LUẬN VĂN:
Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, và gần đây Đại hội Đảng IX của Đảng đã mở ra
bước ngoặt lịch sử, đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển hoàn toàn mới.
Một luận điểm quan trọng của Đảng ta về sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là "lấy
việc chăm sóc, đào tạo, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững". Vì vậy, xây dựng con người phát triển hài hòa, toàn diện là mục tiêu
hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay và lâu dài, chiến lược phát triển nhân cách văn hóa toàn
diện cho thế hệ trẻ được đặc biệt quan tâm.
NQTW 5 khóa VIII và NQTW 2 khóa VIII cho thấy văn hóa và giáo dục, giáo
dục và văn hóa trong thời đại ngày nay là cặp phạm trù có mối quan hệ biện chứng. Giáo
dục đưa dân trí đất nước phát triển, góp phần quan trọng phát triển nền văn hóa dân tộc,
tạo nên một sức mạnh nội lực. Văn hóa là nội dung và là mục đích của giáo dục. Giáo
dục là con đường chuyển tải và phát huy giá trị văn hóa. Trường học ngày nay được xem
không chỉ cung cấp tri thức cho học sinh mà còn phải biến tri thức đó thành vốn văn hóa,
nhân cách văn hóa cho các em theo mục tiêu và nội dung của đổi mới giáo dục (tinh thần
NQ Trung ương 2 khóa VIII).
Học sinh ở độ tuổi vị thành niên từ 11 - 12 đến 17 - 18 là lứa tuổi
có những đột biến trong tâm sinh lý. Thời kỳ này được đặc trưng bởi sự
phát triển rất nhanh cả về trí lực, thể lực. Song đây cũng là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi
thơ sang tuổi trưởng thành, một mặt các em có nhu cầu rất
lớn những kiến thức khoa học về bản thân (vấn đề giới, tình bạn, tình yêu, tình dục...),
mặt khác, là những nhu cầu về định hướng giá trị hành vi, kỹ năng sống.
Nhiều công trình nghiên cứu gần đây, và những thông tin trên báo chí, phát thanh,
truyền hình xung quanh vấn đề tuổi vị thành niên cho thấy, do sự thiếu hụt những kiến
thức cần thiết ở lứa tuổi này từ phía gia đình - nhà trường - xã hội, vị thành niên đang có
những biểu hiện đáng lo ngại về lối sống - đạo đức: sống buông thả, đua đòi, xa hoa, lười
biếng trong học tập, quay cóp trong thi cử, giải trí thiếu lành mạnh (VD: Trò chơi tiêu
cực, xem phim bạo lực, tình ái trên mạng Internet), từ đó dẫn đến phạm pháp, quan hệ yêu
đương sớm, thậm chí có những em quan hệ tình dục sớm, nạo phá thai trước tuổi trưởng
thành ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe, học tập, tâm lý và tương lai của các em. Một điều
không thể phủ nhận là những thành tựu cách mạng khoa học kỹ thuật của thời đại ngày
nay đã cho lớp trẻ có được trình độ học vấn và trình độ sống cao. Song những tồn tại trên
cũng cho thấy sự mất cân đối giữa giáo dục học vấn và giáo dục nhân cách văn hóa cho
học sinh.
Nhận thức được vấn đề này, một vài năm trở lại đây, giáo dục nhân cách cho học
sinh ở tuổi vị thành niên trong nhà trường đã bước đầu được nghiên cứu một cách hệ
thống và đưa vào thể nghiệm từ năm 2000; song cũng mới chỉ dừng lại thí điểm ở học
sinh một số trường phổ thông cơ sở với nội dung "giáo dục giá trị đạo đức nhân văn".
Cho đến nay, chưa có một công trình nào đi vào vấn đề "giáo dục giá trị truyền thống văn
hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong trường phổ thông" một cách chuyên biệt. Với lý do
này, chúng tôi chọn đề tài "Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành
niên trong nhà trường" nhằm tích hợp với một số môn xã hội, đặc biệt với bộ môn giáo
dục công dân, và giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp. Qua đó, hình thành và phát triển
nhân cách văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên, đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của
Đảng, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định những giá trị truyền thống văn hóa phù hợp với lứa tuổi cấp học.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hình thành, phát triển những giá trị đó ở thế hệ
vị thành niên.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh ở tuổi cấp II, III.
- Đối tượng nghiên cứu: Nội dung giá trị truyền thống văn hóa và giải pháp giáo
dục để thực hiện mục tiêu trên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
- Nêu được thực trạng lối sống, nhân cách vị thành niên học sinh phổ thông hiện
nay.
- Nêu thực trạng những đánh giá của học sinh VTN, giáo viên, phụ huynh VTN
về truyền thống văn hóa và công tác giáo dục giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi vị thành
niên trong nhà trường hiện nay. Những khó khăn, thuận lợi và nguyên nhân của thực
trạng này.
- Đề xuất những giải pháp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa trong nhà trường
phổ thông hiện nay.
4.2. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu giá trị truyền thống văn hóa với sự hình thành
nhân cách văn hóa ở tuổi VTN trong trường học (chủ yếu là học sinh dân tộc kinh các
trường ở thành phố và nông thôn).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Người viết sẽ đứng ở góc độ lý luận văn hóa để phân tích vấn đề, tuy nhiên đề
tài sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu của các ngành xã hội học văn hóa, nhân học văn
hóa, tâm lý học trẻ em, và các tài liệu khác xung quanh tuổi VTN.
- Phương pháp luận nghiên cứu, đề tài dựa vào phương pháp DVBC và DVLS -
Tư tưởng chỉ đạo của đề tài là dựa theo văn kiện của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói
về xây dựng con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH.
- Các phương pháp cụ thể là phương pháp lôgic, lịch sử thống kê, phân tích, đi
khảo sát thực tế, phỏng vấn sâu, lấy ý kiến chuyên gia, phát phiếu thăm dò.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Một trong những xu hướng nghiên cứu văn hóa học hiện đại là xu hướng "văn
hóa và nhân cách", đã xuất hiện từ nửa đầu thế kỷ XX, với nhiều tên tuổi nổi tiếng như
Herskovists (1948), Mead (1964), Bastide (1971), Xôcôlốp (1972)..., và ở Việt Nam gần
đây tiêu biểu có GS Phan Ngọc. Đề tài nằm trong xu hướng trên đây nên nó mang tính lý
luận sâu sắc.
- Vận dụng lý luận trên vào hoạt động thực tiễn sẽ hình thành nên văn hóa con
người, trong đó có xây dựng nhân cách văn hóa ở tuổi VTN trong hệ thống giáo dục nhà
trường. Đây là ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và mục tài liệu tham khảo, đề tài chia làm
3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho
vị thành niên trong nhà trường
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu.
1.2. Nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi VTN trong nhà
trường.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục giá trị truyền thống văn hóa ở
tuổi vị thành niên.
Chương 2: Thực trạng về giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi
VTN trong nhà trường hiện nay
2.1. Nhận thức của học sinh VTN, của giáo viên, phụ huynh VTN về giáo dục
truyền thống văn hóa
2.2. Vài nét về tình hình giáo dục giá trị truyền thống văn hóa trong trường phổ
thông hiện nay.
Chương 3: Những biện pháp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi
vị thành niên trong nhà trường
3.1. Những biện pháp giáo dục lý thuyết ở phần chính khóa.
3.2. Những biện pháp giáo dục thực hành khuôn mẫu văn hóa ứng xử (ở phần
hoạt động ngoài giờ lên lớp).
3.3. Những biện pháp giáo dục văn hóa ứng xử của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh nhà trường.
3.4. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống tiếp cận vào lối sống, đạo đức, sức khỏe và
phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh vị thành niên trong nhà trường
Kết luận
Chương 1
Cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục
giá trị truyền thống văn hóa
cho vị thành niên trong nhà trường
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa, nếu xét về nguồn gốc của từ, được bắt nguồn từ tiếng La tinh Colere,
nghĩa là "gieo trồng". Đến thế kỷ 19, thuật ngữ văn hóa đi vào khoa học xuất sinh từ
phương Tây, tiếng Pháp và tiếng Anh đều viết là Culture.
Theo nghĩa rộng, văn hóa là phương thức tồn tại đặc hữu của con người, khác
biệt với phương thức tổ chức cuộc sống của các loài sinh thể khác trên trái đất.
Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen khi nói về "lực lượng bản chất người" đã
chứng minh tính chất xã hội chỉ có ở con người. Một trong các lực lượng bản chất ấy là
sức lao động, là tài năng sáng tạo của con người. Hai ông viết "căn cứ vào mức độ được
con người biến thành bản chất người, tức là mức độ tự nhiên được con người khai thác,
cải tạo, thì có thể xét được trình độ văn hóa chung của con người" [3, 287]. Như vậy lực
lượng bản chất người không phải là các lực lượng bẩm sinh xuất hiện một cách tự nhiên,
mà chúng được hình thành, biến đổi do tác động của quan hệ xã hội, do trình độ phát
triển của văn hóa, do hoạt động cải tạo thế giới của con người. Chính các hoạt động này
là phương thức tồn tại và tái sản xuất ra đời sống xã hội.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen thì lao động như một "hoạt động
sáng tạo". Nếu ở phương diện kinh tế lao động với chức năng sản xuất ra của cải vật chất,
thì ở phương diện văn hóa, lao động là sự sáng tạo. Hay nói cách khác, sản xuất của cải
vật chất là phương diện kinh tế của lao động còn sáng tạo khoa học kỹ thuật, phát triển
sản xuất là phương diện văn hóa của lao động. Như vậy, lao động đồng nghĩa với hoạt
động sáng tạo, nó là hoạt động thuộc về bản chất người, là biểu hiện của tư chất tinh thần
và thể chất người. Lao động sáng tạo chính là khởi điểm của văn hóa.
Nhà khoa học người Pháp Tây-ha Đơ Sác-đanh (Teihard de Chardin) cho rằng:
"Sự phát triển của vũ trụ bắt đầu từ khi xuất hiện sự sống, ông gọi đó là sinh quyển
(Biosphère). Tiếp đó là sự xuất hiện của tri quyển (Noosphère) chỉ có ở loài người. Tri
quyển đó là quyển về ý thức, tinh thần, về tư duy do loài người tạo ra. Tri quyển chính là
văn hóa, biểu hiện thành "thiên nhiên thứ hai" hoặc còn gọi là "thế giới nhân tạo" của con
người" [15, tr. 9].
Giải thích thuật ngữ văn hóa, các nhà nhân học phương Tây thường phân biệt ra
hai trường hợp: văn hóa viết hoa, số ít (Culture) và văn hóa không viết hoa, số nhiều
(cultures) [2, tr. 13].
Văn hóa viết hoa, số ít (Culture) là thuật ngữ dùng để chỉ thuộc tính chỉ có ở loài
người. Đó là khả năng học hỏi, thích ứng, sáng tạo ra những quan niệm, hành vi ứng xử
và hệ thống các biểu tượng, nhờ đó loài người có thể vận thông với nhau để tồn tại và
phát triển.
Văn hóa không viết hoa, số nhiều (cultures) là thuật ngữ dùng để chỉ các nền văn
hóa. Đó là những truyền thống, thể hiện thành những lối sống khác nhau của cộng đồng,
bao gồm các hệ thống ý niệm, hệ thống ứng xử liên quan đến giá trị, hệ thống biểu hiện
và hệ thống kỹ thuật, mà các cộng đồng ấy trong quá trình hoạt động thực tiễn đã sáng
tạo ra và học hỏi được. Hệ thống ý niệm (hệ tư tưởng) được xem là yếu tố cốt lõi của văn
hóa, đóng vai trò chi phối đối với các hệ thống khác.
Phù hợp với cách khu biệt trên đây, các nhà xã hội học cũng chia văn hóa ra: văn
hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng [8]. Văn hóa cá nhân là toàn bộ tri thức (vốn kinh
nghiệm), quan niệm được tích lũy vào mỗi cá nhân, quy định ứng xử của nó trong quá
trình hoạt động thực tiễn - lịch sử - xã hội. Văn hóa cộng đồng không phải là con số cộng
đơn giản của những văn hóa cá nhân sống trong cộng đồng xã hội ấy, mà là văn hóa của
một nhóm xã hội. Đó là toàn bộ những quan niệm và hành xử được cộng đồng chia sẻ và
chấp nhận, đã trở thành truyền thống của cộng đồng xã hội. Chính hệ thống những quan
niệm và hành xử này làm nên bản sắc văn hóa của cộng đồng xã hội ấy.
Trong đề tài này khi nói: "Tác động của văn hóa..." - tức là nói đến tác động của
"văn hóa cộng đồng", đối với "nhân cách trẻ VTN" - Tức là nói đến sự phát triển "văn
hóa cá nhân" ở mỗi trẻ VTN. Như vậy, đề tài sử dụng cả hai nghĩa của từ văn hóa.
Để tiếp cận đối tượng nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích văn hóa dưới góc nhìn xã hội
học và với phương pháp liên ngành: tâm lý, văn hóa, xã hội học.
Phù hợp với cách tiếp cận trên đây, đề tài vận dụng định nghĩa văn hóa (cộng
đồng) của nhà xã hội học Ba Lan Giăng Sê-pan-xki. Ông viết: "Văn hóa là toàn bộ sản
phẩm vật chất tinh thần của hoạt động người, những hệ thống giá trị và khuôn mẫu ứng
xử được cộng đồng xã hội thừa nhận và truyền lại cho các cộng đồng người khác và cho
những thế hệ tương lai thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa của nó" [8].
Định nghĩa trên đây là xuất phát từ quan điểm mác-xít xem văn hóa là hoạt động
sáng tạo tích cực của con người, sống trong một cộng đồng xã hội nhất định. Hoạt động
sáng tạo ấy đã tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm đáp ứng các nhu cầu tồn
tại và phát triển, nó còn tạo ra những hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội đóng vai trò
nền tảng tinh thần, điều tiết và thúc đẩy xã hội đi lên theo hướng nhân bản. Toàn bộ
những thành quả sáng tạo ấy được tích lũy lại, thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa
như: gia đình và trường học, truyền đạt cho các thế hệ tương lai và cho các cộng đồng
khác nữa. Như vậy, văn hóa chẳng những là chất keo liên kết làm cho xã hội bền vững
và phát triển, nó còn là cầu nối giữa các thế hệ và giữa các cộng đồng người, tạo nên sự
đa dạng và sự liên tục của đời sống xã hội.
Định nghĩa trên đây nhấn mạnh vào bốn yếu tố: những sản phẩm vật chất và tinh
thần, các hệ thống giá trị, các hệ thống khuôn mẫu ứng xử, các thiết chế xã hội - văn hóa.
Đó là những yếu tố cùng với những con người làm nên môi trường văn hóa, tác động đến
nhân cách tuổi vị thành niên.
Tổng giám đốc UNESCO F. May-ơ cũng nêu quan niệm về văn hóa: "Văn hóa là
tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các
thế kỷ; hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và
thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" (Thập kỷ thế giới phát
triển văn hóa, Hà Nội, 1992, trang 23).
Qua những định nghĩa và quan niệm nêu trên cho ta thấy rõ hai vấn đề: Một, lao
động sáng tạo là cội nguồn khởi điểm của văn hóa. Mọi hoạt động sáng tạo chỉ trở thành
văn hóa đích thực khi nó hướng về các giá trị nhân bản, tiến bộ nhằm hoàn thiện con
người. Hai, văn hóa được con người tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội và
đúc kết thành hệ giá trị - chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa (bao
gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể). Hệ giá trị xã hội là một thành tố làm nên bản
sắc và truyền thống văn hóa của một cộng đồng xã hội. Hệ giá trị xã hội có khả năng chi
phối đời sống tâm lý và hệ ứng xử văn hóa của con người sống trong cộng đồng xã hội ấy
và nó được trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Như vậy, văn hóa có những đặc trưng cơ bản riêng được biểu hiện ở: 1- tính hệ
thống, với tư cách là một phức hợp bao gồm cả tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
phong tục, thói quen, luật pháp mà con người vừa là chủ thể sáng tạo vừa là khách thể
tiếp nhận văn hóa. 2- Văn hóa dưới góc độ giá trị nó là cái đẹp, chỉ chứa cái đẹp và các
giá trị văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của con người. 3- Văn hóa đối lập với tự
nhiên. Văn hóa là tự nhiên có sự tác động của con người, do đó, nó mang tính nhân sinh.
4- Văn hóa được hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ tạo nên
bề dày văn hóa trong lịch sử. Do tính lịch sử, văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn
hóa. Truyền thống văn hóa là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian,
thời gian cho con người trong cộng đồng và xã hội. Truyền thống văn hóa được tồn tại
nhờ giáo dục, đồng thời giáo dục là chức năng cơ bản của văn hóa.
Xây dựng nội dung giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi VTN trong học đường chủ
yếu sẽ đi sâu phân tích lý giải phần đạo lý sống (lối sống) và khuôn mẫu ứng xử trong nếp
sống. Giá trị truyền thống văn hóa ở đây sẽ được xem xét cả góc độ động và tĩnh. Góc
động, xem xét truyền thống có sự tiếp nhận giá trị mới cho phù hợp với thời đại. Góc
tĩnh, truyền thống là những giá trị tích cực trường tồn trong phong tục tập quán, nếp sống
của dân tộc.
Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi VTN trong nhà trường phổ thông là
giáo dục đạo lý sống, nếp ứng xử trong môi trường học đường. Ví dụ, dạy đạo lý trong
quan hệ Thày - Trò; quan hệ Trò - Trò; dạy những nghi lễ, nghi thức trong nhà trường,
trong gia đình và trong cộng đồng xã hội, mục đích tạo ra môi trường văn hóa trong đó
gồm cả cảnh quan văn hóa, lối sống văn hóa và những nhân cách văn hóa. Dậy đạo lý
trong học đường là dạy cá nhân ứng xử văn hóa trong các vai trò xã hội của mình, đó
cũng chính là quá trình VTN nhập thân văn hóa. Trong nhà trường, dạy học là dạy kiến
thức, tri thức, đạo đức cho học sinh bằng ngôn ngữ. Còn dạy văn hóa là dạy đạo lý (vừa
bằng ngôn ngữ, vừa bằng các hoạt động văn hóa) để tạo ra những nhân cách văn hóa, tạo ra
những tấm gương, tạo ra những ông tổ văn hóa trong giáo dục trở thành truyền thống của
ngành. Dạy học là cái hữu thức, còn dạy văn hóa là cái ngầm ẩn, đi từ cái vô thức đến
hữu thức.
Nhập thân văn hóa là một thuật ngữ được ra đời từ môn nhân học văn hóa mà
một trong các tác giả là M.JHerskovits (1948). Nhân học văn hóa là môn khoa học liên
ngành nghiên cứu văn hóa con người. Quan niệm văn hóa như một công cụ vận thông
đặc biệt giúp cho con người dễ dàng thích nghi với điều kiện sống đã khiến trường phái
nhân học đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề nhập thân văn hóa.
Nhập thân văn hóa, theo Từ điển dân tộc học tiếng Pháp, Michel Panoff và
Michel Perrin giải nghĩa: "Đó là quá trình hữu thức hoặc vô thức, nhờ đó một cá thể trong
suốt đời người đã hấp thụ các truyền thống - tức các mô hình ứng xử của nhóm, và hành xử
về mặt chức năng đối với các truyền thống ấy. Nhờ có thuật ngữ này, người ta đã xác lập
được mối liên hệ giữa sự kiện xã hội, được xem xét như bản thân sự vật, với hành vi của
cá nhân, thông qua đó mà văn hóa biểu lộ ra. Thuật ngữ này thường coi như đồng nghĩa
với thuật ngữ "xã hội hóa" hoặc "nhập tâm văn hóa" (Internalisation de la culture), tuy
nhiên một số tác giả đã có dụng ý xác định nghĩa riêng cho mỗi thuật ngữ. Một số nhà
nghiên cứu khác lại thâu gộp trong thuật ngữ "nhập thân văn hóa" cả quá trình trao truyền
văn hóa, cùng với các biểu tượng "đổi mới" (phát sinh) văn hóa (PGS. Từ Chi dịch). Còn
trong từ điển hiện đại về văn hóa (tiếng Nga), Min-Xcơ-1999 giải nghĩa "nhập thân văn
hóa là quá trình, trong đó chủ thể cần phải học tập để nắm vững, hiểu thấu các mối liên
hệ trong nhóm, nắm được những nét, sắc thái và những chi tiết văn hóa cần và đủ của xã
hội hay của dân tộc mình, làu thông những hệ chuẩn tâm thức, những chuẩn mẫu văn
hóa, những khuôn mẫu đa dạng mang tính cấu trúc của văn hóa... Bằng khái niệm "nhập
thân văn hóa", có thể diễn đạt trình bày sự lĩnh hội của trẻ em đối với các chuẩn mực văn
hóa, khuôn mẫu văn hóa, giá trị văn hóa trong quá trình hoạt động, chủ động tiếp cận với
xã hội và với những cá thể khác".
Như vậy, văn hóa bên cạnh sự vận hành tự thân trong thời gian, nó còn thâm
nhập vào mọi hành vi ứng xử của con người những giá trị mà mỗi thế hệ đi qua để lại.
Nhập thân văn hóa do đó, vừa là một cách thức để con người thích ứng với điều kiện
sống, vừa là cách thức để văn hóa tồn tại và phát triển.
Theo các nhà nhân học, quá trình nhập thân văn hóa kéo dài suốt cả đời người,
chỉ đến chết mới thôi (M.J. Herskovits), song giai đoạn ấu thơ kéo đến đầu tuổi VTN là
giai đoạn quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hóa của một cá thể. Đặc biệt ở, giai
đoạn đầu bước vào tuổi VTN, những xuất hiện thay đổi đột biến (tâm, sinh lý) từ bên
trong khiến các em có những hành vi bất thường thậm chí đi ngược lại truyền thống. Tuy
nhiên, để đảm bảo quá trình nhập thân văn hóa của cá nhân diễn ra hài hòa toàn vẹn ở lứa
tuổi này chúng ta cần có những giải pháp văn hóa để trở thành nhân tố tự điều chỉnh từ
bên trong mỗi cá nhân.
Mặt khác, những nhân tố bảo đảm quá trình nhập thân văn hóa phụ thuộc vào hai
yếu tố: áp lực xã hội và áp lực tín niệm.
áp lực xã hội có thể từ gia đình, nhóm xã hội... áp lực xã hội tỷ lệ nghịch với quy
mô xã hội. Nếu áp lực xã hội lớn, quy mô xã hội nhỏ (đó là gia đình). áp lực xã hội giảm,
quy mô xã hội lớn (cộng đồng xã hội). ý nghĩa vấn đề ở chỗ giáo dục gia đình (quy mô
nhỏ) áp lực tác động tới hành vi ứng xử cá nhân sẽ lớn hơn, chặt chẽ hơn, vào khuôn khổ
hơn. Giáo dục cộng đồng - xã hội (quy mô lớn) áp lực xã hội giảm do tính chất không ép
buộc khuyến khích sự tự nguyện và hướng cá nhân tới hành vi lựa chọn.
áp lực tín niệm là sự hướng tới ý niệm cao cả như một nhu cầu, có thể từ tôn
giáo, từ hệ giá trị Chân - Thiện - Mĩ hay từ quan niệm về đạo đức. Con người - ngoài
quan hệ tác động và phụ thuộc vào nhau còn có quan hệ và sống với những giá trị thiêng
liêng, những tín niệm mà họ tôn thờ. Trong hành vi văn hóa của mình họ luôn đối diện
với những giá trị đó.
Tìm hiểu hệ thống những áp lực này sẽ cho ta hiểu được giá trị đặc thù của từng
loại hành vi. Cơ bản hơn, nó là sự hướng đạo thầm lặng cho cá nhân trong quá trình tiếp
nhận và nhập thân văn hóa truyền thống.
1.1.2. Khái niệm nhân cách và nhân cách văn hóa
Thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách - Trong Đại bách khoa toàn
thư Liên Xô đã nêu lên định nghĩa: "Nhân cách là một hệ thống bền vững các đặc điểm
có ý nghĩa xã hội đặc trưng cho các cá nhân với tư cách là một thành viên của một xã hội
hay một cộng đồng nào đó".
Trong cuốn Tâm lý học - H, Nxb Giáo dục 1988 định nghĩa "Nhân cách là toàn
bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý của cá nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi xã
hội của họ".
Đứng ở góc độ "nhân học tâm lý" J.Honig man định nghĩa "Nhân cách là văn
hóa được phản ánh vào hành vi cá nhân".
Xuất phát từ sự lý giải Văn hóa và Nhân cách J.Honig man cho rằng "vấn đề cá
nhân nắm được những khuôn mẫu văn hóa của hành vi là quá trình mô hình hóa, hình
thành các khuôn mẫu hành vi trong tiến trình gia nhập văn hóa, phù hợp với định hướng
giá trị của mỗi nền văn hóa".
Nhân cách, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm: đức và tài, lấy
đức làm gốc.
Như vậy khi nói đến khái niệm nhân cách (phiên dịch từ các thuật ngữ:
personality (Anh), personnalité (Pháp)), trước hết có sự phân biệt khác nhau về nội dung
giữa các thuật ngữ có liên quan, mà các nhà tâm lý học hay dùng, như: cá nhân, chủ thể,
cá tính, nhân cách, tính cách, v.v...
"Cá nhân" (hay cá thể người) - bất kỳ người nào, từ đứa trẻ mới sinh cho tới
người trưởng thành, dù khỏe mạnh hay tật bệnh, dù có các phẩm chất và đặc điểm thế
nào, thì đều được coi là một "cá nhân" (cá thể người).
Khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định, có mục đích, có ý nghĩa nhằm
nhận thức hay cải biến hiện thực khách quan - thì nó được coi là "chủ thể".
Mỗi cá nhân có những đặc điểm thể tạng và tâm lý độc đáo, không lặp lại ở
người khác - đó là "cá tính". Cá tính của mỗi người thường được hình thành trên cơ sở
các tố chất di chuyền chịu ảnh hưởng của điều kiện giáo dục nào đó, do hoàn cảnh sống
và hoạt động cá nhân.
Còn khi xem xét con người với tư cách là thành viên của một xã hội nhất định, là
chủ thể của các quan hệ xã hội, của các hoạt động có ý thức - đó là nói tới: "nhân cách"
của người đó.
VD: Nhân cách người cha, nhân cách người lãnh đạo, nhân cách người thầy,
nhân cách quân nhân, nhân cách người học sinh, sinh viên v.v... (một đứa trẻ mới sinh chỉ
là một cá nhân, cá thể người - khi đạt tới một độ tuổi nào đó và có được một trình độ xã
hội hóa nhất định, nó mới trở thành nhân cách. Quá trình hình thành nhân cách thường
bắt đầu từ lúc 2 - 3 tuổi - kéo dài tới khoảng 17 - 18 tuổi).
ở đây nhân cách được xem là một cá nhân (cá thể con người) chủ động và có ý
thức tham gia vào các quan hệ xã hội và tác động tích cực tới các quan hệ đó. Đồng thời
nhân cách được thể hiện (một biểu tượng cá nhân con người) trong hoạt động sống của
nhiều người khác.
Giữa con người - nhân cách cho thấy: "con người" (homme) và "nhân cách"
(personnalite) đều có chung bản chất là sinh vật - xã hội. Nhưng nó có sự phân biệt rạch
ròi:
- "Con người" là một khái niệm sinh vật - xã hội, còn "nhân cách" có ý nói về
phương diện xã hội của con người.
- "Con người" là người mang vác vật chất của nhân cách, còn "nhân cách" chỉ
diễn tả mặt phẩm chất của con người.
Trên đây đã giới thiệu những định nghĩa phổ biến về nhân cách và trình bày phân
tích khái niệm nhân cách. Cần tìm hiểu thêm về cấu trúc tâm lý của nhân cách, có ý nghĩa
là, nghiên cứu xem nhân cách gồm những yếu tố nào cấu thành. Về điều này, cũng có
nhiều cách phân tích khác nhau.
- Có quan niệm cho rằng, cấu trúc của nhân cách chủ yếu gồm ba lĩnh vực hợp
thành; cảm xúc (rung cảm); ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen.
- Lại cũng có quan niệm cho rằng, cấu trúc nhân cách là gồm ba yếu tố chủ đạo
hợp thành: Trí tuệ (nhận thức); tình cảm (xúc cảm, rung cảm); thể chất.
- Trong quan niệm thông thường ở nước ta, "nhân cách" con người gồm có: "đức
và tài" hoặc phải "vừa Hồng vừa Chuyên", và thêm nữa là phải có "sức khỏe".
- Theo sách giáo khoa của Liên Xô và các tài liệu phổ biến hiện nay ở nước ta,
thì cấu trúc nhân cách chủ yếu gồm có 4 thuộc tính tâm lý cá nhân điển hình là: xu
hướng; năng lực; tính cách (thái độ); tính khí. Cụ thể:
+ Xu hướng của cá nhân
Đây là một đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của cá nhân. Nó xác định mục tiêu ý
muốn, động cơ, lợi ích,... mà con người ấy đặt ra và cần tuân theo; nó biểu lộ những thái
độ nhất định với thế giới xung quanh; v.v... Nhìn chung, xu hướng của con người thường
được xuất hiện trên các phương diện cụ thể như: nhu cầu, hứng thú, sở thích, lý tưởng,
thế giới quan, v.v...
+ Tính khí của con người
Đây là những thuộc tính tâm lý thể hiện trong sắc thái hành vi, cử chỉ của con
người. Tính khí thường là sự biểu thị ra bề ngoài của hành vi. Trong đời sống con người,
thường phân loại ra mấy kiểu tính khí chủ yếu, như: tính nóng nảy, tính lạnh (bình thản),
tính hoạt (linh hoạt), tính ưu tư;...
+ Tính cách của con người
Tính cách là tổng thể những đặc tính tâm lý vững bền, thuộc bản chất của con
người với tư cách một thành viên của xã hội, thể hiện thái độ đối với thực tế và in dấu
vào tư cách, hành động của người đó. (Tính cách được gọi là một phẩm chất rất quan
trọng, một phẩm chất chủ đạo, bản chất của "nhân cách". Đã có nhà khoa học đem đồng
nhất "nhân cách" với "tính cách" rằng: nhân cách, ấy là tính cách cá nhân).
Tóm lại, có thể hiểu: "Nhân cách là một con người khi đã phát triển ổn định bền
vững toàn diện các tố chất người theo những chuẩn mực xã hội của một cộng đồng (dân
tộc - quốc gia) để trở thành là con người mẫu mực của xã hội.
Nhân cách văn hóa được quan niệm như một quá trình diễn ra từ việc hình thành
nhân cách đến việc hoàn thiện nhân cách ngày một toàn diện và cao hơn. Đó là một quá
trình nhằm phát triển hết các tố chất của cá nhân về mọi mặt để mỗi cá nhân có đủ điều
kiện đảm nhận những hoạt động lao động, học tập, hoạt động xã hội đang đòi hỏi. Với ý
nghĩa này, có thể quan niệm, "nhân cách văn hóa" cũng có nghĩa là "phát triển toàn diện
con người".
Tuy nhiên, nhân cách văn hóa được quyết định bởi những điều kiện chủ quan tích
cực, thông qua nhiều con đường và biện pháp hữu hiệu. Điều kiện đầu tiên và cũng quan
trọng nhất là bằng con đường giáo dục, hiểu theo nghĩa rộng và đầy đủ của nó, bao gồm
cả những biện pháp trong hệ thống giáo dục nhà trường, giáo dục ngoài nhà trường (giáo
dục văn hóa), giáo dục tập thể, cộng đồng, giáo dục gia đình, theo hướng giáo dục tích
cực, toàn diện. Thứ nữa, sự phát triển nhân cách còn đòi hỏi thực hiện bằng con đường là
con người phải tích cực chủ động tham gia vào đời sống lao động để rèn luyện, thử thách,
nâng mình lên. Và một điều kiện khác nữa không kém phần quan trọng, là để hình thành
nhân cách văn hóa, con người phải tích cực chủ động tham gia vào các hoạt động văn hóa
- xã hội, thông qua các phương tiện sách, báo, thông tin đại chúng, di tích, danh thắng,
v.v... những hoạt động nhóm, tập thể, tổ, đội, v.v... ở đây, có những câu nói dân gian chứa
đầy ý nghĩa: "đi một ngày đàng học một sàng khôn", "học thầy không tầy học bạn", v.v...
Khi nói đến giáo dục phát triển nhân cách toàn diện, ở Trung Quốc có nêu lên
một khái niệm gọi là "Giáo dục tố chất". ở đây, "giáo dục tố chất" cũng mang ý nghĩa là
giáo dục để phát triển con người cả về thể chất và tâm hồn. Có thể nói, giáo dục tố chất
và giáo dục toàn diện, không khác nhau về nội hàm. Theo quan điểm giáo dục học mác-
xít, sự phát triển toàn diện mỗi cá nhân là điều kiện góp phần khai thác toàn diện nguồn
lực người của xã hội và ngược lại. Giáo dục tố chất cũng như quan niệm giáo dục con
người phát triển toàn diện là một quá trình cá thể hóa yêu cầu của xã hội và xã hội hóa
mỗi cá thể để mỗi con người thực sự là một chủ thể của sự phát triển cá nhân.
Nhân cách văn hóa là một khái niệm mới và rất khó, cho nên ở đây chúng tôi
muốn dựa theo quan niệm của GS.TSKH Tâm lý học Phạm Minh Hạc để trình bày rõ hơn
về các khái niệm này [21].
Theo ông, để hiểu nhân cách văn hóa là gì, trước hết cần phân biệt mấy khái
niệm như: con người, cá thể, cá nhân, nhân cách. Đây là những khái niệm mà trong đời
sống thông thường người ta hay dùng lẫn lộn.
Trong khoa học, người ta xem con người là tác phẩm kỳ diệu của thiên nhiên, là
một vũ trụ nhỏ theo quan niệm "nhân thân - tiểu vũ trụ". Con người là kẻ sáng tạo ra lịch
sử, văn hóa, đồng thời là sản phẩm của lịch sử văn hóa, văn minh nhân loại. Khi là đại
diện cho loài, con người được gọi là cá thể (cá thể/loài). Khi là thành viên của một xã hội,
nó được gọi là cá nhân (cá nhân/xã hội). Khi là chủ thể của hoạt động sáng tạo, con người
được gọi là nhân cách (nhân cách/chủ thể của hoạt động).
Khi con người hoạt động, nó phải vận dụng tâm lý của bản thân, (nhận thức, tình
cảm, ghi nhớ và chú ý, tính khí và tâm trạng, lời nói và việc làm...). Chừng nào những
hiện tượng tâm lý ấy có thái độ riêng, và các thái độ riêng này bền vững, ổn định như các
thuộc tính của chủ thể, khi đó các thái độ ấy trở thành diện mạo tâm lý của con người
này. Như vậy, nhân cách là tổ hợp các thái độ - thuộc tính riêng trong quan hệ với hành vi
ứng xử (nói năng, đi đứng, cư xử...), hành động, hoạt động với thiên nhiên với đồ vật,
người khác, cộng đồng, xã hội và bản thân. Đó chính là hệ thống thái độ làm nên diện
mạo tâm lý, tức nhân cách của con người.
Và, khi nào hệ thống thái độ ấy phản ánh và chứa đựng các giá trị văn hóa của
các cộng đồng (mà cá nhân ấy sở thuộc vào), chủ yếu là cộng đồng dân tộc - quốc gia,
khi ấy ta có nhân cách văn hóa.
Từ góc độ văn hóa, nhân cách văn hóa có thể hình dung như là diện mạo tâm lý
người lao động sáng tạo, người đại biểu mang vác hệ giá trị và chuẩn mực xã hội của một
cộng đồng xã hội nhất định (ở đây là cộng đồng dân tộc - quốc gia). Đặc điểm ưu trội của
nhân cách văn hóa có thể biểu hiện ở năng lực sáng tạo của nó. Lao động sáng tạo trong
văn hóa như là hình thức tự khẳng định, tự bộc lộ và phát huy "các lực lượng bản chất
người" (K.Marx) của nhân cách văn hóa.
Vấn đề xây dựng văn hóa suy cho cùng, là vấn đề con người văn hóa, nhân cách
văn hóa. Hồ Chí Minh là Một nhà văn hóa - một nhân cách văn hóa tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam. ở con người Bác, nhân cách văn hóa được thể hiện trước hết là các giá trị văn
hóa mang đậm bản sắc dân tộc, và điều quan trọng, nó luôn tỏa sáng, ảnh hưởng tới trong
cuộc sống mọi con người Việt Nam nói riêng và làm rung động không ít tâm hồn con
người các dân tộc trên thế giới.
Để phát triển toàn diện con người, hình thành nhân cách văn hóa ở con người,
đặc biệt ở lứa tuổi VTN, vai trò của Văn hóa và Giáo dục là cực kỳ to lớn và có ý nghĩa
then chốt trong thời kỳ phát triển CNH, HĐH của đất nước. Đưa các giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc - hiện đại vào giáo dục gia đình, nhà trường nhằm phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc và văn hóa văn minh nhân loại, hình thành nhân cách văn hóa cho thế hệ
trẻ là đã đưa Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) của Đảng vào cuộc sống.
1.1.3 Khái niệm giáo dục
V.I. Lênin coi giáo dục là phạm trù tất yếu và vĩnh hằng liên quan chặt chẽ với sự
phát triển xã hội loài người. Điều đó có nghĩa là giáo dục xuất hiện khi bắt đầu có xã hội,
đồng thời giáo dục cũng được quy định bởi nhu cầu xã hội. Giáo dục gắn liền với sự phát
triển xã hội, do đó nó mang tính lịch sử - cụ thể và tính kế thừa - phát triển.
Giáo dục, theo nghĩa rộng nhất là sự tác động của xã hội toàn bộ đến con người.
Giáo dục được bao gồm giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội và tự
giáo dục. Giáo dục là quá trình chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống xã hội. Trong
quá trình này thế hệ trẻ phải tiếp nhận những gì mà xã hội tích lũy được (tri thức, kỹ năng
sống, kỹ năng lao động, những chuẩn mực hành vi trong gia đình xã hội và thiên
nhiên...). Thế hệ trẻ phải có những phẩm chất cần thiết để giải quyết những nhiệm vụ mới
của thời đại mình đặt ra.
Như vậy, có thể nói rằng, giáo dục là quá trình các thế hệ đi trước truyền đạt cho
thế hệ mới những kinh nghiệm lịch sử - xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ mới cuộc sống
lao động và kỹ năng sống đảm bảo cho xã hội tiếp tục phát triển.
Nói về vai trò quan trọng của giáo dục, trong tuyên bố của AIA (Năm quốc tế
chống mù chữ) có nêu "Giáo dục là quan trọng, nó là một sinh lực tác động lên mọi mặt
của đời sống. Giáo dục là điều kiện hết sức thiết yếu, thậm chí chính là động lực của tiến
bộ... Giáo dục, tóm lại, vừa là thước đo, biện pháp và ý nghĩa của sự phát triển".
ở nước ta, vai trò của giáo dục được tinh thần Đại hội IX của Đảng đề cập nhằm
"phát huy nguồn lực con người" - một yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững
của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển "nguồn lực con người" (hoặc nguồn nhân lực, hoặc nguồn tài nguyên
con người (Human Resourees Development - HRD), về cơ bản, cần được hiểu là sự gia
tăng giá trị cho con người về mọi mặt: đạo đức, trí tuệ, thể chất, kỹ năng, tâm hồn... để
hình thành nhân cách văn hóa. Đó chính là những năng lực, phẩm chất mới của con
người mà giáo dục phải đảm nhận nhằm đáp ứng những yêu cầu to lớn của đất nước và
thời đại.
Thời đại ngày nay, trên toàn cầu, cũng như ở nước ta, không ai không thấy rõ vai
trò hết sức quan trọng của giáo dục. Theo GS.TS Phạm Minh Hạc trong báo cáo tổng kết
sau ba năm làm việc của ủy ban chuẩn bị giáo dục đi vào thế kỷ XXI của tổ chức giáo
dục, khoa học, văn hóa của liên hiệp quốc (UNESCO) nêu ra 4 mục tiêu (nguyên lý) của
nền giáo dục tương lai của nhân loại là: 1) Học để biết; 2) Học để làm; 3) Học để chung
sống; 4) Học để làm người, để tự khẳng định mình [21, tr. 52].
Dưới góc độ văn hóa, giáo dục chính là nơi gìn giữ, truyền thụ và phát huy hệ
thống giá trị truyền thống dân tộc và nhân loại. Giáo dục đào tạo ra các thế hệ tiếp nối và
sáng tạo các giá trị. Hơn nữa, giáo dục ngày nay đang phát triển theo xu hướng Học đi
đôi với Hành. Trên cơ sở tri thức tiếp nhận được (ở trường lớp, tự học) con người phải
hình thành được các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, để có một khả năng thực hành trong
cuộc sống, sáng tạo ra các giá trị trong cuộc sống. Hay nói khác đi, chức năng của nhà
trường ngày nay không thể chỉ dừng lại ở việc chuyển giao tri thức cho thế hệ trẻ mà mục
tiêu đặt ra là con người biết làm cho tri thức mang lại hiệu quả xã hội. Vì vậy, nếu trước
đây kết luận của khoa học giáo dục về bản tính người là sản phẩm của quá trình hoạt
động liên tục nhằm có được tri thức, kỹ năng và thái độ thì lý luận giáo dục ngày nay xếp
giáo dục thái độ lên hàng đầu, rồi mới đến tri thức và kỹ năng. Có nghĩa là con người
ngày nay cần có những năng lực, trí lực lựa chọn những giá trị đồng thời cũng sáng tạo ra
những giá trị mới thông qua những phương thức giáo dục mang tính lý luận thay vì
những phương thức giáo dục truyền thống mang tính trao truyền bằng kinh nghiệm. Bởi
xã hội khoa học công nghệ và thông tin phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy như ngày nay
thì việc giáo dục bằng trao truyền kinh nghiệm là khó đáp ứng yêu cầu thời đại. Như vậy,
lý luận giáo dục ngày nay đưa nhân cách văn hóa lên nhiệm vụ hàng đầu, biến học vấn
thành văn hóa. ở cấp ấu thơ và cấp "cơ sở" giai đoạn khởi đầu hình thành nhân cách con
người lấy phương thức giáo dục "Tiên học lễ - Hậu học văn". ở cấp phổ thông trung học,
giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách lấy phương thức giáo dục liên thông kết hợp
giáo dục học vấn với giáo dục hướng nghiệp, định nghiệp, lập nghiệp. Đó là "phương
thức giáo dục trực tiếp phục vụ phát triển bền vững, phát triển nguồn lực người, qua đó
trực tiếp phục vụ phát triển xã hội - kinh tế. Hoạt động học tập gắn liền với hoạt động lao
động, sáng tạo ra mọi giá trị cuộc sống" [21, tr. 52].
1.1.4. Khái niệm giá trị
Trước khi đi vào khái niệm giá trị, chúng tôi xin lưu ý tới các định nghĩa văn hóa
đã được nêu ở trên đều nhắc đến một khái niệm cốt lõi là giá trị, hệ giá trị. Điều đó
chứng tỏ rằng, nói văn hóa là đề cập đến giá trị, chí ít cũng từ góc nhìn xã hội học mà đề
tài tiếp cận. Hệ giá trị chính là nội dung, là yếu tố thực thể của văn hóa. Nhưng giá trị là gì?
nội hàm của giá trị là thế nào?
Cho đến nay, đã có không ít những định nghĩa, những quan niệm khác nhau về
giá trị được xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác nhau: toán học, kinh tế học, ngôn
ngữ học... ở góc độ văn hóa học, đối tượng nghiên cứu là nội dung giáo dục giá trị truyền
thống văn hóa thì giá trị phải là những giá trị xã hội. Giá trị xã hội là những cái có ý
nghĩa tích cực, tiến bộ, hữu ích được đa số người trong xã hội mong ước và cùng chia sẻ.
Hay nói khác là, giá trị mà cộng đồng xã hội chấp nhận là dựa trên sự đánh giá của đa số
các thành viên trong cộng đồng ấy về những cái mà họ khát khao như cái đẹp, cái tốt, cái
đúng, cái có ích, ngược lại, những cái họ không mong muốn như cái xấu, cái tồi tệ, cái có
hại bị coi là những phản giá trị. Như vậy giá trị ở đây là sự biểu thị của tình cảm cộng
đồng, sự đánh giá của cộng đồng, chứ không phải dựa vào sự đánh giá của cá nhân. Vì
vậy, về nguyên tắc, giá trị là cái mang tính xã hội.
Một yếu tố nữa của giá trị được thừa nhận khá phổ biến coi giá trị như những
quan niệm về cái đang mong muốn có ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Vì vậy, để tìm
hiểu giá trị người ta thường gắn nó với nhu cầu. Chính nhu cầu tạo nên động cơ hành
động và hành động được biểu thị như là sự lựa chọn giá trị ở mỗi con người. Đến đây có
thể hiểu nội hàm của khái niệm giá trị "Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể xem là có giá trị,
dù nó là vật thể hay phi vật thể, miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó
như một nhu cầu trong đời sống của cộng đồng, của đời sống con người".
Giá trị có tính lịch sử khách quan. Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố, nhận
thức, tình cảm, sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể. Giá trị phản ánh khách quan lợi ích
xã hội của mỗi nhóm, cộng đồng hay giai cấp, vì thế nó gắn liền với ý thức xã hội. Trong
mỗi chế độ, mỗi giai đoạn lịch sử xã hội có một hệ thống và thang giá trị khác nhau, nó
được tạo bởi hoàn cảnh xã hội và những đặc điểm riêng của xã hội đó..
Giá trị xã hội có mối quan hệ mật thiết với chuẩn mực xã hội. Nếu giá trị là cái
ngầm ẩn (các nhu cầu) thì chuẩn mực là cái hiện thực hóa giá trị trong hiện thực. Chuẩn
mực xã hội (CMXH) là những yêu cầu mang tính tiêu chuẩn của xã hội đối với hành
động của cá nhân, đòi hỏi mỗi cá nhân trong xã hội phải tuân theo. CMXH được thể hiện
thành những quy tắc, tiêu chuẩn, phương hướng khuôn mẫu ứng xử của con người.
CMXH là sự kết tinh cao của các khuôn mẫu mà con người phải theo.
Hệ thống chuẩn mực xã hội là hệ quy chiếu để cho xã hội hoạt động và duy trì
trạng thái ổn định của nó. Bởi thế CMXH thể hiện rõ tính quy định của khuôn mẫu của
tính thể chế và pháp lý. Nó điều tiết hành động con người, xác lập những nguyên tắc
hành động của con người trong từng lĩnh vực hoạt động khác nhau: chuẩn mực đạo đức,
chuẩn mực giáo dục, chuẩn mực pháp chế...
Trong thang giá trị của CMXH lại chia cấp độ có cái chính, có cái phụ và cái
phái sinh. Giá trị chính là giá trị chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động xã hội, đồng thời là
giá trị định hướng, lý tưởng chung của toàn xã hội.
Định hướng giá trị là một trong những biến đổi rõ của đặc trưng xu hướng nhân
cách và có ý nghĩa hướng dẫn hoạt động của con người. Định hướng giá trị mang đậm
tính lịch sử - xã hội của cả cộng đồng, nét riêng của mỗi dân tộc và những nét đặc thù của
các nhóm xã hội, các nhóm tuổi, giới, nghề nghiệp, tôn giáo, địa phương khác nhau.
Bất cứ một xã hội nào, một thời kỳ lịch sử nào cũng có những chuẩn giá trị xã
hội và định hướng xã hội nhằm duy trì sự ổn định xã hội và cũng để quản lý xã hội.
1.1.5. Khái niệm truyền thống văn hóa và giá trị truyền thống văn hóa
- Khái niệm truyền thống
Truyền thống vốn là một từ Hán - Việt. Trong cuốn Từ điển Hán - Việt của Đào
Duy Anh "Truyền thống: đời nọ truyền xuống đời kia". Trong từ điển tiếng Việt phổ
thông truyền thống được định nghĩa là "thói quen hình thành từ lâu đời trong lối sống và
nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác".
Theo quan niệm của các nước phương Tây, Truyền thống (tradition) có nghĩa là
"giao", "chuyển giao". Bách khoa thư Pháp định nghĩa "Truyền thống là tất cả những gì
người ta biết và thực hành bằng sự chuyển giao từ thế hệ này đến thế hệ khác, thường là
truyền miệng, hay bằng sự bảo tồn và noi theo những tập quán, những cách ứng xử, những
mẫu hình và tấm gương".
Như vậy, có thể hiểu "truyền thống" như là một hệ thống các tính cách, các thế
ứng xử của một cộng đồng, được hình thành trong lịch sử, trong môi trường sinh thái và
nhân văn nhất định, trở nên ổn định, trường tồn nhưng không vĩnh cửu, có thể được định
chế hóa bằng luật hay bằng lệ (phong tục tập quán) và được trao truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Có thể gọi là sự di truyền văn hóa bên cạnh sự di truyền sinh vật về thể
xác - để đảm bảo tính thống nhất của một cộng đồng trong lịch sử. Mọi sự phát triển đều
xuất phát từ truyền thống, con người từ khi sinh ra trong một gia đình, một xã hội đã bị
chi phối bởi truyền thống và các hiện tượng văn hóa cũng vậy. Tuy nhiên mọi vấn đề đều
có tính hai mặt, truyền thống cũng vậy Truyền thống nào cũng có truyền thống phù hợp
và truyền thống không phù hợp. Truyền thống có thể thúc đẩy sự phát triển nhưng mặt
khác nó cũng có thể cản trở sự phát triển. Truyền thống mang tính cộng đồng. Truyền
thống được chuyên chở, lưu giữ trong ký ức và từ đó điều khiển hành động của cá nhân.
Nhiều khi nó trở thành vô thức, con người cứ hành động theo các quy định. Truyền thống
có thể thay đổi, nhưng trong sự ổn định.
- Khái niệm giá trị truyền thống văn hóa
Giá trị truyền thống là sự tuyển chọn những truyền thống tốt đẹp mang ý nghĩa
tích cực và tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc. Trong các giá trị truyền thống có cái
biến đổi nhanh, có cái bị đứt gẫy, và cũng có cái bền vững trường tồn.
VD: Trong hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam, tinh thần yêu nước là một giá trị
truyền thống bền vững và trường tồn, tuy nhiên nội dung của nó cũng có quá trình hình
thành, phát triển và biến đổi, nâng cao qua các quá trình lịch sử.
Việt Nam là một nước giàu truyền thống văn hóa với 54 tộc người cùng chung
sống. Tính đa dạng về văn hóa tộc người thể hiện trên bình diện văn hóa các nhóm ngôn
ngữ - tộc người, và văn hóa các nhóm địa phương của mỗi tộc người. Như Việt - Mường,
Tày - Thái, Môn - Khơme, Nam Đảo, Mông - Dao, Tạng - Miến, Hoa... Mỗi tộc người lại
gồm nhiều nhóm địa phương với sắc thái văn hóa phong phú. Cái sắc thái văn hóa tộc
người ấy đan kết, thâm nhập, tiếp biến giữa nhân tố bản địa và ngoại lai, tạo nên bức
tranh đa sắc của văn hóa Việt Nam.
Truyền thống văn hóa và nội dung của truyền thống văn hóa rất đa dạng và
phong phú. Trong phạm vi nghiên cứu vấn đề đưa giáo dục giá trị văn hóa truyền thống ở
tuổi VTN trong nhà trường phổ thông, chỉ tập trung vào những giá trị truyền thống văn
hóa tinh thần tiêu biểu, cốt lõi của dân tộc Việt (kinh), phù hợp với lứa tuổi, cấp học của
các em, đồng thời nhằm phát huy vai trò của truyền thống đối với xây dựng nhân cách
văn hóa vị thành niên trong cuộc sống và yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay.
Trong xã hội hiện thời, khi quan niệm về giá trị truyền thống văn hóa người ta
thường dùng cách phân chia văn hóa ra thành văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại.
Song, theo chúng tôi nghĩ cách phân địch tách bạch truyền thống - hiện đại chỉ có thể có
phần đúng đối với những loại giá trị văn hóa vật chất.
Còn đối với những giá trị văn hóa tinh thần, ví dụ như: tinh thần yêu nước, ý thức
dân tộc, uống nước nhớ nguồn... khó có thể phân định tách bạch truyền thống với hiện
đại. Không thể có tình yêu nước truyền thống khác biệt với tình yêu nước hiện đại, hay ý
thức độc lập tự cường dân tộc truyền thống khác ý thức độc lập tự cường dân tộc thời
hiện đại... mà những giá trị truyền thống văn hóa đó vẫn tồn tại được phát huy, phát triển
lên một trình độ mới phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển của thời đại. Bởi vì, cái
được gọi là hiện đại hiện thời thực chất là những cái giá trị văn hóa cốt lõi được bảo tồn,
lưu truyền từ trong truyền thống (quá khứ đã qua) được phát triển nâng lên ngang tầm với
trình độ văn hóa thời nay (tạm gọi là hiện đại), trải qua dòng chảy của lịch sử lại được trở
thành giá trị văn hóa truyền thống của quá khứ, để cho những thời sau, sau nữa kế tục,
phát triển nâng lên, cứ thế... cứ thế mãi...
Từ những lý giải trên, có thể đi đến một quan niệm về giá trị truyền thống văn
hóa Việt Nam trên lĩnh vực văn hóa tinh thần là "biết cách định hướng, lựa chọn, kế
thừa, thu nạp và phát triển các giá trị văn hóa, dù nội sinh hay ngoại sinh, của quá khứ
hay hiện tại, để làm giàu và phát triển vốn di sản văn hóa tinh thần dân tộc và theo kịp
thời đại tiến bộ". Vốn di sản văn hóa ấy là tài sản văn hóa chung thể hiện truyền thống
văn hóa Việt Nam, đồng thời thể hiện sức mạnh của bản lĩnh, bản sắc văn hóa Việt Nam
trong lịch sử văn hóa dân tộc.
Nhờ có vốn di sản văn hóa dân tộc rất phong phú, đa dạng và đặc sắc mà giá trị
truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam thật to lớn, bởi nó đã hình thành nên một
bảng giá trị tinh thần khả dĩ làm "nền tảng sức mạnh tinh thần" và là động lực cho công
cuộc xây dựng phát triển đất nước hiện thời.
Như vậy, truyền thống văn hóa Việt Nam tự tồn với những giá trị bắt nguồn từ
tinh thần nhân bản khoan dung Việt Nam, đó là dòng sữa nuôi dưỡng tinh thần Việt
Nam, tôi luyện bản lĩnh, xây dựng nhân cách văn hóa con người Việt Nam qua các thế hệ
cho tới hôm nay.
1.1.6. Khái niệm vị thành niên
Trong cuộc đời một con người, có một giai đoạn được gọi là tuổi "Vị thành
niên".
Theo từ điển tiếng Việt thì "Vị thành niên là những người chưa đến tuổi trưởng
thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình". Trong các văn bản pháp luật
hiện hành ở nước ta (như Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động...) có dùng thuật ngữ "người
chưa thành niên" và có quy định cụ thể về độ tuổi và mức độ mà người chưa thành niên
phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Về mặt thuật ngữ, tuy chưa hoàn toàn thống nhất, song có sự thừa nhận chung là:
Vị thành niên là một giai đoạn trong quá trình phát triển của con người với đặc điểm lớn
nhất là quá trình dạy thì - cơ thể tăng trưởng nhanh chóng để đạt tới sự trưởng thành, tâm
lý có sự "bùng nổ sâu sắc. Có thể hiểu đây là giai đoạn "sau trẻ con và trước lớn".
Theo tổ chức y tế thế giới, độ tuổi vị thành niên là từ 10 đến 19 tuổi.
ở Việt Nam, vị thành niên là lứa tuổi từ 11 - 12 tuổi đến 17 - 18 tuổi, chiếm gần
1/4 dân số nước ta (khoảng 22,5%).
Đây là lứa tuổi đang phát triển nhân cách, đặc biệt là quan điểm sống, thế giới
quan chưa rõ ràng, sự phát triển về mặt xã hội cũng chưa được xác định. Hầu hết vị thành
niên còn phải sống phụ thuộc vào cha mẹ, chưa có vị trí kinh tế độc lập, chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của người công dân về mặt pháp luật.
1.2. Nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành
niên trong nhà trường
1.2.1. Cơ sở xác định nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa
a) Nội dung cốt lõi của một nền văn hóa, theo đó là một truyền thống văn hóa của
một dân tộc, như mọi người đã biết, đó là hệ thống giá trị văn hóa của chính dân tộc đó.
Truyền thống văn hóa không phải là bất biến. Nó được hình thành và phát triển trong quá
trình vận động, qua nhiều thử thách và tuyển chọn, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Dù xuất
phát từ nguồn nội sinh hay nguồn ngoại sinh, dù do tự nguyện hay có thể là do cưỡng bức
áp đặt, nhưng tất cả đều trải qua một quá trình thử thách, tuyển chọn, đánh giá tích cực
của những con người đương thời, họ muốn chiếm dụng và truyền lưu; để rồi những con
người hiện nay coi đấy là những di sản văn hóa của dân tộc mình, tiếp nối tuyển chọn, tôi
luyện, chiếm dụng và muốn truyền lưu tới thế hệ kế tiếp. Do vậy, việc giáo dục giá trị
truyền thống cho lứa tuổi vị thành niên là hết sức cần thiết, nhưng không phải giáo dục
theo kiểu "về nguồn", trở lại hay "tìm về cội nguồn".
Với các em vị thành niên lứa tuổi đang hình thành và phát triển nhân cách văn
hóa, các em chưa phải "can lỗi" đánh mất truyền thống, dẫm đạp truyền thống, vọng
ngoại hay bài ngoại văn hóa một cách mù quáng. Nếu có, chẳng qua đó chỉ là do học đòi
theo những người lớn không gương mẫu, không hiểu hay không thấm nhuần giá trị
truyền thống văn hóa Việt Nam. Lỗi ở người lớn chúng ta chưa chú trọng giáo dục đến
nơi đến chốn những giá trị truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc cho thế hệ trẻ các
em. Giải trình như vậy, để có ý nói rằng, mục đích giáo dục giá trị truyền thống văn hóa
Việt Nam cho các em vị thành niên ở nhà trường là rất khác với giáo dục cho người lớn,
nhất là những người lớn không đàng hoàng thiếu gương mẫu. Các em không phải là đối
tượng phải "giáo dục lại". Cần phải giáo dục mới cho các em thấu hiểu sâu và đúng đắn
những mặt tích cực của giá trị truyền thống văn hóa. Cũng phải phân tích cho các em
thấy được những mặt hạn chế, không phù hợp điều kiện xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Đồng thời còn phải giáo dục cho các em cả về phương pháp lựa chọn, định hướng giá trị
truyền thống văn hóa Việt Nam phù hợp, tiếp nối trong điều kiện xã hội nước ta công
nghiệp hóa, hiện đại hóa bước vào thế kỷ XXI.
Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho các em không phải nhằm mục đích
"sưu tầm đồ cổ", cũng không phải để các em "về nguồn" hay "đi tìm cội nguồn", mà chủ
yếu phải là để cho thế hệ tiếp sau người lớn hôm nay tránh khỏi "đứt đoạn truyền thống
văn hóa" và cũng tránh khỏi cả việc bảo thủ cố chấp những giá trị văn hóa truyền thống
không còn hợp thời. Để cho giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam bị "đứt gánh giữa
đường" là có tội lớn với đất nước. Còn việc bảo thủ cố chấp, làm cản trở bước phát triển
của truyền thống văn hóa tốt đẹp, cũng là có tội với đất nước. Do vậy, ở đây phương pháp
định hướng - giá trị cho các em là vô cùng quan trọng.
b) Những giá trị truyền thống đang hiện diện trong cuộc sống hôm nay thông qua
nhiều hệ thống di sản văn hóa dân tộc: hệ thống các tác phẩm văn học, nghệ thuật, lịch
sử, khoa học xã hội, nhân văn,...; hệ thống các nhân cách văn hóa lớn; hệ thống các
khuôn mẫu văn hóa đậm thuần phong mĩ tục dân tộc; hệ thống những di tích lịch sử - văn
hóa; hệ thống những di sản văn hóa dân gian; v.v... Đây là những đối tượng sử dụng tốt
nhất trong việc giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho mọi người nói chung và cho lứa
tuổi vị thành niên ở học đường nói riêng. Mỗi loại di sản có những tính năng, tác dụng
riêng, cần nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra những biện pháp sử dụng phù hợp và hữu hiệu
với từng đối tượng giáo dục.
Hệ thống tác phẩm văn hóa rất phong phú, đa dạng. Nó có khả năng cung cấp tri
thức và tác động cảm xúc tích cực về giá trị truyền thống văn hóa bằng con đường học,
đọc, nghe, xem, chơi. Các tác phẩm văn hóa đã có sự lựa chọn, định hướng giá trị đạt
trình độ cao, có tầm khái quát và tầm chuẩn mực cao. Nó là một loại đối tượng sử dụng
giáo dục tối ưu cho mọi đối tượng công chúng đủ điều kiện thực hiện việc học, đọc, nghe,
xem, chơi với nó.
Hệ thống những di tích lịch sử - văn hóa cũng rất nhiều, có ở khắp mọi nơi trên đất
nước ta. Nó có khả năng giáo dục tri thức và cảm xúc tích cực về truyền thống văn hóa dân
tộc bằng con đường gián tiếp (qua nghe đài, nghe kể, xem sách, báo, tranh ảnh), nhưng
mạnh nhất, tối ưu là bằng con đường tham quan khảo sát trực tiếp. Tầm tuyển lựa, định
hướng giá trị cũng như tầm khái quát, tầm chuẩn mực giá trị của những di tích lịch sử - văn
hóa cũng đã đạt đến trình độ cao trong lịch sử đương thời. Nó là một đối tượng sử dụng
giáo dục tối ưu cho mọi đối tượng công chúng nào có đủ điều kiện thực hiện việc tham
quan khảo sát trực tiếp với các bảo tàng trong nhà, bảo tàng ngoài trời, các di tích lịch sử -
văn hóa, nhà truyền thống, nhà lưu niệm...
Cũng là những di sản văn hóa vô cùng quý giá của dân tộc, các nhân cách văn
hóa lớn ở nước ta, kể cả ở thời quá khứ và những nhân chứng lịch sử thời đại Hồ Chí
Minh, là một kho tàng quý báu những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam.
Những nhân cách văn hóa lớn chính là nơi đã có tầm tuyển lựa, khái quát, chuẩn mực và
định hướng giá trị rất cao, cả cho hiện nay và lâu dài mai sau. Đây cũng là một đối tượng
sử dụng tốt cho những đối tượng giáo dục nào có điều kiện thực hiện bằng con đường
gián tiếp (đọc tiểu sử, lịch sử, hồi ký, nghe kể chuyện, xem phim tài liệu Việt Nam - đất
nước - con người, v.v...) và con đường trực tiếp gặp gỡ danh nhân.
Hệ thống những di sản văn hóa dân gian và những khuôn mẫu văn hóa lại còn
phong phú, đa dạng hơn nữa. Nó đang hiện diện, hiện hành trong thực tế cuộc sống, trực
tiếp ngay trên từng cộng đồng dân cư. Tầm chuẩn mực, khái quát và định hướng - giá trị
của những loại di sản văn hóa này có thể chưa đạt tới trình độ cao như những loại di sản
kể trên, nhưng nó lại rất đậm tính nhân văn, dân tộc, đại chúng. Đây là những đối tượng
sử dụng rất đáng được quan tâm khai thác để giáo dục phổ cập truyền thống văn hóa cho
mọi tầng lớp nhân dân quần chúng.
Hai loại - Di sản văn hóa dân gian và khuôn mẫu văn hóa - có những đặc trưng
riêng khác nhau về tính năng, tác dụng giáo dục giá trị truyền thống văn hóa. Văn hóa,
nghệ thuật dân gian có khả năng giáo dục truyền thống văn hóa qua con đường nghe,
xem, chơi và bằng những biện pháp giáo dục thẩm mĩ. Còn những khuôn mẫu văn hóa thì
có khả năng giáo dục truyền thống văn hóa qua con đường thực thao hành vi ứng xử và
bằng những biện pháp xây dựng thành nếp sống văn hóa.
c) Để giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lớp người vị thành niên ở học
đường, cụ thể là những học sinh trường phổ thông cấp II, cấp III của nước ta, chúng ta có
thể khai thác sử dụng tất cả các loại di sản văn hóa kể trên. Tuy nhiên, phải tùy theo đặc
điểm của lứa tuổi và điều kiện học tập ở trường, tùy đặc điểm từng trường của từng địa
phương lứa tuổi học sinh này ở nước ta hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu sử dụng những
biện pháp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa dân tộc cho các em thế nào cho phù hợp
và có hiệu quả thiết thực.
Thực tình ai cũng vậy, lĩnh vực nào cũng quan trọng. Ngoại trừ những môn khoa
học cơ bản đương nhiên phải học, như Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Ngôn ngữ,
Tâm lý, Ngoại ngữ, Chính trị, v.v... thì các lĩnh vực khác về văn hóa, xã hội, nghệ thuật,
thể thao, pháp luật, v.v... ai cũng muốn lĩnh vực của mình được xây dựng thành một môn
học chính khóa đàng hoàng gồm hàng chục bài với hàng chục tiết học, có cả chính khóa
và phụ khóa, có cả lý thuyết và thực hành, bài tập, để rèn luyện giáo dục cho các em thấm
nhuần sâu sắc vững vàng trước khi vào đời. Bởi các em đang tuổi cần được giáo dục toàn
diện để hình thành nhân cách phát triển toàn diện, đủ tất cả các tố chất Đức, Trí, Thể, Mỹ,
Năng lực, Kỹ năng sống v.v...
Lĩnh vực văn hóa càng quan trọng không kém, nhất lại phải nhấn mạnh vào
truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Bởi, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội;
văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của phát triển xã hội; chúng ta chiến thắng bao kẻ
thù mạnh gấp bội là nhờ có truyền thống văn hóa Việt Nam; chúng ta cũng cần phát huy
truyền thống văn hóa Việt Nam vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, v.v... Theo
đó, lĩnh vực văn hóa rất đáng mong muốn được xây dựng thành một môn học "Giáo dục
truyền thống văn hóa Việt Nam", đồng hành với các môn "Giáo dục công dân", "Giáo
dục đạo đức", "Giáo dục pháp luật", "Giáo dục thể chất", v.v... để dạy cho các em học
sinh cấp II, cấp III. Nước ta có đủ khả năng để xây dựng một môn học đặc trưng "Giáo
dục truyền thống văn hóa Việt Nam" chính khóa, đàng hoàng, không kém gì các môn học
về văn học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, v.v... Nước ta trong lúc đang bước vào thời kỳ
CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, v.v..., do vậy, cũng đang rất
cần "giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" cho các em vị thành niên, những người
làm chủ tương lai ở thế kỷ XXI, đủ sức mạnh chống tình trạng "đứt đoạn truyền thống
văn hóa Việt Nam" nếu xảy ra.
Thực lòng mong muốn và thực tế cần thiết đáng là như vậy. Song, trong phạm vi
của đề tài này, hơn nữa trong thực tế hoàn cảnh học tập của các em học sinh hiện nay,
chưa cho phép đặt ra thêm một môn học chính khóa về "Giáo dục truyền thống văn hóa
Việt Nam" với đầy đủ nội dung toàn diện đích thực của nó, để giảng dạy và để học tập
cho các em học sinh cấp II, III. Chỉ hy vọng rằng, ước mơ xây dựng môn học "Giáo dục
truyền thống văn hóa Việt Nam" sẽ được hiện thực hóa để giảng dạy và học tập, cả cho
học sinh phổ thông và sinh viên đại học, trong những năm tương lai gần đây nhất. (Nếu
được bàn luận thêm ngoài lề, xa hơn chút nữa, chúng tôi có cảm nhận là nên sắp xếp lại
cho hợp lý, thiết thực, các môn học có nội dung về "văn hóa" hiện đang được giảng dạy
và học tập ở một số trường đại học xã hội - nhân văn - văn hóa - nghệ thuật. Chúng ta
đang có nhiều phần trùng lặp nhau, nội dung bàng bạc. Chúng ta đã có khá nhiều môn về
văn hóa học, lý luận văn hóa, văn hóa phương Đông, cơ sở văn hóa Việt Nam, đường lối
văn hóa, xã hội học - văn hóa, v.v... chiếm thời lượng dạy và học hơn hai trăm giờ, chưa
kể giờ viết tiểu luận, trong lúc đó chưa có một giờ nào cho một môn nào về "Giáo dục
truyền thống văn hóa Việt Nam" đích thực, để góp phần vào việc bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa Việt Nam).
Trở lại với thực tại giáo dục cho các em học sinh cấp II, III. Hiện nay các em
đang bị quá tải, học quá nhiều môn. Trên vai các em đang mang quá nhiều sách và vở đủ
cho rất nhiều môn phải học. Về nhà, các em học "hết nổi", có nhiều môn phải chịu học
qua loa, nhất là những môn được các em xếp vào hàng "không quan trọng", "không phải
môn chính". Những môn nào nặng về "lý luận quá", trừu tượng quá, các em càng ít muốn
học. ở trường, vì mới bổ sung thêm quá nhiều môn, nên thời khóa biểu hay bị kẹt, có lúc
phải tăng giờ học, hoặc có môn bị xếp giờ xếp lịch ép, có nhiều môn mới quá chưa có
hoặc chưa đủ thầy dạy, v.v... Trong hoàn cảnh như vậy, nếu bây giờ phải xếp thêm vào
một môn lý luận "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" nữa, sợ e không thể thực
hiện nổi. Nó sẽ làm tăng thêm sức ép, chồng thêm lên mức quá tải cả cho các em và cả
cho nhà trường. Muốn cố chen vào kỳ được cũng không còn chỗ để chen. Muốn đẩy môn
khác ra để đưa môn này vào lại càng vô lý. Chi bằng hợp tình hợp lý nhất lúc này, nên
đưa môn "Giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" xếp vào Chương trình môn giáo dục
ngoài giờ lên lớp.
Cũng còn những lý do khác nữa, khái niệm "Văn hóa" cũng như "truyền thống
văn hóa" đang là một khái niệm rất co giãn. Nó có thể được khái quát hóa lên ở tầm độ
rất cao, với mức lý luận trừu tượng rất lớn, và cũng có thể được chi tiết hóa ở/vào những
hiện tượng, hành vi rất nhỏ. Trong thực tế ngôn ngữ thông dụng ở nước ta hiện nay, khái
niệm văn hóa có thể được xếp vào nhiều hạng sử dụng. Văn hóa được coi như một nền
văn hóa - (Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc...). Văn hóa cũng được gom lại
thành một Ngành văn hóa - (khác với các ngành khác như Thông tin, Giáo dục, Khoa
học, Thể thao, v.v...). Văn hóa lại còn được coi như một tính từ, làm định ngữ - (con
người có văn hóa, nhân cách văn hóa, nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng, ấp, xóm
văn hóa, khu phố văn hóa, chợ văn hóa, thuyền văn hóa, v.v... và v.v...). Văn hóa cũng hay
được dùng để nói lên trình độ giỏi, điêu luyện, đặc sắc của một lĩnh vực nào đó - (văn hóa
ẩm thực, văn hóa chơi, văn hóa rượu, văn hóa quản lý, văn hóa kinh doanh, v.v...). Giữa
"văn hóa truyền thống" và "truyền thống văn hóa" cũng hay được hiểu rất co giãn, nội
dung khái niệm còn nhiều điều nhập nhùng, bàng bạc, khó xử. Các cụm từ khác về văn
hóa, như "Văn hóa thể thao", "Thể thao văn hóa"; "Văn hóa gia đình", "Gia đình văn
hóa"; Văn hóa làng", "Làng văn hóa"; v.v... và v.v... cũng có tình trạng như vậy. Do đó,
nếu chưa giải mã rành mạch được các khái niệm văn hóa này, thật khó lòng đưa vào cho
các em học về văn hóa, về truyền thống văn hóa hay văn hóa truyền thống,... có thể làm
cho các em thêm rối rắm, khó tiếp nhận đầy đủ, chính xác.
Nhưng qua những điều giãi bày ở trên, cũng cho thấy một số điều thú vị, khả dĩ
giúp xác định cụ thể nội dung giáo dục truyền thống văn hóa cho các em học sinh. Khi
nói đến văn hóa hay truyền thống văn hóa, nên giải thích chia ra thành hai bình diện: Văn
hóa ở bình diện lý thuyết và văn hóa ở bình diện thực hành. Cũng như lĩnh vực "đạo đức"
- có đạo đức học ở bình diện lý thuyết và có hành vi đạo đức ở bình diện thực hành. Đối
với lĩnh vực "Pháp luật" cũng vậy - có pháp luật học ở bình diện lý thuyết, và có văn bản
pháp luật, hành vi pháp luật,... ở bình diện thực hành, v.v...
Trở lại với văn hóa là truyền thống văn hóa. ở bình diện lý thuyết văn hóa học, có
biết bao nhiêu nguyên lý, lý luận, định nghĩa, phương pháp luận tiếp cận với văn hóa và
truyền thống văn hóa. ở bình diện này, lý luận đã nhiều, còn nhiều và vẫn còn nhiều điều
tranh cãi. Còn ở bình diện thực hành, văn hóa và truyền thống văn hóa đang hiện diện ra
trong xã hội với biết bao nhiêu hình thức, mô hình trong thực hành nghề văn hóa và hành
vi văn hóa của một truyền thống văn hóa Việt Nam. Nó đang diễn ra có cả cái đúng và
cái sai, có cả cái hay và cái dở, cái hợp thời và cái không hợp thời. Dĩ nhiên, ở đây, giữa
bình diện lý thuyết và bình diện thực hành có sự tương liên, tương tác, chi phối lẫn nhau
để cùng nhau phát triển. Lý luận là chất xám để cây đời phát triển và ngược lại, cây đời
phát triển xanh tươi để cho chất xám gia tăng và hoàn chỉnh.
Bình diện lý thuyết và bình diện thực hành tuy là xen cài nhau, nhưng vẫn cho
thấy rõ diện mạo riêng của chúng. ở bình diện lý thuyết, người ta "nhìn thấy" văn hóa,
truyền thống văn hóa như một "cấu trúc có bề sâu", là "cái còn đọng lại..." - (một diện
mạo vô hình). Còn ở bình diện thực hành, người ta nhìn thấy thật diện mạo của văn hóa,
truyền thống văn hóa là một hệ thống (hữu hình) những sản phẩm văn hóa, hoạt động văn
hóa, khuôn mẫu văn hóa ứng xử, v.v... đang diễn ra trên bề mặt xã hội ấy. Diện mạo hữu
hình của văn hóa đang diễn ra trên bề mặt ấy lại được hệ thống các quy tắc văn hóa (vô
hình, ở chiều sâu) hướng dẫn và điều chỉnh. Khi nói đến nội dung của văn hóa, không
mấy ai không nhắc đến hệ thống những tác phẩm văn hóa và những khuôn mẫu văn hóa
ứng xử. Nhắc lại quan điểm của Max Weber, nhà xã hội học nổi tiếng của Đức: Văn hóa
là tập hợp những khuôn mẫu hành vi, sự định hướng giá trị được con người tiếp thu từ
sớm, quy định điều chỉnh sự giao tiếp giữa con người với nhau, tạo cho con người cảm
giác an toàn trong thái độ và hoạt động của mình...
Do vậy, thiết nghĩ rằng, nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam
cho lứa tuổi vị thành niên, nên trực tiếp giáo dục ngay vào những giá trị khuôn mẫu văn
hóa ứng xử đậm bản sắc truyền thống dân tộc Việt Nam. Nhất trí với quan điểm của một
số nhà nghiên cứu về giáo dục, cho rằng: Các phương pháp, hình thức giáo dục, cả nội
khóa và ngoại khóa, đều nhằm giúp học sinh tiếp thu một cách sinh động các chuẩn mực
giá trị đạo đức, nhân văn, biểu hiện thông qua những hành vi, thái độ ứng xử trong cuộc
sống và kể cả phương pháp lựa chọn để phấn đấu theo những định hướng giá trị mới phù
hợp tiến bộ.
Từ những điều giải trình ở trên, cho phép nêu lên một vài kết luận nhỏ: Giáo dục
hệ giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam cho các em học sinh cấp II, III các trường phổ
thông hiện nay ở nước ta là rất cần thiết, không thể thiếu được. Nội dung giáo dục hệ giá
trị truyền thống văn hóa cho các em chủ yếu là cần giáo dục thông qua hệ khuôn mẫu văn
hóa đậm bản sắc truyền thống Việt Nam. Hình thức giáo dục, ở bình diện lý thuyết, nên
đưa vào dạy ở chương trình nội khóa, nhưng cho lồng ghép thêm nội dung vào các môn
giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo dục pháp luật, văn học Việt Nam, lịch sử Việt
Nam,... Như vậy cũng hợp lý, bởi văn hóa và truyền thống văn hóa được coi như "một vũ
trụ chất lỏng xuyên qua một vũ trụ chất rắn". Còn phần thực thao hệ khuôn mẫu văn hóa
ứng xử thì cho đưa dạy ở chương trình giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp với nhiều
phương pháp khác nhau.
1.2.2. Nội dung giáo dục hệ giá trị truyền thống văn hóa thông qua hệ khuôn
mẫu văn hóa ứng xử
Hệ thống giá trị truyền thống Việt Nam rất phong phú, đầy sức sống, đã được
lịch sử công nhận và thế giới ngày nay tôn trọng. Đã có rất nhiều nhà khoa học, công
trình khoa học nghiên cứu tổng kết nêu lên từng loại cụ thể trong hệ thống giá trị đó.
Đứng ở mỗi góc độ khác nhau, người ta đã phân loại hệ giá trị truyền thống Việt Nam
theo nhiều cách khác nhau. Song nhìn chung có thể quy vào một số hệ giá trị cơ bản như
sau:
- Hệ giá trị về tình yêu nước, yêu quê hương.
- Hệ giá trị đạo đức, nhân văn, tình nghĩa, nhân ái.
- Hệ giá trị hiếu học, ham tu dưỡng, tôn sư trọng đạo.
- Hệ giá trị về tình đoàn kết, bảo vệ cộng đồng.
- Hệ giá trị về tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm, giản dị.
- Hệ giá trị về tinh thần khoan dung; đa dạng văn hóa.
- Hệ giá trị văn hóa gia đình.
- Hệ giá trị văn hóa cộng đồng, tinh thần đồng thuận dân chủ.
- Hệ giá trị về tinh thần dũng cảm, sáng tạo, tự cường...
- Hệ giá trị về sự hòa hợp thiên thời - địa lợi - nhân hòa.
Tuy phân loại, phân biệt tách ra như vậy, nhưng không nên nhìn giá trị truyền
thống theo từng loại giá trị riêng lẻ. Hệ thống giá trị đó tác động vào đời sống cá nhân và
đời sống cộng đồng một cách toàn bộ, tổng hòa, tổng hợp, hình thành nên văn hóa cá
nhân và văn hóa cộng đồng. Trong đó, các giá trị thường có sự tương liên, tương tác, liên
hoàn, móc xích, hỗ trợ nhau cùng phát huy tác dụng. Thực là khó phân biệt tách bạch
những giá trị như tình yêu quê hương, yêu nước, thương yêu đồng loại, thương người,...
Hoặc như, đã yêu nước thì phải yêu lao động, cần cù, tự lực tự cường, sáng tạo để làm
cho đất nước ngày càng thêm giàu mạnh, đẹp đẽ. Và muốn lao động với hiệu quả cao thì
phải ham học hỏi để nắm văn hóa, kỹ thuật. Và muốn học hỏi cho có kết quả thì phải có
đầu óc phóng khoáng, không hẹp hòi, sẵn sàng tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ, không câu
nệ là từ đâu đến. Hoặc như nói về tình người, nhân ái (thương người), nếu phát huy cao
dần lên nó sẽ trở thành tình nhân loại, anh em bốn biển đều là người một nhà. Người Việt
Nam ta giàu tính nhân bản, đồng thời cũng giàu lòng hiếu khách, bao dung.
Toàn bộ những tổng hòa, tổng hợp giá trị ấy tích lũy vào trong cá nhân hình
thành lên văn hóa cá nhân. Mà văn hóa cá nhân, như ý kiến của GS.TS tâm lý học Hồ
Ngọc Đại, do tích lũy văn hóa được ít nhiều gì đó thì cũng chỉ để ứng xử trong đời; dù
cao thấp lớn bé xấu tốt thế nào đó, nó cũng thể hiện trung thành ở cách ứng xử trong đời.
Dù thế nào, mọi ứng xử cũng biểu hiện chất văn hóa của nó; chỉ qua một cử chỉ ứng xử
ngẫu nhiên, người ta cũng có thể nhận ra văn hóa cá nhân của cá nhân ấy như thế nào. GS
Phan Ngọc đã rất đúng khi cho "văn hóa chính là nhân cách".
Từ đó có thể nói, để hình thành văn hóa cá nhân tiến bộ văn minh đậm đà bản sắc
dân tộc thì phải chú ý giáo dục hướng dẫn ngay vào cho các em về những khuôn mẫu ứng
xử đậm truyền thống dân tộc, nhưng theo xu hướng tiến bộ văn minh, hay nói ngược lại
những khuôn mẫu ứng xử tiến bộ văn minh mà đậm đà truyền thống dân tộc. Để cho văn
hóa cá nhân không hình thành tự phát, tùy tiện, lệch hướng, nhất là trong điều kiện phát
triển công nghiệp, kinh tế thị trường, thì việc giáo dục ứng xử phải đi vào khuôn mẫu -
khuôn mẫu văn hóa ứng xử. Giáo dục ứng xử, trước hết là giáo dục gia đình và sau thêm
giáo dục nhà trường. Gia đình thường là giáo dục bằng kinh nghiệm, nhà trường chủ yếu
là giáo dục bằng khoa học - công nghệ. Giáo dục nhà trường có giá trị rất cơ bản đến với
văn hóa cá nhân. Bên cạnh đó, ngày nay Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng
có phần góp đáng kể vào việc giáo dục văn hóa cá nhân các em học sinh vị thành niên.
Cơ chế và vai trò giáo dục ứng xử cho các em là gồm một "bộ ba" như vậy: Gia đình -
Nhà trường - Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Tất cả ba nguồn ấy thực hiện
giáo dục ứng xử theo hướng giáo dục mới, bổ sung nâng cao, chứ không phải giáo dục
lại, cải tạo lại.
Thuật ngữ ứng xử như một khái niệm mở. Có thể hiểu nó như một hành vi ứng
xử, như một cách ứng xử, hoặc như một văn hóa ứng xử. Hành vi ứng xử thì vô cùng
nhiều và cũng có không ít những hành vi ứng xử mang tính bản năng. Không phải bất cứ
hành vi ứng xử nào cũng đáng trở thành khuôn mẫu văn hóa. Những hành vi ứng xử có
văn hóa phải là những hành vi có tác dụng chỉ nam, mẫu mực, làm quy tắc cho mọi người
trong xã hội, nó phải chứa đựng một ý nghĩa xã hội rộng lớn. Còn cách ứng xử, kiểu ứng
xử, phép ứng xử, - đó là cách biểu hiện hình thức ứng xử, thiên nhiều về tính kỹ năng thao
tác, nó có thể dễ dàng mau chóng thay đổi. Trong lúc đó, thì văn hóa ứng xử lại thể hiện
lên cái Chất văn hóa, chất giá trị truyền thống của ứng xử, và chỉ văn hóa ứng xử mới bền
vững truyền lưu trong dòng phát triển đi lên của xã hội. Do vậy, mới đặt ra vấn đề "giáo
dục giá trị truyền thống văn hóa thông qua việc giáo dục những khuôn mẫu văn hóa ứng
xử".
ở đây, "khuôn mẫu văn hóa ứng xử" được quan niệm như một khuôn phép hoàn
chỉnh những thái độ hành vi ứng xử có văn hóa đúng chuẩn mực xã hội - tức là hành vi
ứng xử thực hiện đúng theo những quy tắc, quy định cụ thể do xã hội đặt ra cho mọi
người trong giao tiếp xã hội.
Trong giao tiếp xã hội, mỗi cá nhân có rất nhiều quan hệ ứng xử tùy theo vai trò
của mình. Mỗi loại quan hệ ứng xử có một khuôn mẫu ứng xử riêng. Mỗi cá nhân phải
thực hiện đồng thời nhiều vai trò, do đó, phải thực hiện nhiều khuôn mẫu ứng xử tương
ứng với các loại quan hệ ứng xử của mình. Sống trong xã hội, mỗi cá nhân ai cũng phải
có mẹ có cha, có trên có dưới, có anh em bạn bè, có vợ chồng, hàng xóm láng giềng, có
trẻ có già, có nam có nữ, có ông bà tổ tiên, có làng có xóm, có thầy có trò, có người may
mắn, sung sướng, có người nghèo khó, hoạn nạn, tật nguyền, hy sinh mất mát, v.v... và
v.v... vô cùng nhiều quan hệ đòi hỏi mỗi con người Việt Nam phải có cách, có thái độ xử
sự thế nào cho đẹp nghĩa, đẹp tình, đẹp nết người. Việt Nam vốn có truyền thống yêu
nước, yêu nòi, nhân ái, vị tha, khoan dung, nghĩa tình, ham học, chịu khó, tôn sư trọng
đạo, hiếu đễ, v.v...
Không thể kết hết và cũng không thể cụ thể hóa nêu lên hết được tất cả khuôn
mẫu cho từng hành vi ứng xử. ở đây chỉ có thể tạm nêu lên khái quát khuôn mẫu ứng xử
cho các em vị thành niên học sinh nhà trường cần rèn luyện trong từng môi trường mà
các em thường phải tiếp xúc. Có thể nêu một số môi trường thường tiếp xúc của các em
như:
1. Tiếp xúc trong môi trường gia đình.
2. Tiếp xúc trong môi trường nhà trường.
3. Tiếp xúc trong môi trường cộng đồng xã hội.
4. Tiếp xúc tôn trọng cá nhân mình.
Dưới đây thử nêu lên khái quát những khuôn mẫu văn hóa ứng xử của các em
học sinh nhà trường, theo từng môi trường thường tiếp xúc của chính các em.
1.2.2.1. Khuôn mẫu ứng xử trong môi trường gia đình
Gia đình là hạt nhân sơ bản của xã hội. Môi trường gia đình là môi trường của
một xã hội thu nhỏ. Em là một thành viên rất quan trọng trong gia đình, có ý nghĩa quyết
định sự tồn vong, sự phát triển của gia đình, và theo đó là của xã hội. Sống trong gia
đình, mỗi các em phải thực hiện đồng thời mấy vai trò cơ bản: làm người con, người
cháu, người anh (chị) hoặc người em. Các em phải ăn ở xử sự thế nào cho trọn nghĩa vẹn
tình đẹp nết người Việt Nam con hiếu, dâu (vợ) hiền, cháu thảo.
+ Với ông, bà (nội, ngoại):
- Phải có thái độ xử sự đúng đắn trên cả mấy phương diện:
- Chăm sóc, hỏi han sức khỏe ông, bà thường xuyên lúc ăn, ngủ, tĩnh dưỡng.
Không làm hành động gì để ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc phật lòng ông, bà.
- Phải biết nhận lỗi với ông bà và hứa sửa chữa khi mình làm điều gì sơ suất.
- Lễ phép, kính trọng, thân mật, vâng lời. Không hỗn láo, cãi trả.
- Thưa, hỏi, mời, chào phải có lời nói, cử chỉ lễ phép, nghiêm túc, thân mật, rành
mạch, thật lòng, tôn trọng đúng thứ bậc trong gia đình - ông bà trước, bố mẹ sau, anh chị
rồi các em. Kính trọng, lễ phép cả với bạn bè, bà con ngang hàng ngang tuổi với ông bà
mình.
Thân mật, gần gũi học hỏi ông bà về những điều khôn, lẽ phải, những kinh
nghiệm truyền thống quý báu về học tập, tu dưỡng, cũng như trong công lao sự nghiệp
của ông, bà đã trải qua. Trình bày với ông, bà những thành tích của mình đã đạt được và
cả những yếu kém của mình còn mắc phải, v.v...
+ Với cha, mẹ
- Phải "Siêng giúp đỡ cha mẹ", như Bác Hồ đã từng căn dặn. Tùy sức mình, đừng
ỷ lại chây lười, quan tâm đỡ đần cho cha mẹ những việc gì mình có thể làm được. Đừng
đòi hỏi những gì quá đáng, quá sức, quá khả năng đáp ứng của gia đình, cha mẹ, làm
giảm bớt những khó khăn, khổ sở, hao tâm tổn lực của cha mẹ.
- Lễ phép, kính trọng, thân mật, chân thật vâng lời cha mẹ.
- Khi ở trong nhà hay ngoài nhà đừng làm điều gì sai trái để cha mẹ phải hổ thẹn,
mất thanh danh vì con.
- Đừng nói dối, đừng dấu giếm cha mẹ điều gì.
- Biết tự giữ gìn, rèn luyện sức khỏe, thân thể như giữ gìn giọt máu thân yêu của
cha mẹ mình.
- Những lời thưa, hỏi, mời, chào cha mẹ phải nghiêm chỉnh, chân tình, tình cảm.
Lễ phép đúng mực với bạn bè, bà con ngang hàng ngang tuổi bố mẹ mình.
- Chăm tu dưỡng, chăm học, học giỏi, tu chí học hành để cha mẹ vui lòng, tự hào,
rạng danh vì con người, vừa là để đền đáp công ơn cha mẹ, để giữ gìn gia phong, vừa là
để cho mình vững bước vào đời lập nghiệp.
- Khi cha mẹ ốm đau, mệt mỏi mình thật sự xót xa, hỏi han, chăm sóc thường
xuyên v.v...
Làm đúng làm tốt được những điều như trên mới là một người con có hiếu, giữ
tròn truyền thống chữ "hiếu" trong điều kiện xã hội mới hiện nay, giữ tròn đạo làm con,
đáp "công cha như núi", đáp "nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".
+ Với anh, chị, em
Hãy nhớ lấy câu: "Huynh - Lương, Đệ - Đệ".
- Là làm anh, làm chị thì phải gương mẫu mọi việc để cho em noi theo.
- Phải giúp hoặc thay mặt cha mẹ chăm sóc, theo dõi, giúp đỡ em mọi việc.
- Phải nhường nhịn, không tranh giành ghen tị với em.
- Không đánh mắng, gây gổ thô bạo với em.
- Có điều gì không hay không phải khó xử thì thưa báo lại với cha mẹ.
- Không bày cho em làm điều gì có hại.
- Phải bênh vực, thương yêu che chở em, ngăn chặn em làm điều gì không tốt.
- Là làm em, phải biết kính nhường anh, chị. Không nói dối, nói gạt anh, chị.
- Không hỗn láo, cãi vã thô lỗ với anh, chị.
- Nghe lời anh, chị. Nhỡ có điều gì khó xử, trái ý anh, chị thì thưa báo lại với mẹ,
cha, ông, bà.
- Nhỡ có điều gì mình làm sai thì thành thật nhận lỗi với anh, chị, mẹ, cha.
- Phải thật thà, thật lòng kính yêu anh chị, mẹ cha.
- Không quanh co giấu giếm điều gì.
- Phải biết lễ phép, kính nhường anh chị, tôn trọng bạn bè của anh, chị.
+ Với cảnh quan môi trường trong nhà
- Cần quan tâm đỡ đầu, chung sức với mẹ cha hoặc tự lực tự động sắp xếp bố trí
ngăn nắp, trật tự đẹp mắt, vệ sinh đồ đạc không gian bài trí trong nhà.
- Bàn bạc và chung sức với mẹ, cha để cải tạo, xây dựng văn minh khoa học tiện
lợi môi trường điện, nước, vệ sinh, phòng hỏa, đi lại, thông tin, sinh vật cảnh,... trong
nhà, ngoài vườn, ngoài sân.
- Giữ gìn không khí tinh thần lành mạnh, vui tươi, khỏe khoắn, trí tuệ trong gia
đình.
- Không gây ầm ĩ, cũng không để u buồn không khí trong nhà.
- Không chơi với những đồ chơi, sách báo tranh ảnh băng hình "phản văn hóa",
thị hiếu thẩm mĩ thấp kém, phản truyền thống thuần phong mĩ tục.
1.2.2.2. Khuôn mẫu ứng xử trong môi trường nhà trường
Đến học ở trường thì có thầy có trò, có bạn trai bạn gái, có giờ học giờ chơi, có
sách vở giấy bút, có quy chế nội quy, có cảnh quan trường, lớp, v.v... mọi quan hệ đó
đều cần có những khuôn mẫu ứng xử đúng đắn.
Nhớ lời Bác Hồ dạy, trong tác phẩm "Đời sống mới", với những giá trị truyền
thống văn hóa đó vẫn còn vang vọng đến tận bây giờ. Xin được trích dẫn một đoạn của
Bác viết:
..."Trong một trường học, các thầy (cô) nên thi nhau tìm cách dạy sao cho dễ
hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực.
Các trò nên đua nhau học. Đồng thời, biết tiết kiệm giấy bút, biết giữ kỷ luật.
Từ tiểu học, trung học, cho đến đại học, là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên.
óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh.
Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương
lai của thanh niên, và tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà.
Vì vậy, cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho
họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ.
Phải dùng những lời lẽ giản đơn, những thí dụ thiết thực mà giải thích: dân chủ là
gì, tự do là gì, thuộc địa là gì... Vì sao ta phải kháng chiến. Họ có thể làm được những
việc gì để giúp đỡ kháng chiến. Nên giữ bí mật thế nào, đề phòng Việt gian thế nào. Nên
giúp đồng bào tản cư thế nào. nên giúp bình dân học vụ thế nào, v.v...
Cố nhiên, trong lúc dạy, chớ nên làm cho học trò có tư tưởng vị quốc như bọn
phát xít; vị quốc nghĩa là chỉ biết yêu trọng nước mình mà khinh ghét nước người... Nói
tóm lại: Trong chương trình học, phải trọng về môn tinh thần và đạo đức. Phải tẩy sạch
óc kiêu ngạo, tự phụ, mà giáo dục thực dân còn để lại.
Hơn nữa, phải khuyên học trò tham gia việc tăng gia sản xuất. Điều này cũng
quan trọng lắm. Một là làm cho họ biết kính trọng sự cần lao. Hai là tập cho họ quen khổ.
Ba là cho họ cái chí khí tự thực kỷ lực (làm lấy mà ăn), không ăn bám xã hội. Bốn là có
ích cho sức khỏe của họ. Đại khái đời sống mới của một trường học là như thế.
Lớp này nên thi đua với lớp khác, trường này với trường khác, làm cho học trò
thêm hăng hái" [26, tr. 102].
Đi vào những quan hệ ứng xử ở trong nhà trường của các em học sinh phổ thông
nên có những khuôn mẫu ứng xử cụ thể như sau:
* Với thầy giáo, cô giáo: Thông qua nhiều kiểu hành vi ứng xử tốt đẹp để thể
hiện truyền thống: uống nước nhờ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây; tôn sư trọng đạo,
"nhất tự vi sư, bán tự vi sư".
Lễ phép kính trọng chân thành ân cần với thầy, cô đã dạy, đang dạy cho mình và
bạn học mình.
Cách thức ứng xử "tôn sư trọng đạo" ngày nay có khác xưa. Nhớ ơn và tôn trọng,
kính trọng "Thầy" - không "Thầy" đố mày làm nên - ngày nay đã có một ý nghĩa rộng lớn
hơn xưa nhiều. Các em sau này "làm nên" là nhờ có công lao của tất cả các thầy giáo, cô
giáo, các thầy, cô đã đang và sẽ giảng dạy cũng như phục vụ việc giảng dạy, học tập cho
các em, chứ không phải duy chỉ nhờ một thầy (ngày xưa không có cô giáo) như việc học
ngày xưa. Do vậy, thái độ tôn sư trọng đạo ngày nay phải là trân trọng, kính trọng, nhớ
công ơn, đền đáp công ơn đối với tất cả các thầy giáo, cô giáo đã trải qua trong cuộc đời
mình. Thái độ tôn sư trọng đạo ngày nay cần được thể hiện hành vi ứng xử đúng mực,
đúng khuôn phép trên cả mấy phương diện như:
- Tôn trọng, kính mến, lễ phép, vâng lời thầy giáo, cô giáo - thể hiện trong hành
vi chào, hỏi, chúc mừng, thăm hỏi, nghe thầy, cô giảng dạy. Tùy theo tuổi tác, có thể coi
thầy, cô như cha, mẹ, hay như anh cả, chị cả của mình.
- Với việc học thầy - ở trong lớp, chấp hành nội quy của lớp. Nghiêm túc, chăm
chú tập trung lắng nghe để thấu hiểu hết những kiến thức và những giáo huấn thầy, cô
giảng dạy. Ghi chép cẩn thận đàng hoàng, chú ý rèn chữ như rèn người, vì nét chữ cũng
là nét người. Với các môn học ngoài giờ, hoạt động lao động, thể thao,... cũng phải học,
tập và làm đầy đủ, nghiêm túc. Về nhà, phải chăm chỉ ôn tập, kiên trì tự lực đào sâu suy
nghĩ. Quyết tâm phấn đấu đạt kết quả cao, không ỷ lại trông chờ may rủi, không có ý
thức trung bình chủ nghĩa, không chịu để thua kém ai trong tất cả các môn học và công
việc rèn luyện tu dưỡng. Cần mẫn tìm tòi đọc thêm sách thư viện. Đồng thời cũng nên
học hỏi noi theo những gương tốt, mẫu mực của các thầy, cô về tư cách, đạo đức, khí
phách, lao động trí óc,... để mình rèn luyện bản lĩnh cá nhân của mình. Tất cả như thế,
vừa là giữ vững, phát huy truyền thống hiếu học chăm tu dưỡng của con người Việt Nam,
vừa là để giúp vào đời lập nghiệp vững vàng, và cũng vừa là để nhớ ơn, đền công ơn và
làm thêm rạng danh công lao của các thầy, cô đã giảng, dạy, dẫn dắt mình. Truyền thống
"tôn sư trọng đạo" ngày nay phải là như vậy. Tôn sư trọng đạo ngày nay không nên và
không phải chỉ là sự quan tâm ứng xử vật chất với thầy, cô.
+ Với cảnh quan nhà trường: Tuổi đi học là tuổi đẹp nhất trong đời. Khi rời
trường, không ai không nhớ nhung, lưu luyến cái "mái trường" đã từng giáo dưỡng, dạy
dỗ mình. Những cái để nhớ đó là: nhớ thầy, cô; nhớ bạn học (đồng môn); nhớ cảnh
trường, cảnh lớp.
Nhớ cảnh trường - ấy là nhớ đến toàn bộ khung cảnh nhà trường, ở đó có cổng
trường, các ngôi nhà, sân trường, cột cờ, sân chơi, cây cảnh, v.v... Cả đến những bàn ghế
ngồi học, những tiếng trống trường, những tiếng vui đùa khi ra chơi, cười nói nhộn nhịp
khi tan trường, v.v... đều để lại kỷ niệm lưu luyến trong ký ức nhớ nhung của mỗi người
đi học. Để khỏi phải ân hận, mang tiếng phụ bạc, khi đến trường mỗi học sinh phải quan
tâm đến việc giữ gìn vệ sinh, bảo vệ tài sản, góp công sức bảo vệ và xây dựng cảnh quan
nhà trường, bảo vệ an ninh trật tự nhà trường - để trường mình ngày càng thêm xanh -
sạch - đẹp - an toàn, trật tự.
ở tuổi trẻ, làm sao tránh khỏi được sự nô đùa, vui nghịch, nhưng không nên để
cho những hành vi đùa, nghịch đó dẫn đến mức nghịch ngợm, phá phách ảnh hưởng bất
lợi đến cảnh quan và thanh danh nhà trường. Đừng để cho miệng đời mặc cảm xếp học trò
vào hạng với ma, quỷ (nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò) như đã từ lâu thiên hạ đàm tiếu
đánh giá xấu học sinh.
+ Với bạn học: Cùng vào Đảng, chúng ta có Đồng chí. Cùng một quê hương,
chúng ta có Đồng hương. Cùng vào cửa học, chúng ta có đồng môn - những bạn cùng học
với mình, với nhau. Trong bạn học, tất có người thân kẻ sơ, có bạn tiếp xúc nhiều ít khác
nhau, song đã là đồng môn, bạn học đều phải có thái độ xử sự đúng mực với nhau tất cả,
từ việc học, việc chơi, đến việc giúp đỡ nhau bảo vệ nhau chính đáng trong những trường
hợp khó khăn, hoạn nạn.
Trong học tập, đã là bạn học với nhau, cùng thầy cùng trường với nhau thì phải giúp
nhau tận tình, chân tình, vô tư; không để cho bạn mình học kém, lười nhác, trốn học, bỏ
học. Cần biết ray rứt khi bạn học của mình, có người bị khiển trách về học tập cũng như
về tư cách, đạo đức; cùng nhau tìm cách giúp đỡ để bạn ấy trở thành người học trò tốt.
Có kế hoạch để bạn học giỏi giúp đỡ bạn học kém, để học hỏi kinh nghiệm học tập của
nhau.
Trong quan hệ cần thái độ chân thật, đoàn kết, không bài xích, chia bè chia cánh.
Quan hệ với bạn trai hay bạn gái phải có thái độ lịch sự, không thô lỗ, trong sáng hồn
nhiên, bình đẳng. Đối với bạn gái cần phải lịch sự, tế nhị. Quan hệ bạn bè phải giữ gìn
cho nhau; không làm điều gì để nhà trường và gia đình lo lắng, khiển trách. Chơi với
nhau phải có thái độ cao thượng, không cố chấp xét nét, phải khoan dung, không trịch
thượng, không "mượn gió bẻ măng", "dậu đổ bìm leo" v.v...
Trong số bạn học, có thể có những bạn gặp cảnh hoạn nạn hay tật nguyền, mình
phải xót xa và cùng nhau giúp đỡ tích cực, chia xẻ khó khăn, để bạn mau chóng vượt qua
và vẫn học tốt.
1.2.2.3. Khuôn mẫu ứng xử trong môi trường cộng đồng
Mỗi cá nhân dù đã sống hằng xuyên với gia đình mình, đã được rèn luyện lâu dài
trong nhà trường, cũng đều phải sống và chịu sự tác động giáo dục thường xuyên, thế hệ
này qua thế hệ khác, của môi trường cộng đồng xã hội - hoặc các thôn, làng, bản, ấp...
hoặc các khu phố, khối phố, khu dân cư, khu tập thể, v.v... Đó là nơi "ta sinh, ta ở, ta tụ,
ta về" trải qua bao thế hệ. Đó cũng là cái nơi cho ta cảnh sống "thiên thời, địa lợi, nhân
hòa", tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đời sống gia đình mình và sự học hành của
con em, học sinh mình. Cộng đồng, do vậy, như một hình ảnh thu nhỏ của đất nước.
Trong môi trường xã hội cộng đồng, mỗi cá nhân hàng ngày thường có rất nhiều
quan hệ tiếp xúc, đòi hỏi có nhiều loại hành vi ứng xử, khó có thể nêu lên cụ thể chi li
được. Nhưng khái quát chung, có thể quy vào mấy loại quan hệ tiếp xúc ứng xử như: ứng
xử trong quan hệ xã hội; ứng xử với môi trường tự nhiên; ứng xử với môi trường văn
hóa.
+ ứng xử trong quan hệ xã hội
Bước ra khỏi nhà, khỏi trường lớp, mỗi cá nhân đương nhiên lập
tức gặp biết bao con người và sự kiện, sự cố mà mình phải quan tâm xử sự đúng mực.
Chẳng hạn, gặp các cụ già - mình phải kính nể, lễ phép. Khi gặp trường hợp các
cụ khó khăn, mình cần tận tâm giúp đỡ theo khả năng của mình. Khi gặp những người
lớn gồng gánh nặng nề hay bụng mang dạ chửa,... mình cần tránh đường, nhường bước
để họ giảm bớt sự vất vả, nhọc nhằn. Khi gặp các em nhỏ không có ai đi cùng dẫn dắt,
mình cần có thái độ thương yêu và giúp đỡ các em. Khi gặp các em lang thang cơ nhỡ, tật
nguyền, mình tỏ thái độ xót thương và có thể giúp đỡ theo khả năng của mình, không nên
chế giễu chọc ghẹo v.v...
Khi đi trên đường cần giữ gìn luật lệ giao thông, dù đi bộ hay đi xe. Không nên
nghênh ngang, làm ầm ĩ, làm mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường công cộng. Không ngông
nghênh gây gổ đánh nhau, v.v... Khi gặp đám tang trên đường, mình nên đi chậm đôi lát
để tỏ thái độ kính cẩn, chia buồn cảnh "nghĩa tử là nghĩa tận". Khi gặp những sự cố tai
nạn, hoạn nạn (như cháy nhà, tai nạn giao thông, chết đuối, cướp giật, v.v...), mình không
bàng quan, cần có thái độ dũng cảm, tùy khả năng, điều kiện của mình góp phần giúp đỡ
giải quyết, chứ không nên kéo nhau tụ tập xem lạ xem chơi làm mất trật tự giao thông.
Khi gặp của rơi, cần tìm cách nhặt đem trả lại cho người mất của, v.v...
Sống trong cộng đồng, bên cạnh gia đình, còn có hàng xóm láng giềng, hãy bảo
vệ bao bọc nhau, đừng có thái độ bàng quan xa lạ "cháy nhà hàng xóm bình chân như
vại". Đừng để có tình trạng "chuyện trẻ con mất lòng người lớn", có chuyện gì không
bằng không phải, bàn bạc nhẹ nhàng hòa giải với nhau, đừng để cho "cái vảy sẩy bằng
cái nong",... Là một thành viên trong cộng đồng, tùy theo khả năng của mình, cần đóng
góp vào việc công ích, việc tình nguyện nhân đạo, từ thiện, dạy bình dân học vụ của cộng
đồng, tham gia bảo vệ trật tự, trị an, vệ sinh trong cộng đồng, thực hiện tốt mọi quy ước,
quy chế, nội quy đề ra trong cộng đồng, v.v...
+ ứng xử với môi trường cảnh quan trong cộng đồng
Mỗi cộng đồng nào cũng đều có những cảnh quan đường làng, đường phố, kiến
trúc nhà cửa, cầu cống, đình chùa, hồ ao, v.v... do các thế hệ cha anh xây dựng nên. Lại
còn có ít nhiều gì đó những cảnh quan thiên nhiên, như con sông con suối, vườn cây,
chim, thú,... do cảnh thiên thời, địa lợi sinh ra. Có những cái đáng quý cần được bảo tồn,
bảo vệ. Và cũng có cả những cái đã lạc hậu, không được hợp thời cần phải xây dựng lại
hoặc cải tạo sửa chữa. ở đây điều quan trọng với các em học sinh là không nên bàng
quan, coi đây chỉ như là việc riêng của những người lớn. Bằng khả năng hiểu biết, sức
lực và thái độ lựa chọn tiến bộ của mình, các em nên cùng người lớn tham gia vào việc
bảo tồn, bảo vệ những cái đáng để lại và cải tạo xây dựng những gì phù hợp với bối cảnh
tương lai CNH, HĐH, bảo đảm cho cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan xây dựng của
cộng đồng mình ngày càng xanh, sạch, đẹp, văn minh tiến bộ hơn lên.
+ ứng xử với môi trường văn hóa cộng đồng
Môi trường văn hóa cũng có người gọi là môi trường nhân văn. Nó có nhiều cấp
độ: môi trường văn hóa vĩ mô, mang tầm quốc gia của một xã hội toàn bộ; môi trường
văn hóa vi mô, mang tầm một xã hội thu nhỏ như gia đình; và ở đây chúng ta nói đến một
môi trường văn hóa cỡ trung mô, mang tầm một cộng đồng dân cư cơ sở, như làng, xã,
bản, ấp, khu phố, khu dân cư, v.v... Theo cách miêu tả để dễ hiểu, chúng ta có thể quan
niệm: Môi trường văn hóa cộng đồng là một tổng thể các sản phẩm văn hóa, chương trình
văn hóa, hành vi văn hóa, thiết chế, phương tiện và cảnh quan văn hóa,... hiện diện trong
cộng đồng đó, mà cá nhân tiếp xúc trong suốt đời mình và có ảnh hưởng qua lại với
mình. Rõ ràng môi trường văn hóa là một bộ phận không thể thiếu được trong môi trường
sống của con người. Nó nói lên sự ứng xử của con người với con người, với xã hội và với
thiên nhiên. Nó góp phần tích cực vào việc hình thành nhân cách văn hóa, phát triển văn
hóa cá nhân toàn diện.
Do vậy, mỗi cá nhân nói chung, mỗi các em học sinh nói riêng, cần có thái độ
ứng xử đúng mực, có văn hóa. Điều này thể hiện rõ ở thái độ định hướng - giá trị của các
em khi tiếp xúc với môi trường văn hóa cộng đồng. Khuyên các em chú ý tiếp xúc,
thưởng thức với những sản phẩm văn hóa lành mạnh, khỏe khoắn, tươi trẻ tiến bộ, cả về
nội dung và hình thức. Nên tiếp xúc với đa dạng, phong phú các loại hình văn hóa, nghệ
thuật, không nên thưởng thức đơn điệu, si mê chỉ một thứ khoái cảm lập dị nào. Nên chú
ý tăng cường thị hiếu thẩm mĩ của mình vào những giá trị văn hóa, nghệ thuật dân gian.
Nên tích cực, tự nguyện tham gia những sinh hoạt câu lạc bộ, những hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể thao quần chúng ở cộng đồng mình. Cần quan tâm bảo vệ, tham quan, tìm
hiểu những di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật kiến trúc, công viên văn hóa hiện có ở địa
phương. Đối với các thiết chế thông tin đại chúng, không những mình nên quan tâm tiếp
xúc thông tin, mà nên theo khả năng học lực của mình để tham gia làm "phóng viên nhân
dân", biên tập thông tin quần chúng cho các đài, báo, tờ tin. Đối với các thiết chế nhà văn
hóa, nhà lưu niệm, thư viện, v.v... cũng vậy, mình nên tích cực tham gia tiếp xúc, với tính
cách vừa là một công chúng văn hóa, vừa là một cộng tác viên đắc lực, đều đặn, có hiệu
quả.
Hơn nữa, các em không nên học đòi theo những người lớn không đàng hoàng
trong việc tiếp xúc với những sản phẩm hay những tụ điểm sinh hoạt "phản văn hóa".
(Chẳng hạn như: những băng hình, trang ảnh lịch, cuốn sách, vũ trường, điểm karaokê,
caphê internet, v.v... "không sạch"; những điểm sinh hoạt mê tín, đồng bóng; những sòng
bạc, những trò chơi sát phạt; những băng xì ke, ma túy; v.v...). Khuyên các em cần có
thái độ dị ứng, xa lánh, ghét bỏ những thứ "phản văn hóa" đó ngay từ tuổi thơ ấu, tuổi vị
thành niên. Phải luôn luôn suy nghĩ phấn đấu làm sao để xứng đáng là một người có học,
một học sinh có giáo dục, có văn hóa; để giữ gìn danh dự và đền đáp công ơn của cha,
mẹ, gia đình, của thầy, cô và nhà trường đã suốt đời tận tâm chăm lo cho mình, vì mình.
1.2.2.4. Khuôn mẫu ứng xử tôn trọng, giữ gìn cá nhân con người mình
Về thực chất, mỗi cá nhân con người vốn đã là một sinh thể có văn hóa, được
hình thành ngay từ tấm bé. Nhưng nó không thể cứ ngưng đọng cái "có văn hóa" ấy mãi
mãi được. Cần phải được tiếp tục giáo dục và tự rèn luyện. Trong lứa tuổi đi học, nhờ
được học, được giáo dục, mỗi cá nhân học sinh cần tăng cường tự rèn luyện những khuôn
phép tự ứng xử với mình, chính là để tự trọng, tôn trọng và bảo trọng mình trước đời
sống xã hội. Làm đẹp cho mình ấy là làm đẹp cho xã hội, vì xã hội. Cho nên cũng có
người coi đây là những khuôn phép "tạo dáng cá nhân" vì sự tạo dáng cho/của xã hội,
đồng thời cũng là để bộc lộ tính cách riêng của mỗi người.
Mỗi cá nhân nói chung, mỗi các em học sinh nói riêng, nên quan tâm đến việc
"làm đẹp" cho mình, đẹp cả người, đẹp cả nết, đẹp cả công dung ngôn hạnh, đẹp cả thể
chất, đẹp cả về sự chơi, sự giao tiếp, đẹp cả về tâm hồn, v.v... Khó có thể kể chi li ra hết
những cái cần làm đẹp của mỗi cá nhân. ở đây thử quy tụ vào một số phạm vi nhất định,
như:
+ ứng xử trong nói năng giao tiếp xã hội
Mỗi người hàng ngày ngoài giao tiếp gia đình, giao tiếp học đường, còn có
những hành vi giao tiếp xã hội chào hỏi, chúc mừng, cảm ơn hay xin lỗi v.v... Nhưng tất
cả những ứng xử đó cần giữ được một số phép tắc nhất định, thích ứng với từng đối
tượng giao tiếp:
- Phải lựa lời mà nói - "Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau", truyền thống văn hóa người Việt Nam đã từng nhắn nhủ như vậy. Nói năng làm
sao cho có lời hay ý đẹp, có thái độ nghiêm chỉnh mà thân mật, lịch sự, nhẹ nhàng, dễ lọt
tai, không làm phật lòng người nghe. Dù là người Hà Nội hay không là Hà Nội cũng nên
"thanh lịch như người Tràng An". Dĩ nhiên, trong trường hợp nào, với đối tượng tiếp xúc
nào, chúng ta cũng cần loại bỏ những lời nói thô lỗ, tục tằn, xấc xược, ngạo mạn, khiêu
khích, trống không, xã giao sáo rỗng, ba hoa,...
- Phải lựa tư thế, động tác khi ứng xử - thế nào đó cho lễ phép, lịch sự, tế nhị, văn
minh, dù ở trong vị trí tiếp xúc thuận lợi hay không thuận lợi, dù dưới hình thức vái chào,
bắt tay, hay ôm hôn. Nhưng dĩ nhiên hãy cần tránh xa những hình thức tiếp xúc vô lễ, lợi
dụng, kiêu ngạo, kiêu điệu kệch cỡm, khúm núm, giả tạo, thô bỉ,... Chung quy, cần có tác
phong, phong cách tiếp xúc lễ phép, vui vẻ lịch sự, văn minh, nhanh nhẹn - "có văn hóa",
không lẳng lơ, không nhìn ngang liếc dọc, quê kệch.
- Cần chỉnh trang lại trang phục của mình khi tiếp xúc cho gọn gàng, đứng đắn,
lịch sự - từ quần áo, đầu tóc, giày dép - nhất là những khi tiếp xúc với thầy, cô, với những
người lớn tuổi, với ông bà, cha mẹ, với bạn gái.
+ ứng xử trong trang diện và thể hình của mình
Rõ ràng ai cũng muốn phô diễn hình thức đẹp của mình qua sự trang diện và thể
hình của mình. Người đẹp vì lụa... và người đẹp cũng nhờ có thân hình đẹp, có bộ mặt
khả ái. Do vậy để tự trọng, tôn trọng và bảo trọng mình trước đời sống xã hội, các học
sinh cũng cần quan tâm và biết cách tự xử lý thế nào cho đẹp cả về trang diện và thể hình
của mình. Nhưng, như thế nào là đẹp, quả là một điều khó phân xử. Và làm thế nào cho
nó đẹp, cũng lại một điều thật nan giải. Mỗi người có một sở thích, thị hiếu khác nhau, có
cách nhìn về cái đẹp khác nhau. ở đây, chỉ thử gợi ý nêu lên mấy yêu cầu thẩm mĩ
khuyên các học sinh lựa chọn:
- Về trang diện - từ trang điểm đến trang phục - nên đơn giản, giản dị, giữ được
nét vừa thanh nhã vừa khỏe khoắn, vừa đẹp thoáng đãng vừa bảo vệ được sức khỏe.
Không nên cầu kỳ lòe loẹt, lộ liễu, cũng không nên diêm dúa, luộm thuộm, dơ bẩn...
Trang điểm hay trang phục nên xử lý thế nào cho hài hòa, cân đối với khuôn mặt và thân
hình của mình. Giá trị sắm sửa cho trang điểm và trang phục không nên để vượt quá khả
năng chi phí cho phép của mình và điều kiện gia cảnh của mình. Hình thức trang điểm và
trang phục không được để làm mất đi sắc thái văn hóa dân tộc của mình là con người
Việt Nam. Các mô típ trang điểm và trang phục cũng không nên đơn điệu, đường mòn,
mà cần được xử lý đa dạng, phong phú, tiến bộ theo thời đại đang đi lên của đất nước
mình. Và nên đặt lên trên tất cả là đừng để cho người đời coi mình mất gốc coi mình
không còn mang dáng dấp người Việt Nam, không còn giữ được tâm hồn Việt Nam.
- Về hình thể của bản thân vốn do cha sinh mẹ đẻ ra bản thân mình không những
cần bảo trọng, mà còn phải làm cho nó ngày càng khỏe, đẹp thêm lên, vừa để bảo toàn
giọt máu thân yêu của cha mẹ hun đúc (như một phần giữ tròn đạo hiếu), vừa để cho
mình sống khỏe, sống đẹp, rạng mặt với đời. Để có hình thể khỏe, đẹp, phải dày công rèn
luyện, dưỡng dục suốt đời, nhưng cần bắt đầu quan tâm ngay từ thời còn trẻ, còn học
sinh. Cần xóa bỏ nếp nghĩ, cho rằng chỉ người già mới xếp bảng giá trị sức khỏe lên hàng
đầu, còn tuổi trẻ thì ngược lại: Tình yêu hàng đầu, tiền của hàng hai, còn sức khỏe xếp
vào hàng chót - Nghĩa là tuổi trẻ thường hay coi thường, phí phạm sức khỏe! - Đừng,
khuyên các em tuổi học sinh vị thành niên đừng nên như thế.
Những hành xử cá nhân để làm khỏe, đẹp thể hình mình thì có nhiều và tùy theo
điều kiện từng người, từng nơi. ở đây chỉ nêu lên mấy yêu cầu khuyên các em nên theo:
- Cần chủ động giữ gìn điều độ, chừng mực, từ trong sự ăn, sự chơi, sự ngủ, nghỉ,
sự làm. "Kiệm" - tức là chừng mực - là một trong những yếu tố quan trọng để giữ sức
khỏe và sống lâu (Từ, Kiệm, Hòa, Tĩnh). Đừng quá tham trong bất cứ một điều gì kể trên
- (một chút giận, hai chút tham - lận đận cả đời càng thêm khổ). Cần tránh bỏ những thứ
gì làm tổn hại đến sức khỏe, nhân cách và của cải làm ra của mình và cha mẹ mình (như
hút xách, nghiện ngập, chơi bời, nhậu nhẹt vung phí, vô bổ, v.v...). Cũng đừng để cho bản
thân quá si mê hay quá sầu muộn về một điều gì không đáng - nó làm cho con người hao
tổn tinh thần, sa sút sức khỏe.
- Cần thường xuyên rèn luyện thân thể và luyện tập thể hình, thể dục thẩm mĩ
giúp cho mình tăng cường sức khỏe, chống bệnh tật, sống lâu đẹp thể hình.
- Phải phối hợp đồng thời cả từ việc tăng cường dinh dưỡng, giữ gìn điều độ,
chừng mực và tăng cường rèn luyện thể lực, thể hình, cải thiện một bước tầm vóc con
người Việt Nam của thời đại mới văn minh tiến bộ.
+ ứng xử trong hoạt động rỗi của cá nhân
Sau thời gian học tập ở trường, thời gian giúp việc ở gia đình, thời gian tham gia
cộng đồng và các đoàn thể xã hội của mình, còn lại một số thời gian dành cho hoạt động
rỗi của riêng mình. Trong khoảng thời gian này, mỗi các em nên có sự lựa chọn những
hình thức nghỉ ngơi giải trí vui chơi gì cho phù hợp, thật thú vị, phong phú, hữu ích, lành
mạnh, trẻ trung, khỏe khoắn. Để thực hiện tốt việc này, chúng ta có nhiều cách xử lý:
- Tùy điều kiện thực tế của mỗi gia đình, nên bố trí ngay trong góc học tập của
mình một số sách, báo, băng hình, bàn cờ, đồ chơi,... cùng các phương tiện nghe - nhìn
cần thiết. (Dĩ nhiên là không nên có những sản phẩm phản văn hóa). Khi chơi có thể tự
chơi một mình hoặc cùng chơi với người trong nhà, chơi với bạn bè, nhưng không để làm
ảnh hưởng bất lợi, đến các sinh hoạt khác trong gia đình.
- Có kế hoạch hàng tuần sắp xếp thời gian đọc sách ở thư viện, tham quan bảo
tàng, di tích, hoạt động câu lạc bộ, dạo công viên, chơi thể thao, chơi vi tính, chơi thuyền,
bơi lội, xem triển lãm, xem phim, xem biểu diễn nghệ thuật, học tập văn nghệ, múa, vẽ,
v.v...
- Trong những dịp nghỉ lễ, nghỉ hè, xin phép bố mẹ, thầy, cô, cùng bạn bè tổ
chức những cuộc đi chơi xa, tham quan, du khảo, đi pích ních, cắm trại, leo núi, tắm biển,
v.v...
- Dĩ nhiên, với tư cách người học sinh có văn hóa, có giáo dục, cần tránh xa
những hoạt động rỗi tiêu cực, nghĩa là những sinh hoạt làm tổn hại đến nhân cách, tâm
hồn, trí tuệ, tình cảm trong sáng của tuổi vị thành niên học sinh đang như tờ giấy trắng,
đặc biệt, cần hạn chế trò chơi điện tử, Internet đang "ngốn" nhiều tiền của và thời gian
của các em.
Thời gian là vàng ngọc, Cần sử dụng tốt thời gian, đừng để phí phạm thời gian,
kể cả thời gian học tập và thời gian rỗi. Cần lựa chọn những hoạt động rỗi tích cực, đừng
chạy theo những sinh hoạt rỗi tiêu cực. Ngay từ tuổi niên thiếu, chúng ta đã cần định
hướng hành động ngay như vậy, để sau này lớn lên khỏi phải ân hận là mình đã giết chết
thời gian, vung phí cuộc đời.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục giá trị truyền thống văn hóa
ở tuổi VTN và vai trò của giáo dục giá trị VHTT trong xây dựng nhân cách văn hóa
ở lứa tuổi này
1.3.1. Mỗi con người Việt Nam hiện nay, dù ở vị trí xã hội nào, thực hiện vai
trò xã hội gì, cũng đều cần được trải qua giáo dục để trở thành con người với mô
hình nhân cách, phát triển đáp ứng yêu cầu thời kỳ CNH, HĐH
Nghị quyết V Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII đã đề ra nhiệm vụ xây dựng
con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với mô hình phát triển con người toàn
diện cả Đức, Trí, Thể, Mỹ. Năng lực lao động và để xây dựng được con người Việt Nam với
mô hình như trên, đòi hỏi phải có chiến lược phát triển giáo dục hoàn chỉnh, đồng bộ,
đồng thời đòi hỏi một quá trình giáo dục lâu dài, kiên trì và vượt qua thử thách, thách
thức.
Sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay đang đứng trước rất nhiều khó khăn, thách
thức kể cả ảnh hưởng khách quan và chủ quan.
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc, trong bài viết về "Giáo dục thế kỷ XXI" đăng trên
tạp chí NCGD 12-1997, đã nêu lên 7 vấn đề mang tính toàn cầu mà Giáo dục Việt Nam
nói chung phải đương đầu giải quyết. Đó là:
1. Mâu thuẫn giữa toàn cầu và địa phương. Đây là mâu thuẫn gay gắt nhất hiện
nay. Nó đòi hỏi sự nỗ lực trí tuệ của nhiều quốc gia, cả nhân loại chứ không thể đơn
phương một quốc gia nào giải quyết được.
2. Mâu thuẫn giữa toàn cầu và cá thể con người. Nó đòi hỏi con người phải đủ
trí tuệ, khả năng để tiếp cận với xu thế toàn cầu hóa, mặt khác, cũng đòi hỏi con người
phải được giáo dục đủ bản lĩnh phẩm chất để không đánh mất mình, giữ vững bản sắc
văn hóa dân tộc mình.
3. Mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại. Do thời đại đầy những biến động,
với tốc độ phát triển nhanh của công nghệ thông tin, nó đòi hỏi giáo dục phải lựa chọn
những tri thức hiện đại và những giá trị truyền thống, đảm bảo cho con người phát triển
đầy đủ, nhân cách bền vững. Đây là một mâu thuẫn không dễ giải quyết đối với giáo dục.
4. Mâu thuẫn giữa lâu dài và trước mắt. Đó là để có sự phát triển bền vững, cần
phải giải quyết cân bằng mâu thuẫn trước mặt và lâu dài. Không thể chỉ nhìn thấy cái lợi
trước mắt mà không tính đến hậu quả lâu dài.
5. Mâu thuẫn giữa cạnh tranh và bình đẳng. Sự cạnh tranh ngày nay được thể
hiện trên nhiều lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, giáo dục, quân sự, do đó nó đòi hỏi
một sự phát triển giáo dục ở tầm cao, toàn diện và bằng nhiều biện pháp.
6. Mâu thuẫn giữa sự gia tăng rất nhanh. Khối lượng tri thức và khả năng nhận
thức có hạn của mỗi người. Để giải quyết mâu thuẫn này, không thể tăng môn học và kéo
dài thời lượng học ở trên lớp mà đòi hỏi phải có thêm nhiều con đường, nhiều giải pháp
học tập khác để chiếm lĩnh tri thức, hình thành năng lực, phẩm chất trí tuệ và nhân cách.
7. Mâu thuẫn giữa đời sống tinh thần và đời sống vật chất. Mâu thuẫn này
đang chi phối mọi ngóc ngách của cuộc sống và con người. Nó đòi hỏi phải xây dựng
một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh cả trong nhà trường và ngoài nhà trường, cả trong giờ
lên lớp và ngoài giờ lên lớp như thế nào, để đảm bảo giải quyết cân bằng, hợp lý.
Bên cạnh những vấn đề mâu thuẫn có tính toàn cầu kể trên, ở nước ta cuộc cách
mạng CNH, HĐH cũng gặp không ít khó khăn, thách thức từ một quốc gia với nền văn
minh nông nghiệp là chủ yếu. Đó là những khó khăn, mâu thuẫn liên quan đến giáo dục
như:
- Việt Nam xây dựng chiến lược phát triển giáo dục nhằm phát huy nguồn lực
con người phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong lúc xã hội ta đang thực thi cùng
một lúc cả ba nền văn minh nhân loại: văn minh nông nghiệp + văn minh công nghiệp +
văn minh tin học. Đây là một thách thức đầy khó khăn chưa từng có trong lịch sử dân tộc
ta.
- Thực trạng hệ thống giáo dục nước ta hiện nay đang còn ở tầm thấp so với yêu
cầu (như trong dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội IX đã nêu), còn rất nhiều thiếu sót
và hạn chế trong các mặt về nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học. Còn nhiều
khó khăn về trang thiết bị phục vụ cho học tập và dạy học, cho việc nâng cao chất lượng
giảng dạy và nâng cao lực lượng giáo viên, chưa có sự phối hợp chặt chẽ gắn bó tích cực
giữa giáo dục nhà trường và giáo dục ngoài trường, giữa nhà trường với cơ sở sản xuất...
Đây cũng là những mâu thuẫn khó khăn, thách thức cần phải vượt qua để phát triển giáo
dục vì sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta vào thế kỷ XXI.
- Việc xác định mục tiêu giáo dục nhằm đào tạo ra những nhân cách (con người)
phát triển toàn diện cá tố chất Trí - Đức - Mĩ - Năng lực, theo chuẩn mực xã hội chủ nghĩa
phải được đặt trong chiến lược phát triển giáo dục đồng bộ, hệ thống: giáo dục nhà trường,
giáo dục gia đình, giáo dục xã hội, trong đó kết hợp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa có
vai trò hết sức quan trọng. Bởi lẽ, con người là một cái giá mang vác những giá trị văn hóa,
trong đó văn hóa truyền thống là một thành tố của nhân cách, là một phần phản ánh bộ mặt
nhân cách của cá nhân. Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa nhằm phát huy, củng cố những
giá trị dân tộc, tạo sức mạnh của dân tộc trong thời đại và giai đoạn đất nước hiện nay.
Giáo dục giá trị truyền thống nhằm phát triển những tố chất (yếu tố) tiềm năng của mỗi
người, tạo ra động lực bên trong của quá trình phát triển. Như vậy, cũng là tạo cho xã hội sự
phát triển bền vững.
1.3.2. Đặc điểm tâm sinh lý của vị thành niên
- Về sinh lý:
+ Trong quá trình phát triển của đời người, không có giai đoạn tăng trưởng nào
lại mạnh mẽ và rõ ràng như giai đoạn tuổi vị thành niên. Sự thay đổi tăng trưởng này
không chỉ xảy ra trong lĩnh vực thể xác và tình cảm mà còn liên quan đến đời sống tinh
thần, quan hệ xã hội.
+ Theo số liệu chung của ngành y tế, về chiều cao, cơ thể của VTN có bước nhảy
bọt, con trai có thể cao trên trung bình 30 - 35cm, con gái có thể thêm trung bình từ 25 -
30cm. Sự việc này xảy ra khá mau làm cho người lớn chú ý, ngỡ ngàng, vì chỉ qua một
kỳ hè, trẻ như thình lình lớn phổng lên, bộ xương dài ra.
+ Song song với chiều cao là sự gia tăng đáng kể của trọng lượng VTN. Đối với
nam, trọng lượng có thể tăng thêm từ 28-31kg và với nữ tăng thêm 24-25kg trong thời kỳ
dậy thì.
+ Sự gia tăng trọng lượng này xuất phát bởi những bắp thịt nở nang hơn, nhất là
ở con trai, rất thuận lợi cho các hoạt động thể thao (chạy nhảy, đá bóng, bơi lội...). Các
em có đủ khả năng làm việc nào đó với cố gắng lớn nhưng lại mau thấm mệt. Vì vậy,
người lớn cần đề phòng tình trạng kiệt sức của các em.
+ Thân thể thay đổi mạnh mẽ với sức mạnh gia tăng là dấu hiệu của tuổi dạy thì
ở VTN. Thân thể các em chuyển hướng rạo rực. Các em tò mò xem xét các cơ quan cơ
thể, xem xét chức năng của chúng qua sách báo, qua tâm sự bạn bè, hay bày tỏ nỗi lòng
và nhất là hay mơ màng trong giấc ngủ. ở lứa tuổi này, với sức vóc như vậy, các em có
nhu cầu hay ăn và ăn ngon miệng. Sự trao đổi chất trong cơ thể giai đoạn này cũng khiến
các em có nhu cầu ngủ nhiều giờ liền.
Một dấu hiệu rất đặc trưng của tuổi dậy thì ở VTN là sự hoàn thiện, chín muồi
của cơ quan sinh sản. ở các em gái, đó là sự xuất hiện kinh nguyệt lần đầu, song song với
đó là bộ ngực nở nang, làm da mịn màng, trắng ra, giọng nói trở nên trong trẻo, xương
chậu nở nang, dáng vóc mềm mại, uyển chuyển. Tuy nhiên, cũng có trường hợp hiện
tượng dậy thì của một số ít em gái xảy ra không bình thường hoặc là quá sớm (9 - 10
tuổi), hoặc là quá muộn (16 - 17 tuổi) ảnh hưởng đến phần nào thể xác và tinh dịch, kèm
theo đó là lông mọc ở nách, bộ phận dịch dục, ria mép xuất hiện, giọng nói trở nên ồm
(vỡ giọng). Tất cả những biểu hiện sinh lý trên đây của nam, nữ VTN được điều khiển
bởi những hoạt động nội tiết mới, nhất là những chất nội tiết thuộc các hạch sinh dục và
tùng quả tuyển (hypophyse), ngoài ra còn được gắn liền với những thay đổi quan trọng
của hệ thống thần kinh thực vật và sự lớn lên của bộ xương. Những hoạt động nội tiết
mới này khi xuất hiện trong cơ thể tạo nên những biến động mạnh mẽ cả sinh lý và tâm
lý VTN, dễ tạo nên những xáo trộn, thất thường về thái độ. VD: những phản ứng ám ảnh
hay tình cảm lo âu đơn giản được gắn liền với những đặc điểm của cơ thể. Chẳng hạn
một thân hình quá nhỏ, quá thấp là nguồn gốc lo âu ở thiếu niên nam muốn được to lớn,
khỏe mạnh, lo âu của những em nữ VTN.
Các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ cần quan tâm đến những xáo trộn về thái độ
của các em. Theo con số nghiên cứu của một nhà tâm lý học Mỹ cho thấy có khoảng 41%
VTN nữ là 31% VTN nam đã có những xáo trộn về thái độ nêu trên.
Một điều đáng quan tâm hơn nữa là, sự trưởng thành của tuổi dạy thì cũng có thể
kèm theo những xáo trộn của bản năng tình dục: sự tự thỏa mãn thường xảy ra trên cơ thể
mình (thủ dâm) ít ra cũng đối với VTN trai.
- Về tâm lý.
+ Trẻ VTN là những con người đầy hấp dẫn. Nhưng có lẽ đây cũng là giai đoạn
mà bố mẹ và các con gặp nhiều trục trặc nhất trong việc giao hòa tình cảm cũng như hiểu
lẫn nhau. Những đứa con đã từng một thời đến với ta để tâm sự về những phiền muộn
trong cuộc sống, thích được ta ôm ấp, hôn hít, thậm chí chỉ mong làm vừa lòng bố mẹ
hơn bất cứ ai khác, bây giờ bỗng dưng trở nên trầm lặng, xa cách và khép kín tâm hồn.
Cũng có VTN lúc muốn thu mình trong lòng bạn để được âu yếm vuốt ve, cảm thấy tràn
ngập cảm xúc, nhưng cũng có những lúc muốn hoàn toàn độc lập. Chúng còn tỏ rõ sự tự
khẳng định mình bằng cách thể hiện ngay ra hình thức bên ngoài, chẳng hạn những thích
thú kỳ cục về quần áo hay những kiểu để tóc, làm như vậy, phần nào chúng muốn tuyên
bố rằng nó là một cá thể khác biệt hoàn toàn không giống như bố mẹ nó. Thực chất đây
chỉ là sự vật lộn nội tâm dữ dội để cách biệt và khác biệt với bố mẹ chúng. Một điều
nghịch lý là, trong cuộc vật lộn để khác người, trẻ VTN lại mù quáng bắt chước, chẳng ai
khác là những đứa trẻ cùng lứa VTN của mình.
Bởi vậy, ở lứa tuổi này, sự biến đổi của tính tình rất là rõ nét. Các em có vẻ khó
dạy và tính tình hay thay đổi. ở các em có nhiều tình cảm khác nhau, lúc nhút nhát, lúc
mềm yếu, lúc cứng nhắc, lúc vui mừng, lúc lại lặng lẽ, lúc hành động thái quá. Các em
như muốn có người hiểu mình, nhưng chẳng mấy ai hiểu. Cái "tôi" đang muốn tự xác
nhận lại gặp sự đụng chạm với người xung quanh. Chân trời khám phá của các em được
mở rộng khi các em khao khát tìm hiểu những giá trị văn hóa tinh thần. Những giá trị đó
trong nhãn quan các em là những khuôn mẫu nhân cách, những mẫu hình lý tưởng có thể
trong tưởng tượng, có thể là nhân vật thực mà các em muốn bắt chước. Các nhà tâm lý
học cho rằng, các em có nhu cầu "nhập vai" những nhân vật là những nhân vật xác định,
lý tưởng lúc đó của chúng và thông qua những nhân vật này nhân cách sẽ được hình
thành.
Tóm lại, sự thay đổi hành vi tâm lý ở VTN là hoàn toàn bình thường và tự nhiên.
Đó là sự biểu hiện của cá tính, sự hiện diện các kiểu dạng tâm lý của cá thể. Các em tự ý
thức về bản thân, đề cao cái "tôi" cá nhân và có nhu cầu tự thân thích khẳng định mình.
Điều này sẽ trở nên nghịch lý khi các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục coi VTN vẫn còn là
trẻ con và cần được dạy dỗ, đặc biệt họ sẽ là những "nhà giáo dục" nắm chắc phần thất
bại khi tỏ ra chuyên quyền, độc đoán, thiếu tôn trọng, tước đi lòng tự tôn và tính độc lập
ở tuổi VTN.
Sự thay đổi một cách toàn diện nêu trên còn được biểu hiện cụ thể trong các quan
hệ tình bạn, tình yêu và tình dục ở tuổi VTN.
Tình bạn VTN có thể phân thành hai dạng, tình bạn không phân biệt giới và tình
bạn khác giới.
Tình bạn khác giới với những xúc cảm, những rung động giới tính và sự cuốn hút
của bạn khác giới là nét đặc trưng của tình bạn vị thành niên. Nhìn chung tình bạn ở lứa
tuổi này vẫn mang tính hồn nhiên vô tư và trong sáng. Tình bạn VTN không cho thấy sự
khác biệt giữa các nhóm và các vùng khác nhau.
Tình yêu VTN được biểu hiện, đa số các em yêu cảm tính nên thường không xác
định được mục đích của tình yêu và mẫu người lý tưởng. Tuổi nảy sinh dạng tình yêu này
phổ biến ở các em 16 - 17 tuổi. Tình yêu ở tuổi này bị chi phối bởi học tập, cha mẹ kiểm
soát, bạn bè trêu chọc, dư luận...
Tình yêu VTN thể hiện ở hai cấp độ: cấp độ mà tình cảm của họ mới ở trên tình
bạn một chút. Đó là những mối tình đầu chớm nở, rất mong manh. Nó thuần túy là tình
yêu tinh thần. Còn tình yêu thực sự khi đôi trẻ VTN đến với nhau bằng tất cả tình cảm
nồng cháy, có sự hòa quyện cả tinh thần và thể xác. Tình dục VTN dễ xảy ra ở các mối
tình này.
Tình dục VTN: Trong giai đoạn đầy biến động về tâm sinh lý này, tình dục là
một khám phá lớn đối với trẻ VTN. Tuy nhiên, tình dục VTN chưa mang tính phổ biến,
hay nói cách khác là, trẻ ở tuổi VTN không quá ham muốn tình dục. Thậm chí ở chúng
còn có hành vi "cảnh giác" ít dám hẹn đi chơi hai người mà thường đi theo nhóm. Trong
đầu chúng chứa không ít những lo âu, thắc mắc, những câu hỏi mong được giải đáp, chỉ
dẫn của người lớn. Song chúng chẳng dám hỏi ai ngoài những người bạn cùng trang lứa,
chẳng hiểu biết gì hơn chúng về vấn đề phức tạp và tế nhị này.
Tình dục VTN xuất hiện ở hai dạng quan hệ, tình dục với người yêu và tình dục
lệch lạc. Tình dục lệch lạc có thể ở đối tượng VTN mãi dâm, VTN bị lạm dụng tình dục,
VTN thử nghiệm tình dục do tò mò, thiếu hiểu biết kiến thức về an toàn tình dục và hậu
quả của nó.
Tình dục VTN thường dẫn đến mang thai. Nạo hút thai, cưới sớm và không
chồng có con là hậu quả của tình dục VTN, và nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức khỏe sinh
sản, ví như để lại những bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và để lại di hại về mặt tâm lý
và tương lai của các em sau này.
Chương 2
Thực trạng về giáo dục giá trị
truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường hiện nay
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đã
đưa tới nhiều thay đổi đáng kể về mặt kinh tế và đời sống sinh hoạt. Nhiều yếu tố tích
cực tạo thuận lợi cho phát triển nhân cách vị thành niên. Song cũng không ít những yếu
tố tiêu cực như mặt trái của cơ chế thị trường, các tệ nạn xã hội, các loại sách báo, văn hóa
phẩm độc hại đang hàng ngày ảnh hưởng xấu đến lối sống và phát triển nhân cách của vị
thành niên.
Để có kết quả thực trạng, đề tài nghiên cứu một cách khá toàn diện tuổi vị thành
niên nhằm một mục tiêu rộng lớn và thiết dụng là vạch ra những vấn đề cơ bản của tuổi
vị thành niên, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong đó tìm hiểu các
lĩnh vực tình bạn, tình yêu, tình dục, sức khỏe sinh sản vị thành niên và ảnh hưởng của nó
đến đạo đức, lối sống tương lai, tìm hiểu những nhận thức của giáo viên, phụ huynh học
sinh, và học sinh VTN về truyền thống văn hóa, về giáo dục TTVH trong nhà trường hiện
nay.
Vì vậy, đối tượng khảo sát nghiên cứu không chỉ hạn chế trong tuổi vị thành niên
mà bao gồm cả thầy cô giáo (GV) các cán bộ y tế (YT), các bậc phụ huynh, các em tại
địa bàn khảo sát; Mẫu nghiên cứu được xác định trong nghiên cứu đối chứng: một điểm
tại vùng nông thôn thuần túy truyền thống Thái Bình (TB) với trường phổ thông trung
học Tân Thụy Anh; một điểm của Hà Nội (HN) nơi thành phố đang biến đổi mạnh mẽ
trong cơ chế thị trường hiện nay, với trường phổ thông trung học Trần Nhân Tông; một
điểm tại vùng miền núi Lạng Sơn (LS), với trường trung học cơ sở Việt Bắc. Cách chọn
mẫu mang tính đối lập này sẽ tạo cho ta so sánh tương quan nhằm nhận ra những nét
chung và những khác biệt trong sự biến đổi của tuổi vị thành niên, trong quá trình xã hội
biến đổi mạnh mẽ từ truyền thống đến hiện đại.
Mặt khác, xuất phát từ vấn đề nghiên cứu, mục tiêu cụ thể còn khảo sát: mối
quan tâm của trẻ VTN, của nhà trường, của gia đình về những vấn đề trên.
Phương pháp nghiên cứu kết hợp liên ngành nhân học, tâm lý, văn hóa và xã hội
học hiện đại, trong đó chủ yếu phỏng vấn chuyên gia, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm và
phỏng vấn theo bảng hỏi. Ngoài ra, là phương pháp tư vấn qua đường dây nóng, điện
thoại (TVĐT) tư vấn cộng đồng, tìm hiểu thông tin qua mục "cửa sổ tình yêu" của Đài
phát thanh tiếng nói Việt Nam, sử dụng kết quả của một số công trình nghiên cứu xã hội
học về giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản VTN mấy năm gần đây, những điều tra và
truyền thống văn hóa về vấn đề giáo dục TTVH trong nhà trường, từ đó sẽ đề xuất những
giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy giá trị truyền thống văn hóa trong lối sống học sinh vị
thành niên hiện nay.
2.1. nhân thức của học sinh vị thành niên của giáo viên, phụ huynh vị thành
niên về giáo dục giá trị truyền thống văn hóa
2.1.1. Vài nét về tư tưởng, đạo đức và lối sống của học sinh vị thành niên
hiện nay
Học sinh VTN ngày nay sống trong môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự
phát triển nhân cách. Mặt khác, sẽ có không ít những yếu tố tiêu cực như mặt trái của cơ
chế kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội, các loại văn hóa phẩm độc hại làm ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển nhân cách của VTN.
Nhìn chung về tình hình tư tưởng, đạo đức, học sinh VTN có nhận thức đúng đắn
về trách nhiệm, nghĩa vụ trong học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức để trở thành con
ngoan trò giỏi, thành người có ích cho xã hội. VTN rất quan tâm đến những vấn đề chính
trị xã hội như công bằng xã hội, tương lai cá nhân và tiền đồ của xã hội. Bởi vậy, các em
có nhu cầu rất cao về thông tin, được hiểu biết và thi thố trí tuệ. Điều này được thể hiện
rõ bằng kết quả xuất sắc của các em học sinh Việt Nam tham dự các cuộc thi quốc tế về
toán, lý, cờ vua, thể thao v.v... Tuy nhiên việc bỏ học và thất học ở độ tuổi này cũng đang
là vấn đề xã hội đáng quan tâm nếu không nói là đáng báo động đối với một đất nước tiến
hành CNH, HĐH.
Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có thể tính trung bình cứ 10 em vào
cấp I, thì có 3,15 em lên được cấp II, và chỉ còn 0,71 em vào được cấp III. Riêng tuổi
VTN cứ 10 em cấp II chỉ có 2,27 em vào cấp III. Do đó, lực lượng thất học đông đảo nhất
chính là tuổi VTN. Trình độ học vấn trung bình của VTN hiện nay rất thấp, chủ yếu vẫn
ở trình độ phổ thông cơ sở. Bên cạnh nguyên nhân chủ yếu về tâm sinh lý đây cũng là
một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng phạm tội ngày càng tăng của lứa tuổi này.
Có những trường hợp VTN phạm tội rất đáng báo động về sự suy thoái đạo đức nhân
cách như các trường hợp sử dụng bạo lực, vũ khí đâm chém thầy cô giáo đang dạy dỗ
mình, hiếp dâm tập thể, tổ chức thành các băng nhóm có tính chất côn đồ gây rối trật tự
trị an. Đặc biệt gần đây VTN còn tham gia vào tệ nạn đua xe máy phân khối lớn, chống
đối lại người thi hành công vụ. Tỷ lệ VTN tham gia vào tệ nạn mại dâm gia tăng rất
nhanh. Theo báo cáo của cục phòng chống tệ nạn xã hội thì mại dâm dưới 18 tuổi là 1,2%
năm 1992; 11% năm 1994; 12% năm 1995 và hiện nay theo ước tính có khoảng 2 vạn gái
mại dâm dưới 18 tuổi v.v... Còn theo đánh giá của tổ chức ESCAP và UNICEF hiện nay ở
Cămpuchia có khoảng 60-65% trong tổng số 45.000 gái mại dâm là người Việt Nam, trong
đó 30% là VTN.
Nhận định về các mặt yếu kém trong văn hóa - xã hội, Nghị quyết ban chấp hành
Trung ương 5 khóa VIII viết "... Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn
hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân, ích kỷ... đang gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên
tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp... Ma túy, mại dâm và các tệ
nạn xã hội khác gia tăng..." [16, tr. 46].
Kết quả của điều tra, đặc biệt qua phỏng vấn sâu cho thấy trong điều kiện kinh tế -
xã hội hiện nay, nhu cầu của VTN được sắp xếp theo thứ tự sau:
- Nhu cầu được học tập, phát triển tài năng.
- Nhu cầu về tình bạn và tình yêu (như bước vào giai đoạn đầu thanh niên).
- Nhu cầu được hưởng thụ và hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí.
- Nhu cầu về dân chủ, công bằng.
- Nhu cầu tham gia các hoạt động chính trị - xã hội.
Mức độ thứ tự của các nhu cầu trên phản ánh tâm sinh lý lứa tuổi, phản ánh nhu
cầu chính đáng của VTN, đồng thời về cơ bản phù hợp với định hướng giá trị xã hội.
Những nhu cầu của VTN ngày một phong phú, đa dạng hơn, mang cả tính truyền thống
lẫn hiện đại. Điều này xin được chứng minh qua cuộc phỏng vấn sâu về tình bạn, tình
yêu, tình dục học sinh VTN hai trường phổ thông trung học Trần Nhân Tông (Hà Nội) và
phổ thông trung học Tân Thụy Anh (Thái Bình).
* Tình bạn VTN
Tình bạn VTN là tình cảm trong sáng nhất của đời sống con người. Đó thực sự là
một nhu cầu tinh thần đi cùng con người suốt cuộc đời. Mỗi một lứa tuổi khác nhau tình
cảm bạn bè cũng mang những sắc thái khác nhau.
Tình bạn ở lứa tuổi VTN mang nét đặc trưng: tình bạn khác giới, do đó nó không
những là một nhu cầu lớn ở lứa tuổi này, mà có lẽ còn bị thử thách manh mẽ nhất. Những
rung động giới tính và sự cuốn hút của bạn khác giới là nét đặc trưng của tình bạn VTN.
Từ sự nhí nhảnh, hồn nhiên, vô tư, tinh nghịch của tuổi trẻ con đang dần dần bị thay thế
bằng tâm trạng hồi hộp, lo lắng, và khó hiểu nữa. Nhìn chung tình bạn VTN vẫn mang
tính hồn nhiên vô tư, trong sáng và không cho thấy sự khác biệt giữa các nhóm và các
vùng khác nhau.
Khi được hỏi về tình bạn của các em học sinh PTTH thì cho thấy, khi học trung
học cơ sở (cấp II) các em thường chơi với nhau cả một tập thể hoặc thành các nhóm bạn
không phân biệt nam nữ. Tuy nhiên cũng có em, do tuổi dậy thì phát triển sớm đã có biểu
hiện "để ý tới nhau", thư từ cho nhau...
"Hồi cấp II em chơi với cả hai phái nhưng riêng đối với nữ thì em thân
thiết hơn" (Nữ 15 tuổi. HS.10/TB).
"... bọn em thường đi chơi với nhau cả nhóm" (Nam 18 tuổi. HS.11/HN).
"Khi học cấp II em có chơi thân với bạn trai, nhưng bạn trai đó chỉ là anh
em họ hàng, hàng xóm, người làng thôi" (Nữ 18 tuổi. HS.12/TB).
"Hồi cấp II thì mình chỉ có một cái gì đó trẻ con. Lên cấp III em cảm thấy
có một cái gì đó già dặn hơn một chút nhưng cũng không khác mấy hồi cấp II.
Hồi cấp II em chơi với các bạn trai có phần vô tư vì mình còn nhỏ" (Nữ 17
tuổi. HS 11/TB).
"(cấp II)... em có bạn gái thân nhưng bọn em chơi bình thường quan hệ
bạn bè với nhau thôi. Em chơi riêng với bạn ấy hay chơi theo nhóm? - Bọn em
chơi hòa đồng cả nhóm. Thường là ngồi nói chuyện bàn về chủ đề khoa học,
học tập..." (Nam 17 tuổi. HS 11/TB).
Đây là những tình cảm bạn bè hồn nhiên và vô tư thế nhưng cuối cấp II khi đã
bước vào tuổi dậy thì ở các em cả nam và nữ đã nảy nở những cảm xúc mới.
"Trước kia nói chung là còn cấp II hiểu biết về các vấn đề còn quá ấu trĩ.
Em chơi thân theo nhóm bạn cả nam cả nữ, cũng là có tình cảm riêng chút ít.
Nhưng chỉ là chơi thân. Chơi vô tư và bạn bè rất thẳng thắn" (Nam 18 tuổi. HS
12/TB).
(ở cấp II) "em cũng có bạn trai. Em nghĩ tình cảm ấy bồng bột. Khi có
bạn trai thì em có cảm giác ngại. Nói chung là chỉ biết thân... Không có quan
niệm về tình yêu thế này, thế nọ... " (Nữ 18 tuổi. HS 12/HN).
"Cấp III em chỉ có cảm xúc là lạ khi có những bạn trai quan tâm tới mình thôi
chứ em không nghĩ là tình yêu hay là thế nào" (Nữ 18 tuổi. HS 12/HN).
Chính những trạng thái tình cảm "cảm giác ngại" hay "cảm xúc là lạ" và "tình
cảm riêng một chút" này cho thấy các em đã bước đầu ý thức về giới tính của mình. Các
chuyên gia về tuổi dậy thì cho rằng trong giai đoạn này, các em vừa có nhu cầu thu hút
sự chú ý của bạn khác giới vừa để ý, quan tâm đến các bạn khác giới. Ta hãy thử nghe
các em nói thực hư thế nào?
"Bọn em học lớp toán nên tình cảm giữa bạn nam và bạn nữ nó cũng có
phần lạnh nhạt, bạn nam đối xử với bọn em cũng bình thường thôi. Nhưng
chúng em vẫn cảm thấy giữa chúng em có một khoảng cách gì đó... Lạnh nhạt
ví dụ như các bạn có vẻ dửng dưng đối với mình, không những đối với mình
mà là đối với cả bạn mình. Thường là bạn nào tổ chức sinh nhật thì mới các
bạn ấy đến, các bạn ấy ít khi để ý đến lắm. Mà có vẻ các bạn ấy không quan
tâm" (Nữ 18 tuổi. HS 11/TB).
"Trước đây các bạn ấy hồn nhiên nghịch ngợm như mình nhưng khi thành
thiếu nữ thì các bạn ấy khi chơi với mình có nhiều lúc hồn nhiên vô tư nhưng
nhiều khi các bạn ấy cũng tỏ ra có một cái gì đó trầm lắng. Có những lúc họ
biểu hiện một cái gì đó rất khác" (Nam 17 tuổi. HS 11/TB).
Rõ ràng, trong tình bạn, các em đã nhận ra những biểu hiện khác chưa hề có. Ta
giả định rằng họ đã học với nhau, đã chơi với nhau nhiều năm "hồn nhiên và vô tư" thế
mà bỗng nhiên nay các bạn khác giới của mình lại trở nên có "một cái gì đó rất khác" khó
hiểu, "có một khoảng cách nào đó" và rồi đột nhiên cảm thấy bạn khác giới "có phần lạnh
nhạt" với mình, mặc dù mình vẫn phải thừa nhận "Bạn đối xử với mình cũng bình thường
thôi".
Đó là cái gì vậy? Tại sao lại thế? Vâng, đối với họ thật bí ẩn và hấp dẫn. Đúng là
thật hấp dẫn và họ sẽ tiếp tục dấn thân vào cuộc hành trình khám phá những cảm xúc mới
lạ của mình. Những biểu hiện này ngày càng rõ nét hơn trong các năm học tiếp theo của
các em - những năm học ở phổ thông trung học (cấp III).
Với những trạng thái cảm xúc, những rung động mới xuất hiện trong quan hệ với
bạn khác giới như dè dặt, khép nép, xao xuyến, bồi hồi, hồi hộp, trầm lắng và mên mến
nhau, hơi hơi tình ý như chính các em cảm nhận, rõ ràng, quan hệ nam nữ của các em ở
tuổi này đã bước sang một giai đoạn khác. Tình bạn không còn mang tính chất vô tư trẻ
con nữa mà tình bạn đã bị thúc đẩy và cuốn hút bởi lực hấp dẫn giới tính và mang tính
định hướng bản năng. Đó thực sự là sự phát triển tự nhiên và tất yếu.
Quan hệ bạn bè về bản chất là vô tư trong sáng nên nó rất ít bị các chế định xã
hội can thiệp vì thế khi khảo sát thực tế ta không thấy rõ sự khác biệt trong quan hệ bạn
bè ở 2 môi trường khảo sát khác nhau - môi trường nông thôn và môi trường thành phố.
Có thể trong môi trường đô thị quá trình xã hội hóa cá nhân mạnh mẽ hơn và do
đó trẻ vị thành viên ở đây cũng trưởng thành về mặt xã hội hơn so với trẻ ở vùng nông
thôn. Thế nhưng những rung động, những cảm xúc mới của trẻ vị thành niên ở hai nơi
qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy họ đều trải qua những cảm xúc dường như là giống
nhau. Có lẽ những cảm xúc này có nguồn gốc nội tại của bản chất loài nhiều hơn là bản
chất xã hội nên nó mang tính phổ biến cho mọi cá thể ở độ trưởng thành ấy.
Những cảm xúc mới trong quan hệ nam nữ mà chúng tôi tập trung chú ý trên
đây không phải là toàn bộ mối quan hệ tình bạn của tuổi vị thành niên mà nó chỉ là nét
đặc trưng riêng của tình bạn ở lứa tuổi này. Còn về tình bạn mang ý nghĩa rộng lớn hơn
nó bao gồm cả tình bạn cùng giới và bạn khác giới. Như vậy, có thể nhìn tổng thể tình
bạn của lứa tuổi này vẫn mang đúng nghĩa của nó là hồn nhiên, trong sáng và vô tư...
nhưng bước đầu có những dấu hiệu vượt ra khỏi khuôn khổ tình bạn thông thường.
Ta có thể tìm hiểu thêm xem các thầy cô giáo - những người trực tiếp dạy dỗ và
tiếp xúc với các em hàng ngày nhìn nhận về tình bạn của trẻ vị thành niên như thế nào?
"Về tình bạn... bây giờ hầu như nam nữ không cách biệt thì phải, nó gần
gũi chứ không xa lạ, xa cách như trước kia. Ngày trước ngồi cạnh nhau con trai
con gái vẫn cảm thấy ngượng, nhưng bây giờ là bình thường không sao cả.
Nhiều khi thậm chí mình còn cảm thấy nó không còn ranh giới nam nữ nữa.
Còn chuyện tình cảm từ tình bạn đến tình yêu thì có lẽ là phát triển rất tốt" (Nữ
40 tuổi. GV Văn. HN).
"Vấn đề tình bạn thì tôi nghĩ... bây giờ rất bình thường. Bây giờ tôi có
một nhận xét thế này là con gái thích chơi với con trai hơn, thích kết bạn với
con trai hơn là với bạn gái. Chơi với bạn nam nó khác giới nên dễ thông cảm
với nhau hơn... Năm lớp 10 đã cho nhau mượn sách vở rồi tạo điều kiện có khi
là đến nhà nhau học. Tất nhiên là chưa nghĩ cái cao hơn tình bạn, nhưng mà
qua đó thấy giữa nam và nữ khác giới kết bạn dễ hơn. Theo tôi nghĩ tình bạn
trong học sinh giữa nam và nữ nếu nó dừng lại ở mức như hiện tại thì tốt. Thì
rất tốt chứ không phải không? (Nam 50 tuổi, GV. Giáo dục công dân. TB).
Có lẽ nhận xét của các thầy cô về tình cảm của các học trò của mình cũng thống
nhất với các nhận định của chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn thấy phảng phất đâu đó trong
các cuộc phỏng vấn, trong cái ý tứ và sắc thái cảm xúc giới tính ở tuổi vị thành niên,
rằng, các mối tình đầu tiên và bí ẩn đang dần dần nảy nở...
* Tình yêu VTN
Tình yêu ở tuổi VTN là một đề tài phức tạp và hấp dẫn. Nhưng do tính chất
phong phú đa dạng và chưa định hình, chưa rõ nét của nó nên rất khó có những khái quát
đặt tên cho nó. Đã có nhà khoa học nhận xét về các loại tên về tình yêu tuổi VTN như
"Các nhà tâm lý học thì gọi đó là tình yêu cảm tính. Các nhà thơ thì gọi nó là những mối
tình lãng mạn nhất thời. Các nhà đạo đức thì cho rằng đó là tình yêu trong trắng. Các nhà
tâm thần học thì gọi đó là tình trạng rối loạn thần kinh. Các nhà thần học thì gọi đó là
những mối tình của Chúa...".
Dẫu được gọi như thế nào, nhưng khi khảo sát thực tế chúng tôi nhận thấy tình
yêu vị thành niên là những mối tình quá độ từ tình bạn sang tình yêu. Sự quá độ này được
nhận biết bởi nó không còn là tình bạn, nhưng cũng chưa hẳn đã là tình yêu. Đó là những
mối tình nhạy cảm, mong manh, mang đầy ngộ nhận và đa số là không mục đích.
Những mối tình này cơ bản không phải được hình thành trên cơ sở ý thức mà trên
cơ sở các rung động duy cảm, hơn thế, nó lại được thúc đẩy bởi những động lực sâu xa
của các ham muốn tình dụng đang hình thành. Vì thế tính chất bùng cháy và chóng tàn
của nó là có cơ sở hiện thực và mang tính phổ biến.
Có lẽ vì thế mà mặc dù đa số đều thừa nhận mối tình đầu ở tuổi VTN là mối tình
đẹp nhất của đời người nhưng cho đến nay sự thành công của tình yêu ngay từ mối tình
đầu cũng không phải là nhiều. Và nó vẫn luôn giấu kín trong mình những bí ẩn mà những
ai đã trải qua nó cũng mới chỉ là lờ mờ nhận ra. Hình như mối tình đầu ở tuổi VTN nó bất
ngờ đến và bất ngờ ra đi quá nhanh nên dường như không mấy ai kịp định thần để có
kinh nghiệm về nó.
Trong nhóm các đối tượng VTN được khảo sát ở cả hai điểm nghiên cứu, cả nam
và nữ, cả những người đang học và những người đã thôi học rất ít người thừa nhận họ đang
yêu. Đa số họ thừa nhận hoặc có bạn thân khác giới hoặc là có những rung động mới lạ đối
với bạn khác giới, các em tự nhìn nhận và đánh giá về tình cảm và quan hệ của mình khi thảo
luận nhóm và phỏng vấn.
"Chúng em gọi là yêu nhưng chỉ là hơn tình bạn thôi... chúng em thường
hay nói chuyện với nhau, quan tâm, để ý đến nhau" (Nam 17 tuổi. HS 11/TB).
"Em vẫn nghĩ là tình bạn học thôi chứ chưa nghĩ đến chuyện yêu đương.
Em nghĩ nếu em nói ra (với bạn) thì không biết tình cảm của bạn ấy có dành
cho em hay không, nếu không thì xấu hổ lắm. Em gợi ý những chuyện yêu
đương của bạn bè xem ý kiến của bạn phản ứng như thế nào.
Nếu bạn không phản đối, bạn ấy bình thường thì lúc đó mình sẽ hỏi bạn xem
bạn trả lời ra sao. khi em hỏi bạn có người yêu chưa nếu bạn bảo chưa thì em
đưa ra ý kiến của em. Bạn ấy nói không phải là bạn không yêu mà phải cố gắng
nghĩ đến chuyện học hành đừng suy nghĩ đến yêu đương nhiều quá" (Nam 18
tuổi. HS 12/HN).
"Chúng em cũng chưa có tình yêu đâu. Chỉ có cảm giác rất cảm mến nhau
cả nam và nữ" (Nam 17 tuổi. HS 11/TB).
"Bọn em thấy yêu ở lứa tuổi học trò thì tình yêu ấy cũng đẹp nhưng mà
phải có khoảng cách nào đó để giữ gìn cho tình bạn trong sáng. Sau này nó
không thành cái gì thì ra trường cũng nhớ" (Nữ 16 tuổi. HS 11/HN).
Những ý kiến trên cho ta thấy các em còn chưa nhận biết được thế nào là tình bạn
và thế nào là tình yêu. Có lẽ sự lẫn lộn đó cũng dễ hiểu bởi hầu như tình yêu của họ chủ yếu
được nảy nở và vun đắp từ tình bạn thân thiết.
Có lẽ trong tình cảm và hành vi của họ khi biểu hiện ra có lúc là tình bạn và có
lúc lại là tình yêu. Chính sự nhập nhằng ấy tạo nên những cảm xúc tuyệt vời của cái tuổi
đang lớn - vị thành niên.
Nhìn chung qua các cuộc phỏng vấn và cuộc thảo luận nhóm, những người
nghiên cứu thật khó nắm bắt được quan niệm của họ về tình yêu. Có lẽ do họ chưa có
kinh nghiệm nên các ý kiến của họ hết sức mơ hồ và lúng túng. Họ nói rất chân thật và
hồn nhiên khi được hỏi "em nghĩ như thế nào về tình yêu?".
"Thực ra bọn em cũng chưa hiểu thế nào là yêu. Theo quan niệm của bọn
em chưa hiểu yêu là gì nên chưa thể khẳng định là yêu được... thấy hai bạn có
tình cảm riêng với nhau thì chỉ nói hai người kết nhau thôi" (Nữ 17 tuổi. HS
11/TB).
"Nói chính xác bọn em cũng chưa xác định được thế nào là yêu" (Nam 17
tuổi. HS 11/TB).
Có thể nói khái quát tình yêu VTN được biểu hiện theo tiến trình sau đây:
Quá độ tình yêu
Tình dục
Biểu hiện của tình yêu VTN
Tình yêu
Không tình dục
Khảo sát bảng hỏi 600 em trong độ tuổi 15-18 thì ta thấy có 36,7% các em trả lời
là có bạn thân khác giới. Trong số 320 em nam thì có 149 em có bạn gái thân (45,5%) và
trong 280 em nữ có 65 em có bạn trai thân (25,5%).
Để nhận diện tình yêu VTN ta tìm hiểu thêm ý kiến các thầy cô giáo.
"Bây giờ các em học sinh có những cử chỉ, thái độ tỏ tình với nhau bạo
dạn hơn, tự nhiên hơn" (Nam 45 tuổi. GV. Giáo dục công dân. HN).
"Trong một lớp điểm ra có rất nhiều đôi. Yêu theo cảm tính là chính, yêu
kiểu đầu mày cuối mắt, yêu theo kiểu như là sự ngưỡng mộ. Đại đa số có lẽ
yêu chân thật. Có thể có đứa nghĩ yêu nhau sau này lấy được nhau, có đứa
đang tuổi học trò nó nhìn cái gì nó cũng thấy màu hồng, nó cứ yêu, yêu để mà
sống" (Nữ 45 tuổi. Giáo viên văn, HN).
" Hiện nay có những đôi... cảm tưởng có một cái gì đấy đắm đuối, nó
không như người ta yêu nhau là phải kín đáo tế nhị. Chúng hầu như là phớt
ăng-lê. Cô giáo ở lớp cũng mặc kệ, cứ to nhỏ tâm sự coi như không có cô... Có
lẽ nó yêu động cơ chân thật. Con gái khoảng lớp 12 trừ đứa xâu xấu không ai
để ý còn đại đa số là có người yêu cả. Đứa nào mà phải học đúng đắn thì không
bao giờ nó yêu. Còn đứa nào mà sạch nước cản thì không yêu trong trường thì
yêu các anh ở ngoài. Con trai còn ít, con gái ở tuổi lớp 12 cũng 70-80% là yêu"
(Nam 46 tuổi. GV vật lý. HN).
Đó là ý kiến của các thầy các cô ở thành phố nhận xét về tình yêu các học trò của
mình. Qua ý kiến các thầy cô ta thấy học sinh VTN ở thành phố yêu nhau mạnh dạn,
công khai và đa số các em năm cuối là đã có người yêu, nhất là các em nữ. Sự biểu hiện
tình cảm "đắm đuối" của họ nơi công cộng như thế cũng làm cho người lớn thật đáng suy
nghĩ. Nhất là môi trường trong các ý kiến của thầy cô ta nhận thấy có điều lo lắng.
Nhưng cùng với những nhận xét trên ta lại thấy có những nhận xét, những đánh
giá chung về tình yêu VTN của các thầy cô khác cũng rất phấn khởi:
"Thế nhưng mà học sinh cấp III thì hiện tượng yêu nhau thì nó thường
quan hệ trên ngưỡng cửa tình bạn một chút" (Nam 51 tuổi. GV Văn. TB).
"Nhìn chung tình cảm các em đẹp lắm, trong sáng" (Nữ 42 tuổi. GV Văn
TB).
"Nhìn chung quan hệ học trò là quan hệ trong sáng, có trường hợp khác
nhưng ít thôi" (Nữ 45 tuổi. GV Sử. HN).
Như thế nhận xét của các thầy cô về tình yêu VTN cũng có những ý kiến khác
nhau. Về cơ bản, cũng có sự thống nhất với những tâm sự của chính các em là tình yêu
của các em đa số là trên ngưỡng tình bạn một chút, nghĩa là những mối tình quá độ tình
yêu, cũng đã có những mối tình say đắm nhưng chưa nhiều. Tình yêu đa phần là cảm
tình, và do đó nó rất đẹp và rất trong sáng.
Sự khác biệt của tình yêu VTN giữa thành phố và nông thôn là khá rõ nét qua các
ý kiến của các thầy. Sự khác biệt còn cho thấy giữa hai nhóm VTN nam và nữ. Các em ở
thành phố khi yêu mạnh dạn và công khai hơn các em ở nông thôn và các em nữ yêu
nhiều hơn các em nam.
- Những quan điểm khác về tình yêu VTN.
Đối với các em đi học thì em nào cũng xác định được rằng ở tuổi của các em việc
học tập là chính do đó, học tập là mối quan tâm lớn nhất của các em. Chính vì lẽ đó mà
các em tự kìm chế mình, cố gắng xa lánh tiếng gọi của tình yêu.
"Em bây giờ đang học tập thì chưa thể yêu được" (Nam 16 tuổi. HS
10/TB).
"Em nghĩ tuổi mình còn phải học để phấn đấu khi nào mình có việc làm
ổn định mình yêu nhau cũng được. Bây giờ còn phải học hành, còn phải lo cho
tương lai của mình" (Nữ 17 tuổi. HS 11/HN).
"Em chưa muốn nghĩ đến chuyện đó vì em còn là học sinh dồn tất cả cho
học tập" (nữ 18 tuổi. HS 12/TB).
"Em xác định khi nào học xong có bạn gái thân cũng được. Giờ chỉ quan
hệ bạn bè thôi" (Nam 18 tuổi. HS 11/TB).
Bố mẹ không ngăn cấm các em yêu đương nhưng bố mẹ luôn luôn dạy bảo, nhắc
nhở các em nhiệm vụ học tập. Chính sự quan tâm sát sao của bố mẹ đã làm cho các em
không xao nhãng việc học tập và lập nghiệp.
"Bố mẹ khuyên em chú tâm vào học hành không nên đi chơi quá nhiều.
Trong quan hệ phải có giới hạn không nên vượt quá giới hạn đó" (Nam 16 tuổi.
HS 10/HN).
"Bố mẹ em cũng biết những quan hệ đó nhưng mà riêng lúc nào bố mẹ
em cũng nhắc nhở, quan hệ bạn bè cho tốt, phải chú tâm vào học tập" (Nữ 16
tuổi. HS 10/HN).
"Em luôn nhớ tới bố mẹ dặn còn phải học, chưa được nghĩ tới những cái
linh tinh" (Nữ 16 tuổi. HS 10/TB).
Như vậy, nếu đứng ở quan điểm phát triển bao gồm cả sự phát triển cá nhân và
sự phát triển xã hội thì một cơ chế hợp lý nhằm định hướng và điều chỉnh sự phát triển
bền vững và lành mạnh của trẻ vị thành niên trong xã hội hiện đại là hết sức cần thiết.
* Tình dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên
Tình dục về bản chất là một bản năng của con người. Nhưng con người dù là một
sinh vật - xã hội thì trong đời sống xã hội con người thường hiện diện ra là một nhân cách
văn hóa. Nghĩa là con người thường hiện ra với tư cách là đặc trưng giới chứ không phải
là đặc trưng giống (giới tính). Vì thế khát vọng tìm đến với nhau giữa nam và nữ là khát
vọng tình yêu.
Nếu tình yêu là phát hiện lớn nhất của trẻ VTN thì tình dục là một khám phá
mang tính cách mạng. Nó không chỉ là khám phá đối với bạn khác giới mà là một khám
phá thực sự đối với chính bản thân. Và, với tình dục cuộc đời họ có thể xoay chuyển sang
một hướng hoàn toàn khác với mong muốn của họ. Nhất là đối với trẻ vị thành niên nữ.
Với người yêu
Mang thai
Tình dục VTN
Tình dục lệch lạc
Khi tìm hiểu về quan hệ tình dục trước hôn nhân - có lẽ đây là vấn đề quá nhạy
cảm, tế nhị nên dường như không em nào thừa nhận mình đã có quan hệ đó. Và đa số các
ý kiến của các em đều không tán thành.
Nhiều em khi hỏi về chuyện quan hệ tình dục trước hôn nhân các em nói rằng:
"Em nói, chúng em mới là tình cảm học trò chưa khi nào cầm tay hay hôn
nhau. Em thật chưa bao giờ dám nghĩ chuyện tình dục" (Nam 18 tuổi. HS
12/TB).
"Chúng cháu cũng chẳng biết làm chuyện ấy" (Thảo luận nhóm nữ
HS.TB).
"Em nghĩ... bao giờ cũng phải có trinh tiết làm đầu, nếu mất rồi thì người
con trai yêu mình đòi hỏi thì mình tính sao... Em nghĩ trinh tiết của người phụ
nữ là đầu tiên" (Nam 15 tuổi. HN).
"Thế theo em trinh tiết của phụ nữ bây giờ có quan trọng nữa không? - Có
đấy chị ạ... Người con gái cũng chỉ có một cái ấy là quan trọng thôi" (Nữ 18
tuổi. HS/HN).
"Chúng nó vẫn cho là rất quan trọng, rất giữ gìn. Hiếm đứa nó cho là bình
thường" (Nữ 43 tuổi. GV Sinh vật. HN).
Tuy nhiên, quan điểm về trinh tiết của người phụ nữ trong thời điểm hiện nay đã
có một sự chuyển biến và đã khác, nó không còn nặng nề như xưa nữa.
"Chị nghĩ là ít nặng nề, chữ trinh ít đứa nó nghĩ đến mà chỉ yêu nhau thì
chúng nó nghĩ là chắc chắn lấy nhau" (Nữ 41 tuổi. HN).
"Bây giờ có một số không quan trọng lắm trinh tiết của người vợ nhưng
cũng có một số vẫn đặt cái đấy là quan trọng..." (Nữ 25 tuổi. YT.TB).
"Bây giờ dư luận xã hội có quan trọng trinh tiết không? - Cũng không
quan trọng đâu chứ làng thì chuyện đấy (quan hệ tình dục) nó cũng xảy ra
nhiều lắm" (Nữ 18 tuổi. HS 11/TB).
"Trinh tiết hiện nay cũng không được coi trọng lắm" (Nữ 18 tuổi.
HS 12/HN).
Vì thế ở không ít trường hợp các em cho rằng tình dục ở tuổi VTN là rất có thể.
Và cũng có thể chấp nhận được. Đó là suy nghĩ của các em.
"Yêu nhau mà tin chắc là lấy nhau thì được" (Nữ 16 tuổi. HS/HN),
"Theo cháu nghĩ quan hệ tình dục trước hôn nhân (có thể được) nếu họ
xác định là họ sẽ lấy nhau". Sự quan hệ tình dục trước hôn nhân sẽ là ràng
buộc" (Thảo luận nhóm nữ HS.TB).
Với những quan niệm như thế, rằng nếu "tin chắc là lấy nhau" và "nếu xác định
là sẽ lấy nhau", rằng đó là cách "ràng buộc" nhau thì theo một số em có thể chấp nhận
quan hệ tình dục ở tuổi VTN.
Trên đây là một vài ý kiến trong số khá nhiều ý kiến khẳng định tình trạng quan
hệ tình dục ở tuổi VTN. ý kiến của các thầy cô giáo về quan hệ tình dục VTN còn mang
tính dè dặt. Đa số các thầy cô dù có khẳng định quan hệ yêu đương của trẻ VTN bây giờ
bạo dạn, thoải mái và nhiều hơn trước. Nhưng các thầy vẫn cho rằng quan hệ tình dục ở
tuổi các em là còn hiếm. Đặc biệt các thầy ở vùng nông thôn Thái Bình còn rất tin chắc
vào quan sát và khẳng định của mình. Rằng quan hệ tình dục tuổi học sinh ở trường các
thầy là hãn hữu. Có thầy còn quả quyết "20 năm tôi dạy học ở đây chỉ xảy ra một trường
hợp học sinh gái có thai"(?).
Trái lại, như chúng tôi vừa trích dẫn ý kiến của các cán bộ y tế tại cả hai cộng
đồng được khảo sát đều khẳng định tình dục trong tình yêu VTN là mang tính phổ biến. ý
kiến này rất mạnh mẽ ở các cán bộ y tế Hà Nội. Có lẽ các nhà chuyên môn có lý khi
khẳng định tính phổ biến của quan hệ tình dục trong tình yêu VTN. Bởi vì, hơn ai hết nơi
các cộng đồng dân cư họ trực tiếp là người phải giải quyết các hậu quả của quan hệ đó.
Họ phải thường xuyên nạo hút thai, phải đỡ đẻ cho các trẻ em gái VTN nên có lẽ sự thật
về chuyện này họ biết hơn cả.
Tuy nhiên, khi nhìn tình yêu VTN qua số lượng ngày càng nhiều trẻ em gái đến
"giải quyết hậu quả" có thể suy nghĩ của họ cũng phần nào đã bị chủ quan và thành kiến.
Vì thế mà trong đánh giá của họ ở một khía cạnh nào đó bị quá lên. Nhưng ở đây ta cũng
nên suy nghĩ thêm là chuyện có thai và nạo hút thai ở trẻ vị thành niên là một câu chuyện
còn được hết sức giữ bí mật và chỉ có các chuyên gia y tế ở cơ sở mới nắm được thực
chất những bí mật này thôi. Do vậy dù cái nhìn của họ nếu có bị khúc xạ đối với tình yêu
VTN thì những đánh giá ấy cũng có xuất phát điểm vững chắc là thực tế công việc hàng
ngày của họ.
Khảo sát thực tế chúng tôi nhận thấy quan hệ tình dục trước hôn nhân ở VTN có
sự khác biệt giữa các vùng nghiên cứu và nhóm nghiên cứu.
Thứ nhất là giữa vùng nghiên cứu, sự khác biệt giữa hai vùng nghiên cứu về tình
dục VTN là khá rõ nét. ở nông thôn Thái Bình, quan hệ tình dục trước hôn nhân là ít, chủ
yếu rơi vào những mối tình của các em đã thôi học và thường là quan hệ yêu đương của
các em đã công khai, hai gia đình đã có sự "đi - lại" với nhau. Nghĩa là tình yêu được
định hướng tới hôn nhân. Và, ta chỉ biết được họ đã có quan hệ tình dục với nhau vì thấy
họ có thai hoặc phải đi nạo thai hoặc buộc phải cưới sớm.
Trong nhóm học sinh ở Thái Bình cũng có chuyện quan hệ tình dục VTN nhưng
lại ở các em nữ và đối tác của họ không phải là bạn học trong trường mà là những thanh
niên lớn tuổi hơn ở thôn làng.
Một vài em nữ học sinh có thai và phải nạo hút thai hoặc bỏ học là ở các quan hệ
này. Tuy nhiên, theo đánh giá chung của các em, của các thầy cô và các cán bộ y tế ở đây
những trường hợp như thế còn là hiếm.
Khác với ở nông thôn, ở thành phố (HN) các ý kiến cho thấy tình dục VTN tỏ ra
đa dạng và phong phú hơn. Nó không chỉ ở nhóm thôi mà cả ở nhóm đang đi học. Nhiều
ý kiến của cán bộ y tế nêu trên đã khẳng định điều này có lẽ ta không cần phải trích thêm
những ý kiến nữa làm gì. Nếu ở nông thôn Thái Bình những đối tượng chuẩn bị kết hôn
thường có quan hệ tình dục với nhau thì ở Hà Nội các đối tượng có quan hệ tình dục
VTN lại rơi vào nhóm các em đua đòi, kiểu ngựa non háu đá, hoặc do tuổi còn bồng bột
nhẹ dạ cả tin và chủ yếu rơi vào những em học kém, học không tiếp thu tốt nên có xu
hướng đi vào chơi bời trai gái.
Như vậy, tình dục VTN đang có xu hướng ngày càng gia tăng cùng với sự phát
triển đời sống xã hội. Nó cũng đang đặt ra nhiều vấn đề đối với xã hội ta. Phải chăng tình
dục VTN là gắn liền với sự hiện đại hóa xã hội.
Tuy vậy, như đã trình bày ở phần trước lứa tuổi VTN là lứa tuổi của những mối
tình đầu "vô tư" đầy hấp dẫn. Từ tình yêu này dẫn đến quan hệ tình dục là rất gần. Theo
một điều tra xã hội ở Hà Nội có đến 15% thanh niên 15 - 19 tuổi đã sinh hoạt tình dục
trước hôn nhân. Số VTN có quan hệ tình dục ở độ tuổi sớm hơn 14-16 tuổi ngày càng
tăng, một nửa số đó không hề biết gì về sức khỏe tình dục và ngăn ngừa thai nghén.
Quan hệ tình dục thiếu hiểu biết như vậy dẫn đến có thai ngoài ý muốn. Trong
những trường hợp đó, phương án "giải quyết" được các VTN lựa chọn là nạo phá thai.
Một thông tin đáng lo ngại là, tỷ lệ nạo phá thai của nước ta vào một trong ba nước cao
nhất thế giới trong đó 20% là lứa tuổi VTN. Cũng theo số liệu điều tra trên, số nữ 15 - 19
tuổi nạo phá thai tăng từ 0,84% năm 1996 lên 1,2% năm 1997. Hiện nay, theo số liệu của
Trung tâm Dân số - Sức khỏe - Môi trường TW Đoàn Thanh niên hàng năm có khoảng
300.000 ca dưới 20 tuổi nạo phá thai.
Quan hệ tình dục thiếu hiểu biết còn dẫn đến các bệnh lây lan qua đường tình dục
ngày một đông ở lứa tuổi VTN. Theo con số báo cáo y tế, năm 1998, nhiễm HIV ở lứa
tuổi 10 - 19 tăng hơn so với năm 1996. Số trẻ em 12 - 15 tuổi mắc căn bệnh lây lan qua
đường tình dục chiếm tỷ lệ 1,16% (đối với bệnh lậu) và 1,5% các bệnh da liễu khác. Năm
1989, gái mại dâm ở tuổi VTN là 2,1%. Năm 1990 chiếm 5,22% và hiện nay có khoảng
12%. Tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em, buôn bán trẻ em gái... là điều lo lắng của
nhiều gia đình và xã hội hiện nay.
Những con số trên đây về quan hệ tình dục, nạo phá thai, nạn mại dâm, HIV... ở
lứa tuổi VTN đã cảnh báo, thúc giục người lớn (thầy cô giáo, phụ huynh, những người có
trách nhiệm trong xã hội, đoàn thể, y tế...) phải có định hướng và giải pháp cứu giúp thế
hệ trẻ. Nếu giáo dục không chủ động trang bị cho VTN những tri thức, kỹ năng về SKSS,
SKTD thì các em sẽ đi tìm kiếm những vấn đề mà họ muốn biết, tò mò, quan tâm qua các
kênh khác nhau mà giáo dục không hề mong muốn và khó có thể kiểm soát nổi. Ví dụ,
những thông tin "tế nhị", "nhạy cảm" về giới tính, tình dục không phải là "khó tìm" đối
với VTN - phim ảnh, video, ấn phẩm đồi trụy, các tụ điểm tệ nạn xã hội, mạng Internet...
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên nhưng một nguyên nhân cơ bản là do
thiếu hiểu biết đầy đủ và có hệ thống của VTN. Họ có nhu cầu lớn về nhận thông tin liên
quan ở lứa tuổi này (theo dự án VIE/97/P11 thì con số này là 40%, còn theo dự án
VIE/98/P12 thì đã lớn hơn 70%.
Có thể nói, vấn đề SKSS vị thành niên là vấn đề có ý nghĩa về cả kinh tế - xã hội
và nhân văn sâu sắc. Nó thu hút sự quan tâm nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế và
nhiều tổ chức phi chính phủ. Riêng quỹ dân số liên hợp quốc đã và đang phát động một
chương trình quốc tế rộng rãi lấy tên là "sức khỏe sinh sản cho mọi người" đến năm
2015.
Tại các nước phát triển, các chính sách dân số, SKSS, KHHGĐ, đặc biệt là SKSS
VTN đã được tiến hành rất sớm, từ năm 1960 như Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan... Hệ
thống chính sách trên của các nước này được hoàn thiện dần gắn liền với các cuộc vận
động xã hội về giáo dục tình dục.
Hiện nay, ở nhiều nước, chủ trương giáo dục về giới, về tình dục, SKSS được
đưa vào trường học ở các cấp phổ thông, chuyên nghiệp. Chính quyền các cấp ra chủ
trương trên cơ sở chủ trương của chính phủ, các trường tự xây dựng kế hoạch trên cơ sở
nhu cầu của học sinh, phụ huynh và tự tìm ra đối tác phối hợp. Ngoài ra là các giải pháp
đồng bộ từ phía nhà nước và tư nhân trong các hình thức từ hỗ trợ đào tạo - xã hội
chương trình chính khóa trong nhà trường, tới công tác dịch vụ - tư vấn thành mạng lưới
rộng khắp qua đường dây nóng (điện thoại), tư vấn trực tiếp, tư vấn cộng đồng, các kênh,
giáo dục truyền thông được khai thác nhằm mục đích hướng dẫn hành vi để VTN tự
quyết định lựa chọn giải pháp cho chính mình, tuy nhiên điều này cũng tùy từng nền văn
hóa.
ở nước ta, nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục giới tính - SKSS VTN
những năm gần đây đã được nhà nước và chính phủ quan tâm đáng kể. Nhiều tổ chức
Quốc tế (UNPFA), tổ chức phi chính phủ đã đầu tư hỗ trợ cho nước ta nhiều dự án quốc
gia, nhiều chương trình đào tạo và thực hành nhằm giảm tỷ lệ dân số, nâng cao chất
lượng SKSS VTN. Mặc dù, chương trình giáo dục dân số kế hoạch hóa gia đình của nước
ta đã đạt thành tựu đáng kể là hạ tỷ lệ gia tăng, tăng dân số xuống còn 1,7%/năm, nhưng
chất lượng nguồn dân số lại đáng lo ngại. Do vậy, hội thảo các nhà hoạch định chính sách
về KHHGĐ phải lấy giáo dục SKSS VTN làm điểm đột phát. Và cùng với chương trình
quốc tế "về SKSS cho mọi người" dự kiến sẽ đưa nội dung giáo dục về giới tính, về tình
dục SKSS VTN vào trường học trên cơ sở nhu cầu của học sinh, của giáo viên, phụ
huynh và xã hội. Vấn đề là chúng ta giáo dục, hướng dẫn nội dung này đi đúng hướng
văn minh, văn hóa cao đẹp, tiếp thu cái hiện đại mà giữ vững nét tốt, đẹp của cha ông là
rất quan trọng và cũng phải hết sức quan tâm. Theo GS Phạm Song, khi bàn về bản năng
con người thì bản năng quan trọng nhất là bản năng tình dục là bản năng sinh tồn hay hủy
diệt. Một xã hội nếu không kiểm soát được tình dục theo đúng hướng thì xã hội sẽ đi đến
sự tự hủy diệt mình.
Từ phía nhà trường, có thể nói, không ai có thể phủ nhận vai trò của giáo dục học
đường trong việc dạy cho các em những kiến thức khoa học, dạy các em từng bước trở
thành con người có đầy đủ phẩm chất để hòa nhập cộng đồng và xã hội hiện đại.
2.1.2. Thái độ của giáo viên, phụ huynh và vị thành viên về truyền thống dân
tộc
Kết quả phân tích số liệu cho thấy 82,45% tổng số người được hỏi trả lời rất tự
hào về "truyền thống dân tộc", trong đó 87,75% là học sinh VTN đồng thời cũng là tỷ lệ
số người trả lời rất tự hào cao nhất so với tỷ lệ số giáo viên và phụ huynh là 77,15%. Đây
là một tiêu chí quan trọng để nhận ra mức độ ảnh hưởng của truyền thống lên cuộc sống
của con người hiện đại. Một thông số quan trọng nữa trong kết quả điều tra để khẳng định
giá trị truyền thống vẫn còn là niềm tự hào chân chính hối thúc suy nghĩ và hành động
của phần lớn người Việt Nam chúng ta, đó là qua câu hỏi thăm dò thái độ ứng xử của
người được hỏi về ý thức bảo vệ tổ quốc khi độc lập nhà nước có nguy cơ đe dọa. Có tới
97,56% số người trả lời "sẵn sàng tình nguyện nhập ngũ hoặc động viên con em lên
đường nhập ngũ. Số người thờ ơ với vận mệnh tổ quốc chỉ chiếm chưa đầy 3%.
Có thể nói ý thức tự tôn dân tộc và lòng tự hào về những giá trị truyền thống dân
tộc đến nay vẫn có ý nghĩa và có giá trị thiêng liêng trong các thế hệ Việt Nam.
Cũng theo số liệu của đợt điều tra có 89,86% học sinh nhận thức sâu sắc về
truyền thống "học hành đỗ đạt cao"; 98,77% số người được hỏi bày tỏ lòng mong muốn
con cái mình được học hành. Điều đó cho thấy hiếu học, trọng học, khuyến học vẫn là
một truyền thống quan trọng của người Việt Nam mặc dù nước ta là một quốc gia đang
phát triển với những chỉ số còn rất thấp về mức sống và thu nhập, có tới 86,18% đỗ đạt
cao. Từ những kết quả này, chúng tôi có một số nhận định sau: Thứ nhất, truyền thống
trọng học có ý nghĩa đối với VTN trong việc hòa mình vào cuộc sống văn minh hiện đại
đòi hỏi phải có sự hiểu biết, kiến thức và động cơ học tập, đỗ đạt cao của VTN có sự
khác nhau trong các gia đình có truyền thống khác nhau. Nếu VTN trong gia đình thuần
nông động cơ số 1 của việc học tập là thoát ly khỏi đồng ruộng, để không phải lao động
chân tay vất vả, thì động cơ số 1 của việc học tập của VTN trong các gia đình có truyền
thống lao động tự do (nghề thủ công, kinh doanh có thể, v.v...) là kiếm được nhiều tiền.
Còn trong các gia đình có truyền thống học hành thì động cơ số 1 của việc học tập là để có
khả năng hòa nhập vào cuộc sống hiện đại, là giữ gìn và phát huy truyền thống hiếu học,
trọng học vấn có trong gia đình, dòng họ.
Gắn với truyền thống hiếu học, trọng học là truyền thống "tôn sư, trọng đạo". Kết
quả phân tích số liệu điều tra cho thấy tuyệt đại số câu trả lời theo khuynh hướng tích cực
97,89% phụ huynh học sinh muốn tới thăm thầy cô nhân ngày 20-11 trong năm để tỏ
lòng ghi ơn công lao thầy cô dạy dỗ con em mình. Có tới 89,48% học sinh VTN được hỏi
mong muốn bản thân là cha mẹ tới thăm thầy cô nhân ngày 20-11 và ngày tết cổ truyền;
có tới 31,12% số người được hỏi đến thăm thầy cô giáo trên 2 lần trong một năm. Truyền
thống tôn sư trọng đạo vẫn là một giá trị truyền thống đang chi phối giá trị cuộc sống của
con người Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong thực tế, đã có những biểu hiện lệch lạc
của một bộ phận phụ huynh VTN tới "thăm" thày cô với động cơ không lành mạnh như:
xin điểm cho con cái, bao che khuyết điểm khi con cái vi phạm ở trường lớp v.v..., thậm
chí có phụ huynh học sinh vì nhẹ dạ, quá nghe con đã có hành vi xâm phạm thô bạo danh
dự và thân thể thầy cô giáo. Những hành vi xấu xa đó đã bị dư luận xã hội, báo chí lên án
và truyền thống tôn sư trọng đạo không bao giờ cho phép bất cứ ai có hành vi tương tự
như vậy đối với thầy cô. Còn về phía người thầy, để xứng đáng với vị thế xã hội cao quý
đó cần biết lấy "học sinh làm trung tâm", đó mới là nền tảng bền vững của quan hệ thầy -
trò và truyền thống tôn sư trọng đạo.
Một biểu hiện tích cực của truyền thống cộng đồng được nhiều người Việt Nam
ngày nay vẫn quan tâm đó là đánh giá về quan hệ gia đình và ảnh hưởng tích cực của
truyền thống gia đình tới định hướng giá trị của VTN. Kết quả điều tra cho thấy trong 10
tiêu chí đưa ra có 85,1% đã xếp tiêu chí "cuộc sống gia đình ổn định" vào vị trí số 1. Và
đánh giá các hình thức ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến định hướng giá trị của
VTN được biểu thị "gia đình có nề nếp, cư xử đúng mực" chiếm 82,33% ở tuổi VTN;
84,23% ý kiến ở giáo viên và 89,2% ý kiến ở cha mẹ học sinh. Sự ảnh hưởng của truyền
thống gia đình thông qua hình thức "uốn nắn những hành vi sai trái" một cách thường
xuyên là có ý nghĩa hơn cả chiếm tỷ lệ bình quân 85,23%. Hình thức ảnh hưởng của
truyền thống gia đình đến, định hướng giá trị của VTN "thông qua việc làm và lối sống
gương mẫu' của cha mẹ và người lớn trong gia đình cũng rất nổi bật, chiếm 79,90%...
Đối với quan hệ cộng đồng láng giềng, truyền thống nhân ái, sẵn sàng giúp đỡ
người khác khi gặp hoạn nạn (thiên tai, hỏa hoạn, cơ nhỡ, bà mẹ chiến sĩ neo đơn vẫn là
khuynh hướng chủ đạo, chiếm 90,18%...
Tuy nhiên, cuộc sống theo cơ chế thị trường thời mở cửa cũng có không ít những
tác động làm biến đổi những giá trị truyền thống. Theo số liệu điều tra trong chương trình
khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 07-02 "Các giá trị truyền thống và con người Việt
Nam hiện nay" của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm tìm hiểu mục đích của sinh viên cho
thấy 92,8% trả lời rằng "phấn đấu để có được địa vị xã hội là mục đích xếp thứ nhất; xếp
thứ hai trong bảng giá trị là làm giàu (87,2%), trong khi đó mục đích phấn đầu để thành
đạt thật sự trong chuyên môn của mình đứng ở vị trí gần cuối bảng vốn tỷ lệ 62,8%.
Những con số trên đây cho ta thấy lớp trẻ ngày nay đang muốn tự tin khẳng định bản
thân, đề cao giá trị cá nhân. Song một điều cũng cần thấy rõ xu hướng cá nhân hóa đang
có nguy cơ ảnh hưởng tư tưởng, đạo đức, lối sống của lớp trẻ dẫn đến những con người vị
kỷ, thiếu trách nhiệm với gia đình, cộng đồng xã hội và luôn chỉ nghĩ đến quyền lợi cá
nhân, đồng thời trong đó cũng có một lớp người thiếu năng lực chuyên môn, tốt nghiệp
đại học vẫn thất nghiệp trong đó xã hội vẫn thiếu người tài cho nhiều lĩnh vực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong một phạm vi khuôn khổ kinh phí có hạn của đề tài, kết quả điều tra xã hội
học không thể phản ánh đầy đủ hiện trạng về mối quan hệ giữa truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đây là những cơ sở khoa học đáng tin cậy với
những thông tin được lượng hóa. Có thể đánh giá tổng quát mặc dù tình hình kinh tế - xã
hội đã và đang diễn ra có nhiều biến đổi sâu sắc, về cơ bản, những giá trị truyền thống
văn hóa tiêu biểu cho bản sắc và phẩm giá dân tộc vẫn được đại đa số con người Việt
Nam tự hào và tôn trọng, phát huy trong đời sống xã hội và gia đình.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của đất nước và thời đại, những giá trị
truyền thống văn hóa phải được kế thừa và phát huy theo hướng hiện đại hóa phù hợp và
đáp ứng mục tiêu "dân giàu - nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.
Đảng và Nhà nước ta, trên nhận thức và chủ trương đã khẳng định, trong quá
trình đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải coi trọng giữ gìn bản sắc
văn hóa đã trở thành truyền thống dân tộc. Biết giải quyết một cách khoa học, bảo đảm sự
hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, lấy con người là mục tiêu động lực của sự phát
triển. Đó là một bảo đảm hết sức quan trọng cho sự phát triển bền vững của nước ta trên
con đường tiến lên văn minh hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc. Kinh nghiệm quý báu của
những "con rồng châu á", những thập kỷ qua, trong đó có kinh nghiệm cải cách giáo dục
từ Hàn Quốc lấy giáo dục phổ thông làm nền tảng. Giáo dục phổ thông (từ tiểu học,
PTCS và PTTH) với phương pháp "lấy người học làm trung tâm" chính là nền tảng của
việc đào tạo ra lớp người mới có năng lực và phẩm chất tốt. Bốn mục tiêu cơ bản được
xác định cho giáo dục phổ thông là "Tăng cường giáo dục đạo đức; tăng cường hiểu biết
xã hội; tăng cường hiểu biết truyền thống văn hóa dân tộc và giáo dục tính sáng tạo".
2.2. Vài nét về tình hình giáo dục giá trị truyền thống văn hóa trong trường
phổ thông hiện nay
Trường học ngày nay là một thiết chế trong hệ thống giáo dục quốc dân của ta.
Mục tiêu của nhà trường là đào tạo ra những nhân cách hay con người có nhân cách văn
hóa. Đó là "Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về
tinh thần, trong sáng về đạo đức". Vấn đề là nhà trường phải tạo điều kiện để học sinh
chuyển học vấn thành nhân cách văn hóa hay con người có giáo dục. Khi xã hội tiến lên
nền kinh tế tri thức thì - con người có giáo dục sẽ là biểu tượng của xã hội, là người thể
hiện và sáng tạo ra các tiêu chuẩn của xã hội.
Để có nhân cách văn hóa nội dung giáo dục của nhà trường nói chung và giáo dục
GTTTVH nói riêng cho học sinh VTN phải phù hợp và thiết thực.
Qua khảo sát thực tế cho thấy, trước hết nội dung giáo dục trong nhà trường còn
nhiều thiếu sót. Theo nhận định chung của xã hội hiện nay chương trình học của học sinh
phổ thông còn nặng nề, quá tải, nặng tính từ chương, nhẹ thực hành. Tình trạng học sinh học
vẹt, học nhồi nhét, từ đó khó có thể phát huy tư duy độc lập, chủ động sáng tạo và một
phương pháp học tập tích cực.
Điều quan trọng hiện nay, không ít dư luận xã hội báo chí phản ánh những hiện
tượng tiêu cực phản văn hóa đang xuất hiện trong nhà trường: sự vi phạm quy chế thi cử,
tình trạng học sinh vô lễ, thậm chí có học sinh, phụ huynh học sinh có hành vi hung đồ
xâm phạm thô bạo tới thân thể thầy cô giáo, hạ nhục người thầy trước đám đông. Hành vi
bạo ngược đó hoàn toàn không bao giờ cho phép diễn ra trong quan hệ thày - trò của
truyền thống văn hóa dân tộc ta từ ngàn xưa.
ở trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học của chúng ta hiện nay theo
phản ánh của giáo viên bộ môn giáo dục công dân rằng: Với chức năng nhiệm vụ dạy học
sinh đạo đức, trách nhiệm công dân, pháp luật, song số tiết còn quá khiêm tốn, ít ỏi so với
nhu cầu hình thành, phát triển nhân cách văn hóa cho học sinh ở tuổi VTN. Mỗi lớp từ
cấp II đến cấp III, học sinh chỉ được học trung bình từ 20 - 25 tiết "giáo dục công dân"
mỗi năm học. Việc học đạo đức, truyền thống văn hóa với số tiết ít ỏi, chủ yếu trên lớp
học đã hạn chế khả năng và hiệu quả giáo dục, khiến khó có thể hình thành trong các em
tư tưởng, thói quen, nếp sống đạo đức, văn hóa, lối sống mà xã hội hằng mong muốn.
Một điều hạn chế nữa là giáo viên dạy giáo dục công dân hầu hết là kiêm nhiệm (đa phần
là giáo viên chủ nhiệm, còn lại là giáo viên dạy các môn Sinh vật, Lịch sử...
Gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo có triển khai thể nghiệm chương trình (thí
điểm) giáo dục công dân dân trong một số ít trường THCS nhằm mục tiêu: sau khi học
hết cấp II, học sinh có khả năng
1. Về nhận thức
- Hiểu được những giá trị đạo đức, văn hóa xã hội và pháp luật cơ bản phổ thông,
thiết thực, phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS trong các quan hệ với bản thân, với người
khác, với công việc, và với môi trường sống.
2. Về Kỹ năng
- Biết đánh giá hành vi của bản thân và mọi người xung quanh, biết lựa chọn và
thực hiện cách ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, văn hóa xã hội
trong giao tiếp và hoạt động (học tập, lao động, hoạt động tập thể, vui chơi giải trí...).
3.Về thái độ
- Có thái độ đúng đắn, rõ ràng trước các hiện tượng, sự kiện trong đời sống hàng
ngày; có tình cảm trong sáng, lành mạnh đối với mọi người, gia đình, nhà trường, quê
hương, đất nước; có niềm tin vào tính đúng đắn của các chuẩn mực đã học và hướng tới
những giá trị xã hội tốt đẹp.
Cấu trúc nội dung của chương trình chủ yếu đi vào hai mảng chủ đề đạo đức và
pháp luật. Sau hai năm thí điểm kết hợp "giáo dục trên lớp" và "giáo dục ngoài giờ lên
lớp", chương trình thể nghiệm đã thu được những ý kiến phản hồi từ phía giáo viên môn
Giáo dục công dân, các em học sinh... cho thấy tính khả thi của chương trình. Phương châm
lấy học đi đôi với hành trong môn học này nói riêng đang là hướng đi đúng của Bộ Giáo dục
và Đào tạo thực hiện cải cách giáo dục theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2.
Song, để hình thành nhân cách văn hóa cho học sinh VTN trong đó không chỉ
học sinh cấp II mà còn bao gồm cả học sinh cấp III, không chỉ giáo dục đạo đức, pháp
luật mà nhiệm vụ chúng ta còn phải đưa văn hóa vào nhà trường phổ thông bằng cách
giáo dục tích hợp, lồng ghép các môn học trên lớp, và quan trọng hơn cả là hoạt động
làm sao tạo ra một môi trường văn hóa học đường, lối sống văn hóa học đường và
những nhân cách văn hóa trong học đường (nhân cách người thầy, nhân cách người
học sinh...).
Hơn một năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo và tổ chức thực hiện cuộc
vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" trong nhà trường phổ thông
cũng bước đầu tạo ra chuyển biến có tính chất toàn diện nhằm thực hiện những tiêu chí
xây dựng phát triển đời sống văn hóa trong nhà trường cũng như tiêu chí để đánh giá
"Trường học có đời sống văn hóa tốt" được đặt ra sau khi 2 Bộ văn hóa thông tin và Bộ
Giáo dục và Đào tạo ký văn bản phối hợp số 2723/CTCT) ngày 12-4-2001.
Để tổ chức các hoạt động văn hóa lớn trong ngành, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có
sự phối hợp với nhiều bộ ngành, đoàn thể, đơn cử như chương trình phối hợp với Trung
ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương hội sinh viên, hội nhạc sĩ
Việt Nam... Sáng tác bài hát mang tên "tuổi trẻ nhà trường", hội thi tiếng hát học sinh
phổ thông v.v... Dự án "sân khấu học đường" hiện đang được thí điểm tại 3 tỉnh: Bắc
Giang, Thanh Hóa, Hà Nam (theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ). Được
biết trong tương lai dự án này sẽ được Bộ Giáo dục và Đào tạo nhân rộng quy mô.
Nhìn chung, những chuyển biến ban đầu về cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa" trong trường học được nhận diện rõ nhất là việc tổ chức các
hoạt động văn nghệ, ngoài ra là một số hoạt động văn hóa như phong trào thi đua "Dạy
tốt, học tốt", cuộc vận động "kỷ cương - tình thương - trách nhiệm" phong trào xây dựng
trường học văn minh... Tuy nhiên để xây dựng một môi trường văn hóa - giáo dục lành
mạnh, ngăn ngừa và đẩy lùi tệ phản văn hóa xâm nhập học đường, tạo dựng lối sống, nếp
sống văn hóa, nhân cách văn hóa trong học đường đang và sẽ là một nhiệm vụ nặng nề
của ngành giáo dục - đào tạo. Dẫu sao, những cố gắng mà Bộ Văn hóa thông tin và Bộ
Giáo dục và Đào tạo phối hợp đưa việc xây dựng đời sống văn hóa trong trường học đang
góp phần đưa lại những dấu hiệu khả quan và từng bước được thực thi.
Chương 3
Những biện pháp giáo dục giá trị truyền thống
văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta khẳng định và chủ trương:
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phải coi trọng việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, giữ gìn
bản sắc dân tộc, nghĩa là giải quyết một cách khoa học, bảo đảm sự hài hòa giữa hiện đại và
truyền thống, lấy con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Điều đó cũng có nghĩa
quan điểm của Đảng ta, một mặt, không chỉ nhìn truyền thống văn hóa dân tộc như cái gì đó
bất biến, cố hữu mà mặt khác, cần biết giải quyết tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện
đại: "phát huy tới mức tối đa sức mạnh, nội sinh của dân tộc, vừa tiến lên văn minh hiện đại,
vừa giữ gìn được bản sắc dân tộc, tạo lập con đường phát triển ổn định và bền vững. Đó là
phương thức của sự phát triển lấy truyền thống làm cơ sở tiến lên hiện đại, ngược lại, trên cơ
sở hiện đại nâng cao và làm phong phú truyền thống, không ngừng tăng cường tiềm lực nội
sinh.
Từ quan điểm của Đảng ta trên đây, nhiệm vụ của chúng ta, đặc biệt hai ngành
Giáo dục và Văn hóa phải hiện thực hóa được Nghị quyết Trung ương Đảng vào cuộc
sống. Nói như GS.TS Phạm Minh Hạc "một nhiệm vụ quan trọng của Giáo dục - đào tạo
(nhà trường, gia đình, xã hội) là phải làm chuyển các tri thức cung cấp cho học sinh, sinh
viên thành vốn văn hóa của mỗi người: nhân cách văn hóa, nếp sống và lối sống văn hóa
(nhất là ứng xử văn hóa, thái độ văn hóa trong cư xử giữa con người và con người, con
người với gia đình, cộng đồng và xã hội, với môi trường tự nhiên) [21, tr. 3].
Ngay từ ngày 15-3-1994 hai Bộ Văn hóa thông tin và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
ký Thông tư liên Bộ về việc "Phối hợp đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
thông tin trong trường học".
Ngày 21-8-1996 hai Bộ cũng đã ký thông tư liên bộ về "Phối hợp đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên Âm nhạc - Mỹ thuật phục vụ giáo dục thẩm mỹ cho học sinh mẫu giáo,
phổ thông".
Văn bản được ký kết gần đây nhất nhằm triển khai cuộc vận động văn hóa lớn mang
tên "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" là kế hoạch phối hợp (số 2723/CTCT)
do Bộ trưởng của hai Bộ ký vào ngày 12-4-2001 nhằm đưa ra những tiêu chí xây dựng phát
triển đời sống văn hóa trong nhà trường và tiêu chí để đánh giá "Trường học có đời sống
văn hóa tốt".
Như trên đã có lần giải trình, việc giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho học
sinh vị thành niên có thể thực hiện được cả ở phần lý thuyết, phần thực hành, bằng cả
những biện pháp giáo dục chính khóa và những biện pháp giáo dục ngoài trường, lớp.
Dưới đây, xin kiến nghị cụ thể hóa thông qua bốn loại biện pháp giáo dục lớn như sau:
3.1. Những biện pháp giáo dục lý thuyết ở phần chính khóa
Biết là không đủ điều kiện hiện nay để thiết lập một Môn học riêng về "Giáo dục
truyền thống văn hóa Việt Nam", ở đây chỉ xin đề nghị: Cho bổ sung thêm một Bài học
hoặc bổ sung nội dung "giáo dục truyền thống văn hóa Việt Nam" xen vào hệ thống bài
học của các Môn: Văn học nghệ thuật Việt Nam; Lịch sử Việt Nam; Giáo dục công dân
(giáo dục đạo đức; giáo dục pháp luật); giáo dục thể chất.
Chẳng hạn, có thể cụ thể hóa (theo sơ đồ):
Các chủ đề giáo STT Yêu cầu bổ sung nội dung dục, các môn học
- Đại cương về truyền thống văn hóa Việt Nam; đại 1 Với môn văn học,
nghệ thuật Việt Nam cương về khuôn mẫu văn hóa ứng xử Việt Nam.
- Lối sống, lẽ sống, tình thương, đạo lý ứng xử đậm
bản sắc truyền thống văn hóa Việt Nam - qua những
tác phẩm và tác giả lớn về văn học, nghệ thuật, kiến
trúc Việt Nam, qua những di sản văn hóa nghệ thuật
dân gian Việt Nam.
- Khí phách, tâm hồn, lối tư duy, tài ứng xử đặc sắc 2 Với môn Lịch sử
Việt Nam truyền thống văn hóa Việt Nam - qua những chiến
Các chủ đề giáo STT Yêu cầu bổ sung nội dung dục, các môn học
công anh hùng, từng chặng đường lịch sử dân tộc và
qua những danh nhân lịch sử của đất nước Việt Nam.
- Truyền thống trân trọng lịch sử của người Việt Nam.
- Đại cương về phong hóa và khuôn mẫu văn hóa 3 Giáo dục công dân
ứng xử Việt Nam - xưa và nay. 3.1. Giáo dục đạo
đức - Đạo lý văn hóa gia đình, văn hóa cộng đồng, lòng
nhân ái, tình yêu đất nước đậm sắc thái truyền thống
văn hóa Việt Nam - qua những khuôn phép ứng xử
của người Việt Nam - Những điểm tích cực và những
điều hạn chế. Sự lựa chọn định hướng giá trị đạo đức
cho tương lai công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2. Giáo dục pháp - Đạo lý công dân trong truyền thống văn hóa Việt
luật Nam xưa và nay;
- Những khuôn phép văn hóa ứng xử pháp luật
truyền thống Việt Nam xưa và nay - qua những luật,
lệ, hương ước, tập quán pháp - Những tích cực và
những tiêu cực. Sự lựa chọn khuôn phép ứng xử
pháp luật của con người Việt Nam hiện nay.
- Truyền thống thượng võ, dũng cảm của người Việt 4 Giáo dục thể chất
Nam xưa và nay.
- Tài dụng võ, nghệ thuật luyện hình, đức dụng võ,
phép dụng võ đặc trưng sắc thái văn hóa Việt Nam.
3.2. Những biện pháp giáo dục thực hành khuôn mẫu văn hóa ứng xử (ở phần
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp)
ở đây, chúng ta sẽ áp dụng phương pháp công tác giáo dục - văn hóa (cũng có
nghĩa là công tác văn hóa quần chúng hay công tác giáo dục ngoài nhà trường - éducation
extrascolaire) vốn đã được tiến hành, lâu nay ở nước ta. Khái niệm công tác giáo dục -
văn hóa cần được hiểu cả trên hai bình diện: Giáo dục những định hướng giá trị văn hóa
cho quần chúng, và giáo dục quần chúng bằng những giá trị văn hóa, hình thức, phương
tiện văn hóa - Giáo dục theo cách văn hóa. Do đó, nó cũng có những khác biệt với cách
sư phạm nhà trường. Hơn nữa, nội dung giáo dục giá trị truyền thống thông qua những
khuôn mẫu văn hóa ứng xử không phải chỉ là giáo dục kiến thức, mà chủ yếu là giáo dục
cách thực thi, nó khác với các môn giáo dục khác, cho nên rất khó áp dụng cách giáo dục
sư phạm.
Phương pháp giáo dục - văn hóa thực chất là kết hợp giáo dục và tự giáo dục,
trong đó tự giáo dục là chính. Nó tiến hành giáo dục thông qua những hoạt động văn hóa,
những hình thức tổ chức tiếp xúc văn hóa của quần chúng. Nó không có thầy dạy - người
giáo dục và người được giáo dục cũng đều là công chúng tự họ, dưới sự dẫn dắt phương
pháp thực hiện của người "đầu trò". Người "đầu trò" ấy có thể là thầy giáo, cô giáo, có
thể là một cán bộ đoàn thể, cán bộ văn hóa, và nhiều trường hợp đó chính là các em, các
anh, chị đầu đàn trong nhóm hoạt động đó. Phương pháp giáo dục - văn hóa có thể thực
hiện được theo cả ba hình thức: đại chúng, nhóm và cá biệt, trong đó hiệu quả tối ưu là
hoạt động theo nhóm, theo lớp. Điều này cho thấy rất thuận lợi cho những chương trình
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đối với các em học sinh vị thành niên. Vì các em đã
có thầy, cô, cán bộ Đoàn dẫn dắt; và chính trong các em học sinh phổ thông cấp II, cấp
III tuổi đang lớn, có rất nhiều em nhanh nhẹn, năng động, có lắm sáng kiến thông minh
để khởi xướng chương trình hoạt động cho chính mình và đủ khả năng đứng ra làm "đầu
trò".
Phương pháp giáo dục - văn hóa chính là biện pháp dùng để "học mà chơi, chơi
mà học". Học bằng những cách chơi - văn hóa, chơi có văn hóa, thông qua những hình
thức hoạt động văn hóa, văn nghệ, trò chơi thú vị, hấp dẫn để mà chơi vừa cũng để mà
học, để gợi dậy và hoàn thiện những tiềm năng tinh thần và định hướng - giá trị vốn có
trong văn hóa cá nhân của các em học sinh qua giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường.
Cái được học nằm ở chiều sâu, ở bề đọng lại, không trông thấy, nhưng cái được chơi thì
lại lộ diện ra, vui vẻ, sảng khoái, khiến các em càng thêm thích thú, ham "chơi để mà
học". Nếu chúng ta cho tổ chức được nhiều chương trình, hình thức, nhiều sự "chơi - văn
hóa" vừa phong phú, lành mạnh, văn minh, thú vị, hấp dẫn, tin chắc sẽ thu được hiệu quả
giáo dục tốt về những khuôn mẫu văn hóa ứng xử cho các em.
Phương pháp giáo dục - văn hóa thuộc loại giáo dục thường xuyên (éducation
permanente) và giáo dục đa năng (poly-fonetion). Nó có thể thực hiện nội dung giáo dục
tổng hợp và cũng có thể thực hiện giáo dục theo chủ đề hay chuyên đề. ở đây, khó có thể
nói giáo dục tổng hợp và giáo dục chuyên đề, chủ đề - cách nào thì tốt hơn, hiệu quả hơn.
Tùy theo từng trường hợp để xử lý phương pháp, không nên chỉ thiên nặng duy vào một
loại phương pháp giáo dục tổng hợp hay giáo dục theo chủ đề. Nhất là đối với giáo dục
khuôn mẫu văn hóa ứng xử, rất khó có thể áp dụng thiên về một cách giáo dục theo chủ
đề hay chuyên đề, càng rất khó để xếp lịch giáo dục "dứt điểm" theo từng chủ đề, hết chủ
đề này sang chủ đề khác được.
Bởi phương pháp giáo dục - văn hóa là loại phương pháp "sự chơi - văn hóa" -
chơi để mà học, học để mà chơi - cho nên có thể đưa ra tiến hành được cho mọi loại đối
tượng chơi: lớn, nhỏ, học vấn cao thấp khác nhau, học sinh sinh viên lớp nào cũng muốn
chơi và chơi được. (ở đây, nó chỉ có sự khác nhau về hình thức tổ chức chơi và nội dung
để chơi). Do vậy, để giáo dục ngoài giờ lên lớp về khuôn mẫu văn hóa ứng xử, chúng ta
nên cho sử dụng ổn định, như nhau đối với cả cấp II và cấp III, qua từng năm, từng lớp,
theo một số loại hình hoạt động cơ bản trong phương pháp giáo dục - văn hóa. (Cũng cần
phải nhắc lại để khỏi quên: chỉ khác nhau giữa các cấp, các lớp về cách thức, hình thức tổ
chức và nội dung hoạt động sao cho phù hợp từng lúc với từng đối tượng - Và điều này
thì chủ yếu do những người "đầu trò" đề xướng ra).
Từ những điều nêu trên, xin đề nghị đưa vào chương trình hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp về khuôn mẫu văn hóa ứng xử cho học sinh vị thành niên (cấp II, cấp III)
một số loại hình giáo dục - văn hóa cơ bản sau đây:
3.2.1. Cho thành lập và tổ chức hoạt động các loại "Nhóm câu lạc bộ"
Đây là một loại hình hoạt động giáo dục - văn hóa rất quen thuộc được phát triển
phổ biến ở nước ta trong mấy chục năm nay. Đối với các em học sinh đang học ở trường,
tin chắc là các em sẽ rất thích và do đó sẽ rất thuận lợi trong việc tổ chức loại hình hoạt
động này. Vì nhóm câu lạc bộ được thành lập dựa theo nhu cầu sở thích, sở nguyện, và
nó mang tính chất tự nguyện, tự giác, không gò bó.
Hình thức "nhóm câu lạc bộ" rất linh động, như một khái niệm "mở" - có loại
nhóm lớn, loại nhóm nhỏ; có loại nhóm chính thức hóa và loại nhóm phi hình thức; có
những nhóm câu lạc bộ có khả năng tồn tại hoạt động tương đối lâu dài và có những
nhóm chỉ có thể tồn tại hoạt động trong thời gian ngắn; danh xưng "nhóm câu lạc bộ cũng
có thể được gọi theo những tên khác nhau; tổ, đội, hội, nhóm, lớp v.v... Một hình thức
hoạt động khác có điều kiện thuận lợi để linh động, cơ động tổ chức loại hình hoạt động
ngoài giờ này ở nhà trường. Ví dụ mỗi lớp có thể tổ chức một hoặc vài ba nhóm câu lạc
bộ khác nhau. Mỗi lớp này có thể tổ chức nhóm câu lạc bộ liên thông thành viên với các
lớp trên hoặc lớp dưới. Nhóm câu lạc bộ lớp này có thể tiếp tục phát triển hoạt động khi
được chuyển lên lớp học lớp trên; hoặc nhập vào hoạt động với các nhóm câu lạc bộ sẵn
có của lớp trên trước đây v.v...
Chức năng của nhóm câu lạc bộ thể hiện trên cả ba phương diện: Sáng tạo văn
hóa, giáo dục học tập - văn hóa và trình diễn văn hóa nhằm vào mục đích chung rèn luyện
nhân cách văn hóa. Điều này cũng rất phù hợp cho phép hoạt động giáo dục ngoài giờ của
nhà trường có thể tổ chức ra nhiều loại nhóm câu lạc bộ để thực hiện cả việc nghiên cứu sưu
tầm sáng tạo cải tiến những khuôn mẫu văn hóa ứng xử, cả việc học tập rèn luyện và cả việc
thực thi trình bày những khuôn phép hành vi ứng xử mẫu mực trước đông đảo cử tọa.
Dưới đây, xin gợi ý xây dựng một số loại nhóm câu lạc bộ có nội dung giáo dục
văn hóa ứng xử cho học sinh VTN ở các trường phổ thông trung học, trung học cơ sở
nước ta hiện nay:
- Nhóm câu lạc bộ du khảo, khảo cứu văn hóa ứng xử (của các dân tộc hiện đang
sinh tụ trên địa bàn, quanh địa bàn mình).
- Nhóm câu lạc bộ "hiếu học", "tôn sư trọng đạo".
- Nhóm câu lạc bộ văn hóa ứng xử gia đình.
- Nhóm câu lạc bộ "tạo dáng cá nhân".
- Nhóm câu lạc bộ "tình thương".
- Nhóm (đội, Hội) câu lạc bộ tình nguyện (xây dựng văn hóa cộng đồng, xây
dựng cảnh quan văn hóa, môi trường văn hóa cộng đồng dân cư quanh địa bàn).
- Nhóm câu lạc bộ "rèn chữ, rèn người".
- Nhóm câu lạc bộ vật võ truyền thống.
- Nhóm câu lạc bộ du khảo "cội nguồn".
- Nhóm câu lạc bộ "dân ca Việt Nam".
- Nhóm câu lạc bộ "Trò chơi trí tuệ".
- Nhóm câu lạc bộ "Thẩm mĩ trang diện dân tộc".
- Nhóm câu lạc bộ (Hội những học sinh) "lời hay ý đẹp".
- Nhóm câu lạc bộ "Du ca đồng quê".
- Nhóm câu lạc bộ "v.v... và v.v...".
Nói chung, mọi lớp từ trung học cơ sở đến phổ thông trung học đều có thể xây
dựng các loại nhóm câu lạc bộ kể trên, hoặc còn có thể sáng tạo thêm một số câu lạc bộ
khác tương tự. Tuy vậy, tùy điều kiện thời gian hoạt động ngoài giờ cho phép, ở mỗi
trường có thể tùy chọn xây dựng được ít hay nhiều trong số các loại câu lạc bộ tương tự
kể trên; chọn xây dựng những câu lạc bộ nào phù hợp nhất và dễ tổ chức nhất với trình
độ và sở thích, sở nguyện của các học sinh trường ấy. Vấn đề này không thể áp dụng rập
khuôn máy móc nơi nào cũng như nhau, và cũng không thể áp dụng theo cách lượng hóa,
kế hoạch hóa, chương trình hóa bắt buộc cụ thể được. Nó còn tùy thêm nữa ở trình độ tổ
chức và cơ sở vật chất để xây dựng câu lạc bộ. Có những trường có đủ các thầy, cô giỏi
trình độ tổ chức hoạt động câu lạc bộ, lại có đủ cơ sở vật chất thuận tiện. Nhưng có
những trường lại còn rất thiếu, yếu về các phương diện này.
Do vậy, để xây dựng thành công loại hoạt động câu lạc bộ này, chúng ta nên tiến
hành đồng thời theo cả hai phương án. Một là, bản thân mỗi trường cố gắng tự lực xây
dựng được vài ba nhóm câu lạc bộ nào đó mà mình thấy có thể làm được. Đồng thời, và
cũng là phương án tối ưu, các trường, lớp cần phối hợp và khai thác viện trợ giúp đỡ của
Đoàn Thanh niên Cộng sản, các cơ quan văn hóa, nhà văn hóa, câu lạc bộ ở địa phương
địa bàn mình. Nhờ họ giúp đỡ hướng dẫn cả về phương pháp xây dựng câu lạc bộ và cả
về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động câu lạc bộ của nhà trường, của các em. Chỉ có sự
phối hợp và tranh thủ viện trợ như vậy, các trường, lớp mới xây dựng được nhiều loại câu
lạc bộ và hoạt động câu lạc bộ mới đạt hiệu quả đáng mong muốn.
3.2.2. Cho tiến hành nhiều cuộc thi, diễn, viết, vẽ... về đề tài, nội dung giáo
dục khuôn mẫu văn hóa ứng xử
Biện pháp này có thể đem áp dụng được cho mọi lớp từ cấp II đến cấp III. Nó
không thể đem tiến hành thường xuyên theo lịch học hàng ngày, hàng tuần được. Chủ
yếu là tiến hành theo từng kỳ dịp nhất định - chẳng hạn: trong dịp học hết một môn xã hội
nhân văn, khi kết thúc một học kỳ, trong dịp sinh hoạt hè, nhân một lễ kỷ niệm nào đó,
nhân ngày 20-11, nhân một cuộc phát động, vận động nào đó, nhân dịp tham gia hội thi
nào đó với địa phương, v.v...
Với nội dung giáo dục khuôn mẫu văn hóa ứng xử, chúng ta có thể đề xướng tổ
chức nhiều hình thức Thi, Diễn, Viết, Vẽ,... thú vị, hấp dẫn, có khả năng thu hút được
đông đảo học sinh các lớp tham gia tự nguyện và dần dần sẽ trở thành nếp phong trào.
Chẳng hạn:
* Về Thi: ở đây có hai loại Thi: Thi kiến thức và thi thể hiện hành vi ứng xử văn
hóa.
Thi kiến thức, có loại là do thầy giáo, cô giáo ra bài thi, hỏi các kiến thức về giá
trị truyền thống văn hóa, khuôn mẫu văn hóa ứng xử, tìm hiểu giá trị truyền thống văn
hóa qua văn hóa dân gian: Ca dao tục ngữ, các thành ngữ Việt Nam, văn học dân gian hội
lễ dân gian... và kết quả đánh giá là bằng điểm, hoặc bằng giấy khen của nhà trường. Còn
có loại thi kiến thức văn hóa ứng xử là do Đoàn Thanh niên, các Câu lạc bộ, các Thư viện
chủ xướng và kết quả đánh giá thường là bằng phần thưởng vật chất.
Còn Thi thể hiện ứng xử văn hóa, thì rất phong phú nhiều hình thức khá hấp
dẫn. Ví dụ: Thi trang điểm, trang phục; thi hùng biện lời hay ý đẹp; Thi con ngoan, trò
giỏi; Thi viết chữ đẹp (thi mĩ tự); Thi xử lý tình huống (sự cố); Thi đọc sách, kể sách có
chủ đề ứng xử; thi cắm hoa có chủ đề ứng xử; Thi các kiểu chào, hỏi, các nghi thức ứng
xử; v.v... Các hình thức thi này thường kết hợp xen lẫn cả thi kiến thức ứng xử và hình
thức ứng xử. Tổ chức các cuộc thi này thường là phối hợp giữa nhà trường, đoàn Thanh
niên và cơ quan văn hóa địa phương thì kết quả tốt hơn. Đánh giá kết quả các cuộc thi
này thường là bằng phần thưởng vật chất, huy chương, huy hiệu, giấy khen, tặng hoa.
* Về Diễn: ở đây, khái niệm "Diễn" vừa có nghĩa biểu diễn, trình diễn, vừa có
nghĩa trưng bày. Cho nên, các cuộc diễn văn hóa ứng xử cũng có nhiều hình thức. Chẳng
hạn, trình diễn văn nghệ có chủ đề ứng xử; triển lãm tranh, ảnh, hiện vật có chủ đề ứng
xử; trình diễn võ thuật dân tộc; trình diễn, hoặc trưng bày, các mẫu trang phục dân tộc,
các kiểu đầu tóc đẹp Việt Nam; các kiểu viết chữ đẹp, các kiểu thi pháp Việt Nam; v.v...
Những hình thức "diễn" này, nếu để riêng tự lực nhà trường thì khó tổ chức được, cho
nên rất cần có sự phối hợp từ nhiều phía.
* Về Viết, Vẽ: ở đây, Viết có hai loại: Viết để đăng ở báo tường của trường, lớp;
viết để đưa đăng ở báo, đài. Còn Vẽ, cũng có hai loại như vậy: để trưng bày ở trường lớp
và vẽ để tham dự các cuộc thi, trưng bày của các cơ quan văn hóa địa phương.
3.3. Những biện pháp giáo dục văn hóa ứng xử của Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh nhà trường
Trong điều kiện của nhà trường phổ thông hiện nay, do hoàn cảnh khó khăn về
cơ sở vật chất, ngặt nghèo về thời gian dạy, học, công tác, mặt khác, do công tác Đoàn
cũng là kiêm nhiệm, vừa làm công tác Đoàn vừa làm GV, nên quả là rất khó để tổ chức
thêm những biện pháp tự lực riêng của Đoàn để giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh.
ở đây, nhiệm vụ chủ yếu của Đoàn là phối hợp với các giáo viên từng lớp trong
Trường và phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản địa phương, các cơ quan văn hóa địa
phương để thực hiện có hiệu quả các biện pháp giáo dục - văn hóa kể trên. Mặt khác,
Đoàn có thể bàn với các giáo viên phân công nhau, tùy theo điều kiện và khả năng, mỗi
bên đảm trách tiến hành xây dựng một số loại nhóm câu lạc bộ và một số loại hình hoạt
động nhất định. Ngoài ra, trong công tác Đoàn có thể chủ động, tự lực, trực tiếp tiến hành
một số loại hình hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử mang tính chất đặc thù của đoàn,
như: xây dựng các nghi thức ứng xử của Đoàn; thi, diễn, viết, vẽ về các nghi thức ứng xử
của Đoàn; Tổ chức các cuộc hội thảo về văn hóa ứng xử; tìm hiểu văn hóa ứng xử của
thanh niên, học sinh ở nước ngoài; tổ chức các cuộc hỏi - đáp, đối thoại dân chủ về văn
hóa ứng xử trong điều kiện xã hội ta ngày nay; tổ chức các cuộc dã ngoại, du khảo văn
hóa ứng xử; tổ chức các hội, nhóm nhân đạo, từ thiện, tình nguyện xây dựng môi trường
văn hóa và đời sống cộng đồng, giúp đỡ trẻ em cơ nhỡ, tật nguyền, mắc tệ nạn; giúp dạy
bình dân học vụ, v.v... Tóm lại, cần văn hóa hóa các hình thức biện pháp sinh hoạt giáo
dục văn hóa ứng xử của Đoàn.
Khái quát chung các loại giải pháp, biện pháp giáo dục văn hóa ứng xử cho học
sinh vị thành niên ở nhà trường luôn luôn cần được tiến hành với tính chất tổng hợp, theo
phương thức phối hợp và xã hội hóa, quần chúng hóa.
3.4. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống tiếp cận vào lối sống, đạo đức, sức
khỏe và phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh vị thành niên trong nhà trường
3.4.1. Khái niệm về kỹ năng sống
- Kỹ năng sống được hiểu như là khả năng tâm lý xã hội của mỗi cá nhân có thể
có được trong việc giải quyết và ứng phó một cách tích cực với thử thách của cuộc sống
thường ngày, hay nói cách khác đó còn là khả năng của mỗi cá nhân để duy trì một trạng
thái tinh thần khỏe mạnh và thể hiện trong hành vi thích nghi và tích cực của cuộc sống
thường nhật.
Kỹ năng sống vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội, nó rất cần thiết đối
với VTN để họ có thể ứng xử tự tin, chủ động và hoàn tiện hành vi của bản thân mình
trong giao tiếp và giải quyết vấn đề với mọi người và cộng đồng.
Ngày nay càng ngày ta càng thấy rõ là với sự thay đổi về nền kinh tế, văn hóa và
lối sống, nhiều thanh thiếu niên thiếu sự hỗ trợ cần thiết để tăng cường và xây dựng các
kỹ năng sống. Vì vậy chúng không đáp ứng kịp thời, những đòi hỏi và sự căng thẳng
ngày càng tăng của xã hội. Điều đó có thể gây ra những tổn hại về mặt thể chất và tinh
thần. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống là để phát triển lối sống lành mạnh, việc giảng
dạy kỹ năng sống cần phải được phối hợp với các kiến thức cơ bản mang tính chất tâm lý
xã hội, văn hóa.
Vì vậy mục tiêu cơ bản của giáo dục kỹ năng sống nhằm phát triển ở học sinh
những giá trị và những kỹ năng trong cuộc sống ví dụ cách giải quyết, phân tích, đánh giá
và lựa chọn những vấn đề; những kỹ năng ấy có khả năng đưa đến một phong cách sống
tích cực, có trách nhiệm và lành mạnh.
3.4.2. Vai trò của giáo dục kỹ năng sống
Con người là một sự pha trộn phức tạp giữa kiến thức, kỹ năng, thái độ và hành
vi. Con người thường xuyên phải giao tiếp, trao đổi với những người xung quanh, với thế
giới nội tâm của họ, và với môi trường xung quanh nói chung. Do vậy, trong quá trình
phát triển khi những đứa trẻ trở thành thiếu niên và người lớn, chúng cần phải có kiến
thức, kỹ năng và thái độ để có thể giúp cho chúng tự kiểm soát được bản thân và môi
trường xung quanh một cách thành thạo. Giáo dục kỹ năng sống sẽ mang lại cho VTN
những điều hiểu biết quan trọng, cần thiết để hiểu được điều đó.
Giáo dục kỹ năng sống sẽ mang lại những lợi ích sau đây:
Về mặt sức khỏe:
1) Giáo dục kỹ năng sống phối kết hợp các nhân tố tâm lí và nhân tố xã hội sẽ
góp phần xây dựng hành vi lành mạnh.
2) Việc tiến hành giáo dục kỹ năng sống ở trường học sẽ giải quyết được nhu cầu
của VTN để chúng được phát triển.
3) Việc nâng cao các kỹ năng cá nhân và các kỹ năng xã hội nhằm mục đích tạo
khả năng cho mỗi cá nhân có khả năng bảo vệ sức khỏe cho chính mình cũng như cho
mọi người trong cộng đồng.
Về mặt giáo dục:
1) Việc giáo dục kỹ năng sống theo phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm sẽ có những tác động tích cực với:
- Mối quan hệ giữa thầy và trò.
- Hứng thú học tập của học sinh.
- Sự hoàn thành công việc của giáo viên một cách có hiệu quả và sáng tạo.
- Hạ thấp tỷ lệ bỏ học của học sinh.
- Đề cao chuẩn mực đạo đức của người giáo viên góp phần nâng cao vị trí của
nhà trường trong xã hội.
2) Kỹ năng sống tác động lên những môn học mang tính xã hội, khích lệ việc sử
dụng những phương pháp dạy học tích cực, đề cao vai trò tham gia chủ động, tự giác của
học sinh và vai trò chủ đạo của thầy giáo.
3) Học sinh cảm thấy họ được tham gia vào những vấn đề có liên quan đến cuộc
sống của bản thân, họ sẽ thích thú và học tập tích cực hơn.
Về mặt văn hóa - xã hội:
Giáo dục kỹ năng sống có thể thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực
và do vậy sẽ giảm bớt tỷ lệ phạm pháp, giảm bớt tỷ lệ có thai và lạm dụng tình dục,
nghiện ma túy ở tuổi VTN. Khích lệ lối sống lành mạnh.
Giáo dục kỹ năng sống giúp xác định rõ nhu cầu của VTN khi chúng lớn lên
trong một xã hội hiện đại.
Giáo dục kỹ năng sống có giá trị đặc biệt rõ rệt đối với thanh thiếu niên lớn lên
trong một xã hội văn hóa đa dạng, nền kinh tế phát triển và thế giới là một cộng đồng
quốc tế lớn.
Về mặt kinh tế, chính trị:
Giáo dục kỹ năng sống chính là giáo dục giúp hình thành những phẩm chất mà các
nhà kinh doanh và các nhà quản lý kinh tế trong tương lai cần có.
Giáo dục kỹ năng sống giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền của trẻ em.
Điều đó giúp Nhà nước đề ra được các chính sách để thực hiện công ước quốc tế về
quyền trẻ em và luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em một cách hợp lý.
Bên cạnh việc cho các em hiểu về các quyền của chúng, các em cũng sẽ xác định
được nghĩa vụ cao cả của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội. Điều này có ý nghĩa
to lớn đối với việc củng cố sự ổn định về chính trị của mỗi nước.
3.4.3. Cần trang bị cho học sinh những kỹ năng nào
Việc giáo dục kỹ năng sống cần đi vào nhu cầu của học sinh VTN. Những nhu
cầu đó phải luôn phù hợp với đòi hỏi của một nền văn hóa, một nền tảng xã hội và môi
trường sống cụ thể.
Song cần nhớ rằng để đạt được hiệu quả mong muốn, giáo dục kỹ năng sống
không thể thách rời nội dung chương trình giáo dục cụ thể. Ví dụ:
- Giáo dục công dân, văn học, lịch sử...
- Giáo dục thể chất.
- Giáo dục phòng tránh HIV/AIDS.
- Giáo dục ngăn chặn việc sử dụng ma túy.
- Giáo dục ngăn chặn việc lạm dụng tình dục và có thai ở thành viên.
- Giáo dục giới tính, dân số và kế hoạch hóa gia đình.
- Giáo dục lòng yêu hòa bình, ngăn chặn bạo lực v.v...
Để phù hợp với nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho tuổi VTN
dạy trong chương trình thử cần đi vào những kỹ năng chính sau đây:
- Kỹ năng giao tiếp tự nhận thức (tự nhận thức và tự đánh giá, lắng nghe tích cực,
giao tiếp bằng lời và không lời - cảm thông).
- Kỹ năng ra quyết định (suy nghĩ sáng tạo, suy nghĩ cách giải quyết vấn đề...).
- Kỹ năng xác định giá trị (chính kiến, thái độ, niềm tin, lòng tin, lòng chung thủy
trong tình bạn, tình yêu).
- Kỹ năng kiên định (từ chối một cách cương quyết, biết rõ đúng mình và người
khác, biết ứng xử với những người khác).
-Kỹ năng đặt mục tiêu: (xác định mục tiêu ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, các bước
đạt mục tiêu).
Kỹ năng giao tiếp ứng xử - tự nhận thức
- Giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa các cá nhân.
+ Khi trẻ VTN lớn lên, chúng phải phát triển những mối quan hệ với:
. Những người lớn có vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng như bố mẹ,
họ hàng, thầy cô giáo, v.v...
. Bạn bè đồng lứa trong và ngoài trường học.
. Những con người mà chúng gặp gỡ trong cuộc sống, bạn bè của bố mẹ, những
nhà lãnh đạo địa phương, những người bán hàng, hàng xóm, láng giềng.
+ Không phải ai cũng có thể là bạn bè được nhưng bọn trẻ cần phải biết cách đối
xử một cách phù hợp trong từng mối quan hệ, để chúng có thể phát triển tối đa tiềm năng
sẵn có trong môi trường sống của chúng.
- Thiết lập tình bạn
+ ở mức độ bạn bè cùng lứa, đây là một trong những khía cạnh quan trọng nhất
của những mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Một cá nhân cần có nhiều bạn để cùng
chia sẻ cuộc sống, các hoạt động, niềm hy vọng. Việc thiết lập tình bạn bắt đầu từ giai
đoạn sớm nhất của cuộc đời nhưng VTN cần phải nhận biết được tình bạn được hình
thành như thế nào và phải thiết lập và phát triển tình bạn ra sao để cả hai bên cùng có lợi,
thanh thiếu niên cần phải có khả năng nhận biết, để khi cần thiết, khước từ kiểu tình bạn
có thể đưa chúng đến những hành vi nguy hiểm hoặc không cần thiết như uống rượu, sử
dụng ma túy, ăn cắp, ăn trộm và những hành vi tình dục nguy hiểm.
- Sự cảm thông chia sẻ
Bày tỏ sự cảm thông bằng cách tự đặt mình vào vị trí của người khác, đặc biệt
khi thanh thiếu niên phải đương đầu với những vấn đề nghiêm trọng do hoàn cảnh hoặc
do những hành động của chính bản thân chúng gây ra. Điều này có nghĩa là hiểu và coi
hoàn cảnh của người khác như của chính mình và tìm ra cách giảm bớt gánh nặng bằng
cách chia sẻ với những người đó hơn là lên án hoặc coi khinh họ với bất cứ lý do nào. Do
vậy, cảm thông cũng đồng nghĩa với việc hỗ trợ người đó để họ có thể tự quyết định và tự
tin.
- Đứng vững trước sự lôi kéo của bạn bè
Đứng vững trước sự lôi kéo của bạn bè cùng lứa có nghĩa là bảo vệ những giá trị
và niềm tin của bản thân nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc những việc làm trái
ngược của bạn bè cùng lứa. Bạn bè hay đồng nghiệp có thể đưa ra những đề xuất không
thể chấp nhận được hoặc nguy hiểm và có thể gây sức ép buộc người khác phải chấp
nhận. Bản thân cần phải dừng ngay những việc mà họ tin là sai lầm hoặc phải có khả
năng bảo vệ quyết định của mình, dù cho điều này có thể làm họ sẽ bị đe dọa bởi sự chế
nhạo của nhóm bạn. Đặc biệt với VTN bị sức ép để được giống như các thành viên khác
trong nhóm là rất lớn. Do vậy, khi cả nhóm bạn bè gây những ảnh hưởng và thói quen
xấu thì việc phản đối, khước từ bè bạn là một kỹ năng rất quan trọng.
- Kỹ năng xác định giá trị
Kỹ năng xác định giá trị là khả năng xác định những đức tính, niềm tin, thái độ,
chính kiến nào của mình cho là quan trọng là đúng đắn giúp cho ta hành động theo
phương hướng đó. Giá trị ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của mỗi người.
- Kỹ năng ra quyết định giải quyết vấn đề
Mỗi ngày một người đều phải ra nhiều quyết định, có những quyết định tương
đối đơn giản và có thể không ảnh hưởng nghiêm trọng đến định hướng cuộc sống nhưng
cũng có những quyết định nghiêm túc liên quan đến các mối quan hệ, tương lai cuộc
đời...
Trẻ em lớn lên trong thế giới hôm nay phải đối đầu với nhiều vấn đề, thông tin,
mong đợi và đòi hỏi đa dạng, phức tạp và trái ngược của bố mẹ, bạn bè, thầy cô giáo, của
các phương tiện truyền thông đại chúng, của các nhà lãnh đạo, tôn giáo, quảng cáo, âm
nhạc v.v... Những điều này thường xuyên đòi hỏi chúng phải ra quyết định phù hợp. Vì
vậy cũng cần phải có khả năng phân tích một cách phê phán môi trường sống của chúng
và các thông điệp phức tạp với chúng một cách dồn dập.
Tiếp cận với các sự việc mới, phương thức mới, ý tưởng mới, cách sắp xếp và tổ
chức mới đòi hỏi óc tư duy sáng tạo. Điều đó rất quan trọng trong kỹ năng sống bởi vì
con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ và không phải lúc nào cũng
bình thường, trong hoàn cảnh đó đòi hỏi họ phải có sự lựa chọn, óc tư duy sáng tạo để có
thể đáp ứng lại một cách phù hợp.
Giải quyết vấn đề liên quan tới kỹ năng ra quyết định và cần nhiều kỹ năng khác
tương tự. Nhưng chỉ có thể qua thực hành việc ra quyết định và giải quyết vấn đề thì
VTN mới có thể xây dựng được những kỹ năng cần thiết để có thể có những lựa chọn tốt
nhất trong bất kỳ hoàn cảnh nào mà chúng phải đối đầu.
Kết luận
Trẻ VTN là khái niệm được thừa nhận về xã hội văn hóa. Vị thành niên là giai
đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành. Tuổi VTN có hai hiện tượng đặc biệt
khác với các lứa tuổi khác:
- Về sinh lý, đó là tuổi dậy thì và là sự mở đầu của khả năng sinh sản.
- Về thể chất, đó là sự tăng nhanh và kết thúc sự phát triển chiều cao của cơ thể.
Thời kỳ VTN cũng đánh dấu những bước phát triển lớn về mặt xã hội, những
thay đổi về tâm lý, hướng thoát ra từ gia đình vào tập thể cùng lứa tuổi. Tuổi VTN chưa
phải là người lớn nhưng cũng không còn là trẻ con nên tâm sinh lý có những đặc điểm rất
khác biệt so với các nhóm tuổi khác và chỉ xảy ra một lần trong đời. Được hiểu biết về
bản thân và những kỹ năng sống rất được các em quan tâm ở lứa tuổi này.
Ngoài những kiến thức được truyền dạy trên lớp, bản thân các em đã thể hiện sự
quan tâm và mong muốn được học tập, được hiểu biết nhiều hơn nữa những nội dung của
lĩnh vực: giáo dục giới tính (tình bạn, tình yêu và tình dục); giáo dục truyền thống văn
hóa (trong giao tiếp ứng xử, nếp sống, lối sống). Điều này là hết sức cần thiết và bổ ích
cho các em trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Đây cũng là một trong những yếu tố
thuận lợi cơ bản để có thể tăng cường hơn nữa việc giáo dục những kiến thức về giới
tính. Bởi vì, nếu công tác tổ chức giáo dục giới tính cho VTN trong nhà trường (với tư
cách là một thiết chế giáo dục văn hóa chính quy) không tốt, không đầy đủ, chúng ta sẽ
khó lường được hậu quả của lứa tuổi này mắc phải trong điều kiện xã hội đầy biến động
này.
Nếu được giáo dục một cách hệ thống, chất lượng về những khuôn mẫu văn hóa,
về SKSS thì trẻ VTN sẽ được trang bị những tri thức, những chuẩn mực hành vi, những
kỹ năng ứng xử trong đời sống xã hội và gia đình. Nhờ những tri thức hiểu biết đó các em
sẽ có thái độ đúng đắn, trong sáng, đúng mực với người thân trong gia đình, trong tình
bạn, tình yêu, tình dục... và đặc biệt, các em có khả năng tự bảo vệ mình, làm chủ bản
thân, làm lành mạnh lối sống cá nhân, gia đình và môi trường xã hội.
Bởi ở lứa tuổi này những di hại về tâm lý quả là sẽ nặng nề và khó khắc phục
trong tương lai cuộc đời các em sau này.
Sự quan tâm và mong muốn ở mức cao của nhà trường, thầy cô giáo và các bậc
phụ huynh về tăng cường hiểu biết về xã hội, hiểu biết về giá trị truyền thống văn hóa
cho tuổi VTN trong trường phổ thông là rất đáng trân trọng, đó có thể được xem như một
yếu tố thuận lợi cho công tác mở rộng giảng dạy kiến thức giáo dục giá trị truyền thống
văn hóa cho các em ở nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, cũng cần chú ý đến việc giáo dục
chuyên môn một cách hệ thống cho giáo viên chuyên giảng dạy bộ môn này. Cần chú ý
đến vấn đề viết nội dung giáo trình và số tiết sao cho phù hợp vốn lứa tuổi các em. Cũng
cần tránh tình trạng giáo viên giảng dạy kiêm nhiệm, không có một giáo trình chuyên
môn riêng, chỉ có lý thuyết thuần túy trên lớp, thiếu trầm trọng mảng thực hành.
Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho học sinh VTN hiện nay trong nhà
trường cần được quán triệt như một nhu cầu về "nhập thân văn hóa" của một giai đoạn
đặc biệt của đời người: giai đoạn tuổi VTN, giai đoạn thường được hiểu nôm na là "tuổi
nổi loạn".
Đưa giáo dục giá trị truyền thống văn hóa, dân tộc vào nội dung chính khóa giảng
dạy phổ thông ở tuổi VTN là bước đi rất cần thiết, đúng hướng, là giải pháp hàng đầu
hình thành, phát triển nhân cách văn hóa cho thế hệ tương lai, đáp ứng nhu cầu sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước và thời đại.
Kiến nghị
Để giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, qua thực hiện
nghiên cứu đề tài, chúng tôi xin có một số kiến nghị như sau:
1. Nên có sự thống nhất trong việc lựa chọn những giá trị truyền thống văn hóa
đưa vào nội dung giảng dạy tính hợp cho tuổi vị thành niên trong nhà trường hiện nay cả
phương diện lý thuyết và phương diện hoạt động ngoài giờ lên lớp.
2. Cần tạo ra một môi trường văn hóa học đường cho tuổi vị thành niên tiếp thu
và cảm nhận một cách tự nhiên những giá trị truyền thống tốt đẹp, hình thành nhân cách
văn hóa ở lứa tuổi các em.
3. Cần thiết có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ Văn hóa - Bộ Giáo dục và Đào
tạo - Bộ Y tế - các Trung tâm tư vấn Tâm lý, sức khỏe, gia đình. Tổ chức thường xuyên
các hoạt động văn hóa, tham vấn cộng đồng tại trường học, mở "Hòm thư tư vấn" tại
trường để đáp ứng các nhu cầu của các em ở lứa tuổi này.
4. Bộ Văn hóa cần có sự hỗ trợ về tài chính, chuyên môn, nhân lực cho các hoạt
động giáo dục giá trị văn hóa (chương ttình giáo dục toàn diện cho VTN trên truyền hình,
sách báo, các cuộc thi, tham quan lễ hội miễn phí hoặc giảm phí...) nhằm tạo cơ hội để
các em tiếp cận với các giá trị văn hóa, góp phần hình thành nhân cách văn hóa cho lứa
tuổi VTN.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. A.A. Be-lich (2000), "Văn hóa học - những lý thuyết nhân học văn hóa", Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
2. Emily a.Schultz và Robert H. Lavenda (2000), Nhân học, một quan điểm về tình
trạng nhân sinh, Nxb CTQG, Hà Nội.
3. E.V.Xôcôlôp (1972), Văn hóa và nhân cách, Bản dịch tiếng Nga của Hoàng Vinh -
Phòng tư liệu, Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.
4. M.J Herskovits, Nhân học văn hóa và xã hội, Bản dịch tiếng Anh của Dương Đức
Tuấn - Phòng tư liệu, Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.
5. P.K.Bock, Nhân học văn hóa hiện đại, Bản dịch tiếng Anh của PGS Từ Chi. Phòng
tư liệu, Trường Đại học văn hóa, Hà Nội.
6. J.H.Fichter (1973), Xã hội học, Nxb Sài Gòn, Bản dịch tiếng Anh của Trần Văn
Đỉnh.
7. Joa chim Matthes (1994), Một số vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu của
con người - xã hội, Chương trình KX-07, Phòng tư liệu Viện KHGD, Hà Nội.
8. J.Sêpanxki (1969), "Văn hóa", Những khái niệm cơ bản của xã hội học, Bản dịch
tiếng Nga của Hoàng Vinh, Phòng tư liệu, Trường Đạ học Văn hóa, Hà Nội.
9. Đào Duy anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
10. Toan ánh (1969), Phong tục Việt Nam, Nhà sách khai trí, Sài Gòn.
11. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (1986 - 2000), "Một số Văn kiện của Đảng về
công tác tư tưởng - văn hóa", Tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội.
12. Báo Giáo dục và thời đại. Bộ Giáo dục và Đào tạo.
13. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
14. Đỗ Lộc Diệp (2001), Báo cáo tổng hợp của chuyên đề KH-XH 06-09 Chuyên đề:
"Văn hóa và sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở các trung tâm chính của nó", Hà
Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Lê Quý Đức (1995), "Những giải pháp phát huy vai trò của văn hóa gia đình đối
với quá trình nhập thân văn hóa của trẻ em", Thông tin công tác khoa giáo, (số 6).
19. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết
hợp với tinh hoa nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Phạm Minh Hạc (1998), Văn hóa và Giáo dục - Giáo dục và văn hóa, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
21. Trần Đình Hượu (1994), Đến Hiện đại từ truyền thống, chương trình cấp nhà nước
KX-07, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Tập 1, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian với sự phát triển của xã hội Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Phan Huy Lê (chủ biên) (1995), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam
hiện nay, Chương trình KX-07-02, Hà Nội.
25. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập III, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Hà Nội.
27. Nhiều tác giả (1999), Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, Văn phòng Bộ Văn hóa - Thông tin, Báo Văn hóa - Tạp chí VHNT, Hà Nội.
28. Nguyễn Phan Quang (1994), Có một nền đạo lý Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
29. Hà Nhật Thăng (1996), Tổ chức hoạt động giáo dục ở Trường trung học cơ sở, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
30. Hà Nhật Thăng (1998), Giáo dục hệ thống giá trị Đạo đức - Nhân văn, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
31. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
32. Lê Ngọc Trà (2001) (Tập hợp và giới thiệu), Văn hóa Việt Nam, đặc trưng và cách
tiếp cận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Hoàng Trinh (1996), Vấn đề văn hóa và phát triển, Nxb CTQG, Hà Nội.
34. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta,
Nxb Văn hóa, Hà Nội.
35. Từ điển Tiếng Việt (1994), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Trần Quốc Vượng (2000), Nghìn xưa văn hiến, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
phần phụ lục
Giáo dục giá trị truyền thống dân tộc
truyền thống cách mạng - nội dung xuyên suốt
các bộ môn, các hoạt động và môi trường giáo dục
Giá trị có một sức mạnh lạ thường - một chân lý ai cũng biết. Đó là sản phẩm của
sản xuất vật chất và tinh thần tạo nên các kinh nghiệm xã hội qua các thời đại lịch sử,
truyền từ đời này qua đời khác, thế hệ trước giáo dục thế hệ sau lĩnh hội để bản thân mỗi
người trở thành người và làm nên bản sắc dân tộc, bảo đảm sự tồn tại và phát triển đất
nước. Qua giáo dục theo nghĩa rộng của từ này như một con đường có thể coi là chủ đạo
để các giá trị truyền thống dân tộc và cách mạng chuyển tới từng thế hệ, từng con người
hóa thành cốt cách, bản lĩnh và chí khí người Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Các giá trị
truyền thống của các tộc người sống trên đất Việt bảo đảm sự tồn vong của Tổ quốc, bao
giờ cũng gắn liền, kết nối tính dân tộc với tính nhân bản, nhân văn, và là một dòng chảy
liên tục của ý thức dân tộc. Về bản chất, truyền thống luôn luôn có mặt trong hiện đại,
hiện đại là một tầng mới phát triển của truyền thống. Nếu có cái gì đó được ai đó coi là
mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, thì giáo dục phải như là một cầu nối liền truyền
thống - hiện đại như huyết mạch trong cơ thể giải quyết cái gọi là "mâu thuẫn" giữa các
thế hệ. Sứ mệnh của giáo dục chúng ta chính là ở chỗ đó: xây dựng những thế hệ, những
con người văn minh hiện đại có nhân cách văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Hệ thống giá trị truyền thống Việt Nam rất phong phú, đầy sức sống, đã được
lịch sử công nhận và thế giới ngày nay tôn trọng.
Các giá trị truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng là nội dung xuyên
suốt các bộ môn, các mặt hoạt động, mọi môi trường giáo dục cho tất cả các lứa tuổi. Đó
chính là nền tảng của giáo dục nói chung, giáo dục nhân cách Nhân - Trí - Dũng nói
riêng.
Để chấn hưng nền giáo dục nước nhà, cần phải khẳng định hệ thống giá trị, tham
gia giá, thước đo giá trị, trên cơ sở đó làm tốt định hướng giá trị xã hội.
Các giá trị truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng là nội dung giáo dục
xuyên suốt trong giảng dạy tất cả các bộ môn, các cấp học, bậc học, trong mọi hoạt động
giáo dục ở tất cả các trường, đặc biệt trong các bộ môn quốc ngữ, quốc sử, quốc văn và
địa lý quốc gia, tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực hiện
tốt việc giáo dục giá trị, trước hết là giá trị truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng,
dạy đạo làm người cho con em, biến thành vốn quý của mỗi con người, từng gia đình, sức
mạnh, sức mạnh của từng địa phương và cả nước vượt qua mọi thử thách, nguy cơ, tận
dụng thời cơ đổi mới, mở cửa, thị trường, hội nhập, đa phương theo hướng tổng quát thực
hiện nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ tiếp nối cha anh giữ gìn nền độc
lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tinh thần này cần sớm được quán triệt vào việc soát xét, sửa đổi, bổ sung nội
dung, chương trình, sách giáo khoa, có cả các tri thức gộp lại là "địa phương học". Về
mặt phương pháp cả giáo dục trong nhà trường lẫn giáo dục ngoài nhà trường, bằng mọi
cách tổ chức giảng dạy và giáo dục theo tư tưởng chỉ đạo "giáo dục gắn với lao động sản
xuất và nhà trường với xã hội"; đặc biệt đối với học sinh phổ thông trung học, chuyên
nghiệp, dạy nghề, cao đẳng và đại học, phát huy kinh nghiệm tốt của nhà trường chúng
ta, có nhiều cách thức và tạo điều kiện cho sinh viên, học sinh tăng cường thực tế, thực
tập, công tác xã hội, đi về nông thôn, vào nhà máy... Mặt khác, mọi gia đình phải làm tốt
chức năng giáo dục đối với con em mình. Nhiều nét cơ bản của nhân cách, như tính
người, tình người, đều bắt đầu từ đây và từ giáo dục mầm non, tiểu học. Gia đình và giáo
dục gia đình là một giá trị hết sức đặc trưng của nhân loại, nhất là ở phương Đông từ xưa
tới nay. Gia đình có thể và phải là một nơi giáo dục giá trị đạo đức, giá trị truyền thống
tốt nhất. Ngày nay phải tăng cường phổ biến các tri thức khoa học giáo dục đến từng gia
đình và phối hợp chặt chẽ nhà trường với gia đình trong việc giáo dục con em chúng ta.
Toàn xã hội kết hợp với nhà trường và gia đình uốn nắn, bảo vệ và xây dựng một môi
trường giáo dục lành mạnh, tr ong đó người lớn, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo, các
cán bộ quản lý giáo dục phải là tấm gương cho con em noi theo, mau chóng khối phục
nền nếp, kỷ luật, kỷ cương và kiên quyết đẩy lùi mọi tiêu cực trong giáo dục - đào tạo.
Tiếp nối và phát huy các giá trị truyền thống hóa trong một giòng cặp nhật hiện đại chúng
ta có đủ khả năng đưa nhân cách, dân trí, dân khí, nhân lực, nhân tài của từng cộng đồng
và cả dân tộc lên tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu của thời đại công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, văn minh, công bằng cùng với loài người đi vào thiên niên kỷ mới trong một tư thế
vững mạnh.
GS.TS Phạm Minh Hạc
truyền thống dân tộc - di sản văn hóa vô giá
cần được phát huy và giáo dục
cho mọi người Việt Nam hiện nay
1. Trước hết, nói đến "truyền thống của dân tộc" là muốn đề cập tới những giá trị
tinh thần tốt đẹp tạo dựng nên bộ mặt tâm lý dân tộc, có tác dụng tới quá trình phát triển
con người và xã hội Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay và mai sau.
Mỗi dân tộc trên thế giới không chỉ khác nhau về lãnh thổ, về thể chết nhà nước,
trình độ sản xuất, khoa học kỹ thuật... mà khác nhau chủ yếu còn là những giá trị văn hóa
vật thể và phi vật thể. Truyền thống dân tộc, trước hết là di sản văn hóa tinh thần song có
những truyền thống tinh thần được thể hiện qua di sản văn hóa vật thể. Ví dụ "truyền
thống hiếu thảo" của các thế hệ con cháu được thể hiện qua bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi
trang nghiêm nhất trong mỗi gia đình và qua hệ thống đình, chùa nằm dải trên khắp mọi
miền của Tổ quốc để ghi nhớ công đức các bậc tiền nhân của dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Truyền thống của dân tộc phản ánh nhiều mặt của cuộc sống xã hội như: đạo
đức, văn hóa, truyền thống lao động xây dựng đất nước, phản ánh cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm, truyền thống trong giáo dục, truyền thống làng xã, truyền thống gia đình dòng
họ Việt Nam, mỗi vùng, mỗi cộng đồng cũng có những truyền thống riêng biệt về nhiều
mặt.
Cùng với sự phát triển của dân tộc, những truyền thống tốt đẹp đã được các thế
hệ người Việt Nam giữ gìn phát huy và trở thành giá trị vô giá thể hiện bản sắc riêng của
dân tộc. Truyền thống là vẻ đẹp tâm hồn của dân tộc và là sức mạnh của thế hệ hôm nay
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một xã hội công bằng văn minh.
Truyền thống có khả năng điều chỉnh nhận thức tình cảm, thái độ, ý chí và hành
vi của con người trong cuộc sống hàng ngày. Truyền thống giúp mỗi người giải quyết
hàng loạt các mâu thuẫn song song tồn tại trong cuộc sống thường nhật như: quyền lợi và
nghĩa vụ, cá nhân và xã hội, nhu cầu vật chất và tinh thần, giữa ước muốn và năng lực,
giữa thiện và ác, giữa cao thượng và thấp hèn... Đối với mỗi con người trong đời sống,
không phải ở đâu và bất kỳ lúc nào cũng có cơ quan pháp luật giám sát và không phải bất
kỳ điều gì cũng được ghi trong văn bản luật. Nhờ có ý thức con người tự giác thực hiện
những điều do lương tâm mách bảo cần và nên làm phù hợp với đạo lý làm người, phù
hợp với truyền thống của dân tộc.
- Truyền thống có một số đặc trưng cơ bản sau:
+ Đó là những giá trị tinh thần, tư tưởng, tâm lý, đạo đức... tốt đẹp, có tác dụng
củng cố, phát triển quan hệ xã hội, tạo ra sức mạnh cho con người vượt qua khó khăn
trong cuộc sống để phát triển xã hội và hoàn thiện nhân cách. Có những phong tục tập
quán, những thói quen không phù hợp với sự phát triển xã hội thì không thể coi đó là
những truyền thống chẳng hạn quan niệm muốn có nhiều con, trọng con trai hơn con gái.
Những quy định khắt khe của lễ giáo phong kiến ngày xưa "Tam tòng tứ đức"... khi nói
đến truyền thống, thường nói đến những giá trị văn hóa tinh thần, đạo đức tốt đẹp, có ý
nghĩa tích cực.
+ Đặc trưng thứ 2 của truyền thống là được hình thành một cách tự nhiên, trải
qua một thời gian nhất định của cuộc sống, giao lưu xã hội, hoạt động thực tế. Ví dụ
"truyền thống yêu nước" của dân tộc nảy sinh trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, giữ
gìn giang sơn của Tổ quốc, bảo vệ quyền độc lập của dân tộc. "Truyền thống cần cù'
được hình thành và phát triển trong cuộc lao động xây dựng đất nước, chống lại sự đe dọa
của tự nhiên để duy trì nòi giống, xây dựng quê hương đất nước.
Những truyền thống "tôn sư trọng đạo" được khởi đầu từ trọng nhân nghĩa, lấy
"tiên học lễ, hậu học văn", "nhất tự vi sư, bán tự vi sư" làm nguyên tắc sống và quan hệ
với thầy giáo, với cộng đồng.
Nhiều khi truyền thống hình thành một cách tự phát, không theo ý muốn chủ
quan của cá nhân nhưng mọi người, nhất là các nhà quản lý, các nhà sư phạm cần ý thức
nâng niu, giữ gìn truyền thống tốt đẹp đã hình thành qua năm tháng của lịch sử và xây
dựng truyền thống mới.
+ Đặc trưng thứ 3 của truyền thống là được nhiều người thừa nhận là những giá
trị tốt đẹp, cần giữ gìn, phát triển, được mọi người thực hiện như một nhu cầu tất yếu,
không cần có sự giám sát của cơ quan pháp luật, những hành vi của mọi người được điều
chỉnh bằng dư luận của cộng đồng xã hội và lương tâm của mỗi người. Đó là cơ chế bên
trong điều chỉnh hành vi của con người (còn pháp luật là cơ chế bên ngoài). Sức mạnh
của truyền thống chính là cái sức mạnh của khả năng tự điều chỉnh của mỗi cá nhân sao
cho phù hợp với đòi hỏi của cộng đồng xã hội.
Khi đã được mọi người thừa nhận, chấp nhận thi truyền thống sẽ điều chỉnh hành
vi của con người bằng lương tâm, trách nhiệm, khả năng tự ý thức. Con người lúc đó tuân
thủ những quy ước, những chuẩn mực đạo đức một cách tự nguyện, không cần đến sự
giám sát của những người điều hành pháp luật, lúc ấy chỉ còn sự điều chỉnh của dư luận
xã hội.
Ví dụ, hiếu thảo là một chuẩn mực đạo đức, là một truyền thống đạo lý của
những người làm con, làm cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên... với những người hiểu
truyền thống đó, đạo làm con không ai dám cãi lại bố mẹ, làm bố mẹ, ông bà không vui.
Họ tự giác làm những điều tốt đẹp thể hiện sự hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà như:
chăm sóc, nghe lời, chịu khó tu thân.
- Giáo dục truyền thống có 2 yêu cầu cơ bản sau:
+ Xác định hệ thống giá trị truyền thống tốt đẹp cần duy trì, phát triển, xây dựng
truyền thống mới phù hợp với yêu cầu của sự phát triển xã hội. Ví dụ "Sống và và làm
việc theo pháp luật" phải dần dần trở thành một truyền thống của con người Việt Nam
hiện đại. Cũng có những truyền thống cũ phải có nội dung mới, chẳng hạn "hiếu học"
không chỉ là chăm chỉ cần cù, vượt khó trong học tập, rèn luyện nhân cách. Ngày nay
"hiếu học" còn đòi hỏi học thường xuyên, học suốt đời, học sáng tạo, có năng suất, hiệu
quả để phát triển vai trò chủ thể trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hiếu học cần
phải hiểu đó là xác định trách nhiệm xã hội của cá nhân, phát huy, giải phóng tiềm năng
của bản thân có ý chí tự cường dân tộc, không cam sống khổ, sống nhục trong đói nghèo,
dốt nát...
Lịch sử đã cho thấy lúc nào đó, ai đớ lãng quên quá khứ thì cả dân tộc và mỗi
người mất đi một động lực để phát triển có người quên truyền thống "uống nước nhớ
nguồn", "lá lành đùm lá rách", "nhường cơm sẻ áo", "trọng nhân nghĩa"... làm cho một bộ
phận thế hệ sau quay lưng lại với lịch sử, với thế hệ đi trước họ trở thành ích kỷ cá nhân,
trong điều kiện kinh tế thị trường họ coi giá trị vật chất hơn tinh thần, vì đồng tiền, lợi
nhuận sẵn sàng bán rẻ lương tâm, danh dự, tình nghĩa...
Hơn bao giờ hết, hiện nay việc giáo dục truyền thống cần được coi trọng và được
thực hiện một cách hệ thống ở gia đình, nhà trường và toàn xã hội.
+ Yêu cầu thứ 2 của giáo dục truyền thống còn là ở chỗ sử dụng truyền thống
như là một phương pháp giáo dục.
Điều đó có nghĩa là thông qua các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, kết hợp
các lực lượng, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tạo ra dư luận xã hội lành mạnh
ủng hộ cá nhân, hành vi tốt, lên án mạnh mẽ những cá nhân, những hành vi phi đạo đức,
đi ngược lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
ý nghĩa tác dụng của giáo dục truyền thống phụ thuộc vào cả 2 yếu tố: Xác định
nội dung truyền thống nói chung cho mọi người hiểu những giá trị truyền thống cần duy
trì phát huy tạo ra động lực bên trong của hành động hàng ngày để mọi người tự điều
chỉnh nhận thức, tình cảm hành vi trong giao tiếp, hoạt động. Đồng thời giáo dục truyền
thống còn phải chú ý tới việc xây dựng dư luận cộng đồng, bằng dư luận, qua dư luận có
thể điều chỉnh hành vi của những người thiếu khả năng tự điều chỉnh.
Việc xây dựng dư luận, tạo ra dư luận lành mạnh phụ thuộc vào nhận thức chính
trị, đạo đức, lòng nhân ái ý thức công dân, lương tâm trách nhiệm, hành vi của mỗi người
trong việc duy trì truyền thống đạo lý của dân tộc. Có những truyền thống trong giao tiếp
thể hiện lòng nhân ái, phản ánh trình độ văn hóa như "một điều nhịn chín điều lành",
"kính trên nhường dưới", "thương người như thể thương thân", người Hà Nội có truyền
thống "thanh lịch"... những biểu hiện ấy không chỉ thể hiện đạo lý của dân tộc Việt Nam,
mà nó còn là truyền thống văn hóa của lịch sử Việt Nam.
Việc xây dựng, duy trì dư luận trước hết phụ thuộc vào sự quan tâm tổ chức quản
lý giáo dục, quản lý xã hội các cấp và các bậc ông bà, cha mẹ và các thế hệ lớn tuổi.
Trong các loại truyền thống cần duy trì, phát huy thì truyền thống nhân nghĩa có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc tới thái độ, hành vi của con người
trong cuộc sống và duy trì các truyền thống khác. Ví dụ sự nhường nhịn "kính lão đắc
thọ", "hiếu thảo" với ông bà, cha mẹ giúp cho thế hệ trẻ tự điều chỉnh trong việc giải
quyết mâu thuẫn giữa nghĩa vụ và quyền hạn, trách nhiệm và quyền lợi của cá nhân và
đối với người khác cũng như nghĩa vụ xã hội. Loại truyền thống nhân nghĩa được thể
hiện hàng ngày trong mọi quan hệ xã hội, ở mọi môi trường sống vì vậy loại truyền thống
nhân nghĩa có ảnh hưởng đến hành vi của mọi người, nó góp phần hình thành xúc cảm,
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ của quan hệ xã hội. Xúc cảm, tình cảm đạo đức
thẩm mỹ là nhân tố quan trọng nhất giúp con người điều chỉnh hành vi, tránh được tính
ích kỷ cá nhân, có khả năng hiểu và phát huy được các truyền thống cao đẹp khác.
Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ là một quá trình phụ thuộc vào trình độ
nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và vốn hiểu biết của mọi người, giáo dục truyền
thống gắn liền với các quá trình giáo dục trong gia đình, nhà trường, xã hội, đặc biệt gắn
liền với việc xác định những giá trị đạo đức, văn hóa, pháp luật và các phong trào chính
trị xã hội của Đảng và Nhà nước.
Ngày nay Đảng ta đã xác định con người là mục tiêu động lực của sự phát triển
xã hội, với chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu, để phát triển giáo dục thì cần duy
trì phát huy giáo dục truyền thống tốt đẹp mọi mặt của dân tộc. Tuy nhiên, trong vô vàn
các truyền thống của dân tộc thì những truyền thống về đạo đức, nhân văn thể hiện rõ
tính cách, tạo ra sức mạnh của con người Việt Nam như:
- Yêu nước
- Nhân nghĩa
- Tôn sư trọng đạo
- Hiếu thảo
- Thủy chung
- Tự trọng
- Lạc quan, giàu hoài bão
- Cần cù, vượt khó
- Sáng tạo
- Dũng cảm
- Tự cường
- V.v...
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một số tính cách người
Việt Nam đang phát triển đang hình thành... Hy vọng và chắc chắn nhiều phẩm chất, tính
cách mới sẽ trở thành truyền thống như: tôn trọng luật pháp, tính khẩn trương, tính kỷ
luật... Hơn bao giờ hết, trong trường học,... gia đình, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần
chúng cần coi trọng việc giáo dục truyền thống.
PGS.PTS Hà Nhật Thăng
Phẩm chất nhân cách người thầygiáo
có ảnh hưởng trực tiếp đến giáo dục
lối cư xử văn hóa cho thế hệ trẻ
Thời nào cũng vậy, dân tộc nào cũng thế, đội ngũ thầy giáo là đại diện cho nền
văn hóa, sự tiến bộ, là đại diện cho sự phát triển trí tuệ và nhân cách của các thời kỳ lịch
sử của mỗi dân tộc. Đội ngũ thầy giáo là người có hiểu biết, biết tiếp thu tri thức, kinh
nghiệm của lịch sử loài người, nắm được các quy luật phát triển tự nhiên và quy luật xã
hội, có sứ mệnh truyền thụ tri thức cho thế hệ trẻ và có khả năng đưa ra những dự báo
tương lai của sự thay đổi, phát triển của các hiện tượng, sự kiện tự nhiên và xã hội và mối
quan hệ giữa chúng.
Tầng lớp thầy giáo qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc có một số phẩm chất, nhân
cách tiêu biểu, phản ánh truyền thống đạo lý của dân tộc, có ảnh hưởng trực tiếp đến lối
cư xử văn hóa của thế hệ trẻ như:
1. Có lòng nhân ái, vị tha, có tình cảm dân tộc sâu sắc và tự trọng cao.
2. Trung thực, thẳng thắn, lao động hết mình (suốt đời) vì sự tiến bộ xã hội, vì sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ cho mai sau.
3. ít có tham vọng, thủ đoạn chính trị, ít đòi hỏi đãi ngộ về vật chất (nếu có,
thường coi đó là phương tiện, điều kiện để hoạt động).
4. Sống lạc quan, giàu hoài bão ước mơ, nghị lực.
5. Thông minh, sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp, trong cuộc sống.
6. Lao động trí óc là dạng lao động đặc trưng của người thầy giáo, mong muốn
hoàn thiện nhân cách, tự học để hiểu biết rộng.
7. Không nắm giữa các phương tiện, tư liệu sản xuất xã hội. Do đó những đặc
điểm nhân cách xã hội trên đây, tầng lớp thầy giáo trong xã hội được dư luận xã hội tôn
trọng, được quần chúng tin yêu, hy vọng. Có thể nói, vị trí xã hội của tầng lớp thầy giáo
do chính phẩm chất năng lực của họ tự khẳng định. Sự gắn bó của tầng lớp thầy giáo với
dân tộc, với nhân dân là đặc điểm của nước người trí thức yêu nước. Tất nhiên, loại trừ
một bộ phận nhỏ vì giữ những vị trí xã hội khác nhau, đại diện cho một giai cấp nào đó
đang thống trị xã hội, lúc ấy bộ mặt nhân cách của họ là sự giao thoa nhân cách của
người trí thức và giai cấp đang chi phối vị trí xã hội của họ.
Thầy giáo là một bộ phận của trí thức, theo định nghĩa thông thường không phải
là một giai cấp trong xã hội vì không có tư liệu sản xuất trong tay, nhưng đóng góp của
họ đối với sự phát triển của xã hội, cải tạo tự nhiên đối với loài người vô cùng lớn lao,
cần chú ý mức độ đóng góp của đội ngũ thầy giáo lại tùy thuộc ở khả năng sử dụng của
tầng lớp (giai cấp) thống trị Nhà nước đến mức nào.
Lịch sử của nhân loại đã chứng minh rằng một Nhà nước hưng thịnh, một dân tộc
phát triển, bao giờ người thầy giáo cũng được những người quản lý xã hội tạo điều kiện
tốt nhất cho họ làm việc, phát huy tài năng cống hiến cho dân tộc và xã hội. Chỉ cần nhìn
vào sự đánh giá và sử dụng đội ngũ thầy giáo của một Nhà nước sẽ thấy ngay dân tộc ấy
đang ở thời kỳ hưng thịnh hay báo hiệu sự suy thoái.
Mặt khác, sự thống nhất giữa tự khẳng của đội ngũ thầy giáo với dư luận xã hội
và sự đánh giá, sử dụng họ của Nhà nước lại nói lên tính ưu việt của Nhà nước. Một
trong những biểu hiện của sự trung thành đối với dân, với nước của người quản lý xã hội
là sự hiểu biết, trân trọng và tạo điều kiện để người thầy giáo cống hiến hết sức mình cho
sự nghiệp xây dựng đất nước, ươm các thế hệ mầm non cho dân tộc để có "hậu sinh khả
úy".
Không còn băn khoăn gì nữa, Nhà nước ta, Đảng ta đang có những chính sách
hữu hiệu phát huy tiềm năng của con người, của quần chúng trong đó có đội ngũ thầy cô
giáo nói riêng, trí thức nói chung trong công cuộc đổi mới hiện nay. Vấn đề đặt ra một
cách cấp thiết hiện nay là thầy giáo đáp ứng những đòi hỏi của xã hội, của Nhà nước đến
đâu? Mỗi người phải tự trả lời, đội ngũ thầy cô giáo có trách nhiệm tổ chức hoạt động
thống nhất để phát huy tối đa tiềm năng sẵn có, đáp ứng có hiệu quả vào công cuộc xây
dựng đất nước; công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng xã hội công bằng văn minh.
Xã hội đang đổi mới, dân tộc đang chuyển mình từ cái cũ (cơ chế bao cấp) sang
cái mới (cơ chế kinh tế thị trường nhiều thành phần), vì vậy cái cũ chưa mất hẳn, cái mới,
cái tốt đang thai nghén hình thành. Cái tốt đang chiếm ưu thế, là trồi xanh lộc biếc đang
phát triển nhưng gặp không ít cản trở, thầy cô giáo phải là người tự xác định cho mình
trách nhiệm xây dựng cái mới, nâng niu cái tốt, gột rửa, ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu
cực vào tâm hồn thế hệ trẻ.
Trong thời kỳ mới những giá trị mới cũng đang hình thành. Cái mới chưa định
hình, nhiều khái niệm cần hiểu theo nội dung mới, phù hợp với giá trị của thời đại. Thang
giá trị của người thầy giáo không thoát khỏi giá trị của tầng lớp trí thức của nhân loại và
dân tộc như trên đã trình bày, tất nhiên nội dung, mức độ có khác trước.
- Về năng lực hoàn thiện nhân cách, trí tuệ và năng lực nghề nghiệp ở thầy cô
giáo các trường sư phạm đòi hỏi cao hơn các thầy cô giáo ở phổ thông chính là ở chỗ
phải có hoài bão và năng lực nghiên cứu khoa học sư phạm và tự làm giàu vốn hiểu biết
xã hội.
Một trong những phẩm chất cần thiết đặc trưng đối với thầy cô giáo trong thời
mở cửa, hòa nhập vào nền văn minh tin học là có ước muốn vươn lên, biết tự kiềm chế,
tự học không ngừng để có hiểu biết rộng, sâu sắc cả về chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm
chất đạo đức để cống hiến cho xã hội và có thu nhập cao.
Có thể thấy rõ rằng người thầy giáo thời kỳ bao cấp dễ dàng hài lòng với trình độ
của bản thân đã được đào tạo ở nhà trường sư phạm,
ngày nay nhiều người trình độ hạn chế, trở nên khiêm tốn hơn, dành thời gian học tập tin
học, ngoại ngữ, học thêm các chuyên đề, tự giác tham gia các hội thảo khoa học, học
thêm các hệ đào tạo trên đại học, đó là sự nhạy cảm của thầy cô giáo, thể hiện lòng tự
trọng, không muốn tụt hậu so với thời đại.
- Năng lực hoạt động thực tế của đội ngũ thầy cô giáo ngày nay đòi hỏi cũng
khác trước. Xưa kia thầy cô giáo thường là những người chuyên tâm dạy học và quan
niệm truyền thống cho rằng thầy giáo phải là người có vốn hiểu biết rộng lớn, nên họ là
những người chịu khó đọc, tích lũy trí thức lý luận. Ngày nay, nhu cầu đó chẳng những
không giảm, mà còn phát triển, song người thầy giáo trong thời kỳ đổi mới không thể chỉ
biết lý thuyết, mà còn phải có khả năng tham gia cùng với đội ngũ cán bộ quản lý xã hội
giải quyết những mâu thuẫn của công cuộc đổi mới đặt ra, vì vậy họ tự xác định phải rèn
luyện năng lực hoạt động thực tế (nghiên cứu nhu cầu của thực tế, tìm phương pháp tiếp
cận thực tiễn góp phần giải quyết có hiệu quả những đòi hỏi của giáo dục, của cuộc sống,
của nền sản xuất xã hội, cải cách quản lý xã hội, sản xuất, hoạt động xã hội). Thầy cô
giáo ngày nay cần tự xác định giáo dục thực của hoạt động là ở chỗ tháo gỡ những mâu
thuẫn, thúc đẩy thực tiễn giáo dục, xã hội phát triển.
Xã hội coi trọng tính hiệu quả của hoạt động thực tế của mỗi con người trong đó
có thầy giáo. Giá trị của mỗi người không phải là cái nhãn cương vị lãnh đạo, học hàm,
học vị, trình độ học vấn, mà ở giá trị thực, ở năng suất, hiệu quả hoạt động đã đem lại lợi
ích gì cho xã hội và bản thân.
Ngày nay, giá trị xã hội đối với giáo viên là giá trị đóng góp cho xã hội bằng
cống hiến có hiệu quả, khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết những đòi hỏi của thực
tiễn đổi mới đang đặt ra cho sự nghiệp giáo dục nói riêng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nói chung.
Thang giá trị đối với thầy giáo là ở tri thức chuyên môn, năng lực hoạt động giáo
dục thực tế, được xã hội thừa nhận ở hiệu quả. Sự tự hoàn thiện về tri thức, năng lực hoạt
động để có trình độ ngang tầm với yêu cầu xã hội đòi hỏi.
Muốn thực sự tự khẳng định, người thầy giáo cần năng động, linh hoạt, sáng tạo,
tinh thông nghề nghiệp, có phương pháp làm việc kế hoạch, độc lập, có ý chí vượt khó,
cần cù tạo bao (dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn của đời thường, đòi
hỏi sự công bằng chính đáng).
Xưa nay, người thầy giáo cũng như trí thức không có ý chí làm giàu (nói đúng
hơn coi thường vật chất). Ngày nay, trong trí thức nói chung, thầy giáo nói riêng vì lý
tưởng làm cho dân giàu nước mạnh và họ cũng đòi hỏi sự đãi ngộ công bằng, đúng với
cống hiến (chất xám) của họ đã bỏ ra. Có thể nói đây là nét mới trong giá trị đạo đức xuất
hiện ở trí thức nói chung, thầy giáo nói riêng trong cơ chế thị trường.
Nhiều thầy giáo giỏi cũng như các nhà khoa học giỏi, bác sĩ giỏi, kỹ sư giỏi...
không chấp nhận sống nghèo, sống khổ, họ làm việc cho xã hội và cũng để cho bản thân,
gia đình sống đầy đủ hạnh phúc. Nhưng họ không chấp nhận ăn gian làm ẩu, lừa lọc,
tham nhũng, tham ô.
Đặc điểm cơ bản của thầy giáo ngày nay là rất kiên định trong công cuộc đổi
mới, có nhận thức đúng và vững vàng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, xây dựng
đất nước giàu mạnh, dân tộc ấm no hạnh phúc. Có thể nói Độc lập tự do, dân giàu nước
mạnh là lý tưởng, là hoài bão ước mơ, là ý chí của người thầy giáo chân chính. Trước
những hiện tượng tiêu cực tạm thời, vì nắm vững quy luật, hiểu biết bản chất các hiện
tượng tự nhiên và xã hội, thầy giáo không nôn nóng và có phương pháp giải quyết những
mâu thuẫn của cá nhân với xã hội.
Cần phải thấy, thầy giáo ngày nay đều trưởng thành dưới sự giáo dục của Đảng,
họ nhận thức sâu sắc trách nhiệm trước Đảng dân tộc. Quyền lợi của họ gắn liền với lý
tưởng của Đảng, quyền lợi của dân tộc. Tính thống nhất ấy giúp cho người thầy giáo
ngày nay có hoài bão, kiên định và trung thực trong cuộc sống, trong đấu tranh xây dựng
đất nước.
Một đặc trưng giá trị của người thầy giáo là sống mẫu mực về mọi mặt (trong gia
đình, giao tiếp ngoài xã hội, sống lạc quan yêu đời...). Có thể nói thầy giáo ngày nay là
những người sống có văn hóa với ý nghĩa rộng nhất của khái niệm văn hóa, có kỷ luật,
biết tôn trọng luật pháp, những quy định của xã hội, tôn trọng dư luận và tự trọng cao,
biết kết hợp việc phát huy truyền thống đạo đức của dân tộc với giá trị đạo đức của thời
đại.
Để xác định đúng thang giá trị đạo đức của người thầy giáo trong giai đoạn hiện
nay là vấn đề khó, cần thiết có sự khảo sát, đánh giá một cách nghiêm túc khoa học.
PGS.PTS. Hà Nhật Thăng
Tổng quan tình hình tội phạm
và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên
Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mặc dù có sự kiên
quyết đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội của các cơ quan chức năng và toàn
xã hội song tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội ở nước ta vẫn diễn biến phức tạp, ngày
càng có nguy cơ xâm nhập thế hệ trẻ.
I. Tình hình tội phạm trong lứa tuổi thanh thiếu niên
Từ năm 1997 đến nay, tình hình tội phạm trong lứa tuổi thanh niên diễn ra khá
nghiêm trọng, có chiều hướng gia tăng cả về số vụ, số loại tội phạm và cả về tính chất,
mức độ phạm tội. Theo số liệu của Tổng cục cảnh sát nhân dân, số người dưới 30 tuổi
phạm pháp bị bắt giữ năm 1997: 11.169 người, năm 1998: 10.041 người, năm 1999:
11.838 người, năm 2000: 8463 người, năm 2001: 9136 người và 6 tháng đầu năm 2002 là
8860 người. So với tổng số người phạm tội trong toàn quốc, tỷ lệ thanh niên khoảng trên
50% và chiều hướng tăng ở các thành phố lớn, các khu đô thị tập trung. Đặc điểm chung
tội phạm trong lứa tuổi thanh niên là:
1. Cơ cấu tội phạm
Do thanh niên thực hiện đa số ở lĩnh vực hình sự (năm 1997: 65,75%, năm 1998:
64,84%; năm 1999: 67,51%;năm 2000: 67,36%; năm 2001: 64,3%. Tuy nhiên, tỷ lệ thanh
niên phạm các tội kinh tế cũng không phải nhỏ (năm 1997: 42,06%; năm 1998: 54,68%;
năm 1999: 52,27%; năm 2000: 49,08% năm 2001: 55,24%).
2. Các tội danh hình sự thanh thiếu niên thường vi phạm
Trộm cắp tài sản công dân, cướp tài sản công dân, cướp giật tài sản công dân, cố
ý gây thương tích, lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân, gây rối trật tự công cộng hiếp
dâm, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, tổ chức mại dâm và môi giới mại dâm, vi
phạm an toàn giao thông.
Có một số tội danh hầu như chỉ có thanh niên vi phạm là tội cướp giật và tội đua
xe máy trái phép (khoảng 97%).
Theo số liệu của Tòa án nhân dân tối cao, phân tích tội phạm do thanh thiếu niên
thực hiện bị xét xử trong 2 năm 1997,1998 là:
- Các tội xâm phạm sở hữu công dân có số lượng bị cáo xét xử nhiều nhất và có
xu hướng gia tăng năm 1997 có 13.274 người (50,15%),năm 1998 có 16.754 người
(55,65%).
- Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính: năm
1997 có 5933 người (22,41%), năm 1998 có 5474 người (18,18%).
- Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người: năm
1997 có 4299 người (16,24%), năm 1998có 4104 người (13,63%). Tuy nhiên, ở một số
tội danh nghiêm trọng, tỷ lệ bị cáo là thanh niên cao hơn, như tội giết người năm 1997 là
37,2%; năm 1998 là 32,9%; tội hiếp dâm trẻ em năm 1997 là 59,16; năm 1998 là 32,6%.
3. Tính chất tội phạm do thanh niên thực hiện rất nghiêm trọng và nguy hiểm đối
với xã hội, thể hiện tính côn đồ trắng trợn ở tội cướp giật tài sản công dân và tội giết
người cướp của, tính dã man và hung hãn ở tội hiếp dâm trẻ em, tính liều lĩnh mạo hiểm
trong tội đua xe máy trái phép v.v...
Gần đây xuất hiện nhiều vụ sử dụng súng, lựu đạn làm chết và bị thương nhiều
người, trong đó tội cướp có sử dụng vũ khí năm 2001 xảy ra 43 vụ, tăng 72% so với năm
2000.
4. Tội phạm về ma túy diễn biến rất phức tạp, nhiều thanh niên vừa là nạn nhân
(con nghiện), vừa là tội phạm tổ chức sử dụng, buôn bán vận chuyển ma túy trái phép.
Năm 2001: 49,48% tội phạm ma túy là thanh niên (Tổng cục cảnh sát nhân dân). Thủ
đoạn của tội phạm ma túy ngày càng tinh vi, xảo quyệt (lợi dụng trẻ em), tính chất chống
đối ngày càng quyết liệt như dùng súng, lựu đạn chống trả lực lượng vây bắt ở Lai Châu.
5. Tình trạng tội phạm tập thể, có tổ chức tụ tập thành băng nhóm để trộm cắp,
cướp giật, đâm thuê, chém mướn, đua xe trái phép, tổ chức sử dụng ma túy khá phát triển
ở các thành phố lớn. Đáng lưu ý đã xảy ra một số vụ phạm tội có tính chất băng, nhóm
hoạt động theo kiểu xã hội đen để thanh toán lẫn nhau ở thành phố Hồ Chí Minh. Nguy
cơ trẻ em bị lôi kéo vào các băng nhóm tội phạm có tổ chức để trộm cắp, cướp giật ngày
càng tăng.
6. Tội phạm người thanh niên tăng đáng kể và diễn biến phức tạp. Trung bình
trong toàn quốc năm 2000 tỷ lệ người chưa thành niên phạm pháp trong tổng số người bị
bắt giữ là 16,3%, trong đó dưới 16 tuổi là 3,8%, từ 16-18 là 12,4%.
Theo điều tra của Tổng cục cảnh sát nhân dân, từ đầu năm 2000 đến 6/2002 có
9411 bị cáo người chưa thành niên bị đưa ra xét xử, trong đó 207 phạm tội giết người
(2,2%), 422 phạm tội hiếp dâm (4,48%), 1044 phạm tội cướp (11,09%), 2332 phạm tội
trộm cắp (24,78%), 675 phạm tội cố ý gây thương tích (7,17%), 427 phạm tội mua bán
trái phép chất ma túy (4,53%). Đó là chưa kể tới số trẻ vị thành niên phạm tội chưa tới
mức truy tố bị xử lý hành chính. Trong 2nưam(2000 - đầu 2002) có 16.155 em bị xử lý
hành chính, trong đó 2559 em phải vào trường giáo dưỡng, 282 em cai nghiện và chữa
bệnh tại cộng đồng.
7. Tuy các tội về kinh tế có tỷ lệ thanh thiếu niên vi phạm không cao song trong
đó cũng có một số tội có tỷ lệ thanh niên vi phạm khá cao như tội làm và buôn bán hàng
giả, tội buôn lậu, tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội... trên 50%.
II. Thực trạng một số tệ nạn xã hội trong thanh niên
1. Tệ nạn ma túy
Mặc dù có nhiều số liệu thống kê của các cơ quan chức năng về số người nghiện
trong toàn quốc nói chung và trong lứa tuổi thanh niên nói riêng, song theo ý kiến của
nhiều nhà quản lý và các nhà nghiên cứu thì số người nghiện có hồ sơ quản lý chỉ là phân
nổi của tảng băng chìm. Theo Cục phòng chống tệ nạn xã hội đến 6/2002 tổng số người
nghiện ma túy có hồ sơ quản lý là 102.633 người, song trong thực tế số người nghiện còn
cao hơn nhiều. Người nghiện ma túy ở nước ta hiện nay chủ yếu ở lứa tuổi trẻ (chiếm
trên 70%), khác với vài chục năm trước đây đối tượng nghiện chủ yếu lớn tuổi.
Một số đặc điểm tệ nạn ma túy trong thanh niên hiện nay là:
1.1. Xu hướng trẻ hóa người nghiện
Số người nghiện ma túy ở nước ta tăng nhanh những năm gần đây chủ yếu ở lứa
tuổi thanh thiếu niên (tức cả thanh niên và người chưa thanh niên). Năm 1994 tỷ lệ thanh
thiếu niên nghiện ma túy mới có 39,7% thì nay đã hơn 70%. Đặc biệt ở địa bàn trọng
điểm thành phố Hồ Chí Minh số người nghiện dưới 30 tuổi chiếm 82,4%, trong đó dưới
16 tuổi chiếm 7%.
1.2. Về địa bàn tệ nạn ma túy đã lây lan nhanh chóng trên 61 tỉnh, thành trong cả
nước, từ các thành phố, khu đô thị đến các làng quê hẻo lánh, thậm chí đã xâm nhập vào
công trường, xí nghiệp, đặc biệt đã xâm nhập học đường. Khó có thể xác định địa bàn
nào trong sạch, an toàn không có hiểm họa ma túy đe dọa có nguy cơ xâm nhập, lây lan.
Đặc biệt Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và các trung tâm lớn buôn bán và tổ chức sử
dụng ma túy (chiếm 51,06% tổng số vụ và 56,4% tổng số đối tượng phạm tội về ma túy
bị phát hiện thời gian qua).
1.3. Thành phần nghiện ma túy cũng đa dạng hơn trước rất nhiều, không chỉ tập
trung ở nhóm thanh thiếu niên không nghề nghiệp như trước đây mà đã lây lan ra nhiều
thành phần trong xã hội, trong đó có học sinh, sinh viên và công nhân lao động. Năm
1998 toàn quốc đã phát hiện được gần 3000 học sinh, sinh viên ở 56 tỉnh thành nghiện
ma túy. Theo báo cáo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam 6/2002, số người nghiện là
công nhân lao động là 13.500 người (chiếm tỷ lệ 13,15% tổng số người nghiện có hồ sơ
quản lý, số người nghiện ma túy là nữ cũng tăng lên đáng kể, đặc biệt ở đối tượng gái
mại dâm hiện nay khoảng 43,1% (nguồn: Báo an ninh Thủ đô 30/8/2002).
1.4. Loại ma túy sử dụng thay đổi từ các loại truyền thống như thuốc phiện (phía
Bắc), bồ đà và tấn dược có chất ma túy thông thường (phía Nam) sang các loại ma túy
nặng, độc hại và nguy hiểm như Hêrôin, amphetamon estasy v.v... Nếu như tỷ lệ dùng
Hêrôin năm 1994 là 1,4% thì năm 2001 đã tăng lên 70-80% ở các thành phố và đô thị.
1.5. Tình trạng tội phạm trong đối tượng nghiện càng ngày càng gia tăng. Đa số
đối tượng nghiện có tiền án tiền sự, liên quan tới tội phạm hình sự. Do sự bức bách để có
tiền mua ma túy; đối tượng nghiện trộm cắp, cướp giật và không ít người đã không từ
một thủ đoạn nào để phạm tội, thậm chí giết cả người thân ruột thịt.
1.6. Tỷ lệ tái nghiện rất cao, tuổi càng trẻ càng rất khó cai nghiện. Theo thống kê
của Bộ lao động - Thương binh - xã hội, tỷ lệ bình quân tái nghiện rất cao, tới trên 70 -
80%. Trong khi đó, tỷ lệ đối tượng được cai nghiện rất thấp, chỉ khoảng 20 - 25% tổng số
đối tượng có hồ sơ quản lý, thời gian cai nghiện còn ngắn, quy trình cai nghiện chưa đủ
để người nghiện phục hồi nhân cách do đó hiệu quả công tác cai nghiện còn yếu.
1.7. Tỷ lệ người nghiện mắc các bệnh truyền nhiễm do dùng chung bơm kim
tiêm, nhiễm HIV và AADS khá cao, đang là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Trong
tổng số người bị nhiễm HIV/AIDS ở nước ta hiện nay, 70% là do tiêm chích ma túy mà
bị lây lan căn bệnh thế kỷ.
1.8. Nguy cơ trẻ em vị thành niên nghiện ma túy có chiều hướng hướng gia tăng.
So với năm 1996 số trẻ em nghiện ma túy phát hiện được năm 1998 tăng 59,4% (năm
1996 có 1733 em nghiện ma túy, năm 1998 có 2764 em, tập trung nhiều ở vùng Đông
Bắc, Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Hồng.
2. Tệ nạn mại dâm
Tệ nạn mại dâm ở nước ta mới tái diễn lại và phát triển mạnh từ đầu những năm
90 đến nay, từ khi nước ta phát triển mạnh nền kinh tế thị trường và mở cửa, hợp tác vào
giao lưu với các nước trong khu vực và thế giới. Cho đến nay, chưa có số liệu thống kê
chính xác và đầy đủ vế số người hoạt động mại dâm trên toàn quốc. Theo Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, tháng 3/2001 cả nước ước tính có 42.042 gái mại dâm, trong đó
chỉ có 13.822 đối tượng có hồ sơ quản lý.
Đặc điểm tệ nạn mại dâm trong thanh thiếu niên là:
2.1. Xu hướng trẻ hóa đội ngũ gái mại dâm: Theo thống kê của Cục phòng chống
tệ nạn xã hội, 70% gái mại dâm ở nước ta hiện nay dưới 25 tuổi, còn tính dưới 30 tuổi,
tức là trong độ tuổi thanh thiếu niên, gái mại dâm chiếm 88,3%. Đáng lưu ý là tỷ lệ gái
mại dâm là người chưa thành niên khá cao, dưới 16 tuổi chiếm 0,6%, từ 16 - 17 tuổi
chiếm 13%. Theo khảo sát, 11,3% gái mại dâm ở Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí
Minh có khách hàng từ tuổi vị thành niên.
2.2. Nạn mại dâm phát triển và lây lan trong phạm vi không gian rộng lớn, không
chỉ nhà hàng, khách sạn, thành phố, thị xã mà đã xâm nhập cả về vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa; không chỉ trong nước mà cả phạm vi ngoài nước (các đường dây sextour,
du lịch ra nước ngoài có thời hạn).
2.3. Đối tượng bán dâm trở nên đa dạng, phong phú về thành phần xã hội và
phương thức hành nghề. Trước đây, đối tượng bán dâm chủ yếu là gái mại dâm xuất thân
từ nông thôn, không nghề nghiệp (khoảng 78%) thì nay bổ sung vào đội ngũ bán dâm
nhiều thành phần khác như làm dịch vụ (hớt tóc, mát sa), nữ thư ký, nữ sinh viên, nữ
người dân tộc và thậm chí cả mại dâm nam (đối tượng thanh niên phục vụ cho các khách
mua dâm là các "quý bà" sang trọng và đối tượng nam giới bán dâm cho khách đồng tính
luyến ái. Đặc biệt, hiện tượng hàng trăm người đồng tính luyến ái tổ chức dạ hội tại thị
trấn Long Hải (Bà rịa - Vũng tàu) 3/2002 báo động về sự lây lan hiện tượng mại dâm
đồng giới trong xã hội.
2.4.Về trình độ văn hóa của gái mại dâm trước đây gái mại dâm chuyên nghiệp
đa phần thất học hoặc trình độ văn hóa thấp, chủ yếu cấp I, cấp II nhưng nay qua khảo
sát, tỷ lệ có trình độ cấp III trở lên trên 40%.
Thậm chí gần đây các cơ quan chức năng đã phát hiện đường dây gái mại dâm
người mẫu với trình độ văn hóa khá trở lên.
2.5. Gái mại dâm có thu nhập từ trung bình khá trở lên (khoảng 1,5 đến 3 triệu
đồng/tháng) chiếm 45%. Do đó, nhiều gái mại dâm rất khó hoàn lương vì họ khó chấp
nhận thu nhập thấp như người dân lương thiện. Tỷ lệ gai mại dâm hoàn lương rất thấp. Số
gái mại dâm được chữa trị, phục hồi chưa nhiều, thời gian giáo dục ngắn không đủ để
phục hồi nhân cách. Trong 5 năm từ 1996 - 2000, mới có 22.400 lượt gái mại dâm được
chữa trị, phục hồi (mới chỉ chiếm khoảng 50% số người có hồ sơ quản lý, trong khi đó có
không ít gái mại dâm vào cơ sở chữa bệnh tới nhiều lần).
2.6.Gái mại dâm chuyên nghiệp có sức khỏe giảm sút do tần suất tiếp khách quá
nhiều, mắc nhiều bệnh tật, đặc biệt là bệnh xã hội. Một bộ phận gái mại dâm nghiện ma
túy (Hà Nội: 21,2%); thành phố Hồ Chí Minh: 30,3%). Một số bộ phận gái mại dâm
nhiễm HIV/AIDS.
2.7. Nạn kinh doanh thân xác trẻ em phát triển. Do ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế
thị trường phục vụ những nhu cầu bệnh hoạn của "khách làng chơi", nhiều trẻ em gái bị lừa
gạt "bán trinh", bị các chủ chứa kinh doanh, bóc lột thân xác quá mức. Số nữ thanh niên và
trẻ em gái bị đưa ra nước ngoài làm mại dâm cũng khá lớn. Theo đánh giá của UNICEES
và Tổ chức ECPAT trong khoảng 45000 gái mại dâm ở Campuchia hiện nay thì có tới 60-
65% là từ Việt Nam sang, trong đó có khoảng 30% còn trong tuổi vị thành niên.
III.Nguyên nhân tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn thanh thiếu niên đến phạm pháp và mắc
các tệ nạn xã hội,. Trong thực tế, mỗi loại tội danh cụ thể, mỗi tệ nạn xã hội, và từng đối
tượng vi phạm cụ thể có những nguyên nhân và hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Tuy nhiên,
có thể tổng hợp một số nguyên nhân chung của tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong
lứa tuổi thanh thiếu niên là:
1. Nguyên nhân về tâm lý lứa tuổi
Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu thanh niên Trung ương DDoàn về các
nguyên nhân chủ yếu của các thanh thiếu niên phạm pháp và mắc tệ nạn xã hội thì
nguyên nhân về tâm lý lứa tuổi " thanh thiếu nhi còn nông nổi, bột phát đua đòi" đưa số
người được hỏi xếp vào thứ hạng cao nhất: 75,6%. Các đặc điểm của lứa tuổi này như
đang phát triển, đang tự khẳng định mình là người lớn, tò mò, hiếu động, thích khám phá
cái mới, nếu không được giáo dục, định hướng đúng đắn và kịp thời thì rất dễ tiêm nhiễm
cái xấu, dễ bị bạn bè xấu lôi kéo, kích động. Trong các nhóm tuổi thuộc độ tuổi thanh
thiếu niên (từ 14 đến dưới 30 tuổi), thì ở độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi thanh thiếu nhi có
nguy cơ cao nhất vi phạm pháp luật và mắc các tệ nạn xã hội (chiếm 61,1% số người
được hỏi).
Ngoài ra, các đặc điểm của lứa tuổi trẻ như ưa phiêu lưu, mạo hiểm, thích cảm
giác mạnh, liều lĩnh... cũng là nguyên nhân làm cho một số đối tượng mắc tội cướp giật,
đua xe máy do không làm chủ được bản thân và không được giáo dục kịp thời.
2. Nguyên nhân về phía gia đình
Gia đình có vị trí và vai trò đặc biệt không gì thay thế được trong việc nuôi
dưỡng và dạy dỗ con người khi còn trứng nước đến tuổi trưởng thành. Do đó, nếu thiếu
sự quan tâm của gia đình hoặc phương pháp giáo dục của gia đình không phù hợp, thanh
thiếu nhi dễ có nguy cơ vấp ngã. Kết quả điều tra của Viện nghiên cứu thanh niên năm
1999 cho thấy, có 68,8% số người được hỏi cho rằng các nguyên nhân từ phía gia đình
xếp thứ 2 (sau nguyên nhân tâm lý lứa tuổi) gây ra tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội
trong thanh thiếu niên.
3. Nguyên nhân do ảnh hưởng của sách, báo, phim ảnh kích dâm, bạo lực
Trong thực tế có rất nhiều trường hợp thanh thiếu nhi sau khi xem băng, sách,
báo, phim ảnh độc hại đã bị kích động tới cuồng loạn, hành động theo bản năng tầm
thường, không kiểm soát được hành vi và suy nghĩ của mình.
Các tội danh thường xảy ra ở các đối tượng phạm pháp sau khi xem phim ảnh
bạo lực, kích động là: cướp giật, giết người, hiếp dâm, cố ý gây thương tích, gây rối trật
tự công cộng (đua xe máy). Các tệ nạn xã hội nghiêm trọng như ma túy, mại dâm cũng có
nguyên nhân do ảnh hưởng của văn hóa độc hại.
4. Nguyên nhân do nhận thức pháp luật của thanh thiếu niên còn yếu
Theo ý kiến của các cán bộ cảnh sát điều tra và nhiều nhà nghiên cứu thì còn một
nguyên nhân khá quan trọng của đối tượng này là nhận thức pháp luật rất hạn chế. Do đó,
họ không ý thức được mối nguy hiểm và hậu quả hành vi phạm tội của mình mà chỉ hành
động theo bản năng cảm tính. Có một số đối tượng khi bị bắt mới biết mình phạm tội
nghiêm trọng.
5. Nguyên nhân từ phía môi trường xã hội
Có rất nhiều nguyên nhân là môi trường xã hội ảnh hưởng tiêu cực đến thanh
thiếu niên, đó là:
- ảnh hưởng của các nhóm bạn xấu, các băng nhóm tội phạm với nhiều thủ đoạn
tinh vi lôi kéo, kích động dễ dẫn những thanh niên thiếu sự quan tâm giáo dục của gia
đình, thiếu bản lĩnh và nhận thức pháp luật tới sa ngã vào các tệ nạn xã hội hoặc phạm
pháp.
- Môi trường sống của thanh thiếu niên nhiều nơi bị "ô nhiễm" nghiêm trọng ở
những xóm liều, xóm ma túy, địa chỉ đen,... Sống trong những gia đình hầu hết thành
viên đều có tiền án tiền sự, buôn bán ma túy, thanh thiếu niên rất dễ bị sa ngã hoặc có đi
giáo dục cải tạo về lại tiếp tục tái phạm.
- Sự thực thi pháp luật chưa nghiêm: ở nhiều lúc, nhiều nơi còn để xảy ra tình
trạng buông lỏng quản lý, còn tình trạng xem thường hoặc lợi dụng kẽ hở của pháp luật để
làm ăn phi pháp, giải quyết các mối quan hệ cá nhân,... nên dễ dẫn tới hiện tượng thanh thiếu
niên có biểu hiện coi thường pháp luật (con em cán bộ đua xe máy được "bảo lãnh", "bắt cửa
trước, ra cửa sau").
6. Nguyên nhân kinh tế
Là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây nên tình trạng thanh thiếu niên
phạm pháp, cụ thể:
- Một bộ phận thanh niên thất nghiệp không có việc làm sinh tũng quẫn, làm liều.
- Sức hấp dẫn của tài sản, tiền bạc, lợi nhuận khổng lồ do cướp giật, buôn bán ma
túy, tổ chức mại dâm mà có.
- Kinh tế thị trường mở ra nhiều hoạt động du lịch, dịch vụ dễ tạo ra lối sống ăn
chơi, sa đọa, hưởng lạc... đưa mức độ "cầu" lên quá lớn, kéo theo các tệ nạn xã hội phát
triển mà thanh thiếu niên là đối tượng bị tấn công đầu tiên.
7. Nguyên nhân do công tác của Đoàn, Hội, Đội
Còn chậm được đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và tập hợp giáo dục
thanh thiếu niên chậm tiến, phạm pháp, mắc các tệ nạn xã hội hiện nay.
Một thực tế cho thấy là đa số thanh thiếu niên phạm pháp mắc các tệ nạn xã hội
thường không tham gia một tổ chức xã hội nào, ảnh hưởng của tổ chức Đoàn, Hội, Đội
đối với hộ khá mờ nhạt và không thường xuyên. Chính vì họ không được giáo dục đạo
đức và lối sôíng, không được giáo dục pháp luật, không được thu hút vào các sân chơi
lành mạnh để sử dụng thời gian rỗi một cách bổ ích và tiếp thu các chuẩn mực xã hội tiến
bộ... nên họ dễ bị nhóm người xấu kích động, lôi kéo. Hiện nay đã có nhiều cơ sở Đoàn,
Hội, Đội đã quan tâm đến công tác giáo dục cảm hóa thanh thiếu nhi chậm tiến, phạm
pháp, song hiệu quả còn chưa cao vì đối tượng có quá khứ lầm lỗi là đối tượng đặc thù
nhất, nhạy cảm nhất và cũng gai góc nhất, đòi hỏi không chỉ sự nhiệt tình, tâm huyết của
chúng ta mà quan trọng hơn là phương pháp giáo dục phù hợp để từng cá nhân tự thay
đổi những thiếu sót, sai lệch trong suy nghĩ và hành động của mình.
Tuy nhiên, việc phân tích các nhóm nguyên nhân trên chỉ là tương đối, trong thực
tế, đối với mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh phạm tội và sa ngã vào tệ nạn xã hội cụ thể có
những nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy và những nguyên nhân gián tiếp tác động. Do đó,
nhiệm vụ của mỗi cán bộ Đoàn, Hội, Đội chúng ta trong tiếp cận và giúp đỡ đối tượng
phải tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu những nguyên nhân cụ thể của từng đối tượng để đề ra
những biện pháp can thiệp phù hợp thì công tác cảm hóa, giúp đỡ thanh thiếu niên có quá
khứ lầm lỗi mới có hiệu quả thiết thực.
Nguyễn Minh Tâm
Viện Nghiên cứu Thanh niên
Những kết quả nghiên cứu
về trẻ em bị lạm dụng tình dục (TEBLDTD)
trong những năm gần đây
1. Trước khi tìm hiểu sự kiện các em bị lạm dụng, chúng ta thử xem xét, so sánh
một số đặc điểm giữa các TEBLDTD và TEBT. Về trình độ học vấn, TEBLDTD thường
học đến lớp 4, lớp 5 trong khi trình độ học vấn trung bình của các TEBT là lớp 6. Khoảng
26% TEBLDTD còn đi học trong các trường lớp chính quy cũng như các trường lớp phi
chính thức, trong khi tỷ lệ này ở các TEBT là 76%. Khác biệt lớn nữa là tình trạng gia
đình của các em: chỉ có 30.6% các TEBLDTD còn ở với cả cha lẫn mẹ, số còn lại cha mẹ
ly dị, cha mất, mẹ mất hay phải ở một mình, ở với một người thân khác hay đang ở trong các mái ấm, nhà mở... trong khi có 66% các TEBT vẫn còn ở với cha và mẹ(1). Tỷ lệ các
TEBLDTD phải lao động kiếm sống, phải làm công việc nội trợ cao gấp đôi các TEBT
920,4% so với 8% và 1,4% so với 8%) (Xin xem bảng 1).
Bảng 1: So sánh một số đặc điểm nhân khẩu - xã hội
của hai mẫu nghiên cứu
TEBLDTD TEBT
1. Về trẻ:
15,2 14,5 - Tuổi:
4,6 6 - Trình độ học vấn:
2,6 76 - Đang đi học (%):
- Hiện đang sống với ai:
30,6 66 * Với cha và mẹ:
42,9 18 * Chỉ với mẹ:
(1) Khi chọn mẫu các TEBT, các điều tra viên chọn lựa các trường hợp các trẻ em cùng hoàn cảnh kinh tế xã hội với các TEBLDTD, cho nên các TEBT này cũng thuộc về các gia đình nói chung là nghèo và thuộc giới bình dân trong xã hội hiện nay.
* Chỉ với cha: 2 4
* Với thân nhân: 6,1 3
* Với người khác: 4,1 2
* Một mình: 4,1
* Khác: 10,2 2
- Công việc chủ yếu hiện nay:
* Học chữ: 26,5 46
* Học nghề: 8,2 8
* Đang đi làm: 20,4 8
* Đang tìm việc: 12,2 2
* Làm việc nội trợ: 18,4 8
* Vừa học vừa làm: 7
* Khác 18 18
2. Về gia đình:
* Cha - Tuổi 48,4 45,8
- Học vấn (lớp): 7,7 7,8
- Vấn đề
- Xã hội (%):
@ Uống rượu: 54 52
@ Ma túy: 2 0
@ Cờ bạc: 18 18
@ Phạm pháp: 12 10
* Mẹ - Tuổi 43,8 41,6
- Học vấn (lớp): 5,6 6,2
- vđ xã hội (%):
@ Uống rượu: 0 0
@ Ma túy: 0 0
@ Cờ bạc: 14 14
@ Phạm pháp: 0 0
* Nghề nghiệp của cha (%):
- Công nhân, thợ chuyên môn: 20 20
- Lao động giản đơn: 14 22
- Công nhân viên: 8 16
- Làm ruộng: 8 4
- Tù: 4 0
- Khác: 2 4
- Buôn bán: 2 2
- Chết: 12 4
- Không trả lời, không biết: 30 28
Tổng cộng 100 100
* Nghề nghiệp của mẹ (%):
- Buôn bán, bán rong: 40 50
- Công nhân, thợ chuyên môn: 10 4
- Thủ công: 10 6
- Lao động giản đơn 8 6
- Làm ruộng 6 8
- Nội trợ: 6 4
- Công nhân: 4 14
- Chết: 6 0
- Không trả lời, không biết: 10 8
Tổng cộng 100 100
* Trung bình tổng số người trong gia đình: 5,47 5,72
* Trung bình tổng số anh chị em: 3,5 3,5
* Nhận xét về mức sống của gia đình thuộc loại
nào (%)
- Rất khó khăn: 8 2
- Khó khăn: 40 44
- Đủ sống: 42 42
- Khá giả: 6 12
* Đánh giá chiều hướng mức sống gia đình trong
những năm gần đây (%):
- Xấu hơn: 26 40
- Như cũ: 42 40
- Khá hơn: 32 20
Về những đặc điểm khác của gia đình xem ra không có sự khác biệt lắm giữa các
TEBLDTD và TEBT, như về tuổi tác, trình độ học vấn, nghề nghiệp của cha mẹ, số
người trong hộ gia đình, số anh em, mức sống... Tuy nhiên đánh giá về chiều hướng mức
sống gia đình trong những năm gần đây của các TEBLDTD có vẻ bi quan hơn (Xin xem
bảng 2).
2. Về sự kiện bị lạm dùng tình dục
2.1. Tuổi khi bị lạm dụng
Trong số 50 em được nghiên cứu, tuổi trung bình khi các em bị lạm dụng lần đầu
tiên là 12,2 tuổi (tuổi tối đa: 17; tuổi tối thiểu: 2, mode; 12). Hiện nay tuổi trung bình của
các em là 15,2. Có nghĩa sự kiện bị lạm dụng đã xảy ra trung bình cách nay ba năm.
Nhưng cũng có em cho biết sự kiện đã xảy ra cách nay 9 năm và cũng có trường hợp mới
xảy ra trong năm nay.
2.2. Về tình chất của việc bị lạm dụng
Bảng 2: Tính chất của các vụ bị lạm dụng tình dục
Tính chất: Số vụ Tỷ lệ %
- Cưỡng bức: 40 80
- "Tự nguyện": 5 10
- Khó nói: 5 10
Trong 50 trường hợp nghiên cứu có 40 trường hợp có tính cưỡng bức (80%). Có
rất nhiều trường hợp hiện nay ta xác định là cưỡng bức nhưng trước đây các em không ý
thức điều đó:
Trường hợp em A(1): (phiếu PV1): "A là con vợ sau của một bác sĩ. Không biết vì
lý do gì má em bỏ ba em đi biệt tăm. Em đã trải qua một thời niên thiếu bị gia đình bạc
đãi. Sau một lần bị cha đánh, A bỏ nhà ra đi và bán chewing gum ở một bến phà. Vào
thời điểm này em được 10 tuổi. Một hôm sau khi đi bán về A tạt vào nhà bác ruột để chơi
cùng với mấy đứa cháu của bác. Bác bảo mấy đứa nhỏ về nhà vì mẹ chúng đang gọi. Kế
tiếp bác kéo A vào nhà sau để hãm hiếp. A cảm thấy đau nhưng không biết là gì, sau đó
em ngủ thiếp đi. Đến trưa, A trở về bến phà tiếp tục bán bánh kẹo. Chị phụ nữ bán vé phà
thấy quần A dính máu mới hỏi tại sao còn nhỏ mà có kinh nguyệt. A nhất quyết không
nói. Nhưng sau nhiều lần bị bạn hỏi A mới kể lại đầu đuôi câu chuyện. Cô bán vé phà
khuyên A đừng bao giờ tin người ngoài, đừng bao giờ tin đàn ông hết, kể cả những người
trong gia đình...
(1) Để bảo đảm tính vô danh của cuộc nghiên cứu, chúng tôi dùng tên giả cho các em bị lạm dụng tình dục được nêu ra trong nghiên cứu này theo thứ tự mẫu chữ cái hoặc lấy số phiếu phỏng vấn các em.
Trường hợp em B: (PV11):
B và mẹ làm việc giúp nhà một ông chủ tại quận X. B bị con ông chủ âu dỗ và
hãm hiếp nhiều lần, nhưng B không ý thức hậu quả của sự kiện trên. Sau khi bị lạm dụng
lần đầu khoảng 5 tháng, một người hàng xóm của B nhận xét: "Sao con nhỏ này khác
thường Ăn đồ chua nhiều quá". Nhưng dì ruột của B không tin: "bậy, con người ta mới
lớn, chưa có chồng mà sao có bầu được". Nhưng sự việc đến tai mẹ B và B kể lại sự việc
cho mẹ, mới hay mình đã có bầu khoảng 5 tháng...
Trường hợp em C (PV14, 14 tuổi):
C và gia đình ở một vùng nông thôn gần biển. Do cha mẹ mâu thuẫn nhau, em ở
với dì ruột. Từ lúc em được 12 tuổi và cho đến gần đây, em thường bị một người đàn ông
hàng xóm rủ qua nhà, cho xem phim sex và hãm hiếp nhiều lần, nhưng em không biết
việc này có hại cho mình. Em mô tả một cách có thiện cảm về người đã hãm hại mình:
"... Ông X không hăm dọa em gì cả, mà sau mỗi lần cho em ăn ngon, cho em 10.000 đồng
và đưa thuốc cho em uống..." Em không biết thuốc đó là thuốc ngừa thai nên có khi em
uống, có khi không.
Một số em khác, cho rằng mình đã "tự nguyện" trong lần đầu bị lạm dụng tình
dục. Thật ra, trong một số trường hợp này, các em - do hoàn cảnh gia đình đã bị mẹ "bán
trinh":
Trường hợp em D (17 tuổi, PV6):
D năm nay 17 tuổi. Cha mất sớm nên em chỉ còn mẹ. Cách đây một năm, mẹ em -
qua những tay mối lái - đem em bán trinh cho một người Đài Loan để lấy tiền trả nợ. Em
tâm sự: "Con nghe mẹ mắc nợ quá, con phải... "đi làm". Một người dắt con tới khách sạn
cho ông đó coi mắt... Rồi ở luôn khách sạn đến 4 giờ với khác. Mẹ con chờ con ở nhà.
"Thái độ của bà mẹ, sau khi đã bán trinh con, theo em D kể lại: "Má buồn, Má nói tại má
mắc nợ nên con mới đi vào con đường này. Má nói: "Thôi lỡ rồi, con đừng nói mẹ này
nọ". Mà con đâu có buồn gì đâu.
Một số em bị người yêu hay bạn bè gạt gẫm để lạm dụng. Các em này cũng
không cho mình hoàn toàn bị cưỡng bức, cũng không hoàn toàn "tự nguyện". Trường hợp
của các em thuộc dạng "khó nói".
Trường hợp em E PV9.17 tuổi:
Năm nay 17 tuổi, em sống trong một gia đình êm ấm và hạnh phúc. Năm ngoái
trong một lần đi học về, em được một người bạn trai đón rủ đi chơi, rồi người đó chở em
ra Vũng Tàu, mặc dù em phản đối. Tới Vũng Tàu, bạn trai thuê phòng khách sạn, em kể
lại: "... Lúc đầu em không vô, thì ảnh nói nếu em không vô thì em ở đâu. Em nói ở ngoài
đường chơi. ảnh nói thôi vô đi mình nghỉ một giây lát rồi ngồi nói chuyện chơi, đâu có gì.
Ban đầu cũng nói chuyện qua lại. Trước đó anh có đi dự tiệc, anh xỉn... Rồi anh đè em...
Em không kháng cự nổi".
2.3. Thủ phạm lạm dụng tình dục
Nói đến lạm dụng tình dục, một định kiến thông thường chỉ có những người xa lạ
mới lạm dụng các em. Song một thực tế ngược lại, trong 50 trường hợp nghiên cứu, thủ
phạm người lạ là rất ít. Hầu hết thủ phạm là những người thân trong gia đình, là những
người quen biết sống gần các em, những người hàng xóm, bạn bè và ngay cả người yêu.
Bảng 3: Thủ phạm các vụ lạm dụng tình dục
Quan hệ với nạn nhân Số người Tỷ lệ %
* Hàng xóm: 20 40
* Người thân trong gia đình: 15 30
* Bạn bè, người quen: 6 12
* Người yêu: 4 8
* Người nước ngoài, ng. Hoa: 2 4
* Người không quen biết: 2 4
* Chủ...: 1 2
Như vậy, tỷ lệ loại thủ phạm chiếm hàng đầu là một người hàng xóm. Đây có thể
là một người thuộc gia đình mà TEBLDTD hay qua xem tivi,có thể là một người láng
giềng hay nhờ trông coi nhà cửa, hay một người lợi dụng việc ở sát nhà của nạn nhân để
lạm dụng.
Như trường hợp của em X, 16 tuổi: Em kể lại: "Cách đây một năm, khi con đang
bị bệnh sốt nằm ở nhà. Ba mẹ đi vắng chỉ có hai chị em. Con gây lộn với em, em con bỏ
nhà qua hàng xóm chơi. Con ở nhà nằm một mình ở dưới đất. Bỗng con thấy cái gối trên
gác rớt xuống ngay chỗ con nằm, con tưởng gió là đổ nhà con rớt xuống. Vì con sốt nên
mê mê không để ý... Sau đó con lượm gối lên cầu thang đem lên gác. Lên trên gác, con
ngồi xuống xếp lại đồ đạc cho gọn thì ông ta (kẻ hãm hiếp em) núp sẵn trong cánh cửa,
bước ra bóp cổ con. Con đau và sốt nên sức yếu không làm gì được. Sau đó con bất tỉnh,
đến lúc nghe tiếng em con la lên, ông ta hất con xuống, đầu con đập xuống sàn gát, con
tỉnh lại thì mọi chuyện đã xong rồi... Sau này con mới biết, nhà con quên đóng cửa sổ
trên gát nên ông leo sang..." (phiếu PV5).
Hay như trường hợp em Y. Y có người bạn gái học cùng lớp nên rất thân hay qua
lại. Bạn gái của Y có một ông anh trai mà Y cũng khá thân và Y hay qua nhà xem tivi.
Một hôm anh của bạn gái khoe nhà mới xây và dẫn Y đi xem các phòng. Khi lên lầu Y bị
anh bạn làm bậy và dọa không được nói cho ai biết.
Người hàng xóm thủ phạm đó có thể là bạn của ba, bạn của mẹ...
Những trường hợp kế tiếp có tỷ lệ cao đó là những người thân trong gia đình.
Đây là những trường hợp loạn luân. Có một thời hình như người ta cho rằng các trường
hợp loạn luân ít thấy ở người Việt. Nhưng nay báo chí nhan nhản nêu lên hiện tượng này.
Theo chúng tôi, có lẽ hiện tượng loạn luân trước đây trong xã hội Việt Nam cũng
có, nhưng do quan điểm văn hóa, người ta xem trọng danh giá của gia đình, nên hiện
tượng này ít bị tiết lộ. Ngày nay một mặt do cơ cấu gia đình đang tan rã, do việc xã hội đề
cao quyền của cá nhân, bênh vực cho quyền những người bị hại, nên hiện tượng loạn luân
càng được đề cập đến nhiều trên báo chí.
Các trường hợp loạn luân trong nghiên cứu này chiếm đến 30% các trường hợp
bị lạm dụng là một con số đáng cho chúng ta suy nghĩ.
Bảng 4: Thủ phạm của những trường hợp loạn luân
Số trường hợp % của tổng số các vụ loạn luân
- Cha ruột: 6 40
- Cha kế: 4 26,66
- Bác 3 20
- Bà con khác: 2 13,3
Trường hợp thủ phạm là cha ruột và cha kế chiếm tỷ lệ cao.
Sau đây là một số trường hợp điển hình:
Trường hợp em LD5: Cha em có 2 vợ, mẹ em chỉ là vợ sau, ba em vẫn sống với
người vợ cả. Trong lần mẹ và em về thăm em ở thôn quê. Khi mẹ em đi chợ vắng nhà,
cha em đã cưỡng bức em và dặn em không được nói với ai, nếu nói ông sẽ đánh. Chuyện
bị cưỡng bức em dấu mẹ mãi đến bốn năm sau, khi em muốn ra ở riêng em mới nói với
mẹ, nhưng mẹ em nhất quyết không tin. Chỉ sau này mẹ em mới tin.
Trường hợp LD26, 15 tuổi. Em mồ côi mẹ từ nhỏ, phải ở với cha và bà nội. Bà
nội bắt hai chị em em phải đi ăn xin rồi sau đó gởi vào một trường chăm sóc mồ côi và
khuyết tật. Sau một kỳ hè, em được cha đón về nhà và sau đó trở lại trường thì các cô
giáo phát hiện em mang thai. Sau này em cho biết cha em đã cưỡng bức em.
Trường hợp LD30, 17 tuổi. Từ lúc 10 tuổi em đã bị cha lạm dụng. Sự kiện đổ bể
nhiều người biết được. Cha em phải đi tù, Mẹ em thường nhiếc mắng, chưởi em bảo vì
em nên ba mới bị đi tù.
Trường hợp PV15, 17 tuổi. Khi kể về ba mình em gọi là "ổng". Chuyện xảy ra
lúc em 14 tuổi và sau đó còn tiếp tục nhiều lần. Em không dám nói với mẹ, vì ổng bảo
nếu em cho bả biết ông sẽ giết bả và em nên em sợ. Ông đòi em không chịu là ổng đánh
em liền. Ông đã cưỡng bức em nhiều lần không nhớ được. Một lần mẹ đi bắt cá về sớm,
mẹ thấy mẹ la lên. Chút sau ông đánh mẹ liền, cấm mẹ không được nói cho ai biết. Một
bữa khác ông đánh mẹ đem mẹ nhân xuống sông, may có người la lên cứu mẹ. Mẹ mới
thưa công an. Ông trốn sang tỉnh khác, bảy tháng sau mới bị bắt. Em trốn mặt không
muốn gặp bạn bè, nhưng tụi nó kiếm em hoài, chúng hỏi: "Bộ ba mầy lấy mầy hả". Em
xấu hổ muốn chết cho rồi. Mẹ em cứ nhìn em rồi khóc. Lúc đi làm mẹ hay cúi đầu xuống.
* Thủ phạm là cha kế:
Trường hợp LD32, 18 tuổi. Cha ruột của em chết khi em còn nhỏ. Mẹ em một
năm sau lấy chồng khác. Mẹ em thường dậy để đi bán sớm, cha kế lợi dụng cơ hội này để
cưỡng bức em, lúc đó em mới 14 tuổi. Mẹ kế em khi biết được rất phẫn nộ đi báo công
an. Cha kế bị bắt và hiện ở tù.
Trường hợp LD16, 12 tuổi hiện đang học lớp 5. Ba ruột em bỏ mẹ đi lấy vợ khác.
Mẹ em đi lấy chồng khác. ba kế cưỡng bức em lúc em 10 tuổi. Nhưng ông rất chìu
chuộng em, hay cho em tiền và dẫn đi chơi. Một lần khác ông cưỡng bức em và cậu em
thấy được. Ông bị bắt và hiện ở tù. Em vẫn thương ông và mong ông mau được về.
* Thủ phạm là bác ruột:
Trường hợp PV3: Cha em có hai đời vợ. Em con của bà hai. Không biết vì lý do
gì mẹ em bỏ em ra đi. Em thường bị cha ngược đãi. Sau một lần bị cha đánh em bỏ nhà
đi bụi. Một lần ghé nhà bác chơi bị bác - khoảng 76 tuổi - hãm hiếp. Khoảng thời gian đó
em được 10 tuổi. Rồi sau đó em còn bị nhiều người đàn ông khác lạm dụng em. Một lần
khác công an bắt được thủ phạm và đưa em về lại gia đình và giải thích cho ba em hiểu.
Nhưng khi công an vừa mới ra khỏi nhà, ba em cột tay chân em lại và đánh em. Ông
tuyên bố từ rày em không phải là con ông nữa và phải ra khỏi nhà ngay. Em trở lại con
đường bụi đời và trôi dạt vào Nam.
* Thủ phạm là anh họ:
Trường hợp PV14, 14 tuổi. Em ở trong một đại gia đình có đến 40 người. Mẹ em
có hai đời chồng. Em là con của đời chồng sau. Ba em làm thợ hồ, nghiện rượu nặng và
sau mỗi lần nhậu say về hay đánh đập mẹ và em. Mẹ em nghiền đánh đề. Mắc nợ nhiều.
Hơn một lần đã phải ra tòa vì mắc nợ. Em cho biết người gia đình em cũng hay coi phim
sex. Một tối, em đang treo mùng cho ba thì anh họ ở cùng nhà kéo màn ra và hãm em.
Em sợ không dám nói với cha mẹ. Và điều này xảy ra nhiều lần. Đến lần thứ 5 thì bị ba
em phát hiện, ba em đánh và đuổi em đi.
* Thủ phạm là bạn bè, người quen hoặc người yêu:
Có một số trường hợp các em bị người yêu hay bạn bè dụ dỗ và có quan hệ tình
dục. Sự việc đổ bể vì có người biết, hay vì sau đó các em mang bầu. Nếu chàng trai "truất
ngựa truy phong" hay hai bên gia đình không thể đi tới thỏa thuận dàn xếp (thông thường
gia đình các em gái đòi đi tới hôn nhân), các em gái cảm thấy mình bị lạm dụng và trong
nhiều trường hợp gia đình các em đã kiện các thanh niên lạm dụng ra tòa với tội hiếp
dâm. Như trường hợp PV9 đã nêu trên hoặc như các trường hợp PV17, LD8, LD11,
LD42, LD46, LD49, LD50....
* Thủ phạm là một thành viên trong gia đình các em giúp việc:
Có trường hợp PV11 cùng mẹ giúp việc cho gia đình chủ, em bị cậu thanh niên
con ông chủ cưỡng bức nhưng em không ý thức hậu quả của hành động trên. Em có bầu.
Mẹ em muốn dàn xếp. Nhà chủ ban đầu đồng ý bồi thường nhưng sau đó họ lật lọng nên
mẹ em đưa đơn kiện tòa.
* "Thủ phạm" là người nước ngoài hay không phải người Kinh:
Trong 50 trường hợp, có hai trường hợp "thủ phạm" là người nước ngoài và
người thuộc dân tộc Hoa. Các trường hợp này thường rơi vào các vụ các em gái bị mẹ
đem đi bán trinh.
* Thủ phạm là người xa lạ hoàn toàn:
Có trường hợp thủ phạm là người xa lạ với các em. Như trường hợp LD19, em
buồn hoàn cảnh gia đình vì mẹ đi lấy chồng khác không nuôi em. Em đi bụi đời và bị kẻ
lạ dụ dỗ đưa vào công viên cưỡng bức. Cũng có trường hợp, em gái đi chơi về khuya, xin
quá giang xe bị tài xế đưa vào chợ cưỡng hiếp (LD6). Một trường hợp khác, em gái đi
mướn băng vidéo bị kẻ lạ dụ đi lạc nhà và bị hãm hại ở công viên (LD24).
2.4. Mối quan hệ giữa các loại hình thủ phạm và tính chất cưỡng bức
Trường hợp các em bị người thân trong gia đình, những người hàng xóm, những
người không quen biết, chủ lạm dụng thường là những vụ hoàn toàn có tính chất cưỡng
bức.
Trường hợp các em bị người yêu hay bạn bè lạm dụng dĩ nhiên tính chất cưỡng
bức ít hơn hay có ít nhiều tính cách tự nguyện.
Bảng 5: Loại thủ phạm và tính chất của việc LDTD
Thủ phạm Người Bạn Không Người thân bè, Hàng Người Tổng trong quen nước Chủ xóm yêu cộng người Tính chất biết ngoài gia quen đình
- Cưỡng bức 15 2 20 2 1 40
100,0 33,3 100,0 100,0 100,0 80,0
1 4 5 - "Tự
nguyện" 50,0 100,0 10,0
- Khó nói: 4 5 1
66,7 10,0 50,0
2.5. Nơi xảy ra việc bị lạm dụng cũng thay đổi tùy theo các loại thủ phạm
Bảng 6: Nơi xảy ra việc bị lạm dụng tình dục
Thủ phạm Người Bạn Khôn Người Hàng Người thân bè, g Tính chất nước Chủ xóm yêu trong gia người quen ngoài đình quen biết
- Nhà thủ phạm: X X X X X
X X - Nhà của
TBLDTD
- Khách sạn: X
- Nơi công cộng: X
Như bảng 6 cho thấy, nơi xảy ra sự kiện cũng thay đổi tùy theo loại hình thủ
phạm.
2.6. Việc tái diễn của sự kiện
Hành vi lạm dụng thường tái diễn khi thủ phạm là chủ, người yêu, bạn bè và
ngay với các người thân trong gia đình.
Việc lạm dụng tái diễn thường xuyên đi kèm những hăm dọa. Như trường hợp
người cha loạn luân dọa sẽ đánh nếu con nói ra cho người khác biết (PV15). Người bác
hăm dọa sẽ không can thiệp cho em bé bị lạm dụng trở về với gia đình (PV1). Hay con
người chủ dọa đuổi cả hai mẹ con người giúp việc, nếu con của người giúp việc báo cho
mẹ mình biết. Người hàng xóm thì dọa sẽ càng làm nhục trẻ bị lạm dụng, nếu trẻ báo cho
gia đình biết.
Bảng 7: Loại thủ phạm và việc tái diễn LDTD
Thủ phạm Người Bạn Không Người thân bè, Hàng Người Chủ quen nước trong Hành vi bị LD: người xóm yêu biết ngoài gia quen đình
Có lập lại: 6 3 1 10 4
66,7 66,7 31,6 100,0 100,0
Không lập lại: 5 13 2 2 2
33,3 33,3 68,4 100,0 100,0
Trẻ bị lạm dụng, một mặt sợ do bị hăm dọa, mặt khác không ý thức nguy cơ việc
bị lạm dụng có thể gây hậu quả nghiêm trọng như việc mang bầu. Có trẻ sợ rằng vụ việc
bị tiết lộ sẽ đem lại tai tiếng cho gia đình và tai tiếng cho chính bản thân. Có trẻ trong
trường hợp loạn luân lại không dám tiết lộ hành vi của cha vì sợ mẹ buồn.
2.7. Thời gian sự kiện lạm dụng bị tiết lộ
Người Bạn thân Không Người bè, Hàng Người Chủ Total trong quen nước người xóm yêu gia biết ngoài quen đình
- Biết ngay: 1 12 3 2 2 26
46,7 50,0 66,7 66,7 100,0 53,1
3 3 1 - Sau 1 5 1 1 17
tháng: 33,3 50,0 16,7 33,3 100,0 100,0 34,7
3 - Sau 1 năm 3 6
20,0 16,7 12,2
Không kể đến những vụ lạm dụng có tính chất "tự nguyện", tỷ lệ các vụ lạm
dụng được biết ngay sau khi xảy ra thuộc những trẻ bị cưỡng bức bởi những người hàng
xóm, những người không quen biết, bởi chủ...
Trong những vụ loạn luân do trẻ thường bị hăm dọa, vụ việc thường được giấu
kín, nên tỷ lệ bị tiết lộ ngay không cao. Tỷ lệ được biết ngay sau vụ việc xảy ra chỉ chiếm
46,7% so với các vụ lạm dụng mà thủ phạm là những người thuộc loại khác thường
chiếm tỷ lệ cao hơn. Có những vụ loạn luân mà chỉ sau 4, 5 năm trẻ mới thổ lộ với những
người quen biết.
2.8. Thái độ của cha mẹ trước sự kiện trẻ bị lạm dụng
Thái độ của cha mẹ trước sự kiện trẻ bị lạm dụng cũng khác nhau, và tùy thuộc
tính chất lạm dụng.
Với các thủ phạm: trong trường hợp thủ phạm là một người hàng xóm, người
quen của TEBLD, thoạt tiên thái độ của cha mẹ là một thái độ giận dữ. Nhiều cha mẹ của
TEBLDTD đã đưa vụ việc ra công an, tòa án. Nhưng cũng có trường hợp cha mẹ muốn
bảo vệ uy tín của gia đình, không muốn có tai tiếng ảnh hưởng đến tương lai của
TEBLDTD, đã thương lượng với gia đình của thủ phạm để được bồi thường. Nếu thương
lượng thành công sự kiện bị lạm dụng tình dục sẽ không còn được công khai đề cập đến.
Nếu việc thương lượng không thành công, sự kiện bị lạm dụng sẽ d đưa ra công
an và tiếp tục các thủ tục để truy tố. Theo nhiều cơ quan bảo vệ quyền trẻ em, các vụ việc
thương lượng này đôi lúc làm mờ nhạt các tang chứng của hành vi lạm dụng tình dục.
Trong trường hợp chồng loạn luân, thái độ của người vợ cũng rất phức tạp. Có
trường hợp người vợ phẫn nộ và đi báo ngay cho công an (LD33). Nhưng rất nhiều bà mẹ
không tin khi con gái mình kể lại, như trường hợp LD5: "... mẹ đi khám bệnh cho em, ở
nhà dượng ghẻ vừa dụ dỗ vừa hăm dọa. Em sợ quá và dượng đã lạm dụng em... Sau đó
em kể liền cho mẹ nghe, nhưng mẹ bênh dượng và mắng em... Kể từ đó mẹ không nhìn
mặt em. Em xin đi rửa chén bán và về sống với ngoại. Sau đó em buồn, đi phụ bán cafe
và từ từ ra mướn nhà sống riêng..." (LD12).
Nhiều bà mẹ có chồng loạn luân cấm không cho các TEBLDTD tiết lộ. Em
LD28 kể lại: "sau vụ đó, mẹ em cấm không được cho ai biết, nếu biết mẹ sẽ đánh".Và từ
khi biết được sự việc nhiều bà trở nên trầm cảm hơn: "Từ đó mẹ em không nhìn em và ba
em, không nói chuyện với em" (LD1).
Nhiều bà mẹ mặc dù chứng kiến hay biết được các hành vi loạn luân của chồng,
nhưng có thái độ rất cam chịu. Cá tính của các bà mẹ trong các gia đình có xảy ra loạn
luân cần được nghiên cứu nhiều trường hợp hơn nữa, nhưng một số trường hợp điển hình
cho ta thấy hình như đây là những người vợ rất sợ các ông chồng phong kiến, cộc cằn.
Các bà vợ này chỉ biết cam chịu các hành vi tồi tệ của chồng: "Một lần mẹ đi bắt cá về
sớm mẹ thấy mẹ la lên. Một lát sau ông đánh mẹ liền, cấm mẹ không được nói cho ai
biết... Chỉ có lần ổng đánh mẹ đem nhân sông. May có người la lên cứu mẹ. Sau đó mẹ
mới thưa với công an luôn" (PV15). Có nhiều bà mẹ còn đổ lỗi cho con tố cáo nên chồng
bà mới bị ở tù (LD30).
Với các nạn nhân là các TEBLDTD, thái độ của cha mẹ cũng thay đổi tùy tính
chất của việc bị lạm dụng tình dục. Có cha mẹ có thái độ ân cần an ủi con sau khi sự kiện
xảy ra, nhất là trong trường hợp trẻ bị lạm dụng bởi những người lạ hay trong trường hợp
trẻ bị cưỡng bức. Những trường hợp trẻ bị lạm dụng bởi người yêu, bạn bè, cha mẹ
thường la mắng nhưng không đi đến việc xua đuổi. Nhưng cũng có cha mẹ, sau khi sự
kiện bị biết đến đã mắng nhiếc con cái và có trường hợp đuổi các TEBLDTD ra khỏi nhà
vì xem điều này làm ảnh hưởng đến uy tín danh dự của gia đình (PV3).
Có cha mẹ tiếc nuối sự kiện trẻ bị lạm dụng. Em PV8 - đi chơi về khuya, quá
giang xe bị người ta cưỡng bức ở chọ - đã kể lại: "Mẹ nói: Đẻ mày ra thà mầy đi bán
trinh, chứ để mầy đi chơi mầy bị phá...".
Đối với những bà mẹ đã nhẫn tâm "bán trinh" con mình thì dĩ nhiên là an ủi con
và đổ lỗi cho số phận hoặc tìm cách biện minh cho hành vi phi đạo đức của mình: "Má
buồn, nhưng nói tại thiếu nợ quá phải đưa con "đi" như vậy, con đừng buồn má" (LD10).
Hoặc "Má nói: thôi lỡ rồi con đừng buồn má này nọ" (PV7). Hoặc trắng trợn hơn: "Ná
nói: thà bán có tiền, chứ nếu không mai mốt mày cho không thằng bồ mày" (LD41), bị
mẹ bán trinh lúc 15 tuổi cho một người Hoa tại công viên VănLang).
3. Các yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến việc bị lạm dụng tình dục
Nhiều ý kiến cho rằng việc phổ biến phim ảnh đồi trụy, tệ nạn uống rượu, say
rượu của đàn ông... là các nhân tố dẫn đến việc lạm dụng tình dục. Trong nghiên cứu của
chúng ta cũng có những trường hợp thủ phạm bị khích động bởi phim ảnh hay say rượu...
Nhưng thật ra đây là những nguyên nhân gần. Có những yếu tố sâu xa hơn chi phối vấn
đề đang được nghiên cứu.
Trước hết là những yếu tố vĩ mô thuộc bối cảnh kinh tế xã hội và văn hóa: trong
những năm gần đây, cùng với việc xuất hiện của nền kinh tế thị trường, đã xuất hiện sự
phân cực giàu nghèo. Một số người càng ngày càng nghèo đi, nợ nần chống chất đến nỗi
phải bán trinh con gái, xem đó như là phương cách giải quyết nghèo khổ. Nhiều em gái đi
vào con đường mãi dâm trước hết nhằm giúp gia đình, nhưng dần dà đua đòi, vì ham
muốn một cuộc sống giàu sang bằng con đường dễ dãi, các em đã trở thành chuyên
nghiệp. Nghèo khổ còn buộc trẻ phải bỏ học, lao động sớm, đi làm mướn. Đây cũng là
những điều kiện, dễ đẩy trẻ vào nguy cơ bị lạm dụng.
Nền kinh tế thị trường với mặt trái của nó như chủ nghĩa tiêu thụ, đề cao sự
hưởng thụ tình dục đã có ảnh hưởng lớn đến sự gia tăng tệ nạn hiếp dâm: trong số các
trường hợp được nghiên cứu, khoảng 10% các vụ hiếp dâm trong đó thủ phạm được gợi
dục bằng phim ảnh.
Nhưng chính trong bối cảnh xã hội, văn hóa Việt Nam cũng có những yếu tố làm
cơ sở cho tệ nạn lạm dụng tình dục này phát triển.
Trước hết là đầu óc phong kiến trong gia đình Việt Nam. Nhiều bậc cha mẹ quan
niệm con cái như là vật sở hữu, như tục ngữ Việt Nam có câu: "Một con một của không
chừa". Do đó mẹ có quyền bán con, cha có quyền lạm dụng con và dùng uy quyền hăm
dọa để bít kín sự việc. 30% vụ lạm dụng tình dục trong cuộc nghiên cứu này là các vụ loạn
luân do cha ruột, cha kết, bác, anh họ... Các trường hợp điển hình trong cuộc nghiên cứu này
đã cho thấy nhiều người phụ nữ biết chồng lạm dụng con, nhưng vẫn làm thinh, chịu đựng vì
"sĩ diện của gia đình". Và người con gái bị bán trinh lại xem như đây là dịp trả hiếu cha mẹ.
Đây là một quan điểm phong kiến xem thường nhân phẩm phụ nữ đã ít nhiều ăn sâu trong
quan niệm một số gia đình Việt Nam.
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường kéo theo sự thay đổi thang giá trị trong
xã hội. Sự thay đổi hệ thống giá trị cũng là yếu tố làm nhiều gia đình tan vỡ. Tư tưởng
thực dụng lấy ý tưởng giàu sang, tiền bạc làm thước đo bậc thang xã hội. Cái đạo lý
truyền thống "đói cho sạch, rách cho thơm" không còn tác dụng với lập luận của bà mẹ
bán trinh con gái: "thà bán có tiền, chứ không mai mốt mầy cho không mấy thằng bồ của
mầy".
Gia đình truyền thống Việt Nam có bổn phậm nuôi nấng, dạy bạo, bao bọc, lo
cho trẻ ăn học đến trưởng thành. Nhưng trong xã hội đang biến hiện nay, nhiều bậc cha
mẹ bận công việc kiếm sống, bỏ bê, không chăm sóc, không quan tâm đến con cái, nhiều
trẻ phải lao động sớm. Đây cũng là một trong những yếu tố làm gia tăng cơ hội dễ bị lạm
dụng. Trong các trường hợp TEBLDTD đang được nghiên cứu, chỉ có 30,6% các em hiện
còn sống đầy đủ với cha mẹ ruột. Gần 70% các TEBLDTD còn lại thuộc các gia đình
thiếu cha hay thiếu mẹ vì cha mẹ mất, cha mẹ ly dị, cha hoặc mẹ tái hôn... Sự tan rã, chắp
nối của cơ cấu gia đình là yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến việc trẻ bị lạm dụng tình dục. Trong
các trường hợp nghiên cứu kể trên, hơn 25% trường hợp loạn luân là do cha kế.
Cũng có những yếu tố nguy cơ gắn liền với đứa trẻ. Một vài trường hợp trên cho
thấy các em gái, các trẻ đường phố, các trẻ lao động, các em giúp việc nhà, các em không
còn tiếp tục việc học, các em thuộc những gia đình nghèo, các em bị cha mẹ bỏ bê không
chăm sóc dễ bị lạm dụng tình dục hơn các em khác.
4. Một số khía cạnh tâm lý của các TEBLDTD
Như trong phần phương pháp luận chúng tôi đã trình bày, nghiên cứu này sử
dụng một số các thang điểm để đo lường một vài khía cạnh tâm lý của TEBLDTD.
4.1. Thang điểm CAT: Thang điểm này gồm 38 câu hỏi, tập trung trong ba vấn
đề chính mà chúng tôi gọi là ba yếu tố (factors).
- Yếu tố thứ nhất tạm gọi là NEG, phản ánh sự bỏ bê không chăm sóc con cái của
cha mẹ và bầu khí tiêu cực trong gia đình (cha mẹ bất hòa...).
- Yếu tố thứ hai tạm gọi là PUN, phản ảnh việc cha mẹ hay trừng phạt xâm phạm
về thể chất các trẻ đang được nghiên cứu.
- Yếu tố thứ ba tạm gọi là SA, phản ánh sự lạm dụng tình dục trong gia đình:
chính trẻ bị lạm dụng hay chứng kiến cảnh bị lạm dụng.
Bảng 9: Trung bình của các số đo phụ thuộc theo thang điểm CAT
của TEBLDTD và TEBT
TEBLDTD TEBT mdyn
(n = 50) (n = 50)
- NEG 37,82 32,65 0,102
- PUN 11,68 10,90 0,309
- SA 5,18 0,95 0,000
- Tổng CAT 52,50 44,50 0,031
mdyn = mức độ ý nghĩa
Mặc dù mức độ ý nghĩa không cho thấy sự khác biệt về mặt thống kê, số đo trung
bình của các câu hỏi để tìm hiểu về bầu khí tiêu cực trong gia đình và sự không quan tâm
của cha mẹ đối với con cái ở TEBLDTD là 37,82, ở TEBT là 32,65.
Số đo trung bình về việc cha mẹ hay trừng phạt, lạm dụng con cái về mặt thể chất
là 11,68 ở các TEBLDTD và 10,90 ở TEBT. Các số đo này cũng không có sự khác biệt
về ý nghĩa thống kê.
Và cuối cùng, số đo trung bình về việc bị lạm dụng tình dục hay chứng kiến việc
lạm dụng tình dục trong gia đình ở các TEBLDTD là 5,18 và ở TEBT là 0,95. Sự khác
biệt này rất có ý nghĩa về mặt thống kê (p = 0,000). Có 22% các TEBLDTD chứng kiến
cảnh lạm dụng tình dục trong gia đình, trong khi tỷ lệ này ở TEBT chỉ 4%.
Số đo trung bình tổng cộng của thang điểm CAT ở các TEBLDTD là52,50 và
44,50 ở TEBT. Sự khác biệt này rất có ý nghĩa thống kê (p = 0,031). Và như vậy cho thấy
tương quan giữa ba yếu tố kể trên và sự khác biệt giữa TEBLDTD và TEBT. Nói cách
khác, TEBLDTD thường sống trong gia đình có một bầu khí tiêu cực: cha mẹ bất hòa,
hay la mắng, không quan tâm đến con cái và trừng phạt hay xâm phạm thân thể các
TEBLDTD.
4.2. Về thang điểm YSR
Bảng 10: Trung bình của các số đo phụ thuộc theo thang điểm YSR của TEBLDTD
và TEBT
TEBLDTD TEBT mđyn
- YSR - Sc1 6,46 5,36 0,043
- YSR - Sc2 5,48 4,66 0,234
- YSR - Sc3 15,16 9,66 0,000
- YSR - Sc4 6,08 5,44 0,201
- YSR - Sc5 3,74 4,16 0,489
- YSR - Sc6 8,80 6,76 0,002
- YSR - Sc7 4,72 2,74 0,007
- YSR - Sc8 9,32 8,22 0,292
- YSR - Internal 25,96 18,84 0,000
- YSR - External 14,04 10,96 0,032
- YSR - tcộng 67,64 52,52 0,002
Qua bảng trên, so với TEBT, các TEBLDTD có số đo trung bình về các thang
điểm phụ sau đây có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê.
- Thang điểm phu YSR - Sc1 - đo lường thái độ co cụm, co rút - qua các câu hỏi
về sự cô đơn, không muốn trò chuyện, tính kín đáo, rụt rè, thiếu sinh khí, buồn bã, co
rút... - cho thấy TEBLDTD có thái độ co rút lại hơn sau biến cố mà các em đã trải qua.
Số đo trung bình ở thang điểm phụ này ở TEBLDTD là 6,46 trong khi ở các TEBT là
5,36 (p = 0,043).
- Thang điểm phụ YSR - Sc3 - đo lường mức độ trầm cảm - qua các câu hỏi về
sự cô đơn, tính hay khóc, tự làm khổ mình, nghĩ có thể làm điều xấu, tính ưa sự hoàn hảo,
sợ không ai thương yêu mình, cảm thấy người khác làm hại mình, cảm thấy vô dụng, cảm
thấy căng thẳng, sợ hãi, mặc cảm, quá khổ sở về hành động của mình, tính đa nghi, thích
hủy hoại mình, tính hay lo lắng... - cho thấy các TEBLDTD nữ này bị trầm cảm ở mức độ
cao, bởi lẽ số đo của các em ở thang điểm này là 15,16 trong khi ở TEBT chỉ 9,66 (p =
0,000).
- Thang điểm phụ YSR-Sc6 - tìm hiểu khả năng tập trung của thanh thiếu niên -
qua các câu hỏi: về khả năng tập trung, việc hay cảm thấy bối rối, hay mơ mộng, hành
động mà không suy nghĩ, cảm thấy căng thẳng, học hành không tốt, cảm thấy vụng về...
Số đo trung bình của thang điểm này ở TEBLDTD là 8,80 trong khi ở TEBT là 6,76 (p =
0,002).
- Thang điểm phụ YSR-Sc7 - để đo lường hành vi phạm pháp của thanh thiếu
niên. Thang điểm này thể hiện qua các câu hỏi: thích chơi với kẻ gây rối, không cảm thấy
ân hận khi làm điểm không nên... thích nói dối, thích chơi với người lớn tuổi hơn, thích
bỏ trốn nhà, thích phá hoại, ăn cắp đồ vật, thích chửi thề, cúp cua, sử dụng các chất gây
nghiện... Số đo trung bình này là 4,72 ở TEBLDTD và 2,74 ở TEBT (p = 0,007).
- Thang điểm phụ YSR-Internal, để đo lường tính hướng nội của thanh thiếu niên
bao gồm tổng số của 3 thang điểm YSR-Sc1, YSR-Sc2, YSR-Sc3. ở đây ta cũng thấy có
sự khác biệt rất rõ nét giữa TEBLDTD và TEBT. Số đo trung bình ở thang điểm phụ này
giữa hai loại trẻ lần lượt là: 25,96 và 18,84 (p = 0,031).
- Mặt khác một điểm cũng đáng lưu ý về tâm lý của TEBLDTD: một mặt sau
biến cố bị lạm dụng, các em trở nên lầm lỳ, co rút lại, nhưng mặt khác các em lại muốn
đập phá tất cả để giải tỏa những uẩn ức, những mâu thuẫn, cam chịu của mình. Do đó,
thang điểm phụ về tính hướng ngoại của các em cũng khá cao, so với các TEBT. Thang
điểm phụ YSR-External được tính bằng cách cộng lại hai thang điểm về hành vi phạm
pháp (YSR-Sc7) và hành vi gây hấn (YSR-Sc8). Các số đo của các TEBLDTD và TEBT
lần lượt: 14,04 và 10,96 (p = 0,000).
Trong các yếu tố có thể ảnh hưởng đến thang điểm YSR, chúng tôi đã kiểm soát
các yếu tố: tính chất của việc bị lạm dụng, các loại thủ phạm, mức sống của gia đình các
TEBLDTD, thái độ của cha mẹ sau khi vụ lạm dụng xảy ra, tình trạng gia đình của cha
mẹ (ly dị hay còn ở với nhau...), thì chỉ có yếu tố tuổi tác có tương quan với các số đo của
YSR. Hay nói cách khác các TEBLDTD tuổi càng lớn tuổi càng dễ bị tổn thương bởi yếu
tố bị lạm dụng, như bảng sau cho thấy:
Bảng 11: Tương quan giữa thang điểm YSR và một số yếu tố
Tương quan Mức độ ý nghĩa
- Nông thôn - đô thị: 0,19 0,184
- Tuổi hiện nay: 0,43 0,002
- Tuổi khi bị lạm dụng: 0,28 0,055
- Mức sống: 0,25 0,089
- Thái độ đối xử của cha mẹ: 0,40 0,013
- Thang điểm Punish: 0,02 0,911
- Thang điểm NEGL: 0,44 0,001
- Thang điểm hỗ trợ xã hội: 0,27 0,059
- Thang điểm tự tin: 0,22 0,115
- Thang điểm CAT: 0,56 0,000
Bảng 12: Tương quan giữa tuổi tác của các TEBLDTD và các số đo
trong thang điểm YSR
Các thang điểm phụ YSR Hệ số tương quan Mức độ ý nghĩa
- YSR - Sc1 0,30 0,031
- YSR - Sc3 0,50 0,000
- YSR - Sc5 0,26 0,070
- YSR - Sc7 0,39 0,006
- YSR - Internal 0,45 0,001
- YSR - External 0,41 0,003
- YSR - tcộng 0,43 0,002
Các số liệu thống kê cho thấy số đo thang điểm YSR của lứa tuổi bằng hay dưới
15 tuổi là 54,40 và từ 16 tuổi trở lên là 78,14 (p = 0,001): ở những trẻ đã bị lạm dụng từ 3
năm trở xuống là 61,58 và trên 4 năm là 80,43. Điều này cho thấy biến cố bị lạm dụng đã
có ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài lên các em. Những trẻ càng lớn tuổi càng bị sự kiện này tác
động. Có thể các em càng lớn càng ý thức sự tai hại của biến cố trên. Và trong phần
phỏng vấn sâu cũng cho ta thấy nhiều em nhỏ tuổi không biết mình đang bị lạm dụng. Vì
không ý thức nên biến cố này cũng ít tác động đến các em. Thời gian không làm khuây
khỏa những biến cố này mà càng gia tăng sự chấn động của biến cố.
Nơi cư trú của các em - vùng nông thôn hay đô thị - cũng ít ảnh hưởng đến
TEBLDTD ở nông thôn: 60,07, ở các quận nội thành: 70,58 (p = 0,184).
4.3 Thang điểm về sự tự tin (SE)
Nhìn chung, số đo thang điểm SE không có sự khác biệt giữa TEBT và
TEBLDTD: 62,6 và 66,50, (p = 0,279).
Bảng 13: Tương quan giữa thang điểm SE và một số yếu tố
Hệ số tương quan Mức độ ý nghĩa
- Trình độ học vấn: 0,40 0,004
- Cảm nhận về cuộc sống hiện tại: 0,31 0,027
- Thái độ đối xử của cha mẹ: 0,44 0,006
- Tuổi: 0,225 0,115
- Mức sống của gia đình: 0,183 0,207
- Tính chất của cưỡng bức: 0,0012 0,993
Thang điểm này không có tương quan với các yếu tố sau: tình trạng gia đình,
mức sống của gia đình, tính chất của sự cưỡng bức.. và ngay yếu tố tuổi tác cũng không
tác dụng đến sự tự tin.
Trong các yếu tố tạo được sự tự tin cho trẻ thì trình độ giáo dục, và thái độ cư xử của cha mẹ trong gia đình đối với trẻ(1) có tác động mạnh tạo niềm tự tin cho trẻ: hệ số
tương quan lần lượt của hai yếu tố này lần lượt là: r = 0,40 (p = 0,004) và r = 0,44 (p =
0,006). Ngoài ra cũng có tương quan giữa sự tự tin và cảm nhận của trẻ về cuộc sống hiện tại(1): r = 0,31 (p = 0,027).
4.4. Thang điểm về sự hỗ trợ xã hội
Thang điểm về sự hỗ trợ xã hội cho thấy một sự khác biệt có ý nghĩa, nhưng rất
nhỏ, giữa các TEBT và các TEBLDTD. Thang điểm về sự hỗ trợ xã hội ở TEBT và 11,94
và ở TEBLDTD là 10,06 (p = 0,052). Điều này có nghĩa là TEBT có được sự hỗ trợ xã
hội cao hơn, được nhiều sự giúp đỡ từ gia đình, bà con, bạn bè nhiều hơn các TEBLDTD.
Số đo về sự hỗ trợ xã hội cho thấy có tương quan với mức sống gia đình của các
em (r = 0,217, p = 0,030), và với cảm nhận của các em về cuộc sống hiện nay (r = 0,28, p
(1) Được phân ra làm bốn mức độ: gần gũi, chăm sóc / bình thường / ít gần gũi, ít chăm sóc / lạnh nhạt. (1) Được phân ra làm ba mức độ: rấte thích, rất bằng lòng / tạm được / không thích thú chút nào.
= 0,004). Hay nói cách khác các em thuộc các gia đình khá giả càng cảm thấy có nhiều sự
giúp đỡ và ngược lại. Đồng thời trẻ nào cảm thấy càng thoải mái với cuộc sống hiện tại
thì càng có số đo về hỗ trợ xã hội cao.
45
40
35
30
25
TEBLDTD TEBT
20
15
10
5
0
So sánh tỷ lệ các tác nhân giúp đỡ giữa các TEBLDTD và TEBT
Nhìn chung, TEBLDTD ít có được sự giúp đỡ từ gia đình, họ hàng hơn các
TEBT, do vậy các TEBLDTD thường tìm sự giúp đỡ từ bên ngoài gia đình hơn.
5. Tình trạng hiện nay, các khó khăn và mong muốn của các em
Theo bảng 1, trong các TEBLDTD hiện có 26,5% các em đang đi học chữ, 8,2%
đang học nghề, 20,4% đang đi làm, 18,4% làm công việc nội trợ giúp gia đình. Tỷlệ các
TEBLDTD còn đi học kém xa tỷ lệ đi học của các TEBT. Còn các tỷ lệ các TEBLDTD
đang đi làm, đang tìm việc, đang làm việc nội trợ thì cao so với các TEBT.
Do công việc chủ yếu hiện nay khác biệt, do hoàn cảnh gia đình và các biến cố
mà các em trải qua cũng khác biệt, các em cũng có những khó khăn khác nhau:
Bảng 14: Những khó khăn lớn nhất hiện nay của các em
TEBLDTD TEBT
- Khó khăn kinh tế: 29,1 23,3
- Mâu thuẫn gia đình, bị la mắng: 16,4 15
- Khó khăn trong việc làm: 14,5 2,3
- Đơn côi: 10,9 5
- Mặc cảm: 9,1 3,3
- Khó khăn nhà cửa: 7,3 20
- Gia đình đông: 3,6 6,7
- Thiếu phương tiện học hành, học kém: 3,6 20
- Bệnh 1,8 1,7
Ngoài các khó khăn chung về kinh tế, về sự đối xử trong gia đình mà các em thuộc
các gia đình nghèo thường gặp phải, các TEBLDTD nhấn mạnh hơn các khó khăn trong
công việc các em đang làm, công việc không ổn định (14,5% so với 2,3% của TEBT), khó
khăn do đơn côi (10,9% so với 5%) vì gần 70% các TEBLDTD có gia đình khuyết cha hay
khuyết mẹ ruột hoặc các em phải sống với người khác. Sự kiện bị lạm dụng tình dục đã gây
cho các em mặc cảm và đây cũng là một khó khăn lớn của các em (9,1% so với 3,3%). Các
TEBT cũng có mặc cảm nhưng mặc cảm của các em do hoàn cảnh gia đình nghèo, không
có phương tiện để đi học, không có điều kiện để học thêm, gia đình chật chội không có
không gian dành cho việc học tập của các em...
Những khó khăn của các em cũng gắn liền những mơ ước của các em để giải
quyết những khó khăn trên.
Với các TEBLDTD đó là mơ ước có công việc ổn định, có chỗ để ở, mong ước
gia đình được đoàn tụ (nhiều em có cha mẹ ly dị, cha ở tù...), mong ước không ai biết sự
kiện các em đã bị lạm dụng.
Với các TEBT, đó là ước mơ được đi học, có các phương tiện để tiếp tục việc
học... (xem xem bảng 15).
Bảng 15: Những mong ước nhất hiện nay của các em.
TEBLDTD TEBT
- Có công việc làm, ổn định: 24,1 17,9
- Có nhà ở: 16,7 7,1
- Gia đình được hạnh phúc, đoàn tụ: 14,8 8,9
- Được đi học: 13 23,2
- Được trợ giúp tiền, vốn: 9,3 12,5
9,3 - Không ai biết được chuyện bị lạm
dụng đã xảy ra:
- Có nghề nghiệp: 7,3 12,5
- Có phương tiện đi học, học thêm: 1,9 14,3
- Được đi chơi, du lịch: 1,9 3,6
5. Các biện pháp can thiệp
Trong những năm gần đây, tệ nạn lạm dụng tình dục trẻ em có chiều hướng gia
tăng. Chính quyền, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức phi chính phủ Việt Nam và
nước ngoài đã có những biện pháp trên nhiều mặt để ngăn chặn tệ nạn này.
5.1. Các biện pháp ngăn ngừa
Gây ý thức: Các số liệu cho thấy, tại thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ mại dâm trẻ
em là 2,1% so với tổng số gái mãi dâm vào năm 1989 đã tăng lên 11,42% vào năm 1995.
Trước sự kiện này, năm 1995 Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đã tổ chức vào năm
1995 tại thành phố Hồ Chí Minh một cuộc hội thảo lớn với sự tham gia của nhiều cơ
quan với chủ đề: "Phòng chống lạm dụng tình dục và mại dâm trẻ em". Cuộc hội thảo
này có sự tham gia của các chuyên gia thuộc nhiều tổ chức và có tác dụng lớn trong việc
đánh động dư luận quần chúng. Việt Nam đã cử nhiều đoàn tham dự các cuộc hội thảo
trong khu vực cũng như quốc tế về vấn đề trẻ em bị lạm dụng tình dục, như hội thảo ở
Phnôm Pênh, Campuchia năm 1995 hay đại hội chống bóc lột tình dục trẻ em tại
Stockholm, Thụy Điển năm 1996.
Báo chí thành phố càng ngày càng đưa nhiều thông tin, lên án các vụ hiếp dâm
trẻ em, loạn luân, các vụ mua bán trẻ em và cảnh giác dư luận quần chúng trước những tệ
nạn này.
Trong các nhà mở dành cho trẻ em đường phố, đều có tổ chức các buổi học tập,
hướng dẫn của các giáo dục viên đường phố nhằm tránh việc các em bị lạm dụng khi lao
động trên đường phố.
UBBVCSTE các cấp cũng tổ chức các buổi tọa đàm cùng cha mẹ trong các buổi
họp dân phố nhằm hướng dẫn các bậc cha mẹ phòng tránh những lạm dụng tình dục có
thể xảy ra cho con em mình.
5.2. Các biện pháp bảo vệ
Về pháp luật, việc Quốc hội Việt Nam vừa thông qua luật hình sự có sửa đổi và
bổ sung vào tháng 5-1997 vừa qua là một tiến bộ rất lớn của Nhà nước Việt Nam trong
việc ngăn ngừa tệ nạn này. Qua đó đã gia tăng những hình phạt đối với những tác phẩm
có liên quan đến lạm dụng tình dục và mại dâm trẻ em. Tùy mức độ của tác phẩm, có
mức án lên đến chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra luật còn phân ra các độ tuổi chi tiết từ
dưới 18 tuổi và với các nạn nhân càng nhỏ tuổi thì mức án cho thủ phạm càng cao. Luật
cũng chi tiết hóa các trường hợp loạn luân và cũng đưa vào điều khoản mới về "tội dâm ô
đối với trẻ em".
Các cơ quan như UBBVCSTE, hội Phụ nữ, Hội LHTN các cấp đều có các hoạt
động nhằm hướng dẫn giúp lập các hồ sơ các vụ LDTDTE nhằm truy tố trước pháp luật,
theo dõi, kiến nghị giải quyết các vụ án, giúp đỡ gia đình các TEBLDTD.
5.3. Các biện pháp phục hồi và hội nhập
Hiện nay trong thành phố có một số mái ấm dành cho các TEBLDTD, như mái ấm
Tân Thuận Tây. Cầu Muối (trẻ nam), Thanh Xuân, Nhà Nữ Bình Thạnh, mái ấm Bà Chiểu,
mái ấm phường 13 quận 4... Trong các mái ấm này các em được chăm sóc về mặt y tế,
được học chữ, học nghề và cả giáo dục giới tính. Sau một thời gian nhiều em đã trở về
với gia đình, với cộng đồng.
Trong một số vụ án có liên quan LDTDTE, chính quyền và các đoàn thể đã giúp
một số gia đình thay đổi chỗ ở để tránh những mặc cảm không tốt cho các em và gia
đình. Một số hoạt động trong cộng đồng nhằm huy động sự trợ giúp của cộng đồng đối
với các gia đình nạn nhân, nhất là sự hỗ trợ tinh thần.
Một số trường hợp các TEBLDTD được tư vấn và chữa trị về mặt tâm lý. Nhưng
những số trường hợp này không nhiều.
Kết luận
Mặc dù chỉ là một cuộc nghiên cứu nhỏ, báo cáo này cũng gợi mở cho chúng ta
nhiều vấn đề:
Cuộc nghiên cứu này - do tính chất sơ bộ - đã giới hạn trong việc tìm hiểu các em
gái bị lạm dụng tình dục trong khoảng tuổi 12 - 18 tuổi. Do đó để hiểu rõ hơn vấn đề
đang được nghiên cứu, cần phải bao gồm trong đối tượng nghiên cứu cả những trẻ em
dưới 12 tuổi và cả những trẻ em trai bị lạm dụng tình dục. Nhưng để tiến hành nghiên
cứu những đối tượng này cần chuẩn bị những công cụ nghiên cứu phù hợp, ví như những
thang điểm tâm lý thích hợp cho trẻ em dưới 12 tuổi... Cuộc nghiên cứu này thiên về việc
tìm hiểu việc bị lạm dụng tình dục trong gia đình, do đó còn cần bổ sung thêm bằng
những cuộc nghiên cứu các TEBLDTD đang ở trong các mái ấm, nhà mở.
Các thang điểm tâm lý như trên đã cho thấy các TEBLDTD bị tổn thương rất lớn
về mặt tâm lý so với các TEBT. Các em có thái độ co cụm lại hơn, mức độ trầm cảm cao
hơn, khả năng tập trung kém hơn nhưng mặt khác các em lại có thái độ hung hăng muốn
đập phá tất cả để trút bớt những căng thẳng, những đau khổ của mình.
Sự tổn thương về mặt tinh thần và thể chất do các hành vi lạm dụng tình dục là
rất lớn. Theo ý kiến của một chuyên viên đang theo dõi trường hợp các em bị lạm dụng
tình dục, có khoảng 30% bị lạm dụng tình dục (trong các trường hợp bị hiếp dâm, loạn
luân) sau này hành nghề mãi dâm, bởi lẽ các em quan niệm "không còn gì phải mất". Đây
là một tỷ lệ rất cao làm cho chúng ta phải suy nghĩ.
Các em chịu nhiều căng thẳng như vậy, nhưng rất ít em được tư vấn và chữa trị
về mặt tâm lý, bởi lẽ biện pháp can thiệp này xem ra còn xa lạ và mới mẻ với xã hội Việt
Nam.
Về các biện pháp can thiệp, trong các chương trình giáo dục chính thức của nhà
trường, trong việc dạy dỗ của cha mẹ trong gia đình - bởi lẽ tình dục vẫn còn bị xem là
một lĩnh vực "cấm kỵ" - nên gia đình và nhà trường chưa có những biện pháp thích hợp
để truyền dạy cho các em những kiến thức nhằm phòng ngừa việc bị lạm dụng tình dục.
Trên bình diện vĩ mô, nhà nước Việt Nam là quốc gia thứ nhất ở châu á và là
quốc gia thứ nhì trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em và hiện nay trong luật
hình sự đã được sửa đổi (5/1997) có những điều khoản trừng trị rất nặng nề những ai có
hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em. Đây là những điểm rất đáng khen ngợi, nhất là
đối với một đất nước nghèo khi còn có những vấn đề khác đáng phải quan tâm hơn.
Tuy nhiên trong những quốc gia đã từng chịu ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam
khinh nữ, trong những quốc gia mà trước đây - do ảnh hưởng của nền sản xuất nông
nghiệp - con cái được xem như là những vật sở hữu của cha mẹ thì việc lạm dụng tình
dục đối với trẻ em - nhất là lạm dụng tình dục trong gia đình - chỉ có thể ngăn ngừa một
cách triệt để, hữu hiệu khi mọi người thay đổi quan niệm về trẻ em, khi mọi người ý thức
và thực hiện những quyền của trẻ em, khi mà trẻ em cũng được thừa nhận là những nhân
phẩm có quyền được phát triển một cách đầy đủ trên mọi phương diện như bất cứ con
người nào khác trong xã hội.