Song lòng sẵn hướng về thiên nhiên nên thơ ông tả nhiều thú
điền viên sơn thủy. Ông có một trang viên riêng cho mình, ở đó ông gảy đàn, thổi sáo
và làm thi phú.
Thơ ông để lại hiện còn khoảng 417 bài thơ, trong đó có những bài thơ thời trẻ,
bộc lộ tâm trạng của lớp tri thức có tài có chí không được dùng, sống cảnh hàn vi.
Những tháng năm ở biên cương, thơ ông có tình điệu khẳng khái, hiên ngang,
đề cao lòng yêu nước, tinh thần hăng hái của những người lính canh giữ biên cương,
sẵn lòng vì một triều đại đang mở mang, hướng tới thịnh vượng.
Vương Duy rất thành công khi viết về đề tài thiên nhiên. Do thú ưa thích lối
sống thanh tao, phong nhã nên thơ ông miêu tả núi sông hùng vĩ, lấy sự chất phác đôn
hậu của đời sống dân chúng cần mẫn trên đồng ruộng làm nền. Thơ ông còn đắm
trong tư tưởng hỷ xả từ bi của đạo Phật.
Thơ Vương Duy có phong cách riêng, có chất hùng tráng và thâm trầm. Tài thơ
của ông giàu có ở cách thể hiện những đề tài khác nhau, việc miêu tả thiên nhiên tinh
tế, sống động.
Ngoài tài thơ ra, Vương Duy còn sành âm nhạc, giỏi thư pháp và hội họa.
Tranh sơn thủy của ông mở đầu cho lối họa Nam Tông. Người ta thường khen ông là:
“Trong thơ có họa, trong họa có thơ” (Thi trung hữu họa, Họa trung hữu thi).
Ðối với Phật giáo đương thời, Vương Duy có địa vị cao trong Nam phái thiền
tông. Do đó, người đời sau gọi ông là Thi Phật.
● Điểu minh giản
Mùa xuân trong Đường Thi là bức tranh thủy mặc màu sắc hài hòa, những nhà
thơ tả cảnh thiên nhiên núi sông cây cỏ hoa bướm bằng những nét chấm phá đơn sơ,
mộc mạc, nhưng đó là những gam màu pha trộn của một nghệ thuật hội họa tinh vi và
sâu sắc... Bằng những tầm mắt xa rộng, họ đã cho chúng ta thấy cái huyền diệu của
thiên nhiên vũ trụ bao la, của hương vị Thiền và Đạo man mác, của sự thư thái và an
nhàn để mà suy tư về sự vô thường và hữu hạn của cuộc đời. Những hình ảnh sinh
động và âm thanh dạt dào trong ngôn từ tinh vi cô đọng đã biểu hiệu cảm xúc chân
thành, và gợi lên những liên tưởng thâm thúy và tư duy mẫn cảm. Hãy lắng nghe
tiếng chim kêu lanh lảnh bên khe suối mùa xuân của thi sĩ Vương Duy:
Phiên âm:
Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh tại giản trung
Dịch nghĩa:
Người nhàn hoa quế rụng,
Đên yên tĩnh, non xuân vắng không.
Trăng lên làm chim núi giật mình,
Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối.
Dịch thơ:
Bản dịch thứ nhất:
Người nhàn hoa quế rơi,
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh.
Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi.
(Ngô Tất Tố dịch)
Bản dịch thứ hai:
Người nhàn hoa quế rụng
Đêm xuân núi vắng teo
Trăng lên chim núi hãi,
Dưới khe chốc chốc kêu.
(Tương Như dịch)
“Khe chim kêu” là một bức tranh thanh tĩnh. Con người, không gian và cảnh
vật dường như hoà chung một niềm tâm tư.
“Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không”.
Người sống trong cảnh nhàn hạ, đó là cuộc sống của người ẩn sĩ. Hoa quế là
loài hoa rất nhỏ, nên hoa rụng không gây nên sự thanh động nào cả. Cảnh vật rất nhẹ
nhàng và thanh cao. Một khung cảnh thiên nhiên trữ tình, một bức tranh sơn thủy
đáng yêu. Cảnh và người thật hòa hợp, người thì nhàn nhã, cảnh thì thanh tao, những
bông hoa li ti nhẹ rơi càng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch của đêm trên núi vắng. Cảnh
vật ở hai câu đầu thiên về tĩnh và tối. Thời gian là một đêm mùa xuân yên tĩnh thanh
tao.
“Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh tại giản trung”.
Đến hai câu sau, không gian đột ngột có sự thay đổi, tưởng như trái ngược với
cảnh ở hai câu trên. Đó là sự xuất hiện của âm thanh và ánh sáng. Ánh sáng của trăng
xuân đã lên và âm thanh của tiếng chim núi giật mình. Tưởng như cảnh sáng hơn và
động hơn, nhưng thực ra ánh sáng và âm thanh chỉ đủ sức làm nổi bật hơn sự tĩnh
lặng của đêm trên núi vắng. Trăng làm tăng vẻ huyền ảo, tiếng chim “thỉnh thoảng
cất lên trong khe suối” càng làm rõ hơn cái tĩnh của đêm. Một bức tranh sơn thủy hữu
tình, yên tĩnh nhưng không quá buồn. Trăng lên và tiếng chim kêu được miêu tả thật
sinh động, giàu sức gợi cảm. Nhà thơ dùng ánh sáng để miêu tả đêm tối, dùng âm
thanh miêu tả cái tĩnh lặng. Khung cảnh thiên nhiên như thoát tục, gợi đến một cuộc
sống thanh thản và nhàn nhã nơi điền viên sơn dã. Điểm nổi bật của bức tranh này là
hình ảnh một tao nhân mặc khách đang muốn lánh chốn bụi trần để tĩnh tâm.
Với “Điểu minh giản”, Vương Duy không hổ danh là nhà thơ đứng đầu của
phái Điền viên sơn thủy đời Đường, thơ và họa hòa hợp làm nên vẻ đẹp cho thi phẩm.
Đọc thơ Điền viên sơn thủy của Vương Duy, người đọc cảm nhận được vẻ tao khiết
của tâm hồn.
3.3. ỨNG DỤNG CỤ THỂ QUA THIẾT KẾ BÀI GIẢNG Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG
Đối với giáo viên, thơ Đường không còn xa lạ nhưng đối với học sinh phổ
thông, thơ Đường vẫn là khó. Những bài thơ Đường được tuyển vào chương trình
phổ thông không nhiều, nhưng mỗi bài một vẻ, đều thể hiện được nội dung tư tưởng
tốt đẹp với hình thức thể hiện độc đáo. Khát vọng vươn tới lý tưởng, tình yêu quê
hương đất nước, tinh thần yêu hòa bình, phản chiến tranh, tình bạn, tình yêu thiên
nhiên và cái đẹp… trong những bài thơ được sáng tác từ hơn ngàn năm trước vẫn gần
gũi với tâm hồn chúng ta. Mặt khác, văn bản thơ Đường mang tính hàm súc, gợi
nhiều liên tưởng… Vậy mà với thời lượng một tiết cho một bài dạy chính thức và
một tiết cho phần đọc thêm gồm ba bài như hiện nay cho việc tiếp cận một cách trọn
vẹn những cái hay cái đẹp của thơ Đường quả là một vấn đề không dễ dàng để giáo
viên truyền thụ tri thức và để học sinh tiếp nhận thơ Đường. Do đó cần phải tính toán,
vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mà trong đó bản lĩnh đứng lớp của giáo
viên chiếm một vai trò không nhỏ. Trong khuôn khổ của một giờ giảng văn, không
chỉ thể hiện ở dung lượng kiến thức mà còn khai thác những giá trị thẫm mỹ của tác
phẩm. Nếu như đặt ra quá nhiều yêu cầu, đưa ra nhiếu vấn đề sẽ không phù hợp về
mặt thời gian và trình độ nhận thức của học sinh. Vì thế, với một lượng thời gian như
vậy, chúng tôi thử đưa ra một số ý áp dụng qua thiết kế bài dạy cụ thể khi giảng dạy
thơ Đường ở trường Trung học phổ thông mà đối tượng là học sinh khối lớp 10.
3.3.1. Đối với các bài giảng chính thức
● Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch)
(lớp 10, tiết 45)
Yêu cầu:
- Kiến thức – tư tưởng: Giúp học sinh
+ Hiểu được tình cảm chân thành, trong sáng của Lí Bạch đối với bạn, nhận thức
được tình bạn là tình cảm rất đáng được trân trọng.
+ Đặc điểm phong cách thơ tuyệt cú của Lí Bạch: ngôn ngữ giản dị, hình ảnh tươi
sáng, gợi cảm.
+ Củng cố kiến thức về thơ Đường – thơ đường luật: ý tại ngôn ngoại, hàm súc, cô
đọng.
- Tích hợp với thơ Lí Bạch ở Trung học cơ sở (Tĩnh dạ tư, vọng Lư Sơn bộc bố).
- Rèn kĩ năng đọc, phân tích thơ tứ tuyệt Đường luật.
Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
Chân dung Lí Bạch, tranh ảnh Hoàng Hạc lâu, một số bản dịch khác.
Thiết kế dạy - học:
Hoạt động của giáo Nội dung cần đạt viên và học sinh
Hoạt động 1: Hướng
dẫn học sinh tìm
hiểu tác giả, tác
phẩm
Tác giả Tác giả Lí Bạch
- Trên cơ sở học sinh đã tham khảo cuốn Ngữ văn 7 Yêu cầu học sinh:
tập một, trang 111 và Ngữ văn 10 tập một, trang 143, - Đọc tiểu dẫn
SGK/143. giáo viên cần hướng dẫn học sinh những điểm chính
- Hãy nêu những nét sau đây:
chính về nhà thơ Lí - Lí Bạch (701-762), tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh
Bạch? Liên cư sĩ, lúc năm tuổi, gia đình về định cư ở làng
Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu
(Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn coi Tứ Xuyên là quê
hương của mình.
- Xuất thân trong một gia đình khá giả, lại có năng
khiếu về thơ văn, nên ông đã sớm sống xa gia đình, đi
đây đó để tạo lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp
phần cứu đời giúp dân nhưng chưa bao giờ ông được
toại nguyện.
Lí Bạch viết nhiều đề tài về chiến tranh, thiên nhiên,
tình yêu và tình bạn…, ở bất cứ thể tài nào ông cũng
có thành tựu xuất sắc. Ông được mệnh danh là “Thi
Tiên”. Với tình yêu thiên nhiên, đất nước và con
người bằng một tình cảm chân thành, cao đẹp, lấy
phương thức lãng mạn để miêu tả đối tượng phản ánh,
ông đã góp phần đưa hệ thống thi pháp thơ Đường đạt
đến đỉnh cao.
-Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng,
kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Có biết bao
bức tranh thiên nhiên, biết bao cảnh đời, cảnh tình
trong thơ ông hiện lên lung linh kì diệu đã trở thành
những áng thơ kiệt tác. Với thành tựu đó, Lí Bạch đã
xứng đáng là cây bút tiêu biểu, đại diện cho trào lưu
thi ca lãng mạn đời Đường.
Tác phẩm Tác phẩm
Yêu cầu học sinh - Bản dịch Ngô Tất Tố hay, chuyển được cái thần, cái
hồn của bài thơ nguyên tác. Tuy nhiên vì bản dịch - Đọc văn bản: cả
được chuyển sang thể thơ lục bát nên vẫn có một vài bản phiên âm,
chữ không thể hiện hoàn toàn đúng, làm mờ đi nét dịch nghĩa và bản
nghĩa sâu xa, gợi cảm so với nguyên tác. Chẳng hạn: dịch thơ của Ngô
Cố nhân là bạn cũ ở đây chỉ dịch là bạn. Trong thơ cổ, Tất Tố
từ cố nhân bao giờ cũng hàm nghĩa rất thiết tha. Bạn - Nhận xét thể loại
và bạn cũ khác nhau nhiều (một người bạn cũ hơn của bản dịch với
trăm người bạn mới - tục ngữ Nga); cô phàm dịch là nguyên tác.
bóng buồm chưa chở hết được cái cô đơn, lẻ loi của - Xác định chủ đề.
nó; bản dịch bỏ chữ tây (Khẳng định vị trí lầu Hoàng
Hạc so với Quảng Lăng) và nghĩa của chữ từ (chia tay
chứ không phải từ lầu Hoàng Hạc lên đường).
- Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt đường luật (dựa vào
kiến thức đã học phần thơ Đường và thơ trung đại
Việt Nam ở lớp 7, học sinh nhận xét về thể thơ này về
số câu, số chữ, đối, luật bằng trắc…).
- Chủ đề: Bài thơ miêu tả không gian, thời gian, địa
điểm đưa tiễn bạn. Để từ đó bộc lộ tình cảm của mình.
Hoạt động 2: Hướng
dẫn học sinh đọc –
hiểu chi tiết
Hai câu thơ đầu
Khung cảnh tiễn bạn thể hiện ở hai câu thơ đầu Yêu cầu học sinh:
Cả trong nguyên bản cũng như bản dịch hai câu đầu - Đọc lại hai câu thơ
đã gợi ra trước người đọc không gian và thời gian một đầu.
chuyến đi của Mạnh Hạo Nhiên – nhà thơ – bạn thân - Hai câu đầu cho
vong niên (hơn Lí Bạch mười tuổi). người đọc biết những
- Không gian: điểm xuất phát là lầu Hoàng Hạc (phía điều gì về người bạn
tây), điểm đến Dương Châu - ở phía đông – một nơi của Lí Bạch?
phồn hoa của Trung Quốc – một khoảng không gian - Từ cố nhân mở đầu
rộng lớn, một chuyến đi dài. Bởi ngày xưa, cách đây bài thơ tiễn bạn gợi
trên một ngàn năm, việc đi lại thật khó khăn, giao lên điều gì?
thông cách trở. Phương tiện chủ yếu là ngựa và
thuyền, cho nên mỗi lần tiễn bạn, tiễn người thân ra đi
là một lần lòng quặn thắt vì khó có cơ hội gặp lại
nhau, cho dù chỉ ở cách nhau vài trăm dặm đường.
- Cách đi: đi thuyền, xuôi dòng Trường Giang.
- Thời gian: tháng ba – cuối xuân. Thời gian được lưu
lại trong câu thơ: “Yên hoa tam nguyệt”. Một chiếc
thuyền rẽ sóng lướt trên hoa khói bàng bạc. Hình ảnh
gợi không khí mơ hồ lãng đãng của thơ Đường. Tiễn
một người bạn thơ lên đường đi xa, chẳng hẹn ngày
gặp lại, đó là tâm trạng của nhà thơ biểu hiện qua bài
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng
Lăng. Nhưng ở hai câu đầu ngoài địa danh lầu Hoàng
Hạc còn có “cố nhân” là bạn cũ, là bạn cố tri. Từ “cố
nhân” gợi mối quan hệ gắn bó thân thiết đã từ lâu giữa
nhà thơ với bạn. Cảnh mùa xuân đẹp, lầu cao cổ kính,
dòng sông dài mênh mang như đưa bạn vào cõi tiên,
cố nhân như cánh hạc vàng ngày xưa. Buổi tiễn đưa
nhờ có hai tiếng “Cố nhân” ấy mà đắm chìm trong sự
thiết tha lưu luyến.
- Ở đây chúng ta có thể liên tưởng đến một ý trong
đoạn trích Cảnh ngày xuân (truyện Kiều): “Thanh
minh trong tiết tháng ba – Lễ là tảo mộ hội là đạp
thanh”. Tức là tháng ba là tháng khói hoa nhớ đến
người xưa, tháng tụ họp hội hè. Thế mà một người
bạn thơ lại ra đi, khung cảnh ấy làm tăng tâm trạng
nhớ thương bạn của nhà thơ. Hai câu cuối
- Yêu cầu học sinh Khung cảnh đất trời và lòng người lúc tiễn bạn
đọc và nêu cảm nhận, Ở hai câu cuối, không gian thực của cuộc tiễn đưa đã
phân tích ý nghĩa hóa thành không gian tưởng tượng, không gian nghệ
những hình ảnh nổi thuật, phản ánh tâm trạng của nhà thơ. “Cô phàm viễn
bật ở hai câu thơ này ảnh bích không tận” được dịch là “Bóng buồm đã
khuất bầu không”. Câu thơ dịch là một câu sáu chữ (Phân tích hình ảnh
mà nguyên bản là bảy chữ thì không thể nào hết ý cánh buồm, sự trông
theo của nhà thơ)?. được, vậy nên tất yếu không thể mang trọn được ý cô
- Cho học sinh thảo đúc của một câu thơ Đường bảy chữ. Nghĩa đầy đủ
luận nhóm nhỏ (chia của câu thứ ba phải là “Bóng cánh buồm lẻ loi xa xa
4 nhóm). Giáo viên mất hút vào khoảng không xanh biếc”. Nghĩa là người
theo dõi và giúp đỡ đã đi rồi, người tiễn vẫn trông theo bóng con thuyền
học sinh làm việc. cho đến lúc biến mất vào khoảng không gian xanh vô
- Các nhóm cử đại tận.
diện phát biểu ý kiến - Cánh buồm cô đơn diễn tả nhiều nghĩa. Một là chỉ
của nhóm mình. Mạnh Hạo Nhiên ra đi một mình trong cô đơn, hai là
diễn tả nỗi lòng cô đơn của Lí Bạch. Nói bạn cô đơn
nhưng chính biểu hiện mình cô đơn. Dù hiểu theo
cách nào cũng gợi lên một kiếp người giữa dòng sông
mênh mông, nhỏ bé và đơn chiếc.
- Sau này chúng ta bắt gặp cảnh tiễn người yêu của cô
gái tương tư nhìn thuyền chàng trai ra đi từ khuôn cửa
tò vò:
“Hôm qua xuống bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đó, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu… cánh buồm”.
(Nguyễn Bính)
Đặc biệt là hình ảnh trong câu thơ kết, chỉ gợi
mà không tả:
“Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”
Dòng Trường Giang chảy vào cõi trời, chảy
ngang bầu trời. Hình ảnh này một mặt diễn tả tưởng
tượng phi phàm bay bỗng lãng mạn của Lí Bạch khởi
sắc từ hiện thực. Màu xanh của nước, màu xanh của
bầu trời cuối xuân nối liền với nhau; nước trời một
sắc; oà ra một không gian vô cùng bát ngát, khoáng
đạt; mặt khác hình ảnh thơ gợi tình cảm và tưởng
tượng về người ra đi – như đang đi vào cõi tiên, bay
theo truyền thuyết cánh hạc vàng ngàn xưa trong câu
chuyện cổ.
► Củng cố bài Hoạt động 3: Hướng
- Bài thơ chỉ có 28 chữ mà riêng nhan đề tới 10 chữ. dẫn học sinh củng
Đó là một thực tế, một thói quen sáng tác hay một đặc cố bài
điểm thi pháp của thơ Đường. Thơ thì cô đọng hàm - Vì sao bài thơ chỉ
súc nhưng nhan đề lại dài như là thông báo hoàn cảnh, gồm 28 chữ mà
khơi gợi cảm hứng hoặc như là lối ghi nhật kí kể việc, riêng nhan đề đã
kể chuyện bằng thơ. Muốn gọn, bài thơ này chỉ cần tới 10 chữ?
đặt nhan đề: Tiễn bạn. - Ý tại ngôn ngoại
- Bàng bạc trong cả bài thơ, trong từng câu, từng chữ; (ý ở ngoài lời)
tả cảnh ngụ tình trong từ: cố nhân, yên hoa tam trong bài thể hiện
nguyệt, cô phàm, bích khônng tận, Trường Giang như thế nào?
thiên tế lưu. - Chủ đề của bài
- Chủ đề bài thơ không chỉ là tống biệt mà còn là ca thơ là gì? Tác giả
ngợi tình bạn chân thành, sâu sắc. Thể hiện tình bạn đã thể hiện chủ đề
qua một cuộc tiễn đưa trong một không gian, thời gian đó như thế nào?
rất có ý nghĩa, trong một cái nhìn theo không nguôi Giáo viên cho học
thương nhớ, trong một cánh buồm trên một con sinh thảo luận rồi gọi
thuyền xuôi mái dòng sông. Dòng sông, con thuyền, một học sinh trình
cánh buồm và người bạn đứng trên lầu cao… tất cả bày. Câu hỏi giúp
hòa với nhau để ca lên bài ca tình bạn, tình người học sinh khái quát
muôn thuở bất tuyệt. Thiên nhiên đồng nhất với con được toàn bộ nội
người. Cái tôi trữ tình hòa lẫn trong thiên nhiên và dung, nghệ thuật của
ngoại cảnh. Nét độc đáo của bài thơ là ở chỗ đó. bài thơ.
● Thu Hứng (Đỗ Phủ) (lớp 10, tiết 46)
Yêu cầu:
- Kiến thức – tư tưởng: Giúp học sinh
+ Cảm nhận với tấm lòng Đỗ Phủ - người từng bày tỏ nỗi niềm quanh năm, suốt đời
lo vì dân. Qua cảm xúc mùa thu ở Ba Thục, tác giả thể hiện nỗi âu lo cho đất nước,
nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi cho thân phận mình.
+ Bài thơ tiêu biểu cho đặc điểm nghệ thuật thơ Đường: Đối cảnh sinh tình (lòng
buồn – cảnh buồn theo).
+ Tích hợp với các bài thơ đã học của Đỗ Phủ ở Trung học cơ sở (Mao ốc vị thu
phong sở phá ca), với ba bài tự học có hướng dẫn: Hoàng Hạc lâu, Khuê oán, Điểu
minh giản.
+ Rèn kĩ năng đọc – phân tích thơ Đường của Đỗ Phủ.
Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
Chân dung Đỗ Phủ, tranh ảnh nhà Đỗ Phủ ở Ba Thục.
Thiết kế dạy - học:
Hoạt động của giáo Nội dung cần đạt viên và học sinh
Hoạt động 1: Hướng
dẫn học sinh tìm
hiểu tác giả, tác
phẩm
Tác giả Đỗ Phủ Tác giả
- Học sinh đọc tham - Đỗ Phủ sinh năm 712 mất năm 770 tự là Tử Mĩ, quê
khảo cuốn Ngữ văn 7 ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam, xuất thân trong một gia
tập một, trang 132 và đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Cả
Ngữ văn 10 tập một, cuộc đời nghèo khổ, lưu lạc, chết trong bệnh tật, chí
trang 145. lớn phò vua giúp nước nhưng không thành.
- Giáo viên cần - Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc,
hướng dẫn học sinh là danh nhân văn hóa thế giới.
nêu những điểm - Thơ Đỗ Phủ có nội dung phong phú và sâu sắc. Đó
chính về tác giả? là những bức tranh hiện thực sinh động, chân thực đến
mức được gọi là “thi sử” (lịch sử bằng thơ); đó cũng
là niềm đồng cảm với nhân dân trong khổ nạn, chứa
chan tình yêu nước và tinh thần nhân đạo.
- Giọng thơ của Đỗ Phủ trầm uất, nghẹn ngào. Ông
sành tất cả các thể thơ nhưng đặc biệt thành công ở
thể luật thi. Với nhân cách cao thượng, tài năng nghệ
thuật trác việt, Đỗ Phủ được người Trung Quốc gọi là
“Thi thánh”.
- Đỗ Phủ có ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ Việt Nam
trung đại như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...
Tác phẩm Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ - Học sinh dựa vào
+ Những điểm chính đã nêu ở chú thích (1) sách giáo chú thích (1) trong
khoa trang 145. sách giáo khoa trang
+ Bổ sung thêm: Loạn An Lộc Sơn làm cho đất nước 145, nói lại hoàn
Trung Hoa chìm đắm trong nội chiến, nhân dân vô cảnh sáng tác của bài
cùng điêu đứng thì Đỗ Phủ cũng bị lưu lạc tới Ba thơ?
Thục, ngụ ở Quỳ Châu (Tứ Xuyên). Năm 766, nơi núi
non hùng vĩ, hiểm trở, xa cách quê hương, gia đình đã
khơi nguồn cho nhà thơ viết chùm thơ mùa thu gồm
tám bài mà Thu hứng là bài đầu tiên.
- Thể thơ và bố cục - Thể thơ và bố cục
Thu hứng là bài thơ thất ngôn bát cú. Cấu trúc của nó + Học sinh nhận xét
rất chặt chẽ, theo bốn phần giống như kết cấu của các thể thơ trong nguyên
bài thơ thất ngôn bát cú khác. Nhưng ở đây, phần đề tác và bản dịch thơ.
và phần thực (bốn câu đầu) dường như biểu hiện trọn + Giáo viên nêu vấn
vẹn một ý. Còn phần luận và kết lại biểu hiện trọn vẹn đề và hỏi: Theo ý
một nội dung, một ý khác. Vậy nên không phân tích kiến của em, nên chia
theo kết cấu truyền thống mà theo nội dung: bài thơ theo cấu trúc
+ Bốn câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ chung – phổ biến của
mà hiu hắt, sôi động mà nhạt nhòa trong sương khói thể thơ thất ngôn bát
mùa thu, hiện diện của một tâm trạng buồn xót xa cú Đường luật hay
trước tình cảnh đất nước. chia thành hai phần:
+ Bốn câu cuối thể hiện nỗi buồn thương nhớ quê 4 câu đầu (tiền giải)
hương. và 4 câu cuối (hậu
giải)?
Hoạt động 2: Hướng
dẫn học sinh đọc -
hiểu chi tiết
Bốn câu đầu Phong cảnh mùa thu thể hiện qua bốn câu đầu
- Học sinh đọc lại
bốn câu đầu trong cả
ba văn bản (phiên
âm, dịch nghĩa, dịch
thơ).
- Cảnh mùa thu ở Quỳ Châu (Tứ Xuyên – Ba Thục, - Giáo viên hỏi: bốn
miền núi phía tây Trung Quốc, thượng nguồn sông câu thơ tả cảnh mùa
Trường Giang). thu ở đâu? Cảnh sắc
- Cảnh thu trong thơ Việt Nam có nhiều bài rất đặc ấy gợi cho ta liên
sắc như Vịnh mùa thu (Nguyễn Công Trứ), thu vịnh, tưởng gì?
thu điếu, thu ẩm (nguyễn Khuyến). Nhưng cảnh thu - Học sinh trả lời
trong thơ Đỗ Phủ không phải là cảnh đẹp bình yên, khái quát cảm nhận
mà mang màu sắc ảm đạm, điêu linh. của mình.
- Giáo viên hỏi: Vì
- Bốn hình ảnh xuất hiện lần lượt trong bốn câu: sao có thể nhận xét
Câu 1: Những hạt sương rơi lác đác đác trên rừng như thế? Có bốn hình
phong. ảnh thiên nhiên mùa
Câu 2: Những dãy núi mờ mịt trong sương, càng thêm thu xuất hiện ở đoạn
hiu quạnh. thơ, đó là những hình
Câu 3: Những đợt sóng Trường Giang dữ dội cao tới ảnh nào? Cách tả của
lưng trời. tác giả có gì độc đáo?
Câu 4: Những đám mây đùn nơi cửa ải xa xôi. - Học sinh suy nghĩ,
Cảnh thu thật khác hẳn cảnh thu dưới đồng bằng hoặc lần lượt trả lời từng
chốn thành thị, nơi bờ biển. Đúng là cảnh thu miền ý.
núi non biên viễn.
- Mùa thu cũng là mùa trời trong xanh, nước trong - Giáo viên hỏi:
xanh. Trời thu và nước thu được các thi nhân Việt Trong cảnh ấy vẫn
ngầm ngụ tình của Nam thể hiện nói chung rất đẹp. Nhưng ở trong bài
người viết. Đó là cảm thu hứng của Đỗ Phủ, không gian mùa thu dồn nén,
xúc gì, tâm trạng gì? dữ dội, rừng thu điêu thương, khí thu hiu hắt, nước
- Học sinh căn cứ thu nổi sóng lên tận trời, chứ không phải “hơi gợn tí”
vào các hình ảnh thơ, (Thu điếu – Nguyễn Khuyến), mây không lơ lửng mà
cách miêu tả để suy sà xuống tận đất nơi miền biên ải. “Sóng vỗ lên trời,
ngẫm, suy luận và mây sa tận đất” đó là những biểu tượng mạnh mẽ, dữ
phát biểu. dằn, nói lên suy tư trăn trở mạnh mẽ của nhà thơ.
Đồng thời trong cảnh thu ấy nhà thơ cảm nhận được
nỗi đau khổ của mọi người, mọi cảnh ngộ, trong đó có
cả nỗi xót xa của riêng mình. Ở đây, tuy tả cảnh mà
vẫn thấy tình, tình nằm ẩn sâu trong cảnh.
Bốn câu sau Tâm trạng của nhà thơ ở bốn câu sau
- Phép đối: đối ý, đối từ, đối thanh... - Học sinh đọc câu 5
- “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ” là câu thơ thứ và 6.
nhất của phần luận, bộc lộ trực tiếp cảm xúc của tác - Giáo viên hỏi:
+ Hai câu 5 – 6 trong giả. Hoa đáng lẽ tăng thêm vẻ đẹp, làm cho người ta
thơ thất ngôn bát cú vui. Ở đây thì không, hoa làm cho người ta càng buồn,
đường luật phải sử thậm chí những đau khổ của quá khứ (dòng lệ cũ) trở
dụng biện pháp nghệ về với hiện tại và đọng lại trên những nhành hoa. Đã
thuật gì? hai lần mùa thu đến (năm ngoái ở Vân An, năm nay ở
+ Em hiểu ý hai câu Quỳ Châu), Đỗ phủ không chỉ khóc trong hiện tại mà
thơ này như thế nào? nước mắt đã rơi từ lâu rồi, giọt lệ buồn đến nay vẫn
chưa khô.
- “Cô chu nhất hệ cố viên tâm” Nguyễn Công Trứ
dịch là “con thuyền buộc chặt mối tình nhà”. Trong
bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng, Lí Bạch có câu thơ nói về “cô phàm”
(cánh buồm đơn chiếc) chỉ con thuyền xa, li biệt. Ở
bài này Đỗ Phủ nói “cô chu” (con thuyền đơn độc)
cũng có thể là con thuyền thật, cũng có thể là con
thuyền tưởng tượng để chỉ thân phận đơn chiếc và trôi
dạt của mình. Đây là nỗi niềm tâm sự của kẻ tha
phương. Mảnh vườn xưa chính là mảnh đất nơi chôn
nhau cắt rốn của nhà thơ.
- Giáo viên hỏi: Tại Vì đó là những hình ảnh không chỉ tiêu biểu cho mùa
sao tác giả lại chọn thu mà còn hàm chứa ý nghĩa ẩn dụ - tượng trưng sâu
hai hình ảnh hoa cúc sắc.
và con thuyền? + Cúc là hoa mùa thu cũng như sen, phượng là hoa
- Học sinh giải thích. của mùa hè.
+ Con thuyền – tượng trưng cho cuộc đời, con người
nổi trôi, luân lạc. Con thuyền mang chở tâm tình con
người.
- Giáo viên hỏi: Hãy Các động từ khai (nở), hệ (buộc) kết hợp với các bổ
tìm những động từ ngữ (tha nhật lệ, cố viên tâm).
nhiều hàm ý trong Chú ý thêm từ lưỡng: hai (hoa cúc nở hai lần và đều
hai câu thơ trên. Đặc ra nước mắt).
sắc trong cách kết Nhất: một, duy nhất chỉ có con thuyền buộc mãi vào
hợp ngữ pháp thơ của trái tim trĩu nặng nhớ thương vò võ cô quạnh của
Đỗ Phủ ở đây như người ở xa quê.
thế nào? Như vậy, trong hai câu này tình đã lấn cảnh. Cảnh mở
- Học sinh có thể là phương tiện bên ngoài để nói tâm trạng, cảm xúc,
phân tích, suy luận nỗi lòng.
dựa trên bản dịch
tiếng Việt, nhưng tốt
hơn là đối chiếu, so
sánh với nguyên tác
qua bản phiên âm.
- Học sinh đọc tiếp
hai câu cuối.
- Ở câu thơ thứ bảy “Hàn y xứ xứ thôi đao xích”, sách - Giáo viên hỏi: Nêu
giáo khoa Văn 10 dịch là chỗ nào cũng rộn ràng dao nhận xét hai câu cuối
thước để may áo rét, còn Nguyễn Công Trứ dịch câu ở bản dịch với
trên là Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước. Phần dịch nguyên tác có gì khác
nghĩa thêm chữ rộn ràng (thường dùng chỉ sự vui biệt?
- Học sinh liên tươi) đã làm thay đổi âm hưởng của bài thơ, Lạnh
tưởng, suy luận, phát lùng giục kẻ tay dao thước thì càng không rõ nghĩa,
biểu. chưa nói là đã làm mất ý nghĩa may áo rét. Như vậy,
cả phần dịch nghĩa lẫn dịch thơ đều thoát khỏi nguyên
bản quá xa. Nghĩa đủ của câu này là Khắp nơi dao
thước may áo rét.
- Trời dần về tối (mộ), tiếng chày đập áo nghe càng
dồn dập nhấn mạnh thêm hoàn cảnh lo rét, chống rét
của người dân khi thu qua, đông tới. Thơ thời Đường,
tiếng chày đập áo có sức gợi cảm lớn. Thơ Lí Bạch:
“tiếng đập áo của muôn nhà” có thể làm cho người
chinh phụ xao xuyến nghĩ tới người thân nơi “quan
ải”, “nghe tiếng chày đêm” có thể “sáng mai đầu bạc
phau” vì “mỗi tiếng chày lên xuống là thêm một sợi
tóc trắng như tơ” (Bạch Cư Dị). Cảnh chiều thu thành
Bạch Đế, tiếng chày đập áo nghe dồn dập càng khơi
dậy trong lòng nỗi thương nhớ khôn nguôi. Đây là nỗi
thổn thức riêng của Đỗ Phủ, cũng là tâm trạng chung
của biết bao kẻ xa quê trong thời loạn lạc hay vì lí do
nào đó phải xa nhà.
Hoạt động 3: Hướng ► Củng cố bài
- Mùa thu cây cối điêu linh, núi non hiu hắt, sóng rợn, dẫn học sinh củng
mây đùn, khí lạnh nơi thành cao, ải xa, với người xa cố bài
quê thì mùa thu lại càng buồn. Chiều thu buồn ở thành - Thực chất Thu
Bạch Đế xứ Quỳ Châu đã làm cho nhà thơ tuôn thêm hứng là gì?
dòng lệ cũ bởi ông đang trong cảnh xa quê, lận đận Mùa thu, cảnh thu,
gian truân giữa tuổi 53 – 54. Đó là nội dung chủ yếu tình thu được thể
của bài Thu hứng. hiện như thế nào?
- Mùa thu ở đây không được mĩ lệ, thi vị hóa mà là vẽ - Giáo viên cho học
lên bằng cả nỗi lòng của người tha phương phiêu bạt. sinh đọc thêm một số
Thu hiện lên với vẻ dữ dằn, khổ ải của con người và bài thơ thu khác của
xã hội thời loạn lạc, li tán. Đây là bức tranh cảnh, tình Đỗ Phủ: (Thu hứng:
hài hoà, có phần hùng tráng sóng vọt tận mây, mây sà bài 2, bài 4).
tận đất nhưng đượm buồn.
3.3.2. Đối với ba bài tự học có hướng dẫn (tiết 51)
Yêu cầu:
- Kiến thức – tư tưởng:
+ Hiểu được chủ đề - cảm hứng chủ đạo và nét đặc sắc về hình thức thể hiện
tiêu biểu trong từng bài.
+ Qua ba bài thơ, hiểu thêm giá trị thơ Đường.
- Tích hợp với các bài thơ Đường đã học.
- Rèn kĩ năng tự học, tự tìm hiểu giá trị của tác phẩm thơ trữ tình qua hệ thống sách
giáo khoa.
Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
- Các cuốn sách: Thơ Đường tập 1, 2.
- Phóng to tranh ảnh Hoàng Hạc lâu.
- Chân Dung, tranh ảnh, những tư liệu về: Vương Duy, Thôi Hiệu, Vương Xương
Linh.
Thiết kế dạy – học:
Hoạt động 1: Hướng dẫn tự đọc – hiểu từng bài thơ
● Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu)
- Giáo viên hỏi: Cho biết tên tác giả, tên những người dịch, nhận xét thể thơ trong
nguyên tác và trong các bản dịch?
Định hướng trả lời:
- Tác giả Thôi Hiệu (704 – 754) – nhà thơ Đường nổi tiếng, cùng thời với Lí Bạch.
- Những người dịch: Tản Đà dịch thành thơ lục bát, một trong những bản dịch được
hâm mộ nhất. Khương Hữu Dụng dịch theo thể thơ nguyên tác: thất ngôn bát cú
Đường luật.
- Giáo viên hỏi tiếp: Em hiểu gì về hoàn cảnh sáng tác bài thơ? Có thể kể lại truyền
thuyết Phí Văn Vi, chỉ rõ vị trí lầu Hoàng Hạc?
Định hướng trả lời:
Lầu Hoàng Hạc là một di tích văn hóa nổi tiếng nằm ở bờ bắc Trường Giang, thuộc
phía Tây Nam huyện vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc). Truyền thuyết kể rằng,
xưa có chàng Phí Văn Vi buồn vì thi hỏng, lang thang trên bãi Anh Vũ, bên bờ
Trường Giang. Bỗng có con hạc vàng đáp xuống, Phí Văn Vi cưỡi hạc bay lên trời.
Người đời sau xây ngôi lầu làm kỷ niệm, gọi là lầu Hoàng Hạc. Thôi Hiệu và nhiều
nhà thơ khác đến thăm, cảm hứng đề thơ.
Người đương thời và đời sau đều xem bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu là
đệ nhất (Nghiêm Vũ). Hay đến mức, thi tiên Lí Bạch phải viết:
“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng lầu”
(Trước mắt có cảnh không nói được
Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu)
- Giáo viên hỏi: Nên chia bố cục bài thơ làm mấy phần và nhận xét?
Định hướng trả lời:
Có thể chia bài thơ làm hai phần. Bốn câu thơ đầu đề cập trực tiếp đến nguồn gốc,
tên gọi và định vị lầu Hoàng Hạc ở phương diện thời gian. Phần này chủ yếu nói
chuyện xưa - nay; còn – mất. Bốn câu sau định vị lầu trong không gian, miêu tả thiên
nhiên và trực tiếp biểu hiện tâm trạng.
- Giáo viên hỏi: Theo em, chủ đề và cảm hứng chủ đạo của bài thơ là gì?
Định hướng trả lời:
Xác định điều này không dễ.
- Đó là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh đẹp nơi lầu Hoàng Hạc.
- Kết đọng nỗi sầu hoài cổ, nhớ quê xa.
Gợi trong lòng người đọc sự ngỡ ngàng, bâng khuâng, nỗi nhớ, nỗi buồn trong trẻo,
sâu thẳm.
- Học sinh tự đọc lại bài thơ nguyên tác và bản dịch, tự lắng nghe và ngẫm nghĩ.
- Giáo viên hỏi: Theo em, tác giả có tả kĩ lầu Hoàng Hạc hay không? Có sự đối lập
nào xuất hiện trong bài thơ?
Định hướng trả lời:
- Viết về lầu Hoàng Hạc mà không tả cụ thể ngôi lầu ra sao, chủ yếu tả khung cảnh
chung quanh, đám mây trắng, bãi cỏ Anh Vũ, hàng cây Hán Dương, dòng Trường
Giang. Đó là nét riêng và dụng ý của tác giả.
- Có sự đối lập: quá khứ – hiện tại; mất – còn; cõi tiên – cõi trần; vô hạn của vũ trụ –
hữu hạn của đời người; không gian thực và không gian tâm tưởng.
- Cảnh đẹp nhưng lòng buồn.
- Giáo viên hỏi: Có ý kiến cho rằng, chữ sầu ở cuối bài đã kết đọng cảm hứng của bài
thơ. Ý kiến em?
- Học sinh thảo luận.
Định hướng trả lời:
- Đúng vậy, cả bài thơ chữ nào, câu nào cũng bâng khuâng, man mác một niềm buồn
thương, nhung nhớ. Nhớ người xưa đi mất hút không bao giờ trở về, đám mây trắng
chơi vơi, ngọn khói sóng buổi chiều trên dòng sông rộng gợi nỗi sầu nhớ quê hương.
- Huy Cận, khi viết bài thơ nổi tiếng Tràng Giang cũng chịu ảnh hưởng của hai câu
kết trong bài Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu, mặc dù cảm xúc hai người không hoàn toàn
giống nhau:
“Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
- Giáo viên chốt lại toàn bài: Với khả năng vận dụng linh hoạt luật thơ, sáng tạo hình
ảnh và ngôn ngữ, Thôi Hiệu đã tạo nên giá trị hàm súc cho bài thơ. Chỉ tám câu thơ
bảy chữ, tác giả không chỉ nhắc đến truyền thuyết, nguồn gốc, vị trí lầu Hoàng Hạc
trong không gian – thời gian thực và không gian – thời gian ảo mà còn thể hiện được
những vấn đề triết lí nhân sinh có ý nghĩa, gợi nhiều liên tưởng cho người đọc. Tâm
trạng nuối tiếc, sự suy tư của tác giả trước sự mất còn, giữa hiện tại và quá khứ, giữa
cái vô hạn của vũ trụ mênh mông với sự hữu hạn của đời người đã gợi lên những liên
tưởng về hiện thực xã hội. Đó vừa là những trăn trở về cuộc đời, vừa là tấm lòng tha
thiết đối với quê hương. Và vượt lên tất cả là tấm lòng trân trọng những giá trị tốt đẹp
của quá khứ, từ đó trân trọng những điều tốt đẹp của cuộc sống hiện tại. Những ý
nghĩa nhân văn tốt đẹp ấy, bài thơ thể hiện khao khát và ước mơ về một cuộc sống có
nhiều điều tốt đẹp bởi đó là giá trị thực của cuộc sống.
● Khuê oán (Vương Xương Linh)
- Giáo viên hỏi: Cho biết tên tác giả, đề tài của văn bản?
- Học sinh dựa vào tiểu dẫn sách giáo khoa 10 trang 161 trả lời tiểu sử tác giả. Đề tài
biên tái (Chiến tranh biên giới trong thơ Đường khá phổ biến: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị)
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bản phiên âm và hai bản dịch; nhận xét, so sánh về
thể loại giữa nguyên tác với hai bản dịch.
Định hướng trả lời:
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Bản dịch thơ lục bát (Tản Đà), theo thể loại nguyên tác (Nguyễn Khắc Phi).
- Giáo viên hỏi: Diễn biến tâm trạng của người vợ trẻ trong bài thơ như thế nào? Phân
tích rõ tâm trạng và chuyển đổi tâm trạng của nàng trong từng câu thơ. Vì sao có sự
chuyển đổi đó?
- Học sinh phân tích, phát biểu.
Định hướng trả lời
+ Câu 1:
Bất tri sầu: không biết buồn, rất vô tư. Vì sao? Vì tuổi trẻ, vì chung giấc mộng công
danh với chồng, hi vọng chồng sẽ được phong hầu ban tước sau này.
+ Câu 2:
Ngày xuân trang điểm đẹp đẽ, bước lên lầu ngắm cảnh. Đó là công việc hàng ngày
của người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trẻ.
Tuy nhiên lên lầu (đăng cao) là để nhìn xa, để giải bày, bộc bạch tâm sự. Đến đây,
hình như trong tâm hồn của thiếu phụ không còn hoàn toàn vô tư nữa.
+ Câu 3:
Hốt kiến – dương liễu sắc
Nàng chợt nhìn sắc liễu bên đường – màu xanh của thiên nhiên, mùa xuân, tuổi trẻ,
cũng là màu của li biệt.
Câu thứ ba có tác dụng là cái cầu, cái cớ, cái bản lề khép mở bất ngờ mà tự nhiên để
chuyển đổi tâm trạng của con người.
+ Câu 4:
- Từ hốt kiến chuyển sang hối giao một cách hợp lý. Tâm trạng bộn bề, nỗi lòng đau
đớn, người thiếu phụ hối hận đã để chồng đi tòng quân mong lập công danh để tuổi
xanh trôi đi trong cô đơn, nàng hốt hoảng khi nghĩ về số phận chông chênh của chồng
nơi chiến trận xa xôi, lập được công danh thì ít mà tính mạng bị nguy hiểm lại nhiều.
- Sau hối là oán.
Oán gì? Oán cái ấn phong hầu, chiến tranh phi nghĩa khiến vợ chồng nàng phải chia
lìa không biết đến bao giờ. Rõ ràng, diễn biến tâm trạng của thiếu phụ trong bài thơ
là: bất tri sầu – hốt – hối – oán mà nguyên nhân – nguyên cớ trước mắt là màu dương
liễu; nguyên nhân sâu xa là ấn phong hầu, chiến tranh phi nghĩa.
- Giáo viên hỏi: Em có liên hệ đến đoạn thơ nào cũng viết về đề tài này trong chương
trình Ngữ văn Trung học cơ sở?
- Học sinh nhớ lại, trình bày.
Định hướng trả lời:
Chinh phụ ngâm khúc – Đặng Trần Côn (người dịch Đoàn Thị điểm). Đoạn trích Sau
phút chia li: (...Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu; Thà khuyên chàng đừng chịu
tước phong chính là bắt nguồn từ bài thơ Khuê oán này).
● Điểu minh giản (Vương Duy)
- Giáo viên hỏi: Nêu những nét chính về tác giả Vương Duy?
- Học sinh dựa vào tiểu dẫn sách giáo khoa 10 trang 163 trả lời tiểu sử tác giả. Chú ý
những nét chính sau:
+ Phái Sơn thủy điền viên trong lịch sử thơ Đường (giai đoạn thịnh Đường) mà
Vương Duy là một đại diện xuất sắc.
+ Thơ ông trang nhã, bình đạm, trong thơ có họa.
- Học sinh đọc văn bản: phần phiên âm , các bản dịch.
- Giáo viên hỏi: Bài thơ tả cảnh gì? Nét đặc sắc của bức tranh phong cảnh trong bài
thơ như thế nào? Trạng thái tâm hồn nhà thơ khi ấy ra sao?
- Học sinh lắng nghe, suy nghĩ, lần lượt trả lời.
Định hướng trả lời:
Bài thơ tả cảnh đêm xuân trong khe núi.
+ Câu 1: Hoa quế nhỏ li ti, rụng khe khẽ mà mà người cũng nghe được chứng tỏ đêm
phải rất yên tĩnh, lòng người cũng rất yên tĩnh, tập trung mới nghe được âm thanh cực
nhỏ như vậy. Cảnh và người thật hòa hợp.
+ Câu 2: Trực tiếp tả cảnh đêm xuân trong núi vắng vẻ. Đêm đã yên tĩnh, đêm trên
núi vắng mùa xuân lại càng tĩnh mịch hơn.
+ Câu 3: Trăng lên làm gì có tiếng động thế mà lại làm cho chim núi giật mình. Cũng
là vì đêm quá yên lặng.
+ Câu 4: Những tiếng kêu khe khẽ của chim núi vì sợ hãi vào lúc trăng lên lại càng
chứng tỏ đêm tĩnh lặng đến vô cùng.
Không gian ở hai câu sau đã có sự thay đổi, có sự xuất hiện của âm thanh
(tiếng chim núi) và ánh sáng (ánh trăng). Nhưng ánh sáng và âm thanh càng làm nổi
bật hơn sự tĩnh lặng của đêm.
Sự tĩnh lặng của đêm xuân và sự bình yên thanh thản của tâm hồn con người.
Đó là tiếng đêm xao động tâm hồn bình yên. Nét đặc sắc là lấy cái động để tả cái
tĩnh. Bức tranh bằng âm thanh độc đáo.
- Giáo viên hỏi: So sánh cách lấy cái động để tả cái tĩnh trong các bài thơ đã học?
- Học sinh gợi nhớ, phát biểu.
Định hướng trả lời:
Bài Tĩnh dạ tư (Lí Bạch) – đêm trăng sáng yên lặng lại nhớ cố hương, lấy cái
cử đầu, đê đầu, tả cái đêm yên tĩnh của trăng và nỗi buồn xa quê của tác giả.
Bài Thu điếu (Nguyễn Khuyến) lấy cái sóng gợn tí, lá đưa vèo, cá đâu đớp
động để tả cái yên tĩnh của mùa thu và lòng người ngắm cảnh.
Hoạt động 2: Hướng dẫn tự rút ra bài học chung cho cả ba bài
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phải tự nhận ra được những điều sau:
+ Những điểm giống và khác nhau về nội dung và hình thức biểu đạt.
+ Kết luận rút ra nhận xét về giá trị phong phú của thơ Đường.
Hoạt động 3: Bài tập nâng cao
- Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm bài tập sau:
“Thơ Đường lấy cái có (hữu) để nói cái không có (vô) hoặc ngược lại. Qua các bài
thơ Đường vừa học, các em hãy phân tích điều đó”.
Định hướng trả lời:
Trong thơ Đường, chúng ta bắt gặp nhiều mối quan hệ thật sinh động. Đó là quan hệ
giữa “tiên” và “tục”, giữa quá khứ và hiện tại trong “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu.
Đó là quan hệ giữa động và tĩnh, giữa sáng và tối trong “Khe chim kêu” của Vương
Duy. Ngoài những mối quan hệ này, ta còn bắt gặp sự đối lập giữa cái “chẳng biết
sầu” để nhấn mạnh cái sầu trong “Nỗi oán của người phòng khuê” của Vương Xương
Linh. “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” của Lí Bạch đã tạo
ra mối quan hệ đối lập giữa cái có và cái không.
- Cái có được gợi ra từ không gian, thời điểm, địa điểm. Có tháng ba tiết xuân hoa nở,
có dòng sông sương khói bàng bạc, có nơi đến gợi bao vẻ đẹp của phồn hoa đô hội,
có bầu trời xanh biết ngút tầm mắt. Tất cả để làm rõ cái không có. Đó là cánh buồm
mất hút. Người bạn đã đi xa, để lại trong lòng cả hai một nổi cô đơn.
- Cánh buồm cô lẻ mất hút, hòa nhập vào nền trời xanh biếc trong hút tầm mắt là cái
không có để nhấn mạnh cái có. Đó là người đưa tiễn. Nhờ thơ đang đứng trên lầu cao
dõi theo cánh buồm đưa bạn tới chân trời.
- Cái mênh mông vô tận của không gian là cái có để diễn tả cái không có (không nói
ra). Đó là sự lẻ loi, cô đơn, nhỏ bé của kiếp người.
3.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
Xuất phát từ yêu cầu giáo dục và thực trạng dạy học văn trong nhà trường phổ
thông hiện nay, chúng tôi mạnh dạn nêu lên một số giải pháp và kiến nghị như sau:
Việc dạy học thơ Đường trong nhà trường phổ thông cần phải xác định một
quan điểm giáo dục toàn diện. Xuất phát từ yêu cầu của giáo dục phổ thông để chúng
ta cần xác định một quan niệm đúng đắn trong việc giảng dạy thơ Đường. Trước hết
giáo viên dạy Văn cần phải ý thức được tầm quan trọng, ý nghĩa văn hóa và giáo dục
của thơ Đường để tránh quan niệm cho rằng thơ Đường không ảnh hưởng gì đến nền
văn học trong nước cũng như không có tác dụng gì đối với cuộc sống hiện tại, cũng
không nên có tư tưởng bi quan, ngán ngại khi cho rằng “Thơ Đường khó”.
Cũng như các chuyên mục khác trong chương trình môn Văn ở trường phổ
thông, việc giảng dạy thơ Đường tất nhiên phải chú ý đến trình độ của học sinh, từ đó
tìm ra phương pháp dạy học phù hợp, để làm sao các em có thể xóa đi được những
khoảng cách quá xa giữa bản thân với không gian, thời gian lịch sử, với văn hoá,
ngôn ngữ của một dân tộc. Các bài thơ Đường đưa vào giảng dạy trong chương trình
phổ thông hiện nay là những bài thơ hay, tiêu biểu cho nội dung và thi pháp nhưng
chưa thực sự phù hợp với trình độ học sinh. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất nên đưa thơ
Đường vào chương trình giảng dạy ở trường phổ thông phù hợp với khối lớp, chọn
lọc những bài tiêu biểu phù hợp với lứa tuổi học sinh bậc trung học cơ sở, cụ thể là
cho khối học sinh lớp 9.
Mỗi nhà thơ, nhà văn có một vai trò quan trọng, góp phần vào quá trình phát
triển một giai đoạn văn học. Vì vậy muốn có một cái nhìn tổng thể về tiến trình văn
học của một dân tộc, cần tìm hiểu về tác giả văn học. Việc tìm hiểu cuộc đời, sự
nghiệp sáng tác của nhà thơ sẽ giúp học sinh hiểu được những đóng góp to lớn của họ
đối với nền văn học cũng như rút ra được bài học về nhân cách làm người. Về phần
này chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến như sau:
- Sách giáo khoa nên có thời gian dành cho phần học về tiểu sử tác giả, không nên gói
gọn tất cả trong một tiết học.
- Để tránh tình trạng giáo viên phải mất thời gian dạy lại những kiến thức học sinh đã
học ở lớp 7 (ví dụ: tiểu sử tác giả Lí Bạch và Đỗ Phủ), giáo viên chỉ cần nhắc lại một
cách sơ lược là đủ. Mặc dù nhắc lại sơ lược nhưng cần thiết vì vừa củng cố kiến thức
học sinh đã học ở lớp dưới vừa có liên quan trực tiếp đến bài học của các em ở lớp
10, đồng thời giáo viên cần kết hợp với nội dung khái quát giai đoạn văn học thời
Đường mà sách giáo khoa không giới thiệu giúp các em hiểu được mối quan hệ giữa
các nhà thơ với thời đại mà họ đang sống.
Với thời lượng (7 tiết) như hiện nay, việc dạy thơ Đường gặp nhiều khó khăn
nên cần tăng thêm số tiết dạy cho phần này khoảng 3 đến 4 tiết. Mặt khác, khi học
sinh tiếp cận với Văn học nước ngoài tất nhiên sẽ gặp những khó khăn hơn so với
Văn học Việt Nam. Để tạo tâm thế học tập, củng cố thêm những tri thức về bộ phận
Văn học nước ngoài cho học sinh, nhà trường và giáo viên cùng phối hợp tăng cường
các dụng cụ trực quan trong giờ học (ví dụ: băng, hình, tranh ảnh...); tổ chức các giờ
ngoại khóa bằng những hình thức như tổ chức cho các em sưu tầm và đọc tác phẩm,
thảo luận nhóm tại lớp, đố vui về tác giả, tác phẩm…
Hiện nay, khi dạy những bài thơ Đường, giáo viên đã chú ý đến việc phân tích
nội dung. Tuy nhiên, việc giảng dạy những bài thơ Đường phải chú ý đến những đặc
trưng thi pháp của thơ Đường.
Dạy thơ Đường là phải hiểu và dịch thật chính xác từ ngữ trong phần nguyên
tác bài thơ. Làm được điều này giáo viên giúp học sinh hiểu được nguyên tác đồng
thời cung cấp một số kiến thức về ngôn ngữ, làm phong phú thêm vốn ngôn ngữ của
các em bởi vì trong vốn từ mượn của dân tộc thì tiếng Việt mượn từ tiếng Hán nhiều
nhất. Thực tế cho thấy, có nhiều giáo viên biết rất ít về chữ Hán làm cản trở đáng kể
đến việc dạy thơ Đường cũng như dạy những tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
viết bằng chữ Hán. Nên mở các lớp dạy chữ Hán vào chương trình bồi dưỡng thường
xuyên cho giáo viên.
Do tính chất thơ Đường là bình dị, súc tích ngắn gọn nên khi tiếp nhận thơ cần
phát hiện ra nhãn tự của bài thơ (tức là câu thơ mấu chốt mang ý nghĩa quan trong
nhất). Ví dụ bài “Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” hồn thơ là
hai câu cuối: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận; Duy kiến Trường giang thiên tế
lưu”, hay bài “Thu Hứng” thì nhãn tự của bài thơ ở hai câu: “Tùng cúc lưỡng khai tha
nhật lệ; Cô chu nhất hệ cố viên tâm”. Đối với những bài thơ dài, giáo viên nên chọn
một đoạn ngắn để giảng sâu, kĩ chứ giảng dàn trải hết bài thơ. Chẳng hạn bài “Mao
ốc vị thu phong sở phá ca”, để thấy được tinh thần nhân đạo cao cả của Đỗ Phủ, giáo
viên nên chọn giảng sâu ở mười ba câu cuối của bài thơ.
Riêng văn học, việc đọc tác phẩm là sự phản ánh những tình cảm, ý chí, ước
vọng, động lực của tâm hồn và cùng với tiếng lòng của nhà văn thể hiện trong tác
phẩm, đọc là tiếng đồng vọng của con người trước thời đại và lịch sử. Trong quá
trình dạy học, đọc tác phẩm văn học như là một hoạt động sáng tạo mang tính thẩm
mĩ. Tình trạng học sinh đọc sai, đọc yếu hiện nay rất phổ biến, giáo viên nên hướng
dẫn phương pháp, rèn luyện năng lực đọc cho các em.
Cuối cùng, thiết nghĩ ngành giáo dục cần có sự thay đổi cách thức ra đề trong
kiểm tra, thi cử; nội dung thi không nên chỉ có phần Văn học Việt Nam mà phải bổ
sung các tác phẩm Văn học nước ngoài (đặc biệt là thơ Đường - một bộ văn học ảnh
hưởng rất lớn đến văn học trung đại Việt Nam) để tránh tình trạng xem nhẹ mảng văn
học này, đồng thời kiểm tra đánh giá được kiến thức văn học toàn diện ở học sinh.
Phương pháp dạy học truyền thống hay hiện đại cũng đều có những đặc điểm,
ưu thế và nhược điểm riêng. Không có phương thuốc nào có thể chữa được bách
bệnh, không có phương pháp dạy học nào là chìa khóa vạn năng. Việc nghiên cứu kỹ
từng bài dạy, từng đặc điểm bộ môn và đối tượng người học để có sự phối hợp đa
dạng các phương pháp dạy học là việc cần làm ngay của mỗi giáo viên để nâng cao
chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong giai đoạn hiện nay.
____________________
KẾT LUẬN
Tác giả Kiều Văn nhận xét: “Thơ Đường chan chứa tính nhân văn, đầy ắp tính
người, tình đời, nỗi đau, nỗi hận… Thơ Đường phản ánh số phận “thập loại chúng
sinh” trên khắp đất nước Trung Hoa thời phong kiến nhà Đường” [69, tr. 6]. Đúng
vậy, thời đại nhà Đường đã thuộc về quá khứ theo dòng chảy của thời gian, thế nhưng
những giá trị tinh thần mà nó để lại cho đất nước Trung Hoa và nhân loại sẽ trường
tồn mãi mãi. Trong nền văn hoá nhân loại, thơ Đường đã trở thành một hiện tượng
độc đáo, mỗi bài thơ là một viên ngọc quý mà khi nhìn, dù ở góc độ nào cũng thấy nó
tỏa sáng lung linh. Chính vì sự tuyệt tác của thơ Đường mà các nhà văn, nhà thơ và
các nhà nghiên cứu từ trước đến nay không ngừng tìm hiểu, nó trở thành mối quan
tâm của bao nhiêu thế hệ. Càng tìm hiểu, thơ Đường lại toát lên một sắc thái, một nội
dung độc đáo hơn, sâu sắc hơn tựa như chân trời mới cần khám phá.
Thơ Đường từ lâu được đưa vào chương trình môn Văn ở nhiều bậc học đã
phản ánh vị trí quan trong của nó. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi vấn đề giao
thoa hội nhập, toàn cầu hoá đang là mối quan tâm của toàn xã hội thì việc giảng dạy
thơ Đường ở trường phổ thông lại trở nên có ý nghĩa. Nó không chỉ giúp học sinh
cảm nhận được cái hay, cái đẹp, tính nhân văn về một thành tựu văn học xưa mà còn
giúp các thế hệ tương lai có một định hướng đúng đắn trên con đường tiếp thu tinh
hoa văn hoá của nhân loại, sáng tạo ra những cái mới tốt đẹp hơn, tự tin hơn để hoà
nhập với xu thế phát triển của thời đại.
Thế nhưng việc giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông hiện nay đang có
những thuận lợi và khó khăn chi phối. Như đã trình bày, xuất phát từ nhiều nguyên
nhân nên việc dạy học không đạt kết quả như mong đợi.
Trong các môn học, Văn học là một môn rất khó dạy. Bởi tuy người thầy giáo
dạy môn Văn học không phải là nhà văn, nhà thơ sáng tạo văn chương, nhưng họ là
những người truyền thụ văn chương, do vậy họ phải là một người có tâm hồn nghệ sĩ.
Bởi dạy Văn học không chỉ truyền đạt kiến thức mà chủ yếu là truyền sự rung động
trước tác phẩm. Tức là người dạy Văn là người phải có cảm xúc về tác phẩm và
truyền cảm xúc đó đến với học sinh. Muốn được như thế thì người dạy phải có sự
rung cảm sâu sắc và bằng ngôn ngữ và kĩ thuật diễn đạt làm cho học trò rung động
theo. Một giờ dạy và học Văn tốt là một giờ dạy mà qua đó, những tần số cảm thụ
cùng rung lên và tự động tác phẩm đó thấm sâu vào tâm hồn của người học và trở
thành hành trang đi suốt cuộc đời của các em.
Với quan niệm: Người thầy như là người nhóm lửa, thổi lên ngọn lửa văn
chương trong mỗi tâm hồn của những học trò, luận văn “Giảng dạy thơ Đường dưới
góc nhìn của thi pháp học” mặc dù đã có sự nổ lực trong quá trình tìm hiểu hệ
thống thi pháp thơ Đường nhằm tìm ra hướng tiếp cận, khai thác tác phẩm phục vụ
cho nhu cầu giảng dạy thể loại thơ nói chung và thơ Đường nói riêng đạt hiệu quả
hơn. Tuy nhiên, luận văn không thể không tránh khỏi những sai sót đang mong được
sự đóng góp của quý thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp.
____________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Chính, Lương Duy Thứ, Bùi Văn Ba (1971), Lịch sử văn học Trung Quốc ,
tập (2), Nxb Giáo dục Hà Nội.
2. Nguyễn Hữu Dũng (1988), Một số vấn đề cơ bản về giáo dục trung học phổ thông,
Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1997 – 2000 cho giáo viên.
3. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ truyệt đời Đường,
Nxb Văn học Hà Nội.
4. Trần Thanh Đạm (1995), Dẫn luận văn học so sánh, Tủ sách Đại học Tổng hợp
Tp.HCM.
5. Trần Xuân Đề (1976), Thơ Đỗ Phủ, Nxb Giáo dục Hà Nội.
6. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Giáo dục.
7. Trần Xuân Đề, Hồ Sĩ Hiệp (1997), Tinh hoa văn học Trung Quốc, Đại học Sư
phạm Tp.HCM.
8. Phạm Văn Đồng (1973), Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục số 11.
9. Nguyễn Văn Đường, Hoàng Dân (2003), Thiết kế bài giảng Ngữ văn THCS 7, tập
(1), Nxb Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Đường, Hoàng Dân (2006), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10, tập (1),
Nxb Hà Nội.
11. Lê Giảng (1998), Đến với thơ Lí Bạch, Nxb Thanh niên.
12. Nguyễn Thị Bích Hải (1997), Thi pháp thơ Đường, Nxb Giáo dục.
13. Nguyễn Thị Bích Hải (2006), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa – Huế.
14. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1992), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục Hà Nội.
15. Hồ Sĩ Hiệp (1992), Bình luận văn học, Nxb Tổng hợp Khánh Hòa.
16. Hồ Sĩ Hiệp (1995), Thơ Đường ở trường phổ thông, Nxb Văn Nghệ Tp.HCM.
17. Hồ Sĩ Hiệp (2002), Lí Bạch, Tủ sách Văn học trong nhà trường.
18. Hồ Sĩ Hiệp, Trần Xuân Đề (1978), Thơ Đường, Đại học Sư phạm Tp.HCM.
19. Nguyễn Văn Hòa (2002), Tác phẩm văn học trong nhà trường, những vấn đề trao
đổi, tập (1), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Đức Khuông, Lê Hồng Mai (2007), Tư liệu dạy và
học môn Ngữ văn 10, Nxb Hà Nội.
21. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục.
22. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy văn ở trường phổ thông, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
23. Trần Kiều (1997), Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS, Tài liệu tham
khảo cho giáo viên, Viện Khoa học Giáo dục.
24. Trần Trọng Kim (1978), thơ Đường, tập (2), Nxb Văn học Hà Nội.
25. Mai Quốc Liên (2002), Những vấn đề của phương pháp giảng dạy thơ trong nhà
trường, Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, tập (29), số 1.
26. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục.
27. Phan Trọng Luận (1998), Xã hội – văn học – nhà trường, Nxb Đại học Quốc gia.
28. Phan Trọng Luận (1999), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường
phổ thông, tập (1), Nxb Giáo dục.
29. Phan Trọng Luận (1999), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường
phổ thông, tập (2), Nxb Giáo dục.
30. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt (1998),
Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Phan Trọng Luận, Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán, Lê A, Lê Nguyên cẩn, Đoàn
Lê Giang, Nguyễn Thị Bích Hải, Phan Thị Thu Hiền, Nguyễn Thái Hòa, Đỗ
Kim Hồi, Nguyễn Xuân Lạc, Đặng Ngọc Lệ, Trần Đức Ngôn, Lê Trường
Phát, Vũ Dương Quỹ, Trần Nho Thìn (2007), Ngữ văn 10, tập (1), Nxb Giáo
dục.
32. Phan Trọng Luận, Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán, Lê A, Nguyễn Thái Hòa, Đỗ
Kim Hồi, Nguyễn Xuân Nam, Vũ Dương Quỹ, Đặng Đức Siêu, Trần Nho
Thìn, Lương Duy Thứ, Đoàn Thị Thu Vân (2007), Ngữ văn 10, tập (2), Nxb
Giáo dục.
33. Lê Nguyễn Lưu (2007), Đường thi tuyển dịch, quyển (1), Nxb Thuận Hóa.
34. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục.
35. Trần Đồng Minh (2000), Học tốt văn học 10, Nxb Đại học Quốc gia Tp.HCM.
36. Nguyễn Xuân Nam (1992), Làm quen với thơ Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
37. Lê Đức Niệm (1995), Diện mạo thơ Đường, Nxb Văn hóa Thông tin.
38. Lê Đức Niệm (1993), Thơ Đường, Nxb Khoa học Xã hội – Nxb Cà Mau.
39. Phan Ngọc (1990), Đỗ Phủ, nhà thơ dân đen, Nxb Đà Nẵng.
40. Nguyễn Thế Nữu (1999), Thơ Đường bình chú, Nxb Hội Nhà Văn.
41. Nguyễn Khắc Phi (1987), Văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Giáo dục.
42. Nguyễn Khắc Phi (1999), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 10, Nxb Giáo
dục.
43. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung
Quốc qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục.
44. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1996), Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà Nẵng.
45. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Bùi
Mạnh Nhị, Nguyễn Quang Ninh, Đỗ Ngọc Thống (2003), Ngữ văn 6, tập (1),
Nxb Giáo dục.
46. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử,
Nguyễn Văn Long, Nguyễn Quang Ninh, Đỗ Ngọc Thống (2003), Ngữ văn 6,
tập (2), Nxb Giáo dục.
47. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Đỗ
Kim Hồi, Nguyễn Văn Long, Bùi Mạnh Nhị, Lê Xuân Thại, Đỗ Ngọc Thống
(2007), Ngữ văn 7, tập (1), Nxb Giáo dục.
48. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Đỗ
Kim Hồi, Nguyễn Văn Long, Bùi Mạnh Nhị, Đỗ Ngọc Thống (2004), Ngữ
văn 7, tập (2), Nxb Giáo dục.
49. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử,
Lê A, Diệp Quang Ban, Hồng Dân, Bùi Mạnh Hùng, Lê Quang Hưng, Lê
Xuân Thại, Đỗ Ngọc Thống, Trịnh Thị Thu Tiết, Phùng Văn Tửu (2005), Ngữ
văn 8, tập (1), Nxb Giáo dục.
50. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử,
Lê A, Diệp Quang Ban, Hồng Dân, Đỗ Kim Hồi, Bùi Mạnh Hùng, Lê Quang
Hưng, Lê Xuân Thại, Lã Nhâm Thìn, Đỗ Ngọc Thống, Phùng Văn Tửu
(2005), Ngữ văn 8, tập (2), Nxb Giáo dục.
51. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Diệp
Quang Ban, Hồng Dân, Bùi Mạnh Hùng, Lê Quang Hưng, Lã Nhâm Thìn, Đỗ
Ngọc Thống, Trịnh Thị Thu Tiết, Phùng Văn Tửu (2006), Ngữ văn 9, tập (1),
Nxb Giáo dục.
52. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Lê
A, Diệp Quang Ban, Lê Quang Hưng, Lê Xuân Thại, Đỗ Ngọc Thống, Phùng
Văn Tửu (2006), Ngữ văn 9, tập (2), Nxb Giáo dục.
53. Ngô Văn Phú (2001), Thơ Đường ở Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn.
54. Vũ Dương Quỹ, Lê Bảo (2002), Tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ
thông, những con đường khám phá, tập (1), Nxb Giáo dục.
55. Vũ Tiến Quỳnh (1990), Lí Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị, Nxb Khánh Hòa.
56. Vũ Tiến Quỳnh (1995), Phê bình, bình luận văn học, Nxb Văn nghệ Tp.HCM.
57. Trần Trọng San (1990), Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường, Trường Đại học
Tổng Hợp Tp.HCM.
58. Trần Trọng San (1990), Thơ Đường, Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM.
59. Nguyễn Quốc Siêu (1998), Thơ Đường bình giảng, Nxb Giáo dục.
60. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Tài liệu giảng dạy cao học, Đại
học Sư phạm Tp.HCM.
61. Trần Đình Sử (1998), Môn văn, thực trạng và giải pháp, Báo Văn nghệ, số 7, tr.5
– 7.
62. Trần Đình Sử, Hồng Dân, Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống, Chu Xuân Diên,
Nguyễn Bích Hà, Đỗ Việt Hùng, Phạm Luận, Nguyễn Đăng Na, Bùi Mạnh
Nhị, Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Hoàng Tuyên, Lưu Đức Trung (2006), Sách
giáo viên Ngữ văn 10, tập (1), Nxb Giáo dục.
63. Hoàng Trung Thông, Trương Chính (1962), Thơ Đỗ Phủ, Nxb Văn Học Hà Nội
64. Trương Đình Tín (2003), Đường thi tuyển dịch, Nxb Thuận Hóa.
65. Duy Tính (năm 2007), Những sáng tác chết người, Báo Pháp Luật Tp. HCM, Số
114.
66. Lê Ngọc Trà (2002), Văn chương và vấn đề dạy văn trong trường phổ thông, Tạp
chí Khoa học, Đại học Sư phạm Tp.HCM, tập (29), số 1.
67. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.
68. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII Đảng Cộng
sản Việt Nam (1997), Nxb Chính trị Quốc gia, tr.41.
69. Kiều Văn (2004), Thơ Đường, Nxb Thanh Niên.
70. Trịnh Xuân Vũ (2002), Phương pháp dạy học văn ở bậc phổ thông, Nxb Đại học
Quốc gia Tp.HCM.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Hình ảnh một số nhà thơ nổi tiếng thời Đường
Tượng Hạ Tri Chương
Chân dung Đỗ Phủ Chân dung Thôi Hiệu
Chân dung Lí Bạch
Chân dung Vương Duy
Phụ lục 2. Một số địa danh liên quan đến các nhà thơ thời Đường
Nhà của Lí Bạch ở Miên Châu
Nhà của Lí Bạch ở Thành Đô
Cố hương của Lí Bạch ở thị trấn Giang Dầu
Mộ của Lí Bạch ở Thanh Sơn
Thảo đường Đỗ Phủ tại Thành Đô
Viện bảo tàng thảo đường Đỗ Phủ
Đằng Vương các Hoàng Hạc lâu
Nhạc Dương lâu
Cảnh đẹp Dương Châu
Bức tranh thơ “Nhuận oán” của Vương Xương Linh
Bức tranh Vọng nguyệt của Vương Duy
Phụ lục 3. Nguyên văn chữ Hán các bài thơ Đường trong chương trình phổ
thông
ĐIỂU MINH GIẢN 鸟鸣涧
(Vương Duy 王 维)
人闲桂花落
夜静春山空
月出惊山鸟
时鸣在涧中
____________________
HOÀNG HẠC LÂU 黄 鹤 楼
(Thôi Hiệu 崔 灏)
昔 人 已 乘 黄 鹤 去
此 地 空 悠 黄 鹤 楼
黄 鹤 一 去 不 复 返
白 云 千 载 空 悠 悠
晴 川 历 历 汉 阳 树
芳 草 妾 妾 鹦 鹉 州
日 暮 乡 关 何 处 是
烟 波 江 上 使 人 愁
HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG
黄 鹤 楼 送 孟 浩 然 之 广陵
(Lí Bạch 李白)
故人西 辞黄鹤楼
烟花三 月下杨州
孤帆远影碧空尽
惟见长江天际流
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ 回 乡偶 书
(Hạ Tri Chương 夏 知章)
少小离家老大回
乡音无改纂毛推
儿童相见不相识
笑问客从何处来
KHUÊ OÁN 闺 怨
(Vương Xương Linh 王唱龄)
闺中少妇不知愁
春日凝妆上翠楼
忽见陌头杨柳色
悔教夫婿觅封候
____________________
MAO ỐC VI THU PHONG SỞ PHÁ CA
茅屋为秋风所破歌
(Đỗ Phủ 杜甫)
八月秋高风怒号
卷我屋上三重茅
茅飞度江酒江郊
高者挂挂长林消
下者飘转沉塘幼
南村群童欺我老无力
忍能对面为盗贼
公然抱茅入竹去
唇焦口燥呼不得
归来依仗自叹息
俄顷风定云墨色
秋天漠漠向昏黑
布衾多年冷似铁
骄儿恶卧踏里裂
床床屋漏无干处
雨脚如麻未断约
自经丧乱少睡眠
长夜沾湿何由沏
安得广度千万间
大屁天下寒士俱欢颜
风雨不动安如山
呜呼!何时眼前突兀见此屋
吾庐独破受冻死亦足。
PHONG KIỀU DẠ BẠC 枫 桥 夜 泊
(Trương Kế 张 继)
月 落 乌 啼 霜 满 天
江 枫 鱼 火 对 愁 眠
姑 苏 城 外 寒 山 寺
夜半 钟声 到 客 船
____________________
THU HỨNG 秋兴
(Đỗ Phủ 杜 甫)
玉 露 凋 伤 枫 树 林
巫 山 巫 夹 气 萧 森
江 间 波 浪 兼 天 涌
塞 上 风 云 接 地 荫
丛 菊 两 开 他 日 泪
孤 舟 一 系 姑 园 心
寒 依 处 处 崔 刀 尺
白 帝 城 高 急 幕 砧
TĨNH DẠ TƯ 静 夜 思
(Lí Bạch 李白)
床 前 明 月 光
疑 是 地 上 爽
举 头 望 明 月
低 头 思 故 乡
____________________
VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ 望 垆山 瀑布
(Lí Bạch 李白)
日照香炉生紫烟
遥看瀑布挂前川
飞流直下三千尺
疑是银河落九 天
Phụ lục 4: Tổng hợp các kết quả điều tra
Tổng hợp kết quả điều tra giáo viên cấp trung học cơ sở
Nội dung câu hỏi Nội dung trả lời Số lượng Tỉ lệ
Theo anh (chị), việc phân phối
32/77 41,6% thơ Đường trong chương trình đã Hợp lý
45/77 58,4% hợp lý chưa? Chưa hợp lý
31/77 40,2% Thơ Đường có nằm trong chương Có thi HKI
33/77 42,9% trình thi học kỳ, thi tốt nghiệp và Không thi
13/77 16,9% tuyển sinh ĐHCĐ không? Phiếu trống
Khi giảng dạy tác phẩm thơ
6/77 7,8% Đường, anh (chị) có tư tưởng xem Có
71/77 92,2% nhẹ hơn so với giảng dạy thi pháp Không
văn học trong nước không?
Nêu tên và tác giả của các bài thơ
Đường mà anh (chị) giảng dạy Hiểu sai 13/77 16,9%
theo chương trình. Không 64/77 83,1%
Theo anh (chị), có bài thơ Đường Phù hợp 40/77 51,9%
nào không phù hợp với chương Không phù hợp 30/77 39%
trình học của học sinh không? Không có ý kiến 7/77 9,1%
Theo anh (chị), thơ Đường có nên
đưa vào giảng dạy ở trường Nên 66/77 85,7%
THCS không? Không nên 11/77 14,3%
Thông thường, anh (chị) dạy thơ Bản phiên âm 19/77 24,7%
Đường theo: Bản dịch thơ 28/77 36,4%
Phiên âm và dịch 30/77 38,9%
thơ
Nội dung 29/77 37,7% Trong giảng dạy thơ Đường, anh
(chị) thường đặt trọng tâm khai Nghệ thuật 20/77 25,9%
thác: Nội dung và nghệ 28/77 36,4%
thuật
Qua quan sát, anh (chị) cho biết Thích thú 24/77 31,2%
tâm lý của học sinh khi tiếp cận Bình thường 49/77 63,6%
thơ Đường. Không thích 4/77 5,2%
30,2% 301/998 điểm Nội dung chung Để chuẩn bị cho một tiết dạy thơ
22,7% 226/998 điểm Điển tích Đường, thông thường anh (chị)
22,4% 224/998 điểm Nghệ thuật quan tâm theo thứ tự ưu tiên nào
13,0% 130/998 điểm Lời bình trong các nội dung sau đây?
11,7% 117/998 điểm Hình ảnh minh họa
Theo anh (chị), việc học thơ
Đường có giúp ích gì cho học Có ích 70/77 90,9%
sinh trong việc cảm thụ văn học Không có ý kiến 7/77 9,1%
trong nước không?
Theo anh (chị), thơ Đường có ảnh Có ảnh hưởng 74/77 96,1%
0/77 0% hưởng đến văn học Việt Nam Không ảnh hưởng
3/77 3,7% không? Không có ý kiến
21/77 27,3% Việc giảng dạy thơ Đường trước Giống nhau
56/77 72,7% 1975 và hiện nay có gì khác? Khác nhau
Những bài thơ Đường nào trong chương trình giảng dạy
mà anh (chị) thích?
32/83 38,6% Tĩnh dạ tứ (Lí Bạch)
23/83 27,7% Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương)
18/83 21,6% Vọng lư sơn bộc bố (Lí Bạch)
10/83 12,1% Mao ốc vị thu phong (Đỗ Phủ)
Những bài thơ Đường nào ngoài chương trình giảng dạy
mà anh (chị) thích?
14/37 Thạch hào lại (Đỗ Phủ) 37,8%
11/37 Hoàng hạc lâu (Thôi Hiệu) 29,7%
5/37 Tuyệt cú (Đỗ Phủ) 13,5%
3/37 Hành lộ nan (Lí Bạch) 8,1%
4/37 Hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng 10,8%
(Lí Bạch), Phong kiều dạ bạc (Lí Bạch), Tương tiến tửu
(Lí Bạch), Đăng u châu đài ca (Triều Tử Ngang).
- Tổng số phiếu: 77 phiếu.
- Số đơn vị khảo sát: 12 trường (quận 6: 10 trường, quận 3: 2 trường) và 1 Phòng
Giáo dục. Trong đó:
+ Quận 3: Trường THCS Hai Bà Trưng (2 phiếu), Lê Quí Đôn (1 phiếu)
+ Quận 6: Trường THCS Phú Định (10 phiếu), Nguyễn Văn Luông (5 phiếu),
Đoàn Kết (13 phiếu), Phan Bội Châu (1 phiếu), Nguyễn Đình Chiểu (1 phiếu), BT (8
phiếu), Hậu Giang (6 phiếu), Lam Sơn (13 phiếu), Phạm Đình Hổ (9 phiếu), Văn
Thân (7 phiếu); Phòng Giáo dục quận 6 (1).
_____________________
Tổng hợp kết quả điều tra giáo viên cấp trung học phổ thông
Nội dung câu hỏi Nội dung trả lời Số lượng Tỉ lệ
Theo anh (chị), việc phân phối Hợp lý 18/38 47,4% thơ Đường trong chương trình Chưa hợp lý 20/38 52,9% đã hợp lý chưa?
Thơ Đường có nằm trong
chương trình thi học kỳ, thi tốt Có thi HKI 11/38 29%
Không thi 27/38 71% nghiệp và tuyển sinh ĐHCĐ
không?
Khi giảng dạy tác phẩm thơ
Đường, anh (chị) có tư tưởng Có 20/38 52,6% xem nhẹ hơn so với giảng dạy Không 18/38 26,4% thi pháp văn học trong nước
không?
Nêu tên và tác giả của các bài Nêu sai 0/38 0% thơ Đường mà anh (chị) giảng Nêu đúng 38/38 100% dạy theo chương trình.
Theo anh (chị), có bài thơ
Phù hợp 15/38 39,5% Đường nào không phù hợp với
chương trình học của học sinh Không phù hợp 23/38 60,5%
không?
Theo anh (chị), thơ Đường có Nên 33/38 86,8%
nên đưa vào giảng dạy ở trường Không nên 5/38 13,2%
THPT không?
Bản phiên âm 15/38 39,5% Thông thường, anh (chị) dạy thơ Bản dịch thơ 7/38 18,4% Đường theo: Phiên âm và dịch thơ 16/38 42,1%
Nội dung 14/38 36,8% Trong giảng dạy thơ Đường, Nghệ thuật 10/38 26,3% anh (chị) thường đặt trọng tâm Nội dung và nghệ 14/38 36,8% khai thác: thuật
Qua quan sát, anh (chị) cho biết Thích thú 3/38 7,9%
tâm lý của học sinh khi tiếp cận Bình thường 24/38 63,2%
thơ Đường. Không thích 11/38 28,9%
Để chuẩn bị cho một tiết dạy Nội dung chung 137/453 điểm 30,2%
thơ Đường, thông thường anh Nghệ thuật 121/453 điểm 26,7%
(chị) quan tâm theo thứ tự ưu Điển tích 95/453 điểm 21%
tiên nào trong các nội dung sau Lời bình 57/453 điểm 12,6%
đây? Hình ảnh minh họa 43/453 điểm 9,5%
Theo anh (chị), việc học thơ Có ích 33/38 86,8% Đường có giúp ích gì cho học Không có ích 2/38 5,3% sinh trong việc cảm thụ văn học Không có ý kiến 3/38 7,9% trong nước không?
Theo anh (chị), thơ Đường có Có ảnh hưởng 35/38 92,1%
ảnh hưởng đến văn học Việt Không ảnh hưởng 1/38 2,6%
Nam không? Không có ý kiến 2/38 5,3%
65,8% 25/38 Giống nhau Việc giảng dạy thơ Đường trước 15,8% 6/38 Khác nhau 1975 và hiện nay có gì khác? 18,4% 7/38 Không có ý kiến
Những bài thơ Đường nào trong chương trình giảng dạy
mà anh (chị) thích?
Hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi QL (LB) 30/60 50%
Hoàng hạc lâu (Thôi Hiệu) 15/60 25%
Thu hứng (Đỗ Phủ) 7/60 11,67%
Tì bà hành (Bạch Cư Dị) 5/60 8,33%
Xuân Vọng (Đỗ Phủ), Khuê oán (Vương Xương 3/60 5%
Linh), Điều minh giản (Vương Duy)
Những bài thơ Đường nào ngoài chương trình giảng dạy
mà anh (chị) thích:
Đăng cao (Đỗ Phủ) 42,42% 14/33
Xuân oán (Kim Xuân Tự) 15,15% 5/33
Tĩnh dạ tư (Lí Bạch) 9,09% 3/33
Vọng lư sơn bộc bố (Lí Bạch), Tương tiến tửu (Lí 33,33% 11/33
Bạch), Hạc hành ca (Bạch Cư Dị), Tiết phụ ngâm
(Trương Tịch), Đăng u châu đài ca (Triều Tử Ngang),
Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương), Đề tích số kiến
xứ (Thôi Hộ), Lương châu (Tư Vương Hàn).
- Số phiếu: 38 phiếu.
- Số đơn vị khảo sát: 5 trường gồm: quận 3 (2 trường), quận 1 (1 trường), quận 10
(1 trường) và quận 4 (1 trường). Trong đó:
+ Quận 3: Trường THPT Lê Quí Đôn (5 phiếu), Nguyễn Thị Minh Khai (14 phiếu)
+ Quận 1: Trường THPT Lê Thánh Tôn (8 phiếu).
+ Quận 10: Trường THPT Hùng Vương (6 phiếu).
+ Quận 4: Trường THPT Nguyễn Trãi (5 phiếu).
_____________________
Tổng hợp kết quả điều tra học sinh cấp trung học cơ sở
Nội dung Số lượng Tỉ lệ Nội dung câu hỏi trả lời
Có 212/246 86,2% Em có thích học thơ Đường không? Không 34/246 13,8%
Hiểu sai 51/246 20,7% Nêu tên và tác giả của các bài thơ Đường
trong chương trình học mà em thích Đúng 195/246 79,3%
61,8% 152/246 Có Khi đọc một bài thơ Đường, em có hiểu
4,9% 12/246 Không nội dung và nghệ thuật qua văn bản
33,3% 82/246 Không đầy đủ không?
Phiên âm 127/246 51,6%
Em thích học thơ Đường qua bản: Dịch thơ 99/246 40,2%
Dịch nghĩa 20/246 8,1%
Dễ hơn. 33/246 13,4% So sánh thơ Đường và thơ Việt Nam, em Khó hơn. 122/246 49,6% thấy thơ Đường: Như nhau. 91/246 37%
Em hãy nêu việc chuẩn bị bài ở nhà của Có chuẩn bị 223/246 90,7%
một bài thơ Đường Không chuẩn bị 23/246 9,3%
Thuộc thơ 186/246 75,6% Em có thuộc bài thơ Đường nào không? Không thuộc 60/246 24,4%
Tên và tác giả các bài thơ Đường mà em thuộc lòng:
Vọng lư sơn bộc bố (Lí Bạch) 182/630 28,9%
Tỉnh dạ tư (Lí Bạch) 175/630 27,8%
Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương) 158/630 25,1%
Mao ốc vị thu phong sở phá ca (Đỗ Phủ) 115/630 18,2%
Tổng số phiếu điều tra: 246 phiếu
Trong đó: Quận 3: Trường THCS Hai Bà Trưng (101 phiếu)
Quận 6: Trường THCSBC Lam Sơn (145 phiếu)
_____________________
Tổng hợp kết quả điều tra học sinh cấp trung học phổ thông
Nội dung Số lượng Tỉ lệ Nội dung câu hỏi trả lời
Có 113/196 57,7% Em có thích học thơ Đường không? Không 83/196 42,3%
Nêu tên và tác giả của các bài thơ Đường Hiểu sai 5/165 3%
trong chương trình học mà em thích Đúng 160/165 97%
Khi đọc một bài thơ Đường, em có hiểu Có 26/196 13,3%
nội dung và nghệ thuật qua văn bản Không 21/196 10,7%
không? Không đầy đủ 149/196 76%
84/196 42,9% Phiên âm
91/196 46,4% Em thích học thơ Đường qua bản: Dịch thơ
21/196 10,7% Dịch nghĩa
4,1% 8/196 Dễ hơn. So sánh thơ Đường và thơ Việt Nam, em 81,6% 160/196 Khó hơn. thấy thơ Đường: 14,3% 28/196 Như nhau.
Em hãy nêu việc chuẩn bị bài ở nhà của Có chuẩn bị 179/196 91,3%
một bài thơ Đường Không chuẩn bị 17/196 8,7%
Thuộc thơ 175/196 89,3% Em có thuộc bài thơ Đường nào không? Không thuộc 21/196 10,7%
Tên và tác giả các bài thơ Đường mà em thuộc lòng:
34,1% Hoàng hạc lâu (Thôi Hiệu) 130/381
22% Thu hứng (Đỗ Phủ) 84/381
18,1% Hoàng hạc lâu tống tiển Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 69/381
6,8% Tĩnh dạ tư (Lí Bạch) 26/381
6,8% Khuê oán (Vương Xương Linh) 26/381
5% Vọng lư sơn bộc bố (Lí Bạch) 19/381
2,1% Xuân hiểu (Mạnh Hạo Nhiên) 8/381
5% Thạch hào lại (Đỗ Phủ), Đăng cao (Đỗ Phủ), Tảo phát bạch 19/381
đế hành (Lí Bạch), Mao ốc vị thu phong sở phá ca (Đỗ
Phủ), Hành lộ nan (Đỗ Phủ), Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri
Chương), Tuyệt cú (Đỗ Phủ), Thái liên khúc (Lí Bạch)
Tổng số phiếu điều tra : 196 phiếu
Trong đó: Quận 5: Trường THPT Hùng Vương (101 phiếu)
Quận 3: Trường THPT Lê Quí Đôn (95 phiếu)
_____________________