ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
VŨ THỊ SÁNG
GIÁO DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA
TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH
SỬ LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
HÀ NỘI – 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
VŨ THỊ SÁNG
GIÁO DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA
TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH
SỬ LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGHÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
Mã số : 8 14 01 11
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Quang Hiển
HÀ NỘI – 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự hướng
dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học
Quốc gia, Đại học Giáo dục cùng quý thầy cô trong Khoa sau Đại học đã tạo
rất nhiều điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Vũ Quang Hiển. Thầy
đã vô cùng nhiệt tình hướng dẫn tôi làm luận văn. Trong quá trình thực hiện
đề tài, thầy luôn động viên, định hướng, góp ý để tôi có thể hoàn thành tốt
luận văn này.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường trung học phổ
thông Trần Hưng Đạo, các thầy cô và các em học sinh trong trường cũng đã
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra, khảo sát và tiến hành
thực nghiệm.
Cuối cùng, tôi rất muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân
và bạn bè đã luôn động viên, hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 12 năm 2017
Tác giả
1
Vũ Thị Sáng
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Đọc là Viết tắt
Đối chứng ĐC
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
Giáo viên GV
Học sinh HS
Phương pháp dạy học PPDH
Sách giáo khoa SGK
Trung học phổ thông THPT
2
Thực nghiệm TN
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 1.1.Các kênh thông tin HS sử dụng để tìm hiểu các kiến thức chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc.......................................................................... 43
3
Biểu đồ 2.1. So sánh kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC ......... 100
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Trang
Hình 2.1. Máy bay B52 và máy bay 6A6 của Mĩ ngày đêm ném bom và thả
ngư lôi phong tỏa cửa sông, cảng biển ở nhiều tỉnh phía Bắc……………. 62
Hình 2.2.Sơ đồ trận chiến theo mô tả trong sách Tài liệu Hải chiến Hoàng
Sa của Vũ Hữu San và Trần Đỗ Cẩm ........................................................ 68
Hình 2.3. Bốn chiến hạm Việt Nam Cộng hòa tham gia trận chiến .......... 70
Hình 2.4. Bia chủ quyền do Pháp dựng ở đảo Hoàng Sa năm 1938 ........... 71
Hình 2.5. Bia chủ quyền Việt Nam dựng trên đảo Trường Sa,quần Đảo
Trường Sa (1961) ........................................................................................ 72
Hình 2.6. Đường Hồ Chí Minh trên biển .................................................... 84
Hình 2.7. Vận chuyển hàng lên tàu không số .............................................. 85
Hình 2.8. Đoàn tàu không số vận chuyển vũ khí trên Đường Hồ Chí Minh trên
biển để chi viện cho chiến trường miền Nam .............................................. 86
Hình 2.9. Bốc xếp gạo xuất khẩu tại cảng Sài Gòn .................................... 89
Hình 2.10. Tàu thuyền khai thác hải sản ở vùng biển đảo Lý Sơn .............. 90
4
Hình 2.11. Khai thác dầu khí tại mỏ Bạch Hổ .............................................. 91
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO
DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG ..... 11
1.1 Cơ sở lí luận ............................................................................................ 11
1.1.1. Một số khái niệm ................................................................................ 11
1.1.2. Mục tiêu của môn Lịch sử ở trường phổ thông ................................. 14
1.1.3. Những yêu cầu cơ bản của vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông .... 16
1.1.4. Nội dung giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ Quốc trong
dạy học Lịch sử ở trường phổ thông .............................................................. 24
1.1.5. Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp ở trường phổ thông ................ 36
1.2 Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 39
1.2.1. Thực trạng của việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12 trung học phổ thông .......... 39
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết ..................................................... 44
5
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................. 59
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC VỀ CHỦ
QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ...................................... 51
2.1. Mục tiêu, nội dung cơ bản của chƣơng trình Lịch sử lớp 12 – chƣơng
trình chuẩn .................................................................................................... 51
2.1.1. Mục tiêu................................................................................................ 51
2.1.2. Những nội dung cần khai thác trong chương trình Lịch sử lớp 12 THPT
– Chương trình chuẩn để giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc . 53
2.2. Những yêu cầu cơ bản khi xác định các biện pháp giáo dục ý thứcchủ
quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12 –
chƣơng trình chuẩn ..................................................................................... 59
2.2.1. Xác định đúng những kiến thức cơ bản cần dạy ................................ 59
2.2.2. Phù hợp với đặc điểm, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh ......................... 60
2.2.3. Đảm bảo tính cụ thể, hình ảnh, giàu biểu tượng lịch sử ...................... 61
2.2.4. Đảm bảo tính sư phạm, tính khoa học, tính tư tưởng ......................... 63
2.2.5. Đảm bảo phát huy tính tích cực học tập, tính chủ động, sáng tạo . ..... 64
2.3. Một số biện pháp giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc cho học sinh lớp 12 trong dạy học lịch sử ......................................... 65
2.3.1. Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong
giờ học nội khóa ............................................................................................ 66
2.3.2. Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh
thông qua hoạt động ngoại khóa .................................................................... 92
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm .......................................................................... 98
2.4.1. Mục đích, đối tượng thực nghiệm ....................................................... 98
2.4.2. Nội dung thực nghiệm ........................................................................ 98
2.4.3. Kết quả thực nghiệm .......................................................................... 99
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................ 103
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................................... 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 107
6
PHỤ LỤC ................................................................................................. .. 112
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự phát triển chung của thế giới và trong nước, Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định
“Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam”. Luật giáo dục (2005) trong điều 2 cũng đã
quy định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trên cơ sở quán triệt những chủ trương, chính sách của Đảng và dựa
trên sự phân tích rõ ràng bối cảnh quốc tế cũng như trong nước, trong chiến
lược phát triển giáo dục 2011 – 2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhận định
“Giáo dục nước ta trong thập kỉ tới phát triển trong bối cảnh thế giới có
nhiều thay đổi nhanh và phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo
dục đã trở thành xu thế tất yếu. Cách mạng khoa học công nghệ, công nghệ
thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác
động trực tiếp đến sự phát triển của nền giáo dục trên thế giới”. Do vậy,
Đảng và Nhà nước luôn khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu,
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển; giáo dục vừa là mục tiêu vừa
là động lực để phát triển kinh tế - xã hội...
Thế kỉ XXI là thế kỉ của đại dương. Để tiếp tục phát huy các tiềm năng
của biển trong thế kỉ XXI, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa X) đã thông qua nghị quyết số 09 – NQ/TW ngày 9/2/2007 về “
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định các quan điểm
7
về định hướng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020: Một là, nước ta phải
trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi
tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu
phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao
với tầm nhìn dài hạn. Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội
với đảm bảo quốc phòng – an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết
hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ba là, khai thác mọi nguồn lực để
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động,
tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong;
tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên
tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước… [2. tr. 7-8]
Trong lịch sử chiều dài hàng ngàn năm lịch sử, Việt Nam luôn khẳng
định là một quốc gia biển với quá trình khai phá lãnh thổ, mở mang bờ cõi
hướng biển. Việt Nam có quyền lợi sống còn đối với việc khẳng định chủ
quyền ở biển Đông. Biển Đông đóng một vai trò tối quan trọng, là một trong
những yếu tố hàng đầu tạo nên vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế
giới. Biển Đông không chỉ là lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thiêng liêng của
Việt Nam mà còn là nơi có tiềm năng kinh tế khổng lồ, nhất là dầu khí và
nguồn thủy sản, giúp cho Việt Nam có thể khẳng định được sức mạnh kinh tế
của mình ở khu vực. Hơn thế nữa, biển Đông có một vị trí đặc biệt quan trọng
đối với việc mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế và an ninh quốc gia Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển đang đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức, gần đây nhất là việc Trung Quốc hạ đặt dàn
khoan trái phép, xâm phạm chủ quyền điển đảo nước ta. Trước những diễn
biến phức tạp của tình hình Biển Đông thì việc tuyên truyền, giáo dục ý thức
về chủ quyền biển đảo tổ quốc cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ cần thiết và
8
mang tính chiến lược.
Như vậy, chúng ta thấy rằng cần thiết phải trang bị cho mỗi công dân
những hiểu biết cơ bản về lãnh thổ, lãnh hải của nước mình, để mỗi người dân
đều có ý thức bảo vệ Tổ quốc.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “ Giáo
dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học
lịch sử lớp 12 trung học phổ thông” cho cho đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xung quanh vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung và vấn đề
Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy
học Lịch sử ở trường phổ thông nói riêng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu
khoa học quan tâm.
2.1. Các công trình nghiên cứu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
Chưa bao giờ đề tài biển đảo lại có sức hút và đón nhận được sự quan
tâm của cả nước như hiện nay. Đã có rất nhiều cuốn sách, tư liệu nghiên cứu
về biển đảo, về quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa như một lời khẳng định chủ
quyền thiêng liêng của Tổ quốc, để mỗi người dân Việt Nam thêm tự hào
trước sự hy sinh anh dũng của bao thế hệ cha anh đi trước trong công cuộc
bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hải đảo của Tổ quốc.
Đầu tiên phải kể đến là cuốn “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông” do
tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ làm chủ
biên. Được xuất bản đúng thời điểm Luật Biển Việt Nam vừa được Quốc hội
thông qua, cuốn sách góp phần tuyên truyền sâu rộng những thông tin chính
xác đến với mọi tầng lớp nhân dân; đồng thời khẳng định những quan điểm
đúng đắn, khách quan của Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề tranh chấp,
trong quyết tâm bảo vệ chủ quyền, các quyền, lợi ích chính đáng của mình
trên Biển Đông và trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của Nhà nước Việt
Nam trước cộng đồng khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, cuốn sách còn phân
9
tích thực tiễn phân định và giải quyết tranh chấp về thềm lục địa của một số
quốc gia trên thế giới thông qua các án lệ điển hình của cơ quan tài phán quốc
tế.
Cuốn sách “Hoàng sa, trường sa là của Việt Nam” là tác phẩm của tập
thể nhiều tác giả do nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2008. Nội dung cuốn
sách là tập hợp một số bài nghiên cứu, bài báo và những tư liệu mới của các
nhà sử học và các nhà nghiên cứu, chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, xét về mặt lịch sử và luật pháp
quốc tế. Cuốn sách cũng đề cập tới bối cảnh của cuộc tranh chấp hiện nay đối
với hai quần đảo này nói riêng và Biển Đông nói chung, cũng như những ý
kiến về một giải pháp cho cuộc tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế.
Kèm theo đó là những tư liệu liên quan, chẳng hạn toàn văn bản Tuyên bố về
các nguyên tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông mà các nước ASEAN và
Trung Quốc đã ký kết năm 2002.
Ban tuyên giáo thành ủy Hà Nội cũng đã xuất bản tác phẩm “Tổ quốc
nơi đầu sóng qua các tác phẩm báo chí từ Thủ đô Hà Nội”. Cuốn sách là tập
hợp các tư liệu, tác phẩm báo chí nhằm chuyển tải đến độc giả rộng rãi những
quan điểm, lập trường và ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển,
đảo Tổ quốc; khắc họa chân thực, sinh động về cuộc sống đời thường, kiên
cường bám biển, tinh thần sẵn sàng chiến đấu, thực thi nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển đảo quê hương của các chiến sĩ hải quân, lực lượng cảnh sát biển,
kiểm ngư, của các ngư dân và nhân dân ta phản ánh tình cảm sâu sắc và các
hoạt động phong phú, thiết thực của nhân dân và báo chí Thủ đô với điển đảo
quê hương.
“Chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc” là cuốn sách của nhiều
tác giả, do Thiếu tá, nhà báo Trần Hoàng Tiến – phóng viên Báo Quân đội
nhân dân biên soạn, thông qua các câu chuyện sinh động đã khắc họa về con
người, sự kiện gắn liền với những phần lãnh hải cơ bản thiêng liêng của Tổ
quốc từ thuở hồng hoang cha ông ta xuống biển” đến ngày nay. Trong đó nổi
10
bật là hình ảnh người chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam vững vàng nơi
đầu sóng ngọn gió, ngày đêm canh giữ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của
Tổ Quốc; cùng với đó là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của đất liền với
quân dân trên các đảo; là niềm tin yêu son sắt qua những câu chuyện cảm
động về tình quân dân cá nước...
Nhằm giới thiệu về chủ quyền biển đảo tới đông đảo tầng lớp thanh
niên tri thức của thế hệ ngày nay, Ban tuyên giáo trung ương cũng đã công bố
tác phẩm “100 câu hỏi – đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam”. Cuốn
sách gồm ba nội dung chính , đó là: Hỏi – đáp về vị trí, vai trò và tiềm năng
của biển, đảo Việt Nam. Hỏi – đáp về các vấn đề liên quan đến các quyền và
bảo vệ các quyền của Việt Nam trên biển Đông. Hỏi – đáp về xây dựng và
phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển, đảo Việt Nam. Cuốn sách là cẩm
nang cần thiết, giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam nói chung, học sinh và sinh viên
Việt Nam nói riêng có cái nhìn tổng quan về biển, đảo Việt Nam, từng bước
nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp theo là cuốn “Việt Nam và tranh chấp Biển Đông của tập thể
nhiều tác giả do nhà xuất bản tri thức ấn hành. Cuốn sách tập hợp nhiều bài
viết xung quanh vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, sự tranh chấp
lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc là tranh chấp chủ quyền trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà hiện tại chưa có giải pháp nào hợp lý. Thông
qua cuốn sách này, bạn đọc sẽ biết thêm những thông tin mới nhất về tình
hình tranh chấp trên Biển Đông thông qua một tập hợp các bài viết của các
thành viên trong Quỹ Nghiên cứu cứa Biển Đông, trong đó nhấn mạnh đến
chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, tham vọng của Trung Quốc và các
quốc gia chung Biển Đông, đồng thời đề xuất một số giải pháp giải quyết
11
tranh chấp.
2.2. Các công trình nghiên cứu về giáo dục học và phƣơng pháp dạy
học
Các giáo trình nghiên cứu về phương pháp dạy học lịch sử như:
“Phương pháp dạy học lịch sử tập 1 do Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh
Đình Tùng và Nguyễn Thị Côi (2010) đã đề cập đến những vấn đề về hệ
thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT, qua đó cùng với việc
dạy học lịch sử, giáo viên cần phải phát triển năng lực nhận thức và thực hành
cho học sinh trong học tập lịch sử thông qua đó cũng hình thành cho học sinh
tư tưởng, tình cảm cách mạng .
Bên cạnh đó là cuốn “Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy học sinh làm
trung tâm” của Hội khoa học lịch sử Việt Nam do GS Phan Ngọc Liên chủ
biên đã đề cập đến phương hướng, biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học
lịch sử ở trường phổ thông hiện nay trong đó nhấn mạnh tới vấn đề phát huy
năng lực tư duy của học sinh thông qua những công cụ hỗ trợ của giáo viên.
Cuốn “Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Lịch sử cấp THCS” của Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã nêu nên việc đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học,
kiểm tra đánh giá trong giáo dục trung học cơ sở theo định hướng tiếp cận
năng lực. Các tác giả cũng đã xác định được các năng lực chung cốt lõi của
học sinh và năng lực chuyên biệt của môn lịch sử, ngoài ra cũng chỉ ra các
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng
lực môn lịch sử.
Cuối cùng là cuốn “Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Lịch sử cấp
THCS” của Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu nên việc đổi mới đồng bộ phương
pháp dạy học, kiểm tra đánh giá trong giáo dục trung học cơ sở theo định
hướng tiếp cận năng lực. Tác phẩm cũng đã xác định được các năng lực
12
chung cốt lõi của học sinh và năng lực chuyên biệt của môn lịch sử, ngoài ra
cũng chỉ ra các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo định hướng
phát triển năng lực môn lịch sử
2.3. Các bài báo cáo khoa học, bài biết cho tạp chí và luận văn
Trước hết phải kể đến là bài viết có tựa đề “Giáo dục ý thức chủ quyền
biển đảo cho học sinh trung học phổ thông qua môn lịch sử” của tác giả Đặng
Hoàng Sang in trên kỷ yếu hội thảo khoa học năm 2015 của trường Đại học
Cần Thơ. Bài viết đã chỉ ra được vấn đề chủ quyền biển đảo trong nhà trường
phổ thông chưa được chú trọng đề cập theo hướng tương xứng với tầm quan
trọng của nó. Việc chưa đưa nội dung giáo dục chủ quyền biển đảo vào
chương trình sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông để giảng dạy rất cần
một định hướng hoàn thiện và mang tính lâu dài.
Thạc sĩ Nguyễn Đức Toàn đã có bài viết với tiêu đề “Sử dụng tư liệu
gốc để giáo dục chủ quyền biển, đảo cho học sinh ở trường trung học phổ
thông (qua chương trình chuẩn sách giáo khoa lịch sử 10)” trong kỷ yếu hội
thảo khoa học năm 2015 của trường Đại học Cần Thơ. Tác giả đã nêu ra được
những khái niệm cơ bản về chủ quyền biển đảo và tư liệu gốc. Qua đó cũng
đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu gốc trong việc giáo dục chủ quyền
biển, đảo ở trường THPT qua bài học nội khóa. Cuối cùng đi đến khẳng định:
Bên cạnh sách giáo khoa, tư liệu lịch sử nói chung và tư liệu gốc nói riêng
góp phần quan trọng vào việc khôi phục và tái hiện hình ảnh của quá khứ. Bởi
tư liệu gốc chính là hiện thân của quá khứ để HS có thể dựa vào đó nhìn nhận,
đánh giá sự phát triển của lịch sử.
Ngoài các bài viết trên báo, tạp chí còn có luận văn nghiên cứu về vấn
đề chủ quyền biển, đảo như: Luận văn thạc sĩ của tác giả Đậu Thị Hải Vân
với đề tài “Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10, trung học phổ thông (chương trình
13
chuẩn) năm 2012. Hay luận văn của tác giả Đặng Thị Huế với đề tài “Sử dụng
tư liệu về chủ quyền biển đảo Tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung
học phổ thông” năm 2015.
Do đó, trên cơ sở thành tựu của các công trình nghiên cứu, được sự
hướng dẫn và giúp đỡ của thầy PGS.TS Vũ Quang Hiển, chúng tôi đã tiến
hành nghiên cứu, sưu tầm, khai thác tài liệu để tổ chức dạy học lịch sử nhằm
giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh lớp 12 trung
học phổ thông.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Nội dung và biện pháp giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12, trung học phổ thông.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12 trung học phổ thông.
Về hình thức: Bài dạy nội khóa và ngoại khóa
Về địa bàn khảo sát, thực nghiệm: Tiến hành khảo sát tại trường THPT
Trần Hưng Đạo, Hà Đông – Hà Nội.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích
Góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của
Tổ quốc cho học sinh Trung học phổ thông trong dạy học lịch sử nói riêng mà
còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục Lịch sử ở trường phổ thông nói
chung.
5.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc và việc giáo dục ý thức cho học sinh về chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc.
Nghiên cứu thực trạng việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của
14
Tổ quốc cho học sinh trung học phổ thông trong dạy học lịch sử.
Xác định vị trí, vai trò, mục tiêu, nội dung của chương trình Lịch sử lớp
12 (chương trình chuẩn), qua đó xác định nội dung kiến thức giáo dục ý thức
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trung học phổ thông trong dạy
học lịch sử.
Đề xuất một số biện pháp, hình thức giáo dục ý thức chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử.
Tiến hành khảo sát, thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi
của đề tài nghiên cứu.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phƣơng pháp luận
Dựa trên các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về Giáo dục
và Đào tạo, những thành tựu nghiên cứu mới về lí luận giáo dục, tâm lý học,
phương pháp dạy học lịch sử của các nhà nghiên cứu khoa học , giáo dục lịch
sử, nghiên cứu lịch sử.
6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết được sử dụng để
Nghiên cứu các nghị quyết của Đảng, Nhà nước, các văn bản của bộ
GD&ĐT, của các cấp ngành có liên quan đến đề tài. Các công trình của các
tài liệu từ các nguồn: sách, báo, tạp chí, internet…về các vấn đề có liên quan
đến giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát, điều tra thu thập thông tin về vấn đề giáo dục ý thức chủ
quyền biển, đảo cho học sinh Trung học phổ thông trong dạy học lịch sử: điều
tra bằng phiếu đối với giáo viên và học sinh ở trường Trung học phổ thông
Trần Hưng Đạo, Hà Đông - Hà Nội.
15
- Sưu tầm các tàu liệu có liên quan đến đề tài
- Thực nghiệm sư phạm các biện pháp và hình thức giáo dục ý thức chủ
quyền biên, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 để
minh chứng cho tính đúng đắn, khả thi của các biện pháp sư phạm đã đề ra.
7. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình dạy học lịch sử lớp 12, việc giáo dục ý thức chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh đảm bảo tính khoa học, thực tiễn và vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học lịch sử, phù hợp với điều
kiện thực tế tại các trường THPT thì sẽ nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
8. Ý nghĩa của luận văn
8.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần làm phong phú về mặt lí luận,
khẳng định vai trò, ý nghĩa của giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc cho học sinh Trung học phổ thông trong dạy học Lịch sử. Đồng thời, đề
tài đề xuất những phương pháp tổ chức các hoạt động dạy học lịch sử cho học
sinh lớp 12 nhằm giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiệu quả,
nâng cao chất lượng dạy và học.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo đối với các đồng nghiệp,
đặc biệt đối với giáo viên dạy bộ môn Lịch sử ở các trường trung học phổ
thông nói chung, ở Hà Nội nói riêng.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và
Phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 2 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 trung học
phổ thông.
Chƣơng 2: Các biện pháp giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
16
cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 trung học phổ thông.
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO
CỦA TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm “ý thức” và “giáo dục ý thức”
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác – Lênin là một phạm trù song
song với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có
mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
Giáo dục là khái niệm cơ bản, quan trọng nhất của giáo dục học.
Về bản chất: giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh
nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người.
Về hoạt động: giáo dục là quá trình tác động đến các đối tượng giáo
dục để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách.
Về mặt phạm vi: giáo dục được hiểu là quá trình sư phạm. Quá trình sư
phạm là quá trình tác động có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp
khoa học của các nhà sư phạm trong nhà trường tới học sinh nhằm giúp học
sinh nhận thức, phát triển trí tuệ và hình thành những phẩm chất nhân
cách.[16.tr.12]
Như vậy, “giáo dục ý thức là sự phản ánh của hiện thực khách quan,
hình thức thông qua quá trình giáo dục ý thức con người. Như ý thức về chủ
quyền lãnh thổ Tổ quốc, ý thức về chủ quyền biển đảo Tổ Quốc. Giáo dục ý
thức chính là quá trình giáo dục làm khơi dậy sự phản ánh của hiện thực
17
khách quan cho con người” [34.tr. 38-43].
1.1.1.2. Khái niệm “chủ quyền biển, đảo”
Chủ quyền là “Quyền cao nhất của một dân tộc, một quốc gia độc lập,
tự mình làm chủ đất đai, tài sản, tự mình quyết định vận mệnh của mình.
Những nội dung này được khẳng định trong pháp luật mỗi nước, trong văn
bản pháp lí quốc tế, là nguyên tắc cơ bản cần tuân theo”[15]
Theo hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập có chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng
biển và vùng trời”.
Khái niệm chủ quyền biển, đảo nằm trong khái niệm chủ quyền lãnh
thổ quốc gia.
Vì vậy, “Chủ quyền lãnh thổ quốc gia” là quyền tối cao tuyệt đối, hoàn
toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình.
Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền quyết định mọi vấn đề
của quốc gia đối với lãnh thổ, đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Mỗi quốc gia có quyền đặt ra quy chế pháp lí đối với lãnh thổ. Với tư cách là
chủ sở hữu, Nhà nước có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với lãnh
thổ thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước như hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Một số khái niệm nằm trong khái niệm chủ quyền biển, đảo tổ quốc.
Nội thủy: “Theo quy định của khoản 1 Điều 8 Công ước Luật Biển
1982, nội thủy là “các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở, dùng để tính
chiều rộng lãnh hải”. Nội thủy là một bộ phận lãnh thổ của quốc gia ven biển,
có quy chế pháp lý như vùng nước hồ, ao, sông ngòi trong lục địa và thuộc
chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối của quốc gia ven biển”. [1.tr.87]
Lãnh hải: “là vùng biển nằm giữa nội thủy và vùng biển thuộc quyền
chủ quyền (vùng tiếp giáp) và có chiều rộng là ≤ 12 hải lý tính từ đường cơ sở.
Ranh giới bên trong của lãnh hải là đường cơ sở của quốc gia ven biển, còn
18
ranh giới ngoài của lãnh hải là đường song song với đường cơ sở và có chiều
rộng bằng chiều rộng lãnh hải của quốc gia này đã được chính thức công bố.
Đây là đường biên giới quốc gia trên biển, có ý nghĩa giới hạn chủ quyền của
quốc gia ven biển”.[1.tr.101]
Lãnh hải rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các điểm
nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ của Việt
Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ
và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển của lãnh hãi.
Vùng tiếp giáp lãnh hải: là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt
Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng
biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt
Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự
kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, nhằm bảo vệ an
ninh, bảo vệ các quyền lợi về hải quan, thuế khóa, đảm bảo sự tôn trọng các
quy định về y tế, về di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
Vùng đặc quyền kinh tế: là một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và
quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng
nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế
Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ
cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế; có thẩm quyền riêng
biệt về nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thẩm quyền bảo vệ môi trường,
chống ô nhiễm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Thềm lục địa: bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần
kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam
19
cho đến bờ ngoài của rìa lục địa. Nếu nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý
thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về thăm dò,
khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa
Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài
nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm lục địa Việt Nam.
Bảo vệ “chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc” chính là bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc.
Như vậy, “giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo” là giáo dục ý thức về
chủ quyền biển đảo Tổ Quốc và giáo dục cho các em ý thức cần phải bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong thời đại hiện nay.
1.1.2. Mục tiêu của môn Lịch sử ở trƣờng Phổ thông
Mục tiêu của chương trình Lịch sử THPT nói chung và của chương
trình Lịch sử lớp 12 nói riêng được xác định dựa trên mục tiêu của giáo dục
phổ thông đã được quy định trong luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (2005). Theo đó, khoản 4, điều 27 quy định: “Giáo dục trung
học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của
giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết
thông thường về kĩ thật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá
nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp,
học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động…”
Môn Lịch sử có ý nghĩa quan trọng góp phần hoàn thiện nhân cách cá
nhân, do vậy, cũng như các nước trên thế giới, Việt Nam coi Lịch sử là một
trong những môn học cơ bản trong nhà trường phổ thông. Mục tiêu chung
của môn học này là nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần
thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Trên cơ sở đó, giúp hình thành thế
giơi quan, nhân sinh quan khoa học cho các em; giáo dục lòng yêu quê hương,
đất nước, truyền thống dân tộc, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
20
hình thành các năng lực tư duy hành động, có thái độ ứng xử đúng đắn trong
đời sống xã hội, có hoài bão góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Cụ thể mục tiêu của môn Lịch sử THPT được xác định là:
Về kiến thức: Cung cấp những kiến thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử
phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã hội loài người trên cơ sở củng cố,
phát triển nội dung kiến thức lịch sử đã học ở bậc THCS.
Khác với hệ thống tri thức ở bậc THCS, ở bậc THPT, kiến thức lịch sử
Việt Nam vẫn được ưu tiên dành nhiều thời lượng hơn nhưng vẫn đảm bảo
được hệ thống tri thức lịch sử thế giới (từ thời công xã nguyên thủy đến thời
hiện đại) để các em học sinh có thể hình dung một cách toàn diện, sâu sắc hơn
về lịch sử quốc tế và lịch sử dân tộc.
Cụ thể, bộ môn Lịch sử ở trường THPT có nhiệm vụ cung cấp cho học
sinh những kiến thức cơ bản, hiện đại của khoa học Lịch sử, bao gồm: các sự
kiện lịch sử, các khái niệm, thuật ngữ, niên đại, tên người, tên đất,…của lịch
sử dâ tộc và lịch sử thế giới; những quy luật lịch sử, các quan điểm lý luận sơ
giản để nhận thức lịch sử, hình thành nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn
cho các em.
Về kĩ năng: rèn luyện năng lực tư duy và các năng lực thực hành cho
học sinh theo hướng tăng các nội dung khái quát hóa, nội dung suy luận giúp
học sinh hiểu sâu sắc hơn lịch sử. Dạy học lịch sử ở trường phổ thông phải
rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cần thiết cho học tập Lịch sử, từ việc có
quan điểm lịch sử như xem xét sự kiện và nhân vật, làm việc với sách giáo
khoa và các nguồn sử liệu, biết phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát…, có
năng lực tự học, phát hiện, đề xuất, giải quyết vấn đề, học sinh nâng cao hơn
năng lực tư duy và thực hành. Vận dụng các kiến thức lịch sử đã học vào cuộc
sống hiện đại.
Các nội dung được thiết kế cho chương trình Lịch sử THPT đảm bảo
21
tính phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, sự phát triển trí tuệ của học sinh ở giai
đoạn này. Các câu hỏi không chỉ dừng lại ở việc liệt kê, trình bày mà đi đến
yêu cầu phân tích, đánh giá, đưa ra nhận định về một sự kiện, hiện tượng lịch
sử. hơn nữa, trong bối cảnh đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thì học sinh sẽ
làm việc nhiều hơn là giáo viên trình bay bài giảng. Như vậy, sau khi hoàn
thành chương trình học, học sinh sẽ được phát triển nhiều kĩ năng cần thiết
cho việc tự học, tự nghiên cứu và nhiều kĩ năng khác phục vụ cho cuộc sống
sau này.
Về thái độ: Giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các
dân tộc đấu tranh cho độc lập, tự do, văn mình, tiến bộ xã hội, hòa bình, dân
chủ. Thông qua kiến thức lịch sử giáo dục cho các em lòng biết ơn, noi gương
theo các thế hệ cha anh, phấn đấu trong học tập và lao động có ý thức làm
nghĩa vụ công dân, nghĩa vụ quốc tế…Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tinh
thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc đấu tranh cho độc lập dân
tộc, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội, hòa bình, dân chủ; hình thành những
phẩm chất cần thiết trong cuộc sống cộng đồng….
Như vậy, mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường trung học phổ thông là
cung cấp kiến thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử phát triển hợp quy luật của
dân tộc và xã hội loài người, rèn kĩ năng tư duy và thực hành qua học tập bộ
môn. Trên cơ sở đó, giáo dục thái độ, tình cảm đúng đắn với các sự kiện, nhân
vật lịch sử, bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lí tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
1.1.3. Những yêu cầu cơ bản của vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông
1.1.3.1. Xác định rõ mục tiêu
Bất cứ hoạt động giáo dục nào cũng phải có những mục tiêu nhất định
để làm định hướng cho hoạt động giáo dục được thể hiện có hiệu quả. Trước
22
khi thực hiện tổ chức dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc cho học sinh, giáo viên cũng phải xác định rõ mục tiêu hướng đến của
công việc đó là gì. Từ đó, xác định phương pháp, hình thức, nội dung để tổ
chức dạy học cho phù hợp, hiệu quả.
Việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học
lịch sử ở trường THPT là thực sự cần thiết. Qua các biện pháp giáo dục ý thức
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử sẽ trang bị cho học
sinh những kiến thức chính xác, cụ thể về chủ quyền quyền biển, đảo của Tổ
quốc, qua đó giúp các em nhận thức sâu sắc vai trò, giá trị của biển, đảo đối
với nhiệm vụ phát triển đất nước trong lịch sử cũng như trong hiện tại và
tương lai. Nắm vững kiến thức về chủ quyền biển, đảo là cơ sở để học sinh tự
hào về truyền thống yêu nước, bảo vệ chủ quyền đất nước của nhân dân ta,
học sinh ý thức được trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ sự toàn vẹn các
lãnh thổ Tổ quốc.
1.1.3.2. Xác định đúng kiến thức cơ bản
Thể hiện ở hai yếu tố: nội dung và mức độ kiến thức cần cung cấp.
Kiến thức cơ bản là những cái then chốt cần phải có, là cái có ý nghĩa nhất, có
tác dụng nhất đối với sự phát triển nhân cách của học sinh. Do vậy, kiến thức
cơ bản thường là những kiến thức đã được đề cập trong sách giáo khoa nhưng
những gì phù hợp, cần thiết cho việc giáo dục học sinh thì cũng cần đưa vào
bài học. Việc dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước cũng là những kiến thức như vậy.
Để làm rõ điều này, giáo viên phải xác định rõ mục tiêu và những ưu
tiên khi tổ chức dạy học. Việc xác định đúng những kiến thức trong bài sẽ
giúp bài giảng được cô đọng, súc tích và nâng cao chất lượng bài giảng. Bám
sát đặc điểm đối tượng học sinh, những yêu cầu và nội dung cơ bản được đề
cập trong chương trình môn học sẽ giúp giáo viên xác định đúng cần dạy cái
gì, từ đó biết được phải dạy như thế nào. Nhờ vậy, giáo viên đưa học sinh đến
23
được mục tiêu đã đặt ra
1.1.3.3. Phương pháp tổ chức dạy học phải phát huy tính chủ động tích cực
của học sinh
“Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực chính là phát
huy được tính tích cực nhận thức của học sinh. Nói cách khác là “Dạy học lấy
hoạt động của người học làm trung tâm”[5.tr. 29].
Trong dạy và học tích cực, dưới sự thiết kế, tổ chức, định hướng của
giáo viên, người học được tham gia vào quá trình hoạt động học tập từ khâu
phát hiện vấn đề, tìm giải pháp cho vấn đề đặt ra, thực hiện các giải pháp và
rút ra kết luận. Quá trình đó giúp người học lĩnh hội nội dung học tập đồng
thời phát triển năng lực sáng tạo.
Trong dạy học tích cực, học sinh là chủ thể hoạt động, gió viên đóng
vai trò người tổ chức hướng dẫn, đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng,
có kĩ năng sư phạm, đặc biệt phải có tình cảm nghề nghiệp thì việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực mới đạt hiệu quả.
Phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học Lịch sử nói
riêng luôn là lĩnh vực đòi hỏi sự sáng tạo nhiều nhất. Trong điều kiện lịch sử
mới, nhất là sự phát triển của khoa học hiện đại, đặc biệt là công nghệ - thông
tin, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đòi hỏi và tạo điều
kiện cho sự đổi mới công nghệ và phương pháp dạy học. Xu thế dạy học hiện
nay đó là thực hiện quan điểm “lấy người học làm trung tâm”. Theo đó, toàn
bộ quá trình dạy học phải hướng vào người học, phương pháp dạy học phải
dựa trên đặc điểm của người học, để khai thác tối đa tiềm năng trí tuệ, tính
tích cực và sáng tạo của học sinh và tập thể học sinh với mục tiêu là làm phát
triển tối đa năng lực của người học; rèn luyện cho học sinh thói quen, năng
lực tự học, tự nghiên cứu để có thể học thường xuyên và suốt đời.
Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo của HS, tăng cường rèn luyện năng lực tự học của HS.
Quan điểm và định hướng đổi mới phương pháp dạy học các môn, trong đó
24
có môn Lịch sử, cần được tuân thủ nghiêm túc, sáng tạo đối với mọi GV. Đối
với GV lịch sử cần phải thực hiện tốt đi đầu trong việc thay đổi lối dạy học
truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực, HS
phải được hướng dẫn tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khái quát và xử
lý thông tin lịch sử, đặc biệt chú ý đến rèn luyện năng lực tự học.
1.1.3.4. Sử dụng đa dạng các hình thức tổ chức dạy học
Tùy thuộc vào điều kiện, mục tiêu và chương trình giáo dục, giáo viên
có thể lựa chọn nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Mỗi hình thức tổ
chức dạy học lại có những ưu và nhược điểm riêng.
Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử
Phương pháp trực quan là hệ thống cách thức, biện pháp giáo viên sử
dụng đồ dùng hoặc phương tiện trực quan nhằm huy động các giác quan của
học sinh tham gia vào quá trình nhận thức, làm cho việc tiếp thu kiến thức trở
nên dễ dàng và rèn luyện các kĩ năng cho học sinh.
Đồ dùng trực quan được chia thành 3 nhóm chính: nhóm đồ dùng trực
quan hiện vật, đồ dùng trực quan tạo hình và đồ dùng trực quan quy ước.
Nhóm đồ dùng trực quan hiện vật gồm: những di tích lịch sử, cách
mạng, những di vật khảo cổ và di vật của các thời kì lịch sử. Đây là một loại
tài liệu gốc rất có giá trị, được lưu giữ trong các trung tâm lưu trữ, viện bảo
tàng hoặc ở tại các di tích. Vì vậy trong điều kiện thuận lợi giáo viên nên tổ
chức dạy học lịch sử ở các địa điểm trên.
Nhóm đồ dùng trực quan tạo hình gồm: mô hình, sa bàn và các loại đồ
phục chế khác; Hình vẽ, tranh ảnh, phim tư liệu lịch sử lấy chủ đề về lịch sử.
Các loại đồ dùng trực quan tạo hình có khả năng khôi phục lại hình ảnh
của con người, đồ vật, sự kiện lịch sử một cách cụ thể, sinh động và khá xác
thực.
Nhóm đồ dùng trực quan quy ước gồm: Bản đồ lịch sử, niên biểu, đồ thị,
25
sơ đồ...
- Bảng viết là phương tiện được sử dụng phổ biến nhất. Bảng viết gồm
có hai loại chủ yếu: bảng viết phấn (màu đen hoặc xanh), bảng viết bằng bút
dạ.
- Các phương tiện kĩ thuật gồm: máy chiếu hắt (Overhead), rađiô, máy
ghi âm, video, tivi, máy tính...
Dạy học nêu vấn đề (dạy học nêu và giải quyết vấn đề).
Vấn đề này được nhiều nhà giáo dục học, giáo dục các bộ môn quan
tâm nghiên cứu. Dựa vào ý kiến của các nhà khoa học chúng ta có thể rút ra
những điểm chủ yếu về dạy học nêu vấn đề.
Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp cụ thể mà là các tư
tưởng, nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành nhiều phương pháp dạy học. Nó
được vận dụng trong tất cả các khâu của giờ học và là một kiểu dạy học dựa
trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách
sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Bản chất của nó là tạo
nên các tình huống có vấn đề và điều khiển người học giải quyết những vấn
đề học tập đó. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho người học lĩnh hội vững chắc kiến
thức mới, kỹ năng mới hoặc thái độ tích cực.
Dạy học nêu vấn đề bao gồm các thành tố, trình bày nêu vấn đề, tình
huống có vấn đề và bài tập nêu vấn đề (bài tập nhận thức).
Tình huống có vấn đề hay tình huống học tập là trạng thái tâm lý xuất
hiện khi con người gặp phải tình huống khó khăn giải quyết bằng tri thức đã
có, bằng cách thức đã biết không thể được mà đòi hỏi phải lĩnh hội tri thức
mới và cách thức hành động mới. Có những loại tình huống có vấn đề sau:
Tình huống nghịch lý là tình huống vấn đề xuất hiện đứng trước một sự
lựa chọn rất khó khăn giữa hai hay nhiều phương án giải quyết.
Tình huống bác bỏ là tình huống vấn đề đòi hỏi phải bác bỏ một luận
điểm kết luận sai lầm. Để đạt được điều đó người học phải tìm ra được chỗ
yếu, chỗ sai, chỗ thiếu chính xác của luận điểm hoặc kêt luận đó và chứng
26
minh tính chất sai lầm của chúng.
Tình huống tại sao là tình huống phổ biến trong nghiên cứu khoa học
và trong dạy học.
Các tình huống này đòi hỏi người học phải vận dụng kiến thức và kĩ
năng vốn có để giải quyết vấn đề đặt ra. Người học phải tìm ra được các mối
liên hệ đặc biệt là mối liên hệ nhân quả. Tìm ra được nguyên nhân dẫn đén
kết quả đó.
Dạy học theo dự án: là một hình thức (phương pháp nghĩa rộng) dạy
học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết
hợp giữa lí thuyết và thực hành, thực tiễn. Nhiệm vụ này được người học thực
hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ xác định mục đích,
lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, thu thập thông tin, phân tích dữ liệu,
kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả…Làm việc nhóm là dạng
tổ chức hoạt động chủ yếu của dạy học dự án.
Dạy học theo dự án có các đặc điểm: định hướng thực tiễn, định hướng
HS (hối thúc hành động), định hướng sản phẩm.
Có thể tổ chức dạy học theo dự án với trình tự sau:
+ Lựa chọn đề tài và xác định mục đích của dự án. Đây là công đoạn
đầu tiên rất quan trọng. Trong giai đoạn này, giáo viên và học sinh cùng nhau
đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án.
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học
sinh xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, trong đó cần xác định những công
việc cần làn, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và
phân công công việc trong nhóm.
+ Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện kế hoạch đề ra, trong đó
học sinh cần kết hợp các hoạt động trí tuệ với hoạt động thực tiễn, thực hành
như thu thập thông tin qua báo chí, Internet, thư viện, thực nghiệm, quan sát;
27
xử lí thông tin, thảo luận trong nhóm, trao đổi, xin ý kiến giáo viên.
+ Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: học sinh cần tập hợp tất cả
các kết quả thành một sản phẩm cuối cùng. Kết quả dự án có thể trình bày
bằng nhiều hình thức khác nhau như báo cáo, thu hoạch, đóng kịch…
+ Đánh giá dự án
Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả đạt được,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm.
Dạy học theo dự án góp phần gắn lí thuyết với thực tiễn, tư duy và hành
động, nhà trường và xã hội, kích thích động cơ và hứng thú của người học.
Đồng thời dạy học theo dự án còn góp phần phát huy tính tích cực, tính trách
nhiệm sáng tạo, bền bỉ kiên nhẫn trong công việc của học sinh. Song để vận
dụng dạy học theo dự án trong môn học GV cần lựa chọn nội dung phù hợp
và hướng dẫn học sinh chuẩn bị chu đáo [6.tr.52].
1.1.3.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động và tổ chức rút kinh nghiệm
Trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
“đổi mới kiểm tra, đánh giá được xác định là khâu đột phá trong đổi mới giáo
dục”. Thực tế, từ trước đến nay trong mục tiêu của mỗi bài học đều bao gồm
đầy đủ yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ, nhưng trong quá trình dạy - học
giáo viên chỉ chú trọng mục tiêu về kiến thức vì thi cử chủ yếu thiên về kiểm
tra kiến thức sách vở, hàn lâm, không chú ý đến kiểm tra, đánh giá năng lực
của học sinh, không kiểm tra xem các em đã đạt được kĩ năng gì trong quá
trình học tập cũng như năng lực ứng dụng những kiến thức đã học vào thực
tiễn cuộc sống ra sao. Học sinh cũng không có cơ hội được bày tỏ chính kiến,
quan điểm, tình cảm cũng như thái độ của mình trước những vấn đề nảy sinh
trong học tập cũng như trong cuộc sống thực tiễn. Cách kiểm tra, đánh giá
như vậy kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến cách dạy, cách học và chất lượng
giáo dục. Vì vậy, phương án đổi mới kiểm tra, đánh giá chú trọng đến năng
lực của học sinh triển khai sẽ là bước đột phá để khắc phục những hạn chế
28
này. Đồng thời, sẽ giúp cho việc dạy học gắn với cuộc sống thực tiễn hơn. Xu
hướng đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh tập trung vào
các hướng sau:
Một là chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa
học (đánh giá tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các
loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng
chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá
trình);
Hai là chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kỹ năng sang đánh giá
năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ,
hiểu kiến thức sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của
thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy
sáng tạo.
Ba là chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình
dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như
là một phương pháp dạy học.
Bốn là tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh
giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ
tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào
xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.
Với những xu hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt
động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay
cần phải:
- Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận
năng lực) từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ
bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực)
29
của học sinh của cấp học.
- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh
giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và
đánh giá của gia đình, cộng đồng.
- Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự
luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.
- Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng,
trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp
thời việc dạy và học.
Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên
được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:
- Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so
sánh năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ
năng (năng lực) môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp
thời hoạt động dạy và hoạt động học.
- Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản
là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và
ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học.
Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá
khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành.
Kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Hiện nay ở Việt
Nam có xu hướng chọn hình thức trắc nghiệm khách quan cho các kỳ thi tốt
nghiệp hay thi tuyển đại học. Trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm
riêng cho các kỳ thi này. Tuy nhiên trong đào tạo thì không được lạm dụng
hình thức này. Vì nhược điểm cơ bản của trắc nghiệm khách quan là khó đánh
giá được khả năng sáng tạo cũng như năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp
1.1.4. Nội dung giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy
học Lịch sử ở trƣờng phổ thông
Nhận thức được tầm quan trọng biển, đảo của Tổ quốc đối với lịch sử
30
dân tộc và thời đại ngày nay, với chức năng và nhiệm vụ giáo dục của nhà
trường phổ thông nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng góp phần quan trọng
trong việc giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo cho học sinh với những nội
dung chủ yếu sau:
1.1.4.1 Bằng chứng lịch sử, cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền biển, đảo
của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn 1956 –
1975
Biển Đông đối với Việt Nam có một tầm quan trọng về an ninh quốc
phòng, phát triển kinh tế và vận tải biển. Khu vực Biển Đông và các hải đảo
bao quanh bờ biển Việt Nam chạy dài từ Móng Cái đến tận mũi Cà Mau và
đến Hà Tiên trong khu vực vịnh Thái Lan tạo thành một vành đai bảo vệ cho
dải đất Việt Nam cong cong hình chữ S, mà có người cho rằng cứ như thể đất
mẹ Việt Nam phải oằn lưng chịu đựng gánh nặng suốt nhiều ngàn năm của
người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc.
Xét riêng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có nhiều
bằng chứng lịch sử chứng minh việc thực thi chủ quyền liên tục nhiều thế kỉ
trong quá khứ. Tuy nhiên, Trung Quốc lại viện nhiều lý lẽ, tiến tới thực hiện
chiến lược hải dương của họ, nhằm thỏa mãn tham vọng chiếm phần lớn Biển
Đông để khai thác tài nguyên và thao diễn quân sự. Tham vọng của Trung
Quốc đe dọa đến an ninh không những Việt Nam mà còn của các nước khác
trong vùng. Những lý lẽ hiển nhiên khẳng định chủ quyền của Việt Nam, tuy
vậy, vẫn còn chưa được quảng bá rộng khắp của nhân dân Việt Nam và nhân
dân thế giới so với tốc độ và khối lượng những lý lẽ ngụy biện mà các giới ở
Trung Quốc vẫn đang từng ngày từng giờ đưa ra thế giới.
Từ khi kí với triều đình nhà Nguyễn Hiệp ước 6.6.1884, Pháp đại diện
quyền lợi của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại cũng như việc bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trong khuôn khổ sự cam kết chung
đó, Pháp tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
31
Hoàng Sa và Trường Sa.
Các pháp hạm của Pháp thường xuyên tiến hành tuần tiễu trong vùng
Biển Đông, kể cả Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1899 toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đề nghị với Paris xây
tại đảo Hoàng Sa trong quần đảo Hoàng Sa một cây đèn biển để hướng dẫn
các tàu biển qua lại vùng này, nhưng kế hoạch không thực hiện được vì thiếu
ngân sách.
Từ năm 1920, Viện Hải dương học Nha Trang cử tàu De Lanessan ra
khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa về hải dương học. Ngoài A.Krempf, Giám đốc
Viện Hải dương học, còn có các nhà khoa học khác như Delacour,
Jabouille...nghiên cứu về địa chất, về sinh vật v.v...
Cũng trong năm 1925, ngày 3 tháng 3, Thượng thư Bộ Binh của Triều
đình Huế Thân Trọng Huề lại khẳng định Hoàng Sa là lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1927 tàu De Lanessan ra khảo sát khoa học quần đảo Trường Sa.
Năm 1929 phái đoàn Perrier – De Rouville đề nghị đặt 4 cây đèn biển ở
4 góc của quần đảo Hoàng Sa.
Từ 13.4.1930, đến 12.4.1993, chính phủ Pháp đã cử các đơn vị hải quân
lần lượt ra đóng các đảo chính trong quần đảo Trường Sa: Trường Sa, An
Bang, Itu Aba, nhóm Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ.
Năm 1937, nhà đương cục Pháp cử kĩ sư công chính Gauthier ra quần
đảo Hoàng Sa nghiên cứu chỗ xây dựng đèn biển, lập bãi thủy phi cơ.
Ngày 29.3.1938, vua Bảo Đại ký Dụ tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa
hạt tỉnh Nam Nghĩa đặt vào tỉnh Thừa Thiên.
Ngày 15.6.1938 toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký Nghị định
thành lập một đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa
Thiên.
Năm 1938, Pháp dựng bia chủ quyền, xây dựng xong đèn biển, trạm
khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Hoàng Sa, trong quần đảo Hoàng Sa, xây
dựng trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Itu Aba trong quần đảo Trường
32
Sa.
Suốt trong thời gian đại diện Việt Nam về mặt đối ngoại, Pháp luôn
luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa và phản kháng những hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ
quyền của Việt Nam ở hai quần đảo đó như:
Ngày 4.12.1931 và ngày 24.4.1932, Pháp phản kháng chính phủ Trung
Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai
thác phân chim trên quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 24.7.1933, Pháp thông báo cho Nhật việc Pháp đưa quân ra đóng
các đảo chính trong quần đảo Trường Sa.
Ngày 4.4.1939, Pháp phản kháng Nhật đặt một số đảo trong quần đảo
Trường Sa thuộc quyền tài phán của Nhật. [22.tr 26-30]
Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, mặc dù Việt
Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2/9/1945, không còn ràng buộc vào hiệp Định
Patenotre 1884, song Pháp cho rằng theo Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao
vẫn thuộc Pháp, nên Pháp có nhiệm vụ thực thi quyền đại diện Việt Nam
trong vấn đề chống lại mọi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
Theo Hiệp định ngày 8/3/1949, Pháp dựng nên chính quyền thân pháp,
gọi là Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu; tuy nhiên, trong thực tế quân
đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Ngày 20/7/1954, Hiệp Định Genève được ký kết đã công nhận một
nước có nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất. Điều 1 của
Hiệp định đã quy định lấy sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) làm giới tuyến tạm thời
để phân chia quyền quản lý lãnh thổ giữa 2 miền Nam-Bắc Việt Nam. Giới
33
tuyến tạm thời này cũng được kéo dài bằng một đường thẳng từ bờ biển ra
ngoài khơi (Điều 4). Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm dưới vỹ
tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam.
Tháng 4/1956, khi quân đội viễn chinh pháp rút khỏi Đông Dương,
Quân đội Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Công hòa, đã ra tiếp quản
nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Trước những hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa do Trung Quốc và Philippines tiến hành vào thời điểm giao thời
này, Chính phủ Viêt Nam Cộng hòa lên tiếng phản đối. Ngày 24/5 và ngày
8/6/1956, Việt Nam Cộng hòa ra Thông cáo nhấn mạnh quần đảo Hoàng Sa
cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một phần của Việt Nam” và tuyên
bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam. Ngày 22/8/1956, tàu HQ-
04 của Hải quân Việt Nam Cộng hòa ra quần đảo Trường Sa cắm bia chủ
quyền, dựng cờ, bảo vệ quần đảo trước hành động xâm chiếm trái phép, vi
phạm chủ quyền Việt Nam của Đài Loan và Philippines. Ngày 20/10/1956,
bằng Sắc lệnh 143/VN, Việt Nam Cộng hòa đặt quần đảo Trường Sa trực
thuộc tỉnh Phước Tuy. Năm 1960, Việt Nam Cộng hòa bổ nhiệm ông Nguyễn
Bá Thược, cán bộ hành chính hạng I tại Tam Kỳ, Quảng Nam, giữ chức Phái
viên hành chính Hoàng Sa. Ngày 13/7/1971, tại Hội nghị ASOEC Manila, Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng
định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt
Nam…
Từ 17/1 dến 20/1/1974, Trung quốc huy động lực lượng quân sự đánh
chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã chiến đấu quả cảm,
song Quân lực việt Nam Cộng hòa đã không cảm phá được hành động xâm
lược của Trung Quốc. Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng lâm
thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình
trước sự kiện này. Ngày 14/2/1975, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố Sách trắng
về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường
34
Sa.
Ngày 5/4/1975, bộ Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam đã triển khai
kế hoạch tiếp quản quần đảo Trường Sa theo chủ trương của Bộ chính trị và
chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ ngày 13 đến
28/4/1975, các lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam đã tiếp quản các đảo có
Quân đội nhân dân Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực
lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trọng quần đảo Trường Sa.
Ngày 5/6/1975, Người phát ngôn Bộ Ngoại giáo chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. [27.tr.39-
42].
1.1.4.2 Một số vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên biển Đông giữa
Việt Nam và các quốc gia khác trong khu vực
Biển Việt Nam là một bộ phận không tách rời và chiếm vị trí trọng yếu
trong bình đồ Biển Đông - một khu vực địa lý giàu tài nguyên thiên nhiên,
nhưng cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn lợi ích liên quan đến các tranh chấp
chủ quyền biển, đảo phức tạp và kép dài trong lịch sử.
Trung Quốc
Đối với quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ với Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XX (năm 1909), mở đầu là
sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng
Sa của Việt Nam, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì
sự hiện diện của Quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được
chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo vệ,
quản lý quần đảo này.
Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính
quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông
Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số
35
quân đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp rút khỏi Đông dương theo
quy định của Hiệp định Genève và trong khi chính quyền nam Việt Nam chưa
kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã đưa quân
ra chiếm đóng nhóm phía Đông Hoàng Sa.
Năm 1947, lợi dụng Quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà sụp đổ,
quân viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa lại huy động lực lượng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây
Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam Cộng hòa nắm giữ.
Đối với quần đâỏ Trường Sa, phía Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp
chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở
đầu bằng một công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi cho bộ Ngoại
giao Pháp khẳng định “các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc”.
Năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân quốc xấm chiếm đảo Ba Bình.
Năm 1956, quân đội Đài Loan chiếm đảo Ba Bình.
Năm 1988, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa huy động lực lượng đánh
chiếm 6 vị trí, là những bãi cạn nằm về phía Tây Bắc Trường Sa, ra sức xây
dựng, nâng cấp, biến các bãi cạn này thành các điểm đóng quân kiên cố, như
những pháo đài trên biển.
Như vậy, tổng số đảo, đá, bãi cạn mà phía Trung Quốc (kể cả Đài
Loan) đã dùng sức mạnh để đánh chiếm ở quần đảo Trường Sa cho đến nay là
9 vị trí. Trung Quốc chiếm đóng 7 thực thể địa lý; tất cả đều là rạn san hô. Đài
Loan chiếm đóng đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa và mở
rộng thêm 1 bãi cạn rạn san hô.
Philippines
Philippines bắt đầu tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa
bằng sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa phải
thuộc về Philippines vì nó ở gần Philippines. Từ năm 1971 đến năm 1973,
Philippines đưa quân chiếm đóng 5 đảo, năm 1977 – 1978, chiếm thêm 2 đảo;
36
năm 1979, công bố Sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11/6/1979 gộp
toàn bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trường Sa, vào một đơn vị hành chính,
gọi là Kalayaan thuộc lãnh thổ Philippines. Năm 1980, Philippines chiếm
đóng thêm một đảo nữa nằm về phía Nam Trường Sa, đó là đảo Công Đo…
Đến nay, Philippines đã chiếm đóng 10 vị trí trong quần đảo này, gồm 7 đảo,
đá san hô và 3 bãi cạn, rạn san hô.
Malaysia
Malaysia mở đầu bằng sự việc Sứ quán Malaysia ở Sài Gòn, ngày
03/02/1971, gửi Công hàm cho bộ ngoại giao Việt Nam Cộng hòa hỏi rằng
quần đảo Trường Sa hiện thời thuộc nước Cộng hòa Morac Songhrati Mead
có thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa hay Việt Nam cộng hòa có yêu sách đối
với quần đảo đó không? Ngày 20/4/1971, Việt Nam Cộng hòa trả lời rằng
quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm chủ quyền Việt
Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tháng 12/1979,
chính phủ Malaysia xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ Malaysia khu vực phía
Nam Trường Sa, bao gồm đảo an Bang và Thuyền Chài đã từng do quân đội
Việt Nam Cộng hòa đóng giữ. Năm 1983 – 1984, Malaysia cho quân chiếm
đóng 3 bãi đá ngầm ở phía Nam Trường Sa là Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân.
Năm 1988, họ đóng thêm 2 bãi ngầm nữa là Én Đất và Thám Hiểm. Đến nay,
số điểm đóng quân của Malaysia lên đến 7 điểm nằm ở phía Nam Trường Sa,
tất cả đều là những rạn san hô.
Brunei
Brunei tuy được coi là một bên tranh chấp liên quan đến khu vực quần
đảo Trường Sa, nhưng trong thực tế Brunei chưa chiếm đóng một vị trí cụ thể
nào. Yêu sách của họ là ranh giới vùng biển và thềm lục địa được thể hiện
trên bản đồ có phần chồng lấn lên khu vực phía Nam Trường Sa[27.tr.44-46].
37
Anh và Nhật trước chiến tranh thế giới thứ II.
Tuy Anh và Nhật hiện nay không phải là các bên tranh chấp hai quần
đảo, nhưng trước chiến tranh thế giới thứ II các nước này có dính líu đến hai
quần đảo.
Nước Anh: Có quan tâm ít nhiều đến quần đảo Trường Sa. Sau đó,
Chính phủ Anh đã quyết định từ bỏ yêu sách của họ trên các đảo này do
chúng chỉ dựa trên cơ sở hành động mang tính cá nhân và nước Anh không có
một hành động sử dụng thực tế nào ở một trong hai đảo nhỏ (Trường Sa, An
Bang)
Nước Nhật: Sau khi Pháp chiếm Trường Sa năm 1933, Chính phủ Nhật
phản kháng Chính phủ Pháp. Các cuộc trao đổi về yêu sách của Nhật Bản đã
được tiến hành. Trong quá trình trao đổi ở Paris giữa ông Sato, Đại sứ Nhật
và phía Pháp tháng 8/1934 thể hiện rõ là Chính phủ Nhật không khăng khăng
giữ thái độ của mình và vụ việc có thể coi như đã được giải quyết.
Ngày 30/3/1939, để xây dựng các căn cứ cho chiến tranh, Nhật Bản
chiếm các đảo “nằm ngoài khơi Đông Dương” và đặt chúng dưới quyền quản
lý hành chính của Kao Hùng (Đài Loan), lãnh thổ của Vương quốc mặt trời
mọc. Và việc sáp nhập các đảo và địa hạt Kao Hùng (Đài Loan) là phi pháp
ngày từ gốc, và chúng không thể trở thành lãnh thổ của Trung Quốc. Việc
Trung Quốc viện dẫn hành động sáp nhập để yêu cầu quần đảo là không có cơ
sở trong luật pháp quốc tế [28].
1.1.4.3. Giáo dục cho học sinh ý thức về những giá trị, tiềm năng kinh tế - xã
hội của biển, đảo đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
Biển gắn bó với bao thế hệ người Việt, là không gian sinh tồn và phát
triển của dân tộc ta, là chỗ dựa sinh kế cho hàng triệu người dân Việt Nam từ
xưa đến nay. Trong vùng “biển bạc”, mỗi hòn đảo không chỉ như những thòi
“vàng xanh” mà còn là một “cột mốc chủ quyền” tự nhiên của quốc gia. Biển
thiêng liêng là vậy, vì thế bảo vệ và phát triển vì sự trường tồn của biển, đảo
38
quê hương là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn Quân và toàn Dân ta.
Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam có
ý nghĩa rất to lớn, nhất là trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đều nỗ lực
vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiền lực mọi mặt để khai
thác và khống chế biển.
Việt Nam là một quốc gia biển với chiều dài bờ biển trên 3.260km, trung bình khoảng 100km2 đất liền có 1km bờ biển. Biển gắn bó mật thiết và
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng – an
ninh, bảo vệ môi trường của mọi miền đất nước.
Vùng biển Việt Nam thuộc Biển Đông, có đường biên giới biển với 10
nước và vùng lãnh thổ. Biển Đông là một trong những con đường giao thương
và hàng hải quốc tế nhộn nhịp nhất trên thế giới, nối liền Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương. Biển chứa đựng tài nguyên địa kinh tế với ý nghĩa mặt tiền
mở cửa hướng ra quốc tế, tạo cho đất nước vị thế địa kinh tế quan trọng,
không gian biển chứa đựng nguồn tài nguyên phong phú và to lớn.
Kinh tế biển có thể hiểu là các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và
các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dải đất liền ven
biển. Ở Việt Nam, đóng góp của lĩnh vực kinh tế diễn ra trên biển, trong đó có
khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển) và du
lịch biển chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với các ngành kinh tế có liên
quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu
khí, chế biến thủy/hải sản, thông tin liên lạc, v.v…
Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam có
ý nghĩa rất to lớn, nhất là trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đều nỗ lực
vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai
thác và khống chế biển. Việt Nam luôn coi trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế
biển để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dựng và giữ
nước ta đã minh chứng cho điều này. Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi
39
mới đất nước, Việt Nam tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của biển, đảo.
Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị, tháng 5/1993 khẳng định: “Trở thành một
nước mạnh về biển là mục tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu về điều kiện
khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam”. Tại kỳ
họp thứ 5 khóa IX, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua Nghị quyết phê chuẩn công ước của Liên hợp quốc về luật biển
năm 1982 (UNCLOS 1982). Ngày 20/9/1997, Bộ chính trị khóa VIII ban
hành Chỉ thị số 20-CT/TW về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đã nhấn mạnh: “Vùng biển, hải đảo và ven
bờ là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát triển của đất
nước, là tiềm năng và thế mạnh quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”.
Đề đảm bảo việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc, trong thời gian tới cần triển khai đồng bộ hệ thống các giải
pháp trọng yếu:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức về trí, vai trò của biển, đảo và kinh
tế biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác tuyên truyền
và giáo dục cần tăng cường sâu rộng, có hệ thống hơn nhằm nâng cao và tạo
ra sự chuyển biến thực sự trong ý thức của tất cả các cấp,các ngành và các
tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò chiến lược của biển. Tư duy về biển phải
được thể hiện đậm nét trong các chính sách phát triển của những ngành có
liên quan và các địa phương có biển trong giai đoạn sắp tới . Ý thức về biển
phải được tất cả các ngành và các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương có
biển quan tâm thường xuyên. Đối với mọi người dân, ý thức về biển phải thể
hiện sâu sắc trong khai thác đi liền với bảo vệ tài nguyên, môi trường biển.
Hai là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với an ninh, quốc phòng, bảo
vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và an ninh trên biển. Với những
diễn biến mới trên Biển Đông thời gian vừa qua cho thấy, việc xây dựng và
40
phát triển kinh tế biển phải gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng – an
ninh bảo vệ biển; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
gắn với phát triển kinh tế biển. Mục tiêu kết hợp kinh tế - xã hội với quốc
phòng – an ninh là nhằm khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trên biển,
đảo của Tổ quốc, khái thác, sử dụng nguồn lợi của quốc gia có hiệu quả để
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có chính
sách đặc biệt để động viên nhân dân định cư sinh sống ổn định và làm ăn trên
biển dài ngày. Đối với các hải đảo, cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình
tổ chức hành chính phù hợp, tăng cường nâng cao năng lực quản lý về biển
của chính quyền các huyện đảo, xã đảo nhằm phát triển mạnh.
Kinh tế - xã hội; kết hợp bố trí dân cư và tổ chức lực lượng bảo vệ chủ
quyền biển, đảo.
Ba là, đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học – công nghệ
biển nhằm tạo được hệ thống thông tin cơ sở tin cậy, phục vụ việc hoạch định
các chính sách phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển. Tiến tới xây dựng
tiền lực khoa học – công nghệ biển đủ sức tạo ra những khâu đột phá trong
phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển và hệ thống dự báo, phòng chống
thiên tai, bảo tồn biển (tài nguyên, đa dạng sinh học..). Các giải pháp về khoa
học – công nghệ, phải được đi trước, mang tính đột phá nhằm phát huy hết
tiềm năng khoa học cho kinh tế biển, giảm thiểu tối đa các rủi ro trong chiến
lược vươn ra biển, trong đó, tập trung vào các hướng nghiên cứu chính: Phát
triển và hiện đại hóa các ngành nghề biển truyền thống; đẩy mạnh nghề biển
mới; tập trung nghiên cứu ngành nghề biển trong tương lai.
Bốn là, triển khai công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng – an ninh các vùng biển và ven bờ. tiến hành quy hoạch
các trung tâm phát triển ra biển và các khu vực biển, đảo có khả năng đột phá
trong phát triển kinh tế như Móng Cái, Vân Đồn, Nghi Sơn, Vũng Áng, Đà
Nẵng… Công tác quy hoạch phải trên cơ sở của quy luật kinh tế thị trường, có
41
tầm nhìn dài hạn, hiện đại theo những tiêu chuẩn phù hợp với quốc tế và khu
vực. Đồng thời, phải tiến hành một cách có hiệu lực và hiệu quả công tác
quản lý, quy hoạch nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và đúng
định hướng. Trong quy hoạch, cần quán triệt quan điểm coi vùng duyên hải
gắn với kinh tế biển là vùng động lực để mở cửa, thúc đẩy phát triển toàn bộ
nền kinh tế quốc gia, đảy mạnh phát triển những cơ sở công nghiệp chế biến
các sản phẩm từ biển.
Năm là, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về biển và
kinh tế biển. Quản lý tổng hợp về biển là vấn đề mới, phức tạp và mang tính
đa ngành. Vì vậy, việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về
biển và kinh tế biển có vai trò quyết định. Các hoạt động kinh tế và quản lý
biển, đảo cần có một cơ quan nhà nước quản lý thống nhất, tránh tình trạng
phân tán ở nhiều bộ, ngành và các cơ quan khác nhau.
Sáu là, xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống cơ chế, chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế biển và vùng ven bờ.
Bảy là, phát triển nguồn nhân lực phát triển kinh tế biển, bao gồm cán
bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ biển; cán bộ quản lý, các chuyên gia và
đội ngũ lao động được đào tạo chuyên sâu về các nghề như: hàng hải, khai
thác và chế biến dầu, khí; đánh bắt và nuôi trồng hải sản; du lịch biển v.v, xây
dựng cơ chế, chính sách về đào tạo nhân lực và kế hoạch phát triển nguồn
nhân lực thuộc các thành phần kinh tế. Trước mắt, nhanh chóng tiến hành
1.1.5.Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 trung học phổ thông
“Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông không chỉ trang bị một vốn kiến
thức cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới mà còn góp phần quan
trọng bồi dưỡng lòng yêu quê hương xứ sở, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa
nhân văn, tinh thần tôn trọng các giá trị lịch sử văn hóa nhân loại, ý thức trách
nhiệm
của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, nội
42
dung giáo dục về chủ quyền biển đảo của Tổ quốc cho HS đang được Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhất là trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Vì
vậy, bộ môn Lịch sử cần trang bị cho HS những tri thức về chủ quyền biển
đảo một cách toàn diện. Giúp HS khắc sâu kiến thức cơ bản của bài học lịch
sử, hiểu được vai trò của biển đảo trong lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc, vai trò của biển trong phát triển kinh tế đất nước [35.tr. 38-43].
Việc dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học
sinh lớp 12 có tác dụng giáo dục, giáo dưỡng và rèn luyện nhiều kĩ năng cho
học sinh.
Về kiến thức: Nhằm giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho
học sinh, môn học Lịch sử phải cung cấp tri thức lịch sử một cách toàn diện.
Học sinh được khắc sâu kiến thức cơ bản của bài học lịch sử, học sinh nắm
bắt được vai trò của biển đảo trong lịch sử, vai trò của biển trong phát triển
kinh tế đất nước. Từ đó, các em thấy tự hào và có ý thức trách nhiệm đối với
Tổ quốc.
Ví dụ, Năm 1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, Nhật chiếm quần đảo
Trường Sa, Pháp phản kháng. Khi phát xít Nhật bại trận và đầu hàng vô điều
kiện quân Đồng Minh ngày 16/8/1945, quân đội Nhật đã rút khỏi Hoàng Sa
và Trường Sa vào năm 1946.
Ngày 14/10/1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao quyền kiểm
soát quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính phủ quốc gia Việt Nam do
Bảo Đại đứng đầu. Thủ hiến Trung phần Việt Nam lúc đó là Phạm Văn Giáo
đã ra tận Hoàng Sa tiếp nhận quyền chuyển giao chủ quyền Hoàng Sa.
Ngày 6/9/1951, tại Hội nghị San Francisco về hiệp ước Hòa bình với
Nhật Bản, vốn không chính thức xác định rõ các quốc gia nào có chủ quyền
trên quần đảo. Theo Hiệp ước đình chiến ký kết tại San Francisco, vào tháng
9/1951, khoản 2, nước Nhật Bản phải rút lui khỏi các nơi mà họ đã dùng vũ
lực để chiếm đóng trong thời đệ nhị chiến, lẽ tất nhiên là trong đó có hai quần
43
đào Paracels (Hoàng Sa) và Spratley (Trường Sa). Tại hội nghị này, Thủ
tướng kiêm bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ quốc gia Việt Nam Trần
Văn Hữu, Trưởng phái đoàn Việt Nam, đã long trọng tuyên bố như sau: “Và
cũng vì cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm
mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền của chúng tôi
trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã luôn luôn từ xưa thuộc lãnh thổ
Việt Nam”.
Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco long trọng ghi vào
biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn mà không gặp phải kháng nghị hay bảo
lưu nào từ 51 nước tham dự Hội nghị [10.tr.145-146].
Với việc giúp học sinh nắm vững được những kiến thức này, các em sẽ
không chỉ rõ hơn về chủ quyền của ta trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
mà còn cái nhìn đầy đủ, khách quan về lịch sử Việt Nam, về những bộ phận
cấu thành nên lịch sử Việt Nam.
Về kĩ năng: Thông qua việc tìm hiểu các tài liệu, tư liệu về chủ quyền
biển, đảo, học sinh được rèn kĩ năng tư duy, kĩ năng học tập bộ môn và các kĩ
năng sống. Các em chủ động, tích cực tham gia các hoạt động học tập dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, rèn luyện cho các em kĩ năng cần thiết cho cuộc
sống như: hợp tác, làm việc nhóm, thuyết trình, giải quyết vấn đề, biết ứng
phó trước vấn đề hiện đại… Bên cạnh đó, còn rèn luyện cho các em kĩ năng
tự học, tự tìm hiểu tài liệu liên quan đến vấn đề học tập. Qua việc tự tìm hiểu
và nghiên cứu các bài tập được giao sẽ giúp các em hình thành năng lực học
tập bộ môn, đồng thời phát triển khả năng nhận thức giúp cho các sự kiện,
hiện tượng lịch sử trở nên ấn tượng hơn, sâu sắc hơn. Qua đó, giúp khơi gợi ở
HS những cảm xúc lịch sử, kiến thức lịch sử được khắc sâu.
Về thái độ: Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khi các nước có biển, nhất
là các nước lớn đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển. Việt Nam là một
quốc gia biển - đứng thứ 10 thế giới về tỉ lệ sở hữu biển, biển Việt Nam
không chỉ chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn mà còn là cửa ngõ để chúng ta
44
mở rộng quan hệ với quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay chủ quyền trên biển Đông,
đặc biệt ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của nước ta bị vi phạm
nghiêm trọng. Những cứ liệu lịch sử sẽ là cơ sở quan trọng để đưa nội dung
giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo cho HS vào môn Lịch sử ở trường phổ
thông. Từ đó, giúp cho các em có những hành động cụ thể, thiết thực góp
phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Vì vậy, việc giáo dục ý thức
về chủ quyền biển đảo Tổ quốc cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ cần thiết và có ý
nghĩa chiến lược.
Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, trước tiên, tuổi trẻ nước ta
phải hiểu thấu đáo các vấn đề về tài nguyên và môi trường biển; về không
gian biển, đảo của đất nước; về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia đối với các vùng biển, đảo; về chủ trương, chính sách và pháp
luật của Đảng và Nhà nước ta đối với những vấn đề biển, đảo nói chung và
Biển Đông nói riêng. Với những nhận thức đúng đắn, đày đủ và sâu sắc, lớp
trẻ Việt Nam hôm nay sẽ là những sứ giả tạo nên sự kết nối trong toàn xã hội,
thúc đẩy những hành động thiết thực vào trong cộng đồng, vì biển, đảo quê
hương.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng của việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12 trung học trƣờng phổ thông
Môn lịch sử ở trường phổ thông có tác dụng to lớn đối với việc giáo
dục thế hệ trẻ về lịch sử dân tộc, truyền thống dân tộc, hình thành nên thế giới
quan khoa học…Song do đặc thù của bộ môn lịch sử, do một số giáo viên còn
chưa thực sự hiểu sâu về phương pháp dạy học và kiến thức còn lệ thuộc vào
sách giáo khoa, tức là chưa làm chủ được kiến thức dẫn đến giờ học khô khan
nhàm chán và nặng nề. Tình trạng này đã làm mất đi tính hấp dẫn của môn
lịch sử. Hơn nữa, do tư tưởng coi môn lịch sử là “môn phụ”, học sinh “học gì
45
thi đấy” nên nhiều học sinh quay lưng với môn lịch sử. Quan niệm sai lầm
cho rằng học lịch sử chỉ cần trí nhớ không phải tư duy động não, không có bài
tập thực hành đã ảnh hưởng đến việc đánh giá, tổ chức phương pháp dạy học.
Theo GS Phan Huy Lê - nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam, tình trạng “xuống cấp” môn Lịch sử có nhiều nguyên nhân, trước hết là
do sách giáo khoa nặng nề, lối học và thi cử nặng về truyền thụ và đo kiến
thức. Truy nguyên cao hơn nữa là do chương trình và nhận thức không đúng
về vị thế và yêu cầu giáo dục môn Lịch sử, không tôn trọng và nêu cao tính
khoa học của môn học. Ngoài ra còn có những nhân tố gia đình và xã hội như
coi môn Lịch sử nặng về trí nhớ, ít sáng tạo, không muốn cho con học lịch sử,
học sử không có tiền đồ, khó kiếm việc làm. Nhưng cũng cần nhấn mạnh, học
sinh phần lớn “quay lưng” lại với SGK, cách dạy và học môn Lịch sử chứ
không phải quay lưng lại với lịch sử. Bằng chứng là một số cuộc thi tìm hiểu
lịch sử với đề tài mở rộng cho sự tìm tòi, khám phá trong thời gian gần đây
cho thấy, thế hệ trẻ đã hăng hái tham gia với nhiều bài làm đạt chất lượng tốt
[40].
Năm 2011, Bộ giáo dục và Đào tạo đã công bố “Tài liệu hướng dẫn dạy
học nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo cho học sinh
trung học phổ thông”. Tài liệu hướng dẫn gồm hai phần:
Phần I: Giới thiệu mục tiêu, cấu trúc của tài liệu Giáo dục về tài nguyên
môi trường biển, đảo của cấp học ; phần hướng dẫn giới thiệu việc lựa chọn
nội dung thuộc các chuyên đề về tài nguyên và môi trường biển, đảo của cấp
học; Hướng dẫn thời gian thực hiện ngoại khóa trong trường THPT; Giới
thiệu một số hình thức hoạt động, cách thức tổ chức hoạt động ngoại khóa
giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo; Hướng dẫn kiểm tra, đánh giá
sau khi thực hiện ngoại khóa.
Phần II: Hướng dẫn hoạt động ngoại khóa một số chủ đề: Phần này
được trình bày theo cách mô tả các hình thức thực hiện hoạt động ngoại khóa
với những gợi ý về các bước thực hiện và những điểm cần lưu ý đảm bảo hoạt
46
động mang tính khả thi cũng như một vài ví dụ minh họa để giáo viên, các
cán bộ làm công tác Đoàn cần lưu ý sử dụng đồng thời với tài liệu về chuyên
đề; chú ý các gợi ý về cách thức tổ chức, tạo điều kiện cho học sinh được
tham gia một cách tối đa vào các hoạt động [7].
Như vậy, GV có thể căn cứ vào chương trình môn học và tùy theo điều
kiện của mỗi nơi để tổ chức các hoạt động học tập nhằm giáo dục ý thức chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh.
1.2.1.1. Mục đích khảo sát
Khảo sát về thực trạng dạy và học lịch sử nói riêng và việc giáo viên
vận dụng những kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học
môn lịch sử của học sinh ở trường THPT nói chung. Kết quả điều tra, khảo sát
là cơ sở để đưa ra những kết luận chung cũng như những yêu cầu đặt ra cần
giải quyết nhằm nâng cao chất lượng da ̣y và ho ̣c môn Li ̣ch sử .
Viê ̣c điều tra, khảo sát được tiến hành tại trường THPT Trần Hưng Đạo
– Hà Đông – Hà Nội.
Về phương pháp tiến hành : Tiến hành điều tra bằ ng phiếu thăm dò ý
kiến của 200 học sinh và 15 giáo viên trong trường và một số trường khác.
1.2.1.2. Nội dung khảo sát
a, Đối với giáo viên: Tìm hiểu quan niệm về các vấn đề:
+ Ý kiến, quan niệm của GV về việc tổ chức dạy học các nội dung về
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS.
+ Mức độ ưu thế của các bộ môn trong việc giáo dục các nội dung về
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS.
+ Tần suất và hình thức khi dạy học các nội dung về chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc.
+ Thuận lợi và khó khăn khi dạy các nội dung về chủ quyền biển, đảo
nhằm giáo dục ý thức cho HS.
b, Đối với học sinh:Tìm hiểu quan niệm về các vấn đề:
47
+ Hứng thú của HS đối với môn học lịch sử.
+ Mức độ ưu thế của các bộ môn trong việc giáo dục ý thức về chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc.
+ Nhận thức của HS về thực trạng giảng dạy các nội dung về chủ quyền
biển, đảo trong giờ học lịch sử.
+ Hình thức học tập các nội dung về chủ quyền biển, đảo.
+ Những thuận lợi và khó khăn cùng những đề xuất cho việc giáo dục
các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử có kết
quả tốt nhất.
1.2.1.3. Kết quả khảo sát
Sau khi tiến hành phát phiếu điều tra và khảo sát bằng phiếu đối với
giáo viên và học sinh tại trường THPT Trần Hưng Đạo, Hà Nội, tổng hợp kết
quả thu được, qua phân tích chúng tôi khái quát như sau:
a) Ý kiến của học sinh và giáo viên về môn học và các hoạt động học tập có
sử dụng kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ Quốc
Thứ nhất là ý kiến của học sinh về môn học và các hoạt động học tập
có sử dụng kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ Quốc
Khi được hỏi về mức độ hứng thú của học sinh đối với môn Lịch sử thì
phần lớn học sinh trả lời bình thường (83%) và một số ít học sinh không có
hứng thú gì đối với môn học Lịch sử (5%), chỉ có 7% rất có hứng thú đối với
môn lịch sử, còn lại thì chưa quen.
Còn đối với việc tích hợp các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc trong dạy học Lịch sử thì các em rất đồng tình. 67% HS cho rằng rất
thuận lợi, 20% HS cho rằng thuận lợi và chỉ có 13% HS cho rằng ít thuận lợi.
Có thể nói, HS cũng đã phần nào nhận thức được các nội dung về chủ quyền
biển, đảo cần được tích hợp để dạy trong môn Lịch sử. Các em cho rằng việc
đưa các kiến thức về chủ quyền biển, đảo vào dạy học trong nhà trường phổ
thông là rất cần thiết.
Đối với các thông tin về chủ quyền biển đảo Việt Nam và các vấn đề
48
tranh chấp trên Biển Đông thì thỉnh thoảng mới được HS cập nhật (66%),
thường xuyên cập nhật chỉ chiếm có 13%, còn lại là ít cập nhật thậm chí còn
có HS không quan tâm tới vấn đề này. Như vậy, vấn đề chủ quyền biển, đảo
và các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông đã và đang xuất hiện dưới rất nhiều
nguồn tin khác nhau, đa dạng và phong phú. Tuy vậy vẫn chưa thu hút được
sự quan tâm của các em đối với vấn đề này.
Về việc tìm hiểu kiến thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc thông qua
các kênh thông tin, chúng tôi thu được kết quả sau:
Biểu đồ 1.1 Các kênh thông tin HS sử dụng để tìm hiểu các kiến
thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Như vậy có thể nói HS chủ yếu tìm hiểu các kiến thức về chủ quyền
biển, đảo qua kênh thông tin chính là Tivi (80%) và Internet (63%). Thông tin
trên báo, đài chỉ thu hút 40% HS quan tâm. HS cũng đã biết đến kiến thức về
chủ quyền biển, đảo qua các môn học ở trường (30%) và cuối cùng thấp nhất
là 11% qua người thân, bạn bè. Qua đây chúng ta có thể thấy được các thông
49
tin đến với HS nhều nhất đó là qua các phương tiện thông tin truyền thông
như Tivi, báo điện tử, internet... HS sẽ tiếp nhận thông tin nhanh hơn trong
thời gian lên mạng, lướt web chứ không phải qua việc đọc báo, sách...
b) Quan điểm của giáo viên và học sinh khi sử dụng kiến thức về chủ quyền
biển, đảo của Tổ Quốc trong việc giáo dục ý thức cho thế hệ học sinh.
Đối với mức độ ưu thế của các bộ môn trong việc giáo dục các nội
dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học, chúng tôi thu được
kết quả như sau:
Bảng 1.1 Tổng hợp ý kiến GV và HS về mức độ kết hợp giữa các môn học
trong việc giáo dục các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc:
Rất ưu thế Ưu thế Bình thường
Hình thức GV HS GV HS GV HS
(%) (%) (%) (%) (%) (%)
Ngữ văn 0% 0% 14% 27% 11% 0%
Lịch sử 0% 5% 73% 53% 22% 0%
Địa lí 0% 7% 62% 61% 6% 3%
Giáo dục công 0% 0% 33% 31% 15% 4%
dân
Như vậy, có thể nói giữa GV và HS đã có những cách nhìn nhận khác
nhau về mức độ kết hợp giữa các môn học trong việc giáo dục các nội dung
về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. GV cho rằng môn lịch sử và địa lý
không có quá nhiều ưu thế trong việc giáo dục. Còn HS vấn có một số ít các
em cho rằng hai môn học này rất có ưu thế (5% và 7%). Đối với mức độ thỉnh
thoảng nếu như GV cho rằng môn lịch sử có ưu thế nhất (73%) sau đó là môn
địa lý (62%) thì HS lại cho rằng môn có lợi thế nhất trong việc kết hợp trên
chính là môn địa lý (61%) sau đó mới đến môn lịch sử (53%). Các em cho
rằng môn ngữ văn có ít lợi thế nhất (27%). Còn đối với mức độ kết hợp bình
thường thì GV cho rằng môn địa lý và ngữ văn là kém nhất, còn HS lại cho
rằng đối với mức độ đó là môn ngữ văn và lịch sử. Như vậy, GV và HS đã
50
bước đầu nhận biết được ưu thế trong việc kết hợp giữa các môn học trong
việc giáo dục các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Và qua đó,
GV các bộ môn địa lý và lịch sử có thể nhận thức được tầm quan trọng của bộ
môn mình trong vấn đề giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS, một
vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách trong thời đại hiện nay.
Còn đối với hình thức học tập các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc, khi được khỏi thì rất nhiều HS (89%) muốn GV tổ chức thông qua các
hoạt động ngoại khoá, tiếp đến là tích hợp với các môn học khác (48%).
Ngoài ra các hình thức học tập như bài học cung cấp kiến thức mới, tự bản
thân tìm hiểu không được các em yêu thích và lựa chọn.
Khi hỏi về những khó khăn GV và HS gặp phải khi tìm hiểu các nội
dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. HS gặp khó khăn nhất đó là không
xác định được độ tin cậy của thông tin (56%) và sau đó là việc HS cảm thấy
khó hiểu (43%), cuối cùng là việc các tài liệu về chủ quyền biển, đảo không
có (25%), còn lại là HS không hứng thú. Cũng giống như HS, GV cũng cho
rằng khi tìm hiểu các nội dung về chủ quyển biển, đảo của Tổ quốc thì khó có
thể xác định được độ tin cậy của thông tin (67%), tiếp theo là không có tài
liệu (39%). Như vậy, cả HS và GV đang gặp rất nhiều khó khăn khi tìm hiểu
các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Các thông tin, tài liệu
không rõ nguồn gốc hoặc rất ít đã làm mất đi sự chủ động, tích cực của HS và
GV trong việc tìm hiểu các nội dung trên.
Cuối cùng là những đề xuất của GV và HS để việc giáo dục các nội
dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử có kết quả tốt
nhất. Đa phần các em HS đều trả lời rất đầy đủ câu hỏi mở này. 77% HS
mong muốn về phía nhà trường: tổ chức các hoạt động ngoại khóa như thăm
quan, trải nghiệm đối với các di tích biển, đảo. 20% HS mong muốn được
tham gia các sân chơi, cuộc thi tìm hiểu về biển, đảo. Còn lại là HS không có
ý kiến gì. Còn những đề xuất cho GV thì đa phần các em (90%) mong muốn
51
GV cung cấp thêm thông tin, hình ảnh, tài liệu về chủ quyền biển, đảo khi dạy
học để các em có thể hiểu rõ hơn về chủ quyền Việt Nam đối với các quần
đảo. Có thể nói, các em HS rất thích tham gia các chương trình ngoại khóa,
các hoạt động tìm hiểu...qua đó giúp các em phát huy được hết năng lực của
mình, tăng tính tích cực, chủ động của HS .Còn đối với GV, các thầy, cô cho
rằng các kiến thức về chủ quyền biển, đảo cần được đưa vào chương trình
SGK. Bên cạnh đó GV phải tự tìm hiểu thêm các kiến thức về chủ quyền biển
đảo để lồng ghép vào các giờ dạy, hoặc dạy tích hợp với môn học khác nhằm
giáo dục cho HS về chủ quyền biển đảo qua đó HS ý thức được trách nhiệm
của thế hệ trẻ đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền đất nước trên biển.
Vấn đề chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc cũng thu hút
được đông đảo các em HS quan tâm. Trước khi thực nghiệm đề tài, GV đã
kiểm tra kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cũng như những hiểu
biết của các em về vấn đề biển Đông hiện nay như: Huyện đảo Trường Sa là
đơn vị hành chính thuộc tỉnh nào?. Đa phần các em đều trả lời đúng, nhưng
vẫn còn một vài em (17%) trả lời sai, cho rằng quần đảo Trường Sa thuộc
Tỉnh Quảng Trị. Đối với câu hỏi: Năm 1956, Trung Quốc cho quân chiếm
một số đảo phía Đông thuộc A. Quần đảo Hoàng Sa, B. Quần đảo Trường Sa,
C. vùng vịnh Bắc Bộ, D. vùng vịnh Hạ Long thì chỉ có 45% trả lời đúng là
đáp án B. Còn lại là HS trả lời sai hoặc không biết. Có thể nói những sự kiện
không được đề cập đến trong SGK thì HS rất ít biết đến.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Một trong những mục tiêu quan trọng của ngành giáo dục là đào tạo thế
hệ trẻ có tri thức, đạo đức, bản lĩnh, có những kiến thức sâu sắc, toàn diện về
quê hương, đất nước, từ đó có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả
phần đất liền cũng như biển, đảo.
Điều tra, khảo sát ý kiến giáo viên và học sinh không chỉ giúp cho
việc đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng dạy học Lịch sử nói riêng,
52
vấn đề GV sử dụng tài liệu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong giáo
dục ý thức HS mà còn là cơ sở nêu ra những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng
cao chất lượng dạy học môn Lịch sử.
Thứ nhất là vị trí của môn Lịch sử ở trường THPT hiện nay
Vấn đề đáng quan tâm là việc học sinh thờ ơ với môn Lịch sử cùng với
chất lượng dạy và học môn học có nhiều nét đặc thù này trong những năm qua
còn nhiều bất cập. Điều này được thể hiện phần nào trong kết quả của các kỳ
thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh vào Đại học, Cao đẳng thời gian qua. Dư
luận xã hội và cả những người “trong cuộc” đã phải “giật mình”, bởi hàng
năm, số học sinh đạt dưới điểm trung bình chiếm tỷ lệ khá cao trong các kỳ
thi quan trọng. Đây thực sự là thực trạng đáng báo động trong việc dạy và học
môn học có vị trí đặc biệt quan trọng này. Về phía nhà trường, phương pháp
dạy học truyền thống vẫn tiếp tục được áp dụng trong khi đối tượng tiếp nhận
là một lớp học trò mới cần sự tích cực, chủ động.
Giáo cụ trực quan được sử dụng còn nghèo nàn, quanh quẩn chỉ có một
số bức tranh, sơ đồ minh họa không đủ sức cuốn hút, hấp dẫn học sinh. Trong
khi đó, về phía học sinh, tâm lý giới trẻ trong thời kỳ công nghiệp hóa có xu
thế thiên về các môn khoa học tự nhiên, xem nhẹ các môn khoa học xã hội
khiến nhiều em không có hứng thú đối với môn Lịch sử. Việc học môn học
này còn mang nặng tính đối phó hơn là thực sự say mê khám phá, tìm tòi.
Học vẹt, học đối phó tất yếu dẫn đến việc học sinh chỉ cố gắng ghi nhớ
kiến thức một cách vụn vặt, máy móc, không có khả năng liên kết, xâu chuỗi
các sự kiện cũng như rút ra ý nghĩa của các sự kiện. Việc học sinh còn sử
dụng “phao thi” trong các tiết kiểm tra vẫn xảy ra tạo tâm lý ỷ lại và sức ỳ
trong tư duy. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến chất lượng học
tập môn Lịch sử chậm có sự chuyển biến.
Vấn đề biển, đảo cũng đã xuất hiện trong hai kỳ thi tốt nghiệp THPT và
kỳ thi ĐH vừa qua khiến các thí sinh có cơ hội tiếp cận và thể hiện quan điểm
53
của mình trong việc khẳng định chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Đây có thể xem là những nỗ lực đáng ghi nhận của
ngành giáo dục trong việc nâng cao tinh thần dân tộc và ý thức bảo vệ chủ
quyền, lãnh thổ cho thế hệ học sinh, sinh viên.
Thế hệ học sinh ngày nay lớn lên không phải chứng kiến sự tàn khốc,
hủy diệt, những hy sinh, mất mát của chiến tranh mà chỉ biết qua phim ảnh,
sách báo và các môn học xã hội ở các bậc học phổ thông. Tuy nhiên, nếu giới
trẻ ngày nay không có vốn hiểu biết cần thiết về độc lập, chủ quyền thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc thì rất dễ nảy sinh thái độ
thờ ơ với thời cuộc, đồng thời, không thể bồi đắp được những phẩm chất cần
có của người công dân tương lai.
Thứ hai là về chương trình sách giáo khoa
Xét trên các yếu tố lịch sử và pháp lý quốc tế, Hiến pháp và nhiều bộ
luật của nước ta đều khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi về hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sách giáo khoa Địa lý Việt Nam bậc học phổ
thông cũng đã đề cập vấn đề chủ quyền của hai quần đảo này là của Việt Nam.
Tuy nhiên, sách giáo khoa môn Lịch sử phổ thông hiện lại chưa đề cập
tới vấn đề này. Trong thời gian gần đây, khi “vấn đề Biển Đông” được đề cập
nhiều hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng, thu hút sự quan tâm của
đông đảo dư luận thì những kiến thức về “chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”
càng trở nên cần thiết đối với thế hệ trẻ nói chung và học sinh phổ thông nói
riêng, dư luận cho rằng, việc khẩn trương bổ sung nội dung chủ quyền biển,
đảo vào chương trình môn Lịch sử là hết sức cần thiết.
Phát biểu với báo QĐND Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Cơ - nguyên
Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng “để
thế hệ trẻ hiểu được chủ quyền biển, đảo của nước ta, không có cách nào tốt
hơn là đưa chương trình biển, đảo vào giáo dục ở các cấp học”
Ông cho biết: Thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo có nhiều
chương trình, đề án phục vụ cho nhiệm vụ này. Cụ thể nhất là kỳ thi tuyển
54
sinh đại học, cao đẳng vừa qua, vấn đề biển, đảo đã được đưa vào nội dung thi.
Cùng với đó là việc triển khai đề án “Tăng cường công tác giáo dục về tài
nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục các cấp học và
các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2010 - 2015”;
Tổ chức chương trình tập huấn về nội dung biển, đảo Việt Nam đối với các
giáo viên dạy môn Địa lý ở bậc trung học phổ thông (THPT) trên khắp cả
nước…[43].
Như vậy, rõ ràng ngành giáo dục đã bắt đầu có chuyển biến tích cực
nhằm giúp các em học sinh, sinh viên nâng cao ý thức về biển, đảo quê hương.
Thứ ba là phương pháp giảng dạy của giáo viên
Thời gian gần đây, Bộ GD&ĐT đã có văn bản hướng dẫn tích hợp nội
dung giáo dục tài nguyên, môi trường biển, đảo vào chương trình giáo dục
mẫu giáo năm tuổi và tuyên truyền cho học sinh, sinh viên về bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Tổ quốc. Đa phần GV đều nhận
biết được tầm quan trọng của việc sử dụng các tư liệu, tài liệu lịch sử nhằm
giáo dục ý thức cho HS về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, song cũng đặt ra
những yêu cầu về việc lựa chọn và sử dụng các tài liệu sao cho có hiệu quả,
phù hợp với các đối tượng HS.
Bên cạnh đó, giáo viên có thể phối hợp với Đoàn thanh niên tổ chức
cho học sinh thi tìm hiểu về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; các trường học
có thể dành thời gian trong những tiết chào cờ sáng thứ hai hàng tuần để lồng
ghép nội dung vấn đề biển đảo; vận động đoàn viên thanh niên ủng hộ các
55
phong trào thiết thực như “Góp đá cho Trường Sa”, “Thư gửi Trường Sa”...
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong
dạy học môn lịch sử lớp 12 ở trường THPT được đánh giá là rất cần thiết
trong việc đổi mới phương pháp dạy học, cung cấp kiến thức, phát huy tính
tích cực, sáng tạo và giáo dục học sinh. Qua đó, học sinh có sự yêu thích,
hứng thú với môn học và không ngừng trau dồi những hiểu biết của mình về
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Điều tra, khảo sát ý kiến giáo viên và học sinh không chỉ giúp cho việc
đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng dạy học các vấn đề về giáo dục
ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học Lịch sử ở trường phổ
thông, mà còn là cơ sở nêu ra những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao
chất lượng dạy học môn Lịch sử.
Để đạt được mục tiêu giáo dục về chủ quyền biển, đảo cho HS một
cách hiệu quả nhất, người GV đóng vai trò chủ đạo. Theo đó, đội ngũ GV
môn lịch sử ở trường phổ thông phải là những người giỏi chuyên môn và giàu
tâm huyết với giáo dục mới có thể khơi dậy tình yêu biển đảo quê hương đến
tận trái tim của các em HS để cùng nhau bảo vệ và giữ vững chủ quyền biển
đảo thiêng liêng của Việt Nam.
Đó là những cơ sở để chúng tôi đề xuất các biện pháp giáo dục ý thức
chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 trung
56
học phổ thông.
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ HÌNH THỨC VÀ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý
THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1. Mục tiêu, nội dung cơ bản của chƣơng trình Lịch sử lớp 12 – chƣơng
trình chuẩn
2.1.1. Mục tiêu
Đối với chương trình Lịch sử 12 – Chương trình chuẩn, mục tiêu đặt ra
cho học sinh sau khi hoàn thành chương trình học là:
2.1.1.1. Về kiến thức
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông về lịch sử thế giới
từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000 qua hai thời kỳ: thời kỳ
chiến tranh lạnh từ năm 1945 đến năm 1991, thế giới phân chia thành hai phe:
Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa trong trật tự “hai cực” tan rã, một trật
tự thế giới mới “đa cực” đang hình thành; sự phát triển và vai trò của các
nước lớn trong quan hệ quốc tế; về kết quả của phong trào giải phóng dân tộc
ở Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ Latinh; tác động của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ cùng xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra những thời cơ cùng
thách thức đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển.
- Trong phần Lịch sử Việt Nam, thông qua việc cung cấp các kiến thức
cơ bản và chi tiết hơn, chương trình Lịch sử 12 giúp học sinh có những hiểu
biết sâu hơn về quá trình Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước, đến với chủ
nghĩa Mac – Lênin, truyền bá chủ nghĩa Mac – Lênin, làm chuyển biến phong
trào yêu nước ở Việt Nam từ lập trường tư sản sang lập trường vô sản cùng
với việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930);
Từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam bước sang một giai
đoạn mới, dù trải qua nhiều khó khăn, gian khổ nhưng cuối cùng vẫn đạt được
những thắng lợi vẻ vang, viết thêm những trang sử sáng chói của dân tộc.
57
Tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giữ nước và dựng nước của nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đạt đến những thắng lợi lịch sử: Cách mạng
tháng Tám năm 1945 giành độc lập dân tộc, sự ra đời của nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, thắng lợi của cuộc khán chiến cứu nước trong thời kì mới
(1945 – 1954) và những thành tựu của sự nghiệp đối mới, từng bước đưa đất
nước quá độ lên chả nghĩa xã hội.
Trong phần Lịch sử Việt Nam, trọng tâm kiến thức là giai đoạn lịch sử
1945 – 1975 với những âm mưu, kế hoạch xâm lược của các thế lực thực dân,
đế quốc và cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược đó của nhân dân ta. Vấn
đề cốt tử nhất đối với dân tộc khi đó là độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Vì hầu hết các kiến thức thi tốt nghiệp và Đại học tập trung vào nội
dung chương trình Lịch sử 12 nên khối lượng kiến thức trong chương trình là
rất lớn.
2.1.1.2. Về kĩ năng
Học xong chương trình Lịch sử lớp 12, học sinh được bồi dưỡng và
phát triển các năng lực và kĩ năng. Đến giai đoạn này, yêu cầu nhận thức đối
với học sinh cao hơn. Đòi hỏi các em không chỉ biết mà phải hiểu sâu sắc và
phân tích được bản chất của các sự kiện lịch sử. Hoàn thành chương trình, các
em sẽ được:
Nâng cao khả năng khái quát, tổng hợp, so sánh, liên hệ giữa các sự
kiện lịch sử và giữa điều được học với thực tế cuộc sống, từ đó rút ra các nhận
xét, kết luận, quan điểm cá nhân.
Rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo, chủ dộng trong suy nghĩ và có thể
vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào thực tế cuộc sống.
Trau dồi các kĩ năng hợp tác làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình, kĩ
năng trình bày một vấn đề lịch sử,…
Củng cố thêm khả năng tự học, tự nghiên cứu phục vụ cho việc học cao
58
hơn và học suốt đời.
2.1.1.3. Về thái độ
Tiếp tục bồi dưỡng cho các em lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự
hào, tự tôn dân tộc, ý thức xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Bồi dưỡng cho các em lòng biết ơn những người có công với dân tộc; ý
thức trách nhiệm đối với cha ông.
Giúp các em hiểu rõ chân lý độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng và tiền đồ cách mạng, tin vào thắng lơi của công cuộc đổi mới.
Đồng thời giúp các em hiểu rõ trong thời đại ngày nay, đoàn kết, hợp
tác là xu thế tất yếu khách quan. Để có thể đối chọi lại những biến động phức
tạp của tình hình trong nước và thé giới, nhất thiết phải tạo được niềm tin, sự
đoàn kết giữa các dân tộc, quốc gia. Hiểu rõ sự tất yếu phải hội nhập quốc tế,
phát triển theo xu thế an toàn cầu hóa, quốc tế hóa, tuy nhiên “hòa nhập
nhưng không hòa tan”.
2.1.2. Những nội dung cần khai thác trong chương trình Lịch sử lớp 12 THPT
– Chương trình chuẩn để giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
Vấn đề xác lập chủ quyền biển, đảo, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc là một vấn đề cần thiết, thực tiến, nhưng chưa được đưa vào chương
trình SGK một cách chính thức, cụ thể. Chính vì vậy người giáo viên lịch sử
cần phải nghiên cứu kĩ các bài, mục trong SGK để khéo léo sử dụng các biện
pháp giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo xen kẽ vào các bài, mục phù hợp.
Căn cứ vào mục tiêu giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo, ta xác
định các bài, các mục có thể giáo dục ý thức cho HS về chủ quyền biển, đảo
nhằm giúp HS ý thức được trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ chủ quyền
biển, đảo. Việc khai thác, sử dụng các tư liệu về biển, đảo trong dạy học
trong nội dung bài học nội khóa phù hợp, không chỉ góp phần giáo dục ý thức
59
HS về chủ quyền biển, đảo của dân tộc ta mà còn giúp các em mở rộng kiến
thức đã học, khéo léo kết nối kiến thức bài học với kiến thức về chủ quyền
biển, đảo. Nếu giáo viên không niết cách kết nối thì bài học trở nên rời rạc,
cứng nhắc khó hiểu.
Dựa vào cấu trúc và nội dung chương trình Lịch sử 12 THPT – Chương
trình chuẩn có thể xác định những nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc để dạy học như sau:
Bài Mục Nội dung cần khai thác
Bài 1: Sự hình Mục II: Sự Phân tích các hành động của
thành trật tự thế thành lập Liên Liên Hợp Quốc, yêu cầu học sinh căn
giới mới sau Hợp quốc cứ vào nguyên tắc hoạt động của Liên
chiến tranh thế Hợp Quốc để đánh giá những hành
giới thứ hai động của Trung Quốc ở Biển Đông
(1945 – 1949)
Bài 3: Các nước Mục II.3: Công Phân tích chính sách ngoại giao
Đông Bắc Á cuộc cải cách – của Trung Quốc thời kì mở cửa đất
mở cửa (từ năm nước từ năm 1978. Đánh giá sự thay
1978) đổi trong chính sách ngoại giao của
Trung Quốc hiện nay
Bài 4: Các nước Mục I: Các Ảnh hưởng của xung đột trên
Đông Nam Á và nước Đông Nam biển Đông đối với sự hợp tác, phát triển
Ấn Độ Á của tổ chức ASEAN và khu vực Đông
Á nói chung
Bài 8: Nhật Bản Những chính sách “trở về Châu
Á” và vấn đề xung đột trên biển Đông.
Bài 18: Những Mục I: Kháng Khai thác, sử dụng nguồn tài liệu
năm đầu của chiến toàn quốc cho thấy khi Việt Nam đang phải gấp
cuộc kháng chống thực dân rút chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn
60
chiến toàn quốc Pháp bùng nổ quốc chống thực dân Pháp, thì chính
chống thực dân quyền Trung Hoa Dân Quốc đã cho lực
Pháp (1946 – lượng đổ bộ lên các quần đảo Hoàng
1950) Sa, xâm phạm chủ quyền của ta. Đồng
thời trong thời gian này, bản đồ thể
hiện đường biên giới lưỡi bò trên biển
đã ra đời – đây là một tấm bản đồ vô
căn cứ nhưng hiện nay Trung Quốc vẫn
đang ngoan cố dựa vào đó để vi phạm
nghiêm trọng chủ quyền biển đảo của
ta.
Bài 20: Cuộc Mục II.2: Hiệp Phân tích hiệp định Giơ – ne –
kháng chiến định Giơ – ne – vơ vể việc quy định các vùng lãnh thổ
toàn quốc chống vơ giữa các lực lượng, đưa ra cứ liệu lịch
thực dân Pháp sử về chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa
kết thúc (1953 – sau hiệp định Giơ – ne – vơ là thuộc
1954) quyền kiểm soát của chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa. Chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa đã có những hoạt động
thực thi chủ quyền tại hai quần đảo
này…tuy nhiên năm 1974, Trung Quốc
đã cho quân tấn công và chiếm giữ trái.
phép quần đảo Hoàng Sa của ta.
Bài 21: Xây Mục III.2. Hình 61: Lược đồ phong trào
dựng chủ nghĩa Phong trào “Đổng Khởi” ở Miền Nam. Có thể hiện
xã hội ở Miền Đồng Khởi chủ quyền về các đảo: Sơn Trà, Lao
Bắc, đấu tranh Chàm, Lý Sơn, Phú Quốc, Côn Sơn,
chống đế quốc quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam), quần
61
Mĩ và chính đảo Trường Sa (Việt Nam). Có kinh độ
quyền Sài Gòn và vĩ độ.
ở Miền Nam
(1954 – 1965).
Bài 22: Nhân Mục II: Miền Khai thác nguồn tài liệu lịch sử,
dân hai miền Bắc vừa chiến các câu chuyện lịch sử về đường mòn
trực tiếp chiến đấu chống chiến Hồ Chí Minh trên biển với những con
đấu chống đế tranh phá hoại, tàu không số làm nhiệm vụ vận chuyển
quốc Mĩ xâm vừa sản xuất và chi viên cho chiến trường miền Nam….
lược. Nhân dân làm nghĩa vụ Có nêu sự kiện đế quốc Mĩ dựng
miền Bắc vừa hậu phương. lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ
chiến đấu vừa tiến hành chiến tranh phá hoại miền
sản xuất (1965 – Bắc nhằm tàn phá thành quả xây dựng
1973) chủ nghĩa xã hội và ngăn chặn sự chi
viện của miền Bắc vào miền Nam,
chứng tỏ từ thời kì này vấn đề chủ
quyền biển, đảo đã bị kẻ thù lợi dụng
để thực hiện mưu đồ đen tối.
Bài 23: Khôi Mục III.2: Cuộc Khai thác lược đồ cuộc tổng tiến
phục và phát tổng tiến công công và nổi dậy xuân 1975, bộ đội ta đã
triển kinh tế - xã và nổi dậy xuân giải phóng quần đảo Trường Sa.
hội ở miền Bắc, 1975
giải phóng hoàn
toàn miền Nam
(1973 – 1975)
Bài 26: Đất Mục I: Đường Vai trò của biển, đảo được thể
nước trên đường lối đổi mới của hiện qua các chủ trương, chính sách của
62
đối mới đi lên Đảng Đảng nhằm mục tiêu khai thác tổng
chủ nghĩa xã hội hợp kinh tế biển phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an
ninh quốc phòng, hội nhập thế giới.
Qua các bài, mục có liên quan đến chủ quyền biển, đảo trong chương
trình nội khóa, chúng ta sẽ sử dụng các phương pháp dạy học và các tài liệu
về chủ quyền biển, đảo bằng các phương pháp sư phạm để làm nổi bật và giúp
HS nhận thức sâu sắc các vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất: Bằng chứng lịch sử, cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền
biển đảo của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn
1956 – 1975.
Thứ hai: Một số vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên biển Đông
gữa Việt Nam và các quốc gia khác trong khu vực.
Thứ ba: Những giá trị, tiềm năng kinh tế - xã hội của biển, đảo đối với
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ tư: Giáo dục ý thức về bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
HS không những nhận thức được chủ quyền biển đảo của quốc gia đến
đâu mà còn ý thức được việc đấu tranh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc. Đó là đấu tranh bằng biện pháp hòa bình như đàm phán, ngoại giao và
vận dụng luật pháp quốc tế trên cơ sở thượng tôn pháp luật, đáp ứng nguyện
vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam, nhân dân Quốc tế.
Trước diễn biến của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt trước sự
chống phá của các thế lực thù địch, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc”. Đảng ta nhấn mạnh mục tiêu, yêu cầu bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên vị trí hàng đầu; trong đó
khẳng định ý chí quyết tâm, “kiên quyết, kiên trì” đấu tranh để giữ vững chủ
quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; không để đất nước bị động, bất ngờ,
63
không để mất đất, mất đảo, mất dân:
Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức ngày
càng đầy đủ, sâu sắc hơn về mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh sự cần thiết
phải bình tĩnh, sáng suốt, chủ động, sáng tạo, kiên quyết, kiên trì trong giải
quyết những bất đồng, những tranh chấp về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, dân
tộc bằng biện pháp hòa bình nhằm giữ vững và bảo toàn lợi ích quốc gia, dân
tộc, coi giá trị hòa bình là cao nhất. Đồng thời chỉ rõ: cần chủ động, tích cực
chuẩn bị về mọi mặt để có kế sách hay, ứng phó thắng lợi trước các tình
huống khác có thể xảy ra, khi biện pháp đàm phán, thương lượng hòa bình
không còn phát huy tác dụng. Vì vậy, cần đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo, nắm
chắc tình hình, kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước những đối sách phù hợp
với từng đối tác, đối tượng, từng tình huống có thể xảy ra.
Hai là, nếu như trước đây, chúng ta mới nhấn mạnh việc kết hợp quốc
phòng, an ninh với kinh tế và kinh tế với quốc phòng, an ninh thì Đại hội XII
yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ cả kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an
ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là giải pháp
thiết thực để giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Việc kết hợp này cần được thực hiện trong từng chiến lược, quy
hoạch, phát triển kinh tế - xã hội, cần phải kiên quyết, kiên trì thực hiện trên
tất cả mọi vùng, miền của Tổ quốc, trong đó chú trọng các đô thị lớn, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Ba là, cần thiết phải xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
xây dựng, củng cố vững chắc thế trận an ninh nhân dân, xây dựng thế trận
lòng dân, nhất là ở các địa bàn chiến lược trọng yếu, đô thị lớn, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, biển, đảo. Việc điều chỉnh thế trận, bố trí các lực lượng tác
chiến ngày càng hợp lý và đạt hiệu quả cao hơn; việc xây dựng thế trận an
ninh nhân dân, thế trận lòng dân có bước phát triển vững chắc. Kết quả là an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, chủ động ngăn ngừa và
64
chuẩn bị tốt mọi phương án, đối phó thắng lợi mọi tình huống có thể xảy ra.
Vì thế, ở một số điểm nóng, địa bàn trọng yếu, chiến lược, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội dần dần ổn định. Nhờ đó, tiềm lực quốc phòng, an ninh
ngày càng được củng cố vững chắc, được nhân dân tin tưởng, đồng tình ủng
hộ và giúp đỡ. Đây là cơ sở để chúng ta bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
2.2. Những yêu cầu cơ bản khi xác định các biện pháp giáo dục ý thức
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp
12 – chƣơng trình chuẩn
2.2.1. Xác định đúng những kiến thức cơ bản cần dạy
Xuất phát từ mục tiêu đào tạo chung và vai trò, ý nghĩa của bộ môn,
dạy học Lịch sử ở trường phổ thông phải cung cấp cho học sinh những kiến
thức cơ bản có hệ thống về lịch sử phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã
hội loài người. Trên cơ sở, giáo dục cho học sinh những tư tưởng, tình cảm
đúng đắn (niềm tin, lý tưởng, truyền thống dân tộc, lòng yêu nước, lòng biết
ơn, kính yêu các bậc tiền bối…) và rèn luyện các năng lực nhận biết, năng lực
hành động , kỹ năng, kỹ xảo. Tức là bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông phải
thực hiện ba nhiệm vụ: bồi dưỡng nhận thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo
đức và phát triển học sinh. Do vậy, xác định đúng kiến thức cơ bản trong
chương trình môn học là yêu cầu quan trọng để dạy học Lịch sử đạt hiệu quả.
Bám sát những mục tiêu và nội dung được đề cập trong quá trình, chuẩn kiến
thức, kĩ năng cần đạt sẽ giúp giáo viên xác định được cần phải dạy cái gì để từ
đó dạy như thế nào. Trong dó, sách giáo khoa là tài liệu chính để giáo viên sử
dụng trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
và là tài liệu chính để học sinh học tập.
Đối với các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, khối lượng
thông tin cũng vô cùng phong phú, đồ sộ. Tuy nhiên, không phải cái gì cũng
65
phải cung cấp cho học sinh hay hướng dẫn học sinh khai thác ở trên lớp được
chọn lựa kĩ càng, đó phải là những kiến thức phục vụ trực tiếp cho bài học và
thống nhất với quan niệm chung của xã hội hiện nay.
2.2.2. Phù hợp với đặc điểm, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh
Mỗi lứa tuổi học sinh lại có những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau.
Theo các nhà nghiên cứu, học sinh THPT nói chung và học sinh lớp 12 nói
riêng là những đối tượng đã ở vào độ tuổi thanh niên, khả năng phát triển trí
tuệ hay khả năng tư duy của các em có sự thay đổi mạnh và nhanh chóng theo
hướng tích cực, độc lập và tư duy từ lý luận phát triển mạnh. Các em có khả
năng và rất ưa thích khái quát các vấn đề. Sự phát triển mạnh của tư duy lý
luận của học sinh THPT có liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo. Nhờ khả
năng khát quát, các em mới có thể tự mình phát hiện ra cái mới. Các em đề
cao và tôn trọng các bạn thông minh và các thầy cô có phương pháp giảng
dạy tích cực, tôn trọng những suy nghĩ độc lập của học sinh, phê phán sự gò
ép, máy móc trong phương pháp sư phạm […..]. Đặc điểm này khác biệt so
với học sinh Tiểu học và học sinh THCS. Với học sinh Tiểu học: tri giác và
đánh giá không gian của học sinh Tiểu học chưa chính xác, đặc biệt về những
vật quá lớn hoặc quá nhỏ, đối với biểu tượng thời gian, trí giác vẫn còn hạn
chế. Những khái niệm như thế kỉ, thập niên…còn rất mơ hồ và trừa tượng;
khả năng tư duy khái quát mới ở giai đoạn bắt đầu hình thành … Còn với học
sinh THCS, so với học sinh Tiểu học, tất cả các mặt tâm lý, tình cảm, nhận
thức của các em đã phát triển lên một tầm mức mới, có sự phân hóa sâu sắc
hơn, điển hình hơn. Nét đặc trưng của tư duy giai đoạn này là học sinh ý thức
được các thao tác trí tuệ của bản thân và kiểm soát được chúng. Đây cũng là
đặc điểm của các hiện tượng tâm lý khác. Tuy nhiên, các loại tư duy lý luận,
phân tích, tư duy hình thức mới ở giai đoạn đầu, chưa hoàn thiện và ở mức
thấp hơn so với giai đoạn của học sinh THPT.
Chính vì thế khi dạy học, giáo viên phải nắm rõ các đặc điểm tâm sinh
lý của đối tượng học sinh khác nhau để vận dung các phương pháp dạy học
66
cho phù hợp. Tuy nhiên, bất cứ khi nào, với đối tượng nào cũng cần sáng tạo,
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, với đối tượng học sinh THPT
đeiều đó lại càng cần thiết.
2.2.3. Đảm bảo tính cụ thể, hình ảnh, giàu biểu tƣợng lịch sử
Xuất phát từ quy luật của nhận thức và đặc điểm của nhận thức lịch sử
đó là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, chính vì vậy, khi dạy
học Lịch sử, việc đảm bảo tính cụ thể, giàu hình ảnh, biểu tượng lịch sử là vô
cùng quan trọng. Nó không chỉ giúp cho bài học trở nên sinh động hơn mà
còn hỗ trợ tích cực cho quá trình nhận thức của học sinh. Tính cụ thể, giàu
biểu tượng được hình thành bằng nhiều cách thức khác nhau. Trong dạy học
Lịch sử về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cũng thế, để tạo biểu tượng cho
học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử ở
học sinh giáo viên có thể sử dụng các tài liệu thao khảo như các tài liệu lịch
sử, tài liệu văn học, văn kiện của Đảng, Nhà nước, các tác phẩm của Hồ Chí
Minh,…
Những sự kiện, những con số cụ thể có chọn lọc minh họa cho các nội
dung bài học cũng có khả năng đem lại hiệu quả khá lớn. Thông qua những tư
liệu, học sinh cũng có thể nhận thức được tầm quan trọng trong cuộc đấu
tranh của nhân dân ta.
Ví dụ 1: Khi dạy mục IV.1 bài 23: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã
hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975) – tìm hiểu về
nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, trong đó có
vai trò của hậu phương miền Bắc trong kháng chiến chống Mĩ giai đoạn này,
giáo viên có thể cung cấp những tư liệu giàu hình ảnh sau về tuyến đường Hồ
Chí Minh trên biển huyền thoại: “Như vậy, trong suốt 15 năm làm nhiệm vụ
vận tải chiến lược quân sự trên biển (1961 – 1975), Đoàn 125 đã huy động
được 1.879 lượt tàu thuyền, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí trang bị kĩ thuật,
thuốc chữa bệnh và 80.026 cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam ,
67
chiến đấu hàng trăm trận với máy bay, tàu chiến của Mỹ và quân đôi Sài Gòn.
Với những thành tích đã đạt được, Đoàn 125 Hải quân vinh dự được Đảng,
Nhà nước hai lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (năm
1967 và năm 1976), 5 Huân chương quân công, 12 Huân chương Chiến công.
5 tàu và 8 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
( Dựa theo: thiếu tướng, PGS.TS Vũ Quang Đạo (2011) Đường Hồ Chí Minh
trên biển – một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ, cứu nước. Tạp chí cộng sản
(http://www.tapchicongsan.org.vn), 8/11/2011)
Từ những tư liệu trên, HS có thể nhận thức được tầm quan trọng của
tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Để tăng tính hiệu quả của tư liệu, giáo viên có thể kết hợp sử dụng các loại
đồ dùng trực quan khác nhau như là: Hình ảnh minh họa, bản đồ, phim tư liệu…
Ví dụ 2: Sau đây là hình ảnh giáo viên có thể sử dụng để làm rõ tính
chất ác liệt của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng hải quân, không
quân, phá hoại miền biển của ta:
Hình 2.1. Máy bay B52 và máy bay 6A6 của Mĩ ngày đêm ném bom và
thả ngư lôi phong tỏa cửa sông, cảng biển ở nhiều tỉnh phía Bắc.
(Nguồn: http://www.baophuyen.com.vn/76/91470/viec-ky-hiep-dinh-
68
paris-va-cuoc-nem-bom-b-52-cua-my.html)
Giáo viên cung cấp thêm thông tin kết hợp chỉ trên hình ảnh: Đây là
hình ảnh của máy bay B52 được coi như siêu pháo đài bay, thần tượng của
không lực Hoa Kỳ và máy bay chiến thuật A6A mà Mĩ Đã sử dụng trong ném
bom bắn phá miền Bắc nước ta. Từ ngày 11-5-1972, máy bay Mỹ tiếp tục rải
mìn bịt luồng ra vào các cảng Hồng Gai, Cẩm Phả, các cửa sông và vùng ven
biển miền Bắc nước ta. Từ ngày 9-5-1972 đến tháng 1-1973, địch đã thả ở 8
tỉnh – thành miền Bắc với 166 điểm, gòm hàng vạn quả bom từ trường, thủy
lôi, mìn các loại; diện tích bị phong tỏa ở các khu vực trọng điểm gần 478km,
suốt từ Quảng Ninh, Hải Phòng đến cửa Tùng, cửa Việt...
Như vậy, khi sử dụng những hình ảnh đầy tính trực quan và những
thông tin cần thiết, học sinh đã có thể hình dung một cách rõ ràng những âm
mưu và thủ đoạn thâm độc của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại
miền Bắc lần này.
2.2.4. Đảm bảo tính sƣ phạm, tính khoa học, tính tƣ tƣởng
Dạy học là một quá trình được tổ chức theo một chương trình chuẩn
mực nhằm mục tiêu đào tạo những con người vừa hồng vừa chuyên cho sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Hay nói cách khác, bất cứ
hoạt động giáo dục nào cũng phải hướng đến mục tiêu phát triển nhân cách
của học sinh. Vì vậy, ngay cả khi tổ chức dạy học các nội dung về chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc cho học sinh cũng phải đảm bảo được mục tiêu trên. Đó là
nguyên tắc hàng đầu trong giáo dục.
Tính sự phạm được thể hiện thông qua các hoạt động của người giáo
viên: phải thể hiện tính mẫu mực, khuân phép của một nhà giáo làm gương
cho học sinh noi theo; các phương pháp dạy học đảm bảo phát huy tính tích
cực, sáng tạo của học sinh, khơi gợi niềm đam mê học tập từ học sinh, khích
lệ sự tu dưỡng, rèn luyện trong cuộc sống; xây dựng được một môi trường sư
phạm thuận lợi cho học sinh được thi đua, hợp tác, tương trợ nhau trong học
69
tập và rèn luyện. Nói chung, quá trình dạy học phải đảm bảo hướng tới mục
tiêu hình thành cho học sinh ý thức công dân và các phẩm chất của người lao
động sáng tạo.
Tính khoa học và tính tư tưởng gắn liền với tính sư phạm trong dạy học.
Tính khoa học thể hiện qua nhiệm vụ dạy học, phương pháp tppr chức, nội
dung bài giảng.
Nhiệm vụ của dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng đó là
trang bị cho học sinh một hệ thống các hiểu biết cơ bản về xã hội loài người
với những thành tựu mới nhất của khoa học – công nghệ, sát với thực tế cuộc
sống; góp phần hình thành nhân sinh quan, thế giới quan khoa học, phương
pháp làm việc khoa học cho học sinh.
Khi vận dụng các phương pháp vào trong dạy học, giáo viên rất cần
phải dựa vào những quy luật phát triển, đặc điểm tâm lý của học sinh để tổ
chức cho phù hợp, hiệu quả. Tất cả những cơ sở này đều là kết quả của nghiên
cứu khoa học.
Dạy học nói chung chịu ảnh hưởng của những chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta, nội dung dạy học phải phù hợp với những mục tiêu của cấp học,
bậc học được đặt ra, phù hợp với những chủ trương, chính sách của Đảng.
Như vậy, bên trên là một số yêu cầu cơ bản khi xác định các biện pháp
để tổ chức dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh.
Mỗi yêu cầu nhấn mạnh một phương diện, một khía cạnh của quá trình dạy
học. Trong dạy học, giáo viên cần quán triệt các yêu cầu cơ bản trên, thực
hiện được điều đó sẽ giúp đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.
2.2.5. Đảm bảo phát huy tính tích cực học tập, tính chủ động, sáng tạo ở
học sinh
Trước yêu cầu đổi mới hoạt động dạy học lịch sử hiện nay, nâng cao
tính tích cực chủ động cho học sinh được coi là chìa khóa then chốt cho việc
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Nếu giờ học lịch sử tạo được sự hứng
thú, sự tích cực, sức lôi cuốn đối với học sinh thì sẽ thôi thúc các em tự tìm
70
hiểu, học tập không cần đến những biện pháp thúc ép, tác động từ bên ngoài.
Do vậy trong các giờ học lịch sử nói chung và giờ học về chủ quyền biển đảo
tổ quốc nói riêng, nhiệm vụ của giáo viên là vận dụng linh hoạt, kết hợp
nhuần nhuyễn nhiều phương pháp dạy học, tạo điều kiện cho học sinh chủ
động tham gia vào các hoạt động học tập với mục đích là phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo ở các em. Với tư cách là chủ thể khám phá, học sinh
sẽ thực sự nắm vững kiến thức, khắc sâu kiến thức và có xu hướng tiếp tục
tìm hiểu mở rộng kiến thức.
Để nâng cao chất lượng dạy học nói chung , giờ học lịch sử nói riêng
và đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực lấy học sinh làm
trung tâm người thầy chỉ là người chỉ đạo hướng dẫn cách tiếp thu nguồn kiến
thức trong một giờ học. Vậy “Phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh”ở trên lớp đối với môn học lịch sử ở trường trung học cơ sở là một vấn
đề mà đòi hỏi người học sinh phải tập chung tìm hiểu suy nghĩ những kiến
thức của bài học ,phải chủ động tiếp thu những kiến thức ở sách giáo khoa,ở
các nguồn tư liệu thông tin khác người thầy chỉ hướng dẫn, chỉ đường dẫn lối
cho các em đi đúng hướng của bài học.
Tạo được hứng thú, phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của
học sinh trong các giờ học về chủ quyền biển đảo tổ quốc là một thành công
của người giáo viên lịch sử trên bước đường giáo dục, định hướng cho học
sinh về trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo tổ
quốc nói riêng và chủ quyền lãnh thổ tổ quốc nói chung.
Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh là một yếu tố rất quan
trọng giúp cho tiết dạy của Gv được thành công. Muốn vậy Gv phải đổi mới
về phương pháp, hình thức dạy học để giúp các em tích cực khai thác kiến
thức thông qua quá trình học tập.
2.3. Một số hình thức và biện pháp giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo
71
của Tổ quốc cho học sinh lớp 12 trong dạy học lịch sử
2.3.1. Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh
trong giờ học nội khóa
Do đặc thù của môn Lịch sử là mang tính quá khứ, HS không thể trực
tiếp tiếp xúc với những sự kiện, nhân vật lịch sử, mà chỉ có thể dựa vào những
nguồn sử liệu để tham khảo, nhận thức và đánh giá. Việc GV cung cấp những
cứ liệu lịch sử làm bằng chứng về việc xác lập chủ quyền biển đảo Tổ quốc
một cách hòa bình và liên tục qua các triều đại phong kiến Việt Nam cho HS,
không chỉ giáo dục cho HS ý thức công dân về biển đảo quê hương, mà còn
giáo dục cho các em lòng tự hào, tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt là hai
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Tuy nhiên, trong chương trình sách giáo khoa lịch sử hiện hành, kiến
thức về biển đảo được đưa vào còn chưa nhiều. Những hiểu biết về biển đảo
của HS có được chủ yếu dựa trên tìm hiểu sách báo hoặc các phương tiện
truyền thông, thiếu sự định hướng, dẫn đến nhiều cách hiểu chưa thấu đáo. Vì
vậy cần trang bị cho HS những kiến thức chủ yếu về biển đảo Việt Nam và
đây là một trong những nhiệm vụ của môn học lịch sử ở trường phổ thông.
Kiến thức về biển đảo Việt Nam trang bị cho HS phải đảm bảo tính chính xác,
chân thật và khoa học. Biết được những cứ liệu lịch sử về chủ quyền biển đảo
này sẽ giúp HS càng thêm yêu và tự hào hơn về quê hương đất nước mình.
Trên cơ sở mục tiêu của dạy học lịch sử nói chung và nội dung chương
trình, mục tiêu của Lịch sử lớp 12 nói riêng, đề tài đề xuất một số biện pháp
tổ chức dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc như sau:
2.3.1.1. Sử dụng tài liệu tham khảo về chủ quyền biển, đảo để giáo dục ý thức
về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh
Sử dụng TLTK giúp HS có thêm cơ sở để hiểu biết bản chất các sự kiện,
hình thành khái niệm, hiểu rõ những quy luật, bài học lịch sử. TLTK là phương
tiện có hiệu quả để hiểu rõ hơn SGK, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Biết làm việc với TLTK sẽ rèn luyện cho học sinh nhiều kĩ năng tốt: kĩ
72
năng phát hiện kiến thức cơ bản qua TLTK, kĩ năng đối chiếu SGK – TLTK
để khắc sâu kiến thức cơ bản, kĩ năng trình bay kiến thức cơ bản qua TLTK,
sử dụng TLTK để trả lời câu hỏi, sưu tầm TLTK…
Cách thức sử dụng TLTK cũng rất đa dạng.
- Sử dụng tài liệu tham khảo về chủ quyền biển, đảo để cung cấp thêm
thông tin cho học sinh.
Ví dụ 1, trước khi dạy bài 23: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở
miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975), Giáo viên có thể
cung cấp thông tin về trận Hải chiến Trường Sa năm 1974 với sự kiện Trung
Quốc cho quân chiếm đảo Hoàng Sa của nước ta:
Ngày 14/1/1974, một tàu của quân Việt Nam Cộng Hòa đã phát hiện 2 tàu
hải quân Trung Quốc đang thả neo tại đảo Hữu Nhật (thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm
của quần đảo Hoàng Sa), đây vốn là đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Lập tức ngày 16/1/1974, tàu HQ-16 của Việt Nam Cộng Hòa tức tốc ra
thẳng đảo Hữu Nhật và phát hiện đảo Hữu Nhật và các đảo gần đó là Duy
Mộng, Quang Hòa đều đã bị Trung Quốc ngang nhiên chiếm giữ. Phía Việt
Nam Cộng Hòa yêu cầu Trung Quốc rời khỏi các đảo thuộc chủ quyền của
Việt Nam, nhưng Trung Quốc cũng yêu cầu Việt Nam phải rời ngay khỏi các
đảo thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Ngày 18/1, Chu Ân Lai họp Bộ Chính Trị và quyết định sẵn sàng tấn
công hạm đội Việt Nam Cộng Hòa, sẵn sàng điều quân đến Hoàng Sa.
Ngày 18/1/1974, Việt Nam Cộng Hòa đã chuẩn bị 4 tàu chiến nhằm
chiếm lại đảo. Đây đều là 4 tàu cũ của Mỹ để lại, trong đó có một tàu để quét
thủy lôi được cải tiến để thành tàu tuần tra.
10 giờ sáng ngày 18/1/1974 , tàu HQ-16 mang theo quân đổ bộ đến đảo
Quang Hòa, nhưng bị tàu Trung Quốc cản không cho lại gần đảo, khiến tàu
HQ-16 chuyển hướng khác rồi dùng xuồng cao su tấn công chiếm lại đảo. Thế
nhưng phía Trung Quốc phát hiện và nổ súng khiến 1 thiếu úy tử trận, cuộc đổ
73
bộ bất thành và phải rút lên tàu HQ-16.
Sáng 19/1/1974, các tàu chiến của Việt Nam Cộng Hòa nhận lệnh đến
chiếm lại đảo Quang Hòa trong hòa bình với mệnh lệnh không được nổ súng
trước, yêu cầu phía Trung Quốc rời khỏi đảo.Trên đảo Quang Hòa lúc này có
cả một đại đội Trung Quốc chiếm giữ, phía Việt Nam Cộng Hòa chỉ có 74
người. Khi những người lính Việt Nam Cộng Hòa vừa đặt chân lên đảo yêu
cầu Trung Quốc rút khỏi đây, lập tức phía Trung Quốc nổ súng đáp trả, khiến
bên Việt Nam Cộng Hòa 2 người tử trận, 2 người bị thương.
Trước Việc Trung Quốc hung hăng không chịu rút khỏi đảo, phía Việt
Nam Cộng hòa quyết định phải nổ súng để chiếm lại đảo. 4 tàu chiến của Việt
Nam Cộng Hòa chia 2 hướng tiến đánh. Tàu HQ-10 và HQ-16 tiến vào lòng
chảo quần phía bắc đảo Quang Hòa; tàu HQ-4 và HQ-5 tiến vào lòng chảo từ
hướng tây nam.
Hình 2.2 Sơ đồ trận chiến theo mô tả trong sách Tài liệu
Hải chiến Hoàng Sa của Vũ Hữu San và Trần Đỗ Cẩm
(Nguồn: http://www.daikynguyenvn.com/trong-nuoc/dien-bien-cuoc-
hai-chien-hoang-sa-cach-day-42-nam.html)
10h25 ngày 19/1/1974, các tàu Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu khai hỏa
74
dùng pháo bắn vào các tàu Trung Quốc, các tàu chiến của Trung Quốc di
chuyển liên tục nhằm tránh đạn và nổ pháo bắn trả. Lúc này các thiết bị của
Việt Nam Cộng Hòa do quá cũ kỹ nên rất khó liên lạc được với nhau ảnh
hưởng lớn đến việc phối hợp.
Tàu HQ-4 vừa nhả đạn thì bộ phận bắn tự động bị hỏng, phải bắn bằng
tay từng phát một rất nặng nề và chậm chạp lại không chính xác, vì vậy tàu
HQ-4 phải rút lui để sửa chữa dưới sự yểm trợ của tàu HQ-5.
10h35 tàu HQ-10 bị trúng đạn, hạm trưởng bị thương, nước bắt đầu
tràn vào tàu, nhưng binh sĩ trên tàu vẫn bình tĩnh giao tranh với các tàu Trung
Quốc. Tàu Trung Quốc mang số hiệu 389 bị trúng đạn bốc cháy. Tàu Trung
Quốc mang số hiệu 396 cũng bị trúng đạn, nhưng trước khi bị chìm tàu này đã
tìm cách đâm vào tàu HQ-10 rồi chìm hẳn. Tàu HQ-10 vừa trúng đạn lại bị
đâm nên không điều khiển được.
10h55 do thiết bị quá cũ kỹ nên đạn pháo của tàu HQ-5 bắn nhầm vào
tàu HQ-16 khiến tàu này không thể tham chiến được và rút lui.Thêm một tàu
Trung Quốc số hiệu 274 bị trúng đạn bốc cháy phải dạt vào đảo Quang Hòa.
11h Trung Quốc điều thêm tàu trợ lực tấn công tàu HQ-5 khiến tàu này
bị trúng đạn hỏng mất tháp pháo và hệ thống liên lạc. Tuy thế tàu HQ-5 vẫn
cố gắng cầm cự khiến tàu Trung Quốc bị trúng đạn.
11h10 tàu HQ-10 dần dần chìm hẳn, hạm trưởng cùng 62 binh sĩ khác
đã nằm lại tại nơi đây mãi mãi, số còn lại tìm cách thoát được ra ngoài tàu.
Lúc này bên Việt Nam Cộng hòa có 4 tàu thì 1 tàu bị hỏng, 1 tàu bị
chìm, 2 tàu bị trúng đạn và số đạn pháo còn lại rất ít. Lúc này cố vấn Hoa Kỳ
cho biết Trung Quốc điều thêm 17 tàu đến (gồm 4 tàu ngầm và 13 chiến hạm),
vì thế nên quyết định rút lui. Các tàu Trung Quốc sau giao tranh bị trúng đạn
hỏng nặng cũng phải rút về đảo.
Phía bên Việt Nam Cộng Hòa có 74 binh sĩ tử trận (trong đó riêng tàu
HQ-10 có 63 binh sĩ gồm cả trạm trưởng Ngụy Văn Thà). Trung Quốc chiếm
75
đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ đó.
Hình 2.3. Bốn chiến hạm Việt Nam Cộng hòa tham gia trận chiến.
(Nguồn: http://www.daikynguyenvn.com/trong-nuoc/dien-bien-cuoc-
hai-chien-hoang-sa-cach-day-42-nam.html)
Qua đó GV có thể đặt thêm câu hỏi như: Em có nhận xét gì về hành
động xâm phạm của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa?. Sự kiện trên đã vi
phạm điều lệ nào trong hiến chương của Liên Hợp Quốc?...
Việc mở rộng thêm thông tin như vậy, học sinh sẽ có thêm tư liệu để
hình dung rõ hơn về những hành động xâm phạm nghiêm trọng của Trung
Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1974, họ đã cướp quần đảo Hoàng Sa
từ tay của quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Ví dụ 2, Ngoài ra, Giáo viên có thể giúp học sinh hiểu rõ hơn về sự xác
lập chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa qua những thông tin về Bia chủ quyền
năm 1938:
Năm 1938, Pháp dựng bia chủ quyền, xây dựng xong đèn biển, trạm
khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Hoàng Sa, trong quần đảo Hoàng Sa, xây
76
dựng trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Itu Aba trong quần đảo trường
Sa. Hàng chữ trên bia: “Cộng hòa Pháp, vương quốc An – nam, quần đảo
Hoàng Sa, 1816-đảo Pattle-1938 ( 1816 là năm vua Gia Long thực hiện chủ
quyền của Việt Nam đối với các đảo Hoàng Sa, 1938 là năm dựng bia)
Ngày 4/12/1931 và ngày 24/4/1932, Pháp phản kháng chủ phủ Trung
Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai
thác phân chim trên đảo Hoàng Sa
Hình 2.4. Bia chủ quyền do Pháp dựng ở đảo Hoàng Sa năm 1938
(Nguồn: www.baotangdanang.vn)
Tiếp đó, ngày 20/4/1971, chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa
77
quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Hình 2.5. Bia chủ quyền Việt Nam dựng trên đảo Trường Sa,
quần Đảo Trường Sa (1961)
(Nguồn: doithoaionline2.blogspot.com)
Ngày 13/7/1971, Ngoại Trưởng chính quyền Sài Gòn khẳng định một
lần nữa chủ quyền của việt Nam đối với quần đảo đó trong cuộc họp báo ngày
10/7/1971.
Ngày 19/1/1974, lực lượng quân sự của Cộng hòa Nhân dân Trug Hoa
chiếm đóng nhóm Tây Nam của quần đảo Hoàng Sa, và cũng trong ngày này
chính quyền Sài Gòn tuyên bố lên án cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xâm
phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 24/2/1974 tuyên bố khẳng định
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt
Nam.
Suốt trong thời gian đại diện Việt Nam về mặt đối ngoại, Pháp luôn
luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa và phản kháng những hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ
quyền của Việt Nam ở hai quần đảo.
Như vậy, từ thế kỉ XVII đến nay, suốt trong mấy thế kỷ, Nhà nước Việt
Nam đã thực hiện chiếm hữu không ngừng, thực thi quyền quản lý về mặt nhà
nước một cách liên tục và hòa bình chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
78
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước Việt Nam luôn bảo vệ tích cực các
quyền và danh nghĩa của mình trước mọi mưu đồ và hành động xâm phạm tới
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
- Giao bài tập cho HS tìm hiểu về chủ quyền biển, đảo thông qua TLTK
Đây là cách giúp HS củng cố kiến thức cơ bản của bài học, đồng thời
rèn luyện kỹ năng học tập cần thiết, gắn học đi đôi với hành. Do những nội
dung về chủ quyền biển, đảo được đề cập trong chương trình chưa nhiều,
những hiểu biết về chủ quyền biển, đảo của HS có được chủ yếu dựa trên tìm
hiểu sách báo hoặc các phương tiện truyền thông, thiếu đi sự định hướng, dẫn
đến nhiều cách hiểu chưa thấu đáo. GV có thể tăng cường ra bài tập về nhà
cho HS tìm hiểu thông qua các dạng sau:
Sưu tầm hệ thống bản đồ xác lập chủ quyền biển, đảo, đặc biệt là
chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn 1965 – 1975…
Tìm hiểu những nhân vật lịch sử đã anh dũng chiến đấu và hy sinh
để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo quê hương…
Tìm hiểu những tư liệu chính sử chứng minh chủ quyền Hoàng Sa,
Trường Sa là của Việt Nam…
Ví dụ 1: Trước khi dạy bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến
toàn quốc hống thực dân Pháp (1946 – 1950), giáo viên có thể giới thiệu : Lợi
dụng Việt Nam đang phải đối phó với sự trở lại của thực dân Pháp và lo
kháng chiến chống Pháp, quân Tưởng Giới Thạch và sau đó là quân CHND
Trung Hoa đã tiến hành chiếm đóng các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa. Cũng trong thời gian này, một công chức tên là Bai Meichu
của chính quyền Đài Loan đã vẽ và xuất bản bản đồ Nam Hải Chư đảo, trong
đó có thể hiện đường biên giới bao trùm khoảng 80% diện tích Biển Đông,
thường được gọi là đường bien giới “lưỡi bò” mà không dựa vào bất cứ một
79
tiêu chuẩn nào theo luật pháp và thực tiễn quốc tế.
GV đưa ra bài tập để HS chuẩn bị trước ở nhà cho tiết học sau, phân
công nhiệm vụ cho các nhóm với các câu hỏi định hướng như sau:
1. “Đường lưỡi bò” là gì, chúng được xuất bản và chỉnh sửa vào những
năm nào? Chúng có đặc điểm gì?
2. Trung quốc đã đưa ra những yêu sách gì khi cho xuất bản tấm bản đồ
về “đường lưỡi bò”?
3. Phản ứng của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với yêu
sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc như thế nào?
Với những câu hỏi trên, GV có thể cho HS tùy chọn các thành viên yêu
thích vấn đề vào cùng 1 nhóm. GV giới thiệu một số TLTK để HS tìm hiểu
như cuốn sách “Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam” do tập thể nhiều tác
giả xuất bản năm 2008 hay là cuốn sách “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông”
của tác giả Trần Công Trục. Ngoài ra HS còn có thể tìm đọc các tài liệu trên
các trang mạng tại nhà như http://www.vietthuc.org với bài viết có tựa đề
“Bản đồ “đường lưỡi bò” trên biển Đông: Đường yêu sách phi lý của Trung
Quốc”. Hoặc một số trang web như: http://biengioilanhtho.gov.vn hay
http://quangngai.gov.vn.
Trong quá trình tiến hành bài học phần I.1 Thực dân Pháp bội ước và
tiến công nước ta, GV yêu cầu từng nhóm trình bày trước lớp bài tập mà GV
giao về nhà. HS cử đại diện nhóm lên trình bày, nhóm khác phản biện. GV
nhận xét và bổ sung. Cuối giờ học nên cho điểm các nhóm để các em biết
được mức độ hoàn thành bài tập của mình để những phần chuẩn bị về sau
được tốt hơn.
Ví dụ 2: Đối với bài 4 “Các nước Đông Nam Á và Ấn Độ” Để có thể
giúp HS hiểu rõ hơn những thách thức mà ASEAN đang gặp phải trên con
đường hướng tới mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN vào năm 2015 trong
đó có vấn đề tranh chấp trên biển Đông cũng như vị thế của tổ chức này trong
80
việc đảm bảo an ninh khu vực Đông Nam Á.
Giáo viên có thể kết hợp giữa việc cung cấp TLTK với một số trang
web của tổ chức ASEAN như https://asean.thuvienphapluat.vn,
http://asean.mofa.gov.vn và đặt câu hỏi định hướng cho HS khai thác tài liệu:
1. Nội dung cơ bản của mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN vào năm
2015 là gì? Vấn đề biển Đông có tác động như thế nào đến việc thực hiện mục
tiêu đó?
2. Những lý do nào khiến vấn đề biển Đông khó giải quyết? (Chủ quan,
khách quan).
3. ASEAN có thể đảm nhiệm được vai trò trung tâm hòa giải các mâu
thuẫn hiện tại giữa các bên tranh chấp trên biển Đông hiện nay không? Đó có
thể là những giải pháp nào (hòa bình hay bằng vũ lực)? Trong số những giải
pháp đó, đâu là giải pháp tối ưu?
4. Vai trò của Việt Nam là ở đâu trong tình huống này?
Bên cạnh đó, cần chỉ ra rằng chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam Á, mà
hợp tác ASEAN là một biểu hiện, cũng còn khá non trẻ. Trong khi sự phát
triển và suy tàn của các đế chế ở châu Âu với tầm ảnh hưởng bao trùm rộng
lớn đã góp phần tạo điều kiện cho các dân tộc ở châu Âu có sự giao thoa, qua
đó hình thành bản sắc riêng của châu lục thì tại Đông Nam Á, sự chia rẽ về
mặt địa lý, ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực, của các đế quốc trong
giai đoạn thuộc địa và ảnh hưởng của Chiến tranh lạnh đã khiến các dân tộc
Đông Nam Á phần nào bị chia rẽ, ít giao lưu và hiểu biết về nhau hơn, đặc
biệt so với EU.
Qua việc phân tích các tài liệu, HS có khả năng nhận thức rõ hơn đặc
điểm trong sự liên kết của tổ chức ASEAN: không giống như liên minh Châu
Âu EU – một hình mẫu lý tưởng trong liên kết khu vực, đó là một tổ chức
siêu chính phủ, do vậy, tính kết dính giữa các thành viên rất cao, còn ASEAN
chỉ là một tổ chức liên chính phủ hoạt độngt heo Phương cách ASEAN mà
81
tham vấn, đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ các nước khác
là trụ cột đã tạo ra một sự ràng buộc lỏng lẻo giữa các thành viên ASEAN,
làm suy yếu khả năng hợp tác an ninh, chính trị sâu rộng hơn của khu vực,
đặc biệt trong những vấn đề khó.
Bên cạnh đó, cần chỉ ra rằng chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam Á, mà
hợp tác ASEAN là một biểu hiện, cũng còn khá non trẻ. Trong khi sự phát
triển và suy tàn của các đế chế ở châu Âu với tầm ảnh hưởng bao trùm rộng
lớn đã góp phần tạo điều kiện cho các dân tộc ở châu Âu có sự giao thoa, qua
đó hình thành bản sắc riêng của châu lục thì tại Đông Nam Á, sự chia rẽ về
mặt địa lý, ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực, của các đế quốc trong
giai đoạn thuộc địa và ảnh hưởng của Chiến tranh lạnh đã khiến các dân tộc
Đông Nam Á phần nào bị chia rẽ, ít giao lưu và hiểu biết về nhau hơn, đặc
biệt so với EU.
Với việc sử dụng tài liệu này, giáo viên định hướng HS đi đến kết luận
rằng vấn đề biển Đông chính là một cơ hội để các nước lớn có lợi ích chiến
lược tại biển đông như Mỹ, Nhật Bản, thiết lập ảnh hưởng tại khu vực này,
thực hiện các mục tiêu đối ngoại của mình.
Như vậy, khi sử dụng TLTK để giao bài tập cho HS tìm hiểu và nghiên
cứu sẽ giúp các em hình thành năng lực bộ môn, đồng thời phát triển khả
năng nhận thức giúp cho các sự kiện, hiện tượng lịch sử trở nên ấn tượng hơn,
sâu sắc hơn. Qua đó, giúp khơi gợi ở HS những cảm xúc lịch sử, kiến thức
lịch sử sẽ được khắc sâu.
- Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử.
Đây là nguồn tài liệu có vai trò to lớn trong việc dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Tài liệu văn học góp phần quan trọng làm cho bài giảng
sinh động hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của HS. Mỗi loại tài liệu văn
học có ý nghĩa khoa học riêng trong việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử.
Xác định loại tài liệu văn học được sử dụng phải phù hợp với mục đích yêu
82
cầu của bài giảng và tính chất của từng sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Ví dụ 1, khi dạy bài 23: “Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội miền
Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)”. Sau khi GV mở rộng
kiến thức về cuộc giải phóng Trường Sa của quân dân ta, để tăng thêm khả
năng tác động đến tình cảm, ý thức của HS và giúp cho bài giảng thêm sinh
động, GV có thể đọc diến cảm một đoạn trích trong bài thơ “Tổ Quốc nhìn từ
biển” của tác giả Nguyễn Việt Chiến:
“Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
…Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân
Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”[2.tr. 553]
Hoặc GV có thể giới thiệu các bài hát về những người lính biển, về
Hoàng Sa, Trường Sa thân yêu, trong đó có bài hát “Gần lắm Trường Sa” của
83
tác giả Hình Phước Long được sáng tác năm 1982:
“Mỗi cánh thư về từ đảo xa
Anh thường nói rằng Trường Sa lắm xa xôi
Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ
Bên đồng đội yêu thương.
Chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng
Quanh ghềnh trúc san hô Trường Sa ơi
Biên đảo quê hương, đôi mắt biên cương
Vẫn sáng long lanh giữa sóng cuồng bão dập.
Đảo quê hương anh vẫn đếm ngày giữ biển khơi
Thương nhớ sao vơi ngươi chiến sĩ Trường Sa ơi.
Không xa đâu Trường Sa ơi, không xa đâu Trường Sa ơi
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh
Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em.
Mong cánh thư về từ đảo xa
Nơi thành phố này, Trường Sa vẫn bên em
Anh ơi có nghe lời người từ phố biển
Khi ngọn triều dâng cao.
Khi cánh Hải Âu về, khi nắng sang mùa
Nơi đảo trúc san hô. Chiều nơi đây
Sao bỗng bâng khuâng, như thấy anh đang
Sừng sững kiên trung giữa pháo đài giữ đảo”
“Gần lắm Trường Sa” không chỉ là ca khúc gắn liền với cuộc sống
84
chiến đấu kiên trung của lính đảo mà còn như bản tình ca hiệu triệu các chiến
sĩ hải quân thêm vững vàng tay súng canh trời, giữ biển của Tổ quốc giữa đại
dương bao la. Bài hát không chỉ thay lời một người con gái gửi lòng thương
nhớ về người yêu là lính thủy mà còn là cả một hậu phương lớn đang ngày
đêm cùng hướng về nơi ấy.
Qua đó GV nhấn mạnh: Hoàng Sa, Trường Sa là máu thịt của Việt
Nam, để có thể giữ gìn chủ quyền của dân tộc trên vùng biển, đảo này đã có
biết bao con người phải hy sinh xương máu của mình. Do vậy, đã là người
Việt Nam thì đều phải có ý thức giữ gìn, phát huy truyền thống của cha ông,
bảo vệ chủ quyền biển đảo mà cha ông đã giành được.
Với việc gợi được hứng thú qua các bài thơ, bài hát thì chắc hẳn những
kiến thức lịch sử về chủ quyền biển, đảo đã bớt khô khan và qua đó cũng là
một nguồn tài liệu thú vị để HS có thể tham khảo.
2.3.1.2 Sử dụng đồ dùng trực quan về biển, đảo trong quá trình dạy học để
giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh.
“Theo “Sư phạm tương tác” mỗi người có một “bộ máy học” bao gồm
hệ thần kinh và các giác quan. Trong đó các giác quan được coi là cổng của
tri thức. Càng nhiều giác quan tham gia vào quá trình học tập thì thông tin
thu được càng nhiều. Vùng limbic có vai trò là “trung tâm hứng thú”, có thể
chấp nhận hoặc loại bỏ thông tin mới. Do vậy để giúp HS học tập một cách
hiệu quả, GV sử dụng các đồ dùng trực quan nhằm kích thích đa giác quan
của HS và làm cho giờ học trở nên sinh động, tạo hứng thú học tập cho HS”
[39]
Sử dụng phim tư liệu lịch sử
Lịch sử là những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ. HS
không thể trực tiếp quan sát những sự kiện, hiện tượng đó vì vậy nhận thức
lịch sử là rất khó khăn. Tuy nhiên HS có thể hình dung được quá khứ lịch sử
qua các đoạn phim tư liệu. Phim tư liệu là loại phim được xây dựng dựa trên
85
hình ảnh hoặc những thức phim ghi lại diễn biến sự kiện lịch sử tại thời điểm
mà nó diễn ra. Do vậy đảm bảo được tính chính xác, chân thực của quá khứ
lịch sử. Âm thanh, hình ảnh sinh động của phim tư liệu lịch sử là phương tiện
tác động tới thị giác, thính giác giúp cho quá trình thu nhận thông tin của “bộ
máy học” dễ dàng hơn. Tuy nhiên không chỉ giới hạn tác động ở thính giác và
thị giác của HS nên GV cũng cần chú ý luôn thay đổi cách kích thích giác
quan bằng cách kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học khác nhau trong
từng bài thậm chí trong từng phần để tránh nhàm chán cho người học.
Hiện nay, các nguồn phim tư liệu lịch sử khẳng định chủ quyền biển
đảo của ta là rất hiếm. Do vậy trong dạy học lịch sử chúng ta có thể khai thác
các nguồn phim khác như: Những bộ phim tài liệu, phim thời sự, phim điện
ảnh, phim hoạt hình tái hiện các sự kiện lịch sử… Những bộ phim này nếu
được sử dụng hợp lý sẽ mang lại hiệu quả nhiều mặt.
Do thời lượng các giờ học nội khóa chỉ có 45 phút, nội dung liên quan
đến chủ quyền biển đảo Tổ quốc chỉ nằm trong một đề mục của một bài, hay
một phần nhỏ trong các đề mục. do vậy khi sử dụng phim, ngoài việc xác định
độ chính xác và tin cậy của các đoạn phim thì GV còn phải biết cách lựa chọn,
biên soạn (Cắt, ghép) những đoạn phim ngắn, phù hợp với thời lượng của giờ
học.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 26: “Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ
nghĩa xã hội 1986 – 2000”. Sau khi học xong phần II.2 GV giới thiệu cho học
sinh tham khảo thêm tư liệu về cuộc chiến Gạc Ma 14/3/1988. Bộ phim
“Diễn biến thảm sát Gạc Ma - Hải chiến Trường Sa 14/03/1988” [44]. Chỉ
xuất hiện chỉ chưa đầy 4 phút nhưng bộ phim đã tái hiện lại hành động xâm
chiếm trái phép đảo Gạc Ma của Trung quốc tại quần đảo Trường Sa.
Để khai thác sự hiểu biết, phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS,
trước khi xem phim, GV có thể đặt câu hỏi kiểm tra sự hiểu biết của HS về sự
kiện này như: Em đã nghe qua về sự kiện Gạc Ma chưa? Từ khi nào và ở
86
đâu?
Vì đây là nội dung kiến thức không có trong SGK nên GV phải hết sức
cẩn trọng khi giới thiệu về sự kiện này cho HS.
Sau đó GV đặt câu hỏi định hướng hỗ trợ HS khai thác nội dung đoạn
phim: Em hãy nêu rõ âm mưu, thủ đoạn đánh chiếm của Trung Quốc, từ đó
nêu hệ quả của sự kiện này? Với định hướng này, HS sẽ dễ dàng tập trung
xem phim và suy nghĩ trả lời câu hỏi và sẽ đem lại hiệu quả giáo dục cao.
Ví dụ 2. Khi dạy đến bài 22: “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu
chống đế quốc Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất
(1965 – 1973)” phần II.2 - Mỹ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải
quân phá hoại miền Bắc có sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” được Mỹ lợi dụng để mở
đầu cho việc leo thang bắn phá miền Bắc Việt Nam. Bộ phim thời sự dài gần
2 phút với tựa đề VTC14_Nhìn lại “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” [47] đã nói lên tất
cả âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong việc đưa không quân, hải quân Mỹ ra
miền Bắc Việt Nam.
Trước khi xem phim, GV có thể nêu câu hỏi và yêu cầu HS theo dõi và
trả lời câu hỏi: Mỹ đã có những hành động gì để khiêu khích hải quân Việt
Nam? Âm mưu của chúng ở đây là gì?
Sau khi HS xem xong đoạn phim tư liệu, GV giải thích cho HS và cung
cấp thêm thông tin cho HS:
Vào đầu những năm 1960, chiến lược chiến tranh đặc biệt mà Đế quốc
Mỹ áp dụng ở miền Nam Việt Nam đều bị phá sản. Tổng thống Mỹ và Hội
đồng an ninh quốc gia đã họp và quyết định chủ trương chiến lược mới: "Gây
sức ép tối đa và liên tục bằng cách đưa quân đội vào để Mỹ hoá cuộc chiến
tranh ở miền Nam Việt Nam; khẩn trương chuẩn bị đưa chiến tranh phá hoại
bằng Không quân và Hải quân ra miền Bắc Việt Nam".
Để thực hiện mưu đồ đó, Mỹ cần tranh thủ được sự đồng tình của Hạ
viện, tránh được dư luận phản đối, trước hết là nhân dân Mỹ. Nhà Trắng và
87
Lầu Năm góc phải tạo ra màn kịch "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ" với những mập mờ
và dối trá rằng: Chiều ngày 4/8/1964, các tàu phóng lôi của Hải quân Việt
Nam đã vô cớ tấn công tàu khu trục của Mỹ trên vùng biển quốc tế!?
Sự thật là: Sự đụng độ chiều 2/8/1964 diễn ra khi tàu khu trục Maddox
đã ngang nhiên vi phạm có hệ thống lãnh hải Việt Nam từ Đèo Ngang (Quảng
Bình) ra Hòn Nẹ (Thanh Hoá). Hành động đó liên tục bị Hải quân Việt Nam
theo dõi và giám sát chặt chẽ, có lúc tàu Maddox vào sâu tới 6 hải lý và đã bị
các tàu phóng lôi của Việt Nam đánh đuổi tại khu vực đông Hòn Nẹ trong
lãnh hải Việt Nam. Điều này được dư luận nhiều nước, có cả dư luận Mỹ thừa
nhận và kịch liệt lên án hành động xâm phạm trắng trợn đó.
Nếu chỉ vin vào cớ mà sự dối trá đã bị phơi bày để đánh phá miền Bắc
Việt Nam thì chưa đủ sức thuyết phục, nên Mỹ phải dựng thêm sự kiện khác
rằng: "Đêm 4/8/1964, các tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam một lần nữa
lại vô cớ tấn công khu trục Maddox và Tơ-nơ-gioi của Mỹ đang hoạt động
bình thường trên vùng biển quốc tế?!". Đây lại là sự bịa đặt còn trắng trợn
hơn nữa, bởi hôm đó thời tiết rất xấu, hoàn toàn không có một tàu phóng lôi
hoặc tàu chiến đấu nào của Việt Nam hoạt động trong khu vực mà Mỹ rêu rao.
Thế nhưng, bất chấp dư luận và lẽ phải, Mỹ vẫn vin vào cớ đó để tiến
hành chiến dịch "Mũi tên xuyên" mở đầu bằng trận đánh ngày 5/8/1964. Đế
quốc Mỹ đã sử dụng lực lượng của 2 biên đội tàu sân bay Constellation và
Ticonderoga gồm 40 máy bay cánh quạt và phản lực hiện đại, cả tiêm kích và
cường kích như AD6, A4D, F8U, F4H…bất ngờ mở cuộc tấn công đánh phá
vào hầu hết các Căn cứ Hải quân của ta trên suốt dải ven biển miền Bắc từ
Bãi Cháy (Quảng Ninh), Lạch Trường (Thanh Hoá), Cửa Hội, Vinh - Bến
Thuỷ (Nghệ An) đến Cảng Sông Gianh (Quảng Bình) hòng tiêu diệt lực lượng
Hải quân ta trong ngày 5/8/1964 và mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại quy
mô lớn đối với miền Bắc nước ta.
Trên tất cả các khu vực bị tấn công, các tàu của Hải quân Việt Nam và
lực lượng chiến đấu bảo vệ căn cứ đều đánh trả quyết liệt. Dựa vào trận địa
88
phòng thủ và sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sự phối hợp phòng không
của ba thứ quân, trong đó các trận địa pháo của bộ đội phòng không và dân
quân tự vệ biển phối hợp rất chặt chẽ và đắc lực. Các tàu của hải quân đã
chiến đấu rất dũng cảm, phát huy được cao độ trí thông minh sáng tạo và kỹ
năng chiến đấu, vừa cơ động phòng tránh vừa đánh trả địch có hiệu quả và
hạn chế được tổn thất.
Chiến dịch "Mũi tên xuyên" với những tham vọng to lớn đã bị bẻ gãy
ngay từ trận đánh đầu tiên. Lực lượng tàu chiến đấu của Hải quân Việt Nam
chẳng những đã không bị tiêu diệt trong một trận đánh, mà còn giáng cho
không quân Mỹ những đòn nặng nề.
Như vậy, Phim tư liệu có vai trò rất quan trọng trong việc cụ thể hóa
các sự kiện lịch sử, khắc phục tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử, đồng thời phát
triển được khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy của HS cũng như giáo
dục được ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS
Sử dụng tranh ảnh, bản đồ lịch sử, lƣợc đồ lịch sử nhằm tăng hiệu
quả giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS.
Ví dụ 1. Khi dạy bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống
đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965
– 1973) ở mục II.2 Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa
sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương. Khi nói đến hậu phương miền Bắc,
không thể thiếu vai trò của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển đã đi vào
huyền thoại.
Trước khi giới thiệu về tuyến đường này, GV có thể đặt ra câu hỏi để
kiểm tra kiến thức HS và kích thích trí tò mò của HS: Em đã biết gì về con
đường Hồ Chí Minh trên biển?
Sau đó, GV đặt câu hỏi định hướng hỗ trợ HS khai thác nội dung lược
đồ và tranh ảnh: Em có nhận xét gì về con đường vận tải chiến lược – đường
Hồ Chí Minh trên biển? Với câu hỏi định hướng có trước, HS dễ dàng tập
89
trung vào nội dung cần nghiên cứu để giải quyết vấn đề.
GV sử dụng một số hình ảnh kết hợp với thuyết minh làm rõ ý
nghĩa của hình ảnh, giúp HS hình dung rõ hơn về con đƣờng này.
Hình 2.6. Đường Hồ Chí Minh trên biển
(Nguồn:http://thainguyentv.vn/50-nam-duong-ho-chi-minh-tren-bien-
con-duong-cua-y-chi-va-suc-sang-tao-viet-nam-10621.html)
Đầu tiên GV giới thiệu qua về tuyến đường này: Cùng với xẻ dọc
Trường Sơn, mở đường mòn Hồ Chí Minh, một con đường Bắc - Nam bí mật
trên biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã được mở vào ngày 23-10-1961.
Đoàn 759 - Đoàn tàu không số (Lữ đoàn 125) là lực lượng vận tải chiến lược
trên con đường biển này, đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến
trường miền Nam. Đường Hồ Chí Minh trên biển và Đoàn tàu không số với
90
bao kỳ tích, đã đi vào lịch sử dân tộc như một chiến công huyền thoại, là một
biểu tượng của bản lĩnh chính trị và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân
tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh.
GV thuyết minh kết hợp với việc chỉ trên lược đồ cho HS thấy đường
Hồ Chí Minh trên biển được hình thành đã đưa vũ khí, hàng hóa tới 19 bến
trên địa bàn 9 tỉnh của miền Nam, khởi đầu từ cảng Hải Phòng đến tận Mũi
Cà Mau, nơi mà tuyến đường Trường Sơn không đi đến được. Điều đó đã đem
lại sự cổ vũ to lớn cho nhân dân miền Nam nơi chiến tuyến. Trong suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí
Minh trên biển đã có những đóng góp quan trọng, thể hiện trên một số điểm
chủ yếu sau đây:
Một là, đường Hồ Chí Minh viện chiến lược, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hai là, tuyến chi viện chiến lược trên biển bảo đảm thời gian nhanh hơn,
kịp thời hơn, vũ khí trang bị đồng bộ và đạt hiệu quả cao.
Ba là, tuyến chi viện chiến lược trên biển còn vận chuyển những loại
hàng “đặc biệt”.
Hình 2.7. Vận chuyển hàng lên tàu không số
(Nguồn: http://pda.vietbao.vn/Xa-hoi/Tau-khong-so-va-su-giup-do-cua-
91
Trung-Quoc/75306463/157/)
Để giữ bí mật, Tiểu đoàn hoạt động dưới tên gọi “Tập đoàn đánh cá
Sông Gianh”. Do vị trí chiến lược hết sức quan trọng của đường Hồ Chí Minh
trên biển, đế quốc Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với các loại
vũ khí, thiết bị tối tân hiện đại nhất của nền khoa học - công nghệ quân sự Mỹ
để đánh phá, hòng hủy diệt, ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường tiếp viện của ta
trên biển. Những con đường, các bến bãi đều nằm trong các vùng kìm kẹp,
lùng sục, truy quét, đánh phá ác liệt suốt đêm ngày của địch. Trên con đường
vận chuyển ấy, cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu Không số với tinh thần “Vì miền
Nam ruột thịt” đã xác định quyết tâm, âm thầm hy sinh tình cảm gia đình và
bản thân, biết rằng ra đi là cảm tử vẫn chấp nhận gian nguy, đương đầu với
khó khăn thử thách. Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt
với kẻ thù, với thiên nhiên, sóng gió. Và vượt lên tất cả là chiến thắng chính
bản thân mình, đòi hỏi cao ý chí kiên định, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý
thức chấp hành kỷ luật nghiêm minh
Hình 2.8. Đoàn tàu không số vận chuyển vũ khí trên Đường Hồ Chí
Minh trên biển để chi viện cho chiến trường miền Nam
(Nguồn: http://baobinhduong.vn/doan-tau-khong-so-va-duong-ho-chi-
minh-tren-bien-bieu-tuong-cua-chu-nghia-anh-hung-cach-mang-
a150872.html)
Những con tàu cần mẫn hành trình vận chuyển người, vũ khí, đạn dược,
92
vật chất hậu cần quân sự và các loại hàng hóa, trang thiết bị đặc biệt chi viện
cho chiến trường miền Nam bằng Đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại
từ lâu được gọi là những con tàu không số.
GV có thể đặt câu hỏi để gây hứng thú cho HS: “Tại sao các con tàu chi
viện trên biển lại gọi là tàu không số”. HS trả lời và GV giải thích: Cũng như
con người, con tàu có giấy khai sinh và quê hương nơi sinh ra. Mỗi con tàu
đều có ngày khởi công đóng và ngày hạ thủy, bàn giao cho đơn vị sử dụng.
Tàu trang bị cho Đoàn 759 (sau này là Đoàn 125) có hồ sơ đầy đủ, theo dõi
tình trạng và ghi chép sổ sách, lý lịch chặt chẽ. Tàu có mã số tàu, tính năng,
thông số kỹ thuật. Từ những con tàu gỗ, tải trọng nhỏ rồi đến tàu sắt có tải
trọng hàng trăm tấn, rồi các tàu có thiết kế đặc biệt theo yêu cầu của nhiệm vụ
vận chuyển. Mỗi chuyến tàu ra khơi đi làm nhiệm vụ đều mang số hiệu riêng
của mình.
Với những biện pháp giả trang, cải dạng, các tàu ta đã che mắt địch, giữ
được bí mật hoặc khi bị địch phát hiện, để kiểm tra xác minh đúng, tàu ta đã
hành trình đi xa, chúng có tìm dấu vết cũng khó thấy. Vì thế, những con tàu
hoạt động vận chuyển thuộc tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển, được gọi là
Tàu không số. Những con tàu đã làm cho các phương tiện trinh sát hiện đại
cùng bộ máy tình báo, tác chiến của Hải quân Mỹ, ngụy Sài Gòn quay cuồng,
khó phát hiện ra, khiến đối phương phải thán phục [46].
Từ đó, GV hướng dẫn HS đi đến kết luận: Đường Hồ Chí Minh trên
biển, một “con đường không dấu, tàu không số, trí, hiếu, trung, dũng, anh
hùng”, một chiến công và kỳ tích lịch sử, cho chúng ta nhiều bài học quý báu,
mãi mãi là niềm tự hào của quân và dân ta nói chung, của các thế hệ cán bộ,
chiến sĩ làm nhiệm vụ trên con đường vận tải chiến lược biển năm xưa cũng
như của Lữ đoàn 125 Hải quân và Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam
nói riêng, mà các thế hệ hôm nay và mai sau phải có trách nhiệm gìn giữ,
93
phát huy và không ngừng tô thắm trong sự nghiệp quản lý, bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển, đảo thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc trong giai đoạn
cách mạng mới [45].
Sau khi học xong bài học, để củng cố nhận thức của HS, GV có thể
giao thêm bài tập về nhà để HS tự tìn hiểu như: Tìm hiểu về phương thức hoạt
động chi viện của con đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh
trên biển. Qua đó đánh giá vai trò của hậu phương miền Bắc trong công cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965 – 1968).
Như vậy, thông qua những thông tin bổ sung hữu ích, HS không chỉ
biết thêm những con đường chi viện chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ
đã góp phần quyết định đến thắng lợi của cuộc chiến tranh mà qua đó còn
nhận thấy được vai trò của biển, đảo nói chung trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Những con đường chi viện không tên, không trực tiếp làm nên những
chiến thắng lẫy lừng, vang danh muôn thủa trong lịch sử, nhưng đó lại là kỳ
tích ghi dấu mãi trong những trang lịch sử của dân tộc.
Ví dụ 2: Nhằm giáo dục về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
với mục tiêu khai thác tổng hợp kinh tế biển phục vụ sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, hội nhập thế giới, Sau khi học đến
phần II.2.b bài 26: Đất nước trên đường đổi mới đi lên Chủ nghĩa xã hội
(1986 – 2000), GV có thể mở rộng kiến thức về những điều kiện tự nhiên –
kinh tế ở vùng biển Đông.
Biển Đông đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của
nước ta khi hầu hết các ngành kinh tế mũi nhọn đều gắn kết với biển như du
lịch, dầu khí, thủy sản và vận tải biển. Hiện nay, kinh tế biển của nước ta
chiếm khoảng gần 30% GDP. Từ lâu nay, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng
các chính sách để phát triển kinh tế, xã hội cho các địa phương ven biển, các
đảo, quần đảo. Công tác khảo sát, thăm dò, nghiên cứu khoa học biển ngày
càng được chú ý để làm cơ sở cho việc phát triển các ngành, các vùng kinh tế
biển, cũng như cho việc hoạch định các chính sách quản lý tài nguyên môi
94
trường biển của nước ta. Cơ cấu ngành nghề biển đang dần được điều chỉnh
hợp lý, những ngành khai thác và sử dụng lợi thế của biển nước ta như: Vận
tải viễn dương, dịch vụ hàng hải, du lịch, nuôi trồng thủy sản và đánh bắt hải
sản xa bờ, đang được chú ý phát triển. Ngoài ra, trong khai thác biển, nhiều
ngành và địa phương dần quan tâm đúng mức đến việc tái tạo và làm giàu
tiềm năng. Vấn đề bảo vệ môi trường biển đã được quan tâm và đầu tư ban
đầu. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, theo chủ trương, đường lối đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, nước ta đang triển khai tích cực
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế biển.
GV đề cập đến chủ trương đổi mới của Đảng trong 5 năm 1986 – 1990,
GV nhấn mạnh cho HS rằng Đại hội VI là “Đại hội đổi mới” trên tất cả các
lĩnh vực phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng – an ninh, trong đó đường
lối cơ bản được đặt ra là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
GV nêu câu hỏi để HS định hướng vấn đề: Theo em, có thể khai thác
các ngành nghề kinh tế nào từ biển?
Hình 2.9. Bốc xếp gạo xuất khẩu tại cảng Sài Gòn
(Nguồn: http://bnews.vn/xuat-khau-gao-co-dau-hieu-phuc-
95
hoi/1812.html)
Trọng tâm triển khai công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội là đảm bảo quốc phòng – an ninh các vùng biển và ven bờ. Tiến hành quy
hoạch các trung tâm phát triển ra biển và các khu vực biển, đảo có khả năng
đột phá trong phát triển kinh tế như Móng Cái, Vân Đồn, Nghi Sơn, Vũng
Áng, Đà Nẵng… Công tác quy hoạch phải trên cơ sở của quy luật kinh tế thị
trường, có tầm nhìn dài hạn, hiện đại theo những tiêu chuẩn phù hợp với quốc
tế và khu vực. Đồng thời, phải tiến hành một cách có hiệu lực và hiệu quả
công tác quản lý, quy hoạch nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và
đúng định hướng. Trong quy hoạch, cần quán triệt quan điểm coi vùng duyên
hải gắn với kinh tế biển là vùng động lực để mở cửa, thúc đẩy phát triển toàn
bộ nền kinh tế quốc gia, đảy mạnh phát triển những cơ sở công nghiệp chế
biến các sản phẩm từ biển.
Hình 2.10. Tàu thuyền khai thác hải sản ở vùng biển đảo Lý Sơn
(Nguồn: http://baoquangngai.vn/channel/2025/2009/08/1715358/)
Vùng biển các quần đảo là các ngư trường lớn, đầy tiềm năng của ngư
dân các tỉnh ven biển, cung cấp nguồn thủy hải sản phục vụ cho xuất khẩu của
đất nước, và chính nhờ nguồn thu từ nghề khai thác xa bờ mà đời sống của
96
các ngư dân được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh việc khai thác thủy sản xa bờ,
ngày nay bà con ngư dân còn khai thác các loại cá cảnh và các loại tron biển
có giá trị dinh dưỡng và dùng trong chế biến mĩ phẩm.
Cùng với nguồn lợi thủy sản, biển còn chứa đựng tiền năng dầu khí và
khoáng sản rất lớn. Nước ta có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn và
cũng là nơi có triển vọng dầu khí lớn. Hoạt động tìm kiến, thăm dò dầu khí ở
Việt Nam đã được bắt đâì triển khai ở miền võng Hà Nội và trũng An Châu từ
những năm 1960 với sự giúp đỡ của Liên Xô. Dựa trên kết quả nghiên cứu địa
chất p địa vật lý đã xác định được 7 bồn trầm tích có triển vọng chứa dầu khí
ở thềm lục địa nước ta. Các mỏ dầu khí ở nước ta được phát hiện và khai thác
từ lòng đất dưới đáy biển khu vực thềm lục địa phía Nam. Một số mỏ ở bồn
trũng Cửu Long như Bạch Hổ và mỏ Đại Hùng ở bồn trũng Nam Côn Sơn là
những mỏ có chứa dầu cả ở móng. Mỏ Bạch Hổ cũng được xem là trường hợp
ngoại lệ chứa dầu trong móng đá.
Hình 2.11. Khai thác dầu khí tại mỏ Bạch Hổ
(Nguồn: http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Thuong-hieu-DN/731527/ket-
qua-ngoan-muc-trong-khai-thac-dau-khi)
Như vậy, qua những thông tin bổ sung, Gv có thể hướng đến kết luận:
phát triển kinh tế biển, đảo luôn nằm trong những ưu tiên chính sách của
97
Đảng từ năm 1986 đến nay và quá trình hoàn thiện các chủ trương , chính
sách của Đảng trong việc khai thác, phát huy giá trị của biển, đảo trong sự
nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước trong thời bình.
2.3.2. Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh
trong giờ học ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học lịch sử ở
trường phổ thông và cùng chung mục đích với các hình thức dạy học lịch sử
khác: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển tư duy cho HS. Hoạt động ngoại
khóa trong dạy học lịch sử là phong phú các kiến thức, giáo dục tình cảm, đạo
đức, phẩm chất của HS, giáo dục tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng trách
nhiệm, yêu thích lao động, rèn luyện tính kỷ luật và tinh thần tương thân
tương ái. Hoạt động ngoại khóa có thể kết hợp với các hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội như Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh…gắn với
những sinh hoạt chính trị, giáo dục truyền thống hướng về cội nguồn...
Hoạt động ngoại khóa còn góp phần phát triển tính tích cực của HS.
Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục lịch sử cho rằng, hoạt động ngoại khóa có hai
đặc điểm nổi bật: tính tự nguyện và sự phát triển nhận thức tích cực độc lập,
năng khiếu của HS trong lĩnh vực lịch sử. Hoạt động ngoại khóa mở ra nhiều
khả năng cho HS lựa chọn và tham gia những nội dung hợp với sở thích và
trình độ của mình. Chính tính tự nguyện tham gia đó đã phát huy năng lực
nhận thức độc lập, năng khiếu cũng như rèn luyện các kĩ năng về trí tuệ và
thực hành cho HS.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc là một vấn đề lịch sử, chính trị
quan trọng, và đặc biệt cấp thiết trong bối cảnh hiện nay khi những tranh chấp
chủ quyền trên biển Đông diễn biến phức tạp. Chương trình SGK phổ thông
không đề cập đến vấn đề chủ quyền biển, đảo trong các giờ học nội khóa GV
chỉ có thể xen kẽ giáo dục chủ quyền biển đảo trong một số bài có liên quan
đến vấn đề xác lập chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền, khai thác các tiềm
năng nhất là hoạt động ngoại thương biển…Việc xen kẽ vào các giờ học nội
98
khóa với thời lượng thời gian ít, rất khó làm nổi bật các nội dung về chủ
quyền biển, đảo. Từ thực tế đó, tổ chức các hoạt động ngoại khóa về chủ
quyền biển, đảo là một hoạt động cần thiết và cấp thiết hiện nay để nâng cao
hiệu quả giáo dục ý thức công dân trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc.
Qua nghiên cứu thực tiễn sử dụng tư liệu về chủ quyền biển, đảo của
Tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, từ ý nghĩa giáo dục thiết
thực mà hoạt động ngoại khóa lịch sử có thể đem lại, chúng tôi đề xuất một số
biện pháp sử dụng tư liệu chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc tổ chức các hoạt
động ngoại khóa lịch sử như sau:
2.3.2.1. Nghe nói chuyện lịch sử
Có rất nhiều chủ đề phù hợp cho các buổi nói chuyện lịch sử, liên quan
đến các ngày kỉ niệm lớn (Quốc khánh, Quốc tế lao động, Cách mạng Tháng
Mười Nga, Thành lập Quân đội, Kí hiệp định Giơ nevơ, Giải phóng miền
Nam…), các truyền thống của dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
của lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội Nhân dân, cuộc đời và sự nghiệp
doanh nhân…
Kể chuyện lịch sử là hình thức ngoại khóa dễ làm, hấp dẫn và có tác
dụng giáo dục cao. Nội dung kể chuyện về chủ quyền biển đảo Việt Nam phải
là câu chuyện có thật, chứ không phải những chuyện hư cấu. Có thể kể một
số chuyện mà HS cần biết như:
Về những ngư dân kiên cường bám biển, họ hiện lên như cây phong ba
trên đảo Hoàng Sa để góp phần khẳng định chủ quyền đất nước, bất chấp bão
tố gian nan.
Về những hoạt động mưu sinh đa dạng của ngư dân Quảng Ngãi – quê
hương của Hải đội Hoàng Sa, đội hùng binh năm xưa đã vượt sóng Biển
Đông ra Hoàng Sa, với lễ Khao thề lính Hoàng Sa, với những bài văn tế, thư
99
tịch sổ, những ngôi mộ gió.
Về những hoạt động mưu sinh đa dạng cyar ngư dân Quảng Ngãi trên
bùng biển Hoàng Sa.
Xây dựng một bài nói chuyện cũng cần phải có bố cục rõ ràng, tránh
nói ngẫu hứng, tràn lan và không làm nổi bật trọng tâm của bài nói chuyện.
Cụ thể bố cục của bải nói chuyện lịch sử nói chung:
- Đặt vấn đề
- Giải quyết vấn đề (Kết hợp giao lưu, thảo luận)
- Rút ra bài học lịch sử
GV hay khách mời thực hiện nói chuyện đều cần phải xây dựng kịch
bản, làm nổi bật trọng tâm, thực hiện các mục tiêu giáo dục cụ thể của bài nói
chuyện lịch sử. Những kiến thức sử dụng trong bài nói chuyện phải dễ hiểu,
phù hợp với trình độ nhận thức của HS THPT.
Ví dụ: Xây dựng bài nói chuyện về chủ đề “29 năm sự kiện Gạc Ma”,
Giáo viên tổ chức buổi nói chuyện lịch sử tại giờ chào cờ đầu tuần (dành cho
cả 3 khối). Khách mời là một số cựu chiến binh đã tham gia chiến dịch lịch sử
Gạc Ma ngày 14-3-1988. GV cần xây dựng bố cục chi tiết như sau:
- Đặt vấn đề: Phần này người thực hiện bài nói chuyện lịch sử sẽ nêu
lên những sự kiện có tính thời sự trên Biển Đông, luận điệu của Trung Quốc
đưa ra để tranh chấp trên Biển Đông. Trong đó có sự kiện Gạc Ma ngày 14-3-
1988 – Hải quân Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép Đảo Gạc Ma thuộc
quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
- Giải quyết vấn đề: Đưa ra những âm mưu, thủ đoạn và hành động của
Trung Quốc khi xâm chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Sự hy sinh
của 64 người con đất Việt đã ngã xuống biển Đông trước họng súng của quân
xâm lược Trung Quốc. Ở phần này, có thể đặt ra những câu hỏi giao lưu với
HS, các em có thể dựa trên các kiến thức đã được tìm hiểu để trả lời, qua đó
sẽ khắc sâu kiến thức và tạo không khí hào hứng cho buổi nói chuyện.
- Rút ra bài học lịch sử: Nhấn mạnh đến trách nhiệm của thanh niên đối
100
với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Để kết thúc buổi nói chuyện lịch sử, GV cùng HS chuẩn bị một tiết
mục văn nghệ mang tên “Gạc Ma trong tim ta” tái hiện lại hình ảnh Tàu
Trung Quốc tiến gần, những tên lính cầm AK ào lên nã đạn. Các chiến sĩ đã
kiên cường bám trụ, bảo vệ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Để góp phần khắc sâu hơn nữa các kiến thức HS thu nhận được, GV
cần thiết kế nhiệm vụ cho cá nhân và nhóm học sinh: bài tập, bài thu hoạch
với nội dung: Làm thế nào để đòi lại được Hoàng Sa về với Việt Nam? Làm
thế nào đấu tranh giữ được chủ quyền biển, đảo nhưng tránh xung đột, chiến
tranh, giữ quan hệ hữu nghị và cùng phát triển với Trung Quốc và cộng đồng
quốc tế.
2.3.2.2. Phát động các cuộc thi tìm hiểu, sáng tạo về chủ quyền biển, đảo quê
hương
Đây cũng là một hình thức có hiệu quả trong dạy học về chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc. Thực tế cho thấy, nhiều cuộc thi tìm hiểu, sáng tạo về
chủ quyền biển đảo Tổ quốc do Bộ giáo dục, hoặc các báo cáo phát động đã
nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình của đông đảo HS, sinh viên. Do vậy áp
dụng hình thức các cuộc thi tìm hiểu và sáng tạo về chủ quyền biển, đảo của
Tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường THPT cũng là một biện pháp thai thác
và sử dụng có hiệu quả tư liệu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. GV có thể
phối hợp với Đoàn trường tổ chức cuộc thi tìm hiểu hay sáng tạo về chủ
quyền biển đảo Tổ quốc trên phạm vị toàn trường, phạm vi khối lớp, hoặc tổ
chức tại các lớp mà GV trực tiếp giảng dạy.
Ví dụ: Nhân kỉ niệm ngày 26 – 3, kết hợp với hoạt động của nhà
trường, GV phát động cuộc thi tìm hiểu “Chúng em với biển, đảo quê
hƣơng” với ba nội dung chính:
- Viết thư cho các chiến sĩ đảo xa
- Vẽ tranh thể hiện tình yêu đối với biển, đảo. Thể hiện thái độ của
101
thanh niên với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
- Sưu tầm hình ảnh, tư liệu, lược đồ, làm tập san chứng minh Hoàng Sa,
Trường Sa là của Việt Nam.
Muốn tổ chức được cuộc thi có chất lượng, đòi hỏi sự chuẩn bị công phu từ
ban tổ chức:
(1) Mục đích:
- Góp phần trang bị kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ Quốc cho HS
- Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, ý thức bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
- Rèn luyện kĩ năng sáng tạo, hợp tác trong làm việc nhóm, kĩ năng thuyết
trình…
(2) Xây dựng kế hoạch cuộc thi:
- Thời gian chuẩn bị: 1 tháng
GV thông báo phát động cuộc thi đến từng lớp trong khối 12 và triển
khai thực hiện.
- Yêu cầu sản phẩm:
+ Đối với phần thi vẽ tranh: Các bài dự thi có thể là của cá nhân hay
một nhóm, một tập thể, không giới hạn về chất liệu sử dụng và ý tưởng. Yêu
cầu khi vẽ tranh, các bài dự thi phải kèm theo bài thuyết trình về ý tưởng và
nội dung bức tranh. Bài thuyết trình phải phản ánh được nội dung cũng như
thông điệp mà bức tranh muốn nhấn mạnh, thể hiện được sự hiểu biết của học
sinh về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc qua đó thể hiện thái độ của công dân
với việc giữ gìn và bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.
+ Đối với sản phẩm viết thư: Áp dụng đối với cá nhân tham gia phần
thi. Bức thư được viết cho một người lính ở đảo xa hoặc một người lính bất kì.
Bức thư cần viết mạch lạc thể hiện sự ý thức sâu sắc nhiệm vụ cao cả của
những người lính đảo xa, bày tỏ tình cảm dành cho những người lính và trách
nhiệm của HS khi còn ngồi trên ghế nhà trường với vấn đề bảo vệ chủ quyền
102
biển, đảo của Tổ quốc.
+ Đối với các sản phầm về hình ảnh, tranh, lược đồ, bản đồ sưu tầm
được, HS có thể thiết kế thành các tập san, báo tường, đoạn phim và kèm theo
lời giới thiệu.
- Vòng sơ loại : GV bộ môn tổ xã hội các lớp tiến hành thu sản phẩm
và chấm điểm, chọn ra những sản phẩm tranh vẽ, thư, các sản phẩm sưu tầm
hay nhất, đẹp mắt và ý nghĩa nhất, đáp ứng được yêu cầu của ban tổ chức.
(3) Báo cáo sản phẩm
- Thi thuyết trình về tranh vẽ giữa các lớp, đáp ứng yêu cầu của ban tổ chức:
Màu sắc, nội dung ý nghĩa bức tranh và thuyết trình ngắn gọn.
- Viết thư: GV chấm và công bố những bài viết hay, đạt chất lượng và có thể
đọc một số bài hay trước toàn trường.
- Tổ chức thi xếp hạng và trưng bày các sản phẩm tranh vẽ và sản phẩm sưu
tầm của HS dưới giờ chào cờ để HS toàn trường có cơ hội cùng tham gia bình
chọn và đánh giá.
(4) Đánh giá, tổng kết, trao giải
- Ban tổ chức tổng hợp điểm và sắp xếp giải thưởng
- GV trình bày bản tổng kết những nội dung cơ bản về chủ đề của buổi ngoại
khóa
- Trao giải thưởng cho những HS, tập thể tham gia tích cực vào các hoạt
động.
Sau khi công bố và trao giải thưởng cho các em HS, các sản phẩm về
tranh vẽ và sưu tầm của các em sẽ được trưng bày tại sân trường để toàn thể
HS có thể xem và tìm hiểu về các vấn đề biển, đảo của Tổ quốc.
Như vậy, thông qua việc tổ chức các cuộc thi, HS sẽ có hứng thú tìm
hiểu về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, rèn cho HS những kĩ năng như sưu tầm,
tìm hiểu tài liệu qua đó kích thích tư duy sáng tạo ở HS. Và điều quan trọng
hơn cả là thông qua các kiến thức về biển, đảo đã góp phần giáo dục ý thức
103
các em về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong thời đại mới,
giúp các em nhận thức được vai trò và sứ mệnh của người trẻ đối với chủ
quyền biển, đảo của đất nước.
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm
2.4.1. Mục đích, đối tƣợng thực nghiệm
Mục đích thực nghiệm
- Khẳng định tính đúng đắn, phù hợp của giáo dục ý thức về chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc cho học sinh lớp 12.
- Qua dạy thực nghiệm, lấy kết quả kiểm tra và ý kiến phản hồi của GV,
HS để phân tích, xác định tính hiệu quả của việc giáo dục ý thức về chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc cho HS trong dạy học lịch sử lớp 12.
- Là cơ sở quan trọng để chúng tôi rút ra những kết luận về việc sử
dụng các phuơng pháp, tài liệu nhằm giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc cho HS trong dạy học tập môn Lịch sử của học sinh ở trường
THPT.
Đối tượng thực nghiệm
Chúng tôi chọn nơi tiến hành thực nghiệm là trường THPT Trần Hưng
Đạo, Quận Hà Đông, Hà Nội.
Sau khi tìm hiểu đối tượng học sinh và thăm dò ý kiến của giáo viên
dạy bộ môn, chúng tôi chọn lớp thực nghiệm như sau:
Lớp 12A5 là lớp thực nghiệm, lớp 12A7 là lớp đối chứng. Các lớp này
được chọn để tiến hành thực nghiệm dựa trên nguyên tắc: chất lượng và trình
độ nhận thức bộ môn ngang nhau, có số lượng học sinh không quá chênh
lệch。
2.4.2. Nội dung thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm bài Bài 23: Khôi phục và phát triển
kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)
(Tiết 2)
lớp 12 chương trình chuẩn.
104
Nội dung thực nghiệm gồm một số công việc cơ bản sau:
Chuẩn bị 2 giáo án 2 kiểu
Kiểu 1: Giáo án thực nghiệm, có sử dụng tư liệu về chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc nhằm giáo dục ý thức cho HS như trong khóa luận đã đề xuất
(phụ lục 3).
Kiểu 2: Giáo án đối chứng được soạn và giảng dạy theo phương pháp
bình thường không sử dụng tài liệu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Kiểm tra chất lượng bằng cách cho học sinh hai lớp đối chứng và thực
nghiệm làm bài kiểm tra nhanh và phiếu thăm dò ý kiến học sinh sau tiết học
(phụ lục 4, phụ lục 5).
2.4.3. Kết quả thực nghiệm
Sau khi thực nghiệm, chúng tôi tiến hành kiểm tra kiến thức và thăm dò
ý kiến học sinh đối với giờ học thực nghiệm.
Về kiến thức:
Việc học sinh hiểu bài thể hiện ở kết quả bài kiểm tra qua số điểm giỏi
và khá của lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng, thể hiện ở bảng tổng hợp
dưới đây:
Bảng 2.1. Bảng tổng hợp kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC
Lớp Điểm Giỏi Điểm Khá Điểm TB Điểm
9-10 7-8 5-6 Yếu, kém
<5
Số lượng 7 13 15 7 Lớp TN
(42hs) Tỉ lệ % 17% 31% 36% 16%
Số lượng 3 7 20 12 Lớp ĐC
(42hs) Tỉ lệ % 7% 17% 47% 29%
Các bài đạt điểm giỏi là những bài trả lời đúng, nhưng chưa đủ các ý,
105
có điểm số từ 9 đến 10.
Các bài đạt điểm khá là những bài trả lời đúng, nhưng chưa đủ các ý, có
điểm số từ 5 đến 6.
Các bài yếu, kém là những bài không có nội dung trả lời đạt 50% các ý
đúng, có điểm số dưới 5.
Qua bảng 2.1, dựa trên các kết quả thực nghiệm sư phạm đã thông qua
việc xử lí số liệu thu được, chúng tôi nhận thấy: chất lượng học tập của học
sinh lớp thực nghiệm luôn cao hơn học sinh lớp đối chứng, thể hiện bằng các
kết quả cụ thể như sau:
Ở lớp thực nghiệm hầu hết các em trả lời tương đối tốt câu hỏi đưa ra,
vì vậy tỉ lệ phần trăm đạt điểm giỏi ở lớp thực nghiệm chiếm 17% (cao hơn tỉ
lệ lớp đối chứng là 10%); tỉ lệ phần trăm điểm khá chiếm 31% (cao hơn lớp
đối chứng 14%); tỉ lệ điểm trung bình chiếm 36% (trong khi tỉ lệ này ở lớp
đối chứng là 47%); chỉ có 16% học sinh bị điểm kém (lớp đối chứng là 29%).
Để cụ thể hóa sự chênh lệch trong kết quả học tập ở lớp thực nghiệm và
lớp đối chứng, ta có thể biểu diễn qua sơ đồ sau:
Biểu đồ 2.1 So sánh kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC
Như vậy, qua hai bảng thống kê và biểu đồ so sánh trên đây, chúng ta
106
dễ dàng nhận thấy sự khác biệt của kết quả kiểm tra giữa hai lớp đối chứng và
thực nghiệm. Ở lớp đối chứng, không sử dụng tài liệu giáo dục về chủ quyền
biển, đảo với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, phần lớn các em chưa lựa
chọn đươc đáp án đúng và chưa khái quát được kiến thức cơ bản. Vì vậy, kết
quả kiểm tra đạt được không cao: Tỉ lệ phần trăm đạt giỏi chiếm 7%, tỉ lệ
phần trăm đạt điểm khá 17%, tỉ lệ điểm trung bình chiếm tới 47%, tỉ lệ phần
trăm điểm yếu, kém cũng khá cao 31%.
Kết quả điểm kiểm tra cho thấy, với các tài liệu về chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc được GV chuẩn bị và cung cấp để giáo dục cho HS trong giờ học
Lịch sử đã giúp các em hiểu hơn vể chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc ngày
nay, qua đó giúp các em hiểu được trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc bảo
vệ biển đảo của Tổ quốc. Các em đã hiểu bài, hiểu yêu cầu của đề kiểm tra và
trả lời tương đối đầy đủ.
Về kĩ năng
Rèn luyện kĩ năng là một trong ba mục tiêu quan trọng nhất của một bài
học. Với cách dạy thông thường ở lớp đối chứng, phần lớn hoạt động của HS
là theo dõi SGK và trả lời câu hỏi của GV. GV không tổ chức và khơi gợi các
nội dung về biển, đảo nên HS không phát huy được khả năng học tập và chủ
động của mình.
Qua phân tích số liệu thu được từ phiếu hỏi thông tin học sinh sau giờ
dạy thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Các em HS đều tỏ ra hứng thú với bài học, 87% cảm thấy hiểu bài học,
92% HS cho rằng bài học hấp dẫn ở cách mở rộng kiến thức về biển, đảo của
GV. Sau khi được tham gia các hoạt động học tập về chủ quyền biển, đảo của
Tổ quốc thì 43% HS đã đạt được mục tiêu trang bị thêm những kiến thức về
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, 38% thì cho rằng cần phải cố gắng học tập
nhiều hơn để góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc. Còn đối với những tác dụng của các kiến thức về chủ quyền
107
biển, đảo nước ta thì đa số HS 59% cho rằng giúp giáo dục cho Hs cũng như
thế hệ trẻ về ý thức trân trọng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
34% cho rằng giúp học sinh mở rộng kiến thức mới, biết thêm những thông
tin về biển đảo đất nước.
Như vậy, thông qua tiết học có sử dụng tài liệu về chủ quyền biển, đảo
để dạy học đã giúp HS phần nào tiếp cận được với những tài liệu mà SGK
chưa đề cập đến. Qua đó, các em nhận thức được vai trò của HS, của thế hệ
trẻ đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Về thái độ
Thái độ học tập tích cực chính là hệ quả của lòng hứng thú và say mê
học tập. 66% học sinh cho rằng tiết học khi giáo viên mở rộng thêm thông tin
về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hấp dẫn, có thêm thông tin về biển đảo
Tổ quốc. 30% HS cho rằng dễ hiểu hơn SGK. Còn khi được hỏi về những
mong muốn đối với GV để giáo dục cho HS về ý thức đối với chủ quyền biển
đảo của Tổ quốc, 35% HS cho rằng GV nên tích cực hướng dẫn và cung cấp
các tài liệu về chủ quyền biển, đảo để HS có cơ hội tiếp cận. 40% HS mong
muốn được tham gia các hoạt động ngoại khóa và 25% HS còn lại muốn được
tham gia các buổi thuyết trình, tranh luận về các vấn đề biển, đảo xưa và nay.
Có thể nói, đối với vấn đề giáo dục ý thức cho HS về chủ quyền biển, đảo của
Tổ quốc đã phần nào nhận được sự quan tâm của đông đảo HS, các em cũng
mong muốn được hiểu thêm về biển, đảo của Tổ quốc qua đó tuyên truyền
108
cho người thân và bạn bè để góp phần bảo bệ chủ quyền đất nước.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích mục tiêu, cấu trúc nội dung phần
SKG Lịch sử lớp 12, chúng tôi xác định một số nội dung giáo dục ý thức chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 ở
trường trung học phổ thông.
Chương 2 đã chỉ rõ một số biện pháp giáo dục ý thức chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 ở trường THPT.
Bên cạnh đó giáo viên cần đầu tư hơn nữa trong quá trình thiết kế các
hoạt động giáo dục ý thức chủ quyền biển, của Tổ quốc trong bài dạy của
mình, đặc biệt là các hoạt động ngoại khóa, sao cho không chỉ hướng đến mục
tiêu về kiến thức, mà còn phát hiện và bồi dưỡng thêm các năng lực học tập
môn Lịch sử của học sinh.
Cùng với việc cung cấp thêm các thông tin về chủ quyền biển, đảo của
Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử, các hoạt động còn tăng thêm
tính tích cực, chủ động của học sinh. Học sinh ý thức được vai trò của mình
trong quá trình học tập. Quan niệm dựa vào giáo viên dần dần bị xóa bỏ, thay
vào đó là ý thức tự học, tự khám phá, tự đặt ra mục tiêu và phấn đấu đạt được
109
dựa vào sự góp ý, chỉ dẫn của giáo viên và các công cụ hỗ trợ.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS trong dạy học lịch sử lớp 12 trung học
phổ thông là cơ sở để rút ra những kết luận sau:
1. Đối với Việt Nam, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Lấn biển để mở mang bờ cõi và thông qua biển để giữ nước là một nét độc
đáo của Việt Nam trong quá trình đấu tranh và bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng
chính là bản sắc văn hóa mà Việt Nam cần được giữ gìn và phát huy hơn nữa
trong kỷ nguyên của khoa học công nghệ, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Chính vì vậy, trong việc giáo dục chủ quyền biển đảo cho HS ở trường phổ
thông, vị trí và vai trò của môn Lịch sử là vô cùng quan trọng.
2. Trong thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông, vấn đề chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc đã được giáo viên và học sinh biết đến, tuy
nhiên giáo viên cần có những biện pháp cũng như hình thức tổ chức để việc
dạy và học về vấn đề chủ quyền biển, đảo được hiệu quả. Các tài liệu về chủ
quyền biển đảo Việt Nam, đặc biệt là đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cũng đã được công bố nhiều, giáo viên cần phải lựa chọn nguồn tài
liệu tin cậy để hướng dẫn và cung cấp thông tin cho học sinh, qua đó khơi gợi
sự khám phá, tìm hiểu nhằm tăng tính chủ động, tự giác của các em.
3. Đề tài cũng đã đề xuất một số biện pháp nhằm giáo dục ý thức cho
học sinh về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong giờ học nội khóa như sử
dụng tài liệu tham khảo về chủ quyền biển, đảo, sử dụng tài liệu văn học, đồ
dùng trực quan như phim tư liệu, tranh, ảnh, bản đồ... và trong giờ học ngoại
khóa như nghe nói chuyện lịch sử, tổ chức triển lãm tranh ảnh, tư liệu, thiết kế
và trưng bày báo tường về biển, đảo Việt Nam, phát động các cuộc thi tìm
hiểu, sáng tạo về chủ quyền biển, đảo quê hương. Những biện pháp trên hoàn
110
toàn phù hợp trong dạy học Lịch sử. Ngoài ra nếu thực hiện theo những biện
pháp trên, đặc biệt là các hoạt động ngoại khóa sẽ góp phần tăng thêm tính
phong phú, đa dạng cho bài dạy Lịch sử của GV, HS không những chủ động
tham gia vào bài học mà thông qua đó các em tiếp thu kiến thức nhanh chóng
và dễ hiểu.
4. Kết quả thực nghiệm cũng cho thấy tính hiệu quả bước đầu của việc
giáo dục ý thức cho học sinh về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong môn
học Lịch sử. Với những nội dung được giáo viên khai thác triệt để và vận
dụng linh hoạt với từng cấp học sẽ góp phần ngày càng nâng cao chất lượng
bộ môn.
2. KHUYẾN NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS trong dạy học môn Lịch sử ở trường
THPT hiện nay, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị như sau:
- Về phía Bộ GD&ĐT và việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa
môn Lịch sử ở trường phổ thông
Vị trí của môn Lịch sử ở trường phổ thông đã được chú trọng hơn trước,
tuy nhiên chương trình SGK nói chung vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót.
Kênh chữ xuất hiện là chủ yếu, ít hình ảnh, nội dung vẫn nặng về lý thuyết,
chưa có các câu hỏi và bài tập mang tính gợi mở, nâng cao nhằm kích thích trí
tưởng tượng và sáng tạo của HS. Và đặc biệt hơn cả là nội dung về sự xác lập
chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Việc đưa
các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc là hết sức cần thiết, vì nó
không những cung cấp cho các em thêm tri thức, thông tin, hình ảnh về biển,
đảo mà qua đó còn góp phần giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc, để qua đó các em ý thức được trách nhiệm của người trẻ trong việc bảo
vệ giữ gìn bờ cõi đất nước. Bộ GD&ĐT cần có các văn bản cụ thể, soạn thảo
và ban hành tài liệu hướng dẫn dạy học cho GV, tài liệu học tập cho HS. Đưa
111
vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học với nội dung, mức độ, phạm vi
và hình thức phù hợp khi triển khai xây dựng Đề án Đổi mới chương trình,
sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Giống như lời Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Cơ -
nguyên Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
nói: “Để thế hệ trẻ hiểu được chủ quyền biển, đảo của nước ta, không có cách
nào tốt hơn là đưa chương trình biển, đảo vào giáo dục ở các cấp học”
- Về phía GV: GV là người quan trọng trước hết, cần phải khai thác
triệt để những tài liệu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc để giáo dục cho HS.
Phải chọn đề tài mang tính điển hình, cụ thể, phù hợp với điều kiện của từng
vùng. Tự bản thân mỗi GV phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với
chủ quyền biển đảo bằng những hành động cụ thể như: tham gia các hoạt
động tuyên truyền, các cuộc tập huấn, các cuộc thi về tìm hiểu biển đảo quê
hương...GV lịch sử phải đóng vai trò chủ động phối hợp với nhà trường, Đoàn
thanh niên, GV các môn học khác tổ chức các hoạt động học tập trong giờ học
nội khóa và ngoại khóa để tạo hiệu quả cao trong giáo dục cho HS ý thức
trách nhiệm đối với quê hương đất nước, đối với chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc.
Cấp ngành giáo dục cần tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng những
khóa học, đợt tập huấn cho các cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên.
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học phải thực sự gắn liền với đổi
mới các hoạt động học tập, đổi mới cách tổ chức hoạt động học tập ở trường
phổ thông. Yêu cầu quan trọng nhất của đổi mới phương pháp dạy học là
người học phải được chủ động và tham gia một cách tích cực vào các hoạt
động học tập do giáo viên tổ chức, có như vậy quan điểm lấy người học làm
trung tâm mới thực sự được triển khai và góp phần vào việc đào tạo những
112
con người mới đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Mai Anh (chủ biên) (2005), “Luật biển Quốc tế hiện đại”. Nhà
xuất bản lao động-xã hội. Hà Nội.
2. Ban tuyên giáo thành ủy Hà Nội (2015), “ Tổ quốc nơi đầu sóng
qua tác phẩm báo chí từ Thủ đô Hà Nội”. Nhà xuất bản Hà Nội.
3. Ban tuyên giáo trung ƣơng (2013), “ 100 câu hỏi – đáp về biển,
đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam”. Nhà xuất bản thông tin và truyền thông.
4. Ban tuyên giáo trung ƣơng (2014), “99 câu hỏi đáp về biển
đảo”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
5, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Dự án Việt-Bỉ (2010), Dạy và học tích
cực một số phương pháp và kĩ thuật dạy học. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
6. Bộ giáo dục và đào tạo (2014) “Tài liệu tập huấn kiểm tra, đánh
giá trong quá trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
trong trường trung học phổ thông, Hà Nội.
7. Bộ giáo dục và Đào tạo (2011). “Tài liệu hướng dẫn dạy học nội
dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo cho học sinh trung học
phổ thông”. Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.
8. Chƣơng trình KHCN cấp nhà nƣớc KX – 07, đề tài KX – 07 –
19 (1994), “Tìm hiểu hoạt động giáo dục truyền thống yêu nước Bảo vệ Tổ
Quốc trong lịch sử dân tộc (Thế kỉ X – trước 1930). Nhà xuất bản Quân Đội
nhân dân, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Thị Nhuần (2015), “Chủ tịch Hồ
Chí Minh với bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ Quốc”. Nhà xuất
bản quân đội.
10. Trƣơng Minh Dục (2014), “Chủ quyền quốc gia Việt Nam tại
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua tư liệu Việt Nam và nước ngoài”.
113
Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông.
11. Nguyễn Đình Đầu (2014), “Chủ quyền Việt Nam trên Biển
Đông và Hoàng Sa, Trường Sa”. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP.HCM.
12. Dƣơng Hà Hiếu (2015.), “Biển, đảo việt Nam trong các tư liệu
Tiếng Anh từ Thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX”. Tạp chí nghiên cứu Lịch sử
số 5 (469), tr 22-37.
13. Lam Hồng, Thụy An, Hạnh Nguyên (2014), “ Đảo Trường Sa
lớn: Thủ phủ tiền tiêu của Việt Nam trên Biển Đông”. Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội.
14. GS. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng và Nguyễn
Thị Côi (2010), Phương pháp dạy học lịch sử tập 1, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
15. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2012), Từ điển thuật ngữ lịch sử
phổ thông, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
16. GS Phan Ngọc Liên, “ Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy học
sinh làm trung tâm”. Hội khoa học lịch sử Việt Nam.
17. Hà Thị Mai (2013), “Giáo trình giáo dục học đại cương”. Đà
Lạt.
18. Trần Thị Họa My (2012), “Chủ quyền của Việt Nam trên Biển
Đông-nhìn từ góc độ pháp lý, thực tiễn và lời giải cho bài toán “Giải quyết
tranh chấp Biển Đông”. LVTHS Luật Quốc tế, ĐHQGHN.
19. Nhiều tác giả (2015), “Biển đảo Việt Nam khu vực Nam Bộ”.
Nhà xuất bản Văn hóa - văn nghệ, Hà Nội.
20. Nhiều tác giả (2014), “Chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ
quốc”. Nhà xuất bản quân đội nhân dân, Hà Nội.
21. Nhiều tác giả (2012), “ Việt Nam và tranh chấp Biển Đông”.
Nhà xuất bản tri thức, Hà Nội.
22. Nhiều tác giả (2008), “ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”.
114
Nhà xuất bản Trẻ, Hà Nội.
23. Nhiều tác giả (2014), “Biển Đảo, lãnh thổ thiêng liêng của
người dân nước Việt”. Nhà xuất bản văn học, Hà Nội.
24. PGS.TS. Vũ Quang Hiển – TS. Hoàng Thanh Tú (2014),
“Phương pháp dạy môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông”. Nxb đại học
Quốc Gia HN.
25. Vũ Quang Hiển (2012), “Chủ trương của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về kết hợp phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo
(1986 – 2007).
26. Đặng Thị Huế (2015), Sử dụng tư liệu chủ quyền biển đảo Tổ
quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông. LV TH.S SPLS.
ĐHGD
27. Quý Lâm (2016), “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa và những
quy định mới về biển, đảo”. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
28. Hoàng Trọng Lập (1996), “Tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa
- Trường Sa và luật pháp quốc tế”. LAPTSKH Luật học, ĐH Khoa học Xã
hội và Nhân Văn, Hà Nội.
30. Hồ Sĩ Quý (2014), “Quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền
của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – thực tế, không gián
đoạn, hòa bình và minh bạch. Viện Thông tin Khoa học xã hội.
31. Vũ Hữu San (2007), “Địa lý Biển Đông với Hoàng – Sa và
Trường – Sa -1”. Đại học Stanford. Ủy Ban bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Việt
Nam.
32. Đặng Hoàng Sang (2015), “Giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo
cho học sinh THPT qua môn lịch sử”. Kỉ yếu hội thảo khoa học năm 2015.
Nhà xuất bản Cần Thơ, tr 237-246.
33. Dƣơng Xuân Sơn (2016), “Báo chí với vấn đề biển, đảo và
115
duyên hải Việt Nam”. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội.
34. Nguyễn Đức Toàn(2015), “Sử dụng tư liệu gốc để giáo dục chủ
quyền biển, đảo cho HS ở trường THPT (Qua chương trình chuẩn SGK lịch
sử 10), Kỉ yếu hội thảo khoa học năm 2015. Nhà xuất bản Cần Thơ, tr 226-
231.
35. Nguyễn Đức Toàn (2015), “ Môn lịch sử với việc giáo dục cho
học sinh ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo tổ quốc trong bối cảnh quốc tế
hiện nay”. Tạp chí khoa học trường Đại học Cần Thơ, tr 38-43.
36. Trần Nam Tiến (2014), “Đội Hoàng Sa trong lịch sử xác lập và
bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam”. Nhà xuất bản Văn hóa - văn nghệ,
Hà Nội.
37. Văn Ngọc Thành, Hoàng Thị Nga (2015), “Chủ quyền lãnh thổ
trong sách giáo khoa công hoa liên bang Đức – một vài suy nghĩ cho việc đổi
mới sách giáo khoa Việt Nam sau 2015”. Tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 6
(469), tr75-80.
38. Phạm Ngọc Trâm (2016), “Bảo vệ chủ quyền và quản lý-khai
thác biển đảo Việt Nam 1975-2014”. Nhà xuất bản tổng hợp TP.HCM.
39. Hoàng Thanh Tú, Nguyễn Tiến Thành (2007), Sử dụng phim
tư liệu trong dạy học lịch sử. Tạp chí dạy và học ngày nay số tháng 5/2007.
40. Trần Công Trục (2011), “Dấu ấn việt Nam trên Biển Đông”.
Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
41. Đậu Thị Hải Vân (2012), “Giáo dục ý thức về chủ quyền biển,
đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10, trung học
phổ thông (chương trình chuẩn)”. LV TH.S SPLS. ĐHGD.
42. Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng (2016),
“Biển đảo Việt Nam lịch sử - chủ quyền – kinh tế - văn hóa”. Nhà xuất bản
Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM.
43. http://th-tan1.phuvang.thuathienhue.edu.vn/tin-tuc/dua-noi-
dung-giao-duc-chu-quyen-bien-daovao-sach-giao-khoa-cac-cap.htm]
116
44. https://www.youtube.com/watch?v=FjqLRVe9HOk
45.http://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/4330-huyen-
thoai-duong-ho-chi-minh-tren-bien.html
46. https://hosotulieu.wordpress.com/tag/tau-khong-s%E1%BB%91/
47. https://www.youtube.com/watch?v=cVErPIzVooo
48. Trang web
http://www.tapchicongsan.org.vn
http://www.vietthuc.org
http://biengioilanhtho.gov.vn
http://quangngai.gov.vn
https://asean.thuvienphapluat.vn
http://asean.mofa.gov.vn
http://voh.com.vn/khoa-hoc-va-giao-duc/doi-moi-sach-giao-khoa-
117
lich-su-can-dua-van-de-bien-dong-vao-giang-day-147284.html)
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Kính chào Thầy (Cô)
Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu “Giáo dục ý thức
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt
Nam lớp 12”, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các Thầy/Cô. Thông tin
thu thập được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu
Em xin chân thành cảm ơn!
Thông tin cá nhân (không bắt buộc)
Họ và tên .......................................................................................................
Giáo viên trường ..........................................................................................
Số năm công tác ...........................................................................................
Hãy đánh dấu X vào ô trống có câu trả lời phù hợp với thầy/cô
Câu 1: Theo Thầy (cô), những kiến thức về chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc có cần thiết đƣa vào dạy , học ở trƣờng phổ thông không?
Rất cần thiết
Cần thiết
Bình thường
Không cần thiết
Câu 2: Thầy (Cô), quan niệm nhƣ thế nào về việc tổ chức dạy học
các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS?
Là hoạt động có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc cho HS
Là hoạt động của Đoàn TNCS HCM không phải của GV bộ môn
Chỉ là cung cấp các kiến thức về chủ quyền biển, đảo Tổ Quốc cho
HS
Các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc không có trong SGK
nên học sinh tự tìm hiểu.
Ý kiến khác ......................................................................................
...................................................................................................................
Câu 3: Thầy (cô) đánh giá nhƣ thế nào đối với những kiến thức về
chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong chƣơng trình sách giáo khoa phổ
thông hiện nay?
Phong phú
Chưa phong phú
Đơn điệu
Không có gì
Câu 4: Theo thầy (cô), ở trƣờng THPT, mức độ ƣu thế của các bộ
môn sau trong việc giáo dục các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
cho học sinh nhƣ thế nào?
Rất ưu thế Ưu thế Bình thường Không có
ưu thế
Ngữ văn
Lịch sử
Đại lý
Giáo dục công
dân
Câu 5: Trong giờ học Lịch sử, Thầy (cô) có thƣờng xuyên cung cấp
các kiến thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh không?
Rất thường xuyên
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không sử dụng
Câu 6: Theo Thầy (cô), việc dạy học các nội dung về chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc cho học sinh có thể thực hiện thông qua các hình thức
nào?
Bài học cung cấp kiến thức mới
Tích hợp với các môn học khác
Tổ chức hoạt động ngoại khóa
Cho học sinh tự tìm hiểu
Ý kiến khác .....................................................................................................
Câu 7: Theo Thầy (cô), việc tổ chức dạy học các nội dung về chủ
quyền biển, đảo trong môn Lịch sử cho học sinh lớp 12 THPT có những
thuận lợi và khó khăn gì?
7.1 Thuận lợi
Được trang bị đầy đủ tài liệu, phương tiện trong dạy học
Kiến thức, các tài liệu thuận lợi trong việc tìm hiểu, liên hệ
Học sinh hợp tác và cố gắng khi làm việc Gv giao bài
Thuận lợi khác: ........................................................................
7.2 Khó khăn
Không đủ thời gian để dạy
Tài liệu tham khảo để chọn nội dung soạn bài còn hạn chế, chưa
có tài liệu hướng dẫn cụ thể
Trong chương trình Lịch sử hiện tại không có các nội dung này
Khó khăn khác: .................................................................................
Câu 8: Thầy (Cô) có đề xuất gì để việc tổ chức dạy học các nội
dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh THPT trong dạy học
lịch sử đạt hiệu quả tốt nhất?
Về phía nhà trường: .....................................................................................
Về phía giáo viên: .........................................................................................
Ý thức của mỗi học sinh ...............................................................................
Các yếu tố khác: ............................................................................................
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy (Cô) !
PHỤ LỤC 2
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH
Các em học sinh thân mến!
Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu “Giáo dục ý thức
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt
Nam lớp 12”, cô rất mong nhận được sự giúp đỡ của các em. Thông tin thu
thập được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn!
Thông tin cá nhân (không bắt buộc):
Họ và tên: ........................................................................................................
Lớp: .................................................................................................................
Trường: ..........................................................................................................
Bạn hãy đánh dấu X vào câu trả lời phù hợp với em
Câu 1: Mức độ hứng thú của em đối với môn học Lịch sử nhƣ thế
nào?
Rất hứng thú
Bình thường
Chưa quen
Không hứng thú
Câu 2: Theo em, môn Lịch sử có thuận lợi không khi tích hợp dạy
các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc?
Rất thuận lợi
Thuận lợi
Ít thuận lợi
Không thuận lợi
Câu 3: Theo em, ở trƣờng THPT, mức độ ƣu thế của các bộ môn
sau trong việc giáo dục các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho
học sinh nhƣ thế nào?
Rất ưu thế Ưu thế Bình thường Không có
ưu thế
Ngữ văn
Lịch sử
Đại lý
Giáo dục công
dân
Câu 4: Em quan niệm nhƣ thế nào về việc tổ chức dạy học các nội
dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS?
Là hoạt động có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc cho HS
Là hoạt động của Đoàn TNCS HCM không phải của GV bộ môn
Chỉ là cung cấp các kiến thức về chủ quyền biển, đảo Tổ Quốc cho
HS
Các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc không có trong SGK
nên học sinh tự tìm hiểu.
Ý kiến khác ......................................................................................
...................................................................................................................
Câu 5: Em có thƣờng xuyên cập nhật các thông tin về chủ quyền
biển đảo Việt Nam và vấn đề tranh chấp trên Biển Đông hay không?
Thường xuyên cập nhật
Thỉnh thoảng cập nhật
Ít cập nhật
Không quan tâm
Câu 6: Em tìm hiểu kiến thức về chủ quyền biển, đảo thông qua
các kênh thông tin nào?
Các môn học ở trường
Ti vi
Báo, đài
Internet
Qua người thân, bạn bè
Câu 7: Em muốn đƣợc học các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc thông qua hình thức học tập nào?
Bài học cung cấp kiến thức mới
Tổ chức hoạt động ngoại khóa
Tích hợp trong các môn học
Tự bản thân tìm hiểu
Ý kiến khác .....................................................................................
Câu 8: Khi tìm hiểu các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
em thấy có những khó khăn gì?
Không có tài liệu
Không xác định được độ tin cậy của thông tin
Khó hiểu
Không hứng thú
Câu 9: Em có đề xuất gì cho việc giáo dục các nội dung về chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử có kết quả tốt nhất?
Về phía nhà trường: .................................................................................
Về phía giáo viên: .....................................................................................
Ý thức của mỗi học sinh: ..........................................................................
Các yếu tố khác: ........................................................................................
Cảm ơn các em !
PHỤ LỤC 3
CÂU HỎI KIỂM TRA HỌC SINH
VỀ KIẾN THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC
Em hãy lựa chọn đáp án đúng nhất trong các câu sau:
1. Biển Đông có vị trí chiến lƣợc quan trọng chủ yếu do vùng biển
này
A. là một trong những vùng biển rộng lớn nhất thế giới.
B. là một tuyến hàng hải nhộn nhịp vào bậc nhất thế giới.
C. có nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú.
D. có nhiều quốc gia, nhất là các cường quốc nằm ven bờ.
2. Huyện đảo Hoàng Sa là đơn vị hành chính thuộc
A. Thành phố Hải Phòng. C. Tỉnh Thừa Thiên - Huế.
B. Thành phố Đà Nẵng. D. Tỉnh Quảng Nam.
3. Huyện đảo Trƣờng Sa là đơn vị hành chính thuộc
A. Tỉnh Quảng Trị C. Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
B. Tỉnh Bình Thuận D. Tỉnh Khánh Hòa
4. Năm 1956, Trung Quốc cho quân chiếm một số đảo phía Đông
thuộc
A. Quần đảo Hoàng Sa.
B. Quần đảo Trường Sa.
C. vùng Vịnh Bắc Bộ.
D. vùng Vịnh Hạ Long.
5. Tháng 1 – 1974, Trung Quốc cho quân chiếm các đảo thuộc
A. phía Tây quần đảo Trường Sa.
B. phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
C. phía Đông quần đảo Trường Sa.
D. phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
6. Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) là văn bản
đƣợc kí kết giữa chính phủ các quốc gia nào? Vào năm nào?
A. Các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc, 2002.
B. Các quốc gia thành viên của ASEAN, 2003.
C. Các nước thành viên ASEAN, Trung Quốc và Nhật Bản, 2002.
D. Hai nước Việt Nam và Trung Quốc, 2003.
7. Các quốc gia có tranh chấp chủ quyền trên biển Đông hiện nay là
A. Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Manila, Brunây.
B. Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia, Brunây.
C. Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Malaixia, Brunây.
D. Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Brunây.
8. Một trong những vùng lãnh thổ có tham gia tranh chấp chủ
quyền trên Biển Đông là
A. Côn Đảo.
B. Phú Quốc.
C. Đài Loan
D. Hải Nam.
9. Tháng 1-1974, Trung Quốc cho quân đánh chiếm quần đảo
Hoàng Sa khi quần đảo này do lực lƣợng nào kiểm soát ?
A. Chính quyền Việt Nam cộng hoà.
B. Quân đội Mĩ và đồng minh.
C. Chính quyền Đài Loan.
D. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
10. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Hải
quân nhân dân Việt Nam đã tiến ra biển, giải phóng quần đảo Trƣờng Sa
A. sau khi kết thúc chiến dịch Tây Nguyên.
B. sau khi giải phóng thành phố Huế.
C. trước khi giải phóng thành phố Đà Nẵng.
D. sau khi giải phóng thành phố Đà Nẵng.
PHỤ LỤC 4
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
CHƢƠNG IV: VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975
Bài 23: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc,
giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)
(Tiết 2)
I. Mục tiêu bài học
Sau bài học này, học sinh phải
1. Kiến thức
- Tóm tắt được diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.
- Phân tích được những quyết định của Đảng trong tiến trình tổng tiến
công và nổi dậy Xuân 1975.
- Phân tích được nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước (1954 – 1975).
- Đánh giá được ý nghĩa lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975 đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2. Kỹ năng
- Rèn kĩ năng phân tích, nhận định, đán giá về âm mưu, thủ đoạn của
địch sau Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam; điều kiện và thời cơ sau khi
Mĩ rút hết quân về nước; chủ trương, kế hoạch đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt
giải phóng hoàn toàn miền Nam.
- Kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm.
- Khai thác tranh ảnh, lược đồ cuộc tổng tiến công.
3. Thái độ
- Bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, tình cảm ruột thịt Bắc –
Nam, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
- Giáo dục cho học sinh ý thức, trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
quốc gia, chủ quyền biển đảo, những giá trị văn hóa từ thời Nguyễn còn tồn
tại đến ngày nay.
- Tinh thần chiến đấu, ý chí thống nhất Tổ quốc, không chịu khuất phục
trước kẻ thù.
II. Phƣơng pháp dạy học
- Phân tích, miêu tả kết hợp với phát vấn.
- Sử dụng đồ dùng trực quan.
- Phương pháp dạy học nhóm.
III, Chuẩn bị học liệu, phƣơng tiện
- SGK Lịch sử 12
- Lược đồ diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
- Các câu chuyện, tài liệu liên quan đến bài học
IV. Tiến trình dạy học
1. Vào bài mới
Đặt câu hỏi: Sau hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam, cách mạng
từng miền Bắc – Nam thực hiện những nhiệm vụ gì ?
Sau hiệp định pari năm 1973 về Việt Nam, Mĩ rút hết quân về nước.
Nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển
kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam. Nhân dân miền Nam đấu tranh
chống “bình định-lấn chiếm”, tạo thế và lực tiến tới cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
2. Dạy học bài mới
Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cơ bản
Hoạt động 1: Tìm hiểu chủ trƣơng, III. Giải phóng
kế hoạch giải phóng miền Nam. hoàn toàn miền Nam,
giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ Gv khái quát chủ trương chiến lược của quốc. ta trong kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền 1, Chủ trƣơng, kế Nam, thống nhất đất nước. hoạch giải phóng miền
Làm rõ tại hội nghị của BCH Trung Nam.
ương mở rộng họp từ ngày 18/12/1974 – Cuối năm 1974 đầu
08/01/1975 đã đề ra kế hoạch giải phóng miền 1975, Bộ chính trị Trung
Nam trong vòng 2 năm (1975 – 1976). BCT ương Đảng đề ra kế hoạch
còn dự kiến nếu thời cơ đến thì giải phóng giải phóng hoàn toàn miền
miền Nam trong năm 1975. Đầu năm 1975 Nam trong 2 năm 1975 –
khi thời cơ đến nhanh, BCT quyết định thực 1976, nhưng nhấn mạnh “cả
hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy, thời gian 1975 là thời cơ” và “nếu
gần 2 tháng, bằng 3 chiến lược lớn. thời cơ đến vào đầu hoặc
cuối 1975 thì lập tức giải
phóng miền Nam ngay trong
năm 1975”.
Cần phải tranh thủ
thời cơ đánh nhanh thắng
nhanh để đỡ thiệt hại về
người và của cho nhân dân.
Hoạt động 2: Tìm hiểu cuộc tổng tiến 2, Cuộc Tổng tiến công và
công và nổi dậy Xuân 1975. nổi dậy Xuân 1975.
a, Chiến dịch Tây 1. Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-3 đến Nguyên (Từ 4-3 đến ngày ngày 24-3). 24-3). Gv dùng lược đồ diễn biến cuộc tổng 4/3/1975 ta đánh nghi tiến công và nổi dậy Xuân 1975, yêu cầu HS binh ở Plâyku – Kontum xác định vị trí và hướng tấn công chủ yếu của nhằm thu hút lực lượng từng chiến dịch, rồi nêu câu hỏi cho từng địch. nhóm tiến hành thảo luận. 10/3/1975 ta bất ngờ GV chia lớp thành 3 nhóm: đánh Buôn Ma Thuột, đến - Nhóm 1: Dựa vào lƣợc đồ chiến ngày 11/3 ta giành thắng lợi. dịch Tây Nguyên, hãy tƣờng thuật lại diến
14/3/1975, địch được biến chính của chiến dịch.
lệnh rút toàn bộ quân khỏi (Phụ lục 1)
Tây Nguyên về giữ vùng Nhóm 2: Kết hợp với lƣợc đồ chiến
ven biển miền Trung. Trên dịch Huế - Đà Nẵng, hoàn thiện sơ đồ trục
đường rút chạy, địch bị quân thời gian và trình bày lại diễn biến của
ta truy kích tiêu diệt. chiến dịch Huế - Đà Nẵng. (Phụ lục 2)
Ngày 24/3/1975 Tây Nhóm 3: Hoàn thiện phiếu học tập và
Nguyên hoàn toàn giải dựa vào lƣợc đồ chiến dịch Hồ Chí Minh,
phóng. thuyết trình trƣớc cả lớp về diễn biến chiến
Ý nghĩa: Chuyển cuộc dịch Hồ Chí Minh.
kháng chiến chống Mĩ cứu (Phụ lục 3)
Sau khi các nhóm trình bày, Gv nhận nước của ta từ tiến công
xét và chốt kiến thức chính. chiến lược sang tổng tiến
Kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch công chiến lược trên toàn
sử, Gv nêu ý nghĩa của chiến dịch: Chiến dịch miền Nam.
Hồ Chí Minh thắng lợi tạo điều kiện thuận lợi b, Chiến dịch Huế -
để giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngày Đà Nẵng (21/3 đến
2/5/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng. 29/3/1975)
Gv hỏi: Gắn liền với chiến dịch Hồ Chí 21/3/1975, quân ta tấn
Minh lịch sử, hải quân nước ta đã giải phóng công Huế và chặn đường rút
quần đảo nào? chạy của địch
Ngày 26/3 ta giải HS trả lời.
phóng thành phố Huế và Gv nhận xét, mở rộng thêm kiến
toàn tỉnh Thừa Thiên. thức:
Năm 1956, Trung Quốc cho quân Cùng thời giai giải
chiếm các đảo phía Đông quần đảo Hoàng phóng Huế, quân ta tiến vào
Sa. giải phóng Tam Kỳ, Chu
Sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết. Lai, Quảng Ngãi
Hoàng Sa, Trường Sa nằm ở phía Nam vĩ 29/3/1975 quân ta từ
tuyến 17 thuộc quyền quản lý của nhà nước ở nhiều hướng tiến công Đà
miền Nam – quân đội Sài Gòn nắm giữ. Nẵng và đến 3 giờ chiều
Tháng 1 – 1974, sau hiệp định Pari, cùng ngày thì giải phóng Đà
Trung Quốc đã cho quân chiếm nốt các đảo Nẵng.
phía Tây quần đảo Hoàng Sa Trung Quốc Ý nghĩa: Gây nên tấm
đã chiếm hoàn toàn đảo này dưới sự bật đèn lí tuyệt vọng trong ngụy
xanh của Mỹ. quyền, đưa cuộc tổng tiến
Trong lúc các cánh quân của Chiến công và nổi dậy của quân
dịch Hồ Chí Minh tiến thần tốc áp sát Sài dân ta tiến lên một bước mới
Gòn, đoàn tàu không số chở 300 chiến sĩ bí với sức mạnh áp đảo.
mật vượt trùng khơi giải phóng quần đảo c, Chiến dịch Hồ Chí
Trường Sa. Minh (26/4 đến 30/4/1975)
GV dùng máy chiếu, chiếu cho HS Sau thắng lợi của các quan sát chiếc tàu không số trên biển. chiến dịch Tây Nguyên và
Huế - Đà Nẵng, Bộ chính trị
Trung ương Đảng quyết
định giải phóng miền Nam
trước mùa mưa.
Chiến dịch giải phóng
Sài Gòn – Gia Định được
Bộ chính trị quyết định trong những con Tàu không Một
mang tên “Chiến dịch Hồ số. Ảnh tư liệu.
Chí Minh”. (http://soha.vn/xa-hoi/om-nhau-khoc-giua-
Trước khi bắt đầu truong-sa khi-nghe-tin-sai-gon-giai-phong-
chiến dịch giải phóng Sài 20150429072944331.htm)
Gòn, quân ta tiến công Xuân Vừa đến cảng Tiên Sa, ngay lập tức cả
Lộc và Phan Rang – những ba tàu cấp tốc nhận nhiệm vụ chở quân đi đến
Trường Sa gồm đôị 1 của đoàn 126 đặc công căn cứ phòng thủ trọng yếu
nước hải quân do Anh hùng Lực lượng vũ của địch bảo vệ Sài Gòn từ
trang Nguyễn Ngọc Quế làm đội trưởng, cùng phía đông:
một lực lượng đặc công của Sư đoàn 2 – Ngày 16/4/1975 ta
Quân khu 5 phối thuộc. Chỉ huy cả hai lực chọc thủng tuyến phòng thủ
lượng này là lữ đoàn trưởng đặc công nước Phan Rang.
Mai Năng. Từ Tiên Sa, trong đêm tối cả ba Ngày 21/4/1975 giải
tàu 673, 674và 675 được ngụy trang thành phóng Xuân Lộc.
tàu đánh cá mang cờ hiệu nước ngoài. 17h ngày 26/4/1975,
4 giờ sáng 11/4, ba con tàu “đánh cá” quân ta được lệnh nổ súng
với mật danh “biệt đội C75” đè sóng thẳng mở đầu chiến dịch. 5 cánh
hướng ra Trường Sa. Đảo Song Tử Tây là đảo quân ta vượt qua tuyến
đầu tiên mở màn cho chiến dịch trên biển. phòng thủ vòng ngoài của
Đây cũng là thời điểm các cánh quân của ta địch tiến vào trung tâm Sài
đang chuẩn bị nổ súng trên mặt trận Phan Gòn, đánh chiếm các cơ
Rang – Xuân Lộc – Tây Ninh. quan đầu nào của chúng.
Sau khi nghe tin quân ta giải phóng các 10h45’ ngày 30/4/1975,
đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, quân xe tăng và bộ binh của ra
địch trên đảo Sinh Tồn đã hoang mang dao tiến vào Dinh Độc Lập bắt
động, rút chạy từ sáng ngày 27/4, nên lực dông toàn bộ Nội các Sài
lượng ta đổ bộ thuận lợi. Gòn – Dương Văn Minh
Đúng 10 giờ 20 phút ngày 28/4/1975, ta tuyên bố đầu hàng vô điều
làm chủ đảo hoàn toàn. Và đến 9 giờ sáng kiện.
ngày 29/4/1975, phân đội chiến đấu cuối 11h30’ ngày 30/4/1975,
cùng của Lữ đoàn 126 đổ bộ làm chủ đảo lá cờ cách mạng tung bay
Trường Sa. Từ đó đảo Trường Sa nói riêng và trên nóc dinh Độc Lập báo
quần đảo Trường Sa nói chung bước vào thời hiệu chiến dịch Hồ Chí
kỳ lịch sử mới, thời kỳ xây dựng chiến đấu và Minh toàn thắng.
trưởng thành bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
GV nêu câu hỏi tổng kết:
1/ Giải phóng Trường Sa có ý nghĩa như
thế nào đối với sự nghiệp thống nhất đất
nước, khẳng định chủ quyền biển, đảo Việt
Nam.
2/ Em có suy nghĩ gì về trách nhiệm của
bản thân đối với đất nước trong thời kì hiện
nay?
HS trả lời
GV đưa ra đáp án và đưa đến kết luận:
Công cuộc giải phóng Trường Sa có ý nghĩa
to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước. Tiếp bước khẳng định dấu mốc chủ
quyền biển, đảo Tổ quốc Việt Nam.
Hoạt động 3: Tìm hiểu nguyên nhân IV, Nguyên nhân
thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng thắng lợi và ý nghĩa lịch sử
chiến chống Mĩ, cứu nƣớc (1954 – 1975). của cuộc kháng chiến
GV nêu câu hỏi: Em hãy nêu nguyên chống Mĩ, cứu nƣớc (1954
nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc – 1975).
kháng chiến chống Mỹ cứu nước? 1. Nguyên nhân thắng
HS: trả lời lợi.
GV hỏi thêm: Trong những nguyên Sự lãnh đạo của Đảng,
nhân trên, nguyên nhân nào là quan trọng đứng đầu là Chủ tịch
nhất, tại sao? Hồ Chí Minh với đường lối
HS: trả lời chính trị, quân sự
GV giải thích thêm: Chiến dịch Hồ Chí Minh
Trong những nguyên nhân trên thì sự thắng lợi tạo điều kiện
lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị, thuận lợi cho việc giải
quân sự độc lập, tự chủ, đung đắn sáng phóng hoàn toàn miền
tạo….là nguyên nhân quan trọng nhất. Nam. Truyền thống yêu
Đảng lãnh đạo là nguyên nhân bao nước nồng nàn của nhân dân
trùm, chi phối các nguyên nhân khác….Nếu ta.
không có Đảng lãnh đạo thì sẽ không có sức Tinh thần đoàn kết
mạnh tổng hợp của dân tộc, không thể kết hợp chiến đấu dũng cảm vì sự
được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. nghiệp cách mạng.
Sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết Hậu phương miền Bắc vững
định cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt chắc đáp ứng kịp thời các
Nam. yêu cầu của cuộc chiến đấu
ở hai miền. Sự đoàn kết
chiến đấu của nhân dân 3
nước Đông Dương. Sự đồng
tình ủng hộ và giúp đỡ to
lớn của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN
khác, của các lực lượng tiến
bộ trên thế giới.
2. Ý nghĩa lịch sử
Kết thúc 21 năm chiến đấu
chống Mỹ và 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc,
bảo vệ tổ quốc từ sau cách
mạng
tháng Tám.
Chấm dứt hoàn toàn
ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân- đế quốc ở nước ta.
Hoàn thành cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ trong cả
nước và thống nhất đất
nước.
Mở ra kỉ nguyên mới của
lịch sử dân tộc – kỉ nguyên
đất nước độc lập, thống nhất
đi lên CNXH.
Tác động mạnh đến
tình hình nước Mĩ và thế
giới, là
nguồn cổ vũ to lớn đối với
phong trào giải phóng dân
tộc thế giới.
V, Củng cố
Hãy lập bảng hệ thống những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân
dân ta ở hai miền Nam-Bắc trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao
trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954-1975).
Phụ lục
Phụ lục 1
Lƣợc đồ chiến dịch Tây Nguyên.
Phụ lục 2
21 - 3 ……… 26 – 3 ..…….
Quân
Giải
ta
phóng
tiến công
Huế
và
cố đô
tỉnh Thừa
Thiên
Huế.
T
hiên
Sơ đồ trục thời gian
Lƣợc đồ chiến dịch Huế - Đà Nẵng
Phụ lục 3 Phiếu học tập
Nội dung
Thời gian
a. Ta chọc thủng tuyến phòng thủ Phan Rang.
1.11h30’ ngày
b. Quân ta được lệnh nổ súng mở đầu chiến
30/4/1975, dịch.
2.10h45’ ngày
c. Xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc
30/4/1975 Lập bắt sống toàn bộ Nội các Sài Gòn – Dương Văn
3.
Ngày
Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. 21/4/1975
d. Giải phóng Xuân Lộc.
4.
Ngày
e. Lá cờ cách mạng tung bay trên nóc dinh Độc
Lập báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. ngày
16/4/1975 5.17h 26/4/1975
Lƣợc đồ chiến dịch Hồ Chí Minh
PHỤ LỤC 5
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH SAU GIỜ DẠY THỰC
NGHIỆM
Xin em vui lòng cho biết ý kiến của mình sau khi học tiết 2 Bài 23:
Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn
miền Nam (1973 – 1975) bằng câu trả lời hoặc cung cấp thông tin vào chỗ
(…) thích hợp.
Họ và tên ……………………………lớp………………………………
1. Bài học hôm nay em có hiểu bài không?
A. Rất hiểu B. Hiểu
C. Chưa hiểu lắm D. Không hiểu
2. Em cảm thấy tiết học nhƣ thế nào khi giáo viên mở rộng thêm
thông tin về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
A. Hấp dẫn, có thêm thông tin về biển đảo Tổ quốc.
B. Dễ hiểu hơn trong SGK.
C. Bình thường, em có thể tự đọc thêm.
D. Khô khan, khó hiểu.
3. Bài dạy này em cảm thấy hấp dẫn ở điểm nào?
A. Học sinh tích cực, chủ động
B. Cách mở rộng kiến thức về biển, đảo của giáo viên.
C. Ứng dụng công nghệ thông tin và các phiếu bài tập trong giờ học.
D. Sự kết hợp được công cụ hỗ trợ và phương pháp dạy học
4. Sau khi tham gia các hoạt động học tập về chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc, em đã đạt đƣợc những mục tiêu học tập nào dƣới đây
A. Được trang bị thêm những kiến thức về chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc
B. Được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình, trình
bày quan điểm.
C. Cảm thấy cần phải cố gắng học tập nhiều hơn để góp phần vào sự
nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
D. Không đạt được mục tiêu học tập nào.
5. Những tác dụng của các kiến thức về chủ quyền biển, đảo nƣớc
ta là
A. Giáo dục cho học sinh cũng như thế hệ trẻ về ý thức trân trọng và
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
B. Giúp học sinh mở rộng kiến thức mới, biết thêm những thông tin về
biển đảo đất nước.
C. Giúp học sinh có thêm cái nhìn mới, đa chiều đối với tình hình biển,
đảo đất nước.
D. Ý kiến khác ................................................................................................
6. Em có đề xuất gì về cách dạy học của giáo viên đối với các nội
dung về chủ quyền biển, đảo của đất nƣớc
A. Cần hướng dẫn cụ thể hơn các nhiệm vụ để học sinh tự tìm tài liệu.
B. Thường xuyên giảng dạy và mở rộng kiến thức về biển, đảo của Tổ
quốc cho HS.
C.Hướng dẫn HS tự nghiên cứu, tìm tài liệu.
D. Ý kiến khác ............................................................................................. .
7. Theo em, để giáo dục cho HS về ý thức đối với chủ quyền biển
đảo của Tổ quốc, GV nên
A. Tích cực hướng dẫn và cung cấp các tài liệu về chủ quyền biển, đảo
để HS có cơ hội tiếp cận.
B. Cho HS tham gia các giờ học ngoại khóa về biền, đảo để học sinh
biết thêm nhiều thông tin, góp phần bồi dưỡng lòng yêu nước đối với các em.
C. Tổ chức các buổi thuyết trình, tranh luận về các vấn đề biển, đào xưa
và nay.
D.Ý kiến khác.............................................................................................
7. Là thế hệ trẻ trong tƣơng lai, em sẽ làm gì để góp phần vào công
cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc?
...................................................................................................................
...................................................................................................................
Cảm ơn các em !