ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ THỊ SÁNG

GIÁO DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA

TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH

SỬ LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

HÀ NỘI – 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ THỊ SÁNG

GIÁO DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA

TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH

SỬ LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

CHUYÊN NGHÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC

(BỘ MÔN LỊCH SỬ)

Mã số : 8 14 01 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Quang Hiển

HÀ NỘI – 2017

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự hướng

dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập thể.

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học

Quốc gia, Đại học Giáo dục cùng quý thầy cô trong Khoa sau Đại học đã tạo

rất nhiều điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa học.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Vũ Quang Hiển. Thầy

đã vô cùng nhiệt tình hướng dẫn tôi làm luận văn. Trong quá trình thực hiện

đề tài, thầy luôn động viên, định hướng, góp ý để tôi có thể hoàn thành tốt

luận văn này.

Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường trung học phổ

thông Trần Hưng Đạo, các thầy cô và các em học sinh trong trường cũng đã

tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra, khảo sát và tiến hành

thực nghiệm.

Cuối cùng, tôi rất muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân

và bạn bè đã luôn động viên, hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.

Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt

tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất

mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.

Hà Nội, tháng 12 năm 2017

Tác giả

1

Vũ Thị Sáng

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Đọc là Viết tắt

Đối chứng ĐC

GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo

Giáo viên GV

Học sinh HS

Phương pháp dạy học PPDH

Sách giáo khoa SGK

Trung học phổ thông THPT

2

Thực nghiệm TN

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 1.1.Các kênh thông tin HS sử dụng để tìm hiểu các kiến thức chủ

quyền biển, đảo của Tổ quốc.......................................................................... 43

3

Biểu đồ 2.1. So sánh kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC ......... 100

DANH MỤC HÌNH ẢNH

Trang

Hình 2.1. Máy bay B52 và máy bay 6A6 của Mĩ ngày đêm ném bom và thả

ngư lôi phong tỏa cửa sông, cảng biển ở nhiều tỉnh phía Bắc……………. 62

Hình 2.2.Sơ đồ trận chiến theo mô tả trong sách Tài liệu Hải chiến Hoàng

Sa của Vũ Hữu San và Trần Đỗ Cẩm ........................................................ 68

Hình 2.3. Bốn chiến hạm Việt Nam Cộng hòa tham gia trận chiến .......... 70

Hình 2.4. Bia chủ quyền do Pháp dựng ở đảo Hoàng Sa năm 1938 ........... 71

Hình 2.5. Bia chủ quyền Việt Nam dựng trên đảo Trường Sa,quần Đảo

Trường Sa (1961) ........................................................................................ 72

Hình 2.6. Đường Hồ Chí Minh trên biển .................................................... 84

Hình 2.7. Vận chuyển hàng lên tàu không số .............................................. 85

Hình 2.8. Đoàn tàu không số vận chuyển vũ khí trên Đường Hồ Chí Minh trên

biển để chi viện cho chiến trường miền Nam .............................................. 86

Hình 2.9. Bốc xếp gạo xuất khẩu tại cảng Sài Gòn .................................... 89

Hình 2.10. Tàu thuyền khai thác hải sản ở vùng biển đảo Lý Sơn .............. 90

4

Hình 2.11. Khai thác dầu khí tại mỏ Bạch Hổ .............................................. 91

MỤC LỤC

Trang

Lời cảm ơn

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các hình

Mục lục

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO

DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC CHO HỌC

SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG ..... 11

1.1 Cơ sở lí luận ............................................................................................ 11

1.1.1. Một số khái niệm ................................................................................ 11

1.1.2. Mục tiêu của môn Lịch sử ở trường phổ thông ................................. 14

1.1.3. Những yêu cầu cơ bản của vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền biển,

đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông .... 16

1.1.4. Nội dung giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ Quốc trong

dạy học Lịch sử ở trường phổ thông .............................................................. 24

1.1.5. Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp ở trường phổ thông ................ 36

1.2 Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 39

1.2.1. Thực trạng của việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12 trung học phổ thông .......... 39

1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết ..................................................... 44

5

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................. 59

CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC VỀ CHỦ

QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC

LỊCH SỬ LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ...................................... 51

2.1. Mục tiêu, nội dung cơ bản của chƣơng trình Lịch sử lớp 12 – chƣơng

trình chuẩn .................................................................................................... 51

2.1.1. Mục tiêu................................................................................................ 51

2.1.2. Những nội dung cần khai thác trong chương trình Lịch sử lớp 12 THPT

– Chương trình chuẩn để giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc . 53

2.2. Những yêu cầu cơ bản khi xác định các biện pháp giáo dục ý thứcchủ

quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12 –

chƣơng trình chuẩn ..................................................................................... 59

2.2.1. Xác định đúng những kiến thức cơ bản cần dạy ................................ 59

2.2.2. Phù hợp với đặc điểm, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh ......................... 60

2.2.3. Đảm bảo tính cụ thể, hình ảnh, giàu biểu tượng lịch sử ...................... 61

2.2.4. Đảm bảo tính sư phạm, tính khoa học, tính tư tưởng ......................... 63

2.2.5. Đảm bảo phát huy tính tích cực học tập, tính chủ động, sáng tạo . ..... 64

2.3. Một số biện pháp giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc cho học sinh lớp 12 trong dạy học lịch sử ......................................... 65

2.3.1. Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong

giờ học nội khóa ............................................................................................ 66

2.3.2. Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh

thông qua hoạt động ngoại khóa .................................................................... 92

2.4. Thực nghiệm sƣ phạm .......................................................................... 98

2.4.1. Mục đích, đối tượng thực nghiệm ....................................................... 98

2.4.2. Nội dung thực nghiệm ........................................................................ 98

2.4.3. Kết quả thực nghiệm .......................................................................... 99

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................ 103

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................................... 104

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 107

6

PHỤ LỤC ................................................................................................. .. 112

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong sự phát triển chung của thế giới và trong nước, Nghị quyết Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định

“Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực,

bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền

văn hóa và con người Việt Nam”. Luật giáo dục (2005) trong điều 2 cũng đã

quy định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn

diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với

lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân

cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Trên cơ sở quán triệt những chủ trương, chính sách của Đảng và dựa

trên sự phân tích rõ ràng bối cảnh quốc tế cũng như trong nước, trong chiến

lược phát triển giáo dục 2011 – 2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhận định

“Giáo dục nước ta trong thập kỉ tới phát triển trong bối cảnh thế giới có

nhiều thay đổi nhanh và phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo

dục đã trở thành xu thế tất yếu. Cách mạng khoa học công nghệ, công nghệ

thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác

động trực tiếp đến sự phát triển của nền giáo dục trên thế giới”. Do vậy,

Đảng và Nhà nước luôn khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu,

đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển; giáo dục vừa là mục tiêu vừa

là động lực để phát triển kinh tế - xã hội...

Thế kỉ XXI là thế kỉ của đại dương. Để tiếp tục phát huy các tiềm năng

của biển trong thế kỉ XXI, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương

Đảng (khóa X) đã thông qua nghị quyết số 09 – NQ/TW ngày 9/2/2007 về “

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định các quan điểm

7

về định hướng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020: Một là, nước ta phải

trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi

tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu

phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao

với tầm nhìn dài hạn. Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội

với đảm bảo quốc phòng – an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết

hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ba là, khai thác mọi nguồn lực để

phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động,

tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong;

tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên

tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn

lãnh thổ của đất nước… [2. tr. 7-8]

Trong lịch sử chiều dài hàng ngàn năm lịch sử, Việt Nam luôn khẳng

định là một quốc gia biển với quá trình khai phá lãnh thổ, mở mang bờ cõi

hướng biển. Việt Nam có quyền lợi sống còn đối với việc khẳng định chủ

quyền ở biển Đông. Biển Đông đóng một vai trò tối quan trọng, là một trong

những yếu tố hàng đầu tạo nên vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế

giới. Biển Đông không chỉ là lãnh thổ, chủ quyền quốc gia thiêng liêng của

Việt Nam mà còn là nơi có tiềm năng kinh tế khổng lồ, nhất là dầu khí và

nguồn thủy sản, giúp cho Việt Nam có thể khẳng định được sức mạnh kinh tế

của mình ở khu vực. Hơn thế nữa, biển Đông có một vị trí đặc biệt quan trọng

đối với việc mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế và an ninh quốc gia Việt Nam.

Tuy nhiên, hiện nay vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển đang đứng

trước nhiều khó khăn, thách thức, gần đây nhất là việc Trung Quốc hạ đặt dàn

khoan trái phép, xâm phạm chủ quyền điển đảo nước ta. Trước những diễn

biến phức tạp của tình hình Biển Đông thì việc tuyên truyền, giáo dục ý thức

về chủ quyền biển đảo tổ quốc cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ cần thiết và

8

mang tính chiến lược.

Như vậy, chúng ta thấy rằng cần thiết phải trang bị cho mỗi công dân

những hiểu biết cơ bản về lãnh thổ, lãnh hải của nước mình, để mỗi người dân

đều có ý thức bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “ Giáo

dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học

lịch sử lớp 12 trung học phổ thông” cho cho đề tài nghiên cứu của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Xung quanh vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung và vấn đề

Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy

học Lịch sử ở trường phổ thông nói riêng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu

khoa học quan tâm.

2.1. Các công trình nghiên cứu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

Chưa bao giờ đề tài biển đảo lại có sức hút và đón nhận được sự quan

tâm của cả nước như hiện nay. Đã có rất nhiều cuốn sách, tư liệu nghiên cứu

về biển đảo, về quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa như một lời khẳng định chủ

quyền thiêng liêng của Tổ quốc, để mỗi người dân Việt Nam thêm tự hào

trước sự hy sinh anh dũng của bao thế hệ cha anh đi trước trong công cuộc

bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hải đảo của Tổ quốc.

Đầu tiên phải kể đến là cuốn “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông” do

tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ làm chủ

biên. Được xuất bản đúng thời điểm Luật Biển Việt Nam vừa được Quốc hội

thông qua, cuốn sách góp phần tuyên truyền sâu rộng những thông tin chính

xác đến với mọi tầng lớp nhân dân; đồng thời khẳng định những quan điểm

đúng đắn, khách quan của Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề tranh chấp,

trong quyết tâm bảo vệ chủ quyền, các quyền, lợi ích chính đáng của mình

trên Biển Đông và trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của Nhà nước Việt

Nam trước cộng đồng khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, cuốn sách còn phân

9

tích thực tiễn phân định và giải quyết tranh chấp về thềm lục địa của một số

quốc gia trên thế giới thông qua các án lệ điển hình của cơ quan tài phán quốc

tế.

Cuốn sách “Hoàng sa, trường sa là của Việt Nam” là tác phẩm của tập

thể nhiều tác giả do nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2008. Nội dung cuốn

sách là tập hợp một số bài nghiên cứu, bài báo và những tư liệu mới của các

nhà sử học và các nhà nghiên cứu, chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối

với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, xét về mặt lịch sử và luật pháp

quốc tế. Cuốn sách cũng đề cập tới bối cảnh của cuộc tranh chấp hiện nay đối

với hai quần đảo này nói riêng và Biển Đông nói chung, cũng như những ý

kiến về một giải pháp cho cuộc tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế.

Kèm theo đó là những tư liệu liên quan, chẳng hạn toàn văn bản Tuyên bố về

các nguyên tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông mà các nước ASEAN và

Trung Quốc đã ký kết năm 2002.

Ban tuyên giáo thành ủy Hà Nội cũng đã xuất bản tác phẩm “Tổ quốc

nơi đầu sóng qua các tác phẩm báo chí từ Thủ đô Hà Nội”. Cuốn sách là tập

hợp các tư liệu, tác phẩm báo chí nhằm chuyển tải đến độc giả rộng rãi những

quan điểm, lập trường và ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển,

đảo Tổ quốc; khắc họa chân thực, sinh động về cuộc sống đời thường, kiên

cường bám biển, tinh thần sẵn sàng chiến đấu, thực thi nhiệm vụ bảo vệ chủ

quyền biển đảo quê hương của các chiến sĩ hải quân, lực lượng cảnh sát biển,

kiểm ngư, của các ngư dân và nhân dân ta phản ánh tình cảm sâu sắc và các

hoạt động phong phú, thiết thực của nhân dân và báo chí Thủ đô với điển đảo

quê hương.

“Chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc” là cuốn sách của nhiều

tác giả, do Thiếu tá, nhà báo Trần Hoàng Tiến – phóng viên Báo Quân đội

nhân dân biên soạn, thông qua các câu chuyện sinh động đã khắc họa về con

người, sự kiện gắn liền với những phần lãnh hải cơ bản thiêng liêng của Tổ

quốc từ thuở hồng hoang cha ông ta xuống biển” đến ngày nay. Trong đó nổi

10

bật là hình ảnh người chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam vững vàng nơi

đầu sóng ngọn gió, ngày đêm canh giữ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của

Tổ Quốc; cùng với đó là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của đất liền với

quân dân trên các đảo; là niềm tin yêu son sắt qua những câu chuyện cảm

động về tình quân dân cá nước...

Nhằm giới thiệu về chủ quyền biển đảo tới đông đảo tầng lớp thanh

niên tri thức của thế hệ ngày nay, Ban tuyên giáo trung ương cũng đã công bố

tác phẩm “100 câu hỏi – đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam”. Cuốn

sách gồm ba nội dung chính , đó là: Hỏi – đáp về vị trí, vai trò và tiềm năng

của biển, đảo Việt Nam. Hỏi – đáp về các vấn đề liên quan đến các quyền và

bảo vệ các quyền của Việt Nam trên biển Đông. Hỏi – đáp về xây dựng và

phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển, đảo Việt Nam. Cuốn sách là cẩm

nang cần thiết, giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam nói chung, học sinh và sinh viên

Việt Nam nói riêng có cái nhìn tổng quan về biển, đảo Việt Nam, từng bước

nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc.

Tiếp theo là cuốn “Việt Nam và tranh chấp Biển Đông của tập thể

nhiều tác giả do nhà xuất bản tri thức ấn hành. Cuốn sách tập hợp nhiều bài

viết xung quanh vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, sự tranh chấp

lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc là tranh chấp chủ quyền trên hai quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà hiện tại chưa có giải pháp nào hợp lý. Thông

qua cuốn sách này, bạn đọc sẽ biết thêm những thông tin mới nhất về tình

hình tranh chấp trên Biển Đông thông qua một tập hợp các bài viết của các

thành viên trong Quỹ Nghiên cứu cứa Biển Đông, trong đó nhấn mạnh đến

chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, tham vọng của Trung Quốc và các

quốc gia chung Biển Đông, đồng thời đề xuất một số giải pháp giải quyết

11

tranh chấp.

2.2. Các công trình nghiên cứu về giáo dục học và phƣơng pháp dạy

học

Các giáo trình nghiên cứu về phương pháp dạy học lịch sử như:

“Phương pháp dạy học lịch sử tập 1 do Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh

Đình Tùng và Nguyễn Thị Côi (2010) đã đề cập đến những vấn đề về hệ

thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT, qua đó cùng với việc

dạy học lịch sử, giáo viên cần phải phát triển năng lực nhận thức và thực hành

cho học sinh trong học tập lịch sử thông qua đó cũng hình thành cho học sinh

tư tưởng, tình cảm cách mạng .

Bên cạnh đó là cuốn “Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy học sinh làm

trung tâm” của Hội khoa học lịch sử Việt Nam do GS Phan Ngọc Liên chủ

biên đã đề cập đến phương hướng, biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học

lịch sử ở trường phổ thông hiện nay trong đó nhấn mạnh tới vấn đề phát huy

năng lực tư duy của học sinh thông qua những công cụ hỗ trợ của giáo viên.

Cuốn “Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập

theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Lịch sử cấp THCS” của Bộ

Giáo dục và Đào tạo đã nêu nên việc đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học,

kiểm tra đánh giá trong giáo dục trung học cơ sở theo định hướng tiếp cận

năng lực. Các tác giả cũng đã xác định được các năng lực chung cốt lõi của

học sinh và năng lực chuyên biệt của môn lịch sử, ngoài ra cũng chỉ ra các

phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng

lực môn lịch sử.

Cuối cùng là cuốn “Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết

quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Lịch sử cấp

THCS” của Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu nên việc đổi mới đồng bộ phương

pháp dạy học, kiểm tra đánh giá trong giáo dục trung học cơ sở theo định

hướng tiếp cận năng lực. Tác phẩm cũng đã xác định được các năng lực

12

chung cốt lõi của học sinh và năng lực chuyên biệt của môn lịch sử, ngoài ra

cũng chỉ ra các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo định hướng

phát triển năng lực môn lịch sử

2.3. Các bài báo cáo khoa học, bài biết cho tạp chí và luận văn

Trước hết phải kể đến là bài viết có tựa đề “Giáo dục ý thức chủ quyền

biển đảo cho học sinh trung học phổ thông qua môn lịch sử” của tác giả Đặng

Hoàng Sang in trên kỷ yếu hội thảo khoa học năm 2015 của trường Đại học

Cần Thơ. Bài viết đã chỉ ra được vấn đề chủ quyền biển đảo trong nhà trường

phổ thông chưa được chú trọng đề cập theo hướng tương xứng với tầm quan

trọng của nó. Việc chưa đưa nội dung giáo dục chủ quyền biển đảo vào

chương trình sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông để giảng dạy rất cần

một định hướng hoàn thiện và mang tính lâu dài.

Thạc sĩ Nguyễn Đức Toàn đã có bài viết với tiêu đề “Sử dụng tư liệu

gốc để giáo dục chủ quyền biển, đảo cho học sinh ở trường trung học phổ

thông (qua chương trình chuẩn sách giáo khoa lịch sử 10)” trong kỷ yếu hội

thảo khoa học năm 2015 của trường Đại học Cần Thơ. Tác giả đã nêu ra được

những khái niệm cơ bản về chủ quyền biển đảo và tư liệu gốc. Qua đó cũng

đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu gốc trong việc giáo dục chủ quyền

biển, đảo ở trường THPT qua bài học nội khóa. Cuối cùng đi đến khẳng định:

Bên cạnh sách giáo khoa, tư liệu lịch sử nói chung và tư liệu gốc nói riêng

góp phần quan trọng vào việc khôi phục và tái hiện hình ảnh của quá khứ. Bởi

tư liệu gốc chính là hiện thân của quá khứ để HS có thể dựa vào đó nhìn nhận,

đánh giá sự phát triển của lịch sử.

Ngoài các bài viết trên báo, tạp chí còn có luận văn nghiên cứu về vấn

đề chủ quyền biển, đảo như: Luận văn thạc sĩ của tác giả Đậu Thị Hải Vân

với đề tài “Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh

trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10, trung học phổ thông (chương trình

13

chuẩn) năm 2012. Hay luận văn của tác giả Đặng Thị Huế với đề tài “Sử dụng

tư liệu về chủ quyền biển đảo Tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung

học phổ thông” năm 2015.

Do đó, trên cơ sở thành tựu của các công trình nghiên cứu, được sự

hướng dẫn và giúp đỡ của thầy PGS.TS Vũ Quang Hiển, chúng tôi đã tiến

hành nghiên cứu, sưu tầm, khai thác tài liệu để tổ chức dạy học lịch sử nhằm

giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh lớp 12 trung

học phổ thông.

3. Đối tƣợng nghiên cứu

Nội dung và biện pháp giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12, trung học phổ thông.

4. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung

Đề tài tập trung nghiên cứu việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo

của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12 trung học phổ thông.

Về hình thức: Bài dạy nội khóa và ngoại khóa

Về địa bàn khảo sát, thực nghiệm: Tiến hành khảo sát tại trường THPT

Trần Hưng Đạo, Hà Đông – Hà Nội.

5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Mục đích

Góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của

Tổ quốc cho học sinh Trung học phổ thông trong dạy học lịch sử nói riêng mà

còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục Lịch sử ở trường phổ thông nói

chung.

5.2. Nhiệm vụ

Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc và việc giáo dục ý thức cho học sinh về chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc.

Nghiên cứu thực trạng việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của

14

Tổ quốc cho học sinh trung học phổ thông trong dạy học lịch sử.

Xác định vị trí, vai trò, mục tiêu, nội dung của chương trình Lịch sử lớp

12 (chương trình chuẩn), qua đó xác định nội dung kiến thức giáo dục ý thức

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trung học phổ thông trong dạy

học lịch sử.

Đề xuất một số biện pháp, hình thức giáo dục ý thức chủ quyền biển,

đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử.

Tiến hành khảo sát, thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi

của đề tài nghiên cứu.

6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

6.1. Cơ sở phƣơng pháp luận

Dựa trên các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về Giáo dục

và Đào tạo, những thành tựu nghiên cứu mới về lí luận giáo dục, tâm lý học,

phương pháp dạy học lịch sử của các nhà nghiên cứu khoa học , giáo dục lịch

sử, nghiên cứu lịch sử.

6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết được sử dụng để

Nghiên cứu các nghị quyết của Đảng, Nhà nước, các văn bản của bộ

GD&ĐT, của các cấp ngành có liên quan đến đề tài. Các công trình của các

tài liệu từ các nguồn: sách, báo, tạp chí, internet…về các vấn đề có liên quan

đến giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS.

6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Quan sát, điều tra thu thập thông tin về vấn đề giáo dục ý thức chủ

quyền biển, đảo cho học sinh Trung học phổ thông trong dạy học lịch sử: điều

tra bằng phiếu đối với giáo viên và học sinh ở trường Trung học phổ thông

Trần Hưng Đạo, Hà Đông - Hà Nội.

15

- Sưu tầm các tàu liệu có liên quan đến đề tài

- Thực nghiệm sư phạm các biện pháp và hình thức giáo dục ý thức chủ

quyền biên, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 để

minh chứng cho tính đúng đắn, khả thi của các biện pháp sư phạm đã đề ra.

7. Giả thuyết khoa học

Trong quá trình dạy học lịch sử lớp 12, việc giáo dục ý thức chủ quyền

biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh đảm bảo tính khoa học, thực tiễn và vận

dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học lịch sử, phù hợp với điều

kiện thực tế tại các trường THPT thì sẽ nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.

8. Ý nghĩa của luận văn

8.1. Ý nghĩa khoa học

Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần làm phong phú về mặt lí luận,

khẳng định vai trò, ý nghĩa của giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc cho học sinh Trung học phổ thông trong dạy học Lịch sử. Đồng thời, đề

tài đề xuất những phương pháp tổ chức các hoạt động dạy học lịch sử cho học

sinh lớp 12 nhằm giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiệu quả,

nâng cao chất lượng dạy và học.

8.2. Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo đối với các đồng nghiệp,

đặc biệt đối với giáo viên dạy bộ môn Lịch sử ở các trường trung học phổ

thông nói chung, ở Hà Nội nói riêng.

9. Cấu trúc của luận văn

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và

Phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 2 chương:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền

biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 trung học

phổ thông.

Chƣơng 2: Các biện pháp giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

16

cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 trung học phổ thông.

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ý THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO

CỦA TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Một số khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm “ý thức” và “giáo dục ý thức”

Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác – Lênin là một phạm trù song

song với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật

chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có

mối quan hệ hữu cơ với vật chất.

Giáo dục là khái niệm cơ bản, quan trọng nhất của giáo dục học.

Về bản chất: giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh

nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người.

Về hoạt động: giáo dục là quá trình tác động đến các đối tượng giáo

dục để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách.

Về mặt phạm vi: giáo dục được hiểu là quá trình sư phạm. Quá trình sư

phạm là quá trình tác động có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp

khoa học của các nhà sư phạm trong nhà trường tới học sinh nhằm giúp học

sinh nhận thức, phát triển trí tuệ và hình thành những phẩm chất nhân

cách.[16.tr.12]

Như vậy, “giáo dục ý thức là sự phản ánh của hiện thực khách quan,

hình thức thông qua quá trình giáo dục ý thức con người. Như ý thức về chủ

quyền lãnh thổ Tổ quốc, ý thức về chủ quyền biển đảo Tổ Quốc. Giáo dục ý

thức chính là quá trình giáo dục làm khơi dậy sự phản ánh của hiện thực

17

khách quan cho con người” [34.tr. 38-43].

1.1.1.2. Khái niệm “chủ quyền biển, đảo”

Chủ quyền là “Quyền cao nhất của một dân tộc, một quốc gia độc lập,

tự mình làm chủ đất đai, tài sản, tự mình quyết định vận mệnh của mình.

Những nội dung này được khẳng định trong pháp luật mỗi nước, trong văn

bản pháp lí quốc tế, là nguyên tắc cơ bản cần tuân theo”[15]

Theo hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập có chủ

quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng

biển và vùng trời”.

Khái niệm chủ quyền biển, đảo nằm trong khái niệm chủ quyền lãnh

thổ quốc gia.

Vì vậy, “Chủ quyền lãnh thổ quốc gia” là quyền tối cao tuyệt đối, hoàn

toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình.

Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền quyết định mọi vấn đề

của quốc gia đối với lãnh thổ, đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

Mỗi quốc gia có quyền đặt ra quy chế pháp lí đối với lãnh thổ. Với tư cách là

chủ sở hữu, Nhà nước có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với lãnh

thổ thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước như hoạt động lập pháp,

hành pháp và tư pháp.

Một số khái niệm nằm trong khái niệm chủ quyền biển, đảo tổ quốc.

Nội thủy: “Theo quy định của khoản 1 Điều 8 Công ước Luật Biển

1982, nội thủy là “các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở, dùng để tính

chiều rộng lãnh hải”. Nội thủy là một bộ phận lãnh thổ của quốc gia ven biển,

có quy chế pháp lý như vùng nước hồ, ao, sông ngòi trong lục địa và thuộc

chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối của quốc gia ven biển”. [1.tr.87]

Lãnh hải: “là vùng biển nằm giữa nội thủy và vùng biển thuộc quyền

chủ quyền (vùng tiếp giáp) và có chiều rộng là ≤ 12 hải lý tính từ đường cơ sở.

Ranh giới bên trong của lãnh hải là đường cơ sở của quốc gia ven biển, còn

18

ranh giới ngoài của lãnh hải là đường song song với đường cơ sở và có chiều

rộng bằng chiều rộng lãnh hải của quốc gia này đã được chính thức công bố.

Đây là đường biên giới quốc gia trên biển, có ý nghĩa giới hạn chủ quyền của

quốc gia ven biển”.[1.tr.101]

Lãnh hải rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các điểm

nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ của Việt

Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ

và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và

lòng đất dưới đáy biển của lãnh hãi.

Vùng tiếp giáp lãnh hải: là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt

Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng

biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt

Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự

kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, nhằm bảo vệ an

ninh, bảo vệ các quyền lợi về hải quan, thuế khóa, đảm bảo sự tôn trọng các

quy định về y tế, về di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.

Vùng đặc quyền kinh tế: là một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường

cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và

quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng

nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế

Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ

cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế; có thẩm quyền riêng

biệt về nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thẩm quyền bảo vệ môi trường,

chống ô nhiễm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Thềm lục địa: bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần

kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam

19

cho đến bờ ngoài của rìa lục địa. Nếu nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách

đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý

thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về thăm dò,

khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa

Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài

nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm lục địa Việt Nam.

Bảo vệ “chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc” chính là bảo vệ sự toàn vẹn

lãnh thổ, bảo vệ những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc.

Như vậy, “giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo” là giáo dục ý thức về

chủ quyền biển đảo Tổ Quốc và giáo dục cho các em ý thức cần phải bảo vệ

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong thời đại hiện nay.

1.1.2. Mục tiêu của môn Lịch sử ở trƣờng Phổ thông

Mục tiêu của chương trình Lịch sử THPT nói chung và của chương

trình Lịch sử lớp 12 nói riêng được xác định dựa trên mục tiêu của giáo dục

phổ thông đã được quy định trong luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam (2005). Theo đó, khoản 4, điều 27 quy định: “Giáo dục trung

học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của

giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết

thông thường về kĩ thật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá

nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp,

học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động…”

Môn Lịch sử có ý nghĩa quan trọng góp phần hoàn thiện nhân cách cá

nhân, do vậy, cũng như các nước trên thế giới, Việt Nam coi Lịch sử là một

trong những môn học cơ bản trong nhà trường phổ thông. Mục tiêu chung

của môn học này là nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần

thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Trên cơ sở đó, giúp hình thành thế

giơi quan, nhân sinh quan khoa học cho các em; giáo dục lòng yêu quê hương,

đất nước, truyền thống dân tộc, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;

20

hình thành các năng lực tư duy hành động, có thái độ ứng xử đúng đắn trong

đời sống xã hội, có hoài bão góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc.

Cụ thể mục tiêu của môn Lịch sử THPT được xác định là:

Về kiến thức: Cung cấp những kiến thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử

phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã hội loài người trên cơ sở củng cố,

phát triển nội dung kiến thức lịch sử đã học ở bậc THCS.

Khác với hệ thống tri thức ở bậc THCS, ở bậc THPT, kiến thức lịch sử

Việt Nam vẫn được ưu tiên dành nhiều thời lượng hơn nhưng vẫn đảm bảo

được hệ thống tri thức lịch sử thế giới (từ thời công xã nguyên thủy đến thời

hiện đại) để các em học sinh có thể hình dung một cách toàn diện, sâu sắc hơn

về lịch sử quốc tế và lịch sử dân tộc.

Cụ thể, bộ môn Lịch sử ở trường THPT có nhiệm vụ cung cấp cho học

sinh những kiến thức cơ bản, hiện đại của khoa học Lịch sử, bao gồm: các sự

kiện lịch sử, các khái niệm, thuật ngữ, niên đại, tên người, tên đất,…của lịch

sử dâ tộc và lịch sử thế giới; những quy luật lịch sử, các quan điểm lý luận sơ

giản để nhận thức lịch sử, hình thành nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn

cho các em.

Về kĩ năng: rèn luyện năng lực tư duy và các năng lực thực hành cho

học sinh theo hướng tăng các nội dung khái quát hóa, nội dung suy luận giúp

học sinh hiểu sâu sắc hơn lịch sử. Dạy học lịch sử ở trường phổ thông phải

rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cần thiết cho học tập Lịch sử, từ việc có

quan điểm lịch sử như xem xét sự kiện và nhân vật, làm việc với sách giáo

khoa và các nguồn sử liệu, biết phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát…, có

năng lực tự học, phát hiện, đề xuất, giải quyết vấn đề, học sinh nâng cao hơn

năng lực tư duy và thực hành. Vận dụng các kiến thức lịch sử đã học vào cuộc

sống hiện đại.

Các nội dung được thiết kế cho chương trình Lịch sử THPT đảm bảo

21

tính phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, sự phát triển trí tuệ của học sinh ở giai

đoạn này. Các câu hỏi không chỉ dừng lại ở việc liệt kê, trình bày mà đi đến

yêu cầu phân tích, đánh giá, đưa ra nhận định về một sự kiện, hiện tượng lịch

sử. hơn nữa, trong bối cảnh đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học theo

hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thì học sinh sẽ

làm việc nhiều hơn là giáo viên trình bay bài giảng. Như vậy, sau khi hoàn

thành chương trình học, học sinh sẽ được phát triển nhiều kĩ năng cần thiết

cho việc tự học, tự nghiên cứu và nhiều kĩ năng khác phục vụ cho cuộc sống

sau này.

Về thái độ: Giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lý tưởng độc lập

dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các

dân tộc đấu tranh cho độc lập, tự do, văn mình, tiến bộ xã hội, hòa bình, dân

chủ. Thông qua kiến thức lịch sử giáo dục cho các em lòng biết ơn, noi gương

theo các thế hệ cha anh, phấn đấu trong học tập và lao động có ý thức làm

nghĩa vụ công dân, nghĩa vụ quốc tế…Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tinh

thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc đấu tranh cho độc lập dân

tộc, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội, hòa bình, dân chủ; hình thành những

phẩm chất cần thiết trong cuộc sống cộng đồng….

Như vậy, mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường trung học phổ thông là

cung cấp kiến thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử phát triển hợp quy luật của

dân tộc và xã hội loài người, rèn kĩ năng tư duy và thực hành qua học tập bộ

môn. Trên cơ sở đó, giáo dục thái độ, tình cảm đúng đắn với các sự kiện, nhân

vật lịch sử, bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lí tưởng độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội.

1.1.3. Những yêu cầu cơ bản của vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền biển,

đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông

1.1.3.1. Xác định rõ mục tiêu

Bất cứ hoạt động giáo dục nào cũng phải có những mục tiêu nhất định

để làm định hướng cho hoạt động giáo dục được thể hiện có hiệu quả. Trước

22

khi thực hiện tổ chức dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc cho học sinh, giáo viên cũng phải xác định rõ mục tiêu hướng đến của

công việc đó là gì. Từ đó, xác định phương pháp, hình thức, nội dung để tổ

chức dạy học cho phù hợp, hiệu quả.

Việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học

lịch sử ở trường THPT là thực sự cần thiết. Qua các biện pháp giáo dục ý thức

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử sẽ trang bị cho học

sinh những kiến thức chính xác, cụ thể về chủ quyền quyền biển, đảo của Tổ

quốc, qua đó giúp các em nhận thức sâu sắc vai trò, giá trị của biển, đảo đối

với nhiệm vụ phát triển đất nước trong lịch sử cũng như trong hiện tại và

tương lai. Nắm vững kiến thức về chủ quyền biển, đảo là cơ sở để học sinh tự

hào về truyền thống yêu nước, bảo vệ chủ quyền đất nước của nhân dân ta,

học sinh ý thức được trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ sự toàn vẹn các

lãnh thổ Tổ quốc.

1.1.3.2. Xác định đúng kiến thức cơ bản

Thể hiện ở hai yếu tố: nội dung và mức độ kiến thức cần cung cấp.

Kiến thức cơ bản là những cái then chốt cần phải có, là cái có ý nghĩa nhất, có

tác dụng nhất đối với sự phát triển nhân cách của học sinh. Do vậy, kiến thức

cơ bản thường là những kiến thức đã được đề cập trong sách giáo khoa nhưng

những gì phù hợp, cần thiết cho việc giáo dục học sinh thì cũng cần đưa vào

bài học. Việc dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc,

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước cũng là những kiến thức như vậy.

Để làm rõ điều này, giáo viên phải xác định rõ mục tiêu và những ưu

tiên khi tổ chức dạy học. Việc xác định đúng những kiến thức trong bài sẽ

giúp bài giảng được cô đọng, súc tích và nâng cao chất lượng bài giảng. Bám

sát đặc điểm đối tượng học sinh, những yêu cầu và nội dung cơ bản được đề

cập trong chương trình môn học sẽ giúp giáo viên xác định đúng cần dạy cái

gì, từ đó biết được phải dạy như thế nào. Nhờ vậy, giáo viên đưa học sinh đến

23

được mục tiêu đã đặt ra

1.1.3.3. Phương pháp tổ chức dạy học phải phát huy tính chủ động tích cực

của học sinh

“Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực chính là phát

huy được tính tích cực nhận thức của học sinh. Nói cách khác là “Dạy học lấy

hoạt động của người học làm trung tâm”[5.tr. 29].

Trong dạy và học tích cực, dưới sự thiết kế, tổ chức, định hướng của

giáo viên, người học được tham gia vào quá trình hoạt động học tập từ khâu

phát hiện vấn đề, tìm giải pháp cho vấn đề đặt ra, thực hiện các giải pháp và

rút ra kết luận. Quá trình đó giúp người học lĩnh hội nội dung học tập đồng

thời phát triển năng lực sáng tạo.

Trong dạy học tích cực, học sinh là chủ thể hoạt động, gió viên đóng

vai trò người tổ chức hướng dẫn, đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng,

có kĩ năng sư phạm, đặc biệt phải có tình cảm nghề nghiệp thì việc đổi mới

phương pháp dạy học theo hướng tích cực mới đạt hiệu quả.

Phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học Lịch sử nói

riêng luôn là lĩnh vực đòi hỏi sự sáng tạo nhiều nhất. Trong điều kiện lịch sử

mới, nhất là sự phát triển của khoa học hiện đại, đặc biệt là công nghệ - thông

tin, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đòi hỏi và tạo điều

kiện cho sự đổi mới công nghệ và phương pháp dạy học. Xu thế dạy học hiện

nay đó là thực hiện quan điểm “lấy người học làm trung tâm”. Theo đó, toàn

bộ quá trình dạy học phải hướng vào người học, phương pháp dạy học phải

dựa trên đặc điểm của người học, để khai thác tối đa tiềm năng trí tuệ, tính

tích cực và sáng tạo của học sinh và tập thể học sinh với mục tiêu là làm phát

triển tối đa năng lực của người học; rèn luyện cho học sinh thói quen, năng

lực tự học, tự nghiên cứu để có thể học thường xuyên và suốt đời.

Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích

cực chủ động sáng tạo của HS, tăng cường rèn luyện năng lực tự học của HS.

Quan điểm và định hướng đổi mới phương pháp dạy học các môn, trong đó

24

có môn Lịch sử, cần được tuân thủ nghiêm túc, sáng tạo đối với mọi GV. Đối

với GV lịch sử cần phải thực hiện tốt đi đầu trong việc thay đổi lối dạy học

truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực, HS

phải được hướng dẫn tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khái quát và xử

lý thông tin lịch sử, đặc biệt chú ý đến rèn luyện năng lực tự học.

1.1.3.4. Sử dụng đa dạng các hình thức tổ chức dạy học

Tùy thuộc vào điều kiện, mục tiêu và chương trình giáo dục, giáo viên

có thể lựa chọn nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Mỗi hình thức tổ

chức dạy học lại có những ưu và nhược điểm riêng.

Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử

Phương pháp trực quan là hệ thống cách thức, biện pháp giáo viên sử

dụng đồ dùng hoặc phương tiện trực quan nhằm huy động các giác quan của

học sinh tham gia vào quá trình nhận thức, làm cho việc tiếp thu kiến thức trở

nên dễ dàng và rèn luyện các kĩ năng cho học sinh.

Đồ dùng trực quan được chia thành 3 nhóm chính: nhóm đồ dùng trực

quan hiện vật, đồ dùng trực quan tạo hình và đồ dùng trực quan quy ước.

Nhóm đồ dùng trực quan hiện vật gồm: những di tích lịch sử, cách

mạng, những di vật khảo cổ và di vật của các thời kì lịch sử. Đây là một loại

tài liệu gốc rất có giá trị, được lưu giữ trong các trung tâm lưu trữ, viện bảo

tàng hoặc ở tại các di tích. Vì vậy trong điều kiện thuận lợi giáo viên nên tổ

chức dạy học lịch sử ở các địa điểm trên.

Nhóm đồ dùng trực quan tạo hình gồm: mô hình, sa bàn và các loại đồ

phục chế khác; Hình vẽ, tranh ảnh, phim tư liệu lịch sử lấy chủ đề về lịch sử.

Các loại đồ dùng trực quan tạo hình có khả năng khôi phục lại hình ảnh

của con người, đồ vật, sự kiện lịch sử một cách cụ thể, sinh động và khá xác

thực.

Nhóm đồ dùng trực quan quy ước gồm: Bản đồ lịch sử, niên biểu, đồ thị,

25

sơ đồ...

- Bảng viết là phương tiện được sử dụng phổ biến nhất. Bảng viết gồm

có hai loại chủ yếu: bảng viết phấn (màu đen hoặc xanh), bảng viết bằng bút

dạ.

- Các phương tiện kĩ thuật gồm: máy chiếu hắt (Overhead), rađiô, máy

ghi âm, video, tivi, máy tính...

Dạy học nêu vấn đề (dạy học nêu và giải quyết vấn đề).

Vấn đề này được nhiều nhà giáo dục học, giáo dục các bộ môn quan

tâm nghiên cứu. Dựa vào ý kiến của các nhà khoa học chúng ta có thể rút ra

những điểm chủ yếu về dạy học nêu vấn đề.

Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp cụ thể mà là các tư

tưởng, nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành nhiều phương pháp dạy học. Nó

được vận dụng trong tất cả các khâu của giờ học và là một kiểu dạy học dựa

trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách

sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Bản chất của nó là tạo

nên các tình huống có vấn đề và điều khiển người học giải quyết những vấn

đề học tập đó. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho người học lĩnh hội vững chắc kiến

thức mới, kỹ năng mới hoặc thái độ tích cực.

Dạy học nêu vấn đề bao gồm các thành tố, trình bày nêu vấn đề, tình

huống có vấn đề và bài tập nêu vấn đề (bài tập nhận thức).

Tình huống có vấn đề hay tình huống học tập là trạng thái tâm lý xuất

hiện khi con người gặp phải tình huống khó khăn giải quyết bằng tri thức đã

có, bằng cách thức đã biết không thể được mà đòi hỏi phải lĩnh hội tri thức

mới và cách thức hành động mới. Có những loại tình huống có vấn đề sau:

Tình huống nghịch lý là tình huống vấn đề xuất hiện đứng trước một sự

lựa chọn rất khó khăn giữa hai hay nhiều phương án giải quyết.

Tình huống bác bỏ là tình huống vấn đề đòi hỏi phải bác bỏ một luận

điểm kết luận sai lầm. Để đạt được điều đó người học phải tìm ra được chỗ

yếu, chỗ sai, chỗ thiếu chính xác của luận điểm hoặc kêt luận đó và chứng

26

minh tính chất sai lầm của chúng.

Tình huống tại sao là tình huống phổ biến trong nghiên cứu khoa học

và trong dạy học.

Các tình huống này đòi hỏi người học phải vận dụng kiến thức và kĩ

năng vốn có để giải quyết vấn đề đặt ra. Người học phải tìm ra được các mối

liên hệ đặc biệt là mối liên hệ nhân quả. Tìm ra được nguyên nhân dẫn đén

kết quả đó.

Dạy học theo dự án: là một hình thức (phương pháp nghĩa rộng) dạy

học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết

hợp giữa lí thuyết và thực hành, thực tiễn. Nhiệm vụ này được người học thực

hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ xác định mục đích,

lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, thu thập thông tin, phân tích dữ liệu,

kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả…Làm việc nhóm là dạng

tổ chức hoạt động chủ yếu của dạy học dự án.

Dạy học theo dự án có các đặc điểm: định hướng thực tiễn, định hướng

HS (hối thúc hành động), định hướng sản phẩm.

Có thể tổ chức dạy học theo dự án với trình tự sau:

+ Lựa chọn đề tài và xác định mục đích của dự án. Đây là công đoạn

đầu tiên rất quan trọng. Trong giai đoạn này, giáo viên và học sinh cùng nhau

đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án.

+ Xây dựng kế hoạch thực hiện. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học

sinh xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, trong đó cần xác định những công

việc cần làn, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và

phân công công việc trong nhóm.

+ Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện kế hoạch đề ra, trong đó

học sinh cần kết hợp các hoạt động trí tuệ với hoạt động thực tiễn, thực hành

như thu thập thông tin qua báo chí, Internet, thư viện, thực nghiệm, quan sát;

27

xử lí thông tin, thảo luận trong nhóm, trao đổi, xin ý kiến giáo viên.

+ Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: học sinh cần tập hợp tất cả

các kết quả thành một sản phẩm cuối cùng. Kết quả dự án có thể trình bày

bằng nhiều hình thức khác nhau như báo cáo, thu hoạch, đóng kịch…

+ Đánh giá dự án

Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả đạt được,

từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm.

Dạy học theo dự án góp phần gắn lí thuyết với thực tiễn, tư duy và hành

động, nhà trường và xã hội, kích thích động cơ và hứng thú của người học.

Đồng thời dạy học theo dự án còn góp phần phát huy tính tích cực, tính trách

nhiệm sáng tạo, bền bỉ kiên nhẫn trong công việc của học sinh. Song để vận

dụng dạy học theo dự án trong môn học GV cần lựa chọn nội dung phù hợp

và hướng dẫn học sinh chuẩn bị chu đáo [6.tr.52].

1.1.3.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động và tổ chức rút kinh nghiệm

Trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay

“đổi mới kiểm tra, đánh giá được xác định là khâu đột phá trong đổi mới giáo

dục”. Thực tế, từ trước đến nay trong mục tiêu của mỗi bài học đều bao gồm

đầy đủ yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ, nhưng trong quá trình dạy - học

giáo viên chỉ chú trọng mục tiêu về kiến thức vì thi cử chủ yếu thiên về kiểm

tra kiến thức sách vở, hàn lâm, không chú ý đến kiểm tra, đánh giá năng lực

của học sinh, không kiểm tra xem các em đã đạt được kĩ năng gì trong quá

trình học tập cũng như năng lực ứng dụng những kiến thức đã học vào thực

tiễn cuộc sống ra sao. Học sinh cũng không có cơ hội được bày tỏ chính kiến,

quan điểm, tình cảm cũng như thái độ của mình trước những vấn đề nảy sinh

trong học tập cũng như trong cuộc sống thực tiễn. Cách kiểm tra, đánh giá

như vậy kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến cách dạy, cách học và chất lượng

giáo dục. Vì vậy, phương án đổi mới kiểm tra, đánh giá chú trọng đến năng

lực của học sinh triển khai sẽ là bước đột phá để khắc phục những hạn chế

28

này. Đồng thời, sẽ giúp cho việc dạy học gắn với cuộc sống thực tiễn hơn. Xu

hướng đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh tập trung vào

các hướng sau:

Một là chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa

học (đánh giá tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các

loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng

chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá

trình);

Hai là chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kỹ năng sang đánh giá

năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ,

hiểu kiến thức sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của

thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy

sáng tạo.

Ba là chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình

dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như

là một phương pháp dạy học.

Bốn là tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh

giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ

tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào

xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.

Với những xu hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt

động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay

cần phải:

- Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận

năng lực) từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ

bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực)

29

của học sinh của cấp học.

- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh

giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và

đánh giá của gia đình, cộng đồng.

- Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự

luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.

- Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng,

trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp

thời việc dạy và học.

Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên

được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:

- Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so

sánh năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ

năng (năng lực) môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp

thời hoạt động dạy và hoạt động học.

- Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản

là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và

ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học.

Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá

khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành.

Kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Hiện nay ở Việt

Nam có xu hướng chọn hình thức trắc nghiệm khách quan cho các kỳ thi tốt

nghiệp hay thi tuyển đại học. Trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm

riêng cho các kỳ thi này. Tuy nhiên trong đào tạo thì không được lạm dụng

hình thức này. Vì nhược điểm cơ bản của trắc nghiệm khách quan là khó đánh

giá được khả năng sáng tạo cũng như năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp

1.1.4. Nội dung giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy

học Lịch sử ở trƣờng phổ thông

Nhận thức được tầm quan trọng biển, đảo của Tổ quốc đối với lịch sử

30

dân tộc và thời đại ngày nay, với chức năng và nhiệm vụ giáo dục của nhà

trường phổ thông nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng góp phần quan trọng

trong việc giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo cho học sinh với những nội

dung chủ yếu sau:

1.1.4.1 Bằng chứng lịch sử, cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền biển, đảo

của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn 1956 –

1975

Biển Đông đối với Việt Nam có một tầm quan trọng về an ninh quốc

phòng, phát triển kinh tế và vận tải biển. Khu vực Biển Đông và các hải đảo

bao quanh bờ biển Việt Nam chạy dài từ Móng Cái đến tận mũi Cà Mau và

đến Hà Tiên trong khu vực vịnh Thái Lan tạo thành một vành đai bảo vệ cho

dải đất Việt Nam cong cong hình chữ S, mà có người cho rằng cứ như thể đất

mẹ Việt Nam phải oằn lưng chịu đựng gánh nặng suốt nhiều ngàn năm của

người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc.

Xét riêng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có nhiều

bằng chứng lịch sử chứng minh việc thực thi chủ quyền liên tục nhiều thế kỉ

trong quá khứ. Tuy nhiên, Trung Quốc lại viện nhiều lý lẽ, tiến tới thực hiện

chiến lược hải dương của họ, nhằm thỏa mãn tham vọng chiếm phần lớn Biển

Đông để khai thác tài nguyên và thao diễn quân sự. Tham vọng của Trung

Quốc đe dọa đến an ninh không những Việt Nam mà còn của các nước khác

trong vùng. Những lý lẽ hiển nhiên khẳng định chủ quyền của Việt Nam, tuy

vậy, vẫn còn chưa được quảng bá rộng khắp của nhân dân Việt Nam và nhân

dân thế giới so với tốc độ và khối lượng những lý lẽ ngụy biện mà các giới ở

Trung Quốc vẫn đang từng ngày từng giờ đưa ra thế giới.

Từ khi kí với triều đình nhà Nguyễn Hiệp ước 6.6.1884, Pháp đại diện

quyền lợi của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại cũng như việc bảo vệ chủ

quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trong khuôn khổ sự cam kết chung

đó, Pháp tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo

31

Hoàng Sa và Trường Sa.

Các pháp hạm của Pháp thường xuyên tiến hành tuần tiễu trong vùng

Biển Đông, kể cả Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1899 toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đề nghị với Paris xây

tại đảo Hoàng Sa trong quần đảo Hoàng Sa một cây đèn biển để hướng dẫn

các tàu biển qua lại vùng này, nhưng kế hoạch không thực hiện được vì thiếu

ngân sách.

Từ năm 1920, Viện Hải dương học Nha Trang cử tàu De Lanessan ra

khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa về hải dương học. Ngoài A.Krempf, Giám đốc

Viện Hải dương học, còn có các nhà khoa học khác như Delacour,

Jabouille...nghiên cứu về địa chất, về sinh vật v.v...

Cũng trong năm 1925, ngày 3 tháng 3, Thượng thư Bộ Binh của Triều

đình Huế Thân Trọng Huề lại khẳng định Hoàng Sa là lãnh thổ Việt Nam.

Năm 1927 tàu De Lanessan ra khảo sát khoa học quần đảo Trường Sa.

Năm 1929 phái đoàn Perrier – De Rouville đề nghị đặt 4 cây đèn biển ở

4 góc của quần đảo Hoàng Sa.

Từ 13.4.1930, đến 12.4.1993, chính phủ Pháp đã cử các đơn vị hải quân

lần lượt ra đóng các đảo chính trong quần đảo Trường Sa: Trường Sa, An

Bang, Itu Aba, nhóm Song Tử, Loại Ta và Thị Tứ.

Năm 1937, nhà đương cục Pháp cử kĩ sư công chính Gauthier ra quần

đảo Hoàng Sa nghiên cứu chỗ xây dựng đèn biển, lập bãi thủy phi cơ.

Ngày 29.3.1938, vua Bảo Đại ký Dụ tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa

hạt tỉnh Nam Nghĩa đặt vào tỉnh Thừa Thiên.

Ngày 15.6.1938 toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký Nghị định

thành lập một đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa

Thiên.

Năm 1938, Pháp dựng bia chủ quyền, xây dựng xong đèn biển, trạm

khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Hoàng Sa, trong quần đảo Hoàng Sa, xây

dựng trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Itu Aba trong quần đảo Trường

32

Sa.

Suốt trong thời gian đại diện Việt Nam về mặt đối ngoại, Pháp luôn

luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa và phản kháng những hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ

quyền của Việt Nam ở hai quần đảo đó như:

Ngày 4.12.1931 và ngày 24.4.1932, Pháp phản kháng chính phủ Trung

Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai

thác phân chim trên quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 24.7.1933, Pháp thông báo cho Nhật việc Pháp đưa quân ra đóng

các đảo chính trong quần đảo Trường Sa.

Ngày 4.4.1939, Pháp phản kháng Nhật đặt một số đảo trong quần đảo

Trường Sa thuộc quyền tài phán của Nhật. [22.tr 26-30]

Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, mặc dù Việt

Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2/9/1945, không còn ràng buộc vào hiệp Định

Patenotre 1884, song Pháp cho rằng theo Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao

vẫn thuộc Pháp, nên Pháp có nhiệm vụ thực thi quyền đại diện Việt Nam

trong vấn đề chống lại mọi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo

Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa

Theo Hiệp định ngày 8/3/1949, Pháp dựng nên chính quyền thân pháp,

gọi là Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu; tuy nhiên, trong thực tế quân

đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa.

Ngày 20/7/1954, Hiệp Định Genève được ký kết đã công nhận một

nước có nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất. Điều 1 của

Hiệp định đã quy định lấy sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) làm giới tuyến tạm thời

để phân chia quyền quản lý lãnh thổ giữa 2 miền Nam-Bắc Việt Nam. Giới

33

tuyến tạm thời này cũng được kéo dài bằng một đường thẳng từ bờ biển ra

ngoài khơi (Điều 4). Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm dưới vỹ

tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam.

Tháng 4/1956, khi quân đội viễn chinh pháp rút khỏi Đông Dương,

Quân đội Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Công hòa, đã ra tiếp quản

nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa.

Trước những hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa

và Trường Sa do Trung Quốc và Philippines tiến hành vào thời điểm giao thời

này, Chính phủ Viêt Nam Cộng hòa lên tiếng phản đối. Ngày 24/5 và ngày

8/6/1956, Việt Nam Cộng hòa ra Thông cáo nhấn mạnh quần đảo Hoàng Sa

cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một phần của Việt Nam” và tuyên

bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam. Ngày 22/8/1956, tàu HQ-

04 của Hải quân Việt Nam Cộng hòa ra quần đảo Trường Sa cắm bia chủ

quyền, dựng cờ, bảo vệ quần đảo trước hành động xâm chiếm trái phép, vi

phạm chủ quyền Việt Nam của Đài Loan và Philippines. Ngày 20/10/1956,

bằng Sắc lệnh 143/VN, Việt Nam Cộng hòa đặt quần đảo Trường Sa trực

thuộc tỉnh Phước Tuy. Năm 1960, Việt Nam Cộng hòa bổ nhiệm ông Nguyễn

Bá Thược, cán bộ hành chính hạng I tại Tam Kỳ, Quảng Nam, giữ chức Phái

viên hành chính Hoàng Sa. Ngày 13/7/1971, tại Hội nghị ASOEC Manila, Bộ

trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng

định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt

Nam…

Từ 17/1 dến 20/1/1974, Trung quốc huy động lực lượng quân sự đánh

chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã chiến đấu quả cảm,

song Quân lực việt Nam Cộng hòa đã không cảm phá được hành động xâm

lược của Trung Quốc. Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng lâm

thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình

trước sự kiện này. Ngày 14/2/1975, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố Sách trắng

về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường

34

Sa.

Ngày 5/4/1975, bộ Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam đã triển khai

kế hoạch tiếp quản quần đảo Trường Sa theo chủ trương của Bộ chính trị và

chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ ngày 13 đến

28/4/1975, các lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam đã tiếp quản các đảo có

Quân đội nhân dân Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực

lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trọng quần đảo Trường Sa.

Ngày 5/6/1975, Người phát ngôn Bộ Ngoại giáo chính phủ Cách mạng

lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của

Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. [27.tr.39-

42].

1.1.4.2 Một số vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên biển Đông giữa

Việt Nam và các quốc gia khác trong khu vực

Biển Việt Nam là một bộ phận không tách rời và chiếm vị trí trọng yếu

trong bình đồ Biển Đông - một khu vực địa lý giàu tài nguyên thiên nhiên,

nhưng cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn lợi ích liên quan đến các tranh chấp

chủ quyền biển, đảo phức tạp và kép dài trong lịch sử.

Trung Quốc

Đối với quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp chủ

quyền lãnh thổ với Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XX (năm 1909), mở đầu là

sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng

Sa của Việt Nam, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì

sự hiện diện của Quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được

chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo vệ,

quản lý quần đảo này.

Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính

quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông

Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số

35

quân đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp rút khỏi Đông dương theo

quy định của Hiệp định Genève và trong khi chính quyền nam Việt Nam chưa

kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã đưa quân

ra chiếm đóng nhóm phía Đông Hoàng Sa.

Năm 1947, lợi dụng Quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà sụp đổ,

quân viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, Cộng hòa nhân

dân Trung Hoa lại huy động lực lượng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây

Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam Cộng hòa nắm giữ.

Đối với quần đâỏ Trường Sa, phía Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp

chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở

đầu bằng một công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi cho bộ Ngoại

giao Pháp khẳng định “các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc”.

Năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân quốc xấm chiếm đảo Ba Bình.

Năm 1956, quân đội Đài Loan chiếm đảo Ba Bình.

Năm 1988, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa huy động lực lượng đánh

chiếm 6 vị trí, là những bãi cạn nằm về phía Tây Bắc Trường Sa, ra sức xây

dựng, nâng cấp, biến các bãi cạn này thành các điểm đóng quân kiên cố, như

những pháo đài trên biển.

Như vậy, tổng số đảo, đá, bãi cạn mà phía Trung Quốc (kể cả Đài

Loan) đã dùng sức mạnh để đánh chiếm ở quần đảo Trường Sa cho đến nay là

9 vị trí. Trung Quốc chiếm đóng 7 thực thể địa lý; tất cả đều là rạn san hô. Đài

Loan chiếm đóng đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa và mở

rộng thêm 1 bãi cạn rạn san hô.

Philippines

Philippines bắt đầu tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa

bằng sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa phải

thuộc về Philippines vì nó ở gần Philippines. Từ năm 1971 đến năm 1973,

Philippines đưa quân chiếm đóng 5 đảo, năm 1977 – 1978, chiếm thêm 2 đảo;

36

năm 1979, công bố Sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11/6/1979 gộp

toàn bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trường Sa, vào một đơn vị hành chính,

gọi là Kalayaan thuộc lãnh thổ Philippines. Năm 1980, Philippines chiếm

đóng thêm một đảo nữa nằm về phía Nam Trường Sa, đó là đảo Công Đo…

Đến nay, Philippines đã chiếm đóng 10 vị trí trong quần đảo này, gồm 7 đảo,

đá san hô và 3 bãi cạn, rạn san hô.

Malaysia

Malaysia mở đầu bằng sự việc Sứ quán Malaysia ở Sài Gòn, ngày

03/02/1971, gửi Công hàm cho bộ ngoại giao Việt Nam Cộng hòa hỏi rằng

quần đảo Trường Sa hiện thời thuộc nước Cộng hòa Morac Songhrati Mead

có thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa hay Việt Nam cộng hòa có yêu sách đối

với quần đảo đó không? Ngày 20/4/1971, Việt Nam Cộng hòa trả lời rằng

quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm chủ quyền Việt

Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tháng 12/1979,

chính phủ Malaysia xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ Malaysia khu vực phía

Nam Trường Sa, bao gồm đảo an Bang và Thuyền Chài đã từng do quân đội

Việt Nam Cộng hòa đóng giữ. Năm 1983 – 1984, Malaysia cho quân chiếm

đóng 3 bãi đá ngầm ở phía Nam Trường Sa là Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân.

Năm 1988, họ đóng thêm 2 bãi ngầm nữa là Én Đất và Thám Hiểm. Đến nay,

số điểm đóng quân của Malaysia lên đến 7 điểm nằm ở phía Nam Trường Sa,

tất cả đều là những rạn san hô.

Brunei

Brunei tuy được coi là một bên tranh chấp liên quan đến khu vực quần

đảo Trường Sa, nhưng trong thực tế Brunei chưa chiếm đóng một vị trí cụ thể

nào. Yêu sách của họ là ranh giới vùng biển và thềm lục địa được thể hiện

trên bản đồ có phần chồng lấn lên khu vực phía Nam Trường Sa[27.tr.44-46].

37

Anh và Nhật trước chiến tranh thế giới thứ II.

Tuy Anh và Nhật hiện nay không phải là các bên tranh chấp hai quần

đảo, nhưng trước chiến tranh thế giới thứ II các nước này có dính líu đến hai

quần đảo.

Nước Anh: Có quan tâm ít nhiều đến quần đảo Trường Sa. Sau đó,

Chính phủ Anh đã quyết định từ bỏ yêu sách của họ trên các đảo này do

chúng chỉ dựa trên cơ sở hành động mang tính cá nhân và nước Anh không có

một hành động sử dụng thực tế nào ở một trong hai đảo nhỏ (Trường Sa, An

Bang)

Nước Nhật: Sau khi Pháp chiếm Trường Sa năm 1933, Chính phủ Nhật

phản kháng Chính phủ Pháp. Các cuộc trao đổi về yêu sách của Nhật Bản đã

được tiến hành. Trong quá trình trao đổi ở Paris giữa ông Sato, Đại sứ Nhật

và phía Pháp tháng 8/1934 thể hiện rõ là Chính phủ Nhật không khăng khăng

giữ thái độ của mình và vụ việc có thể coi như đã được giải quyết.

Ngày 30/3/1939, để xây dựng các căn cứ cho chiến tranh, Nhật Bản

chiếm các đảo “nằm ngoài khơi Đông Dương” và đặt chúng dưới quyền quản

lý hành chính của Kao Hùng (Đài Loan), lãnh thổ của Vương quốc mặt trời

mọc. Và việc sáp nhập các đảo và địa hạt Kao Hùng (Đài Loan) là phi pháp

ngày từ gốc, và chúng không thể trở thành lãnh thổ của Trung Quốc. Việc

Trung Quốc viện dẫn hành động sáp nhập để yêu cầu quần đảo là không có cơ

sở trong luật pháp quốc tế [28].

1.1.4.3. Giáo dục cho học sinh ý thức về những giá trị, tiềm năng kinh tế - xã

hội của biển, đảo đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước

Biển gắn bó với bao thế hệ người Việt, là không gian sinh tồn và phát

triển của dân tộc ta, là chỗ dựa sinh kế cho hàng triệu người dân Việt Nam từ

xưa đến nay. Trong vùng “biển bạc”, mỗi hòn đảo không chỉ như những thòi

“vàng xanh” mà còn là một “cột mốc chủ quyền” tự nhiên của quốc gia. Biển

thiêng liêng là vậy, vì thế bảo vệ và phát triển vì sự trường tồn của biển, đảo

38

quê hương là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn Quân và toàn Dân ta.

Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam có

ý nghĩa rất to lớn, nhất là trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đều nỗ lực

vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiền lực mọi mặt để khai

thác và khống chế biển.

Việt Nam là một quốc gia biển với chiều dài bờ biển trên 3.260km, trung bình khoảng 100km2 đất liền có 1km bờ biển. Biển gắn bó mật thiết và

ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng – an

ninh, bảo vệ môi trường của mọi miền đất nước.

Vùng biển Việt Nam thuộc Biển Đông, có đường biên giới biển với 10

nước và vùng lãnh thổ. Biển Đông là một trong những con đường giao thương

và hàng hải quốc tế nhộn nhịp nhất trên thế giới, nối liền Ấn Độ Dương và

Thái Bình Dương. Biển chứa đựng tài nguyên địa kinh tế với ý nghĩa mặt tiền

mở cửa hướng ra quốc tế, tạo cho đất nước vị thế địa kinh tế quan trọng,

không gian biển chứa đựng nguồn tài nguyên phong phú và to lớn.

Kinh tế biển có thể hiểu là các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và

các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dải đất liền ven

biển. Ở Việt Nam, đóng góp của lĩnh vực kinh tế diễn ra trên biển, trong đó có

khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển) và du

lịch biển chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với các ngành kinh tế có liên

quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu

khí, chế biến thủy/hải sản, thông tin liên lạc, v.v…

Phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam có

ý nghĩa rất to lớn, nhất là trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đều nỗ lực

vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai

thác và khống chế biển. Việt Nam luôn coi trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế

biển để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dựng và giữ

nước ta đã minh chứng cho điều này. Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi

39

mới đất nước, Việt Nam tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của biển, đảo.

Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị, tháng 5/1993 khẳng định: “Trở thành một

nước mạnh về biển là mục tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu về điều kiện

khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam”. Tại kỳ

họp thứ 5 khóa IX, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã

thông qua Nghị quyết phê chuẩn công ước của Liên hợp quốc về luật biển

năm 1982 (UNCLOS 1982). Ngày 20/9/1997, Bộ chính trị khóa VIII ban

hành Chỉ thị số 20-CT/TW về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đã nhấn mạnh: “Vùng biển, hải đảo và ven

bờ là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát triển của đất

nước, là tiềm năng và thế mạnh quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa”.

Đề đảm bảo việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước Việt Nam về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển,

đảo của Tổ quốc, trong thời gian tới cần triển khai đồng bộ hệ thống các giải

pháp trọng yếu:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức về trí, vai trò của biển, đảo và kinh

tế biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác tuyên truyền

và giáo dục cần tăng cường sâu rộng, có hệ thống hơn nhằm nâng cao và tạo

ra sự chuyển biến thực sự trong ý thức của tất cả các cấp,các ngành và các

tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò chiến lược của biển. Tư duy về biển phải

được thể hiện đậm nét trong các chính sách phát triển của những ngành có

liên quan và các địa phương có biển trong giai đoạn sắp tới . Ý thức về biển

phải được tất cả các ngành và các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương có

biển quan tâm thường xuyên. Đối với mọi người dân, ý thức về biển phải thể

hiện sâu sắc trong khai thác đi liền với bảo vệ tài nguyên, môi trường biển.

Hai là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với an ninh, quốc phòng, bảo

vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và an ninh trên biển. Với những

diễn biến mới trên Biển Đông thời gian vừa qua cho thấy, việc xây dựng và

40

phát triển kinh tế biển phải gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng – an

ninh bảo vệ biển; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân

gắn với phát triển kinh tế biển. Mục tiêu kết hợp kinh tế - xã hội với quốc

phòng – an ninh là nhằm khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trên biển,

đảo của Tổ quốc, khái thác, sử dụng nguồn lợi của quốc gia có hiệu quả để

thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có chính

sách đặc biệt để động viên nhân dân định cư sinh sống ổn định và làm ăn trên

biển dài ngày. Đối với các hải đảo, cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình

tổ chức hành chính phù hợp, tăng cường nâng cao năng lực quản lý về biển

của chính quyền các huyện đảo, xã đảo nhằm phát triển mạnh.

Kinh tế - xã hội; kết hợp bố trí dân cư và tổ chức lực lượng bảo vệ chủ

quyền biển, đảo.

Ba là, đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học – công nghệ

biển nhằm tạo được hệ thống thông tin cơ sở tin cậy, phục vụ việc hoạch định

các chính sách phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển. Tiến tới xây dựng

tiền lực khoa học – công nghệ biển đủ sức tạo ra những khâu đột phá trong

phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển và hệ thống dự báo, phòng chống

thiên tai, bảo tồn biển (tài nguyên, đa dạng sinh học..). Các giải pháp về khoa

học – công nghệ, phải được đi trước, mang tính đột phá nhằm phát huy hết

tiềm năng khoa học cho kinh tế biển, giảm thiểu tối đa các rủi ro trong chiến

lược vươn ra biển, trong đó, tập trung vào các hướng nghiên cứu chính: Phát

triển và hiện đại hóa các ngành nghề biển truyền thống; đẩy mạnh nghề biển

mới; tập trung nghiên cứu ngành nghề biển trong tương lai.

Bốn là, triển khai công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội,

đảm bảo quốc phòng – an ninh các vùng biển và ven bờ. tiến hành quy hoạch

các trung tâm phát triển ra biển và các khu vực biển, đảo có khả năng đột phá

trong phát triển kinh tế như Móng Cái, Vân Đồn, Nghi Sơn, Vũng Áng, Đà

Nẵng… Công tác quy hoạch phải trên cơ sở của quy luật kinh tế thị trường, có

41

tầm nhìn dài hạn, hiện đại theo những tiêu chuẩn phù hợp với quốc tế và khu

vực. Đồng thời, phải tiến hành một cách có hiệu lực và hiệu quả công tác

quản lý, quy hoạch nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và đúng

định hướng. Trong quy hoạch, cần quán triệt quan điểm coi vùng duyên hải

gắn với kinh tế biển là vùng động lực để mở cửa, thúc đẩy phát triển toàn bộ

nền kinh tế quốc gia, đảy mạnh phát triển những cơ sở công nghiệp chế biến

các sản phẩm từ biển.

Năm là, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về biển và

kinh tế biển. Quản lý tổng hợp về biển là vấn đề mới, phức tạp và mang tính

đa ngành. Vì vậy, việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về

biển và kinh tế biển có vai trò quyết định. Các hoạt động kinh tế và quản lý

biển, đảo cần có một cơ quan nhà nước quản lý thống nhất, tránh tình trạng

phân tán ở nhiều bộ, ngành và các cơ quan khác nhau.

Sáu là, xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống cơ chế, chính sách khuyến

khích phát triển kinh tế biển và vùng ven bờ.

Bảy là, phát triển nguồn nhân lực phát triển kinh tế biển, bao gồm cán

bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ biển; cán bộ quản lý, các chuyên gia và

đội ngũ lao động được đào tạo chuyên sâu về các nghề như: hàng hải, khai

thác và chế biến dầu, khí; đánh bắt và nuôi trồng hải sản; du lịch biển v.v, xây

dựng cơ chế, chính sách về đào tạo nhân lực và kế hoạch phát triển nguồn

nhân lực thuộc các thành phần kinh tế. Trước mắt, nhanh chóng tiến hành

1.1.5.Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 trung học phổ thông

“Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông không chỉ trang bị một vốn kiến

thức cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới mà còn góp phần quan

trọng bồi dưỡng lòng yêu quê hương xứ sở, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa

nhân văn, tinh thần tôn trọng các giá trị lịch sử văn hóa nhân loại, ý thức trách

nhiệm

của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, nội

42

dung giáo dục về chủ quyền biển đảo của Tổ quốc cho HS đang được Đảng

và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhất là trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Vì

vậy, bộ môn Lịch sử cần trang bị cho HS những tri thức về chủ quyền biển

đảo một cách toàn diện. Giúp HS khắc sâu kiến thức cơ bản của bài học lịch

sử, hiểu được vai trò của biển đảo trong lịch sử dựng nước và giữ nước

của dân tộc, vai trò của biển trong phát triển kinh tế đất nước [35.tr. 38-43].

Việc dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học

sinh lớp 12 có tác dụng giáo dục, giáo dưỡng và rèn luyện nhiều kĩ năng cho

học sinh.

Về kiến thức: Nhằm giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho

học sinh, môn học Lịch sử phải cung cấp tri thức lịch sử một cách toàn diện.

Học sinh được khắc sâu kiến thức cơ bản của bài học lịch sử, học sinh nắm

bắt được vai trò của biển đảo trong lịch sử, vai trò của biển trong phát triển

kinh tế đất nước. Từ đó, các em thấy tự hào và có ý thức trách nhiệm đối với

Tổ quốc.

Ví dụ, Năm 1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, Nhật chiếm quần đảo

Trường Sa, Pháp phản kháng. Khi phát xít Nhật bại trận và đầu hàng vô điều

kiện quân Đồng Minh ngày 16/8/1945, quân đội Nhật đã rút khỏi Hoàng Sa

và Trường Sa vào năm 1946.

Ngày 14/10/1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao quyền kiểm

soát quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính phủ quốc gia Việt Nam do

Bảo Đại đứng đầu. Thủ hiến Trung phần Việt Nam lúc đó là Phạm Văn Giáo

đã ra tận Hoàng Sa tiếp nhận quyền chuyển giao chủ quyền Hoàng Sa.

Ngày 6/9/1951, tại Hội nghị San Francisco về hiệp ước Hòa bình với

Nhật Bản, vốn không chính thức xác định rõ các quốc gia nào có chủ quyền

trên quần đảo. Theo Hiệp ước đình chiến ký kết tại San Francisco, vào tháng

9/1951, khoản 2, nước Nhật Bản phải rút lui khỏi các nơi mà họ đã dùng vũ

lực để chiếm đóng trong thời đệ nhị chiến, lẽ tất nhiên là trong đó có hai quần

43

đào Paracels (Hoàng Sa) và Spratley (Trường Sa). Tại hội nghị này, Thủ

tướng kiêm bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ quốc gia Việt Nam Trần

Văn Hữu, Trưởng phái đoàn Việt Nam, đã long trọng tuyên bố như sau: “Và

cũng vì cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm

mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền của chúng tôi

trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã luôn luôn từ xưa thuộc lãnh thổ

Việt Nam”.

Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco long trọng ghi vào

biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn mà không gặp phải kháng nghị hay bảo

lưu nào từ 51 nước tham dự Hội nghị [10.tr.145-146].

Với việc giúp học sinh nắm vững được những kiến thức này, các em sẽ

không chỉ rõ hơn về chủ quyền của ta trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa

mà còn cái nhìn đầy đủ, khách quan về lịch sử Việt Nam, về những bộ phận

cấu thành nên lịch sử Việt Nam.

Về kĩ năng: Thông qua việc tìm hiểu các tài liệu, tư liệu về chủ quyền

biển, đảo, học sinh được rèn kĩ năng tư duy, kĩ năng học tập bộ môn và các kĩ

năng sống. Các em chủ động, tích cực tham gia các hoạt động học tập dưới sự

hướng dẫn của giáo viên, rèn luyện cho các em kĩ năng cần thiết cho cuộc

sống như: hợp tác, làm việc nhóm, thuyết trình, giải quyết vấn đề, biết ứng

phó trước vấn đề hiện đại… Bên cạnh đó, còn rèn luyện cho các em kĩ năng

tự học, tự tìm hiểu tài liệu liên quan đến vấn đề học tập. Qua việc tự tìm hiểu

và nghiên cứu các bài tập được giao sẽ giúp các em hình thành năng lực học

tập bộ môn, đồng thời phát triển khả năng nhận thức giúp cho các sự kiện,

hiện tượng lịch sử trở nên ấn tượng hơn, sâu sắc hơn. Qua đó, giúp khơi gợi ở

HS những cảm xúc lịch sử, kiến thức lịch sử được khắc sâu.

Về thái độ: Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khi các nước có biển, nhất

là các nước lớn đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển. Việt Nam là một

quốc gia biển - đứng thứ 10 thế giới về tỉ lệ sở hữu biển, biển Việt Nam

không chỉ chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn mà còn là cửa ngõ để chúng ta

44

mở rộng quan hệ với quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay chủ quyền trên biển Đông,

đặc biệt ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của nước ta bị vi phạm

nghiêm trọng. Những cứ liệu lịch sử sẽ là cơ sở quan trọng để đưa nội dung

giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo cho HS vào môn Lịch sử ở trường phổ

thông. Từ đó, giúp cho các em có những hành động cụ thể, thiết thực góp

phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Vì vậy, việc giáo dục ý thức

về chủ quyền biển đảo Tổ quốc cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ cần thiết và có ý

nghĩa chiến lược.

Để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, trước tiên, tuổi trẻ nước ta

phải hiểu thấu đáo các vấn đề về tài nguyên và môi trường biển; về không

gian biển, đảo của đất nước; về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài

phán quốc gia đối với các vùng biển, đảo; về chủ trương, chính sách và pháp

luật của Đảng và Nhà nước ta đối với những vấn đề biển, đảo nói chung và

Biển Đông nói riêng. Với những nhận thức đúng đắn, đày đủ và sâu sắc, lớp

trẻ Việt Nam hôm nay sẽ là những sứ giả tạo nên sự kết nối trong toàn xã hội,

thúc đẩy những hành động thiết thực vào trong cộng đồng, vì biển, đảo quê

hương.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Thực trạng của việc giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12 trung học trƣờng phổ thông

Môn lịch sử ở trường phổ thông có tác dụng to lớn đối với việc giáo

dục thế hệ trẻ về lịch sử dân tộc, truyền thống dân tộc, hình thành nên thế giới

quan khoa học…Song do đặc thù của bộ môn lịch sử, do một số giáo viên còn

chưa thực sự hiểu sâu về phương pháp dạy học và kiến thức còn lệ thuộc vào

sách giáo khoa, tức là chưa làm chủ được kiến thức dẫn đến giờ học khô khan

nhàm chán và nặng nề. Tình trạng này đã làm mất đi tính hấp dẫn của môn

lịch sử. Hơn nữa, do tư tưởng coi môn lịch sử là “môn phụ”, học sinh “học gì

45

thi đấy” nên nhiều học sinh quay lưng với môn lịch sử. Quan niệm sai lầm

cho rằng học lịch sử chỉ cần trí nhớ không phải tư duy động não, không có bài

tập thực hành đã ảnh hưởng đến việc đánh giá, tổ chức phương pháp dạy học.

Theo GS Phan Huy Lê - nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt

Nam, tình trạng “xuống cấp” môn Lịch sử có nhiều nguyên nhân, trước hết là

do sách giáo khoa nặng nề, lối học và thi cử nặng về truyền thụ và đo kiến

thức. Truy nguyên cao hơn nữa là do chương trình và nhận thức không đúng

về vị thế và yêu cầu giáo dục môn Lịch sử, không tôn trọng và nêu cao tính

khoa học của môn học. Ngoài ra còn có những nhân tố gia đình và xã hội như

coi môn Lịch sử nặng về trí nhớ, ít sáng tạo, không muốn cho con học lịch sử,

học sử không có tiền đồ, khó kiếm việc làm. Nhưng cũng cần nhấn mạnh, học

sinh phần lớn “quay lưng” lại với SGK, cách dạy và học môn Lịch sử chứ

không phải quay lưng lại với lịch sử. Bằng chứng là một số cuộc thi tìm hiểu

lịch sử với đề tài mở rộng cho sự tìm tòi, khám phá trong thời gian gần đây

cho thấy, thế hệ trẻ đã hăng hái tham gia với nhiều bài làm đạt chất lượng tốt

[40].

Năm 2011, Bộ giáo dục và Đào tạo đã công bố “Tài liệu hướng dẫn dạy

học nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo cho học sinh

trung học phổ thông”. Tài liệu hướng dẫn gồm hai phần:

Phần I: Giới thiệu mục tiêu, cấu trúc của tài liệu Giáo dục về tài nguyên

môi trường biển, đảo của cấp học ; phần hướng dẫn giới thiệu việc lựa chọn

nội dung thuộc các chuyên đề về tài nguyên và môi trường biển, đảo của cấp

học; Hướng dẫn thời gian thực hiện ngoại khóa trong trường THPT; Giới

thiệu một số hình thức hoạt động, cách thức tổ chức hoạt động ngoại khóa

giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo; Hướng dẫn kiểm tra, đánh giá

sau khi thực hiện ngoại khóa.

Phần II: Hướng dẫn hoạt động ngoại khóa một số chủ đề: Phần này

được trình bày theo cách mô tả các hình thức thực hiện hoạt động ngoại khóa

với những gợi ý về các bước thực hiện và những điểm cần lưu ý đảm bảo hoạt

46

động mang tính khả thi cũng như một vài ví dụ minh họa để giáo viên, các

cán bộ làm công tác Đoàn cần lưu ý sử dụng đồng thời với tài liệu về chuyên

đề; chú ý các gợi ý về cách thức tổ chức, tạo điều kiện cho học sinh được

tham gia một cách tối đa vào các hoạt động [7].

Như vậy, GV có thể căn cứ vào chương trình môn học và tùy theo điều

kiện của mỗi nơi để tổ chức các hoạt động học tập nhằm giáo dục ý thức chủ

quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh.

1.2.1.1. Mục đích khảo sát

Khảo sát về thực trạng dạy và học lịch sử nói riêng và việc giáo viên

vận dụng những kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học

môn lịch sử của học sinh ở trường THPT nói chung. Kết quả điều tra, khảo sát

là cơ sở để đưa ra những kết luận chung cũng như những yêu cầu đặt ra cần

giải quyết nhằm nâng cao chất lượng da ̣y và ho ̣c môn Li ̣ch sử .

Viê ̣c điều tra, khảo sát được tiến hành tại trường THPT Trần Hưng Đạo

– Hà Đông – Hà Nội.

Về phương pháp tiến hành : Tiến hành điều tra bằ ng phiếu thăm dò ý

kiến của 200 học sinh và 15 giáo viên trong trường và một số trường khác.

1.2.1.2. Nội dung khảo sát

a, Đối với giáo viên: Tìm hiểu quan niệm về các vấn đề:

+ Ý kiến, quan niệm của GV về việc tổ chức dạy học các nội dung về

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS.

+ Mức độ ưu thế của các bộ môn trong việc giáo dục các nội dung về

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS.

+ Tần suất và hình thức khi dạy học các nội dung về chủ quyền biển,

đảo của Tổ quốc.

+ Thuận lợi và khó khăn khi dạy các nội dung về chủ quyền biển, đảo

nhằm giáo dục ý thức cho HS.

b, Đối với học sinh:Tìm hiểu quan niệm về các vấn đề:

47

+ Hứng thú của HS đối với môn học lịch sử.

+ Mức độ ưu thế của các bộ môn trong việc giáo dục ý thức về chủ

quyền biển, đảo của Tổ quốc.

+ Nhận thức của HS về thực trạng giảng dạy các nội dung về chủ quyền

biển, đảo trong giờ học lịch sử.

+ Hình thức học tập các nội dung về chủ quyền biển, đảo.

+ Những thuận lợi và khó khăn cùng những đề xuất cho việc giáo dục

các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử có kết

quả tốt nhất.

1.2.1.3. Kết quả khảo sát

Sau khi tiến hành phát phiếu điều tra và khảo sát bằng phiếu đối với

giáo viên và học sinh tại trường THPT Trần Hưng Đạo, Hà Nội, tổng hợp kết

quả thu được, qua phân tích chúng tôi khái quát như sau:

a) Ý kiến của học sinh và giáo viên về môn học và các hoạt động học tập có

sử dụng kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ Quốc

Thứ nhất là ý kiến của học sinh về môn học và các hoạt động học tập

có sử dụng kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ Quốc

Khi được hỏi về mức độ hứng thú của học sinh đối với môn Lịch sử thì

phần lớn học sinh trả lời bình thường (83%) và một số ít học sinh không có

hứng thú gì đối với môn học Lịch sử (5%), chỉ có 7% rất có hứng thú đối với

môn lịch sử, còn lại thì chưa quen.

Còn đối với việc tích hợp các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc trong dạy học Lịch sử thì các em rất đồng tình. 67% HS cho rằng rất

thuận lợi, 20% HS cho rằng thuận lợi và chỉ có 13% HS cho rằng ít thuận lợi.

Có thể nói, HS cũng đã phần nào nhận thức được các nội dung về chủ quyền

biển, đảo cần được tích hợp để dạy trong môn Lịch sử. Các em cho rằng việc

đưa các kiến thức về chủ quyền biển, đảo vào dạy học trong nhà trường phổ

thông là rất cần thiết.

Đối với các thông tin về chủ quyền biển đảo Việt Nam và các vấn đề

48

tranh chấp trên Biển Đông thì thỉnh thoảng mới được HS cập nhật (66%),

thường xuyên cập nhật chỉ chiếm có 13%, còn lại là ít cập nhật thậm chí còn

có HS không quan tâm tới vấn đề này. Như vậy, vấn đề chủ quyền biển, đảo

và các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông đã và đang xuất hiện dưới rất nhiều

nguồn tin khác nhau, đa dạng và phong phú. Tuy vậy vẫn chưa thu hút được

sự quan tâm của các em đối với vấn đề này.

Về việc tìm hiểu kiến thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc thông qua

các kênh thông tin, chúng tôi thu được kết quả sau:

Biểu đồ 1.1 Các kênh thông tin HS sử dụng để tìm hiểu các kiến

thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Như vậy có thể nói HS chủ yếu tìm hiểu các kiến thức về chủ quyền

biển, đảo qua kênh thông tin chính là Tivi (80%) và Internet (63%). Thông tin

trên báo, đài chỉ thu hút 40% HS quan tâm. HS cũng đã biết đến kiến thức về

chủ quyền biển, đảo qua các môn học ở trường (30%) và cuối cùng thấp nhất

là 11% qua người thân, bạn bè. Qua đây chúng ta có thể thấy được các thông

49

tin đến với HS nhều nhất đó là qua các phương tiện thông tin truyền thông

như Tivi, báo điện tử, internet... HS sẽ tiếp nhận thông tin nhanh hơn trong

thời gian lên mạng, lướt web chứ không phải qua việc đọc báo, sách...

b) Quan điểm của giáo viên và học sinh khi sử dụng kiến thức về chủ quyền

biển, đảo của Tổ Quốc trong việc giáo dục ý thức cho thế hệ học sinh.

Đối với mức độ ưu thế của các bộ môn trong việc giáo dục các nội

dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học, chúng tôi thu được

kết quả như sau:

Bảng 1.1 Tổng hợp ý kiến GV và HS về mức độ kết hợp giữa các môn học

trong việc giáo dục các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc:

Rất ưu thế Ưu thế Bình thường

Hình thức GV HS GV HS GV HS

(%) (%) (%) (%) (%) (%)

Ngữ văn 0% 0% 14% 27% 11% 0%

Lịch sử 0% 5% 73% 53% 22% 0%

Địa lí 0% 7% 62% 61% 6% 3%

Giáo dục công 0% 0% 33% 31% 15% 4%

dân

Như vậy, có thể nói giữa GV và HS đã có những cách nhìn nhận khác

nhau về mức độ kết hợp giữa các môn học trong việc giáo dục các nội dung

về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. GV cho rằng môn lịch sử và địa lý

không có quá nhiều ưu thế trong việc giáo dục. Còn HS vấn có một số ít các

em cho rằng hai môn học này rất có ưu thế (5% và 7%). Đối với mức độ thỉnh

thoảng nếu như GV cho rằng môn lịch sử có ưu thế nhất (73%) sau đó là môn

địa lý (62%) thì HS lại cho rằng môn có lợi thế nhất trong việc kết hợp trên

chính là môn địa lý (61%) sau đó mới đến môn lịch sử (53%). Các em cho

rằng môn ngữ văn có ít lợi thế nhất (27%). Còn đối với mức độ kết hợp bình

thường thì GV cho rằng môn địa lý và ngữ văn là kém nhất, còn HS lại cho

rằng đối với mức độ đó là môn ngữ văn và lịch sử. Như vậy, GV và HS đã

50

bước đầu nhận biết được ưu thế trong việc kết hợp giữa các môn học trong

việc giáo dục các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Và qua đó,

GV các bộ môn địa lý và lịch sử có thể nhận thức được tầm quan trọng của bộ

môn mình trong vấn đề giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS, một

vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách trong thời đại hiện nay.

Còn đối với hình thức học tập các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ

quốc, khi được khỏi thì rất nhiều HS (89%) muốn GV tổ chức thông qua các

hoạt động ngoại khoá, tiếp đến là tích hợp với các môn học khác (48%).

Ngoài ra các hình thức học tập như bài học cung cấp kiến thức mới, tự bản

thân tìm hiểu không được các em yêu thích và lựa chọn.

Khi hỏi về những khó khăn GV và HS gặp phải khi tìm hiểu các nội

dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. HS gặp khó khăn nhất đó là không

xác định được độ tin cậy của thông tin (56%) và sau đó là việc HS cảm thấy

khó hiểu (43%), cuối cùng là việc các tài liệu về chủ quyền biển, đảo không

có (25%), còn lại là HS không hứng thú. Cũng giống như HS, GV cũng cho

rằng khi tìm hiểu các nội dung về chủ quyển biển, đảo của Tổ quốc thì khó có

thể xác định được độ tin cậy của thông tin (67%), tiếp theo là không có tài

liệu (39%). Như vậy, cả HS và GV đang gặp rất nhiều khó khăn khi tìm hiểu

các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Các thông tin, tài liệu

không rõ nguồn gốc hoặc rất ít đã làm mất đi sự chủ động, tích cực của HS và

GV trong việc tìm hiểu các nội dung trên.

Cuối cùng là những đề xuất của GV và HS để việc giáo dục các nội

dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử có kết quả tốt

nhất. Đa phần các em HS đều trả lời rất đầy đủ câu hỏi mở này. 77% HS

mong muốn về phía nhà trường: tổ chức các hoạt động ngoại khóa như thăm

quan, trải nghiệm đối với các di tích biển, đảo. 20% HS mong muốn được

tham gia các sân chơi, cuộc thi tìm hiểu về biển, đảo. Còn lại là HS không có

ý kiến gì. Còn những đề xuất cho GV thì đa phần các em (90%) mong muốn

51

GV cung cấp thêm thông tin, hình ảnh, tài liệu về chủ quyền biển, đảo khi dạy

học để các em có thể hiểu rõ hơn về chủ quyền Việt Nam đối với các quần

đảo. Có thể nói, các em HS rất thích tham gia các chương trình ngoại khóa,

các hoạt động tìm hiểu...qua đó giúp các em phát huy được hết năng lực của

mình, tăng tính tích cực, chủ động của HS .Còn đối với GV, các thầy, cô cho

rằng các kiến thức về chủ quyền biển, đảo cần được đưa vào chương trình

SGK. Bên cạnh đó GV phải tự tìm hiểu thêm các kiến thức về chủ quyền biển

đảo để lồng ghép vào các giờ dạy, hoặc dạy tích hợp với môn học khác nhằm

giáo dục cho HS về chủ quyền biển đảo qua đó HS ý thức được trách nhiệm

của thế hệ trẻ đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền đất nước trên biển.

Vấn đề chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc cũng thu hút

được đông đảo các em HS quan tâm. Trước khi thực nghiệm đề tài, GV đã

kiểm tra kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cũng như những hiểu

biết của các em về vấn đề biển Đông hiện nay như: Huyện đảo Trường Sa là

đơn vị hành chính thuộc tỉnh nào?. Đa phần các em đều trả lời đúng, nhưng

vẫn còn một vài em (17%) trả lời sai, cho rằng quần đảo Trường Sa thuộc

Tỉnh Quảng Trị. Đối với câu hỏi: Năm 1956, Trung Quốc cho quân chiếm

một số đảo phía Đông thuộc A. Quần đảo Hoàng Sa, B. Quần đảo Trường Sa,

C. vùng vịnh Bắc Bộ, D. vùng vịnh Hạ Long thì chỉ có 45% trả lời đúng là

đáp án B. Còn lại là HS trả lời sai hoặc không biết. Có thể nói những sự kiện

không được đề cập đến trong SGK thì HS rất ít biết đến.

1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết

Một trong những mục tiêu quan trọng của ngành giáo dục là đào tạo thế

hệ trẻ có tri thức, đạo đức, bản lĩnh, có những kiến thức sâu sắc, toàn diện về

quê hương, đất nước, từ đó có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả

phần đất liền cũng như biển, đảo.

Điều tra, khảo sát ý kiến giáo viên và học sinh không chỉ giúp cho

việc đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng dạy học Lịch sử nói riêng,

52

vấn đề GV sử dụng tài liệu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong giáo

dục ý thức HS mà còn là cơ sở nêu ra những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng

cao chất lượng dạy học môn Lịch sử.

Thứ nhất là vị trí của môn Lịch sử ở trường THPT hiện nay

Vấn đề đáng quan tâm là việc học sinh thờ ơ với môn Lịch sử cùng với

chất lượng dạy và học môn học có nhiều nét đặc thù này trong những năm qua

còn nhiều bất cập. Điều này được thể hiện phần nào trong kết quả của các kỳ

thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh vào Đại học, Cao đẳng thời gian qua. Dư

luận xã hội và cả những người “trong cuộc” đã phải “giật mình”, bởi hàng

năm, số học sinh đạt dưới điểm trung bình chiếm tỷ lệ khá cao trong các kỳ

thi quan trọng. Đây thực sự là thực trạng đáng báo động trong việc dạy và học

môn học có vị trí đặc biệt quan trọng này. Về phía nhà trường, phương pháp

dạy học truyền thống vẫn tiếp tục được áp dụng trong khi đối tượng tiếp nhận

là một lớp học trò mới cần sự tích cực, chủ động.

Giáo cụ trực quan được sử dụng còn nghèo nàn, quanh quẩn chỉ có một

số bức tranh, sơ đồ minh họa không đủ sức cuốn hút, hấp dẫn học sinh. Trong

khi đó, về phía học sinh, tâm lý giới trẻ trong thời kỳ công nghiệp hóa có xu

thế thiên về các môn khoa học tự nhiên, xem nhẹ các môn khoa học xã hội

khiến nhiều em không có hứng thú đối với môn Lịch sử. Việc học môn học

này còn mang nặng tính đối phó hơn là thực sự say mê khám phá, tìm tòi.

Học vẹt, học đối phó tất yếu dẫn đến việc học sinh chỉ cố gắng ghi nhớ

kiến thức một cách vụn vặt, máy móc, không có khả năng liên kết, xâu chuỗi

các sự kiện cũng như rút ra ý nghĩa của các sự kiện. Việc học sinh còn sử

dụng “phao thi” trong các tiết kiểm tra vẫn xảy ra tạo tâm lý ỷ lại và sức ỳ

trong tư duy. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến chất lượng học

tập môn Lịch sử chậm có sự chuyển biến.

Vấn đề biển, đảo cũng đã xuất hiện trong hai kỳ thi tốt nghiệp THPT và

kỳ thi ĐH vừa qua khiến các thí sinh có cơ hội tiếp cận và thể hiện quan điểm

53

của mình trong việc khẳng định chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa. Đây có thể xem là những nỗ lực đáng ghi nhận của

ngành giáo dục trong việc nâng cao tinh thần dân tộc và ý thức bảo vệ chủ

quyền, lãnh thổ cho thế hệ học sinh, sinh viên.

Thế hệ học sinh ngày nay lớn lên không phải chứng kiến sự tàn khốc,

hủy diệt, những hy sinh, mất mát của chiến tranh mà chỉ biết qua phim ảnh,

sách báo và các môn học xã hội ở các bậc học phổ thông. Tuy nhiên, nếu giới

trẻ ngày nay không có vốn hiểu biết cần thiết về độc lập, chủ quyền thống

nhất và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc thì rất dễ nảy sinh thái độ

thờ ơ với thời cuộc, đồng thời, không thể bồi đắp được những phẩm chất cần

có của người công dân tương lai.

Thứ hai là về chương trình sách giáo khoa

Xét trên các yếu tố lịch sử và pháp lý quốc tế, Hiến pháp và nhiều bộ

luật của nước ta đều khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi về hai quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sách giáo khoa Địa lý Việt Nam bậc học phổ

thông cũng đã đề cập vấn đề chủ quyền của hai quần đảo này là của Việt Nam.

Tuy nhiên, sách giáo khoa môn Lịch sử phổ thông hiện lại chưa đề cập

tới vấn đề này. Trong thời gian gần đây, khi “vấn đề Biển Đông” được đề cập

nhiều hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng, thu hút sự quan tâm của

đông đảo dư luận thì những kiến thức về “chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”

càng trở nên cần thiết đối với thế hệ trẻ nói chung và học sinh phổ thông nói

riêng, dư luận cho rằng, việc khẩn trương bổ sung nội dung chủ quyền biển,

đảo vào chương trình môn Lịch sử là hết sức cần thiết.

Phát biểu với báo QĐND Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Cơ - nguyên

Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng “để

thế hệ trẻ hiểu được chủ quyền biển, đảo của nước ta, không có cách nào tốt

hơn là đưa chương trình biển, đảo vào giáo dục ở các cấp học”

Ông cho biết: Thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo có nhiều

chương trình, đề án phục vụ cho nhiệm vụ này. Cụ thể nhất là kỳ thi tuyển

54

sinh đại học, cao đẳng vừa qua, vấn đề biển, đảo đã được đưa vào nội dung thi.

Cùng với đó là việc triển khai đề án “Tăng cường công tác giáo dục về tài

nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục các cấp học và

các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2010 - 2015”;

Tổ chức chương trình tập huấn về nội dung biển, đảo Việt Nam đối với các

giáo viên dạy môn Địa lý ở bậc trung học phổ thông (THPT) trên khắp cả

nước…[43].

Như vậy, rõ ràng ngành giáo dục đã bắt đầu có chuyển biến tích cực

nhằm giúp các em học sinh, sinh viên nâng cao ý thức về biển, đảo quê hương.

Thứ ba là phương pháp giảng dạy của giáo viên

Thời gian gần đây, Bộ GD&ĐT đã có văn bản hướng dẫn tích hợp nội

dung giáo dục tài nguyên, môi trường biển, đảo vào chương trình giáo dục

mẫu giáo năm tuổi và tuyên truyền cho học sinh, sinh viên về bảo vệ chủ

quyền biển, đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Tổ quốc. Đa phần GV đều nhận

biết được tầm quan trọng của việc sử dụng các tư liệu, tài liệu lịch sử nhằm

giáo dục ý thức cho HS về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, song cũng đặt ra

những yêu cầu về việc lựa chọn và sử dụng các tài liệu sao cho có hiệu quả,

phù hợp với các đối tượng HS.

Bên cạnh đó, giáo viên có thể phối hợp với Đoàn thanh niên tổ chức

cho học sinh thi tìm hiểu về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; các trường học

có thể dành thời gian trong những tiết chào cờ sáng thứ hai hàng tuần để lồng

ghép nội dung vấn đề biển đảo; vận động đoàn viên thanh niên ủng hộ các

55

phong trào thiết thực như “Góp đá cho Trường Sa”, “Thư gửi Trường Sa”...

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Vấn đề giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong

dạy học môn lịch sử lớp 12 ở trường THPT được đánh giá là rất cần thiết

trong việc đổi mới phương pháp dạy học, cung cấp kiến thức, phát huy tính

tích cực, sáng tạo và giáo dục học sinh. Qua đó, học sinh có sự yêu thích,

hứng thú với môn học và không ngừng trau dồi những hiểu biết của mình về

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Điều tra, khảo sát ý kiến giáo viên và học sinh không chỉ giúp cho việc

đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng dạy học các vấn đề về giáo dục

ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học Lịch sử ở trường phổ

thông, mà còn là cơ sở nêu ra những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao

chất lượng dạy học môn Lịch sử.

Để đạt được mục tiêu giáo dục về chủ quyền biển, đảo cho HS một

cách hiệu quả nhất, người GV đóng vai trò chủ đạo. Theo đó, đội ngũ GV

môn lịch sử ở trường phổ thông phải là những người giỏi chuyên môn và giàu

tâm huyết với giáo dục mới có thể khơi dậy tình yêu biển đảo quê hương đến

tận trái tim của các em HS để cùng nhau bảo vệ và giữ vững chủ quyền biển

đảo thiêng liêng của Việt Nam.

Đó là những cơ sở để chúng tôi đề xuất các biện pháp giáo dục ý thức

chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 trung

56

học phổ thông.

CHƢƠNG 2: MỘT SỐ HÌNH THỨC VÀ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý

THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC CHO HỌC SINH

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

2.1. Mục tiêu, nội dung cơ bản của chƣơng trình Lịch sử lớp 12 – chƣơng

trình chuẩn

2.1.1. Mục tiêu

Đối với chương trình Lịch sử 12 – Chương trình chuẩn, mục tiêu đặt ra

cho học sinh sau khi hoàn thành chương trình học là:

2.1.1.1. Về kiến thức

- Cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông về lịch sử thế giới

từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000 qua hai thời kỳ: thời kỳ

chiến tranh lạnh từ năm 1945 đến năm 1991, thế giới phân chia thành hai phe:

Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa trong trật tự “hai cực” tan rã, một trật

tự thế giới mới “đa cực” đang hình thành; sự phát triển và vai trò của các

nước lớn trong quan hệ quốc tế; về kết quả của phong trào giải phóng dân tộc

ở Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ Latinh; tác động của cuộc cách mạng

khoa học công nghệ cùng xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra những thời cơ cùng

thách thức đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển.

- Trong phần Lịch sử Việt Nam, thông qua việc cung cấp các kiến thức

cơ bản và chi tiết hơn, chương trình Lịch sử 12 giúp học sinh có những hiểu

biết sâu hơn về quá trình Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước, đến với chủ

nghĩa Mac – Lênin, truyền bá chủ nghĩa Mac – Lênin, làm chuyển biến phong

trào yêu nước ở Việt Nam từ lập trường tư sản sang lập trường vô sản cùng

với việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930);

Từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam bước sang một giai

đoạn mới, dù trải qua nhiều khó khăn, gian khổ nhưng cuối cùng vẫn đạt được

những thắng lợi vẻ vang, viết thêm những trang sử sáng chói của dân tộc.

57

Tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giữ nước và dựng nước của nhân dân

ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đạt đến những thắng lợi lịch sử: Cách mạng

tháng Tám năm 1945 giành độc lập dân tộc, sự ra đời của nhà nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa, thắng lợi của cuộc khán chiến cứu nước trong thời kì mới

(1945 – 1954) và những thành tựu của sự nghiệp đối mới, từng bước đưa đất

nước quá độ lên chả nghĩa xã hội.

Trong phần Lịch sử Việt Nam, trọng tâm kiến thức là giai đoạn lịch sử

1945 – 1975 với những âm mưu, kế hoạch xâm lược của các thế lực thực dân,

đế quốc và cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược đó của nhân dân ta. Vấn

đề cốt tử nhất đối với dân tộc khi đó là độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Vì hầu hết các kiến thức thi tốt nghiệp và Đại học tập trung vào nội

dung chương trình Lịch sử 12 nên khối lượng kiến thức trong chương trình là

rất lớn.

2.1.1.2. Về kĩ năng

Học xong chương trình Lịch sử lớp 12, học sinh được bồi dưỡng và

phát triển các năng lực và kĩ năng. Đến giai đoạn này, yêu cầu nhận thức đối

với học sinh cao hơn. Đòi hỏi các em không chỉ biết mà phải hiểu sâu sắc và

phân tích được bản chất của các sự kiện lịch sử. Hoàn thành chương trình, các

em sẽ được:

Nâng cao khả năng khái quát, tổng hợp, so sánh, liên hệ giữa các sự

kiện lịch sử và giữa điều được học với thực tế cuộc sống, từ đó rút ra các nhận

xét, kết luận, quan điểm cá nhân.

Rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo, chủ dộng trong suy nghĩ và có thể

vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào thực tế cuộc sống.

Trau dồi các kĩ năng hợp tác làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình, kĩ

năng trình bày một vấn đề lịch sử,…

Củng cố thêm khả năng tự học, tự nghiên cứu phục vụ cho việc học cao

58

hơn và học suốt đời.

2.1.1.3. Về thái độ

Tiếp tục bồi dưỡng cho các em lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự

hào, tự tôn dân tộc, ý thức xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, thống

nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Bồi dưỡng cho các em lòng biết ơn những người có công với dân tộc; ý

thức trách nhiệm đối với cha ông.

Giúp các em hiểu rõ chân lý độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa

xã hội, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tin tưởng vào sự lãnh

đạo của Đảng và tiền đồ cách mạng, tin vào thắng lơi của công cuộc đổi mới.

Đồng thời giúp các em hiểu rõ trong thời đại ngày nay, đoàn kết, hợp

tác là xu thế tất yếu khách quan. Để có thể đối chọi lại những biến động phức

tạp của tình hình trong nước và thé giới, nhất thiết phải tạo được niềm tin, sự

đoàn kết giữa các dân tộc, quốc gia. Hiểu rõ sự tất yếu phải hội nhập quốc tế,

phát triển theo xu thế an toàn cầu hóa, quốc tế hóa, tuy nhiên “hòa nhập

nhưng không hòa tan”.

2.1.2. Những nội dung cần khai thác trong chương trình Lịch sử lớp 12 THPT

– Chương trình chuẩn để giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

Vấn đề xác lập chủ quyền biển, đảo, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc là một vấn đề cần thiết, thực tiến, nhưng chưa được đưa vào chương

trình SGK một cách chính thức, cụ thể. Chính vì vậy người giáo viên lịch sử

cần phải nghiên cứu kĩ các bài, mục trong SGK để khéo léo sử dụng các biện

pháp giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo xen kẽ vào các bài, mục phù hợp.

Căn cứ vào mục tiêu giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo, ta xác

định các bài, các mục có thể giáo dục ý thức cho HS về chủ quyền biển, đảo

nhằm giúp HS ý thức được trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ chủ quyền

biển, đảo. Việc khai thác, sử dụng các tư liệu về biển, đảo trong dạy học

trong nội dung bài học nội khóa phù hợp, không chỉ góp phần giáo dục ý thức

59

HS về chủ quyền biển, đảo của dân tộc ta mà còn giúp các em mở rộng kiến

thức đã học, khéo léo kết nối kiến thức bài học với kiến thức về chủ quyền

biển, đảo. Nếu giáo viên không niết cách kết nối thì bài học trở nên rời rạc,

cứng nhắc khó hiểu.

Dựa vào cấu trúc và nội dung chương trình Lịch sử 12 THPT – Chương

trình chuẩn có thể xác định những nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc để dạy học như sau:

Bài Mục Nội dung cần khai thác

Bài 1: Sự hình Mục II: Sự Phân tích các hành động của

thành trật tự thế thành lập Liên Liên Hợp Quốc, yêu cầu học sinh căn

giới mới sau Hợp quốc cứ vào nguyên tắc hoạt động của Liên

chiến tranh thế Hợp Quốc để đánh giá những hành

giới thứ hai động của Trung Quốc ở Biển Đông

(1945 – 1949)

Bài 3: Các nước Mục II.3: Công Phân tích chính sách ngoại giao

Đông Bắc Á cuộc cải cách – của Trung Quốc thời kì mở cửa đất

mở cửa (từ năm nước từ năm 1978. Đánh giá sự thay

1978) đổi trong chính sách ngoại giao của

Trung Quốc hiện nay

Bài 4: Các nước Mục I: Các Ảnh hưởng của xung đột trên

Đông Nam Á và nước Đông Nam biển Đông đối với sự hợp tác, phát triển

Ấn Độ Á của tổ chức ASEAN và khu vực Đông

Á nói chung

Bài 8: Nhật Bản Những chính sách “trở về Châu

Á” và vấn đề xung đột trên biển Đông.

Bài 18: Những Mục I: Kháng Khai thác, sử dụng nguồn tài liệu

năm đầu của chiến toàn quốc cho thấy khi Việt Nam đang phải gấp

cuộc kháng chống thực dân rút chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn

60

chiến toàn quốc Pháp bùng nổ quốc chống thực dân Pháp, thì chính

chống thực dân quyền Trung Hoa Dân Quốc đã cho lực

Pháp (1946 – lượng đổ bộ lên các quần đảo Hoàng

1950) Sa, xâm phạm chủ quyền của ta. Đồng

thời trong thời gian này, bản đồ thể

hiện đường biên giới lưỡi bò trên biển

đã ra đời – đây là một tấm bản đồ vô

căn cứ nhưng hiện nay Trung Quốc vẫn

đang ngoan cố dựa vào đó để vi phạm

nghiêm trọng chủ quyền biển đảo của

ta.

Bài 20: Cuộc Mục II.2: Hiệp Phân tích hiệp định Giơ – ne –

kháng chiến định Giơ – ne – vơ vể việc quy định các vùng lãnh thổ

toàn quốc chống vơ giữa các lực lượng, đưa ra cứ liệu lịch

thực dân Pháp sử về chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa

kết thúc (1953 – sau hiệp định Giơ – ne – vơ là thuộc

1954) quyền kiểm soát của chính quyền Việt

Nam Cộng Hòa. Chính quyền Việt

Nam Cộng Hòa đã có những hoạt động

thực thi chủ quyền tại hai quần đảo

này…tuy nhiên năm 1974, Trung Quốc

đã cho quân tấn công và chiếm giữ trái.

phép quần đảo Hoàng Sa của ta.

Bài 21: Xây Mục III.2. Hình 61: Lược đồ phong trào

dựng chủ nghĩa Phong trào “Đổng Khởi” ở Miền Nam. Có thể hiện

xã hội ở Miền Đồng Khởi chủ quyền về các đảo: Sơn Trà, Lao

Bắc, đấu tranh Chàm, Lý Sơn, Phú Quốc, Côn Sơn,

chống đế quốc quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam), quần

61

Mĩ và chính đảo Trường Sa (Việt Nam). Có kinh độ

quyền Sài Gòn và vĩ độ.

ở Miền Nam

(1954 – 1965).

Bài 22: Nhân Mục II: Miền Khai thác nguồn tài liệu lịch sử,

dân hai miền Bắc vừa chiến các câu chuyện lịch sử về đường mòn

trực tiếp chiến đấu chống chiến Hồ Chí Minh trên biển với những con

đấu chống đế tranh phá hoại, tàu không số làm nhiệm vụ vận chuyển

quốc Mĩ xâm vừa sản xuất và chi viên cho chiến trường miền Nam….

lược. Nhân dân làm nghĩa vụ Có nêu sự kiện đế quốc Mĩ dựng

miền Bắc vừa hậu phương. lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ

chiến đấu vừa tiến hành chiến tranh phá hoại miền

sản xuất (1965 – Bắc nhằm tàn phá thành quả xây dựng

1973) chủ nghĩa xã hội và ngăn chặn sự chi

viện của miền Bắc vào miền Nam,

chứng tỏ từ thời kì này vấn đề chủ

quyền biển, đảo đã bị kẻ thù lợi dụng

để thực hiện mưu đồ đen tối.

Bài 23: Khôi Mục III.2: Cuộc Khai thác lược đồ cuộc tổng tiến

phục và phát tổng tiến công công và nổi dậy xuân 1975, bộ đội ta đã

triển kinh tế - xã và nổi dậy xuân giải phóng quần đảo Trường Sa.

hội ở miền Bắc, 1975

giải phóng hoàn

toàn miền Nam

(1973 – 1975)

Bài 26: Đất Mục I: Đường Vai trò của biển, đảo được thể

nước trên đường lối đổi mới của hiện qua các chủ trương, chính sách của

62

đối mới đi lên Đảng Đảng nhằm mục tiêu khai thác tổng

chủ nghĩa xã hội hợp kinh tế biển phục vụ sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an

ninh quốc phòng, hội nhập thế giới.

Qua các bài, mục có liên quan đến chủ quyền biển, đảo trong chương

trình nội khóa, chúng ta sẽ sử dụng các phương pháp dạy học và các tài liệu

về chủ quyền biển, đảo bằng các phương pháp sư phạm để làm nổi bật và giúp

HS nhận thức sâu sắc các vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất: Bằng chứng lịch sử, cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền

biển đảo của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn

1956 – 1975.

Thứ hai: Một số vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên biển Đông

gữa Việt Nam và các quốc gia khác trong khu vực.

Thứ ba: Những giá trị, tiềm năng kinh tế - xã hội của biển, đảo đối với

công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ tư: Giáo dục ý thức về bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

HS không những nhận thức được chủ quyền biển đảo của quốc gia đến

đâu mà còn ý thức được việc đấu tranh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc. Đó là đấu tranh bằng biện pháp hòa bình như đàm phán, ngoại giao và

vận dụng luật pháp quốc tế trên cơ sở thượng tôn pháp luật, đáp ứng nguyện

vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam, nhân dân Quốc tế.

Trước diễn biến của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt trước sự

chống phá của các thế lực thù địch, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Kiên

quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ của Tổ quốc”. Đảng ta nhấn mạnh mục tiêu, yêu cầu bảo vệ lợi ích

quốc gia, dân tộc; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên vị trí hàng đầu; trong đó

khẳng định ý chí quyết tâm, “kiên quyết, kiên trì” đấu tranh để giữ vững chủ

quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; không để đất nước bị động, bất ngờ,

63

không để mất đất, mất đảo, mất dân:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức ngày

càng đầy đủ, sâu sắc hơn về mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh sự cần thiết

phải bình tĩnh, sáng suốt, chủ động, sáng tạo, kiên quyết, kiên trì trong giải

quyết những bất đồng, những tranh chấp về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, dân

tộc bằng biện pháp hòa bình nhằm giữ vững và bảo toàn lợi ích quốc gia, dân

tộc, coi giá trị hòa bình là cao nhất. Đồng thời chỉ rõ: cần chủ động, tích cực

chuẩn bị về mọi mặt để có kế sách hay, ứng phó thắng lợi trước các tình

huống khác có thể xảy ra, khi biện pháp đàm phán, thương lượng hòa bình

không còn phát huy tác dụng. Vì vậy, cần đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo, nắm

chắc tình hình, kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước những đối sách phù hợp

với từng đối tác, đối tượng, từng tình huống có thể xảy ra.

Hai là, nếu như trước đây, chúng ta mới nhấn mạnh việc kết hợp quốc

phòng, an ninh với kinh tế và kinh tế với quốc phòng, an ninh thì Đại hội XII

yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ cả kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an

ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là giải pháp

thiết thực để giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội

chủ nghĩa. Việc kết hợp này cần được thực hiện trong từng chiến lược, quy

hoạch, phát triển kinh tế - xã hội, cần phải kiên quyết, kiên trì thực hiện trên

tất cả mọi vùng, miền của Tổ quốc, trong đó chú trọng các đô thị lớn, vùng

sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

Ba là, cần thiết phải xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với

xây dựng, củng cố vững chắc thế trận an ninh nhân dân, xây dựng thế trận

lòng dân, nhất là ở các địa bàn chiến lược trọng yếu, đô thị lớn, vùng sâu,

vùng xa, biên giới, biển, đảo. Việc điều chỉnh thế trận, bố trí các lực lượng tác

chiến ngày càng hợp lý và đạt hiệu quả cao hơn; việc xây dựng thế trận an

ninh nhân dân, thế trận lòng dân có bước phát triển vững chắc. Kết quả là an

ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, chủ động ngăn ngừa và

64

chuẩn bị tốt mọi phương án, đối phó thắng lợi mọi tình huống có thể xảy ra.

Vì thế, ở một số điểm nóng, địa bàn trọng yếu, chiến lược, an ninh quốc gia,

trật tự, an toàn xã hội dần dần ổn định. Nhờ đó, tiềm lực quốc phòng, an ninh

ngày càng được củng cố vững chắc, được nhân dân tin tưởng, đồng tình ủng

hộ và giúp đỡ. Đây là cơ sở để chúng ta bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

2.2. Những yêu cầu cơ bản khi xác định các biện pháp giáo dục ý thức

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp

12 – chƣơng trình chuẩn

2.2.1. Xác định đúng những kiến thức cơ bản cần dạy

Xuất phát từ mục tiêu đào tạo chung và vai trò, ý nghĩa của bộ môn,

dạy học Lịch sử ở trường phổ thông phải cung cấp cho học sinh những kiến

thức cơ bản có hệ thống về lịch sử phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã

hội loài người. Trên cơ sở, giáo dục cho học sinh những tư tưởng, tình cảm

đúng đắn (niềm tin, lý tưởng, truyền thống dân tộc, lòng yêu nước, lòng biết

ơn, kính yêu các bậc tiền bối…) và rèn luyện các năng lực nhận biết, năng lực

hành động , kỹ năng, kỹ xảo. Tức là bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông phải

thực hiện ba nhiệm vụ: bồi dưỡng nhận thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo

đức và phát triển học sinh. Do vậy, xác định đúng kiến thức cơ bản trong

chương trình môn học là yêu cầu quan trọng để dạy học Lịch sử đạt hiệu quả.

Bám sát những mục tiêu và nội dung được đề cập trong quá trình, chuẩn kiến

thức, kĩ năng cần đạt sẽ giúp giáo viên xác định được cần phải dạy cái gì để từ

đó dạy như thế nào. Trong dó, sách giáo khoa là tài liệu chính để giáo viên sử

dụng trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

và là tài liệu chính để học sinh học tập.

Đối với các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, khối lượng

thông tin cũng vô cùng phong phú, đồ sộ. Tuy nhiên, không phải cái gì cũng

65

phải cung cấp cho học sinh hay hướng dẫn học sinh khai thác ở trên lớp được

chọn lựa kĩ càng, đó phải là những kiến thức phục vụ trực tiếp cho bài học và

thống nhất với quan niệm chung của xã hội hiện nay.

2.2.2. Phù hợp với đặc điểm, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh

Mỗi lứa tuổi học sinh lại có những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau.

Theo các nhà nghiên cứu, học sinh THPT nói chung và học sinh lớp 12 nói

riêng là những đối tượng đã ở vào độ tuổi thanh niên, khả năng phát triển trí

tuệ hay khả năng tư duy của các em có sự thay đổi mạnh và nhanh chóng theo

hướng tích cực, độc lập và tư duy từ lý luận phát triển mạnh. Các em có khả

năng và rất ưa thích khái quát các vấn đề. Sự phát triển mạnh của tư duy lý

luận của học sinh THPT có liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo. Nhờ khả

năng khát quát, các em mới có thể tự mình phát hiện ra cái mới. Các em đề

cao và tôn trọng các bạn thông minh và các thầy cô có phương pháp giảng

dạy tích cực, tôn trọng những suy nghĩ độc lập của học sinh, phê phán sự gò

ép, máy móc trong phương pháp sư phạm […..]. Đặc điểm này khác biệt so

với học sinh Tiểu học và học sinh THCS. Với học sinh Tiểu học: tri giác và

đánh giá không gian của học sinh Tiểu học chưa chính xác, đặc biệt về những

vật quá lớn hoặc quá nhỏ, đối với biểu tượng thời gian, trí giác vẫn còn hạn

chế. Những khái niệm như thế kỉ, thập niên…còn rất mơ hồ và trừa tượng;

khả năng tư duy khái quát mới ở giai đoạn bắt đầu hình thành … Còn với học

sinh THCS, so với học sinh Tiểu học, tất cả các mặt tâm lý, tình cảm, nhận

thức của các em đã phát triển lên một tầm mức mới, có sự phân hóa sâu sắc

hơn, điển hình hơn. Nét đặc trưng của tư duy giai đoạn này là học sinh ý thức

được các thao tác trí tuệ của bản thân và kiểm soát được chúng. Đây cũng là

đặc điểm của các hiện tượng tâm lý khác. Tuy nhiên, các loại tư duy lý luận,

phân tích, tư duy hình thức mới ở giai đoạn đầu, chưa hoàn thiện và ở mức

thấp hơn so với giai đoạn của học sinh THPT.

Chính vì thế khi dạy học, giáo viên phải nắm rõ các đặc điểm tâm sinh

lý của đối tượng học sinh khác nhau để vận dung các phương pháp dạy học

66

cho phù hợp. Tuy nhiên, bất cứ khi nào, với đối tượng nào cũng cần sáng tạo,

phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, với đối tượng học sinh THPT

đeiều đó lại càng cần thiết.

2.2.3. Đảm bảo tính cụ thể, hình ảnh, giàu biểu tƣợng lịch sử

Xuất phát từ quy luật của nhận thức và đặc điểm của nhận thức lịch sử

đó là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, chính vì vậy, khi dạy

học Lịch sử, việc đảm bảo tính cụ thể, giàu hình ảnh, biểu tượng lịch sử là vô

cùng quan trọng. Nó không chỉ giúp cho bài học trở nên sinh động hơn mà

còn hỗ trợ tích cực cho quá trình nhận thức của học sinh. Tính cụ thể, giàu

biểu tượng được hình thành bằng nhiều cách thức khác nhau. Trong dạy học

Lịch sử về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cũng thế, để tạo biểu tượng cho

học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử ở

học sinh giáo viên có thể sử dụng các tài liệu thao khảo như các tài liệu lịch

sử, tài liệu văn học, văn kiện của Đảng, Nhà nước, các tác phẩm của Hồ Chí

Minh,…

Những sự kiện, những con số cụ thể có chọn lọc minh họa cho các nội

dung bài học cũng có khả năng đem lại hiệu quả khá lớn. Thông qua những tư

liệu, học sinh cũng có thể nhận thức được tầm quan trọng trong cuộc đấu

tranh của nhân dân ta.

Ví dụ 1: Khi dạy mục IV.1 bài 23: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã

hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975) – tìm hiểu về

nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, trong đó có

vai trò của hậu phương miền Bắc trong kháng chiến chống Mĩ giai đoạn này,

giáo viên có thể cung cấp những tư liệu giàu hình ảnh sau về tuyến đường Hồ

Chí Minh trên biển huyền thoại: “Như vậy, trong suốt 15 năm làm nhiệm vụ

vận tải chiến lược quân sự trên biển (1961 – 1975), Đoàn 125 đã huy động

được 1.879 lượt tàu thuyền, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí trang bị kĩ thuật,

thuốc chữa bệnh và 80.026 cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam ,

67

chiến đấu hàng trăm trận với máy bay, tàu chiến của Mỹ và quân đôi Sài Gòn.

Với những thành tích đã đạt được, Đoàn 125 Hải quân vinh dự được Đảng,

Nhà nước hai lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (năm

1967 và năm 1976), 5 Huân chương quân công, 12 Huân chương Chiến công.

5 tàu và 8 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

( Dựa theo: thiếu tướng, PGS.TS Vũ Quang Đạo (2011) Đường Hồ Chí Minh

trên biển – một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng

chiến chống Mĩ, cứu nước. Tạp chí cộng sản

(http://www.tapchicongsan.org.vn), 8/11/2011)

Từ những tư liệu trên, HS có thể nhận thức được tầm quan trọng của

tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Để tăng tính hiệu quả của tư liệu, giáo viên có thể kết hợp sử dụng các loại

đồ dùng trực quan khác nhau như là: Hình ảnh minh họa, bản đồ, phim tư liệu…

Ví dụ 2: Sau đây là hình ảnh giáo viên có thể sử dụng để làm rõ tính

chất ác liệt của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng hải quân, không

quân, phá hoại miền biển của ta:

Hình 2.1. Máy bay B52 và máy bay 6A6 của Mĩ ngày đêm ném bom và

thả ngư lôi phong tỏa cửa sông, cảng biển ở nhiều tỉnh phía Bắc.

(Nguồn: http://www.baophuyen.com.vn/76/91470/viec-ky-hiep-dinh-

68

paris-va-cuoc-nem-bom-b-52-cua-my.html)

Giáo viên cung cấp thêm thông tin kết hợp chỉ trên hình ảnh: Đây là

hình ảnh của máy bay B52 được coi như siêu pháo đài bay, thần tượng của

không lực Hoa Kỳ và máy bay chiến thuật A6A mà Mĩ Đã sử dụng trong ném

bom bắn phá miền Bắc nước ta. Từ ngày 11-5-1972, máy bay Mỹ tiếp tục rải

mìn bịt luồng ra vào các cảng Hồng Gai, Cẩm Phả, các cửa sông và vùng ven

biển miền Bắc nước ta. Từ ngày 9-5-1972 đến tháng 1-1973, địch đã thả ở 8

tỉnh – thành miền Bắc với 166 điểm, gòm hàng vạn quả bom từ trường, thủy

lôi, mìn các loại; diện tích bị phong tỏa ở các khu vực trọng điểm gần 478km,

suốt từ Quảng Ninh, Hải Phòng đến cửa Tùng, cửa Việt...

Như vậy, khi sử dụng những hình ảnh đầy tính trực quan và những

thông tin cần thiết, học sinh đã có thể hình dung một cách rõ ràng những âm

mưu và thủ đoạn thâm độc của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại

miền Bắc lần này.

2.2.4. Đảm bảo tính sƣ phạm, tính khoa học, tính tƣ tƣởng

Dạy học là một quá trình được tổ chức theo một chương trình chuẩn

mực nhằm mục tiêu đào tạo những con người vừa hồng vừa chuyên cho sự

nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Hay nói cách khác, bất cứ

hoạt động giáo dục nào cũng phải hướng đến mục tiêu phát triển nhân cách

của học sinh. Vì vậy, ngay cả khi tổ chức dạy học các nội dung về chủ quyền

biển, đảo Tổ quốc cho học sinh cũng phải đảm bảo được mục tiêu trên. Đó là

nguyên tắc hàng đầu trong giáo dục.

Tính sự phạm được thể hiện thông qua các hoạt động của người giáo

viên: phải thể hiện tính mẫu mực, khuân phép của một nhà giáo làm gương

cho học sinh noi theo; các phương pháp dạy học đảm bảo phát huy tính tích

cực, sáng tạo của học sinh, khơi gợi niềm đam mê học tập từ học sinh, khích

lệ sự tu dưỡng, rèn luyện trong cuộc sống; xây dựng được một môi trường sư

phạm thuận lợi cho học sinh được thi đua, hợp tác, tương trợ nhau trong học

69

tập và rèn luyện. Nói chung, quá trình dạy học phải đảm bảo hướng tới mục

tiêu hình thành cho học sinh ý thức công dân và các phẩm chất của người lao

động sáng tạo.

Tính khoa học và tính tư tưởng gắn liền với tính sư phạm trong dạy học.

Tính khoa học thể hiện qua nhiệm vụ dạy học, phương pháp tppr chức, nội

dung bài giảng.

Nhiệm vụ của dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng đó là

trang bị cho học sinh một hệ thống các hiểu biết cơ bản về xã hội loài người

với những thành tựu mới nhất của khoa học – công nghệ, sát với thực tế cuộc

sống; góp phần hình thành nhân sinh quan, thế giới quan khoa học, phương

pháp làm việc khoa học cho học sinh.

Khi vận dụng các phương pháp vào trong dạy học, giáo viên rất cần

phải dựa vào những quy luật phát triển, đặc điểm tâm lý của học sinh để tổ

chức cho phù hợp, hiệu quả. Tất cả những cơ sở này đều là kết quả của nghiên

cứu khoa học.

Dạy học nói chung chịu ảnh hưởng của những chỉ đạo của Đảng và

Nhà nước ta, nội dung dạy học phải phù hợp với những mục tiêu của cấp học,

bậc học được đặt ra, phù hợp với những chủ trương, chính sách của Đảng.

Như vậy, bên trên là một số yêu cầu cơ bản khi xác định các biện pháp

để tổ chức dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh.

Mỗi yêu cầu nhấn mạnh một phương diện, một khía cạnh của quá trình dạy

học. Trong dạy học, giáo viên cần quán triệt các yêu cầu cơ bản trên, thực

hiện được điều đó sẽ giúp đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.

2.2.5. Đảm bảo phát huy tính tích cực học tập, tính chủ động, sáng tạo ở

học sinh

Trước yêu cầu đổi mới hoạt động dạy học lịch sử hiện nay, nâng cao

tính tích cực chủ động cho học sinh được coi là chìa khóa then chốt cho việc

nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Nếu giờ học lịch sử tạo được sự hứng

thú, sự tích cực, sức lôi cuốn đối với học sinh thì sẽ thôi thúc các em tự tìm

70

hiểu, học tập không cần đến những biện pháp thúc ép, tác động từ bên ngoài.

Do vậy trong các giờ học lịch sử nói chung và giờ học về chủ quyền biển đảo

tổ quốc nói riêng, nhiệm vụ của giáo viên là vận dụng linh hoạt, kết hợp

nhuần nhuyễn nhiều phương pháp dạy học, tạo điều kiện cho học sinh chủ

động tham gia vào các hoạt động học tập với mục đích là phát huy tính tích

cực, chủ động, sáng tạo ở các em. Với tư cách là chủ thể khám phá, học sinh

sẽ thực sự nắm vững kiến thức, khắc sâu kiến thức và có xu hướng tiếp tục

tìm hiểu mở rộng kiến thức.

Để nâng cao chất lượng dạy học nói chung , giờ học lịch sử nói riêng

và đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực lấy học sinh làm

trung tâm người thầy chỉ là người chỉ đạo hướng dẫn cách tiếp thu nguồn kiến

thức trong một giờ học. Vậy “Phát huy tính tích cực, chủ động của học

sinh”ở trên lớp đối với môn học lịch sử ở trường trung học cơ sở là một vấn

đề mà đòi hỏi người học sinh phải tập chung tìm hiểu suy nghĩ những kiến

thức của bài học ,phải chủ động tiếp thu những kiến thức ở sách giáo khoa,ở

các nguồn tư liệu thông tin khác người thầy chỉ hướng dẫn, chỉ đường dẫn lối

cho các em đi đúng hướng của bài học.

Tạo được hứng thú, phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của

học sinh trong các giờ học về chủ quyền biển đảo tổ quốc là một thành công

của người giáo viên lịch sử trên bước đường giáo dục, định hướng cho học

sinh về trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo tổ

quốc nói riêng và chủ quyền lãnh thổ tổ quốc nói chung.

Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh là một yếu tố rất quan

trọng giúp cho tiết dạy của Gv được thành công. Muốn vậy Gv phải đổi mới

về phương pháp, hình thức dạy học để giúp các em tích cực khai thác kiến

thức thông qua quá trình học tập.

2.3. Một số hình thức và biện pháp giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo

71

của Tổ quốc cho học sinh lớp 12 trong dạy học lịch sử

2.3.1. Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh

trong giờ học nội khóa

Do đặc thù của môn Lịch sử là mang tính quá khứ, HS không thể trực

tiếp tiếp xúc với những sự kiện, nhân vật lịch sử, mà chỉ có thể dựa vào những

nguồn sử liệu để tham khảo, nhận thức và đánh giá. Việc GV cung cấp những

cứ liệu lịch sử làm bằng chứng về việc xác lập chủ quyền biển đảo Tổ quốc

một cách hòa bình và liên tục qua các triều đại phong kiến Việt Nam cho HS,

không chỉ giáo dục cho HS ý thức công dân về biển đảo quê hương, mà còn

giáo dục cho các em lòng tự hào, tình yêu quê hương đất nước, đặc biệt là hai

quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Tuy nhiên, trong chương trình sách giáo khoa lịch sử hiện hành, kiến

thức về biển đảo được đưa vào còn chưa nhiều. Những hiểu biết về biển đảo

của HS có được chủ yếu dựa trên tìm hiểu sách báo hoặc các phương tiện

truyền thông, thiếu sự định hướng, dẫn đến nhiều cách hiểu chưa thấu đáo. Vì

vậy cần trang bị cho HS những kiến thức chủ yếu về biển đảo Việt Nam và

đây là một trong những nhiệm vụ của môn học lịch sử ở trường phổ thông.

Kiến thức về biển đảo Việt Nam trang bị cho HS phải đảm bảo tính chính xác,

chân thật và khoa học. Biết được những cứ liệu lịch sử về chủ quyền biển đảo

này sẽ giúp HS càng thêm yêu và tự hào hơn về quê hương đất nước mình.

Trên cơ sở mục tiêu của dạy học lịch sử nói chung và nội dung chương

trình, mục tiêu của Lịch sử lớp 12 nói riêng, đề tài đề xuất một số biện pháp

tổ chức dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc như sau:

2.3.1.1. Sử dụng tài liệu tham khảo về chủ quyền biển, đảo để giáo dục ý thức

về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh

Sử dụng TLTK giúp HS có thêm cơ sở để hiểu biết bản chất các sự kiện,

hình thành khái niệm, hiểu rõ những quy luật, bài học lịch sử. TLTK là phương

tiện có hiệu quả để hiểu rõ hơn SGK, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.

Biết làm việc với TLTK sẽ rèn luyện cho học sinh nhiều kĩ năng tốt: kĩ

72

năng phát hiện kiến thức cơ bản qua TLTK, kĩ năng đối chiếu SGK – TLTK

để khắc sâu kiến thức cơ bản, kĩ năng trình bay kiến thức cơ bản qua TLTK,

sử dụng TLTK để trả lời câu hỏi, sưu tầm TLTK…

Cách thức sử dụng TLTK cũng rất đa dạng.

- Sử dụng tài liệu tham khảo về chủ quyền biển, đảo để cung cấp thêm

thông tin cho học sinh.

Ví dụ 1, trước khi dạy bài 23: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở

miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975), Giáo viên có thể

cung cấp thông tin về trận Hải chiến Trường Sa năm 1974 với sự kiện Trung

Quốc cho quân chiếm đảo Hoàng Sa của nước ta:

Ngày 14/1/1974, một tàu của quân Việt Nam Cộng Hòa đã phát hiện 2 tàu

hải quân Trung Quốc đang thả neo tại đảo Hữu Nhật (thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm

của quần đảo Hoàng Sa), đây vốn là đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Lập tức ngày 16/1/1974, tàu HQ-16 của Việt Nam Cộng Hòa tức tốc ra

thẳng đảo Hữu Nhật và phát hiện đảo Hữu Nhật và các đảo gần đó là Duy

Mộng, Quang Hòa đều đã bị Trung Quốc ngang nhiên chiếm giữ. Phía Việt

Nam Cộng Hòa yêu cầu Trung Quốc rời khỏi các đảo thuộc chủ quyền của

Việt Nam, nhưng Trung Quốc cũng yêu cầu Việt Nam phải rời ngay khỏi các

đảo thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Ngày 18/1, Chu Ân Lai họp Bộ Chính Trị và quyết định sẵn sàng tấn

công hạm đội Việt Nam Cộng Hòa, sẵn sàng điều quân đến Hoàng Sa.

Ngày 18/1/1974, Việt Nam Cộng Hòa đã chuẩn bị 4 tàu chiến nhằm

chiếm lại đảo. Đây đều là 4 tàu cũ của Mỹ để lại, trong đó có một tàu để quét

thủy lôi được cải tiến để thành tàu tuần tra.

10 giờ sáng ngày 18/1/1974 , tàu HQ-16 mang theo quân đổ bộ đến đảo

Quang Hòa, nhưng bị tàu Trung Quốc cản không cho lại gần đảo, khiến tàu

HQ-16 chuyển hướng khác rồi dùng xuồng cao su tấn công chiếm lại đảo. Thế

nhưng phía Trung Quốc phát hiện và nổ súng khiến 1 thiếu úy tử trận, cuộc đổ

73

bộ bất thành và phải rút lên tàu HQ-16.

Sáng 19/1/1974, các tàu chiến của Việt Nam Cộng Hòa nhận lệnh đến

chiếm lại đảo Quang Hòa trong hòa bình với mệnh lệnh không được nổ súng

trước, yêu cầu phía Trung Quốc rời khỏi đảo.Trên đảo Quang Hòa lúc này có

cả một đại đội Trung Quốc chiếm giữ, phía Việt Nam Cộng Hòa chỉ có 74

người. Khi những người lính Việt Nam Cộng Hòa vừa đặt chân lên đảo yêu

cầu Trung Quốc rút khỏi đây, lập tức phía Trung Quốc nổ súng đáp trả, khiến

bên Việt Nam Cộng Hòa 2 người tử trận, 2 người bị thương.

Trước Việc Trung Quốc hung hăng không chịu rút khỏi đảo, phía Việt

Nam Cộng hòa quyết định phải nổ súng để chiếm lại đảo. 4 tàu chiến của Việt

Nam Cộng Hòa chia 2 hướng tiến đánh. Tàu HQ-10 và HQ-16 tiến vào lòng

chảo quần phía bắc đảo Quang Hòa; tàu HQ-4 và HQ-5 tiến vào lòng chảo từ

hướng tây nam.

Hình 2.2 Sơ đồ trận chiến theo mô tả trong sách Tài liệu

Hải chiến Hoàng Sa của Vũ Hữu San và Trần Đỗ Cẩm

(Nguồn: http://www.daikynguyenvn.com/trong-nuoc/dien-bien-cuoc-

hai-chien-hoang-sa-cach-day-42-nam.html)

10h25 ngày 19/1/1974, các tàu Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu khai hỏa

74

dùng pháo bắn vào các tàu Trung Quốc, các tàu chiến của Trung Quốc di

chuyển liên tục nhằm tránh đạn và nổ pháo bắn trả. Lúc này các thiết bị của

Việt Nam Cộng Hòa do quá cũ kỹ nên rất khó liên lạc được với nhau ảnh

hưởng lớn đến việc phối hợp.

Tàu HQ-4 vừa nhả đạn thì bộ phận bắn tự động bị hỏng, phải bắn bằng

tay từng phát một rất nặng nề và chậm chạp lại không chính xác, vì vậy tàu

HQ-4 phải rút lui để sửa chữa dưới sự yểm trợ của tàu HQ-5.

10h35 tàu HQ-10 bị trúng đạn, hạm trưởng bị thương, nước bắt đầu

tràn vào tàu, nhưng binh sĩ trên tàu vẫn bình tĩnh giao tranh với các tàu Trung

Quốc. Tàu Trung Quốc mang số hiệu 389 bị trúng đạn bốc cháy. Tàu Trung

Quốc mang số hiệu 396 cũng bị trúng đạn, nhưng trước khi bị chìm tàu này đã

tìm cách đâm vào tàu HQ-10 rồi chìm hẳn. Tàu HQ-10 vừa trúng đạn lại bị

đâm nên không điều khiển được.

10h55 do thiết bị quá cũ kỹ nên đạn pháo của tàu HQ-5 bắn nhầm vào

tàu HQ-16 khiến tàu này không thể tham chiến được và rút lui.Thêm một tàu

Trung Quốc số hiệu 274 bị trúng đạn bốc cháy phải dạt vào đảo Quang Hòa.

11h Trung Quốc điều thêm tàu trợ lực tấn công tàu HQ-5 khiến tàu này

bị trúng đạn hỏng mất tháp pháo và hệ thống liên lạc. Tuy thế tàu HQ-5 vẫn

cố gắng cầm cự khiến tàu Trung Quốc bị trúng đạn.

11h10 tàu HQ-10 dần dần chìm hẳn, hạm trưởng cùng 62 binh sĩ khác

đã nằm lại tại nơi đây mãi mãi, số còn lại tìm cách thoát được ra ngoài tàu.

Lúc này bên Việt Nam Cộng hòa có 4 tàu thì 1 tàu bị hỏng, 1 tàu bị

chìm, 2 tàu bị trúng đạn và số đạn pháo còn lại rất ít. Lúc này cố vấn Hoa Kỳ

cho biết Trung Quốc điều thêm 17 tàu đến (gồm 4 tàu ngầm và 13 chiến hạm),

vì thế nên quyết định rút lui. Các tàu Trung Quốc sau giao tranh bị trúng đạn

hỏng nặng cũng phải rút về đảo.

Phía bên Việt Nam Cộng Hòa có 74 binh sĩ tử trận (trong đó riêng tàu

HQ-10 có 63 binh sĩ gồm cả trạm trưởng Ngụy Văn Thà). Trung Quốc chiếm

75

đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ đó.

Hình 2.3. Bốn chiến hạm Việt Nam Cộng hòa tham gia trận chiến.

(Nguồn: http://www.daikynguyenvn.com/trong-nuoc/dien-bien-cuoc-

hai-chien-hoang-sa-cach-day-42-nam.html)

Qua đó GV có thể đặt thêm câu hỏi như: Em có nhận xét gì về hành

động xâm phạm của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa?. Sự kiện trên đã vi

phạm điều lệ nào trong hiến chương của Liên Hợp Quốc?...

Việc mở rộng thêm thông tin như vậy, học sinh sẽ có thêm tư liệu để

hình dung rõ hơn về những hành động xâm phạm nghiêm trọng của Trung

Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1974, họ đã cướp quần đảo Hoàng Sa

từ tay của quân đội Việt Nam Cộng hòa.

Ví dụ 2, Ngoài ra, Giáo viên có thể giúp học sinh hiểu rõ hơn về sự xác

lập chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa qua những thông tin về Bia chủ quyền

năm 1938:

Năm 1938, Pháp dựng bia chủ quyền, xây dựng xong đèn biển, trạm

khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Hoàng Sa, trong quần đảo Hoàng Sa, xây

76

dựng trạm khí tượng, đài vô tuyến điện ở đảo Itu Aba trong quần đảo trường

Sa. Hàng chữ trên bia: “Cộng hòa Pháp, vương quốc An – nam, quần đảo

Hoàng Sa, 1816-đảo Pattle-1938 ( 1816 là năm vua Gia Long thực hiện chủ

quyền của Việt Nam đối với các đảo Hoàng Sa, 1938 là năm dựng bia)

Ngày 4/12/1931 và ngày 24/4/1932, Pháp phản kháng chủ phủ Trung

Quốc về việc chính quyền Quảng Đông lúc đó có ý định cho đấu thầu khai

thác phân chim trên đảo Hoàng Sa

Hình 2.4. Bia chủ quyền do Pháp dựng ở đảo Hoàng Sa năm 1938

(Nguồn: www.baotangdanang.vn)

Tiếp đó, ngày 20/4/1971, chính quyền Sài Gòn khẳng định một lần nữa

77

quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Hình 2.5. Bia chủ quyền Việt Nam dựng trên đảo Trường Sa,

quần Đảo Trường Sa (1961)

(Nguồn: doithoaionline2.blogspot.com)

Ngày 13/7/1971, Ngoại Trưởng chính quyền Sài Gòn khẳng định một

lần nữa chủ quyền của việt Nam đối với quần đảo đó trong cuộc họp báo ngày

10/7/1971.

Ngày 19/1/1974, lực lượng quân sự của Cộng hòa Nhân dân Trug Hoa

chiếm đóng nhóm Tây Nam của quần đảo Hoàng Sa, và cũng trong ngày này

chính quyền Sài Gòn tuyên bố lên án cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xâm

phạm toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngày 24/2/1974 tuyên bố khẳng định

quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Việt

Nam.

Suốt trong thời gian đại diện Việt Nam về mặt đối ngoại, Pháp luôn

luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa và phản kháng những hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ

quyền của Việt Nam ở hai quần đảo.

Như vậy, từ thế kỉ XVII đến nay, suốt trong mấy thế kỷ, Nhà nước Việt

Nam đã thực hiện chiếm hữu không ngừng, thực thi quyền quản lý về mặt nhà

nước một cách liên tục và hòa bình chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần

78

đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước Việt Nam luôn bảo vệ tích cực các

quyền và danh nghĩa của mình trước mọi mưu đồ và hành động xâm phạm tới

chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam đối với hai quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa.

- Giao bài tập cho HS tìm hiểu về chủ quyền biển, đảo thông qua TLTK

Đây là cách giúp HS củng cố kiến thức cơ bản của bài học, đồng thời

rèn luyện kỹ năng học tập cần thiết, gắn học đi đôi với hành. Do những nội

dung về chủ quyền biển, đảo được đề cập trong chương trình chưa nhiều,

những hiểu biết về chủ quyền biển, đảo của HS có được chủ yếu dựa trên tìm

hiểu sách báo hoặc các phương tiện truyền thông, thiếu đi sự định hướng, dẫn

đến nhiều cách hiểu chưa thấu đáo. GV có thể tăng cường ra bài tập về nhà

cho HS tìm hiểu thông qua các dạng sau:

 Sưu tầm hệ thống bản đồ xác lập chủ quyền biển, đảo, đặc biệt là

chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giai đoạn 1965 – 1975…

 Tìm hiểu những nhân vật lịch sử đã anh dũng chiến đấu và hy sinh

để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo quê hương…

 Tìm hiểu những tư liệu chính sử chứng minh chủ quyền Hoàng Sa,

Trường Sa là của Việt Nam…

Ví dụ 1: Trước khi dạy bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến

toàn quốc hống thực dân Pháp (1946 – 1950), giáo viên có thể giới thiệu : Lợi

dụng Việt Nam đang phải đối phó với sự trở lại của thực dân Pháp và lo

kháng chiến chống Pháp, quân Tưởng Giới Thạch và sau đó là quân CHND

Trung Hoa đã tiến hành chiếm đóng các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và quần

đảo Trường Sa. Cũng trong thời gian này, một công chức tên là Bai Meichu

của chính quyền Đài Loan đã vẽ và xuất bản bản đồ Nam Hải Chư đảo, trong

đó có thể hiện đường biên giới bao trùm khoảng 80% diện tích Biển Đông,

thường được gọi là đường bien giới “lưỡi bò” mà không dựa vào bất cứ một

79

tiêu chuẩn nào theo luật pháp và thực tiễn quốc tế.

GV đưa ra bài tập để HS chuẩn bị trước ở nhà cho tiết học sau, phân

công nhiệm vụ cho các nhóm với các câu hỏi định hướng như sau:

1. “Đường lưỡi bò” là gì, chúng được xuất bản và chỉnh sửa vào những

năm nào? Chúng có đặc điểm gì?

2. Trung quốc đã đưa ra những yêu sách gì khi cho xuất bản tấm bản đồ

về “đường lưỡi bò”?

3. Phản ứng của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với yêu

sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc như thế nào?

Với những câu hỏi trên, GV có thể cho HS tùy chọn các thành viên yêu

thích vấn đề vào cùng 1 nhóm. GV giới thiệu một số TLTK để HS tìm hiểu

như cuốn sách “Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam” do tập thể nhiều tác

giả xuất bản năm 2008 hay là cuốn sách “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông”

của tác giả Trần Công Trục. Ngoài ra HS còn có thể tìm đọc các tài liệu trên

các trang mạng tại nhà như http://www.vietthuc.org với bài viết có tựa đề

“Bản đồ “đường lưỡi bò” trên biển Đông: Đường yêu sách phi lý của Trung

Quốc”. Hoặc một số trang web như: http://biengioilanhtho.gov.vn hay

http://quangngai.gov.vn.

Trong quá trình tiến hành bài học phần I.1 Thực dân Pháp bội ước và

tiến công nước ta, GV yêu cầu từng nhóm trình bày trước lớp bài tập mà GV

giao về nhà. HS cử đại diện nhóm lên trình bày, nhóm khác phản biện. GV

nhận xét và bổ sung. Cuối giờ học nên cho điểm các nhóm để các em biết

được mức độ hoàn thành bài tập của mình để những phần chuẩn bị về sau

được tốt hơn.

Ví dụ 2: Đối với bài 4 “Các nước Đông Nam Á và Ấn Độ” Để có thể

giúp HS hiểu rõ hơn những thách thức mà ASEAN đang gặp phải trên con

đường hướng tới mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN vào năm 2015 trong

đó có vấn đề tranh chấp trên biển Đông cũng như vị thế của tổ chức này trong

80

việc đảm bảo an ninh khu vực Đông Nam Á.

Giáo viên có thể kết hợp giữa việc cung cấp TLTK với một số trang

web của tổ chức ASEAN như https://asean.thuvienphapluat.vn,

http://asean.mofa.gov.vn và đặt câu hỏi định hướng cho HS khai thác tài liệu:

1. Nội dung cơ bản của mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN vào năm

2015 là gì? Vấn đề biển Đông có tác động như thế nào đến việc thực hiện mục

tiêu đó?

2. Những lý do nào khiến vấn đề biển Đông khó giải quyết? (Chủ quan,

khách quan).

3. ASEAN có thể đảm nhiệm được vai trò trung tâm hòa giải các mâu

thuẫn hiện tại giữa các bên tranh chấp trên biển Đông hiện nay không? Đó có

thể là những giải pháp nào (hòa bình hay bằng vũ lực)? Trong số những giải

pháp đó, đâu là giải pháp tối ưu?

4. Vai trò của Việt Nam là ở đâu trong tình huống này?

Bên cạnh đó, cần chỉ ra rằng chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam Á, mà

hợp tác ASEAN là một biểu hiện, cũng còn khá non trẻ. Trong khi sự phát

triển và suy tàn của các đế chế ở châu Âu với tầm ảnh hưởng bao trùm rộng

lớn đã góp phần tạo điều kiện cho các dân tộc ở châu Âu có sự giao thoa, qua

đó hình thành bản sắc riêng của châu lục thì tại Đông Nam Á, sự chia rẽ về

mặt địa lý, ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực, của các đế quốc trong

giai đoạn thuộc địa và ảnh hưởng của Chiến tranh lạnh đã khiến các dân tộc

Đông Nam Á phần nào bị chia rẽ, ít giao lưu và hiểu biết về nhau hơn, đặc

biệt so với EU.

Qua việc phân tích các tài liệu, HS có khả năng nhận thức rõ hơn đặc

điểm trong sự liên kết của tổ chức ASEAN: không giống như liên minh Châu

Âu EU – một hình mẫu lý tưởng trong liên kết khu vực, đó là một tổ chức

siêu chính phủ, do vậy, tính kết dính giữa các thành viên rất cao, còn ASEAN

chỉ là một tổ chức liên chính phủ hoạt độngt heo Phương cách ASEAN mà

81

tham vấn, đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ các nước khác

là trụ cột đã tạo ra một sự ràng buộc lỏng lẻo giữa các thành viên ASEAN,

làm suy yếu khả năng hợp tác an ninh, chính trị sâu rộng hơn của khu vực,

đặc biệt trong những vấn đề khó.

Bên cạnh đó, cần chỉ ra rằng chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam Á, mà

hợp tác ASEAN là một biểu hiện, cũng còn khá non trẻ. Trong khi sự phát

triển và suy tàn của các đế chế ở châu Âu với tầm ảnh hưởng bao trùm rộng

lớn đã góp phần tạo điều kiện cho các dân tộc ở châu Âu có sự giao thoa, qua

đó hình thành bản sắc riêng của châu lục thì tại Đông Nam Á, sự chia rẽ về

mặt địa lý, ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực, của các đế quốc trong

giai đoạn thuộc địa và ảnh hưởng của Chiến tranh lạnh đã khiến các dân tộc

Đông Nam Á phần nào bị chia rẽ, ít giao lưu và hiểu biết về nhau hơn, đặc

biệt so với EU.

Với việc sử dụng tài liệu này, giáo viên định hướng HS đi đến kết luận

rằng vấn đề biển Đông chính là một cơ hội để các nước lớn có lợi ích chiến

lược tại biển đông như Mỹ, Nhật Bản, thiết lập ảnh hưởng tại khu vực này,

thực hiện các mục tiêu đối ngoại của mình.

Như vậy, khi sử dụng TLTK để giao bài tập cho HS tìm hiểu và nghiên

cứu sẽ giúp các em hình thành năng lực bộ môn, đồng thời phát triển khả

năng nhận thức giúp cho các sự kiện, hiện tượng lịch sử trở nên ấn tượng hơn,

sâu sắc hơn. Qua đó, giúp khơi gợi ở HS những cảm xúc lịch sử, kiến thức

lịch sử sẽ được khắc sâu.

- Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử.

Đây là nguồn tài liệu có vai trò to lớn trong việc dạy học lịch sử ở

trường phổ thông. Tài liệu văn học góp phần quan trọng làm cho bài giảng

sinh động hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của HS. Mỗi loại tài liệu văn

học có ý nghĩa khoa học riêng trong việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử.

Xác định loại tài liệu văn học được sử dụng phải phù hợp với mục đích yêu

82

cầu của bài giảng và tính chất của từng sự kiện, hiện tượng lịch sử.

Ví dụ 1, khi dạy bài 23: “Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội miền

Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)”. Sau khi GV mở rộng

kiến thức về cuộc giải phóng Trường Sa của quân dân ta, để tăng thêm khả

năng tác động đến tình cảm, ý thức của HS và giúp cho bài giảng thêm sinh

động, GV có thể đọc diến cảm một đoạn trích trong bài thơ “Tổ Quốc nhìn từ

biển” của tác giả Nguyễn Việt Chiến:

“Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển

Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa

Ngàn năm trước con theo cha xuống biển

Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa

…Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo

Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn

Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy

Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân

Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả

Những chàng trai ra đảo đã quên mình

Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước

Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát

Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời

Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”[2.tr. 553]

Hoặc GV có thể giới thiệu các bài hát về những người lính biển, về

Hoàng Sa, Trường Sa thân yêu, trong đó có bài hát “Gần lắm Trường Sa” của

83

tác giả Hình Phước Long được sáng tác năm 1982:

“Mỗi cánh thư về từ đảo xa

Anh thường nói rằng Trường Sa lắm xa xôi

Nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ

Bên đồng đội yêu thương.

Chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng

Quanh ghềnh trúc san hô Trường Sa ơi

Biên đảo quê hương, đôi mắt biên cương

Vẫn sáng long lanh giữa sóng cuồng bão dập.

Đảo quê hương anh vẫn đếm ngày giữ biển khơi

Thương nhớ sao vơi ngươi chiến sĩ Trường Sa ơi.

Không xa đâu Trường Sa ơi, không xa đâu Trường Sa ơi

Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh

Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên em.

Mong cánh thư về từ đảo xa

Nơi thành phố này, Trường Sa vẫn bên em

Anh ơi có nghe lời người từ phố biển

Khi ngọn triều dâng cao.

Khi cánh Hải Âu về, khi nắng sang mùa

Nơi đảo trúc san hô. Chiều nơi đây

Sao bỗng bâng khuâng, như thấy anh đang

Sừng sững kiên trung giữa pháo đài giữ đảo”

“Gần lắm Trường Sa” không chỉ là ca khúc gắn liền với cuộc sống

84

chiến đấu kiên trung của lính đảo mà còn như bản tình ca hiệu triệu các chiến

sĩ hải quân thêm vững vàng tay súng canh trời, giữ biển của Tổ quốc giữa đại

dương bao la. Bài hát không chỉ thay lời một người con gái gửi lòng thương

nhớ về người yêu là lính thủy mà còn là cả một hậu phương lớn đang ngày

đêm cùng hướng về nơi ấy.

Qua đó GV nhấn mạnh: Hoàng Sa, Trường Sa là máu thịt của Việt

Nam, để có thể giữ gìn chủ quyền của dân tộc trên vùng biển, đảo này đã có

biết bao con người phải hy sinh xương máu của mình. Do vậy, đã là người

Việt Nam thì đều phải có ý thức giữ gìn, phát huy truyền thống của cha ông,

bảo vệ chủ quyền biển đảo mà cha ông đã giành được.

Với việc gợi được hứng thú qua các bài thơ, bài hát thì chắc hẳn những

kiến thức lịch sử về chủ quyền biển, đảo đã bớt khô khan và qua đó cũng là

một nguồn tài liệu thú vị để HS có thể tham khảo.

2.3.1.2 Sử dụng đồ dùng trực quan về biển, đảo trong quá trình dạy học để

giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh.

“Theo “Sư phạm tương tác” mỗi người có một “bộ máy học” bao gồm

hệ thần kinh và các giác quan. Trong đó các giác quan được coi là cổng của

tri thức. Càng nhiều giác quan tham gia vào quá trình học tập thì thông tin

thu được càng nhiều. Vùng limbic có vai trò là “trung tâm hứng thú”, có thể

chấp nhận hoặc loại bỏ thông tin mới. Do vậy để giúp HS học tập một cách

hiệu quả, GV sử dụng các đồ dùng trực quan nhằm kích thích đa giác quan

của HS và làm cho giờ học trở nên sinh động, tạo hứng thú học tập cho HS”

[39]

Sử dụng phim tư liệu lịch sử

Lịch sử là những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ. HS

không thể trực tiếp quan sát những sự kiện, hiện tượng đó vì vậy nhận thức

lịch sử là rất khó khăn. Tuy nhiên HS có thể hình dung được quá khứ lịch sử

qua các đoạn phim tư liệu. Phim tư liệu là loại phim được xây dựng dựa trên

85

hình ảnh hoặc những thức phim ghi lại diễn biến sự kiện lịch sử tại thời điểm

mà nó diễn ra. Do vậy đảm bảo được tính chính xác, chân thực của quá khứ

lịch sử. Âm thanh, hình ảnh sinh động của phim tư liệu lịch sử là phương tiện

tác động tới thị giác, thính giác giúp cho quá trình thu nhận thông tin của “bộ

máy học” dễ dàng hơn. Tuy nhiên không chỉ giới hạn tác động ở thính giác và

thị giác của HS nên GV cũng cần chú ý luôn thay đổi cách kích thích giác

quan bằng cách kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học khác nhau trong

từng bài thậm chí trong từng phần để tránh nhàm chán cho người học.

Hiện nay, các nguồn phim tư liệu lịch sử khẳng định chủ quyền biển

đảo của ta là rất hiếm. Do vậy trong dạy học lịch sử chúng ta có thể khai thác

các nguồn phim khác như: Những bộ phim tài liệu, phim thời sự, phim điện

ảnh, phim hoạt hình tái hiện các sự kiện lịch sử… Những bộ phim này nếu

được sử dụng hợp lý sẽ mang lại hiệu quả nhiều mặt.

Do thời lượng các giờ học nội khóa chỉ có 45 phút, nội dung liên quan

đến chủ quyền biển đảo Tổ quốc chỉ nằm trong một đề mục của một bài, hay

một phần nhỏ trong các đề mục. do vậy khi sử dụng phim, ngoài việc xác định

độ chính xác và tin cậy của các đoạn phim thì GV còn phải biết cách lựa chọn,

biên soạn (Cắt, ghép) những đoạn phim ngắn, phù hợp với thời lượng của giờ

học.

Ví dụ 1: Khi dạy bài 26: “Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ

nghĩa xã hội 1986 – 2000”. Sau khi học xong phần II.2 GV giới thiệu cho học

sinh tham khảo thêm tư liệu về cuộc chiến Gạc Ma 14/3/1988. Bộ phim

“Diễn biến thảm sát Gạc Ma - Hải chiến Trường Sa 14/03/1988” [44]. Chỉ

xuất hiện chỉ chưa đầy 4 phút nhưng bộ phim đã tái hiện lại hành động xâm

chiếm trái phép đảo Gạc Ma của Trung quốc tại quần đảo Trường Sa.

Để khai thác sự hiểu biết, phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS,

trước khi xem phim, GV có thể đặt câu hỏi kiểm tra sự hiểu biết của HS về sự

kiện này như: Em đã nghe qua về sự kiện Gạc Ma chưa? Từ khi nào và ở

86

đâu?

Vì đây là nội dung kiến thức không có trong SGK nên GV phải hết sức

cẩn trọng khi giới thiệu về sự kiện này cho HS.

Sau đó GV đặt câu hỏi định hướng hỗ trợ HS khai thác nội dung đoạn

phim: Em hãy nêu rõ âm mưu, thủ đoạn đánh chiếm của Trung Quốc, từ đó

nêu hệ quả của sự kiện này? Với định hướng này, HS sẽ dễ dàng tập trung

xem phim và suy nghĩ trả lời câu hỏi và sẽ đem lại hiệu quả giáo dục cao.

Ví dụ 2. Khi dạy đến bài 22: “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu

chống đế quốc Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất

(1965 – 1973)” phần II.2 - Mỹ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải

quân phá hoại miền Bắc có sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” được Mỹ lợi dụng để mở

đầu cho việc leo thang bắn phá miền Bắc Việt Nam. Bộ phim thời sự dài gần

2 phút với tựa đề VTC14_Nhìn lại “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” [47] đã nói lên tất

cả âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong việc đưa không quân, hải quân Mỹ ra

miền Bắc Việt Nam.

Trước khi xem phim, GV có thể nêu câu hỏi và yêu cầu HS theo dõi và

trả lời câu hỏi: Mỹ đã có những hành động gì để khiêu khích hải quân Việt

Nam? Âm mưu của chúng ở đây là gì?

Sau khi HS xem xong đoạn phim tư liệu, GV giải thích cho HS và cung

cấp thêm thông tin cho HS:

Vào đầu những năm 1960, chiến lược chiến tranh đặc biệt mà Đế quốc

Mỹ áp dụng ở miền Nam Việt Nam đều bị phá sản. Tổng thống Mỹ và Hội

đồng an ninh quốc gia đã họp và quyết định chủ trương chiến lược mới: "Gây

sức ép tối đa và liên tục bằng cách đưa quân đội vào để Mỹ hoá cuộc chiến

tranh ở miền Nam Việt Nam; khẩn trương chuẩn bị đưa chiến tranh phá hoại

bằng Không quân và Hải quân ra miền Bắc Việt Nam".

Để thực hiện mưu đồ đó, Mỹ cần tranh thủ được sự đồng tình của Hạ

viện, tránh được dư luận phản đối, trước hết là nhân dân Mỹ. Nhà Trắng và

87

Lầu Năm góc phải tạo ra màn kịch "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ" với những mập mờ

và dối trá rằng: Chiều ngày 4/8/1964, các tàu phóng lôi của Hải quân Việt

Nam đã vô cớ tấn công tàu khu trục của Mỹ trên vùng biển quốc tế!?

Sự thật là: Sự đụng độ chiều 2/8/1964 diễn ra khi tàu khu trục Maddox

đã ngang nhiên vi phạm có hệ thống lãnh hải Việt Nam từ Đèo Ngang (Quảng

Bình) ra Hòn Nẹ (Thanh Hoá). Hành động đó liên tục bị Hải quân Việt Nam

theo dõi và giám sát chặt chẽ, có lúc tàu Maddox vào sâu tới 6 hải lý và đã bị

các tàu phóng lôi của Việt Nam đánh đuổi tại khu vực đông Hòn Nẹ trong

lãnh hải Việt Nam. Điều này được dư luận nhiều nước, có cả dư luận Mỹ thừa

nhận và kịch liệt lên án hành động xâm phạm trắng trợn đó.

Nếu chỉ vin vào cớ mà sự dối trá đã bị phơi bày để đánh phá miền Bắc

Việt Nam thì chưa đủ sức thuyết phục, nên Mỹ phải dựng thêm sự kiện khác

rằng: "Đêm 4/8/1964, các tàu phóng lôi của Hải quân Việt Nam một lần nữa

lại vô cớ tấn công khu trục Maddox và Tơ-nơ-gioi của Mỹ đang hoạt động

bình thường trên vùng biển quốc tế?!". Đây lại là sự bịa đặt còn trắng trợn

hơn nữa, bởi hôm đó thời tiết rất xấu, hoàn toàn không có một tàu phóng lôi

hoặc tàu chiến đấu nào của Việt Nam hoạt động trong khu vực mà Mỹ rêu rao.

Thế nhưng, bất chấp dư luận và lẽ phải, Mỹ vẫn vin vào cớ đó để tiến

hành chiến dịch "Mũi tên xuyên" mở đầu bằng trận đánh ngày 5/8/1964. Đế

quốc Mỹ đã sử dụng lực lượng của 2 biên đội tàu sân bay Constellation và

Ticonderoga gồm 40 máy bay cánh quạt và phản lực hiện đại, cả tiêm kích và

cường kích như AD6, A4D, F8U, F4H…bất ngờ mở cuộc tấn công đánh phá

vào hầu hết các Căn cứ Hải quân của ta trên suốt dải ven biển miền Bắc từ

Bãi Cháy (Quảng Ninh), Lạch Trường (Thanh Hoá), Cửa Hội, Vinh - Bến

Thuỷ (Nghệ An) đến Cảng Sông Gianh (Quảng Bình) hòng tiêu diệt lực lượng

Hải quân ta trong ngày 5/8/1964 và mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại quy

mô lớn đối với miền Bắc nước ta.

Trên tất cả các khu vực bị tấn công, các tàu của Hải quân Việt Nam và

lực lượng chiến đấu bảo vệ căn cứ đều đánh trả quyết liệt. Dựa vào trận địa

88

phòng thủ và sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sự phối hợp phòng không

của ba thứ quân, trong đó các trận địa pháo của bộ đội phòng không và dân

quân tự vệ biển phối hợp rất chặt chẽ và đắc lực. Các tàu của hải quân đã

chiến đấu rất dũng cảm, phát huy được cao độ trí thông minh sáng tạo và kỹ

năng chiến đấu, vừa cơ động phòng tránh vừa đánh trả địch có hiệu quả và

hạn chế được tổn thất.

Chiến dịch "Mũi tên xuyên" với những tham vọng to lớn đã bị bẻ gãy

ngay từ trận đánh đầu tiên. Lực lượng tàu chiến đấu của Hải quân Việt Nam

chẳng những đã không bị tiêu diệt trong một trận đánh, mà còn giáng cho

không quân Mỹ những đòn nặng nề.

Như vậy, Phim tư liệu có vai trò rất quan trọng trong việc cụ thể hóa

các sự kiện lịch sử, khắc phục tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử, đồng thời phát

triển được khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy của HS cũng như giáo

dục được ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS

Sử dụng tranh ảnh, bản đồ lịch sử, lƣợc đồ lịch sử nhằm tăng hiệu

quả giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS.

Ví dụ 1. Khi dạy bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống

đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965

– 1973) ở mục II.2 Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa

sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương. Khi nói đến hậu phương miền Bắc,

không thể thiếu vai trò của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển đã đi vào

huyền thoại.

Trước khi giới thiệu về tuyến đường này, GV có thể đặt ra câu hỏi để

kiểm tra kiến thức HS và kích thích trí tò mò của HS: Em đã biết gì về con

đường Hồ Chí Minh trên biển?

Sau đó, GV đặt câu hỏi định hướng hỗ trợ HS khai thác nội dung lược

đồ và tranh ảnh: Em có nhận xét gì về con đường vận tải chiến lược – đường

Hồ Chí Minh trên biển? Với câu hỏi định hướng có trước, HS dễ dàng tập

89

trung vào nội dung cần nghiên cứu để giải quyết vấn đề.

GV sử dụng một số hình ảnh kết hợp với thuyết minh làm rõ ý

nghĩa của hình ảnh, giúp HS hình dung rõ hơn về con đƣờng này.

Hình 2.6. Đường Hồ Chí Minh trên biển

(Nguồn:http://thainguyentv.vn/50-nam-duong-ho-chi-minh-tren-bien-

con-duong-cua-y-chi-va-suc-sang-tao-viet-nam-10621.html)

Đầu tiên GV giới thiệu qua về tuyến đường này: Cùng với xẻ dọc

Trường Sơn, mở đường mòn Hồ Chí Minh, một con đường Bắc - Nam bí mật

trên biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã được mở vào ngày 23-10-1961.

Đoàn 759 - Đoàn tàu không số (Lữ đoàn 125) là lực lượng vận tải chiến lược

trên con đường biển này, đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến

trường miền Nam. Đường Hồ Chí Minh trên biển và Đoàn tàu không số với

90

bao kỳ tích, đã đi vào lịch sử dân tộc như một chiến công huyền thoại, là một

biểu tượng của bản lĩnh chính trị và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân

tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh.

GV thuyết minh kết hợp với việc chỉ trên lược đồ cho HS thấy đường

Hồ Chí Minh trên biển được hình thành đã đưa vũ khí, hàng hóa tới 19 bến

trên địa bàn 9 tỉnh của miền Nam, khởi đầu từ cảng Hải Phòng đến tận Mũi

Cà Mau, nơi mà tuyến đường Trường Sơn không đi đến được. Điều đó đã đem

lại sự cổ vũ to lớn cho nhân dân miền Nam nơi chiến tuyến. Trong suốt cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí

Minh trên biển đã có những đóng góp quan trọng, thể hiện trên một số điểm

chủ yếu sau đây:

Một là, đường Hồ Chí Minh viện chiến lược, góp phần quan trọng vào

sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hai là, tuyến chi viện chiến lược trên biển bảo đảm thời gian nhanh hơn,

kịp thời hơn, vũ khí trang bị đồng bộ và đạt hiệu quả cao.

Ba là, tuyến chi viện chiến lược trên biển còn vận chuyển những loại

hàng “đặc biệt”.

Hình 2.7. Vận chuyển hàng lên tàu không số

(Nguồn: http://pda.vietbao.vn/Xa-hoi/Tau-khong-so-va-su-giup-do-cua-

91

Trung-Quoc/75306463/157/)

Để giữ bí mật, Tiểu đoàn hoạt động dưới tên gọi “Tập đoàn đánh cá

Sông Gianh”. Do vị trí chiến lược hết sức quan trọng của đường Hồ Chí Minh

trên biển, đế quốc Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với các loại

vũ khí, thiết bị tối tân hiện đại nhất của nền khoa học - công nghệ quân sự Mỹ

để đánh phá, hòng hủy diệt, ngăn chặn, cắt đứt tuyến đường tiếp viện của ta

trên biển. Những con đường, các bến bãi đều nằm trong các vùng kìm kẹp,

lùng sục, truy quét, đánh phá ác liệt suốt đêm ngày của địch. Trên con đường

vận chuyển ấy, cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu Không số với tinh thần “Vì miền

Nam ruột thịt” đã xác định quyết tâm, âm thầm hy sinh tình cảm gia đình và

bản thân, biết rằng ra đi là cảm tử vẫn chấp nhận gian nguy, đương đầu với

khó khăn thử thách. Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt

với kẻ thù, với thiên nhiên, sóng gió. Và vượt lên tất cả là chiến thắng chính

bản thân mình, đòi hỏi cao ý chí kiên định, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý

thức chấp hành kỷ luật nghiêm minh

Hình 2.8. Đoàn tàu không số vận chuyển vũ khí trên Đường Hồ Chí

Minh trên biển để chi viện cho chiến trường miền Nam

(Nguồn: http://baobinhduong.vn/doan-tau-khong-so-va-duong-ho-chi-

minh-tren-bien-bieu-tuong-cua-chu-nghia-anh-hung-cach-mang-

a150872.html)

Những con tàu cần mẫn hành trình vận chuyển người, vũ khí, đạn dược,

92

vật chất hậu cần quân sự và các loại hàng hóa, trang thiết bị đặc biệt chi viện

cho chiến trường miền Nam bằng Đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại

từ lâu được gọi là những con tàu không số.

GV có thể đặt câu hỏi để gây hứng thú cho HS: “Tại sao các con tàu chi

viện trên biển lại gọi là tàu không số”. HS trả lời và GV giải thích: Cũng như

con người, con tàu có giấy khai sinh và quê hương nơi sinh ra. Mỗi con tàu

đều có ngày khởi công đóng và ngày hạ thủy, bàn giao cho đơn vị sử dụng.

Tàu trang bị cho Đoàn 759 (sau này là Đoàn 125) có hồ sơ đầy đủ, theo dõi

tình trạng và ghi chép sổ sách, lý lịch chặt chẽ. Tàu có mã số tàu, tính năng,

thông số kỹ thuật. Từ những con tàu gỗ, tải trọng nhỏ rồi đến tàu sắt có tải

trọng hàng trăm tấn, rồi các tàu có thiết kế đặc biệt theo yêu cầu của nhiệm vụ

vận chuyển. Mỗi chuyến tàu ra khơi đi làm nhiệm vụ đều mang số hiệu riêng

của mình.

Với những biện pháp giả trang, cải dạng, các tàu ta đã che mắt địch, giữ

được bí mật hoặc khi bị địch phát hiện, để kiểm tra xác minh đúng, tàu ta đã

hành trình đi xa, chúng có tìm dấu vết cũng khó thấy. Vì thế, những con tàu

hoạt động vận chuyển thuộc tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển, được gọi là

Tàu không số. Những con tàu đã làm cho các phương tiện trinh sát hiện đại

cùng bộ máy tình báo, tác chiến của Hải quân Mỹ, ngụy Sài Gòn quay cuồng,

khó phát hiện ra, khiến đối phương phải thán phục [46].

Từ đó, GV hướng dẫn HS đi đến kết luận: Đường Hồ Chí Minh trên

biển, một “con đường không dấu, tàu không số, trí, hiếu, trung, dũng, anh

hùng”, một chiến công và kỳ tích lịch sử, cho chúng ta nhiều bài học quý báu,

mãi mãi là niềm tự hào của quân và dân ta nói chung, của các thế hệ cán bộ,

chiến sĩ làm nhiệm vụ trên con đường vận tải chiến lược biển năm xưa cũng

như của Lữ đoàn 125 Hải quân và Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam

nói riêng, mà các thế hệ hôm nay và mai sau phải có trách nhiệm gìn giữ,

93

phát huy và không ngừng tô thắm trong sự nghiệp quản lý, bảo vệ vững chắc

chủ quyền biển, đảo thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc trong giai đoạn

cách mạng mới [45].

Sau khi học xong bài học, để củng cố nhận thức của HS, GV có thể

giao thêm bài tập về nhà để HS tự tìn hiểu như: Tìm hiểu về phương thức hoạt

động chi viện của con đường Hồ Chí Minh trên bộ và đường Hồ Chí Minh

trên biển. Qua đó đánh giá vai trò của hậu phương miền Bắc trong công cuộc

kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965 – 1968).

Như vậy, thông qua những thông tin bổ sung hữu ích, HS không chỉ

biết thêm những con đường chi viện chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ

đã góp phần quyết định đến thắng lợi của cuộc chiến tranh mà qua đó còn

nhận thấy được vai trò của biển, đảo nói chung trong sự nghiệp bảo vệ Tổ

quốc. Những con đường chi viện không tên, không trực tiếp làm nên những

chiến thắng lẫy lừng, vang danh muôn thủa trong lịch sử, nhưng đó lại là kỳ

tích ghi dấu mãi trong những trang lịch sử của dân tộc.

Ví dụ 2: Nhằm giáo dục về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng

với mục tiêu khai thác tổng hợp kinh tế biển phục vụ sự nghiệp phát triển kinh

tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, hội nhập thế giới, Sau khi học đến

phần II.2.b bài 26: Đất nước trên đường đổi mới đi lên Chủ nghĩa xã hội

(1986 – 2000), GV có thể mở rộng kiến thức về những điều kiện tự nhiên –

kinh tế ở vùng biển Đông.

Biển Đông đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của

nước ta khi hầu hết các ngành kinh tế mũi nhọn đều gắn kết với biển như du

lịch, dầu khí, thủy sản và vận tải biển. Hiện nay, kinh tế biển của nước ta

chiếm khoảng gần 30% GDP. Từ lâu nay, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng

các chính sách để phát triển kinh tế, xã hội cho các địa phương ven biển, các

đảo, quần đảo. Công tác khảo sát, thăm dò, nghiên cứu khoa học biển ngày

càng được chú ý để làm cơ sở cho việc phát triển các ngành, các vùng kinh tế

biển, cũng như cho việc hoạch định các chính sách quản lý tài nguyên môi

94

trường biển của nước ta. Cơ cấu ngành nghề biển đang dần được điều chỉnh

hợp lý, những ngành khai thác và sử dụng lợi thế của biển nước ta như: Vận

tải viễn dương, dịch vụ hàng hải, du lịch, nuôi trồng thủy sản và đánh bắt hải

sản xa bờ, đang được chú ý phát triển. Ngoài ra, trong khai thác biển, nhiều

ngành và địa phương dần quan tâm đúng mức đến việc tái tạo và làm giàu

tiềm năng. Vấn đề bảo vệ môi trường biển đã được quan tâm và đầu tư ban

đầu. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, theo chủ trương, đường lối đa

phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, nước ta đang triển khai tích cực

hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế biển.

GV đề cập đến chủ trương đổi mới của Đảng trong 5 năm 1986 – 1990,

GV nhấn mạnh cho HS rằng Đại hội VI là “Đại hội đổi mới” trên tất cả các

lĩnh vực phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng – an ninh, trong đó đường

lối cơ bản được đặt ra là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo

định hướng xã hội chủ nghĩa.

GV nêu câu hỏi để HS định hướng vấn đề: Theo em, có thể khai thác

các ngành nghề kinh tế nào từ biển?

Hình 2.9. Bốc xếp gạo xuất khẩu tại cảng Sài Gòn

(Nguồn: http://bnews.vn/xuat-khau-gao-co-dau-hieu-phuc-

95

hoi/1812.html)

Trọng tâm triển khai công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã

hội là đảm bảo quốc phòng – an ninh các vùng biển và ven bờ. Tiến hành quy

hoạch các trung tâm phát triển ra biển và các khu vực biển, đảo có khả năng

đột phá trong phát triển kinh tế như Móng Cái, Vân Đồn, Nghi Sơn, Vũng

Áng, Đà Nẵng… Công tác quy hoạch phải trên cơ sở của quy luật kinh tế thị

trường, có tầm nhìn dài hạn, hiện đại theo những tiêu chuẩn phù hợp với quốc

tế và khu vực. Đồng thời, phải tiến hành một cách có hiệu lực và hiệu quả

công tác quản lý, quy hoạch nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và

đúng định hướng. Trong quy hoạch, cần quán triệt quan điểm coi vùng duyên

hải gắn với kinh tế biển là vùng động lực để mở cửa, thúc đẩy phát triển toàn

bộ nền kinh tế quốc gia, đảy mạnh phát triển những cơ sở công nghiệp chế

biến các sản phẩm từ biển.

Hình 2.10. Tàu thuyền khai thác hải sản ở vùng biển đảo Lý Sơn

(Nguồn: http://baoquangngai.vn/channel/2025/2009/08/1715358/)

Vùng biển các quần đảo là các ngư trường lớn, đầy tiềm năng của ngư

dân các tỉnh ven biển, cung cấp nguồn thủy hải sản phục vụ cho xuất khẩu của

đất nước, và chính nhờ nguồn thu từ nghề khai thác xa bờ mà đời sống của

96

các ngư dân được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh việc khai thác thủy sản xa bờ,

ngày nay bà con ngư dân còn khai thác các loại cá cảnh và các loại tron biển

có giá trị dinh dưỡng và dùng trong chế biến mĩ phẩm.

Cùng với nguồn lợi thủy sản, biển còn chứa đựng tiền năng dầu khí và

khoáng sản rất lớn. Nước ta có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn và

cũng là nơi có triển vọng dầu khí lớn. Hoạt động tìm kiến, thăm dò dầu khí ở

Việt Nam đã được bắt đâì triển khai ở miền võng Hà Nội và trũng An Châu từ

những năm 1960 với sự giúp đỡ của Liên Xô. Dựa trên kết quả nghiên cứu địa

chất p địa vật lý đã xác định được 7 bồn trầm tích có triển vọng chứa dầu khí

ở thềm lục địa nước ta. Các mỏ dầu khí ở nước ta được phát hiện và khai thác

từ lòng đất dưới đáy biển khu vực thềm lục địa phía Nam. Một số mỏ ở bồn

trũng Cửu Long như Bạch Hổ và mỏ Đại Hùng ở bồn trũng Nam Côn Sơn là

những mỏ có chứa dầu cả ở móng. Mỏ Bạch Hổ cũng được xem là trường hợp

ngoại lệ chứa dầu trong móng đá.

Hình 2.11. Khai thác dầu khí tại mỏ Bạch Hổ

(Nguồn: http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Thuong-hieu-DN/731527/ket-

qua-ngoan-muc-trong-khai-thac-dau-khi)

Như vậy, qua những thông tin bổ sung, Gv có thể hướng đến kết luận:

phát triển kinh tế biển, đảo luôn nằm trong những ưu tiên chính sách của

97

Đảng từ năm 1986 đến nay và quá trình hoàn thiện các chủ trương , chính

sách của Đảng trong việc khai thác, phát huy giá trị của biển, đảo trong sự

nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước trong thời bình.

2.3.2. Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh

trong giờ học ngoại khóa

Hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học lịch sử ở

trường phổ thông và cùng chung mục đích với các hình thức dạy học lịch sử

khác: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển tư duy cho HS. Hoạt động ngoại

khóa trong dạy học lịch sử là phong phú các kiến thức, giáo dục tình cảm, đạo

đức, phẩm chất của HS, giáo dục tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng trách

nhiệm, yêu thích lao động, rèn luyện tính kỷ luật và tinh thần tương thân

tương ái. Hoạt động ngoại khóa có thể kết hợp với các hoạt động của các tổ

chức chính trị - xã hội như Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh…gắn với

những sinh hoạt chính trị, giáo dục truyền thống hướng về cội nguồn...

Hoạt động ngoại khóa còn góp phần phát triển tính tích cực của HS.

Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục lịch sử cho rằng, hoạt động ngoại khóa có hai

đặc điểm nổi bật: tính tự nguyện và sự phát triển nhận thức tích cực độc lập,

năng khiếu của HS trong lĩnh vực lịch sử. Hoạt động ngoại khóa mở ra nhiều

khả năng cho HS lựa chọn và tham gia những nội dung hợp với sở thích và

trình độ của mình. Chính tính tự nguyện tham gia đó đã phát huy năng lực

nhận thức độc lập, năng khiếu cũng như rèn luyện các kĩ năng về trí tuệ và

thực hành cho HS.

Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc là một vấn đề lịch sử, chính trị

quan trọng, và đặc biệt cấp thiết trong bối cảnh hiện nay khi những tranh chấp

chủ quyền trên biển Đông diễn biến phức tạp. Chương trình SGK phổ thông

không đề cập đến vấn đề chủ quyền biển, đảo trong các giờ học nội khóa GV

chỉ có thể xen kẽ giáo dục chủ quyền biển đảo trong một số bài có liên quan

đến vấn đề xác lập chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền, khai thác các tiềm

năng nhất là hoạt động ngoại thương biển…Việc xen kẽ vào các giờ học nội

98

khóa với thời lượng thời gian ít, rất khó làm nổi bật các nội dung về chủ

quyền biển, đảo. Từ thực tế đó, tổ chức các hoạt động ngoại khóa về chủ

quyền biển, đảo là một hoạt động cần thiết và cấp thiết hiện nay để nâng cao

hiệu quả giáo dục ý thức công dân trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ

quốc.

Qua nghiên cứu thực tiễn sử dụng tư liệu về chủ quyền biển, đảo của

Tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, từ ý nghĩa giáo dục thiết

thực mà hoạt động ngoại khóa lịch sử có thể đem lại, chúng tôi đề xuất một số

biện pháp sử dụng tư liệu chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc tổ chức các hoạt

động ngoại khóa lịch sử như sau:

2.3.2.1. Nghe nói chuyện lịch sử

Có rất nhiều chủ đề phù hợp cho các buổi nói chuyện lịch sử, liên quan

đến các ngày kỉ niệm lớn (Quốc khánh, Quốc tế lao động, Cách mạng Tháng

Mười Nga, Thành lập Quân đội, Kí hiệp định Giơ nevơ, Giải phóng miền

Nam…), các truyền thống của dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước,

của lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội Nhân dân, cuộc đời và sự nghiệp

doanh nhân…

Kể chuyện lịch sử là hình thức ngoại khóa dễ làm, hấp dẫn và có tác

dụng giáo dục cao. Nội dung kể chuyện về chủ quyền biển đảo Việt Nam phải

là câu chuyện có thật, chứ không phải những chuyện hư cấu. Có thể kể một

số chuyện mà HS cần biết như:

Về những ngư dân kiên cường bám biển, họ hiện lên như cây phong ba

trên đảo Hoàng Sa để góp phần khẳng định chủ quyền đất nước, bất chấp bão

tố gian nan.

Về những hoạt động mưu sinh đa dạng của ngư dân Quảng Ngãi – quê

hương của Hải đội Hoàng Sa, đội hùng binh năm xưa đã vượt sóng Biển

Đông ra Hoàng Sa, với lễ Khao thề lính Hoàng Sa, với những bài văn tế, thư

99

tịch sổ, những ngôi mộ gió.

Về những hoạt động mưu sinh đa dạng cyar ngư dân Quảng Ngãi trên

bùng biển Hoàng Sa.

Xây dựng một bài nói chuyện cũng cần phải có bố cục rõ ràng, tránh

nói ngẫu hứng, tràn lan và không làm nổi bật trọng tâm của bài nói chuyện.

Cụ thể bố cục của bải nói chuyện lịch sử nói chung:

- Đặt vấn đề

- Giải quyết vấn đề (Kết hợp giao lưu, thảo luận)

- Rút ra bài học lịch sử

GV hay khách mời thực hiện nói chuyện đều cần phải xây dựng kịch

bản, làm nổi bật trọng tâm, thực hiện các mục tiêu giáo dục cụ thể của bài nói

chuyện lịch sử. Những kiến thức sử dụng trong bài nói chuyện phải dễ hiểu,

phù hợp với trình độ nhận thức của HS THPT.

Ví dụ: Xây dựng bài nói chuyện về chủ đề “29 năm sự kiện Gạc Ma”,

Giáo viên tổ chức buổi nói chuyện lịch sử tại giờ chào cờ đầu tuần (dành cho

cả 3 khối). Khách mời là một số cựu chiến binh đã tham gia chiến dịch lịch sử

Gạc Ma ngày 14-3-1988. GV cần xây dựng bố cục chi tiết như sau:

- Đặt vấn đề: Phần này người thực hiện bài nói chuyện lịch sử sẽ nêu

lên những sự kiện có tính thời sự trên Biển Đông, luận điệu của Trung Quốc

đưa ra để tranh chấp trên Biển Đông. Trong đó có sự kiện Gạc Ma ngày 14-3-

1988 – Hải quân Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép Đảo Gạc Ma thuộc

quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

- Giải quyết vấn đề: Đưa ra những âm mưu, thủ đoạn và hành động của

Trung Quốc khi xâm chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Sự hy sinh

của 64 người con đất Việt đã ngã xuống biển Đông trước họng súng của quân

xâm lược Trung Quốc. Ở phần này, có thể đặt ra những câu hỏi giao lưu với

HS, các em có thể dựa trên các kiến thức đã được tìm hiểu để trả lời, qua đó

sẽ khắc sâu kiến thức và tạo không khí hào hứng cho buổi nói chuyện.

- Rút ra bài học lịch sử: Nhấn mạnh đến trách nhiệm của thanh niên đối

100

với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Để kết thúc buổi nói chuyện lịch sử, GV cùng HS chuẩn bị một tiết

mục văn nghệ mang tên “Gạc Ma trong tim ta” tái hiện lại hình ảnh Tàu

Trung Quốc tiến gần, những tên lính cầm AK ào lên nã đạn. Các chiến sĩ đã

kiên cường bám trụ, bảo vệ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Để góp phần khắc sâu hơn nữa các kiến thức HS thu nhận được, GV

cần thiết kế nhiệm vụ cho cá nhân và nhóm học sinh: bài tập, bài thu hoạch

với nội dung: Làm thế nào để đòi lại được Hoàng Sa về với Việt Nam? Làm

thế nào đấu tranh giữ được chủ quyền biển, đảo nhưng tránh xung đột, chiến

tranh, giữ quan hệ hữu nghị và cùng phát triển với Trung Quốc và cộng đồng

quốc tế.

2.3.2.2. Phát động các cuộc thi tìm hiểu, sáng tạo về chủ quyền biển, đảo quê

hương

Đây cũng là một hình thức có hiệu quả trong dạy học về chủ quyền

biển, đảo của Tổ quốc. Thực tế cho thấy, nhiều cuộc thi tìm hiểu, sáng tạo về

chủ quyền biển đảo Tổ quốc do Bộ giáo dục, hoặc các báo cáo phát động đã

nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình của đông đảo HS, sinh viên. Do vậy áp

dụng hình thức các cuộc thi tìm hiểu và sáng tạo về chủ quyền biển, đảo của

Tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường THPT cũng là một biện pháp thai thác

và sử dụng có hiệu quả tư liệu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. GV có thể

phối hợp với Đoàn trường tổ chức cuộc thi tìm hiểu hay sáng tạo về chủ

quyền biển đảo Tổ quốc trên phạm vị toàn trường, phạm vi khối lớp, hoặc tổ

chức tại các lớp mà GV trực tiếp giảng dạy.

Ví dụ: Nhân kỉ niệm ngày 26 – 3, kết hợp với hoạt động của nhà

trường, GV phát động cuộc thi tìm hiểu “Chúng em với biển, đảo quê

hƣơng” với ba nội dung chính:

- Viết thư cho các chiến sĩ đảo xa

- Vẽ tranh thể hiện tình yêu đối với biển, đảo. Thể hiện thái độ của

101

thanh niên với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

- Sưu tầm hình ảnh, tư liệu, lược đồ, làm tập san chứng minh Hoàng Sa,

Trường Sa là của Việt Nam.

Muốn tổ chức được cuộc thi có chất lượng, đòi hỏi sự chuẩn bị công phu từ

ban tổ chức:

(1) Mục đích:

- Góp phần trang bị kiến thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ Quốc cho HS

- Giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, ý thức bảo vệ toàn

vẹn lãnh thổ Tổ quốc.

- Rèn luyện kĩ năng sáng tạo, hợp tác trong làm việc nhóm, kĩ năng thuyết

trình…

(2) Xây dựng kế hoạch cuộc thi:

- Thời gian chuẩn bị: 1 tháng

GV thông báo phát động cuộc thi đến từng lớp trong khối 12 và triển

khai thực hiện.

- Yêu cầu sản phẩm:

+ Đối với phần thi vẽ tranh: Các bài dự thi có thể là của cá nhân hay

một nhóm, một tập thể, không giới hạn về chất liệu sử dụng và ý tưởng. Yêu

cầu khi vẽ tranh, các bài dự thi phải kèm theo bài thuyết trình về ý tưởng và

nội dung bức tranh. Bài thuyết trình phải phản ánh được nội dung cũng như

thông điệp mà bức tranh muốn nhấn mạnh, thể hiện được sự hiểu biết của học

sinh về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc qua đó thể hiện thái độ của công dân

với việc giữ gìn và bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.

+ Đối với sản phẩm viết thư: Áp dụng đối với cá nhân tham gia phần

thi. Bức thư được viết cho một người lính ở đảo xa hoặc một người lính bất kì.

Bức thư cần viết mạch lạc thể hiện sự ý thức sâu sắc nhiệm vụ cao cả của

những người lính đảo xa, bày tỏ tình cảm dành cho những người lính và trách

nhiệm của HS khi còn ngồi trên ghế nhà trường với vấn đề bảo vệ chủ quyền

102

biển, đảo của Tổ quốc.

+ Đối với các sản phầm về hình ảnh, tranh, lược đồ, bản đồ sưu tầm

được, HS có thể thiết kế thành các tập san, báo tường, đoạn phim và kèm theo

lời giới thiệu.

- Vòng sơ loại : GV bộ môn tổ xã hội các lớp tiến hành thu sản phẩm

và chấm điểm, chọn ra những sản phẩm tranh vẽ, thư, các sản phẩm sưu tầm

hay nhất, đẹp mắt và ý nghĩa nhất, đáp ứng được yêu cầu của ban tổ chức.

(3) Báo cáo sản phẩm

- Thi thuyết trình về tranh vẽ giữa các lớp, đáp ứng yêu cầu của ban tổ chức:

Màu sắc, nội dung ý nghĩa bức tranh và thuyết trình ngắn gọn.

- Viết thư: GV chấm và công bố những bài viết hay, đạt chất lượng và có thể

đọc một số bài hay trước toàn trường.

- Tổ chức thi xếp hạng và trưng bày các sản phẩm tranh vẽ và sản phẩm sưu

tầm của HS dưới giờ chào cờ để HS toàn trường có cơ hội cùng tham gia bình

chọn và đánh giá.

(4) Đánh giá, tổng kết, trao giải

- Ban tổ chức tổng hợp điểm và sắp xếp giải thưởng

- GV trình bày bản tổng kết những nội dung cơ bản về chủ đề của buổi ngoại

khóa

- Trao giải thưởng cho những HS, tập thể tham gia tích cực vào các hoạt

động.

Sau khi công bố và trao giải thưởng cho các em HS, các sản phẩm về

tranh vẽ và sưu tầm của các em sẽ được trưng bày tại sân trường để toàn thể

HS có thể xem và tìm hiểu về các vấn đề biển, đảo của Tổ quốc.

Như vậy, thông qua việc tổ chức các cuộc thi, HS sẽ có hứng thú tìm

hiểu về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, rèn cho HS những kĩ năng như sưu tầm,

tìm hiểu tài liệu qua đó kích thích tư duy sáng tạo ở HS. Và điều quan trọng

hơn cả là thông qua các kiến thức về biển, đảo đã góp phần giáo dục ý thức

103

các em về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong thời đại mới,

giúp các em nhận thức được vai trò và sứ mệnh của người trẻ đối với chủ

quyền biển, đảo của đất nước.

2.4. Thực nghiệm sƣ phạm

2.4.1. Mục đích, đối tƣợng thực nghiệm

Mục đích thực nghiệm

- Khẳng định tính đúng đắn, phù hợp của giáo dục ý thức về chủ quyền

biển, đảo Tổ quốc cho học sinh lớp 12.

- Qua dạy thực nghiệm, lấy kết quả kiểm tra và ý kiến phản hồi của GV,

HS để phân tích, xác định tính hiệu quả của việc giáo dục ý thức về chủ quyền

biển, đảo của Tổ quốc cho HS trong dạy học lịch sử lớp 12.

- Là cơ sở quan trọng để chúng tôi rút ra những kết luận về việc sử

dụng các phuơng pháp, tài liệu nhằm giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo

của Tổ quốc cho HS trong dạy học tập môn Lịch sử của học sinh ở trường

THPT.

Đối tượng thực nghiệm

Chúng tôi chọn nơi tiến hành thực nghiệm là trường THPT Trần Hưng

Đạo, Quận Hà Đông, Hà Nội.

Sau khi tìm hiểu đối tượng học sinh và thăm dò ý kiến của giáo viên

dạy bộ môn, chúng tôi chọn lớp thực nghiệm như sau:

Lớp 12A5 là lớp thực nghiệm, lớp 12A7 là lớp đối chứng. Các lớp này

được chọn để tiến hành thực nghiệm dựa trên nguyên tắc: chất lượng và trình

độ nhận thức bộ môn ngang nhau, có số lượng học sinh không quá chênh

lệch。

2.4.2. Nội dung thực nghiệm

Chúng tôi tiến hành thực nghiệm bài Bài 23: Khôi phục và phát triển

kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)

(Tiết 2)

lớp 12 chương trình chuẩn.

104

Nội dung thực nghiệm gồm một số công việc cơ bản sau:

Chuẩn bị 2 giáo án 2 kiểu

Kiểu 1: Giáo án thực nghiệm, có sử dụng tư liệu về chủ quyền biển, đảo

của Tổ quốc nhằm giáo dục ý thức cho HS như trong khóa luận đã đề xuất

(phụ lục 3).

Kiểu 2: Giáo án đối chứng được soạn và giảng dạy theo phương pháp

bình thường không sử dụng tài liệu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc với

hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Kiểm tra chất lượng bằng cách cho học sinh hai lớp đối chứng và thực

nghiệm làm bài kiểm tra nhanh và phiếu thăm dò ý kiến học sinh sau tiết học

(phụ lục 4, phụ lục 5).

2.4.3. Kết quả thực nghiệm

Sau khi thực nghiệm, chúng tôi tiến hành kiểm tra kiến thức và thăm dò

ý kiến học sinh đối với giờ học thực nghiệm.

Về kiến thức:

Việc học sinh hiểu bài thể hiện ở kết quả bài kiểm tra qua số điểm giỏi

và khá của lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng, thể hiện ở bảng tổng hợp

dưới đây:

Bảng 2.1. Bảng tổng hợp kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC

Lớp Điểm Giỏi Điểm Khá Điểm TB Điểm

9-10 7-8 5-6 Yếu, kém

<5

Số lượng 7 13 15 7 Lớp TN

(42hs) Tỉ lệ % 17% 31% 36% 16%

Số lượng 3 7 20 12 Lớp ĐC

(42hs) Tỉ lệ % 7% 17% 47% 29%

Các bài đạt điểm giỏi là những bài trả lời đúng, nhưng chưa đủ các ý,

105

có điểm số từ 9 đến 10.

Các bài đạt điểm khá là những bài trả lời đúng, nhưng chưa đủ các ý, có

điểm số từ 5 đến 6.

Các bài yếu, kém là những bài không có nội dung trả lời đạt 50% các ý

đúng, có điểm số dưới 5.

Qua bảng 2.1, dựa trên các kết quả thực nghiệm sư phạm đã thông qua

việc xử lí số liệu thu được, chúng tôi nhận thấy: chất lượng học tập của học

sinh lớp thực nghiệm luôn cao hơn học sinh lớp đối chứng, thể hiện bằng các

kết quả cụ thể như sau:

Ở lớp thực nghiệm hầu hết các em trả lời tương đối tốt câu hỏi đưa ra,

vì vậy tỉ lệ phần trăm đạt điểm giỏi ở lớp thực nghiệm chiếm 17% (cao hơn tỉ

lệ lớp đối chứng là 10%); tỉ lệ phần trăm điểm khá chiếm 31% (cao hơn lớp

đối chứng 14%); tỉ lệ điểm trung bình chiếm 36% (trong khi tỉ lệ này ở lớp

đối chứng là 47%); chỉ có 16% học sinh bị điểm kém (lớp đối chứng là 29%).

Để cụ thể hóa sự chênh lệch trong kết quả học tập ở lớp thực nghiệm và

lớp đối chứng, ta có thể biểu diễn qua sơ đồ sau:

Biểu đồ 2.1 So sánh kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC

Như vậy, qua hai bảng thống kê và biểu đồ so sánh trên đây, chúng ta

106

dễ dàng nhận thấy sự khác biệt của kết quả kiểm tra giữa hai lớp đối chứng và

thực nghiệm. Ở lớp đối chứng, không sử dụng tài liệu giáo dục về chủ quyền

biển, đảo với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, phần lớn các em chưa lựa

chọn đươc đáp án đúng và chưa khái quát được kiến thức cơ bản. Vì vậy, kết

quả kiểm tra đạt được không cao: Tỉ lệ phần trăm đạt giỏi chiếm 7%, tỉ lệ

phần trăm đạt điểm khá 17%, tỉ lệ điểm trung bình chiếm tới 47%, tỉ lệ phần

trăm điểm yếu, kém cũng khá cao 31%.

Kết quả điểm kiểm tra cho thấy, với các tài liệu về chủ quyền biển, đảo

của Tổ quốc được GV chuẩn bị và cung cấp để giáo dục cho HS trong giờ học

Lịch sử đã giúp các em hiểu hơn vể chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc ngày

nay, qua đó giúp các em hiểu được trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc bảo

vệ biển đảo của Tổ quốc. Các em đã hiểu bài, hiểu yêu cầu của đề kiểm tra và

trả lời tương đối đầy đủ.

Về kĩ năng

Rèn luyện kĩ năng là một trong ba mục tiêu quan trọng nhất của một bài

học. Với cách dạy thông thường ở lớp đối chứng, phần lớn hoạt động của HS

là theo dõi SGK và trả lời câu hỏi của GV. GV không tổ chức và khơi gợi các

nội dung về biển, đảo nên HS không phát huy được khả năng học tập và chủ

động của mình.

Qua phân tích số liệu thu được từ phiếu hỏi thông tin học sinh sau giờ

dạy thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả như sau:

Các em HS đều tỏ ra hứng thú với bài học, 87% cảm thấy hiểu bài học,

92% HS cho rằng bài học hấp dẫn ở cách mở rộng kiến thức về biển, đảo của

GV. Sau khi được tham gia các hoạt động học tập về chủ quyền biển, đảo của

Tổ quốc thì 43% HS đã đạt được mục tiêu trang bị thêm những kiến thức về

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, 38% thì cho rằng cần phải cố gắng học tập

nhiều hơn để góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn

lãnh thổ Tổ quốc. Còn đối với những tác dụng của các kiến thức về chủ quyền

107

biển, đảo nước ta thì đa số HS 59% cho rằng giúp giáo dục cho Hs cũng như

thế hệ trẻ về ý thức trân trọng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

34% cho rằng giúp học sinh mở rộng kiến thức mới, biết thêm những thông

tin về biển đảo đất nước.

Như vậy, thông qua tiết học có sử dụng tài liệu về chủ quyền biển, đảo

để dạy học đã giúp HS phần nào tiếp cận được với những tài liệu mà SGK

chưa đề cập đến. Qua đó, các em nhận thức được vai trò của HS, của thế hệ

trẻ đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

Về thái độ

Thái độ học tập tích cực chính là hệ quả của lòng hứng thú và say mê

học tập. 66% học sinh cho rằng tiết học khi giáo viên mở rộng thêm thông tin

về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hấp dẫn, có thêm thông tin về biển đảo

Tổ quốc. 30% HS cho rằng dễ hiểu hơn SGK. Còn khi được hỏi về những

mong muốn đối với GV để giáo dục cho HS về ý thức đối với chủ quyền biển

đảo của Tổ quốc, 35% HS cho rằng GV nên tích cực hướng dẫn và cung cấp

các tài liệu về chủ quyền biển, đảo để HS có cơ hội tiếp cận. 40% HS mong

muốn được tham gia các hoạt động ngoại khóa và 25% HS còn lại muốn được

tham gia các buổi thuyết trình, tranh luận về các vấn đề biển, đảo xưa và nay.

Có thể nói, đối với vấn đề giáo dục ý thức cho HS về chủ quyền biển, đảo của

Tổ quốc đã phần nào nhận được sự quan tâm của đông đảo HS, các em cũng

mong muốn được hiểu thêm về biển, đảo của Tổ quốc qua đó tuyên truyền

108

cho người thân và bạn bè để góp phần bảo bệ chủ quyền đất nước.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích mục tiêu, cấu trúc nội dung phần

SKG Lịch sử lớp 12, chúng tôi xác định một số nội dung giáo dục ý thức chủ

quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 ở

trường trung học phổ thông.

Chương 2 đã chỉ rõ một số biện pháp giáo dục ý thức chủ quyền biển,

đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 12 ở trường THPT.

Bên cạnh đó giáo viên cần đầu tư hơn nữa trong quá trình thiết kế các

hoạt động giáo dục ý thức chủ quyền biển, của Tổ quốc trong bài dạy của

mình, đặc biệt là các hoạt động ngoại khóa, sao cho không chỉ hướng đến mục

tiêu về kiến thức, mà còn phát hiện và bồi dưỡng thêm các năng lực học tập

môn Lịch sử của học sinh.

Cùng với việc cung cấp thêm các thông tin về chủ quyền biển, đảo của

Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử, các hoạt động còn tăng thêm

tính tích cực, chủ động của học sinh. Học sinh ý thức được vai trò của mình

trong quá trình học tập. Quan niệm dựa vào giáo viên dần dần bị xóa bỏ, thay

vào đó là ý thức tự học, tự khám phá, tự đặt ra mục tiêu và phấn đấu đạt được

109

dựa vào sự góp ý, chỉ dẫn của giáo viên và các công cụ hỗ trợ.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. KẾT LUẬN

Kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức chủ

quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS trong dạy học lịch sử lớp 12 trung học

phổ thông là cơ sở để rút ra những kết luận sau:

1. Đối với Việt Nam, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Lấn biển để mở mang bờ cõi và thông qua biển để giữ nước là một nét độc

đáo của Việt Nam trong quá trình đấu tranh và bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng

chính là bản sắc văn hóa mà Việt Nam cần được giữ gìn và phát huy hơn nữa

trong kỷ nguyên của khoa học công nghệ, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Chính vì vậy, trong việc giáo dục chủ quyền biển đảo cho HS ở trường phổ

thông, vị trí và vai trò của môn Lịch sử là vô cùng quan trọng.

2. Trong thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông, vấn đề chủ

quyền biển, đảo của Tổ quốc đã được giáo viên và học sinh biết đến, tuy

nhiên giáo viên cần có những biện pháp cũng như hình thức tổ chức để việc

dạy và học về vấn đề chủ quyền biển, đảo được hiệu quả. Các tài liệu về chủ

quyền biển đảo Việt Nam, đặc biệt là đối với hai quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa cũng đã được công bố nhiều, giáo viên cần phải lựa chọn nguồn tài

liệu tin cậy để hướng dẫn và cung cấp thông tin cho học sinh, qua đó khơi gợi

sự khám phá, tìm hiểu nhằm tăng tính chủ động, tự giác của các em.

3. Đề tài cũng đã đề xuất một số biện pháp nhằm giáo dục ý thức cho

học sinh về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong giờ học nội khóa như sử

dụng tài liệu tham khảo về chủ quyền biển, đảo, sử dụng tài liệu văn học, đồ

dùng trực quan như phim tư liệu, tranh, ảnh, bản đồ... và trong giờ học ngoại

khóa như nghe nói chuyện lịch sử, tổ chức triển lãm tranh ảnh, tư liệu, thiết kế

và trưng bày báo tường về biển, đảo Việt Nam, phát động các cuộc thi tìm

hiểu, sáng tạo về chủ quyền biển, đảo quê hương. Những biện pháp trên hoàn

110

toàn phù hợp trong dạy học Lịch sử. Ngoài ra nếu thực hiện theo những biện

pháp trên, đặc biệt là các hoạt động ngoại khóa sẽ góp phần tăng thêm tính

phong phú, đa dạng cho bài dạy Lịch sử của GV, HS không những chủ động

tham gia vào bài học mà thông qua đó các em tiếp thu kiến thức nhanh chóng

và dễ hiểu.

4. Kết quả thực nghiệm cũng cho thấy tính hiệu quả bước đầu của việc

giáo dục ý thức cho học sinh về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong môn

học Lịch sử. Với những nội dung được giáo viên khai thác triệt để và vận

dụng linh hoạt với từng cấp học sẽ góp phần ngày càng nâng cao chất lượng

bộ môn.

2. KHUYẾN NGHỊ

Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức chủ

quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS trong dạy học môn Lịch sử ở trường

THPT hiện nay, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị như sau:

- Về phía Bộ GD&ĐT và việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa

môn Lịch sử ở trường phổ thông

Vị trí của môn Lịch sử ở trường phổ thông đã được chú trọng hơn trước,

tuy nhiên chương trình SGK nói chung vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót.

Kênh chữ xuất hiện là chủ yếu, ít hình ảnh, nội dung vẫn nặng về lý thuyết,

chưa có các câu hỏi và bài tập mang tính gợi mở, nâng cao nhằm kích thích trí

tưởng tượng và sáng tạo của HS. Và đặc biệt hơn cả là nội dung về sự xác lập

chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Việc đưa

các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc là hết sức cần thiết, vì nó

không những cung cấp cho các em thêm tri thức, thông tin, hình ảnh về biển,

đảo mà qua đó còn góp phần giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ

quốc, để qua đó các em ý thức được trách nhiệm của người trẻ trong việc bảo

vệ giữ gìn bờ cõi đất nước. Bộ GD&ĐT cần có các văn bản cụ thể, soạn thảo

và ban hành tài liệu hướng dẫn dạy học cho GV, tài liệu học tập cho HS. Đưa

111

vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng

Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học với nội dung, mức độ, phạm vi

và hình thức phù hợp khi triển khai xây dựng Đề án Đổi mới chương trình,

sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Giống như lời Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Cơ -

nguyên Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã

nói: “Để thế hệ trẻ hiểu được chủ quyền biển, đảo của nước ta, không có cách

nào tốt hơn là đưa chương trình biển, đảo vào giáo dục ở các cấp học”

- Về phía GV: GV là người quan trọng trước hết, cần phải khai thác

triệt để những tài liệu về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc để giáo dục cho HS.

Phải chọn đề tài mang tính điển hình, cụ thể, phù hợp với điều kiện của từng

vùng. Tự bản thân mỗi GV phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với

chủ quyền biển đảo bằng những hành động cụ thể như: tham gia các hoạt

động tuyên truyền, các cuộc tập huấn, các cuộc thi về tìm hiểu biển đảo quê

hương...GV lịch sử phải đóng vai trò chủ động phối hợp với nhà trường, Đoàn

thanh niên, GV các môn học khác tổ chức các hoạt động học tập trong giờ học

nội khóa và ngoại khóa để tạo hiệu quả cao trong giáo dục cho HS ý thức

trách nhiệm đối với quê hương đất nước, đối với chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc.

Cấp ngành giáo dục cần tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng những

khóa học, đợt tập huấn cho các cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên.

Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học phải thực sự gắn liền với đổi

mới các hoạt động học tập, đổi mới cách tổ chức hoạt động học tập ở trường

phổ thông. Yêu cầu quan trọng nhất của đổi mới phương pháp dạy học là

người học phải được chủ động và tham gia một cách tích cực vào các hoạt

động học tập do giáo viên tổ chức, có như vậy quan điểm lấy người học làm

trung tâm mới thực sự được triển khai và góp phần vào việc đào tạo những

112

con người mới đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Mai Anh (chủ biên) (2005), “Luật biển Quốc tế hiện đại”. Nhà

xuất bản lao động-xã hội. Hà Nội.

2. Ban tuyên giáo thành ủy Hà Nội (2015), “ Tổ quốc nơi đầu sóng

qua tác phẩm báo chí từ Thủ đô Hà Nội”. Nhà xuất bản Hà Nội.

3. Ban tuyên giáo trung ƣơng (2013), “ 100 câu hỏi – đáp về biển,

đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam”. Nhà xuất bản thông tin và truyền thông.

4. Ban tuyên giáo trung ƣơng (2014), “99 câu hỏi đáp về biển

đảo”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

5, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Dự án Việt-Bỉ (2010), Dạy và học tích

cực một số phương pháp và kĩ thuật dạy học. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

6. Bộ giáo dục và đào tạo (2014) “Tài liệu tập huấn kiểm tra, đánh

giá trong quá trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh

trong trường trung học phổ thông, Hà Nội.

7. Bộ giáo dục và Đào tạo (2011). “Tài liệu hướng dẫn dạy học nội

dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo cho học sinh trung học

phổ thông”. Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.

8. Chƣơng trình KHCN cấp nhà nƣớc KX – 07, đề tài KX – 07 –

19 (1994), “Tìm hiểu hoạt động giáo dục truyền thống yêu nước Bảo vệ Tổ

Quốc trong lịch sử dân tộc (Thế kỉ X – trước 1930). Nhà xuất bản Quân Đội

nhân dân, Hà Nội.

9. Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Thị Nhuần (2015), “Chủ tịch Hồ

Chí Minh với bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ Quốc”. Nhà xuất

bản quân đội.

10. Trƣơng Minh Dục (2014), “Chủ quyền quốc gia Việt Nam tại

hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua tư liệu Việt Nam và nước ngoài”.

113

Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông.

11. Nguyễn Đình Đầu (2014), “Chủ quyền Việt Nam trên Biển

Đông và Hoàng Sa, Trường Sa”. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP.HCM.

12. Dƣơng Hà Hiếu (2015.), “Biển, đảo việt Nam trong các tư liệu

Tiếng Anh từ Thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX”. Tạp chí nghiên cứu Lịch sử

số 5 (469), tr 22-37.

13. Lam Hồng, Thụy An, Hạnh Nguyên (2014), “ Đảo Trường Sa

lớn: Thủ phủ tiền tiêu của Việt Nam trên Biển Đông”. Nhà xuất bản Văn học,

Hà Nội.

14. GS. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng và Nguyễn

Thị Côi (2010), Phương pháp dạy học lịch sử tập 1, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

15. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2012), Từ điển thuật ngữ lịch sử

phổ thông, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.

16. GS Phan Ngọc Liên, “ Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy học

sinh làm trung tâm”. Hội khoa học lịch sử Việt Nam.

17. Hà Thị Mai (2013), “Giáo trình giáo dục học đại cương”. Đà

Lạt.

18. Trần Thị Họa My (2012), “Chủ quyền của Việt Nam trên Biển

Đông-nhìn từ góc độ pháp lý, thực tiễn và lời giải cho bài toán “Giải quyết

tranh chấp Biển Đông”. LVTHS Luật Quốc tế, ĐHQGHN.

19. Nhiều tác giả (2015), “Biển đảo Việt Nam khu vực Nam Bộ”.

Nhà xuất bản Văn hóa - văn nghệ, Hà Nội.

20. Nhiều tác giả (2014), “Chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ

quốc”. Nhà xuất bản quân đội nhân dân, Hà Nội.

21. Nhiều tác giả (2012), “ Việt Nam và tranh chấp Biển Đông”.

Nhà xuất bản tri thức, Hà Nội.

22. Nhiều tác giả (2008), “ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”.

114

Nhà xuất bản Trẻ, Hà Nội.

23. Nhiều tác giả (2014), “Biển Đảo, lãnh thổ thiêng liêng của

người dân nước Việt”. Nhà xuất bản văn học, Hà Nội.

24. PGS.TS. Vũ Quang Hiển – TS. Hoàng Thanh Tú (2014),

“Phương pháp dạy môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông”. Nxb đại học

Quốc Gia HN.

25. Vũ Quang Hiển (2012), “Chủ trương của Đảng và Nhà nước

Việt Nam về kết hợp phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo

(1986 – 2007).

26. Đặng Thị Huế (2015), Sử dụng tư liệu chủ quyền biển đảo Tổ

quốc trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông. LV TH.S SPLS.

ĐHGD

27. Quý Lâm (2016), “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa và những

quy định mới về biển, đảo”. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.

28. Hoàng Trọng Lập (1996), “Tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa

- Trường Sa và luật pháp quốc tế”. LAPTSKH Luật học, ĐH Khoa học Xã

hội và Nhân Văn, Hà Nội.

30. Hồ Sĩ Quý (2014), “Quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền

của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – thực tế, không gián

đoạn, hòa bình và minh bạch. Viện Thông tin Khoa học xã hội.

31. Vũ Hữu San (2007), “Địa lý Biển Đông với Hoàng – Sa và

Trường – Sa -1”. Đại học Stanford. Ủy Ban bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Việt

Nam.

32. Đặng Hoàng Sang (2015), “Giáo dục ý thức chủ quyền biển đảo

cho học sinh THPT qua môn lịch sử”. Kỉ yếu hội thảo khoa học năm 2015.

Nhà xuất bản Cần Thơ, tr 237-246.

33. Dƣơng Xuân Sơn (2016), “Báo chí với vấn đề biển, đảo và

115

duyên hải Việt Nam”. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội.

34. Nguyễn Đức Toàn(2015), “Sử dụng tư liệu gốc để giáo dục chủ

quyền biển, đảo cho HS ở trường THPT (Qua chương trình chuẩn SGK lịch

sử 10), Kỉ yếu hội thảo khoa học năm 2015. Nhà xuất bản Cần Thơ, tr 226-

231.

35. Nguyễn Đức Toàn (2015), “ Môn lịch sử với việc giáo dục cho

học sinh ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo tổ quốc trong bối cảnh quốc tế

hiện nay”. Tạp chí khoa học trường Đại học Cần Thơ, tr 38-43.

36. Trần Nam Tiến (2014), “Đội Hoàng Sa trong lịch sử xác lập và

bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam”. Nhà xuất bản Văn hóa - văn nghệ,

Hà Nội.

37. Văn Ngọc Thành, Hoàng Thị Nga (2015), “Chủ quyền lãnh thổ

trong sách giáo khoa công hoa liên bang Đức – một vài suy nghĩ cho việc đổi

mới sách giáo khoa Việt Nam sau 2015”. Tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 6

(469), tr75-80.

38. Phạm Ngọc Trâm (2016), “Bảo vệ chủ quyền và quản lý-khai

thác biển đảo Việt Nam 1975-2014”. Nhà xuất bản tổng hợp TP.HCM.

39. Hoàng Thanh Tú, Nguyễn Tiến Thành (2007), Sử dụng phim

tư liệu trong dạy học lịch sử. Tạp chí dạy và học ngày nay số tháng 5/2007.

40. Trần Công Trục (2011), “Dấu ấn việt Nam trên Biển Đông”.

Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

41. Đậu Thị Hải Vân (2012), “Giáo dục ý thức về chủ quyền biển,

đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10, trung học

phổ thông (chương trình chuẩn)”. LV TH.S SPLS. ĐHGD.

42. Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng (2016),

“Biển đảo Việt Nam lịch sử - chủ quyền – kinh tế - văn hóa”. Nhà xuất bản

Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM.

43. http://th-tan1.phuvang.thuathienhue.edu.vn/tin-tuc/dua-noi-

dung-giao-duc-chu-quyen-bien-daovao-sach-giao-khoa-cac-cap.htm]

116

44. https://www.youtube.com/watch?v=FjqLRVe9HOk

45.http://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/4330-huyen-

thoai-duong-ho-chi-minh-tren-bien.html

46. https://hosotulieu.wordpress.com/tag/tau-khong-s%E1%BB%91/

47. https://www.youtube.com/watch?v=cVErPIzVooo

48. Trang web

http://www.tapchicongsan.org.vn

http://www.vietthuc.org

http://biengioilanhtho.gov.vn

http://quangngai.gov.vn

https://asean.thuvienphapluat.vn

http://asean.mofa.gov.vn

http://voh.com.vn/khoa-hoc-va-giao-duc/doi-moi-sach-giao-khoa-

117

lich-su-can-dua-van-de-bien-dong-vao-giang-day-147284.html)

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN

Kính chào Thầy (Cô)

Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu “Giáo dục ý thức

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt

Nam lớp 12”, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các Thầy/Cô. Thông tin

thu thập được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu

Em xin chân thành cảm ơn!

Thông tin cá nhân (không bắt buộc)

Họ và tên .......................................................................................................

Giáo viên trường ..........................................................................................

Số năm công tác ...........................................................................................

Hãy đánh dấu X vào ô trống có câu trả lời phù hợp với thầy/cô

Câu 1: Theo Thầy (cô), những kiến thức về chủ quyền biển, đảo

của Tổ quốc có cần thiết đƣa vào dạy , học ở trƣờng phổ thông không?

Rất cần thiết

Cần thiết

Bình thường

Không cần thiết

Câu 2: Thầy (Cô), quan niệm nhƣ thế nào về việc tổ chức dạy học

các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS?

Là hoạt động có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về chủ quyền biển, đảo

của Tổ quốc cho HS

Là hoạt động của Đoàn TNCS HCM không phải của GV bộ môn

Chỉ là cung cấp các kiến thức về chủ quyền biển, đảo Tổ Quốc cho

HS

Các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc không có trong SGK

nên học sinh tự tìm hiểu.

Ý kiến khác ......................................................................................

...................................................................................................................

Câu 3: Thầy (cô) đánh giá nhƣ thế nào đối với những kiến thức về

chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong chƣơng trình sách giáo khoa phổ

thông hiện nay?

Phong phú

Chưa phong phú

Đơn điệu

Không có gì

Câu 4: Theo thầy (cô), ở trƣờng THPT, mức độ ƣu thế của các bộ

môn sau trong việc giáo dục các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc

cho học sinh nhƣ thế nào?

Rất ưu thế Ưu thế Bình thường Không có

ưu thế

Ngữ văn

Lịch sử

Đại lý

Giáo dục công

dân

Câu 5: Trong giờ học Lịch sử, Thầy (cô) có thƣờng xuyên cung cấp

các kiến thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh không?

Rất thường xuyên

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Không sử dụng

Câu 6: Theo Thầy (cô), việc dạy học các nội dung về chủ quyền

biển, đảo Tổ quốc cho học sinh có thể thực hiện thông qua các hình thức

nào?

Bài học cung cấp kiến thức mới

Tích hợp với các môn học khác

Tổ chức hoạt động ngoại khóa

Cho học sinh tự tìm hiểu

Ý kiến khác .....................................................................................................

Câu 7: Theo Thầy (cô), việc tổ chức dạy học các nội dung về chủ

quyền biển, đảo trong môn Lịch sử cho học sinh lớp 12 THPT có những

thuận lợi và khó khăn gì?

7.1 Thuận lợi

Được trang bị đầy đủ tài liệu, phương tiện trong dạy học

Kiến thức, các tài liệu thuận lợi trong việc tìm hiểu, liên hệ

Học sinh hợp tác và cố gắng khi làm việc Gv giao bài

Thuận lợi khác: ........................................................................

7.2 Khó khăn

Không đủ thời gian để dạy

Tài liệu tham khảo để chọn nội dung soạn bài còn hạn chế, chưa

có tài liệu hướng dẫn cụ thể

Trong chương trình Lịch sử hiện tại không có các nội dung này

Khó khăn khác: .................................................................................

Câu 8: Thầy (Cô) có đề xuất gì để việc tổ chức dạy học các nội

dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh THPT trong dạy học

lịch sử đạt hiệu quả tốt nhất?

Về phía nhà trường: .....................................................................................

Về phía giáo viên: .........................................................................................

Ý thức của mỗi học sinh ...............................................................................

Các yếu tố khác: ............................................................................................

Xin chân thành cảm ơn quý Thầy (Cô) !

PHỤ LỤC 2

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH

Các em học sinh thân mến!

Để góp phần thực hiện thành công đề tài nghiên cứu “Giáo dục ý thức

chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt

Nam lớp 12”, cô rất mong nhận được sự giúp đỡ của các em. Thông tin thu

thập được giữ bí mật và chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu.

Chân thành cảm ơn!

Thông tin cá nhân (không bắt buộc):

Họ và tên: ........................................................................................................

Lớp: .................................................................................................................

Trường: ..........................................................................................................

Bạn hãy đánh dấu X vào câu trả lời phù hợp với em

Câu 1: Mức độ hứng thú của em đối với môn học Lịch sử nhƣ thế

nào?

Rất hứng thú

Bình thường

Chưa quen

Không hứng thú

Câu 2: Theo em, môn Lịch sử có thuận lợi không khi tích hợp dạy

các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc?

Rất thuận lợi

Thuận lợi

Ít thuận lợi

Không thuận lợi

Câu 3: Theo em, ở trƣờng THPT, mức độ ƣu thế của các bộ môn

sau trong việc giáo dục các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho

học sinh nhƣ thế nào?

Rất ưu thế Ưu thế Bình thường Không có

ưu thế

Ngữ văn

Lịch sử

Đại lý

Giáo dục công

dân

Câu 4: Em quan niệm nhƣ thế nào về việc tổ chức dạy học các nội

dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc cho HS?

Là hoạt động có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về chủ quyền biển, đảo

của Tổ quốc cho HS

Là hoạt động của Đoàn TNCS HCM không phải của GV bộ môn

Chỉ là cung cấp các kiến thức về chủ quyền biển, đảo Tổ Quốc cho

HS

Các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc không có trong SGK

nên học sinh tự tìm hiểu.

Ý kiến khác ......................................................................................

...................................................................................................................

Câu 5: Em có thƣờng xuyên cập nhật các thông tin về chủ quyền

biển đảo Việt Nam và vấn đề tranh chấp trên Biển Đông hay không?

Thường xuyên cập nhật

Thỉnh thoảng cập nhật

Ít cập nhật

Không quan tâm

Câu 6: Em tìm hiểu kiến thức về chủ quyền biển, đảo thông qua

các kênh thông tin nào?

Các môn học ở trường

Ti vi

Báo, đài

Internet

Qua người thân, bạn bè

Câu 7: Em muốn đƣợc học các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ

quốc thông qua hình thức học tập nào?

Bài học cung cấp kiến thức mới

Tổ chức hoạt động ngoại khóa

Tích hợp trong các môn học

Tự bản thân tìm hiểu

Ý kiến khác .....................................................................................

Câu 8: Khi tìm hiểu các nội dung về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc

em thấy có những khó khăn gì?

Không có tài liệu

Không xác định được độ tin cậy của thông tin

Khó hiểu

Không hứng thú

Câu 9: Em có đề xuất gì cho việc giáo dục các nội dung về chủ

quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử có kết quả tốt nhất?

Về phía nhà trường: .................................................................................

Về phía giáo viên: .....................................................................................

Ý thức của mỗi học sinh: ..........................................................................

Các yếu tố khác: ........................................................................................

Cảm ơn các em !

PHỤ LỤC 3

CÂU HỎI KIỂM TRA HỌC SINH

VỀ KIẾN THỨC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC

Em hãy lựa chọn đáp án đúng nhất trong các câu sau:

1. Biển Đông có vị trí chiến lƣợc quan trọng chủ yếu do vùng biển

này

A. là một trong những vùng biển rộng lớn nhất thế giới.

B. là một tuyến hàng hải nhộn nhịp vào bậc nhất thế giới.

C. có nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú.

D. có nhiều quốc gia, nhất là các cường quốc nằm ven bờ.

2. Huyện đảo Hoàng Sa là đơn vị hành chính thuộc

A. Thành phố Hải Phòng. C. Tỉnh Thừa Thiên - Huế.

B. Thành phố Đà Nẵng. D. Tỉnh Quảng Nam.

3. Huyện đảo Trƣờng Sa là đơn vị hành chính thuộc

A. Tỉnh Quảng Trị C. Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

B. Tỉnh Bình Thuận D. Tỉnh Khánh Hòa

4. Năm 1956, Trung Quốc cho quân chiếm một số đảo phía Đông

thuộc

A. Quần đảo Hoàng Sa.

B. Quần đảo Trường Sa.

C. vùng Vịnh Bắc Bộ.

D. vùng Vịnh Hạ Long.

5. Tháng 1 – 1974, Trung Quốc cho quân chiếm các đảo thuộc

A. phía Tây quần đảo Trường Sa.

B. phía Tây quần đảo Hoàng Sa.

C. phía Đông quần đảo Trường Sa.

D. phía Đông quần đảo Hoàng Sa.

6. Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) là văn bản

đƣợc kí kết giữa chính phủ các quốc gia nào? Vào năm nào?

A. Các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc, 2002.

B. Các quốc gia thành viên của ASEAN, 2003.

C. Các nước thành viên ASEAN, Trung Quốc và Nhật Bản, 2002.

D. Hai nước Việt Nam và Trung Quốc, 2003.

7. Các quốc gia có tranh chấp chủ quyền trên biển Đông hiện nay là

A. Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Manila, Brunây.

B. Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia, Brunây.

C. Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Malaixia, Brunây.

D. Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Brunây.

8. Một trong những vùng lãnh thổ có tham gia tranh chấp chủ

quyền trên Biển Đông là

A. Côn Đảo.

B. Phú Quốc.

C. Đài Loan

D. Hải Nam.

9. Tháng 1-1974, Trung Quốc cho quân đánh chiếm quần đảo

Hoàng Sa khi quần đảo này do lực lƣợng nào kiểm soát ?

A. Chính quyền Việt Nam cộng hoà.

B. Quân đội Mĩ và đồng minh.

C. Chính quyền Đài Loan.

D. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

10. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Hải

quân nhân dân Việt Nam đã tiến ra biển, giải phóng quần đảo Trƣờng Sa

A. sau khi kết thúc chiến dịch Tây Nguyên.

B. sau khi giải phóng thành phố Huế.

C. trước khi giải phóng thành phố Đà Nẵng.

D. sau khi giải phóng thành phố Đà Nẵng.

PHỤ LỤC 4

GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM

CHƢƠNG IV: VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975

Bài 23: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc,

giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)

(Tiết 2)

I. Mục tiêu bài học

Sau bài học này, học sinh phải

1. Kiến thức

- Tóm tắt được diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.

- Phân tích được những quyết định của Đảng trong tiến trình tổng tiến

công và nổi dậy Xuân 1975.

- Phân tích được nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống

Mĩ, cứu nước (1954 – 1975).

- Đánh giá được ý nghĩa lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy

Xuân 1975 đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

2. Kỹ năng

- Rèn kĩ năng phân tích, nhận định, đán giá về âm mưu, thủ đoạn của

địch sau Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam; điều kiện và thời cơ sau khi

Mĩ rút hết quân về nước; chủ trương, kế hoạch đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt

giải phóng hoàn toàn miền Nam.

- Kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm.

- Khai thác tranh ảnh, lược đồ cuộc tổng tiến công.

3. Thái độ

- Bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, tình cảm ruột thịt Bắc –

Nam, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.

- Giáo dục cho học sinh ý thức, trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ

quốc gia, chủ quyền biển đảo, những giá trị văn hóa từ thời Nguyễn còn tồn

tại đến ngày nay.

- Tinh thần chiến đấu, ý chí thống nhất Tổ quốc, không chịu khuất phục

trước kẻ thù.

II. Phƣơng pháp dạy học

- Phân tích, miêu tả kết hợp với phát vấn.

- Sử dụng đồ dùng trực quan.

- Phương pháp dạy học nhóm.

III, Chuẩn bị học liệu, phƣơng tiện

- SGK Lịch sử 12

- Lược đồ diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975

- Các câu chuyện, tài liệu liên quan đến bài học

IV. Tiến trình dạy học

1. Vào bài mới

Đặt câu hỏi: Sau hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam, cách mạng

từng miền Bắc – Nam thực hiện những nhiệm vụ gì ?

Sau hiệp định pari năm 1973 về Việt Nam, Mĩ rút hết quân về nước.

Nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển

kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam. Nhân dân miền Nam đấu tranh

chống “bình định-lấn chiếm”, tạo thế và lực tiến tới cuộc Tổng tiến công và

nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.

2. Dạy học bài mới

Hoạt động của giáo viên và học sinh Nội dung cơ bản

Hoạt động 1: Tìm hiểu chủ trƣơng, III. Giải phóng

kế hoạch giải phóng miền Nam. hoàn toàn miền Nam,

giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ Gv khái quát chủ trương chiến lược của quốc. ta trong kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền 1, Chủ trƣơng, kế Nam, thống nhất đất nước. hoạch giải phóng miền

Làm rõ tại hội nghị của BCH Trung Nam.

ương mở rộng họp từ ngày 18/12/1974 – Cuối năm 1974 đầu

08/01/1975 đã đề ra kế hoạch giải phóng miền 1975, Bộ chính trị Trung

Nam trong vòng 2 năm (1975 – 1976). BCT ương Đảng đề ra kế hoạch

còn dự kiến nếu thời cơ đến thì giải phóng giải phóng hoàn toàn miền

miền Nam trong năm 1975. Đầu năm 1975 Nam trong 2 năm 1975 –

khi thời cơ đến nhanh, BCT quyết định thực 1976, nhưng nhấn mạnh “cả

hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy, thời gian 1975 là thời cơ” và “nếu

gần 2 tháng, bằng 3 chiến lược lớn. thời cơ đến vào đầu hoặc

cuối 1975 thì lập tức giải

phóng miền Nam ngay trong

năm 1975”.

Cần phải tranh thủ

thời cơ đánh nhanh thắng

nhanh để đỡ thiệt hại về

người và của cho nhân dân.

Hoạt động 2: Tìm hiểu cuộc tổng tiến 2, Cuộc Tổng tiến công và

công và nổi dậy Xuân 1975. nổi dậy Xuân 1975.

a, Chiến dịch Tây 1. Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-3 đến Nguyên (Từ 4-3 đến ngày ngày 24-3). 24-3). Gv dùng lược đồ diễn biến cuộc tổng 4/3/1975 ta đánh nghi tiến công và nổi dậy Xuân 1975, yêu cầu HS binh ở Plâyku – Kontum xác định vị trí và hướng tấn công chủ yếu của nhằm thu hút lực lượng từng chiến dịch, rồi nêu câu hỏi cho từng địch. nhóm tiến hành thảo luận. 10/3/1975 ta bất ngờ GV chia lớp thành 3 nhóm: đánh Buôn Ma Thuột, đến - Nhóm 1: Dựa vào lƣợc đồ chiến ngày 11/3 ta giành thắng lợi. dịch Tây Nguyên, hãy tƣờng thuật lại diến

14/3/1975, địch được biến chính của chiến dịch.

lệnh rút toàn bộ quân khỏi (Phụ lục 1)

Tây Nguyên về giữ vùng Nhóm 2: Kết hợp với lƣợc đồ chiến

ven biển miền Trung. Trên dịch Huế - Đà Nẵng, hoàn thiện sơ đồ trục

đường rút chạy, địch bị quân thời gian và trình bày lại diễn biến của

ta truy kích tiêu diệt. chiến dịch Huế - Đà Nẵng. (Phụ lục 2)

Ngày 24/3/1975 Tây Nhóm 3: Hoàn thiện phiếu học tập và

Nguyên hoàn toàn giải dựa vào lƣợc đồ chiến dịch Hồ Chí Minh,

phóng. thuyết trình trƣớc cả lớp về diễn biến chiến

Ý nghĩa: Chuyển cuộc dịch Hồ Chí Minh.

kháng chiến chống Mĩ cứu (Phụ lục 3)

Sau khi các nhóm trình bày, Gv nhận nước của ta từ tiến công

xét và chốt kiến thức chính. chiến lược sang tổng tiến

Kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch công chiến lược trên toàn

sử, Gv nêu ý nghĩa của chiến dịch: Chiến dịch miền Nam.

Hồ Chí Minh thắng lợi tạo điều kiện thuận lợi b, Chiến dịch Huế -

để giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngày Đà Nẵng (21/3 đến

2/5/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng. 29/3/1975)

Gv hỏi: Gắn liền với chiến dịch Hồ Chí 21/3/1975, quân ta tấn

Minh lịch sử, hải quân nước ta đã giải phóng công Huế và chặn đường rút

quần đảo nào? chạy của địch

Ngày 26/3 ta giải HS trả lời.

phóng thành phố Huế và Gv nhận xét, mở rộng thêm kiến

toàn tỉnh Thừa Thiên. thức:

Năm 1956, Trung Quốc cho quân Cùng thời giai giải

chiếm các đảo phía Đông quần đảo Hoàng phóng Huế, quân ta tiến vào

Sa. giải phóng Tam Kỳ, Chu

Sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết. Lai, Quảng Ngãi

Hoàng Sa, Trường Sa nằm ở phía Nam vĩ 29/3/1975 quân ta từ

tuyến 17 thuộc quyền quản lý của nhà nước ở nhiều hướng tiến công Đà

miền Nam – quân đội Sài Gòn nắm giữ. Nẵng và đến 3 giờ chiều

Tháng 1 – 1974, sau hiệp định Pari, cùng ngày thì giải phóng Đà

Trung Quốc đã cho quân chiếm nốt các đảo Nẵng.

phía Tây quần đảo Hoàng Sa  Trung Quốc Ý nghĩa: Gây nên tấm

đã chiếm hoàn toàn đảo này dưới sự bật đèn lí tuyệt vọng trong ngụy

xanh của Mỹ. quyền, đưa cuộc tổng tiến

Trong lúc các cánh quân của Chiến công và nổi dậy của quân

dịch Hồ Chí Minh tiến thần tốc áp sát Sài dân ta tiến lên một bước mới

Gòn, đoàn tàu không số chở 300 chiến sĩ bí với sức mạnh áp đảo.

mật vượt trùng khơi giải phóng quần đảo c, Chiến dịch Hồ Chí

Trường Sa. Minh (26/4 đến 30/4/1975)

GV dùng máy chiếu, chiếu cho HS Sau thắng lợi của các quan sát chiếc tàu không số trên biển. chiến dịch Tây Nguyên và

Huế - Đà Nẵng, Bộ chính trị

Trung ương Đảng quyết

định giải phóng miền Nam

trước mùa mưa.

Chiến dịch giải phóng

Sài Gòn – Gia Định được

Bộ chính trị quyết định trong những con Tàu không Một

mang tên “Chiến dịch Hồ số. Ảnh tư liệu.

Chí Minh”. (http://soha.vn/xa-hoi/om-nhau-khoc-giua-

Trước khi bắt đầu truong-sa khi-nghe-tin-sai-gon-giai-phong-

chiến dịch giải phóng Sài 20150429072944331.htm)

Gòn, quân ta tiến công Xuân Vừa đến cảng Tiên Sa, ngay lập tức cả

Lộc và Phan Rang – những ba tàu cấp tốc nhận nhiệm vụ chở quân đi đến

Trường Sa gồm đôị 1 của đoàn 126 đặc công căn cứ phòng thủ trọng yếu

nước hải quân do Anh hùng Lực lượng vũ của địch bảo vệ Sài Gòn từ

trang Nguyễn Ngọc Quế làm đội trưởng, cùng phía đông:

một lực lượng đặc công của Sư đoàn 2 – Ngày 16/4/1975 ta

Quân khu 5 phối thuộc. Chỉ huy cả hai lực chọc thủng tuyến phòng thủ

lượng này là lữ đoàn trưởng đặc công nước Phan Rang.

Mai Năng. Từ Tiên Sa, trong đêm tối cả ba Ngày 21/4/1975 giải

tàu 673, 674và 675 được ngụy trang thành phóng Xuân Lộc.

tàu đánh cá mang cờ hiệu nước ngoài. 17h ngày 26/4/1975,

4 giờ sáng 11/4, ba con tàu “đánh cá” quân ta được lệnh nổ súng

với mật danh “biệt đội C75” đè sóng thẳng mở đầu chiến dịch. 5 cánh

hướng ra Trường Sa. Đảo Song Tử Tây là đảo quân ta vượt qua tuyến

đầu tiên mở màn cho chiến dịch trên biển. phòng thủ vòng ngoài của

Đây cũng là thời điểm các cánh quân của ta địch tiến vào trung tâm Sài

đang chuẩn bị nổ súng trên mặt trận Phan Gòn, đánh chiếm các cơ

Rang – Xuân Lộc – Tây Ninh. quan đầu nào của chúng.

Sau khi nghe tin quân ta giải phóng các 10h45’ ngày 30/4/1975,

đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, quân xe tăng và bộ binh của ra

địch trên đảo Sinh Tồn đã hoang mang dao tiến vào Dinh Độc Lập bắt

động, rút chạy từ sáng ngày 27/4, nên lực dông toàn bộ Nội các Sài

lượng ta đổ bộ thuận lợi. Gòn – Dương Văn Minh

Đúng 10 giờ 20 phút ngày 28/4/1975, ta tuyên bố đầu hàng vô điều

làm chủ đảo hoàn toàn. Và đến 9 giờ sáng kiện.

ngày 29/4/1975, phân đội chiến đấu cuối 11h30’ ngày 30/4/1975,

cùng của Lữ đoàn 126 đổ bộ làm chủ đảo lá cờ cách mạng tung bay

Trường Sa. Từ đó đảo Trường Sa nói riêng và trên nóc dinh Độc Lập báo

quần đảo Trường Sa nói chung bước vào thời hiệu chiến dịch Hồ Chí

kỳ lịch sử mới, thời kỳ xây dựng chiến đấu và Minh toàn thắng.

trưởng thành bảo vệ vững chắc chủ quyền

biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

GV nêu câu hỏi tổng kết:

1/ Giải phóng Trường Sa có ý nghĩa như

thế nào đối với sự nghiệp thống nhất đất

nước, khẳng định chủ quyền biển, đảo Việt

Nam.

2/ Em có suy nghĩ gì về trách nhiệm của

bản thân đối với đất nước trong thời kì hiện

nay?

HS trả lời

GV đưa ra đáp án và đưa đến kết luận:

Công cuộc giải phóng Trường Sa có ý nghĩa

to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp

giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất

đất nước. Tiếp bước khẳng định dấu mốc chủ

quyền biển, đảo Tổ quốc Việt Nam.

Hoạt động 3: Tìm hiểu nguyên nhân IV, Nguyên nhân

thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng thắng lợi và ý nghĩa lịch sử

chiến chống Mĩ, cứu nƣớc (1954 – 1975). của cuộc kháng chiến

GV nêu câu hỏi: Em hãy nêu nguyên chống Mĩ, cứu nƣớc (1954

nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc – 1975).

kháng chiến chống Mỹ cứu nước? 1. Nguyên nhân thắng

HS: trả lời lợi.

GV hỏi thêm: Trong những nguyên Sự lãnh đạo của Đảng,

nhân trên, nguyên nhân nào là quan trọng đứng đầu là Chủ tịch

nhất, tại sao? Hồ Chí Minh với đường lối

HS: trả lời chính trị, quân sự

GV giải thích thêm: Chiến dịch Hồ Chí Minh

Trong những nguyên nhân trên thì sự thắng lợi tạo điều kiện

lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị, thuận lợi cho việc giải

quân sự độc lập, tự chủ, đung đắn sáng phóng hoàn toàn miền

tạo….là nguyên nhân quan trọng nhất. Nam. Truyền thống yêu

Đảng lãnh đạo là nguyên nhân bao nước nồng nàn của nhân dân

trùm, chi phối các nguyên nhân khác….Nếu ta.

không có Đảng lãnh đạo thì sẽ không có sức Tinh thần đoàn kết

mạnh tổng hợp của dân tộc, không thể kết hợp chiến đấu dũng cảm vì sự

được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. nghiệp cách mạng.

Sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết Hậu phương miền Bắc vững

định cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt chắc đáp ứng kịp thời các

Nam. yêu cầu của cuộc chiến đấu

ở hai miền. Sự đoàn kết

chiến đấu của nhân dân 3

nước Đông Dương. Sự đồng

tình ủng hộ và giúp đỡ to

lớn của Liên Xô, Trung

Quốc và các nước XHCN

khác, của các lực lượng tiến

bộ trên thế giới.

2. Ý nghĩa lịch sử

Kết thúc 21 năm chiến đấu

chống Mỹ và 30 năm chiến

tranh giải phóng dân tộc,

bảo vệ tổ quốc từ sau cách

mạng

tháng Tám.

Chấm dứt hoàn toàn

ách thống trị của chủ nghĩa

thực dân- đế quốc ở nước ta.

Hoàn thành cuộc cách mạng

dân tộc dân chủ trong cả

nước và thống nhất đất

nước.

Mở ra kỉ nguyên mới của

lịch sử dân tộc – kỉ nguyên

đất nước độc lập, thống nhất

đi lên CNXH.

Tác động mạnh đến

tình hình nước Mĩ và thế

giới, là

nguồn cổ vũ to lớn đối với

phong trào giải phóng dân

tộc thế giới.

V, Củng cố

Hãy lập bảng hệ thống những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân

dân ta ở hai miền Nam-Bắc trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao

trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954-1975).

Phụ lục

Phụ lục 1

Lƣợc đồ chiến dịch Tây Nguyên.

Phụ lục 2

21 - 3 ……… 26 – 3 ..…….

Quân

Giải

ta

phóng

tiến công

Huế

cố đô

tỉnh Thừa

Thiên

Huế.

T

hiên

Sơ đồ trục thời gian

Lƣợc đồ chiến dịch Huế - Đà Nẵng

Phụ lục 3 Phiếu học tập

Nội dung

Thời gian

a. Ta chọc thủng tuyến phòng thủ Phan Rang.

1.11h30’ ngày

b. Quân ta được lệnh nổ súng mở đầu chiến

30/4/1975, dịch.

2.10h45’ ngày

c. Xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc

30/4/1975 Lập bắt sống toàn bộ Nội các Sài Gòn – Dương Văn

3.

Ngày

Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. 21/4/1975

d. Giải phóng Xuân Lộc.

4.

Ngày

e. Lá cờ cách mạng tung bay trên nóc dinh Độc

Lập báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. ngày

16/4/1975 5.17h 26/4/1975

Lƣợc đồ chiến dịch Hồ Chí Minh

PHỤ LỤC 5

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH SAU GIỜ DẠY THỰC

NGHIỆM

Xin em vui lòng cho biết ý kiến của mình sau khi học tiết 2 Bài 23:

Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn

miền Nam (1973 – 1975) bằng câu trả lời hoặc cung cấp thông tin vào chỗ

(…) thích hợp.

Họ và tên ……………………………lớp………………………………

1. Bài học hôm nay em có hiểu bài không?

A. Rất hiểu B. Hiểu

C. Chưa hiểu lắm D. Không hiểu

2. Em cảm thấy tiết học nhƣ thế nào khi giáo viên mở rộng thêm

thông tin về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

A. Hấp dẫn, có thêm thông tin về biển đảo Tổ quốc.

B. Dễ hiểu hơn trong SGK.

C. Bình thường, em có thể tự đọc thêm.

D. Khô khan, khó hiểu.

3. Bài dạy này em cảm thấy hấp dẫn ở điểm nào?

A. Học sinh tích cực, chủ động

B. Cách mở rộng kiến thức về biển, đảo của giáo viên.

C. Ứng dụng công nghệ thông tin và các phiếu bài tập trong giờ học.

D. Sự kết hợp được công cụ hỗ trợ và phương pháp dạy học

4. Sau khi tham gia các hoạt động học tập về chủ quyền biển, đảo

của Tổ quốc, em đã đạt đƣợc những mục tiêu học tập nào dƣới đây

A. Được trang bị thêm những kiến thức về chủ quyền biển, đảo Tổ

quốc

B. Được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng thuyết trình, trình

bày quan điểm.

C. Cảm thấy cần phải cố gắng học tập nhiều hơn để góp phần vào sự

nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.

D. Không đạt được mục tiêu học tập nào.

5. Những tác dụng của các kiến thức về chủ quyền biển, đảo nƣớc

ta là

A. Giáo dục cho học sinh cũng như thế hệ trẻ về ý thức trân trọng và

bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

B. Giúp học sinh mở rộng kiến thức mới, biết thêm những thông tin về

biển đảo đất nước.

C. Giúp học sinh có thêm cái nhìn mới, đa chiều đối với tình hình biển,

đảo đất nước.

D. Ý kiến khác ................................................................................................

6. Em có đề xuất gì về cách dạy học của giáo viên đối với các nội

dung về chủ quyền biển, đảo của đất nƣớc

A. Cần hướng dẫn cụ thể hơn các nhiệm vụ để học sinh tự tìm tài liệu.

B. Thường xuyên giảng dạy và mở rộng kiến thức về biển, đảo của Tổ

quốc cho HS.

C.Hướng dẫn HS tự nghiên cứu, tìm tài liệu.

D. Ý kiến khác ............................................................................................. .

7. Theo em, để giáo dục cho HS về ý thức đối với chủ quyền biển

đảo của Tổ quốc, GV nên

A. Tích cực hướng dẫn và cung cấp các tài liệu về chủ quyền biển, đảo

để HS có cơ hội tiếp cận.

B. Cho HS tham gia các giờ học ngoại khóa về biền, đảo để học sinh

biết thêm nhiều thông tin, góp phần bồi dưỡng lòng yêu nước đối với các em.

C. Tổ chức các buổi thuyết trình, tranh luận về các vấn đề biển, đào xưa

và nay.

D.Ý kiến khác.............................................................................................

7. Là thế hệ trẻ trong tƣơng lai, em sẽ làm gì để góp phần vào công

cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc?

...................................................................................................................

...................................................................................................................

Cảm ơn các em !