VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -----***-----
LÊ THỊ BÍNH
GỐM CHU ĐẬU (HẢI DƯƠNG): TƯ LIỆU VÀ NHẬN THỨC
TỪ KẾT QUẢ KHAI QUẬT NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHẢO CỔ HỌC
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -----***-----
LÊ THỊ BÍNH
GỐM CHU ĐẬU (HẢI DƯƠNG): TƯ LIỆU VÀ NHẬN THỨC
TỪ KẾT QUẢ KHAI QUẬT NĂM 2014
Ngành: Khảo cổ học
Mã số: 8 22 90 17
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI MINH TRÍ
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi Minh Trí. Các số liệu, những
kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 18 tháng 8 năm 2019
Tác giả
Lê Thị Bính
I
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn khảo cổ này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới
các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Khảo cổ học, Học Viện Khoa học xã hội đã giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Bùi Minh Trí, người thầy đã định
hướng và luôn giúp đỡ, tân tâm dạy dỗ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài
này, ngay từ ý tưởng ban đầu cho tới khi hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Nghiên cứu Kinh thành, phòng
Hợp tác và thông tin thư viện đã tạo điều kiện cho tôi sử dụng tài liệu để hoàn thành
luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Bảo tàng tỉnh Hải Dương, chính quyền thôn
Chu Đậu, xã Thái Tân, huyện Nam Sách đã tạo điều kiện cho tôi cùng đoàn nghiên
cứu của Viện Nghiên cứu Kinh thành được khai quật tại Chu Đậu vào năm 2014.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, người thân đã động
viên, giúp đỡ và tạo cho tôi những điều kiện tốt nhất trong suốt thời gian học tập
vừa qua.
Hà Nội, ngày 18 tháng 8 năm 2019
Tác giả
Lê Thị Bính
II
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐ : Chu Đậu
CĐ14.H01 : Hố 1, Chu Đậu khai quật năm 2014
CĐ14.H02.LO01 : Lò gốm số 1, hố 2, khai quật tại Chu Đậu năm 2014
CĐ14.H02 : Hố 2, khai quật tại Chu Đậu năm 2014
ĐKĐ : Đường kính đáy
ĐKM : Đường kính miệng
H01, H02 : H là hố khai quật, 01: hố số 1, 02: hố số 2
KCH : Khảo cổ học
KHXHVN : Khoa học xã hội Việt Nam
NPHM : Những phát hiện mới
: Nhà xuất bản Nxb
: Phụ lục PL
PGS.TS : Phó giáo sư, tiến sĩ
: Trang Tr
: Thứ tự TT
III
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU GỐM CHU ĐẬU Ở HẢI DƯƠNG .. 11
1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................... 11
1.2. Di chỉ gốm Chu Đậu qua các lần khai quật ............................................. 14
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 21
Chương 2: KẾT QUẢ KHAI QUẬT, NGHIÊN CỨU GỐM CHU ĐẬU
NĂM 2014 ...................................................................................................... 23
2.1. Về địa tầng ............................................................................................... 23
2.2. Về lò nung gốm ........................................................................................ 27
2.3. Về di vật ................................................................................................... 29
2.4. Về niên đại và tính chất ............................................................................ 37
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 39
Chương 3: GỐM CHU ĐẬU VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ .... 40
GỐM CỔ THỜI LÊ SƠ Ở HẢI DƯƠNG ................................................... 40
3.1. Đặc trưng gốm Chu Đậu .......................................................................... 40
3.2. Gốm Chu Đậu trong mối quan hệ với các trung tâm sản xuất gốm cổ khác
ở Hải Dương .................................................................................................... 70
3.3. Vai trò của gốm Chu Đậu trong lịch sử gốm cổ thời Lê sơ ở Hải Dương74
Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................
PHỤ LỤC ...........................................................................................................
IV
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chu Đậu được biết đến là một trong những trung tâm sản xuất gốm sứ nổi
tiếng của Hải Dương thời Lê sơ. Đây là di chỉ sản xuất gốm sứ ở Việt Nam lần đầu
tiên được Bộ Văn hoá, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp
bằng xếp hạng di tích quốc gia (năm 1992). Trước thời điểm thập niên 80 của thế kỷ
trước, ít ai có thể ngờ rằng vùng đất Chu Đậu, một làng quê thuần nông yên ả thuộc
xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, lại có một bề dày lịch sử về nghề
làm gốm đến thế. Hầu như những người dân trên chính mảnh đất này cũng không
biết rằng ông cha họ từng tạo nên những sản phẩm gốm tinh xảo, tuyệt mỹ, đạt đến
đỉnh cao về kỹ thuật và nghệ thuật. Nhưng từ khi gốm Chu Đậu được phát hiện và
nghiên cứu vào năm 1986, đã mở ra một chương mới quan trọng trong lịch sử
nghiên cứu gốm sứ cổ thời Lê, đánh dấu mốc phát triển của lịch sử gốm cổ Việt
Nam. Đặc biệt những đồ gốm sứ đã được phát hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam
(trong các bảo tàng quốc tế) hoặc trên các con tàu đắm ở Hội An (Việt Nam),
Pandanan (Philippines), Turian (Malaysia)..., người ta đã nhận ra trong số những đồ
gốm đó được sản xuất tại Chu Đậu. Điều này thực sự đem lại nhiều tư liệu và nhận
thức mới cho các nhà nghiên cứu gốm cổ Việt Nam, bởi trước thời điểm này người
ta chỉ biết đến gốm Bát Tràng và dường như vấn đề nguồn gốc lò sản xuất gốm thời
Lê ở Bắc Việt Nam chưa có thông tin của khảo cổ học [57].
Bên cạnh việc phát hiện làng gốm Chu Đậu, cùng thời gian này, một loạt các
lò gốm khác ở Hải Dương cũng được phát hiện và nghiên cứu như Hợp Lễ, Ngói,
Hùng Thắng, Mỹ Xá… [30]. Từ đây, các trung tâm sản xuất gốm sứ Hải Dương đã
đem lại sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Các nhà
khảo cổ học đã tiến hành nhiều cuộc khai quật khảo cổ học tại đây, thu được nhiều
tư liệu quý báu. Riêng Chu Đậu trước năm 2014, đã diễn ra 6 cuộc khai quật và đã
được các nhà khoa học đưa ra nhiều thành tựu rất đáng chú ý. Tuy nhiên, điểm lại
các thành tựu nghiên cứu hơn 30 năm trước chúng ta nhận thấy rằng, phần lớn các
cuộc khai quật chưa làm rõ vấn đề địa tầng, chưa nghiên cứu so sánh để xây dựng
1
hệ tiêu chí đặc trưng riêng của gốm Chu Đậu trong bối cảnh chung của gốm cổ Việt
Nam thời Lê. Chính vì thế trong lô hàng gốm trên con tàu đắm Hội An (khai quật
năm 1997 – 2000), có rất nhiều loại hình gốm chưa được tìm thấy tại Chu Đậu trong
khi đó nhiều người tin rằng đồ gốm trên tàu này hoàn toàn là sản phẩm của lò Chu
Đậu. Dựa trên kết quả nghiên cứu so sánh PGS.TS. Bùi Minh Trí đã đưa ra nhận
định rằng: các loại hình gốm được tìm thấy trên tàu đắm Hội An là của rất nhiều các
lò khác nhau chứ không chỉ riêng Chu Đậu [57].
Một số phân tích nói trên cho thấy rằng, di chỉ gốm sứ Chu Đậu nói riêng,
các di chỉ sản xuất gốm cổ ở Việt Nam nói chung, vẫn còn rất nhiều vấn đề chưa
được đầu tư nghiên cứu sâu kỹ. Vì thế có thể nói, cho dù đã thu được nhiều thành
tựu khoa học quan trọng, nhưng Chu Đậu vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra và sự hiểu
biết của chúng ta về Chu Đậu mới chỉ dừng lại trong khuôn khổ của các hố khai
quật, chưa thể nói là đã thấu hiểu gốm Chu Đậu theo đúng nghĩa của nó [57].
Năm 2013, tôi được nhận vào làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành
(nay là Viện Nghiên cứu Kinh thành), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Tôi được giao nhiệm vụ nghiên cứu, chỉnh lý đồ gốm sứ phát hiện tại di tích Hoàng
thành Thăng Long (khu ABCD và khu E).
Khu di tích Hoàng thành Thăng Long đã tìm được rất nhiều loại hình đồ
gốm, bao gồm gốm sứ Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Á và Hàn Quốc với
nhiều niên đại và nguồn gốc lò sản xuất khác nhau. Trong đó, gốm Việt Nam có số
lượng nhiều nhất, bao gồm các loại sản phẩm được sản xuất tại các lò: Thăng Long,
Nam Định, Hải Dương và xa hơn là các lò gốm ở các tỉnh miền Trung Việt Nam
như Bình Định, Thừa Thiên Huế.
Các loại hình sản phẩm gốm vùng Hải Dương (xứ Đông) được tìm thấy khá
nhiều và chủ yếu là sản phẩm của các lò: Chu Đậu, Cậy, Ngói và Hợp Lễ, có niên
đại từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18. Đây là những minh chứng rất quan trọng cho thấy,
gốm Hải Dương đã được sử dụng trong đời sống của Hoàng thành Thăng Long qua
nhiều triều đại. Phát hiện này đã đem lại rất nhiều điều thú vị cho các nhà nghiên
cứu. Từ đây, nhiều câu hỏi được đặt ra như: Tại sao Hoàng cung Thăng Long lại sử
2
dụng nhiều đồ gốm Hải Dương? Gốm Hải Dương có vai trò như thế nào trong đời
sống Hoàng cung Thăng Long?…
Để góp phần nghiên cứu làm rõ các loại hình đồ gốm của Hải Dương tại khu
di tích Hoàng thành Thăng Long, đặc biệt là các loại hình đồ gốm Chu Đậu, phục
vụ cho công tác nghiên cứu so sánh, đánh giá giá trị về các loại hình đồ gốm đang
tồn nghi có nguồn gốc sản xuất tại các lò gốm ở Chu Đậu, việc tổ chức triển khai
thực hiện công tác điều tra, khai quật di chỉ gốm Chu Đậu là rất cần thiết, có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn cao. Bởi thông qua chương trình này sẽ cung cấp thêm nhiều
tư liệu, góp phần tìm hiểu đặc trưng, niên đại về các loại hình, các dòng gốm Chu
Đậu cũng như mối quan hệ về kỹ thuật và nghệ thuật của gốm Chu Đậu trong lịch
sử gốm cổ thời Lê ở tỉnh Hải Dương, trên cơ sở đó cung cấp thêm cứ liệu và cơ sở
để phân định các loại hình đồ gốm được sản xuất tại các lò gốm ở Thăng Long
nhưng mang phong cách gốm Chu Đậu. Như vậy, mục đích chính của cuộc khai
quật này là tìm hiểu mối quan hệ giữa gốm Chu Đậu và các loại hình đồ gốm Việt
Nam tìm thấy tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long, từ đó đưa ra những đặc
trưng cơ bản của gốm Chu Đậu nhằm góp phần phân biệt đồ gốm Chu Đậu với đồ
gốm của các lò gốm khác như Thăng Long, Cậy, Ngói, Hợp Lễ (Bình Giang).
Từ mục tiêu nêu trên, thực hiện Quyết định số 3983/QĐ-BVHTTDL ngày
02/12/2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc thăm dò, khai quật khảo cổ di
chỉ gốm sứ Chu Đậu, xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, từ ngày
8/12/2014, Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành đã phối hợp với Bảo tàng tỉnh Hải
Dương tiến hành khai quật di chỉ gốm Chu Đậu.Tôi may mắn được trực tiếp tham gia
cuộc khai quật này. Đây chính là cơ hội cho tôi được nâng cao phương pháp, kỹ năng
khai quật khảo cổ học và điều đặc biệt được nghiên cứu trực tiếp về đồ gốm Chu Đậu.
Cuộc khai quật năm 2014 là cuộc khai quật có quy mô lớn nhất trong lịch sử
khai quật, nghiên cứu khảo cổ học di chỉ gốm Chu Đậu kể từ khi phát hiện cho đến
nay. Kết quả khai quật đã thu được nhiều tư liệu mới và quan trọng về lò nung, các
loại hình sản phẩm đồ gốm trong các dòng men cũng như kỹ thuật học sản xuất gốm
Chu Đậu trong lịch sử. Vì vậy, dựa vào nguồn tư liệu quý giá này cùng những tư liệu từ
3
các cuộc khai quật trước đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài luận văn, Chuyên ngành Khảo
cổ học là: Gốm Chu Đậu (Hải Dương): Tư liệu và nhận thức từ kết quả khai quật
năm 2014 nhằm hy vọng góp một phần nhỏ bé của mình trong việc nghiên cứu về đồ
gốm cổ Việt Nam thời Lê tại khu di tích Hoàng thành Thăng Long.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước năm 1980, những nghiên cứu về gốm sứ Việt Nam nói chung và gốm
sứ Hải Dương nói riêng còn lẻ tẻ, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào.
Những phát hiện và nghiên cứu về gốm sứ Việt Nam chủ yếu do các học giả nước
ngoài thực hiện [53].
Khi công bố của L.R. Hobson trên tờ Hội báo của hội gốm sứ Phương Đông
về dòng chữ “Thái Hòa bát niên, tượng nhân Nam Sách châu Bùi Thị Hí bút”
(nghĩa là Thái Hòa năm thứ 8 (1450) thợ gốm họ Bùi ở Châu Nam Sách vẽ chơi)
viết trên vai bình Topkapi Saray (Bùi Minh Trí gọi là Bình Topkapi [53]), đã gây
được nhiều sự chú ý trong giới nghiên cứu (xem PL.03). Tuy nhiên lúc bấy giờ,
L.R. Hobson cho đó là một đồ gốm sứ đẹp của Trung Quốc, vì thế người Việt Nam
không biết đến công bố này. Mãi đến năm 1980, ông Makato Anabuki, nguyên là Bí
thư Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội, lúc đó là cán bộ thuộc bộ ngoại giao Nhật
Bản, khi đi công tác tại Thổ Nhĩ Kỳ, thấy hiện vật bình hoa lam đẹp nổi tiếng nêu
trên nên đã viết thư nhờ ông Ngô Duy Đông, Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng lúc đó xác
minh tên địa danh Nam Sách ở đâu đó trên địa bàn tỉnh Hải Hưng để xác định
nguồn gốc hiện vật bình đó có xuất xứ từ đâu.
Từ thông tin quý giá về dòng minh văn nêu trên, quê hương của hiện vật bình
gốm Tokapi nổi tiếng mới được khám phá một cách tình cờ trong một chuyến điều
tra về nghề dệt chiếu ở thôn Chu Đậu vào năm 1984. Từ dấu vết các đồ gốm phế
thải, Bảo tàng Hải Hưng khi đó, nay là Bảo tàng Hải Dương đã tiến hành khai quật
thăm dò khảo cổ học đầu tiên vào 2 năm sau đó, năm 1986. Kết quả cuộc khai quật
đã khẳng định sự tồn tại của một làng gốm cổ thời Lê tại thôn Chu Đậu. Từ đó, tên
di chỉ gốm Chu Đậu chính thức được điền vào bản đồ khảo cổ học và mở ra một
chương mới trong lịch sử nghiên cứu gốm cổ thời Lê ở Bắc Việt Nam.
4
Di chỉ gốm Chu Đậu được Bảo tàng tỉnh Hải Dương chính thức khai quật
vào năm 1986. Liên tiếp các năm sau đó (1987, 1989, 1990, 1991) bốn cuộc khai
quật đã diễn ra ở di chỉ này. Theo báo cáo của Bảo tàng tỉnh Hải Dương, thì qua 5
lần khai quật đã đào ở đây 140,5m2 và thám sát 19m2, phạm vi phân bố của di chỉ
được xác định trong khu vực rộng khoảng 4000m2 [32]. Kết quả các cuộc khai quật
này đã thu được một số lượng rất lớn di vật, bao gồm đồ gốm men và các loại công
cụ sản xuất, minh chứng rõ Chu Đậu là "một trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp,
xuất hiện vào cuối thế kỷ 14, phát triển rực rỡ vào thế kỷ 15-16. Tàn lụi vào cuối
thế kỷ 17" [32].
Từ kết quả của các cuộc khai quật trên, di tích gốm Chu Đậu đã nhanh chóng
nhận được sự quan tâm chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu gốm sứ trong và
ngoài nước. Tính từ cuộc khai quật đầu tiên năm 1986 đến năm 2014, di chỉ gốm
Chu Đậu đã được khai quật 7 lần với tổng diện tích gần 283,5m2. Cũng từ kết quả
của các cuộc khai quật này đã xuất hiện ngày càng nhiều những bài viết về gốm
Chu Đậu nói riêng và gốm Hải Dương nói chung trên các phát hiện mới về khảo cổ
học, tạp chí Khảo cổ học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và các công trình nghiên
cứu được xuất bản thành sách. Trong đó đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu như: “Nghề cổ truyền” 3 tập do Sở Văn hóa thông tin tỉnh Hải Hưng (Hải
Dương) xuất bản năm 1987, Tăng Bá Hoành làm chủ biên. Cuốn sách đề cập đến 36
nghề cổ truyền ở Hải Dương, trong đó nói đến nghề làm gốm, tuy nhiên chỉ nhắc
đến gốm Quao và gốm Cậy ở mức độ khái lược. Chu Đậu cũng được nhắc đến
nhưng dưới góc độ làng nghề dệt chiếu, chưa phải là làng nghề làm gốm [25], [27].
Năm 1993, cuốn “Gốm Chu Đậu” của Tăng Bá Hoành do bảo tàng tỉnh Hải
Hưng xuất bản (được tái bản lại vào năm 1999). Đây là cuốn sách đầu tiên giới
thiệu về gốm Chu Đậu kèm theo hình ảnh khá ấn tượng. Nội dung sách giới thiệu
khái quát 14 địa điểm sản xuất gốm cổ được phát hiện ở Hải Dương, trong đó tập
trung nói đến gốm Chu Đậu trên các phương diện như: quá trình phát hiện, 5 lần
khai quật và các loại hình sản phẩm chính của gốm Chu Đậu. Bên cạnh đó, cuốn
sách cũng giới thiệu bộ sưu tập gốm của nghệ nhân Đặng Huyền Thông ở thế kỷ 16.
5
Tuy nhiên, nội dung mới dừng lại những nét khái quát, sơ lược, chưa đi sâu nghiên
cứu về đặc trưng và kỹ thuật sản xuất gốm Chu Đậu [32].
Cuốn sách “Gốm hoa lam Việt Nam” của PGS.TS Bùi Minh Trí và Kerry
Nguyễn Long, xuất bản năm 2001 là công trình nghiên cứu đầu tiên về đồ gốm hoa
lam Việt Nam. Đây là ấn phẩm nổi tiếng, nghiên cứu chuyên sâu và mang tính học
thuật cao, giải mã nhiều vấn đề về nguồn gốc, lịch sử phát triển của các trung tâm
sản xuất đồ gốm hoa lam ở Bắc Việt Nam. Tác giả đã phân tích về những đặc trưng
cơ bản của gốm hoa lam Việt Nam, đặc biệt là minh chứng sinh động, sâu sắc tính
xã hội và vai trò quan trọng của đồ gốm Việt Nam trong hoạt động ngoại thương
biển Châu Á thế kỷ 14 – 17. Trong bối cảnh sản xuất gốm Việt Nam thời Lê, hai trung
tâm sản xuất gốm hoa lam nổi tiếng ở Hải Dương là Nam Sách và Bình Giang cũng đã
được giới thiệu, cho thấy một bức tranh tổng quát, nhưng rất sâu sắc và cụ thể. Gốm
hoa lam của Chu Đậu được tác giả nghiên cứu rất sâu về loại hình, hoa văn trang trí, kỹ
thuật tạo chân đế... Tuy nhiên, đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về gốm hoa
lam Việt Nam, nên các dòng gốm khác ở Chu Đậu không đề cập đến [53].
Luận án Tiến sĩ của Hà Văn Cẩn (2000) “Các trung tâm sản xuất gốm sứ cổ
ở Hải Dương” đã trình bày 3 trung tâm sản xuất gốm sứ cổ ở Hải Dương là xóm
Hống (Chí Linh), Chu Đậu (Nam Sách), Hợp Lễ (Bình Giang). Luận án nêu rõ các
loại hình sản phẩm, kỹ thuật sản xuất, niên đại các trung tâm gốm và bước đầu nêu
lên các mối liên hệ của trung tâm sản xuất gốm cổ ở Hải Dương. Luận án cũng dành
một chương nói về gốm Chu Đậu, nhưng cách tiếp cận mới dừng ở khía cạnh khái
quát chưa đi sâu bàn luận về các đặc trưng riêng của gốm Chu Đậu cụ thể như lò
gốm, dòng men hay loại hình học [10].
Luận án Tiến sĩ của Bùi Minh Trí (2000) “Gốm Hợp Lễ trong phức hợp gốm
sứ thời Lê” đi sâu nghiên cứu về di chỉ sản gốm cổ Hợp Lễ ở Cẩm Giàng, Hải
Dương dựa trên kết quả khai quật, nghiên cứu khảo cổ học năm 1989. Luận án đã
phân tích sâu về diễn biến các loại hình gốm Hợp Lễ dựa trên tư liệu địa tầng, từ đó
phân lập các giai đoạn phát triển của các dòng gốm. Khái niệm về dòng gốm hay
dòng men gốm xuất hiện từ đây và đã trở nên phổ biến trong giới nghiên cứu gốm
6
cổ ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, luận văn đã xác lập tiêu chí về đặc trưng và niên
đại các loại hình gốm men Hợp Lễ, từ đó làm rõ lịch sử phát triển và mối liên hệ
trong thời gian và không gian của các dòng gốm men thời Lê ở Hải Dương và Bắc
Việt Nam trong thế kỷ 15 – 18. Gốm Chu Đậu cũng được đề cập trong luận văn này
với tư cách là một trong những di chỉ gốm sứ lớn của trung tâm sản xuất gốm Nam
Sách, Hải Dương. Tuy nhiên, gốm Chu Đậu được đặt trong bối cảnh nghiên cứu so
sánh với đồ gốm Hợp Lễ, do đó mới mang tính khái quát và phản ánh trên một số
loại hình tiêu biểu [52].
Luận văn Thạc sĩ của Ngô Thị Phương (2008) “Nghề gốm Chu Đậu ở Nam
Sách - Hải Dương” đã nghiên cứu nghề gốm Chu Đậu qua các thời kỳ lịch sử với
các nội dung như quá trình xuất hiện, loại hình sản phẩm, kỹ thuật, hoa văn trang
trí, thị trường tiêu thụ, nguyên nhân tàn lụi, sự phục hồi nghề gốm cổ truyền và thực
trạng phát triển hiện nay [42].
Luận văn Thạc sĩ của Phạm Thị Oanh (2012) “Gốm Hải Dương và vai trò
của nó trong lịch sử ngoại thương Việt Nam thế kỷ 15 – 17” đã nêu khái lược lịch
sử các làng nghề truyền thống của tỉnh Hải Dương, trong đó chủ yếu là nghề làm
gốm như Chu Đậu, Hợp Lễ, Cậy, Ngói, từ đó phân tích và kiến giải vai trò của gốm
Hải Dương trong lịch sử ngoại thương Việt Nam thế kỷ 15-17. Trong khuôn khổ
của đề tài, gốm Chu Đậu được trình bày một cách khái quát về sự phát hiện và đặc
trưng cơ bản về loại hình [40].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu tiêu biểu nêu trên, gốm sứ Hải Dương
nói chung và gốm sứ Chu Đậu nói riêng còn được đề cập nhiều trên các tạp chí
nghiên cứu khoa học và thông báo khảo cổ học. Có thể kể ra một số bài viết liên
quan trực tiếp đến di chỉ gốm sứ Chu Đậu như sau:
- Năm 1985: Những di tích lò gốm trên đất Hải Hưng [26];
- Năm 1987: “ Khai quật di tích lò gốm Chu Đậu (Hải Hưng) lần thứ nhất [29];
- Năm 1988: Khai quật di tích lò gốm Chu Đậu – Hợp Lễ (Hải Hưng) lần thứ
hai [28];
- Năm 1989: “ Hải Hưng mùa khai quật năm 1989” [30].
7
- Năm 1990: Khai quật Chu Đậu lần thứ tư [33];
- Năm 1995: Thông báo kết quả phân tích hóa học xương gốm di tích Chu
Đậu (Hải Hưng) [36]; Trở lại một số địa điểm gốm cổ ở tỉnh Hải Hưng [19]; Đôi
điều suy nghĩ về gốm sứ thời Lê qua một số trung tâm gốm ở tỉnh Hải Hưng [50];
Đôi nét về gốm sứ thời Lê ở Hải Hưng qua kết quả phân tích Quang phổ [47].
- Năm 1997: Sưu tập gốm Chu Đậu trong cuộc điều tra năm 1996 [4];
- Năm 1998: Phân tích nhiệt độ nung gốm sứ Chu Đậu và Ngói [37];
- Năm 1999: Dấu tích lò nung gốm mới phát hiện ở Chu Đậu (Nam Sách)
[22]; Về niên đại các trung tâm gốm cổ ở Hải Dương [6]; Vành hoa văn đặc trưng
Việt Nam trên đĩa gốm Chu Đậu [8];
- Năm 2015: Khảo sát lò gốm Chu Đậu huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương
[12]; Báo cáo kết quả khai quật di chỉ gốm Chu Đậu năm 2014 [57]; Khai quật di
tích gốm Chu Đậu xã Thái Tân, huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương năm 2014 [60];
Di chỉ gốm Chu Đậu – nhận thức từ kết quả khai quật năm 2014 [58]; Bát đĩa trang
trí văn sóng nước phát hiện ở di chỉ gốm Chu Đậu tỉnh Hải Dương năm 2014 [24];
Sưu tập con kê gốm trong hố khai quật chi chỉ Chu Đậu, xã Thái Tân, huyện Nam
Sách, tỉnh Hải Dương năm 2014 [2];
- Năm 2016: Gốm men ngọc Chu Đậu, tư liệu và nhận thức từ kết quả khai
quật năm 2014 [38];
- Năm 2018: Gốm hoa lam Chu Đậu (Hải Dương) loại hình và đặc trưng [39];
- Năm 2019: Kỹ thuật sản xuất gốm Chu Đậu - nhận thức từ kết quả cuộc
khai quật năm 2014 [3];
Nhìn chung, nghiên cứu gốm Chu Đậu nói riêng và gốm Hải Dương nói
chung luôn là những vấn đề hấp dẫn, thu hút được rất nhiều sự quan tâm của nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước. Song mỗi nhà nghiên cứu lại có những khía cạnh
chuyên sâu khác nhau, bổ xung cho nhau. Do vậy đây là khối tư liệu phong phú,
hấp dẫn, có độ tin cậy cao, là cơ sở quan trọng cho tác giả kế thừa, khai thác, hệ
thống hóa tư liệu để từ đó phục vụ tốt cho nội dung nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
8
Thu thập và hệ thống hoá, phân tích, đánh giá tư liệu lịch sử và khảo cổ học
đầy đủ hơn từ trước đến nay về di chỉ gốm sứ Chu Đậu.
Tập trung hệ thống hóa tư liệu, phân tích làm rõ những kết quả nghiên cứu về
địa tầng, về di tích lò nung, các loại hình sản phẩm, kỹ thuật sản xuất gốm Chu Đậu
dựa trên tư liệu khai quật di chỉ gốm Chu Đậu năm 2014.
Nghiên cứu so sánh nhằm phân định niên đại và đặc trưng của các loại hình
đồ gốm Chu Đậu, đồng thời làm rõ mối quan hệ về kỹ thuật, nghệ thuật của gốm
Chu Đậu với các địa điểm sản xuất gốm cổ khác ở Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là di chỉ gốm Chu Đậu qua
cuộc khai quật năm 2014. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu và so sánh các trung
tâm gốm cổ khác của Hải Dương qua các cuộc khai quật, các cuộc điều tra từ trước
đến nay để làm rõ được mối quan hệ giữa gốm Chu Đậu với đồ gốm của các trung
tâm sản xuất gốm khác tại Hải Dương.
Về phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Di chỉ gốm Chu Đậu (Nam Sách – Hải Dương)
- Thời gian: Thời Lê sơ, thế kỷ 15 – 16.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Các báo cáo điều tra, khai quật khảo cổ học, các bài nghiên cứu về di chỉ
gốm Chu Đậu nói riêng, các di chỉ gốm Hải Dương nói chung đã được công bố trên
các sách, tạp chí chuyên ngành và trong các kỷ yếu hội thảo về khảo cổ học. Ngoài
ra, luận văn tham khảo một số sách khoa học có liên quan về lịch sử, ngoại thương,
văn hóa, xã hội, địa chất, địa mạo, địa hình, khí hậu thuỷ văn, môi trường,... có liên
quan đến tỉnh Hải Dương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp khảo cổ học truyền thống như: phương
pháp điều tra, thăm dò và khai quật khảo cổ, phân loại loại hình học, miêu tả, đo vẽ,
chụp ảnh di tích, di vật khảo cổ...
9
Phương pháp phân tích, so sánh loại hình học, kỹ thuật học và chất liệu chế
tác đồ gốm cổ nhằm làm rõ sự tương đồng và khác biệt về kỹ thuật học giữa trung
tâm gốm sứ Chu Đậu và trung tâm gốm sứ khác tại Hải Dương, từ đó làm rõ những
đặc trưng riêng biệt của đồ gốm sứ Chu Đậu trong lịch sử.
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, toàn diện, cụ thể và biện chứng trong
luận giải các mối quan hệ giữa di tích, di vật và các hiện tượng tự nhiên, xã hội có
liên quan để minh chứng cho các nội dung khoa học cần giải quyết của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Tập hợp và hệ thống hóa tư liệu đầy đủ về các kết quả khai quật, nghiên cứu
khảo cổ học di chỉ gốm Chu Đậu.
Nghiên cứu làm rõ những đặc trưng cơ bản của gốm Chu Đậu trên các
phương diện: loại hình, hoa văn trang trí và kỹ thuật học sản xuất.
Nghiên cứu mối quan hệ trong không gian và thời gian của gốm Chu Đậu với
gốm trong cùng một trung tâm và ngoài trung tâm, từ đó thấy được sự phát triển
liên tục cũng như yếu tố truyền thống riêng biệt của gốm Chu Đậu trong lịch sử
gốm cổ Hải Dương thời Lê sơ.
Cung cấp tư liệu, góp phần làm rõ giá trị lịch sử, văn hoá của di chi gốm Chu
Đậu trong lịch sử phát triển gốm cổ Việt Nam, đặc biệt là cung cấp cơ sở tư liệu cho
việc nghiên cứu, phân định đồ gốm Chu Đậu phát hiện được tại khu di tích Hoàng
thành Thăng Long.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận văn cấu trúc gồm 03 chương.
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu gốm Chu Đậu.
Chương 2: Kết quả khai quật, nghiên cứu gốm Chu Đậu năm 2014.
Chương 3: Gốm Chu Đậu và vai trò của nó trong lịch sử gốm cổ thời Lê sơ ở
Hải Dương.
10
Chương 1
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU GỐM CHU ĐẬU Ở HẢI DƯƠNG
1.1. Vị trí địa lý
Chu Đậu là làng nhỏ nằm ven đê bên tả ngạn sông Thái Bình, thuộc xã Thái
Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, nằm ở 20058' vĩ Bắc và 106017' kinh Đông.
Thời Lê Sơ (1428-1527), khu vực này thuộc châu Nam Sách, huyện Thanh Lâm,
tỉnh Hải Dương (xem PL.01-02).
Nằm trong chiếc nôi của đồng bằng Bắc Bộ và nằm ở vị trí địa lý thuận lợi:
phía Bắc giáp với tỉnh Bắc Ninh và Quảng Ninh, phía Đông giáp với tỉnh Quảng
Ninh và thành phố Hải Phòng, phía Nam giáp với tỉnh Thái Bình và phía Tây giáp
với tỉnh Hưng Yên, Hải Dương được xem là cửa ngõ, phên dậu và là trọng trấn
quan trọng ở phía Đông của Kinh đô Thăng Long xưa (xem PL.01).
Theo sử sách, thời Lê sơ, tỉnh Hải Dương có nhiều tên gọi khác nhau: Đông
Đạo (Thuận Thiên (1428 - 1433), phủ Nam Sách (Đại Hòa 1443 – 1453), Nam Sách
lộ (Diên Ninh 1454 – 1459), Nam Sách thừa tuyên (Quang Thuận thứ 7, 1466) và
tuyên Hải Dương (Quang Thuận thứ 7, 1469). Tuyên Hải Dương chính thức được
vẽ trên bản đồ Hồng Đức vào năm 1490 do vua Lê Thánh Tông ban hành. Ngoài ra,
Hải Dương còn được gọi là xứ Đông trong không gian văn hóa Đồng bằng Bắc bộ,
là một cửa ngõ của Kinh thành Thăng Long. Nên từ lâu xứ Đông - Hải Dương luôn
giữ một vai trò quan trọng gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nó
không chỉ là tên gọi về một địa danh hành chính mà nó còn mang ý nghĩa địa chính
trị và văn hóa, mang đậm dấu ấn của vùng đất có bề dày lịch sử, văn hiến và là niềm
tự hào của cư dân nơi đây.
Mặc dù trải qua nhiều tên gọi khác nhau, nhưng địa giới tỉnh Hải Dương,
thời Lê sơ bao gồm vùng đất rộng lớn trải dài từ phía Đông kinh thành Thăng Long
ra tới biển Đông. Phía Tây Hải Dương đến Bần Yên Nhân (nay thuộc tỉnh Hưng
Yên), phía Đông kéo dài đến biển Đông (nay thuộc thành phố Hải Phòng), phía
Nam từ Lực Điền đến cầu Tràng (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), phía Bắc từ Trạm Điền
xuống núi Tam Ban, Yên Tử (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Đối chiếu với bản đồ
11
hành chính hiện nay, tỉnh Hải Dương thời Lê sơ có quy mô rất rộng lớn gồm huyện
Mỹ Hào (tỉnh Hưng Yên), các huyện Bình Giang, Cẩm Giàng, Thanh Miện, Ninh
Giang, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Chí Linh, Thanh Hà, Nam Sách, Kim Thành, thành Phố
Hải Dương (tỉnh Hải Dương) và các huyện Vĩnh Bảo, An Hải, An Lão, Kiến Thụy,
Tiên Lãng, huyện đảo Cát Bà, Thủy Nguyên, Quận Kiến An, Đồ Sơn và quận Ngô
Quyền, Lê Chân, Hồng Bàng (thành phố Hải Phòng) và huyện Đông Triều (tỉnh
Quảng Ninh).
Dựa vào “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Đại Việt địa dư toàn biên” của
Phương đình Nguyễn Văn Siêu hay “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán
triều Nguyễn và cùng một số sử sách khác vào thời Lê, đã ghi rõ trên địa giới hành
chính tỉnh Hải Dương có rất nhiều con sông lớn, nhỏ chảy qua:
Như sông Hồng Giang ở phủ Thượng Hồng chảy qua 4 huyện phía Nam tới
cửa Ngải Am (Vĩnh Lại) đổ ra biển. Dấu vết của sông này vẫn còn in đậm ở huyện
Mỹ Hào, Văn Giang… Khẳng định sức sống trường tồn cũng như vai trò của nó
trong giao thông vận tải và thủy lợi cho các huyện Bình Giang, Gia Lộc, Ninh
Giang và Tứ kỳ trong lịch sử [40].
Huyện Vĩnh Lại (Ninh Giang ngày nay) có các con sông chảy qua như sông
Hóa, sông Mía, sông Hoàng Giang, sông Luộc. Trong đó sông Luộc nối liền giữa
sông Hồng và sông Thái Bình có vai trò to lớn của cuộc sống cư dân nơi đây.
Phả Lại - điểm cực Bắc của xứ Đông, dòng sông Thái Bình được mở rộng
bởi sự lưu hợp của sông Cầu và sông Thương, chỗ hợp lưu này chỉ cách địa giới
phía Tây khoảng 8 km rồi xuông về hướng Nam, nhập vào sông Đuống từ hữu ngạn
và tiếp dòng vào sông Thái Bình. Từ đây sông Thái Bình lại tiếp tục phân tiếp làm
hai nhánh chính, một nhánh tiếp tục chảy về phía Nam vẫn gọi là sông Thái Bình và
một nhánh chảy theo dãy núi Đông Triều gọi là sông Kinh Thầy. Sông Kinh Thầy
xuôi về hướng Đông và Đông Nam với một mạng lưới khá dày các lạch và sông
con. Nhánh chính sau chỗ phân lưu từ sông Thái Bình thì lại chia ra một nhánh về tả
ngạn là sông Kinh Môn. Dòng Kinh Thầy lại xuôi về biển, tới gần Yên Lưu thì nhập
với một chi nhánh của nó rồi ra Cửa Cấm. có một nhánh tiếp tục chảy về bên tả
12
ngạn hướng thẳng ra biển Đông có tên gọi là sông Đá Bạch, chạy luồn lách qua các
thung lũng xen kẽ các dãy núi đá vôi. Đến đây, sông Kinh Thầy lại có tên là sông
Hòn Mác, sông Bạch Đằng rồi đổ ra cửa Nam Triệu. Sông Kinh Thầy nối liền giữa
Nam Sách và Chí Linh [40].
Như vậy có thể thấy, xứ Đông - Hải Dương là nơi có hệ thống sông ngòi dày
đặc, trong đó gắn liền với hai con sông lớn nhất đồng bằng Bắc Bộ là sông Hồng và
sông Thái Bình, cùng với rất nhiều các chi lưu và chúng đều là những cửa ngõ đổ ra
biển Đông. Điều đó tạo cho vùng đất Hải Dương có một vị trí rất quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế của Đại Việt thời bấy giờ. Đó chính là cầu nối giao thông giữa
đường sông và đường biển; giữa Kinh thành Thăng Long với các khu vực lân cận và
đặc biệt đó chính là nơi đưa những sản phẩm thủ công nghiệp của Thăng Long hay
Hải Dương đến với thương cảng Vân Đồn và hệ thống hải thương khu vực và quốc
tế ở biển Đông. Theo GS.TS. Nguyễn Văn Kim trong cuốn “Vân Đồn – thương
cảng quốc tế của Việt Nam” đã khẳng định thương cảng Vân Đồn là một trong
những thương cảng lớn nhất và có vai trò quan trọng trong việc trao đổi hàng hóa,
thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đó, việc trung chuyển và xuất khẩu gốm sứ và các
mặt hàng thủ công nghiệp khác được cho là các mặt hàng nổi trội nhất. Bên cạnh
chức năng đó, Vân Đồn còn được biết đến như cửa ngõ đưa gốm sứ Đại Việt ra thị
trường quốc tế.
Với vị trí địa lý thuận lợi, Hải Dương là vùng đất có nhiều làng nghề thủ
công truyền thống nổi tiếng như: Chạm khắc đá Kính Chủ, chạm khắc gỗ Đồng
Giao, vàng bạc Châu Khê, giày dép da Tam Lâm, thợ nhuộm Đan Loan và đặc biệt
là các làng nghề sản xuất gốm. Mặc dù theo sử sách ghi lại, nghề gốm ở Hải Dương
rất ít ỏi và không đầy đủ, chỉ có làng Hương Gián và Kệ Gián, nay thuộc làng Cậy,
huyện Bình Giang. Nhưng kết quả nghiên cứu khảo cổ học cho biết, Hải Dương là
quê hương của nhiều trung tâm sản xuất gốm lớn và nổi tiếng nhất Bắc Việt Nam
như Vạn Yên (Chí Linh), Chu Đậu, Hùng Thắng (Nam Sách); Ngói, Cậy, Láo, Bá
Thủy, Hợp Lễ (Bình Giang) [40]. Trong đó nổi tiếng nhất là gốm Chu Đậu được
trong và ngoài nước biết đến.
13
Chu Đậu mang đầy đủ những đặc điểm về địa lý, môi trường và xã hội của
vùng xứ Đông. Có hai con sông lớn chảy qua là sông Thái Bình (nằm ở hướng
Đông Bắc) và sông Kinh Thầy (nằm hướng Tây Nam). Hai con sông này đóng vai
trò là mạng lưới giao thông quan trọng, tàu thuyền có trọng tải hàng nghìn tấn có
thể qua lại dễ dàng. Việc vận chuyển nguyên liệu như than, củi hoặc đất sét, cao
lanh bằng đường thủy từ các nơi khác như Chí Linh, Kinh Môn hay Đông Triều qua
sông Kinh Thầy đến Chu Đậu rất dễ dàng. Cũng như việc chuyên chở các loại sản
phẩm gốm từ Chu Đậu đến các vùng khác như đến Kinh đô Thăng Long, Phố Hiến
hay đến cảng biển như Vân Đồn là rất thuận lợi. Chính nhờ có những điều kiện
thuận lợi này, kết hợp với tài năng sáng tạo của cư dân nơi đây đã giúp cho Chu
Đậu thiết lập các lò sản xuất gốm, tạo ra những sản phẩm gốm đặc sắc, có giá trị
kinh tế, văn hóa cao, đem lại niềm tự hào cùng những đóng góp quan trọng trong
lịch sử gốm cổ Việt Nam.
1.2. Di chỉ gốm Chu Đậu qua các lần khai quật
Phát hiện di chỉ gốm Chu Đậu vào năm 1984 của Bảo tàng tỉnh Hải Hưng
(nay là Bảo tàng tỉnh Hải Dương) đã mở ra một “chương chính thức” của ngành
khảo cổ học lịch sử Việt Nam trong việc nghiên cứu về gốm cổ thời Lê [52, tr.8].
Đặc biệt, từ năm 1986, cuộc khai quật thăm dò chính thức do Bảo tàng tỉnh Hải
Hưng tiến hành đã mở đầu cho thời kỳ nghiên cứu mới về di chỉ gốm Chu Đậu. Từ
đây, giới khoa học biết đến nhiều hơn về gốm Chu Đậu và công cuộc nghiên cứu về
gốm Chu Đậu đã ngày càng trở nên sôi động vào thập niên 90 của thế kỷ trước.
Tính từ khi cuộc khai quật đầu tiên năm 1986 đến năm 2014, Chu Đậu đã
diễn ra 7 lần khai quật vào các năm 1986, 1987, 1989, 1990, 1991, 2002 và 2014.
Các cuộc khai quật từ năm 1986 đến 1991 chủ yếu do Bảo tàng tỉnh Hải Dương
thực hiện. Năm 1990, Bảo tàng tỉnh Hải Dương hợp tác với Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội và Đại học Tổng hợp Adelaide của Australia tiến hành khai quật di chỉ
Chu Đậu lần thứ 4. Năm 2002, Viện Khảo cổ học và một số chuyên gia Nhật Bản
phối hợp với Bảo tàng tỉnh Hải Dương khai quật di chỉ gốm Chu Đậu lần thứ 6. Và
14
đến cuối năm 2014, sau 12 năm, Viện Nghiên cứu Kinh thành đã hợp tác với Bảo
tàng tỉnh Hải Dương tiến hành khai quật di chỉ Chu Đậu lần thứ 7.
Dựa trên kết quả của những phát hiện khảo cổ học tại di chỉ Chu Đậu năm
1986 [29], năm 1987 [28], năm 1989 [30], năm 1990 [33], các báo cáo khai quật,
đặc biệt là dựa trên tư liệu của cuốn “Gốm Chu Đậu” do Tăng Bá Hoành chủ biên
[32], dưới đây tác giả luận văn sẽ trình bày những nét khái quát về kết quả khai quật
tại di chỉ gốm Chu Đậu.
1.2.1. Khai quật lần thứ nhất
Cuộc khai quật lần thứ nhất diễn ra từ ngày 23.4.1986, do Bảo tàng Hải
Hưng (nay là Bảo tàng tỉnh Hải Dương) chủ trì với diện tích 35m2 trên 2 hố đào: Hố
1 diện tích 20m2, Hố 2 hiện tích 15m2 (xem PL.05:1). Vị trí hố khai quật nằm ở phía
Tây làng Chu Đậu, cách đê sông Thái Bình gần 100m về phía Đông [29, tr.287-
289]. Kết quả khai quật đạt được như sau:
Hố 01 đào 6 lớp, địa tầng sâu khoảng 80cm – 120cm. Phía Tây hố khai quật
ở độ sâu 60 – 80cm đã chạm sinh thổ, nhưng phía Đông đào đến 120cm vẫn chưa
hết tầng văn hóa, song do đợt khai quật vào mùa mưa nên Hố 01 bị ngập nước vì
vậy việc khai quật phải tạm dừng. Hiện vật tìm thấy gồm có: bát, đĩa cỡ lớn, con kê
vòng tròn có 3 mấu chân kê, chồng dính hoa lam, những đồ gốm nhẹ lửa sống men,
mảnh bao nung, xỉ than. Trong đó, mảnh bao nung và con kê chiếm tới 50% thể tích
hố khai quật [32, tr.21-22].
Hố 02 cũng đào 6 lớp, tầng văn hóa sâu từ 120cm -130cm. Kết quả thu được
khá giống với Hố 01. Hiện vật thu được bao gồm: Bát men ngọc khắc chìm hoa văn,
các loại lọ, bình, âu, hộp, con kê hình vành khăn, con kê hình nón cụt, và một số
mảnh bao nung, nhiều mảnh bát, đĩa phế phẩm, xỉ than và đất sét nguyên liệu phế
thải [32, tr.21-22]….
Kết quả khai quật di chỉ Chu Đậu đã mang lại ý nghĩa lịch sử rất lớn, góp
phần điền vào chỗ trống trong lịch sử nghiên cứu gốm sứ thời Lê cũng như nghiên
cứu gốm cổ Việt Nam. Nhờ cuộc khai quật này, lần đầu tiên tên gọi Chu Đậu được
biết đến và một số tên gọi khác như gốm Ngói, Hợp Lễ, Cậy… cũng được nhắc đến.
15
Tên gọi này mang ý nghĩa về một trong những làng sản xuất gốm sứ cổ ở tỉnh Hải
Dương và vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
1.2.2. Khai quật lần thứ hai
Cuộc khai quật lần thứ hai thực chất là việc tiếp tục những hoạt động của
cuộc khai quật lần thứ nhất bị đình lại do thời tiết và có sự mở rộng hơn về diện tích
khai quật. Cuộc khai quật bắt đầu từ tháng 2 năm 1987 do Bảo tàng Tỉnh Hải Hưng
chủ trì, tiến hành trên hai hố đào và thám sát bốn hố với tổng diện tích 37m2 [28,
tr.215]. Kết quả khai quật được nêu cụ thể dưới đây.
Hố 01 đào từ năm 1986 nay tiếp tục khai quật về phía Đông đến hết tầng văn
hóa và mở rộng về phía Bắc 4m2, phía Nam 9m2. Tổng diện tích đào thêm của hố
này là 18m2. Tầng văn hóa kết thúc ở độ sâu 365cm [28, tr.215].
Hố 02 đào từ năm 1986 nay mở rộng về phía Đông 15m2, phía Tây 3m2.
Tầng văn hóa kết thúc ở độ sâu 120cm – 140cm [28, tr.215].
Ngoài ra, các nhà khai quật còn tiến hành đào 4 hố thám sát, mỗi hố có diện
tích khoảng 3m2.
Hiện vật thu được trong lần khai quật này khá giống với hiện vật năm 1986,
cụ thể là một số loại hình hiện vật như: bát, đĩa men ngọc, bình, hộp, lọ men
trắng,.… Điều đáng chú ý là tại Hố 2 ở lớp cuối sâu 140cm đã tìm thấy một số viên
gạch, trong đó có một viên gạch thời Trần. Đây cũng là lý do mà nhà nghiên cứu
Tăng Bá Hoành nhận định: lò gốm Chu Đậu có thể bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 14,
phát triển mạnh vào thế kỷ 15, 16 và lụi tàn vào thế kỷ 17. Các hố đào thám sát cách
hố khai quật 200m về phía Bắc tại Đống Lò đã tìm thấy bát có vẽ hình người, chóe
men xanh rêu, bình tỳ bà và đất sét trắng làm nguyên liệu [32, tr.33].
1.2.3. Khai quật lần thứ 3
Cuộc khai quật lần thứ ba diễn ra vào tháng 4 năm 1989 do Bảo tàng Hải
Hưng chủ trì. Cuộc khai quật mở 4 hố nhỏ và 4 hố thám sát, tổng diện tích 50m2. Vị
trí các hố đào này nằm khá gần với hố đào năm 1986 [33, tr.23-24]. Hiện vật thu
được khá phong phú, về cơ bản giống như hiện vật những lần khai quật trước. Tuy
nhiên, tại hố đào khu vực vườn ông Dâm, lần đầu tiên phát hiện nhiều hiện vật có
16
hoa văn, kiểu dáng lạ như: lỗ cổ bồng, bát ba chân, bát cổ hình chim, bình hoa.
Theo Nhà nghiên cứu Tăng Bá Hoành thì những hiện vật tìm thấy lần này “dường
như đào trong kho cất dấu cổ vật của thế kỷ 15 – 16” [30, tr.136-137].
1.2.4. Khai quật lần thứ 4
Cuộc khai quật lần thứ tư diễn ra từ tháng 12 năm 1990 do Bảo tàng Hải
Hưng phối hợp cùng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội do Cố Giáo sư Trần Quốc
Vượng làm Trưởng đoàn và Trường Đại học tổng hợp Adelaide của Australia do
GS.TS Peter Burns, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Gốm sứ Đông Nam Á làm
Trưởng đoàn. Mục đích khai quật là tìm ra nguồn gốc của loại gốm men trắng hoa
lam của Việt Nam đã xuất khẩu sang nhiều nước Đông Nam Á và thế giới. Chương
trình hợp tác khai quật khảo cổ này được tiến hành nhiều địa điểm của tỉnh Hải
Hưng, nhưng riêng Chu Đậu đào 2 hố (diện tích 20m2) (xem PL.05:2) và 1 hố thám
sát 3m2 [33, tr.180-183]. Kết quả khai quật thu được như sau:
Hố 01 nằm ở phía Tây Bắc gần rìa làng, có diện tích 10m2, tầng văn hóa chỗ
dày nhất tới 140cm. Hiện vật thu được khá nhiều và đa dạng về kiểu loại, thường
nằm tập trung thành từng cụm, gồm bát, đĩa, con kê, bao nung, trong đó bao nung
chiếm số lượng lớn nhất [33, tr.180-183].
Hố 02 nằm ở phía Đông Nam thôn Chu Đậu, gần bờ đê sông Thái Bình, có
diện tích 10m2, tầng văn hóa dày gần 200cm, hiện vật khá đa dạng, nhiều nhất là
bao nung, con kê, bát, đĩa [33, tr.180-183].
1.2.5. Khai quật lần thứ 5
Cuộc khai quật lần thứ 5 được tiến hành vào tháng 3 năm 1991 do bảo tàng
tỉnh Hải Hưng thực hiện. Diện tích khai quật khá nhỏ 10m2 mở 02 hố [32, tr.24] và
kết quả khai quật như sau:
Hố 1 có diện tích 6m2, tầng văn hóa kết thúc ở độ sâu 140cm. Hiện vật tìm
thấy gồm các loại bát, đĩa hoa lam chân cao, tước, âu, lọ,… [32, tr.24].
Hố 2 diện tích 4m2 tại vườn ông Dâm sát hố khai quật năm 1990. Tầng văn
hóa sâu 1,2m với 6 lớp đào. Hiện vật tìm thấy khá phong phú bao gồm: bao nung,
17
con kê, bát, đĩa, âu, vại, vỏ sò, mảnh bát đĩa men trắng, hoa lam, một số chồng dính
sụn dính, âu men ngọc, bát có hình chim,… [32, tr.24].
1.2.6. Khai quật lần thứ 6
Cuộc khai quật lần thứ 6 được tiến hành vào đầu năm 2002, do TS. Bùi Minh
Trí, chuyên gia gốm cổ Việt Nam, Viện Khảo cổ học thực hiện cùng với sự tham
gia của TS. Nishimura Masanari, nhà khảo cổ học Nhật Bản. Quy mô khai quật nhỏ,
với 04 hố khai quật thăm dò có tổng diện tích là 24m2. Mặc dù khai quật trong diện
tích nhỏ, nhưng cuộc khai quật này đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Đó là
phát hiện được hai dấu tích nền lò nung gốm cùng rất nhiều loại hình đồ gốm và
dụng cụ sản xuất gốm. Đáng lưu ý, đây là lần đầu phát hiện được dấu tích lò nung
gốm ở Chu Đậu (xem PL.07-10). Phát hiện này đã góp phần minh chứng sinh động
và là bằng chứng rõ ràng về lịch sử ra đời và phát triển của làng gốm Chu Đậu trong
lịch sử. Cũng từ đây, diện mạo lò nung gốm cổ ở Chu Đậu thế kỷ 15 và 16 đã được
giới khoa học biết đến. Đặc biệt hơn, đây cũng là lần đầu tiên TS. Bùi Minh Trí phát
hiện được những sản phẩm gốm men trắng in sóng nước, giữa lòng in nổi chữ
“Quan” có niên đại khoảng nửa đầu thế kỷ 15 tại khu vực Xóm Bến thôn Chu Đậu.
Chất lượng và phong cách trang trí hoa văn của loại gốm này rất giống với đồ gốm
in chữ “Quan” cũng do TS. Bùi Minh Trí phát hiện tại di chỉ gốm Ngói (Bình
Giang) năm 1999 (dẫn theo [57, tr.7]).
1.2.7. Khai quật lần thứ 7
Cuộc khai quật lần thứ 7 diễn ra vào tháng 12 năm 2014 do Trung tâm Nghiên
cứu Kinh thành (nay là Viện Nghiên cứu Kinh thành) phối hợp với Bảo tàng tỉnh Hải
Dương tiến hành khai quật. Đây là cuộc khai quật có quy mô lớn nhất từ trước tới nay,
có diện tích 100m2, với 02 hố khai quật và đã thu được 7.560 di vật và dấu tích của 01
lò nung gốm (xem PL.11-14). Cuộc khai quật lần này có ý nghĩa rất lớn, mang lại
nhiều nhận thức mới trong việc nghiên cứu, đánh giá về di chỉ gốm Chu Đậu trên nhiều
phương diện (tác giả sẽ trình bày rõ hơn ở Chương 2 và Chương 3).
1.2.8. Nhận xét
18
Như vậy, kể từ khi phát hiện, di chỉ gốm Chu Đậu đã tiến hành 7 lần khai
quật với tổng diện tích đào là 283,5m2 (trong đó khai quật: 264,5m2, thám sát:
19m2). Mặc dù khai quật trong diện tích nhỏ do điều kiện khách quan bởi kinh phí
đầu tư khai quật rất hạn chế, nhưng các cuộc khai quật đã thu được nhiều kết quả
quan trọng, cụ thể như nêu dưới đây.
Thứ nhất, về di tích: Phạm vi phân bố của di chỉ gốm Chu Đậu được xác
định trong diện tích rộng lớn khoảng 40.000m2, trong đó mật độ gốm tập trung đậm
đặc nhất trong khoảng 3.000m2, thuộc làng Chu Đậu (bên trong đê) và làng Mỹ Xá
(bên ngoài đê) [32, tr.24]. So sánh với diện tích đã khai quật chúng ta thấy sự chênh
lệch khá lớn. Diện tích đã được khai quật chỉ chiếm một phần rất nhỏ bé so với tổng
diện tích của di chỉ gốm. Vì thế có thể nói, gốm Chu Đậu cho đến nay vẫn còn ẩn
chứa nhiều điều bí ẩn mà chúng ta chưa hề biết đến. Theo đó, rất cần có các cuộc
khai quật có quy mô lớn hơn trong tương lai.
Cho đến thời điểm hiện nay, các cuộc khai quật mới tìm thấy 3 dấu tích lò
nung, bước đầu cung cấp cho giới khoa học một số thông tin về loại hình, cấu trúc
và quy mô của lò gốm Chu Đậu trong phạm vi khai quật. Tuy nhiên, các dấu tích lò
nung này đều đã bị phá hủy rất nghiêm trọng, nên những hiểu biết về cấu trúc, quy
mô của lò gốm Chu Đậu vẫn còn nhiều hạn chế.
Thứ hai, về di vật: Các cuộc khai quật đã thu được số lượng rất lớn di vật,
bao gồm đồ gốm men với các dòng gốm như: men trắng, men ngọc, men nâu và hoa
lam cùng nhiều loại hình công cụ sản xuất gốm, minh chứng rõ Chu Đậu là trung
tâm sản xuất gốm lớn ở Hải Dương. Mặc dù, quan điểm niên đại còn có những ý
kiến khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận định rằng, thời Lê
sơ là thời kỳ phát triển phồn thịnh nhất của gốm Chu Đậu. Đây cũng là giai đoạn
gốm Chu Đậu không chỉ sản xuất nhiều loại hình sản phẩm gốm cao cấp phục vụ thị
trường rộng lớn trong nước mà còn là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng ra thị
trường nước ngoài.
Có thể nhận xét rằng, từ khi phát hiện di chỉ gốm Chu Đậu cho đến cuộc khai
quật năm 2014, nghĩa là trong 28 năm, công cuộc khai quật, nghiên cứu di chỉ gốm
19
Chu Đậu được chia thành 2 giai đoạn với những thành quả nghiên cứu khác nhau,
cụ thể như sau:
- Giai đoạn 1, từ năm 1986 đến năm 1991, tương ứng với khoảng thời gian
diễn ra cuộc khai quật lần thứ nhất đến lần thứ năm. Điểm lại kết quả khai quật,
nghiên cứu khảo cổ học qua 5 lần khai quật nêu trên cho thấy, mặc dù thu được một
số lượng hiện vật lớn nhưng các hố khai quật mang tính thăm dò, có quy mô rất
nhỏ, tổng cộng đào 140,5m2. Đáng lưu ý là, các cuộc khai quật này chưa làm rõ
được vấn đề địa tầng, vấn đề xác định niên đại các loại hình đồ gốm Chu Đậu còn
có rất nhiều hạn chế, phần nhiều mang ý kiến chủ quan. Đặc biệt, các cuộc khai
quật giai đoạn này đều chưa tìm thấy di tích lò gốm tại Chu Đậu, vì thế phạm vi
phân bố của các xưởng sản xuất cũng như diện mạo, qui mô, cấu trúc và kỹ thuật
sản xuất của các lò gốm ở Chu Đậu vẫn là một khoảng trống lớn. Nhưng những kết
quả ấy là tiền đề, cơ sở thực tiễn để các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu, nghiên
cứu sâu hơn về địa tầng, dấu tích của lò nung gốm vì phát hiện có nhiều phế thải,
bao nung và con kê.
- Giai đoạn 2, từ năm 2002 đến năm 2014, đây là khoảng thời gian diễn ra
hai cuộc khai quật khá quan trọng tại Chu Đậu. Kết quả thu được từ cuộc khai quật
lần thứ 6 và cuộc khai quật lần thứ 7 đã làm sáng rõ hơn kết quả nghiên cứu của 5
cuộc khai quật trước đó, đặc biệt là đã có những phát hiện và nghiên cứu mới, mở ra
chương mới cho việc nghiên cứu gốm sứ Chu Đậu thời Lê sơ trên những bình diện:
lò nung, loại hình sản phẩm, mối quan hệ giữa gốm Chu Đậu với các di chỉ gốm ở
Hải Dương và mối quan hệ giữa gốm Chu Đậu với gốm thời Lê sơ ở Hoàng thành
Thăng Long,…. Đặc biệt, cuộc khai quật năm 2002 và 2014 đã phát hiện 3 dấu tích
lò nung, các hố đào có địa tầng ổn định, hiện vật phong phú, đa dạng nhất là đã tìm
thấy những đồ gốm cao cấp in chữ “Quan” trong lòng. Đáng lưu ý nữa là cuộc khai
quật năm 2014 đã tìm thấy đồ gốm Thăng Long tại Chu Đậu, cùng nhiều hiện vật
mang phong cách gốm Ngói (Bình Giang), xa hơn nữa là phong cách gốm Long
Tuyền hay Cảnh Đức Trấn (Trung Quốc). Đây là những manh mối quan trọng trong
việc nghiên cứu xác định mối quan hệ về loại hình, dòng men và kỹ thuật học sản
20
xuất gốm giữa Chu Đậu với lò gốm Thăng Long, giữa Chu Đậu với lò gốm Ngói ở
Bình Giang và giữa gốm Chu Đậu với gốm Long Tuyền hay gốm Cảnh Đức Trấn
(Trung Quốc). Bằng chứng này cũng phản ánh rằng, Chu Đậu là nơi hội tụ, tiếp thu
nhiều thành tựu kỹ thuật, nghệ thuật trong việc sản xuất các dòng gốm men độc đáo
cùng các loại hình sản phẩm gốm có giá trị, đồng thời đây cũng là nơi sản sinh ra
những phong cách riêng của những thợ gốm tài ba.
Tiểu kết Chương 1
Sau gần 50 năm, kể từ khi L. R. Hobson phát hiện dòng minh văn ghi trên
vai bình gốm hoa lam đẹp trưng bày tại Bảo tàng Topkapi Saray, Istanbul (Thổ Nhĩ
Kỳ) vào những năm 1933-1934, những thông tin về làng gốm cổ Chu Đậu, quê
hương của bình gốm nổi tiếng này mới được khám phá một cách tình cờ trong một
chuyến điều tra về nghề dệt chiếu ở thôn Chu Đậu vào năm 1984.
Di chỉ này được Bảo tàng tỉnh Hải Dương chính thức khai quật vào năm
1986. Kết quả khai quật đã khẳng định sự tồn tại của một làng gốm cổ thời Lê tại
thôn Chu Đậu. Từ đó, tên di chỉ gốm Chu Đậu chính thức được điền vào bản đồ
khảo cổ học và mở ra một chương mới trong lịch sử nghiên cứu gốm cổ thời Lê ở
Bắc Việt Nam.
Nằm trong không gian văn hóa xứ Đông, không gian văn hóa của vùng đồng
bằng Bắc bộ trù phú, giàu có, Chu Đậu – Nam Sách có rất nhiều điều kiện thuận lợi
trong việc tạo dựng các lò sản xuất gốm có quy mô lớn bên tả ngạn sông Thái Bình,
từ đó thúc đẩy hoạt động sản xuất, tiến hành trao đổi hàng hóa và giao lưu kinh tế.
Từ cuộc khai quật đầu tiên vào năm 1986, di chỉ gốm Chu Đậu đã được tiến
hành 4 cuộc khai quật liên tiếp vào năm sau đó (1987, 1989, 1990, 1991). Năm
2002, Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật di chỉ gốm Chu Đậu lần thứ 6 và 12
năm sau, Viện Nghiên cứu Kinh thành đã khai quật Chu Đậu lần thứ 7.
Kết quả các cuộc khai quật đã tìm thấy các dấu tích lò nung cùng số lượng
rất lớn đồ gốm men và dụng cụ sản xuất gốm, phản ánh rõ Chu Đậu là một trung
tâm sản xuất gốm lớn và quan trọng của Bắc Việt Nam vào thời Lê sơ. Từ những
21
phát hiện quan trọng này, di chỉ gốm Chu Đậu đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng và
nhận được rất nhiều sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, do mới khai quật trong phạm vi nhỏ bé so với tổng diện tích của
di chỉ, nên kết quả khai quật, nghiên cứu khảo cổ học di chỉ gốm sứ Chu Đậu vẫn
còn đó rất nhiều vấn đề hạn chế. Những hiểu biết của chúng ta ngày hôm nay về
gốm Chu Đậu tuy đã có rất nhiều thành tựu quan trọng, nhưng những thành tựu đó
cũng mới chỉ dừng lại trong khuôn khổ của các hố khai quật, chưa thể nói là đã thấu
hiểu gốm Chu Đậu theo đúng nghĩa của nó [57].
22
Chương 2
KẾT QUẢ KHAI QUẬT, NGHIÊN CỨU GỐM CHU ĐẬU NĂM 2014
Như trên đã nêu, khu di tích Hoàng thành Thăng Long tìm thấy khá nhiều
loại hình sản phẩm gốm Hải Dương - xứ Đông và chủ yếu là sản phẩm của các lò:
Chu Đậu (Nam Sách), Cậy, Ngói và Hợp Lễ (Bình Giang), có niên đại từ thế kỷ 15
đến thế kỷ 18. Đây là những minh chứng rất quan trọng cho thấy, gốm Hải Dương
đã được sử dụng trong đời sống của Hoàng cung Thăng Long qua nhiều triều đại.
Để góp phần nghiên cứu làm rõ các loại hình đồ gốm của Hải Dương tại khu
di tích Hoàng thành Thăng Long, đặc biệt là gốm Chu Đậu về đặc trưng, niên đại về
các loại hình trong các dòng gốm cũng như mối quan hệ giữa kỹ thuật và nghệ thuật
của gốm Chu Đậu trong lịch sử gốm cổ thời Lê ở tỉnh Hải Dương, tháng 12 năm
2014, Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành (nay là Viện Nghiên cứu Kinh thành) đã
phối hợp với Bảo tàng tỉnh Hải Dương tiến hành khai quật trên mảnh đất có diện
tích 360m2 tại phần đất của Bảo tàng tỉnh Hải Dương đã mua lại của gia đình ông
Trần Văn Dâm ở thôn Chu Đậu năm 2001.
Tại địa điểm này, đoàn khai quật đã tiến hành đào 2 hố khai quật, kí hiệu là
CĐ14.H01 (hố 1) và CĐ14.H02 (hố 2). Hố H01 có diện tích 54m2, hố H02 có diện
tích 46m2, tổng diện tích khai quật là 100m2 [57] (xem PL.12).
Đây là cuộc khai quật có diện tích lớn nhất trong lịch sử khai quật Chu Đậu
từ trước tới nay, thu được nhiều kết quả quan trọng và nhận thức mới về địa tầng, di
tích lò gốm và hệ thống di vật rất lớn về số lượng và đa dạng về loại hình hiện vật.
Dưới đây, tác giả xin phép được sử dụng nguồn tư liệu trong báo cáo khai quật tại
Chu Đậu năm 2014 của Viên Nghiên cứu Kinh thành để trình bày khái quát về kết
quả của cuộc khai quật đã đạt được.
2.1. Về địa tầng
2.1.1. Hố H01
Hố H01 nằm ở phía Đông của khu đất, phía Nam giáp con đường liên thôn,
trong khoảng tọa độ từ (X: 1,1 - X: 13); (Y: 0,6 - Y: 5,6) theo hệ lưới tọa độ giả
23
định riêng cho di tích. Hố có mặt bằng hình chữ nhật, diện tích 54m2 (dài Bắc-Nam:
12m, rộng Đông-Tây: 4.5m), được đào 7 lớp, có địa tầng sâu nhất là 292cm.
Diễn biến các lớp đào
Lớp 1: Sâu từ 10 – 20cm: Là lớp đất vườn hiện đại màu nâu sẫm, tơi xốp.
Lớp 2: Sâu từ 60 – 80cm: Là lớp đất phù sa cổ màu nâu, hầu như không có
hiện vật, đất khá mịn và dày dần theo hướng từ Bắc xuống Nam.
Lớp 3: Sâu từ 20 – 40cm, lớp đất này có màu vàng xám lẫn ít gạch vụn, có
niên đại sau năm 1945 trở lại đây.
Từ lớp 4 đến lớp 7: Sâu từ 90cm – 120cm. Đây là tầng đất có màu đen và
nâu sẫm khác hẳn với các lớp đào trên, thậm chí lác đác có cả tro than và xỉ than.
Lớp đào này chứa rất nhiều loại hình hiện vật, bao gồm mảnh vỡ bao nung, đồ gốm
men, con kê, xỉ than, gạch vụn và chồng dính các loại. Trong đó, mảnh bao nung,
đồ gốm men và con kê gốm chiếm số lượng chủ yếu, những hiện vật này đều là đồ
phế thải của lò gốm. Phần lớn các di vật xác định niên đại thời Lê sơ thế kỷ 15-16.
Cuối lớp 7, đất sét bùn được cho là tầng đáy của ao/hồ nằm trên địa hình lòng chảo
được san lấp để làm mặt bằng sản xuất.
Sinh thổ là lớp sét màu vàng lẫn xám xanh mịn, thuần, ổn định và có thể là
đất nền nguyên thổ tại khu vực này.
Diễn biến địa tầng
Địa tầng hố H01 qua mặt cắt vách hố phía Đông, có thể nhận rõ có 3 tầng
văn hóa tính từ trên xuống dưới (xem PL.13:1-2).
a, Tầng văn hóa 1: Tầng này có độ sâu từ 10cm - 20cm, tương ứng với lớp 1.
Đây là phần đất được tôn tạo vào thời hiện đại, khoảng trước năm 1960 vì theo chủ
nhà đây là đất của tổ tiên để lại. Ngoài phần diện tích nhỏ xây nhà ngang ở phía Tây
Nam, toàn bộ khu đất được sử dụng làm vườn trồng đay nhằm phục vụ cho nghề
sản xuất chiếu (hay còn gọi là chiếu Đậu).
b, Tầng văn hóa 2: Tầng này có độ sâu từ 80cm – 120m, tương ứng với lớp
đào 2 và lớp 3. Đây là tầng đất phù sa cổ màu nâu, hầu như không có hiện vật, đất
24
khá mịn và dày dần theo hướng từ Bắc xuống Nam. Điều này cho thấy trước kia
mặt bằng khu đất không bằng phẳng và dốc thoải dần xuống phía Nam của hố. Bắt
đầu từ lớp đào 3 đất bắt đầu chuyển màu vàng xám, lẫn ít gạch vụn
d, Tầng văn hóa 3: Có độ sâu từ 90cm – 120cm, tương ứng với lớp đào 4,
lớp 5 và lớp 6. Đây là tầng văn hóa có đất màu đen và nâu sẫm khác hẳn với các
tầng văn hóa trên, thậm chí lác đác có cả tro than và xỉ than. Tầng văn hóa này dày
chứa rất nhiều loại hình hiện vật, bao gồm mảnh vỡ bao nung, đồ gốm men, con kê,
xỉ than, gạch vụn và chồng dính các loại. Trong đó, mảnh bao nung, đồ gốm men và
con kê gốm chiếm số lượng chủ yếu, những hiện vật này đều là đồ phế thải của lò
gốm. Đồ gốm men tìm thấy trong tầng văn hóa này khá phong phú, đa dạng bao
gồm các dòng gốm: men ngọc, men trắng (bát, đĩa, tước, âu, lọ…), hoa lam (bát,
đĩa, âu, chén…). Trong số những hiện vật này, có những loại hình giống như đồ
gốm đã tìm thấy ở khu di tích Hoàng thành Thăng Long, đặc biệt là gốm men trắng
và hoa lam.
Dựa vào niên đại của những đồ gốm nằm trong tầng văn hóa này cho biết
tầng văn hóa 3 được xác định trong khung niên đại thời Lê sơ, khoảng nửa cuối thế
kỷ 15 đến nửa đầu thế kỷ 16.
2.1.2. Hố 02
Hố H02 nằm ở phía Tây Bắc của khu đất, trong khoảng tọa độ X: 10 đến X:
19,5; Y: -5,7 đến Y: 5,7 theo hệ lưới tọa độ giả định riêng cho di tích. Hố hình chữ
nhật có diện tích 47,5m2 (dài Bắc - Nam: 9,5m, rộng Đông - Tây: 5,0m), được đào 7
lớp có địa tầng sâu nhất là 220cm.
Diễn biến lớp đào
Lớp mặt và lớp 1 độ sâu khoảng 10 -12cm là đất nền sân giếng chứa mùn
rác, đất xốp, lác đác xỉ và gạch vụn.
Lớp 2: Có độ sâu từ 40-60cm, đất màu nâu sẫm xen lẫn đất xét vàng bị xáo
trộn, hầu như không tìm thấy hiện vật.
25
Lớp 3: Độ sâu 20-40cm, có màu nâu, pha cát, hiện vật bắt đầu xuất hiện
nhưng lẻ tẻ, ít và xuất hiện theo tùng cụm, có chỗ không có hiện vật. Xuất hiện dấu
vết lò nung với cụm đất bị cháy đen và đỏ.
Lớp 4, lớp 5 và lớp 6 có độ sâu khoảng 100cm được đào ở vách Tây và vách
Đông của hố (phần xuất hiện vết tích lò nung được giữ lại). Xuất hiện đất sét màu
vàng và sỏi ống. Đồng thời tại phần đào sâu này xuất hiện 1 cụm gốm khá nhiều
hiện vật đủ các loại được tìm thấy như bát hoa lam, đĩa, bình, vò… được đồ nằm
chồng lên nhau.
Lớp 7: Có độ sâu khoảng 10cm, đất tìm thấy là đất sét vàng, không thấy xuất
hiện hiện vật. Lớp này đã chạm đến sinh thổ của hố.
Diễn biến tầng văn hóa
Quan sát vách phía Tây của hố có thể thấy rõ 3 tầng văn hóa (xem PL.13:3-4).
a, Tầng văn hóa 1: Tương đương với lớp đào 1, lớp 2 có độ dày khoảng 50 –
70 cm chứa mùn rác, đất xốp, lác đác xỉ và gạch vụn, đất màu nâu sẫm xen lẫn đất
xét vàng bị xáo trộn. ở phía Tây Nam lác đác có gạch xếp có ý thức. Theo chủ vườn
ở đây thì vị trí này trước năm 1990 là nhà ở sau đó phá đi và thay vào là giếng đào
năm 1994. Lớp gạch được xếp có ý thức đó chính là nền nhà cũ của tổ tiên gia đình
chủ vườn để lại. Lớp địa tầng này có niên đại khoảng từ sau năm 1945 trở lại đây.
b, Tầng văn hóa 2: Tương ứng với lớp đào 3, có độ dày từ 20 - 40cm. có
màu nâu, pha cát, hiện vật bắt đầu xuất hiện nhưng lẻ tẻ, ít và xuất hiện theo từng
cụm, có chỗ không có hiện vật. Xuất hiện dấu vết lò nung và nhiều bao nung được
xếp thành hàng trước cửa lò. Bao nung tìm thấy có thành thấp (cao khoảng 8,5cm,
ĐKM từ 18,5 – 20cm), trong lòng dính con kê hình vành khăn. Tại hố H01 tìm thấy
nhiều chồng dính đĩa men ngọc được nung trong bao nung loại này. Mà đĩa men
ngọc được xác định sản xuất vào cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16 với những vành hoa
văn, hình dáng rất đặc trưng. Điều này cho thấy rằng tầng văn hóa này có niên đại
vào thế kỷ 15 – 16.
26
c, Tầng văn hóa 3: Tương ứng với lớp đào 4, 5, 6, và 7, đất sét màu vàng lẫn
xám xanh mịn và thuần, dày khoảng 100cm. Đây là tầng đất khá ổn định, không
thấy có dấu vết bị xáo trộn như các tầng văn hóa trên. Ở độ sâu 210cm so với mốc
cao độ 0, xuất hiện một cụm gốm với nhiều loại hình hiện vật trong đó chủ yếu là
gốm hoa lam có niên đại thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 16. Xen kẽ giữa các hiện vật này
thấy rất nhiều bã vỏ hến, vỏ sò huyết với mật độ dày đặc. Điều này cho thấy, thời kỳ
này các thợ gốm Chu Đậu đã dùng vỏ nhuyễn thể biển để làm nguyên liệu chế biến
men cho sản phẩm.
2.2. Về lò nung gốm
Một trong những kết quả quan trọng của cuộc khai quật này chính là tìm thấy
vết tích lò nung gốm. Tại hố H02 phát hiện dấu vết lò kí hiệu CĐ14.H02.LO01 có
vị trí ở góc Tây – Nam của hố, ở độ sâu khoảng 110cm so với mốc 0 giả định, tọa
độ (X: 10,9 - X: 15); (Y: -2,5 - Y: -5,4) (xem PL.14). Phần bầu đốt của lò còn khá
rõ, có mặt bằng hình cánh cung có chiều dài từ 110cm – 120cm, chiều rộng từ
275cm – 300cm. Mặc dù phần tường ngăn giữa thân lò và cửa lò đã bị phá, nhưng
vẫn có thể xác định được qua dấu vết còn lại. Đáng lưu ý là ở giữa bầu đốt, gần khu
vực bức tường ngăn giữa bầu đốt và thân lò có dấu tích của bức tường, thuật ngữ kỹ
thuật gọi là "mũi lửa". Mũi lửa có chức năng là phân đôi lửa khi vào thân lò để nung
gốm, tạo nhiệt độ cao, nhanh và đều (lửa hoàn nguyên), do đó người ta còn gọi đây
là "bức/tường chia lửa". Việc phát hiện dấu tích mũi lửa cho thấy, bầu đốt lò này
được phân làm 2 ngăn. Đây là kỹ thuật truyền thống có từ lâu đời. Dựa vào bằng
chứng kỹ thuật này và nghiên cứu phạm vi phân bố của nền đất chịu tác động của
nhiệt độ, có thể thấy rằng lò này thuộc loại "lò bầu".
Trên cơ sở đó, di tích lò nung được xác định là nằm theo chiều Bắc Nam, cửa
lò quay về phía Nam, chiều dài khoảng trên 600cm và chiều rộng thân lò khoảng
300cm. Lò được xây dựng bằng kỹ thuật đắp đất trình tường. Dấu vết ở phần cửa lò
cho thấy, tường dày khoảng 25cm - 30cm. Nghiên cứu các lớp đất cháy và độ dày
của nó tại phần cửa lò có thể thấy, lò này được sử dụng trong thời gian khá dài,
27
được tu sửa nhiều lần và có nhiệt độ nung rất cao. Đáng lưu ý, rìa cạnh của bầu đốt
phía Tây còn dấu vết của thành lò được xếp chủ yếu bằng mảnh bao nung, có cả
chèn viên đá gạo. Phần trước cửa lò còn nguyên 06 bao nung. Đây là loại bao nung
thành thấp (cao 8,5cm, đường kính từ 18,5 - 20cm). Trong đó, có 02 bao nung còn
dính lại con kê hình vành khăn ở giữa lòng.
Phân tích từ phế phẩm lò nung và công cụ sản xuất, có thể thấy đây là lò gốm
sản xuất kết hợp cả đồ dùng sinh hoạt (bát, đĩa, chén, bình, liễn, chậu…) và đồ phục
vụ tôn giáo (lư hương, bình hoa…) với 3 dòng gốm chính là men ngọc, hoa lam và
men trắng. Trong đó, gốm men ngọc dường như là sản phẩm chủ đạo, được chế tạo
với trình độ công nghệ cao, không thua kém sản phẩm gốm men ngọc lò Long
Tuyền (Chiết Giang – Trung Quốc) đương thời. Đáng lưu ý, những sản phẩm gốm
men ngọc ở đây được nung đơn chiếc, nghĩa là nung một sản phẩm trong một bao
nung. Phát hiện này rất có ý nghĩa, không chỉ cho ta thấy được công nghệ và trình
độ sản xuất rất cao của gốm Chu Đậu mà còn phản ánh về việc đầu tư quy mô để
cung cấp ra thị trường những sản phẩm gốm có chất lượng cao. Gốm hoa lam cũng
cùng sản xuất một lò nhưng được chia làm hai loại chất lượng khác nhau. Cụ thể
như loại bát, đĩa hoa lam có chân đế thấp hoặc rất thấp được vẽ hình động vật, con
người và phong cảnh thì được nung đơn chiếc có chất lượng khá tốt. Còn những bát,
đĩa hoa lam có chân đế khá cao, ve lòng và chỉ được trang trí bằng các đường chỉ
lam hoặc môtip hoa văn cánh sen, hoa cúc dây được xếp nung trong bao nung khá
lớn và thường xếp 6 đến 12 hiện vật trong 1 bao nung. Chất lượng loại này trung
bình vì có nhiều sản phẩm sống men (men chưa đủ nhiệt độ chín), xương gốm còn
xốp và bở. Tất cả những điều trên cho thấy lò nung này được nung khá đa dạng về
dòng men, loại hình và có sự phân cấp chất lượng luôn trong quá trình xếp nung sản
phẩm.
Như vậy, qua những dấu tích để lại chúng ta đã hình dung được kết cấu của
lò nung gốm Chu Đậu. Theo PGS.TS. Bùi Minh Trí thì đây là loại lò bầu có quy mô
28
khá lớn, có hệ thống mũi lửa và tường chia lửa... Đây là một trong những tư liệu
quý báu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về di chỉ sản xuất Chu Đậu trong lịch sử.
2.3. Về di vật
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu phân loại chỉnh lý hiện vật thu được tại Chu
Đậu năm 2014 dựa trên “Phương pháp và qui trình nghiên cứu, chính lý và lập hồ
sơ khoa học về di vật khảo cổ học đô thị” do PGS.TS. Bùi Minh Trí xây dựng.
Phương pháp này bao gồm 4 bước chính: Nghiên cứu, phân loại cơ bản; nghiên cứu,
phân loại chi tiết; lập hồ sơ tư liệu di vật và lập hồ sơ khoa học di vật [56]. Trong
mỗi bước lại có những bước nhỏ khác nhau, tác giả trình bày ở đây để muốn nhấn
mạnh luận văn đã sử dụng phương pháp khoa học, logic để đưa ra các thống tiêu chí
phân loại chi tiết gốm men Chu Đậu.
Do nội dung luận văn sẽ có một mục riêng nói về đặc trưng về loại hình,
dòng men gốm Chu Đậu nên phần viết dưới đây tác giả chỉ giới thiệu vắn tắt về kết
quả về số lượng hiện vật được tìm thấy trong cuộc khai quật năm 2014.
2.3.1. Hiện vật hố H01
Diện tích hố H01 chỉ rộng hơn diện tích hố H02 gần 6m2 nhưng số lượng
hiện vật lại lớn hơn rất nhiều (xem PL.12). Tổng số lượng hiện vật hố H01 là 7349
hiện vật (chưa bao gồm số lượng bao nung). Trong đó bao gồm 3 nhóm chính: Đồ
gốm sứ, dụng cụ sản xuất và đồ sành (xem bảng 2.1).
Bảng 2.1. Bảng kê số lượng hiện vật, hố H01, Chu Đậu (Hải Dương),
Mảnh vỡ
TT
Loại hình di vật
Đủ dáng
Tổng cộng
Tỷ lệ (%)
Miệng
Thân
Đáy
A
Đồ gốm sứ
1752
1372
594
1372
5096
69,35
1
Gốm men ngọc
664
591
307
484
2046
27,8
2
Gốm men trắng
116
104
134
320
678
9,2
3
Gốm hoa lam
501
677
152
563
1893
25,8
4
Gốm men nâu
1
−
1
5
7
0,1
5
Không men
1
−
−
−
1
0,02
khai quật năm 2014
29
6
Đồ phế thải
469
469
6,4
−
−
−
7
Gốm Thăng Long
2
−
−
−
2
0,04
B
Dụng cụ sản xuất
2106
12
12
95
2225
30,27
C
4
Đồ sành
8
13
3
28
0,38
Tổng cộng
3866
1392
619
1472
7349
100
(Nguồn: Báo cáo khai quật Chu Đậu năm 2014, Viện Nghiên cứu Kinh thành)
Theo bảng trên ta thấy Đồ gốm sứ có số lượng nhiều nhất 5096 hiện vật,
chiếm 69,3%, bao gồm 4 dòng men: gốm men ngọc, men trắng, hoa lam và men
nâu, trong đó gốm men ngọc và gốm hoa lam chiếm số lượng chủ yếu, men nâu có
số lượng không đáng kể.
Ngoài đồ gốm, hố H01 còn tìm thấy số lượng rất lớn dụng cụ sản xuất (2225
hiện vật) bao gồm: Con kê, khuôn đúc và dụng cụ thử nhiệt. Ngoài ra, trong cuộc
khai quật này đã tìm thấy số lượng rất lớn những mảnh vỡ là bao nung chủ yếu là
những mảnh vỡ nhỏ được đầm từ lớp 3 đến hết lớp 7, dải thành từng lớp dày trên
toàn bộ mặt hố để làm nền nhà xưởng. Do vậy số lượng không thống kê mà đắp
thành từng khối lớn.
Hố H01 còn tìm thấy 28 hiện vật sành, trong đó có 04 hiện vật đủ dáng, còn
lại là những mảnh miệng, thân và đáy. Có 05 loại hình: bình, lon, nắp, chậu và nồi
đất. Hầu hết đây là các đồ đựng có kích thước khá lớn nhằm phục vụ sinh hoạt và
sản xuất. Sở dĩ, cuộc khai quật này cũng như các cuộc khai quật trước không tìm
thấy nhiều đồ sành bởi một lẽ trong tất cả các cuộc khai quật tại di chỉ gốm Chu
Đậu từ trước tới nay chưa thấy dấu tích của lò sản xuất đồ sành tại đây. Khẳng định
bước đầu này các nhà khai quật cần có thêm thời gian và mở rộng thêm quy mô
khai quật trong tương lai.
2.3.2. Hiện vật hố H02
Về cơ bản, loại hình hiện vật phát hiện ở hố H02 giống các loại hình ở hố
H01. Tuy nhiên, chỉ tìm thấy 3 dòng men chính: men ngọc, hoa lam và men trắng
(không tìm thấy gốm men nâu), số lượng hiện vật cũng khiêm tốn hơn rất nhiều so
với hố H01 (211 hiện vật) bao gồm 3 nhóm cơ bản: đồ gốm sứ, dụng cụ sản xuất và
đồ sành (Xem bảng 2.2).
30
Bảng 2.2. Bảng kê số lượng hiện vật, hố H02, Chu Đậu (Hải Dương),
Mảnh vỡ
Tỷ lệ
TT
Loại hình di vật
Đủ dáng
Tổng cộng
(%)
Miệng
Thân
Đáy
A
Đồ gốm sứ
49
140
38
52
1
66,4
1
Gốm men ngọc
4
2
1
4,3
2
9
2
Gốm men trắng
2
−
−
2,8
4
6
3
Gốm hoa lam
25
50
−
42
117
55,5
4
Đồ phế thải
7
−
−
3,3
−
7
5
Gốm Lò Thăng Long
−
−
−
0,5
1
1
B
Dụng cụ sản xuất
58
−
−
27,9
1
59
C
Đồ sành
2
6
4
5,7
−
12
Tổng cộng
98
58
5
100
50
211
khai quật năm 2014
(Nguồn: Báo cáo khai quật Chu Đậu năm 2014, Viện Nghiên cứu Kinh thành)
Số lượng hiện vật hố H02 chỉ chiếm 2,8% tổng số hiện vật của cuộc khai
quật. Mặc dù có số lượng không nhiều nhưng về loại hình hiện vật cũng rất đa
dạng, sự đa dạng đó tập trung phần lớn ở cụm gốm nằm phía Bắc của hố, số
lượng là 114/211 hiện vật hố H02. Cụm gốm này nằm sát vách Bắc của hố, ở độ
sâu 210cm so với cao độ 0, có ký hiệu CĐ14.H02.CG01. Tại đây đã phát hiện
khá nhiều hiện vật có niên đại vào cuối thế kỷ 15 và một nhóm vào đầu thế kỷ
16. Số lượng tìm thấy là 114 hiện vật chủ yếu là loại hình bát, đĩa men trắng vẽ
lam, tiêu biểu là loại bát hoa lam lòng viết chữ Hán: “Chính” và chữ “Phúc”.
Loại này có đặc điểm rất giống với các hiện vật cùng loại hình gặp ở di tích
Hoàng thành Thăng Long. Xen kẽ giữa các hiện vật này thấy rất nhiều bã vỏ hến,
vỏ sò huyết với mật độ dày đặc. Điều này cho thấy, vào thế kỷ 15 - 16 rất có thể
người ta đã dùng vật liệu này làm nguyên liệu men cho sản phẩm gốm.
2.3.3. Hiện vật tổng 2 hố
Như vậy, qua 2 hố khai quật với diện tích hơn 100m2, cuộc khai quật đã
thu được khối lượng hiện khá lớn 7560 hiện vật (chưa bao gồm bao nung), trong
đó: đồ gốm sứ là 5236 hiện vật (chiếm 69,3%), dụng cụ sản xuất là 2284 hiện vật
(chiếm 30,2%), đồ sành là 40 hiện vật (chiếm 0,5%) (xem Bảng 2.3).
31
Bảng 2.3. Bảng kê tổng số lượng hiện vật, Chu Đậu (Hải Dương),
Mảnh vỡ
TT
Loại hình di vật
Đủ dáng
Tổng cộng Tỷ lệ %
Miệng
Thân
Đáy
A
Đồ gốm sứ
1793
1424
1423
596
5236
69,3
668
593
486
308
1
Gốm men ngọc
2055
27,2
119
104
327
135
2
Gốm men trắng
685
9,1
1
−
5
1
3
Gốm men nâu
7
0,08
526
727
152
605
2010
4
Gốm hoa lam
26,6
1
−
−
−
5
Không men
1
0,01
476
−
−
−
6
Đồ phế thải
476
6,3
2
−
−
−
7
Gốm Thăng Long
2
0,02
12
96
12
B
Dụng cụ sản xuất
2164
2284
30,2
6
14
3
17
C
Đồ sành
40
0,5
625
Tổng cộng
3963
1450
1522
7560
100
khai quật năm 2014
(Nguồn: Báo cáo khai quật Chu Đậu năm 2014, Viện Nghiên cứu Kinh thành)
ĐỒ GỐM SỨ
(1) Gốm men ngọc: Có số lượng lớn nhất trong tổng số đồ gốm sứ (2055
hiện vật), chiếm 40% tổng số, bao gồm 8 loại hình: Bát, đĩa, liễn, nắp, âu, tước, lư
hương, lọ. Trong đó bát, đĩa, liễn, lư hương chiếm số lượng chủ yếu.
Bảng 2.4. Bảng thống kê số lượng hiện vật gốm men ngọc, Chu Đậu (Hải
Mảnh vỡ
TT
Loại hình di vật
Đủ dáng
Tổng cộng
Tỷ lệ %
Miệng
Thân
Đáy
1
Bát
125
194
54
210
583
28,4
2
Đĩa
397
53
−
20
470
22,9
3
Âu
1
7
5
5
18
0,9
4
Tước
15
7
34
−
56
2,7
5
Liễn
17
125
163
121
426
20,7
6
Nắp đậy
60
−
21
97
178
8,7
7
Lư hương
53
98
31
139
321
15,6
8
Lọ
−
2
−
1
3
0,1
Dương), khai quật năm 2014
32
Tổng cộng
668
593
308
486
2055
100
(Nguồn: Báo cáo khai quật Chu Đậu năm 2014, Viện Nghiên cứu Kinh thành)
(2) Gốm men trắng: Tổng số lượng tìm thấy 684 hiện vật, gồm bát, đĩa,
chén, liễn, nắp, đĩa đèn dầu, lọ nhỏ, bình hoa, bình rượu, bình vôi, ống nhổ, chậu
(xem bảng 2.3). Trong đó bát và liễn chiếm số lượng chủ yếu.
Bảng 2.5. Bảng kê số lượng hiện vật gốm men trắng, Chu Đậu (Hải Dương)
Mảnh vỡ
TT
Loại hình hiện vật
Đủ dáng
Tổng cộng
Tỷ lệ %
Miệng
Thân
Đáy
166
−
41
−
207
30,3
1
Bát
5
−
21
1
27
3,9
2
Đĩa
8
−
24
−
32
4,7
3
Chén
80
106
100
18
304
44,4
4
Liễn
−
−
2
−
2
0,3
5
Nắp đậy
−
−
2
−
2
0,3
6
Đĩa đèn dầu
2
−
−
−
2
0,3
7
Lọ nhỏ
2
−
−
−
2
0,3
8
Bình hoa
1
17
1
8
27
3,9
9
Bình rượu
38
6
4
−
48
7,1
10
Bình Vôi
−
1
1
−
2
0,3
11
Ống nhổ
4
5
5
15
29
4,2
12
Chậu
khai quật năm 2014
104
119
135
326
684
100
Tổng số
(Nguồn: Báo cáo khai quật năm 2014, Viện Nghiên cứu Kinh thành)
(3) Gốm men nâu: Có lượng rất ít, có 7 di vật trên 6 loại hình. Men nâu chỉ
tìm thấy ở H01 với các loại hình: Bát (01 mảnh đáy), chén (02 mảnh chén), ang (01
mảnh đáy), bình (01 mảnh thân) và chậu (01 mảnh đáy). Điều này cho thấy gốm
men nâu không phải là sản phẩm của lò gốm này, mà nó là sản phẩm của lò khác tại
Chu Đậu.
33
(4) Gốm hoa lam: Gốm hoa lam có 2.010 hiện vật (chiếm 21,1%) với 8 loại
hình chính là bát, đĩa, chén, âu, nắp, bình tỳ bà, tước và ang (xem bảng 2.6). Hai
loại bát chiếm số lượng nhiều hơn cả 90% tổng số gốm hoa lam được tìm thấy.
Bảng 2.6. Bảng kê số lượng hiện vật gốm hoa lam, Chu Đậu (Hải Dương)
Mảnh vỡ
TT Loại hình
Đủ dáng
Tổng cộng
Tỷ lệ %
Miệng
Thân
Đáy
1
Bát
393
683
133
548
1757
87,4
2
Đĩa
116
13
−
23
152
7,6
3
Âu
5
27
14
28
74
3,7
4
Nắp
−
1
−
−
1
0,05
5
Bình tỳ bà
−
2
5
2
9
0,45
6
Chén
11
1
−
3
15
0,70
7
Tước
1
−
−
−
1
0,05
8
Ang
−
−
−
1
1
0,05
100
526
727
152
605
2010
Tổng cộng
khai quật năm 2014
(Nguồn: Báo cáo khai quật Chu Đậu năm 2014 Viện Nghiên cứu Kinh thành)
(5) Gốm không men: Ngoài việc phát hiện những sản phẩm gốm men, hố
khai quật còn có 01 nồi gốm không men gần nguyên dáng (một phần nhỏ miệng bị
vỡ). Nồi có miệng loe vát rộng, mép miệng đứng, tạo nhọn, cổ thắt, thân tròn hình
cầu, cong đều, hơi thon xuống đáy, đáy bằng và liền thân. Xương gốm màu trắng
đục, khá mỏng, xốp. Nồi có kích thước: ĐKM 12,8cm, cao 8,1cm và ĐKĐ 8,2cm
(PL 37; PL.58).
(6) Đồ gốm phế thải: Trong phạm vi các hố khai quật đều tìm thấy nhiều đồ
gốm phế thải bao gồm 469 chồng dính và phế thải các loại; trong đó, chồng dính từ
hai sản phẩm dính trở lên là 268 chồng dính. Chồng dính tìm thấy trên ba dòng
men: hoa lam, men ngọc, men trắng. Điều này cho thấy các dòng men này chính là
sả phẩm của lò gốm này. Số lượng chồng dính gốm men ngọc tìm thấy là 58 chồng
dính bao gồm các loại hình bát, đĩa, chén, liễn, lư hương; Chồng dính gốm men
trắng là: 51 chồng dính gồm: bát, liễn, thường liễn to ở ngoài, liễn nhỏ xếp trong,
34
bên trên đậy nắp hoặc không; Chồng dính gốm hoa lam được phát hiện nhiều nhất
với 160 chồng dính gồm các loại hình: bát, đĩa hoặc âu.
Qua quan sát các chồng dính, chúng tôi thấy có sự không đồng nhất một loại
hình chồng lên nhau mà thường phố biến có tới 2-3 loại sản phẩm xếp nung cùng
nhau hoặc không chỉ một dòng gốm xếp với nhau mà các dòng gốm được xếp xen
kẽ từng lớp một. Điều này không những cho chúng ta nhận biết về kỹ thuật trong
quá trình nung gốm mà còn mà còn là manh mối quan trọng cho việc nghiên cứu
nguồn gốc và niên đại (PL.59).
(7) Gốm Thăng Long: Tìm thấy 02 hiện vật gốm có nguồn gốc từ Lò Thăng
Long gồm có 01 bát hoa lam và 01 đĩa men trắng (xem PL.72).
Bát hoa lam: Miệng loe, mép vuốt tròn, lòng sâu, thân cong đều, chân đế
thấp, thon, thành trong thẳng, đáy tô nâu. Trong và ngoài phủ lớp men màu trắng,
sáng bóng, xương gốm mỏng, màu trắng xám, đanh, chắc, trong lòng viết chữ Hán
và các đường chỉ lam. Kích thước: Cao 6,6cm, ĐKM 12,2 cm, ĐKĐ 4,9cm (xem
PL.71-72).
Đĩa men trắng: Đĩa nhỏ, miệng thẳng, mép miệng cạo men, lòng nông, thân
vát xiên, chân đế thẳng, mép cắt vát trong và ngoài tạo diện tiếp xúc nhỏ, đáy để
mộc. Trong và ngoài phủ lớp men màu trắng, nhẵn, sáng bóng, xương gốm mỏng,
màu trắng đục, đanh chắc, giữa lòng in nổi bông hoa mai, thành trong in văn sóng
nước. Có kích thước: Cao 2,8cm, ĐKM 12,3cm, ĐKĐ 5,7cm (PL.71-72).
Có thể nói việc phát hiện này có ý nghĩa rất quan trọng, cho thấy rõ ràng
gốm Thăng Long và gốm Chu Đậu có mối quan hệ nào đó. Việc xuất hiện gốm
Thăng Long ở đây đã đặt ra nhiều câu hỏi lớn cho nhà nghiên cứu. Cộng với việc
tìm thấy rất nhiều gốm Chu Đậu tại di tích Hoàng thành Thăng Long nên PGS.TS
Bùi Minh Trí cho rằng: Có thể trong thời Lê sơ khi chiêu tập thợ giỏi khắp nơi về
kinh thành làm việc trong Cục Bách tác đã có rất nhiều nghệ nhân người Chu Đậu
về đây làm việc và họ đã mang những sản phẩm của lò Thăng Long về quê nhà. Tuy
nhiên để nghiên cứu chính xác về nó chúng ta cần có nhiều thời gian và có nhiều
cuộc khai quật quy mô hơn nữa trong tương lai.
35
DỤNG CỤ SẢN XUẤT
Ngoài đồ gốm, còn tìm thấy số lượng rất lớn dụng cụ sản xuất gốm: 2.284
hiện vật (chưa bao gồm bao nung). Trong đó con kê là 2.152 hiện vật, 19 mảnh
khuôn đúc và 113 đồ thử nhiệt độ hay thử men. Trong đó con kê gốm chiếm số
lượng lớn nhất 94% số lượng dụng cụ sản xuất (xem bảng 2.7).
Tỷ lệ
Bảng 2.7. Bảng kê số lượng con kê, Chu Đậu (Hải Dương) khai quật năm 2014
Mảnh vỡ
TT
Loại hình
Đủ dáng
Tổng cộng
%
Miệng
Thân
Đáy
1
Con kê hình chóp cụt
249
−
−
2
11,7
252
2
Con kê vành khăn
1651
−
−
−
76,7
1651
3
Con kê hình trụ
128
−
−
−
6,0
128
4
con kê tròn dẹt có mấu
5
−
−
−
0,2
5
5
Con kê đót
84
−
−
−
3,9
84
6
Con kê dính nhau
30
−
−
−
1,4
30
7
Thanh kê
2
−
−
−
0,1
2
−
Tổng cộng
2149
1
2
2152
100
(Nguồn: Báo cáo khai quật Chu Đậu năm 2014 Viện Nghiên cứu Kinh thành)
Tác giả có một mục riêng nói về kỹ thuật sản xuất gốm Chu Đậu trong đó đề
cập đến các loại dụng cụ sản xuất, do vậy, phần này tác giả xin được trình bày một
cách sơ lược như vậy.
ĐỒ SÀNH
Bên cạnh những đồ gốm sứ, còn tìm thấy được 40 hiện vật đồ sành, bao gồm
5 loại hình: Bình (16 hiện vật), lon (12 hiện vật), nắp (8 hiện vật), chậu (1hiện vật)
và nồi đất (3 hiện vật)(xem PL.63). Hầu hết đây là các đồ đựng có kích thước khá
lớn nhằm phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Sở dĩ tại Chu Đậu trong cuộc khai quật này
tìm thấy số lượng đồ sành rất ít vì đây là di chỉ đồ gốm men. Những hiện vật sành
này là đồ dùng sinh hoạt của người dân đương thời, chúng có thể được mua từ nơi
khác về sử dụng. Đây cũng là một trong những điểm quan trọng cho thấy rằng ở
Chu Đậu chỉ phát triển đỉnh cao về gốm sứ và có sự trao đổi qua lại sản phẩm với
36
trung tâm sản xuất các loại hình khác như đồ sành ở Quả Cảm, Đương Xá hay Thổ
Hà.…Điều này cần phải làm rõ trong các nghiên cứu về sau.
2.4. Về niên đại và tính chất
2.4.1. Niên đại
Việc xác định niên đại của các lò gốm cũng như các loại hình gốm trong
từng thời kỳ là rất khó khăn, tuy nhiên dựa vào diễn biến địa tầng và hệ thống hiện
vật trong địa tầng, đặc biệt là hệ thống chồng dính, phế thải, chúng tôi có thể khẳng
định lò gốm này có niên đại vào nửa cuối thế kỷ 15 và tồn tại đến nửa đầu thế kỷ
16. Điều đó được chứng minh qua những bằng chứng sau:
Thứ nhất: Diễn biến địa tầng khá ổn định, nơi tìm thấy dấu tích của lò gốm
cũng tìm thấy khá nhiều sản phẩm gốm mang đặc trưng niên đại nửa cuối thế kỷ 15
nửa đầu thế kỷ 16. Điều này được chúng tôi phân loại rất cụ thể qua diễn biến kỹ
thuật tạo chân đế từ sớm đến muộn trong quá trình phân loại các loại hình hiện vật.
Chẳng hạn như, chúng ta có thể thấy rằng phần lớn các loại bát, đĩa có chân đế cao,
miệng khắc cánh sen hay phần lớn số lượng liễn, nắp đậy, đĩa men ngọc được sản
xuất vào cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, trong khi đó, đa số bát, đĩa chân đế thấp hoặc
rất thấp xuất hiện chủ yếu vào giai đoạn thế kỷ 16. Trong đó các loại đĩa men ngọc
có hình dáng rất giống với các hiện vật của nhà Minh (Trung Quốc). Có thể các loại
đĩa này được du nhập vào nước ta từ trong cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Minh
từ năm (1407 – 1427) và sau đó đến khi nhà Lê sơ được thành lập và phát triển các
nghệ nhân Chu Đậu đã lấy hình mẫu này để làm những đĩa mang phong cách của
Trung Quốc. Chính vì thế có thể khẳng định rằng lò gốm này ra đời vào nửa sau của
thế kỷ 15.
Thứ hai: Tại hố H01 tìm thấy khá nhiều đồ phế thải, nó không chỉ giúp
chúng ta biết được kỹ thuật xếp nung mà còn là bằng chứng xác thực giúp chúng ta
biết được niên đại sản xuất của lò nung. Nghiên cứu 273 chồng dính và 203 đồ phế
thải cho thấy, các sản phẩm của lò gốm này chủ yếu có niên đại trong khoảng nửa
cuối thế kỷ 15 – nửa đầu thế kỷ 16. Đáng lưu ý là một số loại hình đồ gốm từ trước
đến nay thường được xác định là thế kỷ 15 hay thế kỷ 16, nhưng ở đây đã tìm thấy 2
37
loại gốm này trên một chồng gốm dính. Điều này cho thấy rõ rằng chúng được sản
xuất trong cùng một thời điểm, nghĩa là cùng chung niên đại khoảng nửa đầu thế kỷ
16. Điều đặc biệt hơn là dựa trên tư liệu chồng dính và đồ gốm phế thải, các nhà
nghiên cứu có thể xác định được các hình loại sản phẩm được sản xuất trong cùng
cùng một lò, thậm chí là trong các đợt nung.
Cuộc khai quật năm 2002 của PGS.TS. Bùi Minh Trí thực hiện cũng như
cuộc khai quật lần này đều có những bằng chứng tin cậy để chứng minh rằng, các lò
gốm Chu Đậu chỉ tồn tại đến cuối thế kỷ 16 (cuối thời Lê sơ). Đây là giai đoạn Nam
Sách – Hải Dương nằm trong bối cảnh nội chiến giữa nhà Lê và nhà Mạc. Trong bối
cảnh đó, theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Chiến thì một số thợ gốm đã chuyển về
làm gốm ở làng Bát Tràng (Nguyễn Đình Chiến). Cho đến nay, các cuộc khai quật
tại Chu Đậu đều chưa tìm thấy sản phẩm gốm thời Lê Trung hưng, nên không đủ
bằng chứng để nói rằng di chỉ gốm Chu Đậu hoạt động kéo dài sang thế kỷ 17 như
một số nhận định trước đó.
2.4.2. Tính Chất
Qua nghiên cuộc khai quật, đã tìm thấy dấu tích phần đáy lò của một lò gốm
tại hố H02, trong đó còn lại khá rõ ràng phần bầu đốt. Phần thân và đuôi lò đã bị
đào phá mất nhưng dựa vào phần mặt nền cứng còn lại có thể nhận ra được đây
chính là phạm vi của lò thể hiện rõ qua lớp đất dưới bị cháy do tác động của nhiệt lò
nung. Bên cạnh đó với sự phát hiện nhiều dụng cụ sản xuất (bao nung, con kê,
khuôn đúc), phế phẩm của lò sản xuất như (chồng dính, phế thải) do vậy khẳng định
đây là khu vực sản xuất trực tiếp sản phẩm gốm.
Mặt khác, dấu tích khảo cổ học ở vị trí hố H01 cho thấy khu vực này vốn là
một ao hay hồ nước nhỏ, sau đó đã được san lấp bằng phế thải của lò gốm, bao gồm
lẫn lộn các mảnh vỡ của đồ gốm men, bao nung, con kê, dụng cụ thử nhiệt độ nung
hay thử men, trong đó chủ yếu là mảnh bao nung và xỉ lò. Các đồ phế thải này được
đầm kỹ từng lớp và tạo phẳng bề mặt cho thấy hiện tượng san lấp để tạo thành một
khu vực bằng phẳng là rất rõ ràng. Nghiên cứu hiện tượng này và xem xét trong
cùng bối cảnh dấu tích lò nung gốm phát hiện được ở đây, chuyên gia gốm cổ Việt
38
Nam Bùi Minh Trí giải thích rằng, đây có thể là nơi gia cố để làm nhà xưởng sản
xuất hoặc làm sân phơi sản phẩm.
Tiểu kết Chương 2
Cuộc khai quật di chỉ gốm Chu Đậu năm 2014 thu được nhiều kết quả quan
trọng, cung cấp nhiều tư liệu khoa học mới trong việc nghiên cứu về niên đại, đặc
trưng loại hình, đặc trưng dòng men gốm, đặc biệt là kỹ thuật sản xuất gốm Chu
Đậu trong phạm vi/khu vực của một xưởng/ lò sản xuất gốm.
Dấu tích lò nung và khu vực xưởng sản xuất gốm cùng các đồ phế thải và
dụng cụ sản xuất gốm tìm được tại 2 hố khai quật đã cho thấy rõ mối quan hệ, sự
tương đồng về mặt loại hình và kỹ thuật. Từ đó cho phép các nhà nghiên cứu xác
định đây là một khu vực xưởng/ lò sản xuất gốm. Dấu vết lò nung ở đây thuộc loại
lò bầu, có hệ bầu đốt hai ngăn. Phân tích từ đồ gốm phế phẩm và công cụ sản xuất
cho thấy, lò nung này chuyên sản xuất đồ dùng sinh hoạt.
Kết quả nghiên cứu, chỉnh lý di vật cho thấy, lò gốm ở đây sản xuất nhiều
loại hình sản phẩm, gồm 17 loại hình theo 3 dòng gốm chính: men ngọc, men trắng,
hoa lam. Trong các loại hình gốm ấy lại rất phong phú, đa dạng về kiểu dáng và hoa
văn trang trí. Điều này phản ánh rằng, các lò gốm Chu Đậu sản xuất nhiều dòng
men và nhiều loại hình sản phẩm trong cùng một lò. Tư liệu từ đồ gốm phế thải
minh chứng rõ điều này. Các loại gốm và các dòng men gốm được xếp nung cùng
nhau trong cùng một lò. Đây là những phát hiện rất thú vị, cung cấp cho chúng ta
nhiều tư liệu và bằng chứng tin cậy để nghiên cứu và lý giải sâu hơn về đặc trưng
kỹ thuật cũng truyền thống sản xuất gốm Chu Đậu trong lịch sử.
Kết quả phân tích địa tầng và kết quả nghiên cứu đồ gốm phế thải cho thấy,
khu vực xưởng sản xuất gốm ở đây có niên đại vào khoảng nửa cuối thế kỷ 15 đến
nửa đầu thế kỷ 16.
39
Chương 3:
GỐM CHU ĐẬU VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ
GỐM CỔ THỜI LÊ SƠ Ở HẢI DƯƠNG
3.1. Đặc trưng gốm Chu Đậu
Nghiên cứu đặc trưng đồ gốm cổ là vấn đề hấp dẫn nhưng rất khó đòi hỏi
người nghiên cứu phải am hiểu, có trình độ và kinh nghiệm. Để tìm hiểu, nghiên
cứu đặc trưng gốm Chu Đậu, tác giả nghiên cứu trên hai phương diện chủ yếu: (1)
Nghiên cứu đặc trưng các loại hình trong từng dòng gốm và (2) Nghiên cứu kỹ
thuật chế tác gốm từ chất liệu, men và hoa văn trang trí gốm, đặc biệt là kỹ thuật tạo
dáng và chân đế gốm.
3.1.1. Đặc trưng về loại hình của các dòng gốm
Thuật ngữ “dòng gốm” lần đầu tiên được PGS.TS. Bùi Minh Trí sử dụng làm
tiêu chí phân loại gốm men Hợp Lễ (Hải Dương) để đưa ra những đặc trưng của
gốm Hợp Lễ. Ưu điểm của phương pháp này giúp nhận rõ sự phát triển của các loại
hình trong từng dòng gốm cũng như những biến đổi của các dòng gốm trong từng
thời kỳ [52, tr.56]. Tác giả xin phép được sử dụng thuật ngữ này trong việc nghiên
cứu, phân loại đồ gốm Chu Đậu, từ đó đưa ra những đặc trưng cho từng loại hình
trong mỗi dòng men.
Tổng hợp kết quả nghiên cứu của 7 cuộc khai quật cho thấy gốm Chu Đậu
sản xuất 4 dòng gốm chính: Gốm men ngọc, gốm men trắng, gốm men nâu, gốm
hoa lam. Ngoài ra còn có một lượng nhỏ gốm men lam và gốm vẽ màu. Trong các
dòng gốm lại có nhiều loại hình khác nhau, như: Bát, đĩa, chén, âu, liễn, nắp, bình
rượu, lọ, bình tỳ bà, bình vôi, bình hoa, chậu, đĩa đèn dầu, tước, lư hương, hộp, ống
nhổ. Trong từng loại hình lại có những sự khác nhau. Có loại chỉ xuất hiện ở một
dòng gốm nhưng có loại xuất hiện nhiều ở dòng gốm. Có trường hợp xuất hiện tất
cả dòng gốm, ví dụ như bát, đĩa. Tuy nhiên, ở mỗi dòng gốm, mỗi loại hình lại
mang những đặc trưng riêng biệt.
Để đưa ra được những đặc trưng của gốm Chu Đậu về loại hình học theo
dòng men, tác giả đã tiến hành tập hợp hệ thống hóa số lượng hiện vật gốm men từ
40
hai hố khai quật năm 2014 thành một số liệu chung kết hợp với tư liệu các cuộc
khai quật trước đó. Tác giả xin phép được sử dụng số liệu từ cuộc khai quật năm
2014 để đưa vào các loại làm minh chứng cho sự phổ biến của từng loại kiểu trong
một loại hình hiện vật.
Tác giả sẽ trình bày đặc trưng của gốm Chu Đậu theo các tiêu chí: dòng men,
nhóm loại hình, loại hình, qua đó thấy được sự phong phú, đa dạng của các loại
hình sản phẩm trong từng dòng men nói riêng và gốm Chu Đậu nói chung.
3.1.1.1. Gốm men ngọc
Gốm men ngọc khá đa dạng về loại hình, bao gồm: Bát, đĩa, tước, liễn, nắp, lư
hương, lọ. Các loại hình này xuất hiện liên tục trong hai thế kỷ 15 và 16. Mặc dù có
sự kế thừa về hình dáng và hoa văn nhưng có sự chuyển dịch khá rõ về kỹ thuật tạo
chân đế, từ chân đế cao (thế kỷ 15) sang chân đế trung bình và thấp (giai đoạn chuyển
giao từ cuối thế kỷ 15 sang đầu thế kỷ 16), chân đế rất thấp (thế kỷ 16). Diễn biến các
loại hình hiện vật gốm men ngọc dưới đây sẽ chứng minh cho nhận định trên
(1) Bát: Đây được coi là loại hình tiêu biểu của gốm men ngọc, số lượng
hiện vật tìm thấy khá lớn (853 hiện vật). Dựa vào hình dáng, kỹ thuật tạo chân đế và
hoa văn trang trí, chia thành 15 loại. Trong đó, loại I, II được coi là đặc trưng cho
gốm men ngọc thế kỷ 15, loại III đến loại IX là đặc trưng của gốm men ngọc giai
đoạn chuyển giao (cuối thế 15 đầu thế kỷ 16), loại X đến loại XV là đặc trưng cho
gốm men ngọc thế kỷ 16.
Bát loại I: Bát to, miệng thẳng, thành cao; lòng sâu; chân đế cao, thẳng.
Xương gốm dày trung bình nhưng phần đáy khá dày, màu trắng đục, khá mịn, đanh
chắc. Men ngọc phủ đều và dày, có nhiều màu khác nhau: xanh ngọc đậm hoặc ngả
vàng. Loại này tìm thấy 18 hiện vật, kích thước: Cao từ 8,8 – 9,0cm, ĐKM từ 13,8
– 15,0cm, ĐKĐ từ 6,7 – 7,3cm (xem PL.15:1a,1b).
Bát loại II: Bát to, miệng thẳng, thành cao; lòng sâu và rộng; chân đế thẳng,
cao trung bình. Xương gốm khá dày, màu trắng đục, có nhiều cát và lỗ nhỏ tạo xốp.
Men phủ khá dày, đều, màu xanh đậm. Loại này tìm thấy 14 hiện vật, kích thước:
Cao từ 7,5 - 8,0cm, ĐKM từ 13,1 - 14,6cm, ĐKĐ từ 6,0 - 6,5cm.(xem PL.15:3a,3b).
41
Bát loại III: Bát to, miệng thẳng, thành cao trung bình; lòng hẹp trong lòng
khoét lõm tròn nhỏ, chân đế thon và thấp, mảnh, đáy tô nâu. Men ngọc phủ kín cả
trong và ngoài, có nhiều màu sắc ngọc khác nhau như màu xanh nõn chuối, xanh
ngọc ngả vàng và đặc biệt có một số hiện vật có màu trắng đục (đây là hiện tượng
sống men). Loại này tìm thấy 11 hiện vật, kích thước: Cao từ 7,2cm - 7,8cm, ĐKM
từ 12,0cn – 12,3cm, ĐKĐ từ 5,5cm - 6,0cm (xem PL.17:2a,2b).
Bát loại IV: Bát to, miệng thẳng, thành thấp; lòng rộng trong lòng khoét lõm
tròn nhỏ; chân đế rất thấp, thon; đáy tô nâu. Xương gốm rất mảnh, màu trắng đục,
mịn, đanh chắc. Men ngọc phủ kín đều, bóng và có nhiều rạn kính nhỏ. Bên trong
thành bát khắc chìm hoa văn (cây cỏ), bên ngoài không hoa văn. Loại này tìm thấy
55 hiện vật, kích thước: Cao từ 5,9 – 7,2cm, ĐKM từ 10,6 – 14.0cm, ĐKĐ từ 4,7 -
5,0cm. (xem PL.17:3a,3b).
Bát loại V: Bát to, miệng thẳng, mép vê gần tròn; lòng có khoét lõm tròn
nhỏ, thân cong đều; chân đế rất thấp, thon, mép vê tròn, phủ men; đáy tô nâu kín.
Men ngọc sắc vàng phủ khá đều, bóng, có nhiều rạn kính nhỏ. Bên trong và bên
ngoài bát khắc chìm văn sóng nước có dạng các đường chỉ chìm uốn hình chữ S
nằm ngang hai đầu cuộn tròn lại. Loại này tìm thấy 20 hiện vật, kích thước: Cao từ
7,3 - 7,5cm, ĐKM từ 13,6 - 16,8cm, ĐKĐ từ 5,7 - 6,0cm. (xem PL.17:4a,4b).
Bát loại VI: Bát nhỏ, miệng thẳng; thân cong đều; chân đế rất thấp, mép cắt
vát, phủ men, đáy tô nâu. Xương gốm màu trắng đục, khá dày, hơi xốp. Men phủ
mỏng có màu trắng đục do sống men. Bên ngoài in khuôn hoa văn cánh cúc. Loại
này tìm thấy 4 hiện vật, kích thước: Cao 5,0cm, ĐKM từ 9,0 - 9,6cm, ĐKĐ từ 4,0 -
4,3cm (xem PL.18:1a,1b).
Bát loại VII: Bát nhỏ, miệng loe; thân cong tròn; chân đế thấp, thon, đáy
lõm. Xương gốm màu trắng đục, khá mịn, đanh chắc. Thân ngoài in khuôn văn cánh
cúc. Loại này có 7 hiện vật, kích thước: Cao từ 4,5 - 5,0cm, ĐKM từ 8,9 - 9,7cm,
ĐKĐ từ 4,0 - 4,3cm (xem PL.15:4a,4b).
Bát loại VIII: Bát có kích thước trung bình; miệng loe; thân cong tròn; chân
đế cao, thẳng; đáy bằng. Xương gốm trắng đục, khá mịn, đanh chắc. Men ngọc phủ
42
trong và ngoài có màu ngọc sắc vàng. Loại này tìm thấy 33 hiện vật, kích thước:
Cao từ 5,0 - 8,0cm, ĐKM từ 10,0 - 12,5cm, ĐKĐ từ 5,2 - 6,5cm (xem PL.15:2a,2b).
Bát loại IX: Bát nhỏ, miệng loe rộng bẻ ra ngoài; lòng khoét lõm tròn nhỏ;
chân đế thấp, thẳng, mép cắt vát hoặc vê tròn; đáy tô nâu. Men phủ đều màu xanh
ngọc ngả vàng. Loại này tìm thấy có số lượng khá lớn 150 hiện vật, kích thước: Cao
từ 5,0 - 6,0cm, ĐKM từ 10,3 - 13,5cm, ĐKĐ từ 4,7 - 5,6cm (xem PL.16:1a,1b).
Bát loại X: Loại này chỉ tìm thấy 2 mảnh đáy (ĐKĐ từ 5,7 - 6,2cm), chân đế
thon, mảnh; đáy tô nâu. Xương gốm màu trắng đục, mịn, đanh, chắc. Men ngọc
màu xanh ngả vàng, phủ dày, có vết đọng men, trên men có nhiều rạn kính (xem
PL.16:2a,2b).
Bát loại XI: Bát to, miệng loe rộng, mép vuốt nhọn, lòng rộng, trong lòng có
khoét lõm tròn nhỏ, chân đế thấp, thon, mép vê tròn hoặc cắt vát, phủ men. Trong
và ngoài khắc chìm hoa văn. Loại này có 73 hiện vật, kích thước: Cao từ 6,8 –
7,2cm, ĐKM từ 14,5 - 16,7cm, ĐKĐ từ 5,6 - 6,8cm (xem PL.16:4a,4b).
Bát loại XII: Loại này kích thước trung bình, miệng loe, lòng rộng, thành
thấp, chân đế thấp, thon, mép cắt gọt gần tròn. Loại này có 152 hiện vật, kích thước:
Cao từ 6,4 - 7,2cm, ĐKM 15,2cm, ĐKĐ từ 5,8 - 6,1cm (xem PL.17:1a,1b).
Bát loại XIII: Bát nhỏ, miệng loe, mép vuốt nhọn; thân cong tròn đều; chân
đế rất thấp, thon, nhỏ; đáy tô nâu. Xương gốm mỏng, hơi xốp. Men ngọc sống men.
Loại này chỉ tìm thấy 1 hiện vật có kích thước: Cao 5,4cm, ĐKM 12,6cm, ĐKĐ
4,7cm (xem PL.18:3a,3b).
Bát loại XIV: Bát nhỏ, miệng loe, mép vuốt nhọn; lòng khoét lõm; thân cong
đều; chân đế thon và thấp, mép cắt vát hai bên tạo diện tiếp xúc nhỏ; đáy tô nâu.
Loại này tìm thấy 17 hiện vật, kích thước: Cao từ 5,8 - 6,0cm, ĐKM từ 14,2 -
14,3cm, ĐKĐ từ 5,4 - 5,5cm (xem PL.18:2a,2b).
Bát loại XV: Bát to, miệng loe, thân vát, chân đế thấp, thon. Xương gốm màu
trắng đục khá mịn, mỏng, đanh chắc. Men phủ khá đặc biệt: Bên ngoài phủ men
ngọc, bên trong men trắng vẽ lam, men ngọc có nhiều màu khác nhau: ngọc xanh lá,
ngả vàng, …. Bên ngoài thành bát in khuôn văn cánh sen, thành trong bát vẽ chỉ
43
lam, giữa lòng viết chữ Hán hoặc vẽ hoa văn cây lá. Loại này có 6 hiện vật, kích
thước: Cao 7,2cm, ĐKĐ 5,1-6,7cm, ĐKM từ 15,0 - 15,8cm (xem PL.16:3a,3b).
(2) Đĩa: có 470 hiện vật, dựa vào hình dáng, kỹ thuật tạo mép miệng, chân
đế, hoa văn trang trí, kích thước (lớn, vừa và nhỏ) chia thành 16 loại. Qua nghiên
cứu so sánh những hiện vật tìm thấy được xác định sản xuất vào cuối thế kỷ 15 đầu
thế kỷ 16.
Đĩa loại I: Đĩa kích thước lớn; miệng bẻ ngả, mép khắc cánh sen; lòng rộng,
phẳng; thân vát xiên; chân đế thon; đáy lõm. Vành miệng khắc chìm hoa văn; lòng
khắc chìm khóm cỏ đối xứng nhau. Loại này tìm thấy 13 hiện vật, kích thước: Cao
từ 4,5 - 5,6cm, ĐKM từ 23,5 - 24,5cm, ĐKĐ từ 13,0 - 13,2cm (xem PL.19:1a,1b).
Đĩa loại II: Đĩa nhỏ, miệng bẻ loe tạo vành, mép khắc cánh sen; thân giật
cấp; chân đế thon; đáy bằng. Xương gốm khá dày, màu trắng đục, mịn, đanh chắc.
Men gốm phủ khá dày, phủ kín trong và ngoài cả chân đế. Vành miệng khắc chìm
các đường chỉ uốn lượn, thành trong lòng in lõm cánh cúc, giữa lòng khắc bông hoa
sen. Loại này tìm thấy 32 hiện vật, kích thước: Cao từ 2,8 - 3,0cm, ĐKM từ 13,3 -
13,5cm, ĐKĐ từ 7,8 - 8,2cm (xem PL.19:2a,2b).
Đĩa loại III: Đĩa nhỏ, miệng bẻ loe, thân giật cấp, chân đế thẳng, đáy tô nâu.
Màu men có nhiều sắc độ khác nhau: Màu ngọc xanh lá đậm, màu ngọc sắc vàng,
trắng đục (sống men). Mép khắc cánh sen, vành miệng vẽ văn cánh sen, thành trong
in lõm cánh cúc, giữa lòng khắc chìm khóm cỏ. Loại này tìm thấy 131 hiện vật, kích
thước: Cao từ 3,4 - 3,5cm, ĐKM từ 14,2 – 16,8cm, ĐKĐ từ 8,1 - 10,0cm (xem
PL.19:3a,3b).
Đĩa loại IV: Đĩa nhỏ, miệng bẻ loe ngang; thân giật cấp; chân đế thẳng, mép
phủ men; đáy tô nâu. Màu men có nhiều sắc độ men khác nhau: màu ngọc xanh lá
đậm, màu ngọc sắc vàng, màu trắng đục (sống men). Mép khắc cánh sen, trên vành
miệng vẽ văn cánh sen, thành trong in lõm cánh cúc, giữa lòng khắc chìm hoa văn
hoặc chữ Hán, Loại này được tìm thấy 65 hiện vật, kích thước: Cao từ 2,7 - 3,0cm,
ĐKM từ 12,0 - 13,7cm, ĐKĐ từ 7,0 - 7,8cm (xem PL.20:1a,1b).
44
Đĩa loại V: Loại này chỉ tìm thấy 1 mảnh đáy (ĐKĐ: 9,2cm) sống men màu
trắng đục, lòng rộng; chân đế thon, mép vê tròn; đáy tô nâu hình vành khăn. Xương
gốm mỏng, xốp. Thành trong in lõm cánh cúc, giữa lòng đĩa khắc chìm văn xoắn,
(xem PL.20:2a,2b).
Đĩa loại VI: Loại này chỉ tìm thấy 1 mảnh đáy (ĐKĐ 7,2cm), có chân đế
thon, thấp, mép vê tròn phủ men, đáy phủ lớp men màu trắng mỏng. Xương gốm
màu trắng đục, khá mịn, đanh chắc. Men ngọc màu xanh đậm, phủ khá đều, mịn
(xem PL.20:3a,3b).
Đĩa loại VII: Đĩa kích thước nhỏ, miệng bẻ ngang; chân đế thon, mép cắt hơi
vát vào trong, đáy tô nâu kín. Xương gốm màu trắng đục, hơi xốp. Men ngọc màu
xám bạc, phủ khá đều và dày. Mép khắc cánh sen, lòng in lõm văn cánh cúc (nhỏ),
lòng khắc chìm hoa văn. Loại này tìm thấy 3 hiện vật, kích thước: Cao từ 2,5 -
3,2cm, ĐKM từ 12,0 - 14,9cm, ĐKĐ từ 7,2 - 8,6cm (xem PL.21:1a,1b).
Đĩa loại VIII: Đĩa kích thước nhỏ, miệng loe, thân giật cấp, chân đế thon, đáy
tô nâu. Xương gốm mỏng, xốp. Men gốm màu ngọc xám, phủ mỏng. Mép khắc
cánh sen. Loại này được tìm thấy 33 hiện vật, kích thước: Cao từ 3,0 - 3,3cm, ĐKM
từ 12,5 - 13,0cm, ĐKĐ từ 6,7 - 7,0cm (xem PL.21:2a,2b).
Đĩa loại IX: Đĩa kích thước nhỏ, miệng bẻ loe ngang tạo vành, thân giật cấp,
chân đế choãi, mép vê gần tròn, phủ men, đáy tô nâu. Men gốm phủ dày có nhiều
sắc độ khác nhau: màu ngọc xanh lá, màu ngọc sắc vàng, màu trắng xám (sống
men). Mép khắc cánh sen, vành miệng vẽ văn cánh sen, thành trong khắc chìm văn
dây lá cuốn, giữa lòng khắc chìm khóm cỏ. Loại này tìm thấy 33 hiện vật, kích
thước: Cao từ 3,7 - 4,5cm, ĐKM từ 13,5 -15,5cm, ĐKĐ từ 8,5 - 8,6cm (xem
PL.21:3a,3b).
Đĩa loại X: Đĩa kích thước nhỏ, ve lòng, miệng bẻ loe ngang; chân đế đứng.
Xương gốm mỏng, khá mịn, đanh chắc. Men ngọc phủ khá dày và có nhiều sắc độ
khác nhau: xanh ngọc xám, xanh ngọc sắc vàng và sống men. Mép khắc cánh sen,
thành thấp, trong in lõm cánh cúc. Loại này tìm thấy 9 hiện vật, kích thước: cao từ
2,8 - 3,7cm, ĐKM từ 12,0 - 12,5cm, ĐKĐ từ 5,7 - 6,0cm (xem PL.22:1a,1b).
45
Đĩa loại XI: Đĩa kích thước nhỏ, thành thấp, chân đế rất cao (2,5cm), thành
ngoài chân đế có tô dải màu nâu, đáy tô nâu có chữ Hán. Men ngọc phủ không đều,
có hiện tượng co men. Miệng khắc cánh sen, Loại này chỉ tìm thấy 01 hiện vật,
ĐKM 13,5 cm, cao 5,0cm, ĐKĐ là 8,5 cm (xem PL.22:2a,2b).
Đĩa loại XII: Đĩa kích thước lớn, miệng bẻ ngang tạo gờ, lòng rộng, chân đế
thon, mép vê tròn hoặc cắt vát. Xương gốm khá dày, đanh, chắc. Men ngọc phủ dày,
màu ngọc ngả vàng, bóng, mịn. Loại này được tìm thấy 16 hiện vật, kích thước: Cao
từ 7,5 - 8,6cm, ĐKM 32,0 – 35,0cm, ĐKĐ 17,5 - 19,0cm (xem PL.22:3a,3b).
Đĩa loại XIII: Đĩa kích thước nhỏ, dáng hình phễu, miệng loe; chân đế thon,
khá cao; đáy tô nâu hoặc để mộc. Xương gốm dày, đanh chắc. Men ngọc có nhiều
màu sắc khác nhau: xanh lá sắc vàng, xanh xám, sống men. Loại này tìm thấy 76
hiện vật, kích thước: Cao từ 2,5 - 3,2cm, ĐKM từ 12,5 - 13,3cm, ĐKĐ từ 7,0 -
7,7cm (xem PL.23:1a,1b).
Đĩa loại XIV: Đĩa kích thước nhỏ ve lòng, miệng bẻ ngang; thân cong; chân
đế thon, khá cao, mép vê gần tròn; đáy tô nâu kín. Men ngọc màu trắng đục, phủ
dày, kín cả trong và ngoài. Thành mép miệng khắc chìm 2 đường chỉ, thành trong in
lõm cánh cúc. Loại này chỉ tìm thấy 01 hiện vật, kích thước: Cao 3,5cm, ĐKM
12,4cm, ĐKĐ 6,2cm (xem PL.23:2a,2b).
Đĩa loại XV: Đĩa nhỏ ve lòng, miệng loe rộng, mép vê tròn, thành thấp, chân
đế thon, mép cắt vát trong, không phủ men, đáy để mộc. Xương gốm khá dày hơi
xốp, men ngọc phủ dày có nhiều rạn kính nhỏ. Loại này tìm thấy 2 hiện vật, kích
thước: Cao là 2,4cm, ĐKM: 12,5cm, ĐKĐ: 5,8cm (xem PL.23:3a,3b).
Đĩa loại XVI: Đĩa to, miệng hơi loe, lòng rộng; chân đế thon; đáy tô nâu.
Xương gốm dày, đanh chắc, men ngọc phủ kín, khá đều, có các màu sắc khác nhau
(màu ngọc đậm, ngọc màu xanh lá mạ, màu xanh ngọc xám, sống men). Loại này
tìm thấy 53 hiện vật, kích thước: Cao từ 4,5 - 4,7cm, ĐKM từ 15,0 - 16,8cm, ĐKĐ
từ 8,7 - 10,0cm (xem PL.23:4a,4b).
(3) Âu: Thuộc nhóm đồ đựng, tìm thấy 18 hiện vật, dựa vào hình dáng chia
thành 2 loại.
46
Âu loại I: Loại này kích thước lớn, dáng hình trụ, miệng loe, mép cạo men;
lòng sâu, rộng, ve lòng; chân đế thẳng, cao, mép vê gần tròn có phủ men; đáy tô
nâu. Xương gốm khá dày, mịn, đanh chắc. Men ngọc phủ dày bên ngoài, trong lòng
mỏng hơn, màu ngọc xám. Bên ngoài phía gần miệng và sát chân đế đắp nổi các
đường chỉ giữa các đường chỉ đắp nổi bông cúc quanh thân (khoảng 6 - 8 bông),
giữa thân khắc chìm hoa văn hình khánh (xem PL.24:1a,1b).
Âu loại II: Loại này kích thước nhỏ hơn loại I, thân cong hình cầu; chân đế
thấp, hơi choãi. Xương gốm trung bình, màu trắng đục. Men màu xanh ngọc nhạt,
phủ mỏng trong và ngoài. Thân ngoài khắc chìm hai đường chỉ sát chân đế, đáy tô
nâu (xem PL.24:2a,2b).
(4) Tước: Tước là loại đồ dùng chủ yếu được sử dụng trong tiệc rượu. Loại
này tìm thấy 56 hiện vật. Căn cứ vào hình dáng, kỹ thuật chia thành 3 loại.
Tước loại I: Chỉ tìm thấy 1 hiện vật (cao còn lại 3,8cm, ĐKĐ: 4,2cm), chân
đế thẳng đặc, đáy khoét lõm nông tạo chân đế, mép cắt gọt sơ sài. Xương gốm dày,
màu trắng đục, khá mịn, đanh chắc. Men ngọc phủ mỏng có màu xanh đá, nhẵn
(xem PL.26:1a,1b).
Tước loại II: Tước miệng thẳng, mép vuốt tròn, lòng khoét lõm tròn nhỏ,
thân cong tròn đều; phần chân đế khá cao, bên ngoài tạo tiện (tạo từng khấc), đáy
khoét lõm tạo bằng, mặt cắt hình thang. Xương gốm khá dày, màu trắng đục, khá
mịn, đanh chắc. Men ngọc phủ dày màu xanh đậm. Loại này tìm thấy 9 hiện vật,
kích thước: ĐKM từ 12,5 – 13,5cm, cao từ 8,0 – 10cm, ĐKĐ từ 4,2 – 4,5cm (xem
PL.26:2a,2b).
Tước loại III: Tước có miệng loe, mép miệng vuốt nhọn hoặc vê tròn; lòng
rộng, có khoét lõm vòng tròn nhỏ hoặc không; thân cong tròn đều; chân đế cao hoặc
thấp, chân tiện, mặt cắt chân đế hình thang hoặc hình chóp. Loại này tìm thấy nhiều
nhất, 46 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 12,7 – 13,7cm, cao từ 9,7 – 11,6cm, ĐKĐ từ
4,4 – 5,5cm (xem PL.26:3a,3b).
(5) Liễn: Liễn thường được được sử dụng làm đồ chứa đựng trong đời sống
sinh hoạt thường ngày. Liễn tìm thấy 426 hiện vật. Qua nghiên cứu so sánh trên các
47
tiêu chí: hình dáng, kỹ thuật tạo chân đế và hoa văn, có thể liễn ở Chu Đậu được
sản xuất vào giai đoạn cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16. Căn cứ vào hình dáng và kích
thước chia thành 5 loại:
Liễn loại I: Cổ đứng và ngắn, miệng thẳng, vai phình rộng thon dần xuống
đáy. Xương gốm mỏng, đanh, chắc, mịn. Men ngọc phủ mỏng bên ngoài, trong lòng
phủ men trắng. Bên ngoài thân bổ ô khắc chìm các đường thẳng chạy dọc thân chia
thành các múi nhỏ, khoảng cách giữa các múi khá đều nhau. Loại này sản xuất số
lượng khá lớn, tìm thấy 307 hiện vật, kích thước: Cao từ 11,0 - 11,5cm, ĐKM từ
11,5 – 12,5cm, ĐKĐ từ 9,0 – 9,5cm (xem PL.27:1a,1b).
Liễn loại II: Liễn to, cổ đứng, miệng thẳng tạo tròn, vai cong tròn thu dần
xuống đáy, đáy bằng. Men ngọc bị sống men có màu trắng đục, có những chỗ gần
như bong hết men chỉ còn lại phôi gốm. Bên ngoài khắc nổi đường vòng xung
quanh và khắc chìm văn sóng nước và dây lá. Loại này tìm thấy 27 hiện vật, kích
thước: ĐKĐ từ 15,0 – 16,8cm, cao 10,4cm. (xem PL.27:3a,3b).
Liễn loại III: Liễn nhỏ, cổ đứng, miệng thẳng, mép tạo tròn, vai thon, đáy
khoét lõm tạo chân đế trong. Xương gốm mỏng, khá mịn, đanh chắc. Men ngọc phủ
bên ngoài, men trắng phủ trong, mỏng, mịn. Thân ngoài khắc lõm đường thẳng song
song tạo múi. Loại này tìm thấy 16 hiện vật, kích thước: Cao từ 8,0-13,0cm, ĐKM
từ 8,7 – 9,3cm, ĐKĐ từ 6,1-8,9cm (xem PL.27:2a,2b).
Liễn loại IV: Liễn nhỏ, miệng thẳng, thân cong hình trứng, bên ngoài khắc
lõm các đường chỉ chìm tạo múi. Loại này tìm thấy 27 hiện vật, kích thước: cao 7,8
– 11,8cm; ĐKM 8,0 – 8,5cm, ĐKĐ 5,5 – 6,0cm (xem PL.27:5a,5b).
Liễn loại V: Miệng hơi loe, mép miệng cắt vát trong, bên ngoài vê gần tròn,
không phủ men, cổ ngắn, thân phình, đáy khoét lõm tạo chân đế trong. Xương gốm
khá dày, đanh chắc. Men ngọc sắc vàng, phủ khá dày, có nhiều rạn kính nhỏ. Loại
này tìm thấy 49 hiện vật, kích thước: Cao từ 11,0 – 11,5cm, ĐKM từ 11,5 – 12,6cm,
ĐKĐ từ 9,0 – 10,0cm (xem PL.27:4a,4b).
(6) Nắp đậy: Liễn dùng để đậy trên âu hay liễn. Loại này tìm thấy 178 hiện
vật. Dựa vào hình dáng, mép miệng chia thành 6 loại sau:
48
Nắp loại I: Nắp thân cong tròn có núm, vành miệng ngoài khắc cánh sen,
mép cong vểnh lên, mép trong thẳng, mảnh. Xương gốm dày trung bình màu trắng
đục, khá mịn, đanh chắc. Men ngọc phủ bên ngoài thân, trong lòng đề mộc. Trên
thân có khắc chìm các đường chỉ chìm chạy vòng quanh. Loại này tìm thấy 69 hiện
vật, kích thước: Cao từ 3,3 - 4,2cm, ĐKM từ 12,5 - 13,6cm (xem PL.28:1a,1b).
Nắp loại II: Có dáng gần giống nắp loại I nhưng vành ngoài miệng bẻ ngang,
thân hình tròn dẹt, núm nhỏ và được vuốt nhọn, đáy tô nâu hoặc để mộc. Xương
gốm khá mảnh, màu trắng đục, đanh chắc. Thân ngoài khắc chìm hoa văn. Loại này
tìm thấy 2 hiện vật, kích thước: Cao 3,2 – 3,7cm, ĐKM 8,7cm (xem PL.28:2a,2b).
Nắp loại III: Thân cong tròn, nổi cao, núm tròn to, trên đầu núm cắt bằng.
Bên ngoài phủ lớp men ngọc dày màu xanh xám, bên trong nắp tô nâu hoặc để mộc.
Loại này tìm thấy 5 hiện vật, kích thước: cao 3,7 – 5,5cm, ĐKM 12.3 - 15,6cm
(xem PL.28:3a,3b).
Nắp loại IV: Nắp lớp, miệng nắp vuốt cong đều, giữa có gắn núm, mặt trên
trang trí hai vòng hoa văn, vòng trên khắc cánh cúc, vòng dưới khắc khóm cỏ, bên
trong nắp tô nâu. Xương gốm khá dày, đanh, chắc, mịn. Loại này tìm thấy 7 hiện
vật, kích thước: Cao 5,5cm, ĐKM 19,6cm (xem PL.29:1a,1b).
Nắp loại V: Nắp nhỏ, miệng trơn, vành miệng ngoài cong vểnh, mép miệng
vê tròn hoặc vuốt nhọn, núm vuốt nhọn, trong lòng nắp tô nâu hoặc để mộc. Bên
ngoài nắp khắc đường chỉ chìm hoặc không. Loại này tìm thấy 86 hiện vật, kích
thước: Cao từ 2,3 – 4,5cm, ĐKM từ 8,0-13,0cm (xem PL.29:2a,2b).
Nắp loại VI: Nắp to, thân cong tròn, mép miệng ngoài vểnh cong, mép miệng
trong vê tròn, khum, lòng trong tô nâu. Xương gốm khá dày, đanh, chắc, mịn. Men
ngọc màu xanh nước biển, xanh đậm. Ngoài thân khắc chìm 2 vòng tròn hoa văn:
Vòng trong vẽ cánh cúc, vòng ngoài khắc chìm khóm cỏ. Loại này tìm thấy 9 hiện
vật, kích thước: Cao 5,4cm, ĐKM 17,5 – 35,2cm (xem PL.29:3a,3b).
(7) Lư hương: Được dùng trong hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng (thờ cúng).
Loại này tìm thấy 321 hiện vật. Dựa vào hình dáng, cấu tạo miệng, chân đế, lư
hương được chia thành 3 loại:
49
Lư hương loại I: Kích thước lớn, dáng hình cầu, miệng khum, lòng rộng, ve
lòng, đáy bằng, có 3 chân kê hình mặt thú. Xương gốm màu trắng đục khá dày, hơi
xốp. Men ngọc sắc vàng, phủ mỏng, bị bong tróc một phần. Bên ngoài tạo nổi hoa
văn hình bát quái. Loại này tìm thấy 03 hiện vật, kích thước: Cao 10,5cm, ĐKĐ 25
cm, ĐKĐ 9,3cm (xem PL.30:1a,1b).
Lư hương loại II: Kích thước nhỏ, miệng bẻ loe tạo gờ, cổ thắt, thân hình
cầu, đáy bằng, có 3 chân kê hình mặt thú hoặc chân kê không trang trí mặt thú. Bên
ngoài khắc lõm tạo múi quanh thân, xương gốm khá đanh chắc, men ngọc phủ dày
sắc vàng. Sát đáy khắc lõm hai đường chỉ song song quanh thân. Loại này tìm thấy
199 hiện vật, kích thước: Cao 6,8 – 8,3 cm, ĐKM: 7,5 – 15cm, ĐKĐ: 6,0 – 7,9cm
(xem PL.30:2a,2b).
Lư hương loại III: Loại này kích thước nhỏ, về cơ bản, hình dáng giống lư
hương loại I, II nhưng ba chân kê chỉ có tác dụng trang trí, kích thước ngắn, nhỏ
hơn; điểm khác biệt nhất là có chân đế giống như chân đế của loại hình bát và đĩa.
Loại này tìm thấy 119 hiện vật, kích thước: Cao từ 5,2 – 7,0cm, ĐKM 8,2 – 11,8cm,
ĐKĐ 4,5 – 5,4cm (xem PL.30:3a,3b).
Trước đây, các nhà nghiên cứu cho rằng lư hương chỉ được sản xuất vào thế
kỷ 16 nhưng kết quả khai quật, nghiên cứu, chỉnh lý lư hương gốm men ngọc khai
quật năm 2014 ở Chu Đậu cho thấy, vào thế kỷ 15, loại hình này đã được sản xuất
rất nhiều. Điều này chứng tỏ đời sống tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của cư dân
đương thời rất sôi nổi, sản phẩm lư hương gốm men ngọc của Chu Đậu được sản
xuất đa dạng nhằm phục vụ nhu cầu của người dân. Việc phát hiện, nghiên cứu các
loại hình lư hương gốm men ngọc ở Chu Đậu thế kỷ 15 có ý nghĩa khoa học không
nhỏ, cung cấp tư liệu để nghiên cứu về đời sống tín ngưỡng tôn giáo, tâm linh của
người dân Đại Việt thế kỷ 15 – 16.
(8) Lọ: Lọ tìm thấy 2 hiện vật, miệng loe, cổ cao hình trụ, trên cổ có gắn 2
quai dài đối xứng nhau (đã bị vỡ), thân hình cầu, chân đế cao rộng, chân tiện, phần
thân giáp chân đế thắt eo, thành trong chân đế tạo 3 gờ giật cấp, loe mạnh. Thành
50
ngoài chân đế tô nâu, đáy để mộc. Bên ngoài tạo lõm kiểu cánh cúc đơn giống trên
thân lư hương và liễn men ngọc đã mô tả ở trên (xem PL.25:3a,3b).
3.1.1.2. Gốm men trắng
Gốm men trắng tìm thấy 684 hiện vật, loại hình rất phong phú và đa dạng,
gồm: bát, đĩa, chén, liễn, nắp, đĩa đèn dầu, lọ nhỏ, bình hoa, bình rượu, bình vôi,
ống nhổ, chậu. Về niên đại, những loại hình của dòng gốm men trắng đa số được
sản xuất vào cuối thế kỷ 15 và kéo dài sang thế kỷ 16 nhưng số lượng hiện vật tìm
thấy không nhiều.
(1) Bát: Tìm thấy 207 hiện vật, dựa vào hình dáng và kỹ thuật tạo chân đế,
chia thành 2 loại.
Bát loại I: Bát kích thước lớn, miệng loe mép miệng vuốt nhọn, thành cao,
lòng sâu, ve lòng; chân đế cao, thẳng, mép chân đế vê gần tròn hoặc cắt vát, không
phủ men, đáy để mộc. Loại này tìm thấy 15 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 14,1 -
14,4cm, cao từ 8,6 – 9,3cm và ĐKĐ từ 6,7- 7,0cm (xem PL.31:1a,1b).
Bát loại II: Loại này có miệng loe, mép miệng vuốt nhọn, thành thấp, ve
lòng; chân đế thấp, choãi hoặc thẳng, mép cắt vát hai bên tạo diện tiếp xúc nhỏ hoặc
vê tròn; đáy để mộc hoặc tô nâu. Loại này tìm thấy 192 hiện vật, kích thước: ĐKM
từ 13,5 -13,8cm, cao từ 5,8 – 6,3cm và ĐKĐ từ 5,5 – 5,7cm (xem PL.31:2a,2b).
(2) Đĩa: Loại này tìm thấy 26 hiện vật. Dựa vào hình dáng, cấu tạo miệng và
kỹ thuật tạo chân đế chia thành 5 loại:
Đĩa loại I: Đĩa kích thước lớn, miệng bẻ ngang, mép khoét lõm tạo cánh sen,
lòng rộng, ve lòng; chân đế choãi. Xương gốm màu trắng đục, khá mịn, đanh chắc.
Loại này tìm thấy 4 hiện vật có kích thước: ĐKM từ 12,4 – 15,6cm, cao từ 3,6 –
4,4cm và ĐKĐ từ 6,0 – 8,5cm (xem PL.33:1a,1b).
Đĩa loại II: Đĩa kích thước lớn, miệng bẻ ngang, mép vê tròn, thành trong
mép miệng bẻ ngả tạo gờ, ve lòng, chân đế thẳng, mép cắt vát hai bên tạo diện tiếp
xúc nhỏ, đáy để mộc. Loại này tìm thấy 02 hiện vật, kích thước: ĐKM 16,3cm, cao
4,3cm và ĐKĐ 6,7cm (xem PL.33:2a,2b).
51
Đĩa loại III: Đĩa kích thước lớn, lòng rộng, thành rất thấp, thân tạo gần phẳng
so với lòng đĩa, chân đế cao, thẳng, đáy tô nâu. Xương gốm khá dày, màu trắng đục,
khá mịn, đanh chắc. Men màu trắng phủ dày, đều, bóng. Thành trong đĩa in khuôn
văn sóng nước. Loại này chỉ tìm thấy 1 hiện vật, kích thước: ĐKM 17,3cm, cao
3,5cm và ĐKĐ 8,4cm (xem PL.33:3a,3b).
Đĩa loại IV: Đĩa kích thước nhỏ, miệng loe, mép miệng vuốt nhọn hoặc vê
gần tròn, thân vát, giật cấp; ve lòng; chân đế thẳng, đáy để mộc. Loại này có 6 hiện
vật, kích thước: ĐKM từ 12,3 – 12,5cm, cao từ 4,0 – 4,2cm và ĐKĐ từ 5,0 – 5,2cm
(xem PL.33:4a,4b).
Đĩa loại V: Đĩa kích thước nhỏ, miệng loe rộng, mép vê tròn, ve lòng, chân
đế thon, thành trong thẳng, mép chân đế cát vát hoặc vê tròn, mép ngoài chân đế
cạo men, đáy để mộc. Loại này tìm thấy 14 hiện vật, kích thước : ĐKM 12,3cm, cao
từ 3,8 – 4,0cm và ĐKĐ từ 5,0 – 5,2cm (xem PL.33:5a,5b).
(3) Đĩa đèn dầu: Đĩa đèn dầu hay còn gọi là đĩa dầu lạc dùng để thắp sáng.
Xương gốm ở đáy rất dày, đáy liền thân và không có chân đế. Loại này tìm thấy 02
hiện vật sống men. Dựa vào hình dáng, và kỹ thuật tạo đáy chia thành 2 loại:
Đĩa đèn dầu loại I: Đĩa nhỏ, miệng thẳng, hình lòng chảo, thân cắt gọt sơ sài,
thân sát đáy không phủ men, đáy liền thân. Kích thước: ĐKM là 12,4cm, cao là
2,8cm và ĐKĐ là 8,0cm (xem PL.32:3a,3b).
Đĩa dầu lạc loại II: Đĩa nhỏ, miệng thẳng, lòng nông, đáy khoét lõm tạo chân
đế trong, mép cắt vát trong, kích thước nhỏ hơn loai I: ĐKM là 10,5cm, cao là
2,2cm và ĐKĐ là 5,6cm (xem PL.32:4a,4b).
(4) Chén: Tìm thấy 29 hiện vật, dựa vào hình dáng và kỹ thuật tạo chân đế
chia thành 5 loại:
Chén loại I: Chén hình trụ, miệng loe, mép cạo men, sâu lòng, lòng hẹp;
chân đế cao, thon, mép cắt vát hoặc vê gần tròn, cạo men. Thân ngoài khắc chìm
đường chỉ. Loại này tìm thấy 19 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 8,0 - 9,1cm, cao từ
6,1 - 6,3cm và ĐKĐ từ 4,6 - 5,0cm (xem PL.34:1a,1b).
52
Chén loại II: Hình dáng giống với chén loại I nhưng lòng rộng, thân cong
tròn, chân đế cao hơn, đáy lồi, mép chân đế còn để lại vết dính của dính của sản
phẩm khác. Loại này tìm thấy 4 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 9,5 – 10,1cm, cao từ
5,2 – 5,4cm và ĐKĐ từ 4,6 – 4,7cm (xem PL.34:2a,2b).
Chén loại III: Miệng loe rộng, thành thấp, chân đế loe, thành trong chân đế
cắt vát, đáy để mộc, men phủ khá dày. Loại này tìm thấy 01 hiện vật, ĐKM là
9,7cm, cao là 4,5cm và ĐKĐ là 5,4cm (xem PL.34:3a,3b).
Chén loại IV: Miệng loe, mép vuốt nhọn, mép không cạo men, thành thấp,
lòng rộng và lồi, thân cong tròn; chân đế thẳng, mép vê tròn, đáy để mộc. Loại này
tìm thấy 03 hiện vật, kích thước: ĐKM là 9,2 cm, cao là 4,9cm và ĐKĐ từ 5,0 –
5,8cm (xem PL.34:4a,4b).
Chén loại V: Miệng loe, mép vuốt gần nhọn, lòng hẹp, thân vát xiên, chân đế
thấp, mép vê gần tròn. Xương gốm mỏng, men phủ không đều, lòng có vết xếp
nung. Loại này tìm thấy 02 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 8,2 – 8,4cm, cao từ 6,0 –
6,2cm và ĐKĐ từ 5,2 – 5,4cm (xem PL.34:5a,5b).
(5) Liễn: Tìm thấy số lượng khá lớn (303 hiện vật). Dựa vào hình dáng và kỹ
thuật chia thành 5 loại.
Liễn loại I: Cổ ngắn, miệng loe vát, mép vê gần tròn cạo men hoặc phủ men,
thân phình thu dần về đáy, mép chân đế cắt vát, đáy để mộc. Độ dày xương gốm
trung bình. Men phủ không đều, bên trong phủ lớp men mỏng. Thân ngoài khắc
chìm các đường chỉ chạy quanh thân. Loại này tìm thấy 138 hiện vật, kích thước:
ĐKM từ 10,5-11,0cm, cao từ 12,2 - 13,5cm và ĐKĐ từ 8,7-9,4cm (xem
PL.35:1a,1b)
Liễn loại II: Cổ ngắn và ngả mạnh, miệng loe, mép vê tròn, lòng hẹp, thân nở
rộng và thu dần về đáy, đáy bằng. Loại này tìm thấy 24 hiện vật, kích thước: ĐKM
từ 7,5 - 8,0cm, cao từ 8,5 – 9,5cm và ĐKĐ từ 5,4 - 6,0cm (xem PL.35:2a,2b)
Liễn loại III: Loại này kích thước nhỏ, cổ đứng, thân nở rộng, đáy lồi.
Xương gốm màu trắng đục, khá mịn, đanh chắc. Men phủ khá dày, có nhiều vết
đọng men, thân sát đáy và đáy không phủ men. Loại này tìm thấy 30 hiện vật, kích
53
thước: ĐKM 6,7 – 6,9cm, cao từ 8,5 - 9,3cm và ĐKĐ từ 6,2 – 6,5cm (xem
PL.35:3a,3b)
Liễn loại IV: Liễn kích thước nhỏ, dáng thon, miệng thẳng hoặc hơi loe, mép
miệng vê gần tròn hoặc vuốt nhọn cổ ngắn thân phình nhẹ, đáy khoét lõm tạo chân
đế trong, đáy bằng. Loại này tìm thấy 111 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 5,3 -
6,5cm, cao từ 9,0 - 10,5cm và ĐKĐ từ 4,8 - 5,7cm (xem PL.35:4a,4b)
Liễn loại V: Liễn loại này chỉ có 01 mảnh đáy thuộc loại liễn cỡ lớn, lòng
rộng (ĐKĐ 16,5cm), đáy khoét lõm tạo chân đế trong, mép chân đế cắt vát. Xương
gốm khá dày, đanh chắc (xem PL.35:5a,5b)
(6) Nắp đậy: Tìm thấy 2 hiện vật. Dựa vào hình dáng, kích thước khác nhau
chia thành 2 loại sau:
Nắp loại I: Nắp lớn, thân cong tròn có núm khá to tròn, miệng ngoài vểnh
cao, toàn thân khắc chìm hoa văn. Xương gốm khá mịn, đanh chắc, men trắng phủ
đều, lòng tô nâu. Loại này chỉ có 1 hiện vật, kích thước: ĐKM 21,5cm, cao 6,5cm
(xem PL.36:1a,1b)
Nắp loại II: Nắp nhỏ, thân cong có núm, miệng ngoài tạo bằng, miệng trong
hơi thu vào trong, thân có dấu bàn xoay gốm. Loại này chỉ có 01 hiện vật, kích
thước: ĐKM 14,3cm, cao 4,0cm (xem PL.36:2a,2b).
(7) Bình hoa: Dáng cao, cổ loe, thân phình tròn, chân tiện, thành ngoài chân
đế loe rộng, thành ngoài tô nâu, thành trong chân đế cắt vát, đáy bằng. Xương gốm
khá dày, đanh chắc, mịn, men phủ đều (xem PL.37:3,4).
(8) Lọ nhỏ: Hình dáng thon cao, miệng loe, cổ thắt nhỏ và tạo nổi bông hoa
6 cánh, thân phình hình cầu, chân tiện, đáy để mộc. Thân ngoài khắc chìm các
đường thẳng chạy song song chia thành từng múi nhỏ, thành ngoài chân đế tô nâu
hoặc để mộc. Loại này tìm thấy 02 hiện vật không đủ dáng, chiều cao còn lại:
10,5cm, ĐKĐ từ 5,0-8,0 cm (xem PL.38:1-2).
(9) Bình rượu: Dáng cao gần giống bình tỳ bà, thân được gắn vòi và quai vê
dẹt hình con trạch. Chân đế loe, ngắn, đáy tô nâu hoặc để mộc. Loại hình này tìm
thấy 64 hiện vật, dựa vào hình dáng, được chia thành 2 loại.
54
Bình rượu loại I: Cổ loe hình phễu nhưng đến mép miệng lại vê gấp tạo gờ.
Đáy rộng, mép chân đế cắt vát trong, đáy để mộc, bên ngoài phủ men màu trắng
đục, xương gốm khá dày. Loại này tìm thấy 16 hiện vật nhưng chỉ có 1 hiện vật đủ
dáng, kích thước: ĐKM 6,5cm, cao 19,0cm và ĐKĐ 10,0cm (xem PL.39:1a-1b).
Bình rượu loại II: Cố cao, thân tròn hình cầu, hình dáng giống bình tỳ bà, tuy
nhiên lại gắn vòi, thân cong tròn. Loại này tìm thấy 48 hiện vật, kích thước: Cao
còn lại 19,7cm, ĐKĐ 8,8cm (xem PL.39:2a-2b).
(11) Bình vôi: Có dáng hình cầu, trên có quai hình chữ S nằm ngang, xung
quanh phía dưới tạo hình tua cau, trên vai có khoét một lỗ tròn nhỏ có kích thước từ
3,2 – 3,5cm gọi là lỗ lấy vôi. Chân tiện, thành ngoài chân đế tô nâu, đáy tô nâu hình
vành khăn hoặc để mộc. Kích thước: Cao từ 16,5 – 17,5cm, ĐKĐ từ 10,0 – 10,7cm
(xem PL.40:1-2).
(12) Ống nhổ: Miệng loe hình phễu, mép miệng vuốt nhọn, đường kính khá
rộng, cổ hình trụ, thân phình và thu dần về đáy, chân đế tạo gờ, mép ngoài chân đế
tô nâu. Trên vai ống nhổ tạo nổi 6 bông cúc, mỗi bông 6 cánh. Loại này chỉ tìm thấy
01 hiện vật, kích thước: Cao 12,0cm, ĐKM 11,0cm, ĐKĐ 7,0cm (xem PL.41).
(13) Chậu: Tìm thấy 29 hiện vật. Dựa vào hình dáng và kỹ thuật chia thành
4 loại sau:
Chậu loại I: Miệng bẻ loe, mép miệng vê tròn, tạo gờ, mép cạo men hoặc
phủ men, đáy khoét lõm tạo chân đế trong, đáy tô nâu hoặc để mộc. Xương gốm
khá dày, màu trắng ngả vàng, xốp. Bên ngoài phủ lớp men màu trắng đục, men
sống, bề mặt sần sùi. Ngoài vai đắp nổi bông cúc 8 cánh và các đường chỉ chìm
xung quanh. Loại này chiếm số lượng nhiều nhất 23 hiện vật có kích thước: ĐKM
từ 25,5 – 43,0cm, cao 12,6cm và ĐKĐ 16,5-26,5cm (xem PL.42).
Chậu loại II: Lòng rộng và phẳng, ve lòng, chân đế hơi thon, mép chân đế vê
gần tròn, cạo men, đáy tô nâu. Loại này tìm thấy 04 hiện vật, kích thước: ĐKM
21,5cm, cao 10,0cm và ĐKĐ từ 11,7 – 16,8cm (xem PL.43:1a,1b).
Chậu loại III: Loại này chỉ tím thấy 1 hiện vật, dáng nhỏ, miệng thẳng, mép
cạo men, cắt vát trong tạo nhọn; thành miệng có đầu rót (giống miệng rót của phễu),
55
đáy bằng. Xương gốm dày, màu trắng xám. Men trắng ngả xanh có nhiều rạn kính
nhỏ trên men. (xem PL.43:2a,2b).
Chậu loại IV: Loại này tìm được 01 mảnh miệng. Miệng bẻ cụp vào trong
giống hình móc câu, thân cong khum. Xương mỏng, màu trắng ngả vàng, khá mịn,
đanh chắc. Men trắng hơi ngả vàng, có nhiều vết rạn nhỏ (xem PL.43:3a,3b).
3.1.1.3. Gốm men nâu
Gốm men nâu tìm thấy số lượng ít nhất, có 7 hiện vật, gồm 6 loại hình. Điều
này cho thấy gốm men nâu không phải là sản phẩm chủ đạo của lò gốm này. Tuy
nhiên, trong các cuộc khai quật trước gốm men nâu được tìm thấy nhiều loại hình
và chất lượng khá tốt. Những đặc điểm về hình dáng, kỹ thuật, hoa văn gốm men
nâu và địa tầng tìm thấy cho rằng chúng được sản xuất vào thế kỷ 15, gồm các loại
hình chính như: Bát, đĩa, chén, tước, bình, liễn, chậu.
(1) Bát: Tìm thấy 01 mảnh đáy, bát ngoài phủ men nâu, trong men trắng vẽ
chỉ lam, ve lòng, chân đế thẳng, đáy tô nâu. Kế thừa kết quả của những cuộc khai
quật trước có thể khái quát, nếu lấy men nâu phủ ngoài bát làm tiêu chí chính thì
trong lòng bát có hai loại phủ men: Loại thứ nhất: Bên ngoài men nâu, trong men
trắng vẽ lam, miệng loe, mép miệng vê gần tròn, lòng sâu và rộng, chân đế tương
đối rộng và cao, mép đế cắt vát hai bên tạo diện tiếp xúc nhỏ. Lòng bát vẽ cành hoa
nằm trong cánh sen hoặc chữ phúc. Loại thứ hai men nâu phủ toàn thân, hình dáng
tương tự như loại trên nhưng thành bát trang trí in khuôn hoa văn. Ngoài bát khắc
tạo văn giống vỏ sò (xem PL.44; PL.45:1a,1b).
(2) Đĩa: Miệng bẻ loe hoặc miệng thẳng, thân vát xiên, chân đế khá dày,
chân đế nhỏ và thấp. Men nâu phủ trong và ngoài hoặc có thể ngoài men nâu, trong
men trắng vẽ chỉ lam. Ngoài đĩa thường khắc văn vỏ sò hoặc để trơn.
(3) Chén: Loại này có kích thước nhỏ hoặc trung bình, dáng hình trụ, miệng
hơi loe, mép miệng có thể cạo men hoặc không; chân đế thấp, được cắt gọt hoặc cạo
men, đáy tô nâu hoặc không. Xương gốm có độ dày trung bình, màu trắng đục, khá
mịn, đanh chắc. Bên ngoài thân khắc vạch tạo ô vuông nhỏ giống như vỏ sò nên gọi
56
là khắc văn vỏ sò. Đây là một đặc trưng nổi bật của gốm men nâu Chu Đậu (xem
PL.45:2a,2b).
(4) Tước: Hình dáng khá giống tước men ngọc, cũng chia làm hai phần:
phần thân và phần chân đế. Phần thân có dáng giống bát, miệng loe hoặc miệng
thẳng, phần chân đế có cao bằng ½ tước, được tạo khấc bằng tiện tròn hay còn gọi
là chân tiện. Hoa văn trang trí chủ yếu bằng việc khắc tạo nổi vỏ sò.
(5) Liễn: Liễn có miệng hơi loe, thân phình và thu dần xuống đáy, chân đế
trong, thành trong chân đế vát ngoài, đáy để mộc. Xương gốm rất mỏng, màu trắng
đục, hơi xốp. Men nâu đã bị bong gần hết chỉ còn lại men lót màu xanh lá mạ. Có
01 hiện vật còn đủ dáng, kích thước: cao 8,5cm, ĐKM 7,0cm, ĐKĐ 6,5cm (xem
PL.45:3a,3b).
(6) Bình: Loại hình này chỉ tìm thấy 01 mảnh thân, có thế thấy đây là bình
có kích thước lớn. Xương gốm khá dày, đanh chắc. Bên ngoài khắc chìm văn sóng
nước hoặc có thể gọi là văn hình sin (chữ S nằm ngang) chạy quanh thân. (xem
PL.45:4a,4b).
(7) Chậu: Hình dáng giống với chậu men trắng. Men nâu phủ ngoài, men
trắng phủ trong. Xương gốm dày trung bình, khá mịn, đanh chắc. Bên ngoài thân
gần miệng thường đắp nổi bông cúc nhỏ, bên ngoài tạo đường chỉ (xem
PL.45:5a,5b).
3.1.1.4. Gốm hoa lam
Đây là dòng gốm đặc trưng của Chu Đậu, tên tuổi được khẳng định trên thị
trường trong nước và thế giới. Loại hình đa dạng, chất lượng tốt, hoa văn tinh xảo,
sắc nét và mang phong cách rất riêng của Chu Đậu. Cuộc khai quật năm 2014 tìm
thấy 2010 hiện vật, gồm các loại hình: Bát, đĩa, chén, tước, âu, nắp, bình tỳ bà.
Trong đó bát, đĩa chiếm số lượng chủ yếu.
(1) Bát: Có số lượng lớn nhất trong các loại hình gốm hoa lam 1757/2010
hiện vật. Dựa vào hình dáng, kỹ thuật tạo mép miệng, chân đế và hoa văn chia làm
12 loại, trong đó loại I, II là đặc trưng tiêu biểu cho gốm Chu Đậu thế kỷ 15, loại
57
III, IV là đặc trưng giai đoạn giao thời (cuối thế kỷ 15- đầu thế kỷ 16), còn các loại
từ loại V đến loại XII là đặc trưng tiêu biểu của bát thế kỷ 16.
Bát loại I: Đây là loại bát miệng loe, sâu lòng, ve lòng, thành cao, chân đế rất
cao (2,3cm - 2,5cm), mép cắt vát hai bên tạo diện tiếp xúc nhỏ, đáy tô nâu. Xương
gốm khá dày, có nhiều tạp chất nên hơi xốp. Thành trong miệng vẽ văn hình giọt
nước, giữa lòng viết chữ “Phúc”. Thân ngoài bát vẽ hoa cúc dây, dưới vẽ dải băng
cánh sen. Men phủ không đều, một số hiện vật men bị nổ, đường vẽ lam bị nhòe.
Loại này tìm thấy 54 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 13,5 – 14,0cm; cao từ 7,5 -
9,5cm và ĐKĐ từ 6,7 - 7,3cm (xem PL.46:1a,1b).
Bát loại II: Chỉ tìm thấy ở hố H02 với 54 hiện vật, bát có miệng loe, ve lòng,
chân đế thẳng và cao, đáy tô nâu. Thành trong vẽ hai đường chỉ lam ở đường sát
mép miệng và gần đường ve lòng. Loại này có kích thước: ĐKM từ 12,8 – 13,4cm;
cao từ 7,0 – 7,1cm và ĐKĐ từ 6,0 – 6,3cm (xem PL.46:2a,2b).
Bát loại III: Miệng loe ngả rộng, mép vuốt nhọn, lòng rộng, ve lòng, thành
thấp, chân đế thon khá cao (từ 1,7 – 2,1cm), thành trong vát, mép chân đế cắt vát
hai bên tạo diện tiếp xúc nhỏ, đáy tô nâu. Xương gốm rất mỏng, khá mịn, đanh
chắc, bề mặt men mỏng, bóng, mịn. Diềm miệng trong vẽ chỉ lam, men nhòe, thậm
chí men chảy. Loại này tìm thấy 30 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 13,5 - 14,0cm;
cao từ 6,5 - 6,7cm và ĐKĐ từ 5,2 - 5,5cm (xem PL.46:3a,3b).
Bát loại IV: Miệng bẻ loe, ve lòng, thân cong tròn đều, chân đế loe, cao. Loại
này có số lượng nhiều nhất so với các loại bát hoa lam khác với 1013 hiện vật. Có
thể nói, đây là sản phẩm chủ yếu của lò gốm này. Kích thước: ĐKM từ 13,3 -
14,3cm; cao từ 6,0 - 6,7cm và ĐKĐ từ 5,1 - 5,6cm (xem PL.46:4a,4b).
Bát loại V: Miệng bẻ ngả, mép vuốt nhọn, ve lòng, chân đế cao thon, thành
trong thẳng, mép vê tương đối tròn, đáy tô nâu kín. Thân trang trí hoa văn cả trong
và ngoài hoặc giữa lòng bát vẽ chấm lam gần giống kiểu chữ Hán, diềm trong
miệng vẽ văn hình giọt nước, thân ngoài vẽ 2 cành hoa cúc vắt chéo nhau. Loại này
tìm thấy 191 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 14,6 - 14,9cm; cao từ 7,5 - 7,7cm và
ĐKĐ từ 5,8 – 6,0cm (xem PL.47:1a,1b).
58
Bát loại VI: Miệng loe, mép vuốt nhọn; ve lòng; thân vát; chân đế cao, thẳng,
thành trong vát; đáy để mộc. Xương gốm có độ dày trung bình, khá mịn, đanh,
chắc. Thân ngoài vẽ cây tùng và chim, trên và dưới vẽ các đường chỉ lam, men phủ
đều. Loại này tìm thấy 98 hiện vật có kích thước: ĐKM từ 12,8 – 13,0cm; cao từ
6,5 – 6,7cm và ĐKĐ từ 5,5 – 5,7cm (xem PL.47:2a,2b).
Bát loại VII: Miệng loe, ve lòng, thân cong tròn đều, chân đế loe. Giữa lòng
vẽ chấm lam giống kiểu chữ Hán, thành trong vẽ các đường chỉ lam và văn giọt
nước ở diềm miệng. Bên ngoài vẽ chim, cây tùng và núi đá. Loại này tìm thấy 114
hiện vật, có kích thước: ĐKM từ 14,5 – 14,8cm; cao từ 7,3 – 7,5cm và ĐKĐ từ 6,2
– 6,5cm (xem PL.47:3a,3b).
Bát loại VIII: Miệng loe; ve lòng, lòng rộng, thành thấp; chân đế cao trung
bình, thẳng, diện tiếp xúc chân đế nhỏ; đáy tô nâu kín. Xương gốm khá dày, đanh,
chắc, mịn. Lòng viết chữ Hán theo lối thảo (không nhận rõ), diềm miệng trong vẽ
văn hình giọt nước và 2 đường chỉ lam, bên ngoài vẽ khóm cỏ lá mềm. Loại này tìm
thấy 27 hiện vật, kích thước: ĐKM 13,0 – 13,6cm; cao từ 5,8 – 6,0cm và ĐKĐ 5,0
– 5,2cm (xem PL.47:4a,4b).
Bát loại IX: Miệng loe rộng, thân cong vát; chân đế cao trung bình, thon.
Mép cắt vát hai bên, diện tiếp xúc rộng, hơi vát trong. Giữa lòng vẽ văn chữ Hán,
mép trong miệng vẽ văn hình giọt nước, thân ngoài vẽ khóm trúc, núi đá và chim.
Xương gốm màu trắng đục, khá dày, chắc. Loại này có 37 hiện vật, kích thước:
ĐKM từ 13,0 – 13,2cm; cao từ 5,6 – 5,9cm và ĐKĐ từ 5,6 – 5,8cm (xem
PL.48:1a,1b).
Bát loại X: Miệng hơi loe, lòng rộng, thành cao, chân đế rất thấp, thon, mép
vê gần tròn, đáy tô nâu; Xương gốm khá mịn, đanh, chắc, men trắng phủ đều. Bên
ngoài bát vẽ các loại hoa văn khác nhau: cây trúc, núi đá, phong cảnh, hoa, tôm, cá.
Loại này tìm thấy 60 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 15,2 – 15,8cm; cao từ 6,5 –
7,2cm và ĐKĐ từ 5,2 – 6,2cm,(xem PL.48:2a,2b).
Bát loại XI: Miệng thẳng, lòng rộng, thành thấp, chân đế rất thấp (từ 0,6 –
1,0cm). Thân ngoài bát vẽ văn gân lá, bên trong vẽ phong cảnh, đặc biệt đề tài chủ yếu
59
là phong cảnh núi đá, tiều phu, tùng, trúc, lã vọng, chim và cành mai. Qua nghiên cứu
so sánh, theo PGS.TS. Bùi Minh Trí, chuyên gia gốm cổ Việt Nam cho rằng những đề
tài này có phong cách rất giống với hoa văn trang trí trên bát của lò Cảnh Đức Trấn
(Trung Quốc). Loại này tìm thấy 78 hiện vật, kích thước: Cao từ 6,0 – 6,3cm, ĐKM từ
13,5 – 15,0cm, ĐKĐ từ 5,0 – 6,0cm (xem PL.48:3a,3b; PL.70).
Bát loại XII: Đây là loại bát nhỏ, chỉ tìm thấy 01 hiện vật, có miệng loe, thân
cong đều, chân đế thẳng và rất thấp (cao 0,6cm). Lòng bát viết chữ Hán, mép miệng
vẽ các đường chỉ lam. Kích thước: ĐKM 10,2cm; cao 4,7cm và ĐKĐ 5,0cm (xem
PL.48:4a,4b).
(2) Đĩa: Tìm thấy 151 hiện vật, dựa vào hình dáng, kỹ thuật tạo miệng và
chân đế chia thành 8 loại. Trong đó, đĩa loại I đến loại VII là đặc trưng của gốm
Chu Đậu cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16. Còn đĩa loại VIII là đặc trưng của thế kỷ 16,
loại này có nét tương đồng với gốm Ngói thế kỷ 16 về hoa văn và hình dáng. Việc
tìm thấy chồng dính và phế thải khẳng định loại này được sản xuất ở Chu Đậu.
Đĩa loại I: Kích thước lớn, miệng loe, mép vuốt tròn; thân cong; lòng phẳng;
chân đế thon khá cao, mép cắt vát hai bên, diện tiếp xúc nhỏ; đáy tô nâu kín. Xương
gốm màu trắng đục, hơi xốp, men sống. Lòng viết chữ Hán (hiện vật vỡ nên không
nhận rõ), thành trong vẽ các đường chỉ lam. Loại này chỉ tìm thấy 01 hiện vật, kích
thước: ĐKM 18,0cm; cao 5,1cm và ĐKĐ 12,6cm (xem PL.49:1a,1b).
Đĩa loại II: Kích thước nhỏ, miệng hơi loe, mép cạo men; thành rất thấp;
chân đế thon mép cắt vát; đáy tô nâu hình vành khăn. Giữa lòng vẽ bông hoa cúc
tròn, nhiều cánh, đầu cánh nhọn (22 cánh), nhụy hoa viết chữ “Chính”. Thành trong
vẽ 3 đường chỉ lam, trong đó 2 đường chỉ sát miệng và 1 đường dưới lòng đĩa,
thành ngoài để trơn. Loại này tìm thấy 2 hiện vật, kích thước: Cao 3,1cm, ĐKM
13,2cm, ĐKĐ 8,0cm (xem PL.49:2a,2b).
Đĩa loại III: Kích thước nhỏ, miệng bẻ ngang, mép khắc cánh sen; lòng
phẳng và rộng; chân đế cao, thẳng, mép cắt vát hai bên tạo diện tiếp xúc nhỏ; đáy tô
nâu kín. Xương gốm màu trắng đục, khá dày, xốp. Men bị sống nên có màu trắng
đục. Trên vành miệng vẽ cánh sen và đường chỉ lam, giữa lòng viết chữ Hán. Loại
60
này tìm thấy 2 hiện vật, kích thước: ĐKM 12,3 cm; cao 2.5cm và ĐKĐ 9,7cm (xem
PL.49:3a,3b).
Đĩa loại IV: Là này có lòng rộng, chân đế thẳng, khá cao, mép cắt vát hai bên
tạo diện tiếp xúc nhỏ; đáy tô nâu kín. Xương gốm màu trắng đục, khá mịn, đanh,
chắc. Lòng viết chữ “Phúc”, có 01 mảnh đáy, ĐKĐ là 7,4cm (xem PL.50:1a,1b).
Đĩa loại V: Kích thước nhỏ, miệng loe bẻ ngang, mép khắc cánh sen, ve
lòng; chân đế rất cao (1,4 – 1,9cm), thẳng, mép cạo men; đáy tô nâu hình vành
khăn. Thân ngoài vẽ văn cánh cúc đầu nhọn hoặc văn sóng nước, thành trong vẽ văn
giọt nước, giữa lòng vẽ chấm lam. Loại này tìm thấy 11 hiện vật, kích thước: ĐKM
từ 12,3 – 12,5cm; cao từ 4,3 – 4,5cm và ĐKĐ từ 5,3 – 5,5cm (xem PL.50:2a,2b).
Đĩa loại VI: Kích thước nhỏ, miệng loe ngang, thành thấp, chân đế hơi choãi,
mép chân đế cắt vát hai bên tạo diện tiếp xúc nhỏ, đáy tô nâu hình vành khăn hoặc
kín. Giữa lòng viết chữ “Phúc”, diềm miệng trong vẽ văn giọt nước, thân ngoài vẽ
hoa cúc dây. Loại này tìm thấy 10 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 11,8 – 12,3cm; cao
từ 3,2 – 3,5cm và ĐKĐ từ 5,3 – 6,0cm (xem PL.50:3a,3b).
Đĩa loại VII: Kích thước nhỏ, miệng loe rộng hình phễu, mép vê tròn hoặc
vuốt nhọn, thân giật cấp; chân đế thẳng hoặc thon, mép cắt vát hoặc cắt bằng; đáy tô
nâu. Hoa văn trang trí rất đơn giản, chỉ trang trí các đường chỉ lam ở thành trong
thân. Loại này có số lượng khá lớn (95 hiện vật), kích thước: ĐKM từ 11,0 –
13,0cm; cao từ 3,1 – 4,0cm và ĐKĐ từ 4,8 – 5,5cm (xem PL.51:1a,1b).
Đĩa loại VIII: Đĩa nhỏ, miệng hơi loe, mép vê tròn, lòng rộng, chân đế thon,
rất thấp đường kính đế rộng, mép vê gần tròn, đáy tô nâu kín. Giữa lòng vẽ phong
cảnh hoặc đề tài thủy sinh. Thân ngoài vẽ hoa sen dây hoặc hoa dây cách điệu. Loại
này tìm thấy 30 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 13,2 – 14,1cm, cao từ 2,5 – 3,2cm và
ĐKĐ từ 7,0 – 8,3cm (xem PL.51:2a,2b).
(3) Chén: Tìm thấy 15 hiện vật, dựa vào hình dáng, kỹ thuật tạo chân đế
chia thành 3 loại:
Chén loại I: Miệng loe, mép vuốt gần nhọn, ve lòng, thân cong đều, chân đế
thẳng, cao (từ 2,2 – 2,5cm), mép cắt vát, đáy để mộc. Men trắng hơi ngả vàng và có
61
nhiều rạn kính nhỏ. Giữa lòng vẽ vòng tròn lam nhỏ giống kiểu lá, thành trong vẽ
chỉ lam. Loại này tìm thấy 8 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 9,5 – 9,7cm; cao từ 6,0 –
6,3cm và ĐKĐ từ 5,0 – 5,2cm (xem PL.52:1a,1b).
Chén loại II: Miệng loe rộng, lòng rộng, chân đế cao, thon. Xương gốm khá
dày, màu trắng đục. Loại này tìm thấy 03 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 9,7 –
9,8cm; cao từ 5,8 – 6,0cm và ĐKĐ từ 5,7 – 5,9cm (xem PL.52:2a,2b).
Chén loại III: Miệng hơi loe, mép cạo men, chân đế thẳng, mép chân đế cắt
vát trong, không phủ men. Loại này tìm thấy 04 hiện vật, kích thước: ĐKM từ 7,6 –
7,8cm; cao từ 5,0 – 5,3cm và ĐKĐ từ 4,3 – 4,4cm (xem PL.52:3a,3b).
(4) Âu: Thuộc nhóm đồ đựng, có lòng rất sâu, chức năng của nó gần giống
liễn. Đặc điểm chung của loại hình này: Thân hình trụ, miệng loe, thẳng hoặc khum,
thân thẳng đứng, chân đế rộng hoặc có thể đáy khoét lõm tạo chân đế trong. Xương
gốm khá dày, màu trắng đục, chắc. Men gốm thường phủ kín cả trong và ngoài. Hoa
văn trang trí thường bằng các đường chỉ lam, có một số vẽ băng cánh sen và hoa sen
dây bên ngoài. Kích thước trung bình: ĐKM từ 10,5 - 16,5cm; cao từ 7,5 - 15cm và
ĐKĐ từ 5,3 - 6,7cm (xem PL.53).
(5) Nắp: Tìm thấy 01 hiện vật thuộc loại nắp nhỏ, bị vỡ mất núm chỉ còn 1/3
mảnh miệng. Thân thấp, miệng tạo ngang, núm nhỏ và rất dẹt. Giữa thân vẽ cành
hoa cúc nhỏ, phần nhụy hoa được gắn núm. Kích thước ĐKM 9,6cm; cao 1,7cm
(xem PL.54).
(6) Tước: Loại hình này chỉ tìm thấy 01 hiện vật. Tước kích thước nhỏ, gồm
chia 2 phần: phần thân và phần chân. Phần thân giống như bát nhỏ lòng sâu, miệng
loe, thân vát; phần chân ngắn, chân tiện, vành ngoài chân đế tô nâu, diện tiếp xúc
chân đế cắt vát trong, đáy tô nâu. Thành trong vẽ 3 đường chỉ lam, trong đó có 2
đường sát mép miệng và 1 đường ở thành dưới sát lòng tước. Kích thước: ĐKM
10,0 cm; cao 7,0cm và ĐKĐ 4,0cm (xem PL.55).
(7) Bình tỳ bà: Loại bình này có hình dáng gần giống với đàn tỳ bà nên
được gọi là bình tỳ bà. Bình có miệng loe rộng hình phễu, cổ thắt nhỏ, cao; thân
phình hình trứng; chân đế thấp và hơi choãi; cổ có vết gắn (chỉ quan sát được khi
62
bình bị vỡ), thành trong thân còn để lại nhiều vết bàn xoay, để mộc. Xương gốm
khá mỏng, màu trắng đục, hơi xốp, men rạn. Diềm miệng trong vẽ văn mây hình
khánh, cổ vẽ khóm cỏ lá mềm, vai vẽ dải băng cánh sen, giữa thân vẽ văn cành
trúc và chim, phần thân sát đáy vẽ dải băng cánh sen ngược chiều so với cánh
sen trên vai bình. Dựa vào kích thước của những mảnh vỡ (kích thước miệng
9,0cm; ĐKĐ 9,8cm) có thể phỏng đoán được chiều cao tương ứng hiện vật
khoảng từ 24,0 – 26,0cm (xem PL.56).
3.1.1.6. Nhận xét chung
Thế kỷ 15, là thời kỳ phát triển đỉnh cao của gốm Chu Đậu, sản xuất nhiều
loại gốm men ngọc, men trắng, men nâu, hoa lam. Men độc sắc và men đa sắc cùng
phát triển song song nhau, đặc biệt men ngọc là dòng men phát triển rất mạnh
không kém gì men ngọc lò Thăng Long cũng như Long Tuyền (Trung Quốc). Phá
tan nhận định khi nghĩ về gốm Chu Đậu chỉ có sản xuất gốm hoa lam. Đặc điểm
chung của thế kỷ này là hiện vật thường có chân đế cao đến rất cao, được cắt gọt tạo
cẩn thân, hoa văn trang trí phức tạp, thường có môtip băng cánh sen và các loài hoa
(cúc, mẫu đơn, sen).
Thế kỷ 16, gốm Chu Đậu có sự chuyển mình đáng kể. Đó là sự biến mất của
gốm men nâu, gốm men trắng số lượng sản giảm đi rõ rệt. Gốm men ngọc và gốm
hoa lam có sự chuyển dịch hình dáng và kỹ thuật tạo chân đế khá rõ (từ chân đế cao
xuống chân đế thấp và rất thấp). Đặc biệt gốm hoa lam còn có sự thay đổi khá rõ về
trang trí hoa văn đơn giản và hầu như không có đồ án hoa văn như băng cánh sen
hay hoa cúc hay hoa sen dây như trên đồ gốm thế kỷ 15. Các đề tài hoa văn phổ biến
vẽ trên đồ gốm như phong cảnh, chim, tôm, cá, nhân vật và hoa lá cách điệu. Cũng
thời gian này ở Chu đậu cũng tìm thấy những bát, đĩa hoa văn dóng trúc hay văn kiểu
chữ Phạn. Ngoài ra còn loại bát vẽ hai cành lá kiểu lông vũ bắt chéo nhau; Từ nửa
cuối thế kỷ 16 các lò gốm Chu Đậu còn sản xuất loại bát sâu lòng vẽ cảnh “đoàn
người đi bộ” hay đơn giản chỉ vẽ cành lá cách điệu giống như hình các nốt nhạc.
3.1.2. Đặc trưng về kỹ thuật
63
3.1.2.1. Nguyên liệu
Nhờ có tiến bộ của khoa học công nghệ mà việc nghiên cứu, giải mã những
bí mật về cấu tạo xương gốm cũng như men gốm Chu Đậu đã có lời giải. Từ năm
1995 đến nay bằng các phương pháp phân tích hóa học quang phổ đã giúp các nhà
nghiên cứu gốm Chu Đậu giải mã được các thành phần cấu tạo nên xương gốm bao
gồm các chất sau: Silic oxit (SiO2), Titan oxit (TiO2), Nhôm oxit (Al2O3), Sắt oxit
(Fe2O3),Mangan oxit (MnO), Magie oxit (MgO), Canxi oxit (CaO), Natri oxit
(Na2O), Kali oxit (K2O), Photpho oxit (P2O5) [36].
Trong đó Silic Oxit (SiO2) và Nhôm Oxit (Al2O3) là hai chất chiếm tỉ lệ cao
nhất chiếm hơn 90% trong tổng số chất cấu tạo trong xương gốm. Đây cũng chính là
hai thành phần chính của đất sét trắng và cao lanh. Ngoài ra trong xương gốm Chu
Đậu còn có một số các tạp chất khác như Fe2O3, MnO, MgO, CaO, Na2O, K2O, P2O5.
Trong đó sự xuất hiện của Fe2O3 trong xương gốm làm cho xương gốm không có
trắng tinh khiết mà có màu trắng đục, màu xám, nâu đỏ… Do vậy việc tạo nên xương
gốm có chất lượng cao hay thấp phụ thuộc vào thay đổi các thành tố hóa học trong
xương gốm và điều đó được quyết định bởi việc lựa chọn và tinh chế nguyên liệu.
Như PGS.TS. Bùi Minh Trí đã nhận định: Tùy theo yêu cầu chất lượng sản phẩm
(chất lượng cao hay chất lượng trung bình và thấp, hàng xuất khẩu hay hành bình
dân) mà việc pha chế các thành phần xương gốm có sự khác biệt, nếu là hàng cao cấp
và chất lượng tốt thì tỉ lệ cao lanh nhiều hơn tỷ lệ đất sét trắng và ngược lại [52].
Câu hỏi được đặt ra là, đất sét trắng và cao lanh cung cấp cho các lò gốm
Chu Đậu được khai thác ở đâu? Được lấy tại Hải Dương hay mang từ nơi khác về?
Theo các nhà nghiên cứu địa chất, đất sét nói chung hay cao lanh đều được
tạo ra do sự phong hóa hóa học của các loại đá chứa silicat dưới tác động của axít
cacbonic nhưng một số loại đất sét lại được hình thành do các hoạt động thủy nhiệt.
Chính vì những đặc điểm này nên các mỏ cao lanh hay mỏ đất sét trắng phân bố chủ
yếu ở dọc theo các dòng sông hoặc các dãy núi đá vôi. Trong đó địa hình chủ yếu
của Hải Dương là sông nước và đặc biệt phần phía Đông Bắc của tỉnh có nhiều dãy
núi đá vôi như ở Chí Linh, Kinh Môn…
64
Bên cạnh đó, trong cuốn “Địa lý Việt Nam” do tác giả Nguyễn Trọng Điều,
Trần Đình Gián, Vũ Tự Lập cũng khẳng định rằng “các nguyên liệu để sản xuất đồ
gốm, sành, sứ, thủy tinh…càng có sẵn ở địa phương. Cao lanh là nguyên liệu làm đồ
gốm sứ cao cấp có sẵn ở dốc bờ trái sông Hồng (Hải Hưng và bờ biển Quảng Ninh),
nhiều mỏ có trữ lượng lớp có thể phát triển mạnh ngành gốm sứ vừa phục vụ cho xây
dựng và đáp ứng cho xuất khẩu những sản phẩm cao cấp mang sắc thái dân tộc”.
Theo đó có thể khẳng định nguồn đất sét và cao lanh cung cấp cho các trung
tâm sản xuất gốm ở Hải Dương thời Lê nói chung và Chu Đậu nói riêng chủ yếu
được khai thác từ khu vực núi đá vôi ở phía Đông Bắc tỉnh Hải Dương. Trong đó có
dãy núi Trúc Sơn (Chí Linh, Hải Dương) cách Chu Đậu khoảng 25km, đặc biệt là
mỏ cao đất sét trắng và cao lanh ở Hố Lao (Đông Triều, Quảng Ninh). Mỏ đất sét
này vào thời Lê sơ thuộc Hải Dương, đây là nơi có nguồn nguyên liệu đất sét trắng
chất lượng cao và nằm cách Chu Đậu khoảng 30km, có thể vận chuyển bằng đường
sông khá thuận lợi. Hiện nay, Hố Lao vẫn là nơi cung cấp nguyên liệu làm gốm chủ
yếu cho làng Bát Tràng và Công ty gốm ở Chu Đậu.
3.1.2.2. Kỹ thuật tạo hình dáng
Tạo hình bằng bàn xoay: Qua dấu viết kỹ thuật để lại trên các hiện vật và các
công cụ sản xuất được tìm thấy di chỉ có thể nói rằng đồ gốm Chu Đậu được tạo dáng
chủ yếu bằng kỹ thuật chuốt tay trên bàn xoay. Bằng chứng chúng tôi đã phát hiện
những dụng cụ sản xuất như song bàn xoay và ắc gốm. Ắc gốm có dạng hình đa giác,
trên nhỏ, dưới to, rỗng ở giữa, đây là bộ phận để đặt cố định mặt bàn xoay với trục
bàn xoay. Song bàn xoay có dạng hình tròn giống bánh xe, bộ phận này được dùng để
cố định phần dưới của trục bàn xoay [10, tr.47-48]. Những sản phẩm được làm bằng
bàn xoay đều để lại dấu tích là những vết xước nhỏ theo vòng tròn kim đồng hồ còn
lưu lại bên trong các sản phẩm (bên ngoài đã được nghệ nhân cạo nhẵn).
Tạo hình bằng khuôn: Tại di chỉ gốm Chu Đậu và Hợp Lễ, Bá Thủy, Cậy,
Ngói và các cuộc điều tra, khai quật đều tìm thấy các mảnh vỡ của các khuôn in hoa
văn hoặc khuôn tạo dáng bằng đất nung của một số loại bát, đĩa có kích thước vừa
và nhỏ (xem PL.61). Phát hiện này cho thấy bên cạnh kỹ thuật tạo dáng trên bàn
65
xoay, thợ gốm Chu Đậu còn sử dụng khuôn để tạo dáng một số loại bát, đĩa. Các
khuôn in hoa văn hoa văn được tìm thấy tại di chỉ cho thấy họ đã dùng khuôn để in
hoa văn bên trong lòng các loại bát, đĩa men độc sắc nói đến ở đây. Nghiên cứu các
loại hình sản phẩm cho thấy, phương pháp tạo hình bằng khuôn thường dùng để sản
xuất loại sản phẩm như bát, đĩa, chén… Ưu điểm là những sản phẩm được sản xuất
một cách đồng loại một cách nhanh chóng, có cùng kích thước, hoa văn giống nhau.
Nghệ nhận chỉ việc sửa, cắt gọt mép chân đế cho đẹp.
Tạo hình bằng kỹ thuật nặn đắp: Là phương pháp tạo hình cho các loại
tượng, con vật, hoặc vòi, quai các bộ phận như ấm, liễn, lư hương… hoặc dùng để
nặn các loại dụng cụ sản xuất như các con kê, đinh gốm, bao nung… Đây là kỹ
thuật ra đời sớm nhất và cũng đòi hỏi một người thợ phải có trình độ tay nghề và
thẩm mỹ cao thì có thể đắp nặn một hiện vật vòi, quai, hiện vật tượng có ý nghĩa
nghệ thuật cao.
3.1.2.3. Kỹ thuật tạo hoa văn
Gốm Chu Đậu được tìm thấy trong các cuộc khai quật có các dòng men
chính: Men ngọc, men trắng, men nâu, hoa lam và vẽ màu. Đối với mỗi dòng men
các nghệ nhân lại có các kỹ thuật tạo hoa văn cũng như các đề tài trang trí hoa văn
khác nhau, tạo nên một phong cách độc đáo riêng của Chu Đậu.
Đối với gốm men ngọc, men trắng và men nâu hay còn gọi là men đơn sắc,
thường được trang trí bằng cách khắc lõm, khắc vạch, cắt tỉa trên phôi gốm. Sản
phẩm gốm sau khi chuốt xong được phơi nắng, khi nào đất se cứng thì tiến hành sửa,
gọt, cạo nhẵn và khắc hoa văn theo ý muốn. Các đề tài khắc vạch trên gốm được tìm
thấy tại Chu Đậu thường là các hoa văn về thực vật (hoa sen, hoa cúc, văn dây lá và
văn khóm cỏ), hoa văn về động vật, chữ Hán. Đồ án văn cánh cúc, văn cánh sen là
chủ đề chủ đạo trong nghệ thuật trang trí trên gốm. Nó không chỉ được trang trí trên
thân hay trong lòng sản phẩm mà chúng còn được trang trí trên đường diềm ở miệng
hay sát dưới chân các sản phẩm, tạo nên nét đặc trưng rất riêng của Chu Đậu.
Đối với dòng gốm hoa lam, gốm vẽ màu hay còn được gọi là men đa sắc, hoa
văn được vẽ bằng bút lông trên phôi gốm (phôi đã được phơi khô) được gọi là vẽ
66
dưới men, sau đó phủ men và đem nung. Ngoài ra một số sản phẩm sau khi nung
xong mới được vẽ hoa văn bằng màu nhẹ lửa trên men, đó là loại gốm vẽ nhiều màu
gọi là vẽ trên men. Vẽ hoa văn bằng bút lông là kỹ thuật được dùng rất phổ biến
trên gốm Chu Đậu, tùy vào từng loại hoa văn mà các nghệ nhân sử dụng các loại
bút lông to nhỏ khác nhau. Hoa văn được các nghệ nhân vẽ rất đa dạng và phong
phú theo các chủ đề khác nhau như hoa văn thực vật (hoa sen dây, hoa cúc dây, hoa
mẫu đơn dây), hoa văn động vật (những con thú, thủy sinh, côn trùng), vẽ chữ Hán,
vẽ người và phong cảnh (xem PL.64-67).
Mặc dù vẽ lam dưới men phổ biến trong xưởng sản xuất Chu Đậu nhưng các
thợ gốm vẫn sử dụng khá phổ biến kỹ thuật đắp nổi và in nổi hoa văn. Tuy nhiên kỹ
thuật này thường được sử dụng ở loại gốm men độc sắc đối với loại gốm men đặc
biệt như lư hương men ngọc. Lư hương men ngọc khá phổ biến trang trí các quẻ bát
quái bằng kỹ thuật đắp nổi hoặc in nổi quanh thân, dưới chân đắp nổi mặt linh thú
tạo nên sự uy nghiêm và linh thiêng riêng của sản phẩm này.
Điều thú vị ở đây là các đề tài trang trí không chỉ đơn thuần độc lập trên các
sản phẩm mà còn phối hợp, đan xen, bổ trợ cho nhau, điển hình như một số sản phẩm
vừa có hoa văn động vật lại vừa có hoa văn thực vật hoặc vừa có văn thực vật lại vừa
có chữ Hán (xem PL.67-68)… Điều này cho thấy, thợ gốm Chu Đậu đã rất linh hoạt
khi sử dụng các đồ án hoa văn để tạo nên những sản phẩm không những phong phú
về kiểu dáng mà còn sinh động về hoa văn trang trí, nhằm cung cấp cho thị trường
những sản phẩm có chất lượng cao. Tất cả để thể hiện được đậm đà bản sắc dân tộc,
phản ánh một cách sinh động thiên nhiên và cuộc sống cư dân vùng châu thổ.
3.1.2.4. Men
Men gốm về cơ bản là lớp thủy tinh mỏng phủ lên bề mặt xương gốm, lớp
thủy tinh này hình thành trong quá trình nung có tác dụng làm cho sản phẩm trở nên
nhẵn bóng và mang tính thẩm mỹ hơn.
Theo một số tư liệu thì men gốm có 2 loại cơ bản là men tro và men đá. Từ
hai loại men này dựa vào cách pha chế thay đổi tỷ lệ các thành phần trong men và
cách tăng giảm khống chế nhiệt độ lửa có thể tạo ra các màu men khác nhau [52].
67
Bằng những công nghệ hiện đại, các chuyện gia nghiên cứu gốm sứ Nhật Bản:
Koezuka, Ninomiya, Aboshi, Yamasaki cho biết các thành phần của men gốm Chu
Đậu bao gồm: Silic oxit (SiO2), Nhôm oxit (Al2O3), Sắt oxit (Fe2O3),Mangan oxit
(MnO), Magie oxit (MgO), Canxi oxit (CaO), Natri oxit (Na2O), Kali oxit (K2O) [52].
Dựa vào kết quả phân tích trên ta thấy thành phần men gốm cơ bản là SiO2
một trong những thành phần chủ yếu của cao lanh. Điều này chứng tỏ người ta đã
sử dụng đất nguyên liệu trong pha chế men gốm. Thành phần đứng thứ 2 đó chính
là Al2O3 thành phần chủ yếu trong quặng dưới dạng tự nhiên – đây là đặc điểm
chung của gốm men cổ Việt Nam và Châu Á.
Màu sắc của men phụ thuộc vào thành phần hóa học của men và chất tạo
màu. Ở đây qua phân tích cho thấy ôxít sắt là thành phần quyết định màu sắc của
men. Khi thành phần ô xít sắt thấp sẽ cho màu trắng ngà và trắng xanh, cao hơn sẽ
cho màu men ngọc và cao hơn nữa sẽ cho màu men nâu.
Men gốm Chu Đậu thường có các màu: nâu, trắng, xanh coban, xanh lam,
ngọc. Men phủ trên các sản phẩm gốm thường phủ khá đều, dày cả bên trong và bên
ngoài, men gốm có khi khá trong, có khi đục hoặc rạn. Men rạn chính là một trong
những đặc trưng của men gốm Chu Đậu. Ngoài những men đơn sắc thông thường
thì Chu đậu còn tìm thấy những sản phẩm hai màu men: ngoài men nâu trong men
trắng hoặc ngoài men ngọc trong men trắng vẽ hoa lam. Đây thể hiện sự sáng tạo và
tinh xảo của những thợ gốm Chu Đậu trong quá trình sản xuất.
3.1.2.5. Kỹ thuật xếp nung sản phẩm
(1)Dụng cụ nung sản phẩm
Bao nung: Là dụng cụ bảo vệ phôi gốm khi đem nung để ngăn cách với lửa,
chống lại yếu tố bên ngoài không tốt tác động vào sản phẩm (xem PL.60). Bao nung
thường có dáng hình trụ, miệng thẳng, mép miêng vê hoặc cắt gần bằng, miệng hơi
thu nhỏ lại so với đáy. Đáy tạo bằng, xương ở đáy dày hơn thân và miệng. Nguyên
liệu làm nên bao nung chủ yếu là sămbốt (bã nguyên liệu cộng với xỉ lò), thường có
màu xám, nâu đỏ với những chấm đen nhỏ, có nhiều cát, sỏi nhỏ và các hạt tạp. Hình
dáng bao nung không khác nhau nên dựa vào kích thước những bao nung còn đủ
68
dáng có thể chia bao nung thành ba loại chính. Loại bao nung thành cao (cao từ 25-
32cm), loại bao nung thành trung bình (cao từ 18 – 20cm) và loại bao nung thành rất
thấp (cao từ 5 – 10cm). Độ dày trung bình của xương bao nung 1,2 – 2,3cm.
Cách sắp sếp các bao nung với nhau trong một lò cũng khá đa dạng, các bao
nung có thể xếp chồng trực tiếp lên nhau: đáy bao nung này là nắp đậy trực tiếp cho
bao nung kia; hoặc các bao nung được xếp úp hai miệng vào nhau, xếp lồng trong nhau
và thường bao nung trên cũng sẽ có nắp đập riêng và có chất liệu cấu tạo giống như bao
nung….những kiểu xếp này tùy thuộc vào mục đích của thợ sản xuất gốm
Con kê: Là dụng cụ chống dính men, chủ yếu dành cho những sản phẩm
không ve lòng, làm hòn kê để ngăn nó với bao nung hoặc làm dụng cụ để nâng cao
chồng nung (xem PL.60). Trong quá trình xếp sản phẩm vào bao nung họ có thể tạo
ra con kê để dưới bao nung để tránh tình trạng nghiêng, lật khi tiếp xúc trực tiếp
giữa hiện vật với bao nung. Hoặc để nâng cao sản phẩm để tránh chạm vào bao
nung nào đó họ lại dùng con kê. Phần lớn con kê được làm từ bã nguyên liệu, tuy
nhiên có một số rất ít con kê được làm từ nguyên liệu làm gốm. Một số con kê có
kích thước lớn chất liệu của nó được làm bằng sămbốt (sỉ lò và bã nguyên liệu).
Con kê thường có màu đỏ gạch, màu xám hoặc màu trắng. Bên cạnh đó còn có
những chấm đen của sỉ nung.
Thanh kê: Trong cuộc khai quật này số lượng thanh kê được tìm thấy rất ít
có 2 hiện vật được nặn tay, có dạng khối trụ đặc gắn 3 mấu kê hình tam giác ở phía
trên choãi rộng, thân thon dần và mở rộng xuống đáy. Đáy bằng giữa thân có nhiều
vệt lõm tay nhỏ, có cao khoảng 5-7cm, chiều rộng khoảng 2-3cm.
Dụng cụ thử nhiệt độ/thử men: Chúng tôi đã tìm thấy khá nhiều các mảnh
đáy, mảnh thân được người ta khoét một lỗ tròn nhỏ ở giữa lòng, sau đó đưa vào
nung. Xung quanh những lỗ tròn này thường có nhiều xỉ lò bám vào hay bị men
cháy sùi lên do không được bao nung bảo vệ và tiếp xúc trực tiếp với lửa. Dựa vào
những đặc điểm giống nhau (đều được khoét những lỗ tròn nhỏ) nên nhiều nhà
nghiên cứu trước cho rằng đây là dụng cụ thử nhiệt độ (xem PL.62). Ngoài ra đa số
những mảnh này đều được tráng men (các loại men khác nhau: men ngọc, hoa lam,
69
men trắng) do vậy có khả năng đây cũng là dụng cụ thử men. Có thể những lỗ tròn
của các hiện vật này được khoét từ trước khi đem nung hoặc khi đã nung đến một
thời gian nhất định nào đó thợ gốm muốn thử xem chất lượng xương gốm và men
gốm dưới tác động của nhiệt độ như thế nào và họ thử bằng cách như vậy. Theo
PGS.TS. Bùi Minh Trí nhận định: “Hầu như tất cả các di chỉ sản xuất gốm thời Lê
ở Hải Dương đều tìm thấy phổ biến loại dụng cụ này. Dựa vào một số mảnh đế của
loại hình gốm đặc trưng, chúng tôi thấy rằng kỹ thuật này xuất hiện và phát triển
mạnh trong thế kỷ 15 và kéo dài sang thế kỷ 16” [52].
(2)Kỹ thuật xếp nung
Khai quật Chu Đậu năm 2014 đã tìm thấy 476 hiện vật là phế thải, chồng
dính. Dựa vào tư liệu quan trọng này chúng tôi nhận định gốm tại Chu Đậu được
xếp nung theo ba cách: xếp nung trực tiếp, xếp nung gián tiếp, xếp nung đơn chiếc
và tất cả đều được xếp trong bao nung hay nói cách khác là dùng bao nung để nung
gốm. Khi nghiên cứu chồng dính cho thấy thợ gốm Chu Đậu luôn biết cách tận
dụng triệt để và hợp lý không gian trong mỗi bao nung, các sản phẩm nhỏ thường
đặt trong lòng các sản phẩm lớn. Và đặc biệt hơn nữa trong một chồng xếp nung
không chỉ có 1 loại hình sản phẩm mà có nhiều loại hình được xếp với nhau (chồng
bát trên cùng được xếp thêm hiện vật đĩa; chồng lư hương trong lòng xếp thêm hiện
vật tước…); không chỉ có 1 dòng men mà còn có nhiều dòng men được xếp với
nhau (men ngọc được xếp cùng hoa lam, men trắng với men nâu…).
3.2. Gốm Chu Đậu trong mối quan hệ với các trung tâm sản xuất gốm cổ
khác ở Hải Dương
3.2.1. Các trung tâm sản xuất gốm thời Lê sơ ở Hải Dương
Thời Lê sơ (1428 – 1527) kéo dài gần 100, đây là giai đoạn chế độ quân chủ
chuyên chế tập quyền của nước đạt đến đỉnh cao về sự phát triển, xã hội ổn định,
kinh kế phát triển thịnh vượng. Trong suốt các thời kỳ này, mặc dù Nhà Lê có
những chính sách “trọng nông ức thương” hoặc “ bế quan tỏa cảng”, có những biến
động về lịch sử xã hội, song nghề gốm Đại Việt nói riêng, ngành thủ công nghiệp
70
nói nói chung không ngừng phát triển và có những thành tựu rực rỡ. Biểu hiện rõ
nhất là sự phát triển mạnh mẽ những trung tâm sản xuất gốm tại tỉnh Hải Dương.
Dựa vào vị trí địa lý và đơn vị hành chính ở Hải Dương, PGS.TS. Bùi Minh
Trí đã chia các lò gốm ở Hải Dương thành hai trung tâm sản xuất gốm lớn đó là
Trung tâm gốm Nam Sách và Trung tâm gốm Bình Giang. Trung tâm sản xuất gốm
Nam Sách có 5 di chỉ sản xuất gồm: Chu Đậu, Mỹ Xá, Hùng Thắng, Linh Xá và Phì
Mao (Quao). Trong đó, Linh Xá và Phì Mao là cơ sản xuất sành và đồ đất nung.
Trung tâm Bình Giang cũng có 5 di chỉ chuyên sản xuất gốm men là Láo, Ngói,
Cậy, Bá Thủy, Hợp lễ.
3.2.2. Mối quan hệ giữa Chu Đậu với di chỉ sản xuất gốm khác thời Lê sơ
ở Hải Dương.
Như chúng ta đã biết vào thế kỷ 15-16, tại Hải Dương các nghề thủ công
nghiệp đặc biệt là gốm sứ phát triển rất mạnh mẽ, các lò gốm lần lượt hình thành và
phát triển. Bên cạnh Chu Đậu chúng ta còn thấy các lò gốm khác như: Mỹ Xá,
Hùng Thắng (ở Nam Sách), Ngói, Cậy, Bá Thủy, Hợp Lễ (ở Bình Giang).
Cùng hình thành và phát triển trong một không gian và một khoảng thời gian
nhất định, do vậy Chu Đậu với các lò gốm ở Hải Dương có mối quan hệ khá gần
gũi. Điều đó được thể hiện trên các mặt như lò nung gốm, các loại hình, dòng men
và kỹ thuật tạo chân đế, hoa văn…
Lò nung là một bằng chứng nói lên quy mô, cấu trúc của di chỉ sản xuất gốm.
Việc nghiên cứu chúng rất quan trọng để biết được đặc trưng của các lò khác nhau.
Tại Hải Dương có một số lò gốm còn tồn tại như lò Cậy, lò Quao cho chúng ta thấy
lò gốm thường có các loại lò như lò cóc (Quao), lò bầu, lò đàn, lò đứng đốt trấu
(đều thấy tại Cậy). Tuy nhiên phần lớn các di chỉ còn lại đều bị phá hủy do chiến
tranh, do con người nên việc xác định kết cấu lò nung phải dựa vào những bằng
chứng khảo cổ học. Dựa vào cuộc khai quật năm 1989 tại Hợp Lễ, năm 2002, 2014
tại Chu Đậu chúng ta đã phần nào hình dung ra được cấu tạo lò nung gốm thời Lê ở
Hải Dương.
71
Những vết tích đã tìm thấy chúng ta có thể nhận định rằng các lò gốm thời kỳ
này có kết cấu khá giống nhau, quy mô lò khá lớn. Theo ông Tăng Bá Hoành trong
cuốn “gốm Chu Đậu” nhận định “lò gốm tại Chu Đậu là lò cóc”, nhưng theo những
gì tìm thấy tại Chu Đậu năm 2014, PGS.TS. Bùi Minh Trí cho rằng với cấu trúc và
kích thước của lò còn để lại cho thấy đây là loại lò bầu với cấu trúc hai phần thân lò
và bầu lò với hệ thống mũi lửa, tường ngăn chia lửa….
Kết quả khai quật di chỉ Hợp Lễ năm 1989 cho thấy, lò gốm ở đó cũng là lò
bầu có kích thước và quy mô lớn, hệ thống chia lửa,… Như vậy, có thể thấy được
tính truyền thống, bảo tồn trong việc xây dựng lò, chồng, đốt sản phẩm của các
nghệ nhân xưa.
Chu Đậu và Mỹ Xá cách nhau một con đê nhỏ mới đắp vào thế kỷ 20, nên có
thể, trước đây, Chu Đậu và Mỹ Xá là một làng nghề? Phần lớn các dòng men, loại
hình và kỹ thuật sản xuất của Mỹ Xá đều tìm thấy ở Chu Đậu và ngược lại, do vậy
có thể khẳng định, Chu Đậu và Mỹ Xá có mối quan hệ rất mật thiết, hiện vật của hai
di chỉ rất khó phân biệt vì chúng giống nhau từ hình dáng, chất liệu và màu men.
Tuy nhiên, gốm Chu Đậu rất nổi tiếng còn gốm Mỹ Xá lại ít được nhắc đến.
Hùng Thắng cũng là một lò gốm ở Nam Sách, khá nổi tiếng với tên tuổi của
nghệ nhân Đặng Huyền Thông. Tuy nhiên, nếu so sánh hai di chỉ này thì thấy sự
chênh lệch nhau về chất lượng cũng như sự đa dạng trong cách trang trí. Gốm Hùng
Thắng phong cách nghệ thuật và hoa văn trang trí đơn giản, thường mang tính dân
gian hơn (văn dây lá cuốn cách điệu), chất liệu trung bình. Gốm Hùng Thắng phát
triển vào thế kỷ 16, hiện vật vật đa số là những sản phẩm có chân đế rất thấp và hoa
văn rất đơn giản, mộc mạc (trừ một số chân đèn do nghệ nhân Đặng Huyền Thông
chế tác có sự tỉ mỉ cao). Trong khi đó, đề tài trang trí của gốm Chu Đậu phần lớn là
những đề án hoa văn rất tỷ mỉ, đa dạng, chất liệu rất cao tạo xương gốm mịn, đanh,
chắc, … Tuy nhiên, đến thế kỷ 16, gốm Hùng Thắng đã có sự học tập, kế thừa trực
tiếp từ gốm Chu Đậu về hoa văn và loại hình hiện vật.
Hợp Lễ là một trong những lò nung gốm khá lớn của huyện Bình Giang, phát
triển song song cùng với Chu Đậu. Nếu so về số lượng, quy mô thì hai lò gốm này
72
có quy mô như nhau, số lượng nhiều như nhau. Nhưng nếu so sánh về chất lượng
thì gốm Chu Đậu có phần vượt trội hơn hẳn (xem PL.73-74). Khi nói về loại hình
sản phẩm của hai lò này vừa có sự khác nhau vừa có sự giống nhau. Cụ thể: Khi nói
về gốm men nâu chúng ta thấy tại Hợp Lễ tìm thấy khá nhiều có 3 loại chính như
ngoài men nâu, trong men trắng, ngoài men nâu trong men trắng vẽ chỉ lam hoặc cả
trong và ngoài đều phủ men nâu. Và ở Chu Đậu cũng tìm thấy các loại men nâu
giống như vậy. Theo PGS.Bùi Minh Trí: Điều khác biệt rất rõ nhất để phân biệt hai
lò gốm chính là kỹ thuật tạo chân đế và hoa văn trang trí. Với gốm Hợp Lễ, bát, đĩa
thường có chân đế nhỏ và thấp và mép chân đế thường cắt khá vuông cạnh, về trang
trí hoa văn gốm Hợp Lễ thường trang trí cành hoa nằm trong cánh sen, tiêu bản này
chưa tìm thấy ở Chu Đậu. Còn với gốm Chu Đậu lại có phần ngược lại, bát, đĩa
thường có chân đế cao và rộng, mép chân đế cắt vát hai bên tạo diện tiếp xúc nhỏ,
xương đế dày và đanh chắc, nặng. Về hoa văn trang trí thường tìm thấy trong lòng
vẽ chữ Phúc mà tại Hợp Lễ chưa tìm thấy bao giờ. Còn đối với các dòng men khác
như hoa lam hay men trắng, các loại hình sản phẩm tại Chu Đậu khá giống với Hợp
Lễ. Tuy nhiên có một điều khác nhau khá cơ bản là chất liệu như xương gốm, men
gốm Chu Đậu vượt xa Hợp Lễ, cách phủ men Chu Đậu thường phủ kín, men dày
nhất là men ngọc, nhưng Hợp Lễ men phủ thường mỏng, hình thức chính là nhúng
men nên phần thân sát đế và đáy thường không phủ men.
Có thể nói các lò gốm ở Hải Dương chỉ có lò Ngói là có thể so sánh với Chu
Đậu cả về chất lượng và nghệ thuật trang trí (xem PL.75-76). Bởi vì lò Ngói cũng
chuyên sản xuất những loại hình sản phẩm cao cấp có chất lượng cao và là những
mặt hàng xuất khẩu ra nước ngoài. Có đôi lúc gốm Chu Đậu còn mang phong cách
gốm Ngói (Bình Giang). PGS.TS Bùi Minh Trí cho biết, gốm hoa lam Chu Đậu và
gốm hoa lam của Ngói có mối quan hệ và ảnh hưởng rất rõ ràng về phong cách và
nghệ thuật trang trí. Minh chứng sinh động về điều này đó là những loại đĩa nhỏ cao
cấp, ngoài vẽ hoa sen dây, lòng vẽ phong cảnh, chim, cá. Đây là những sản phẩm
rất đặc trưng và phổ biến của di chỉ gốm Ngói, được sản xuất nhiều từ đầu thế kỷ
16. Loại gốm này đã được tìm thấy tại khu khai quật bao gồm cả đồ phế phẩm. Và,
73
nếu không nghiên cứu kỹ về kỹ thuật tạo chân đế ta rất khó phân biệt giữa gốm Chu
Đậu và gốm Ngói.
Tuy nhiên gốm Chu Đậu trong tổng thế gốm Hải Dương vẫn mang những cái
riêng mà không có một lò gốm nào ở Hải Dương giai đoạn đó sánh được. Điều đó
chính là thể hiện trong sự phong phú về sản xuất dòng men gốm. Trong giai đoạn
này chỉ riêng Chu Đậu sản xuất được gốm men ngọc có chất lượng cao không thua
gì với men ngọc của lò Thăng Long và men ngọc Long Tuyền (Trung Quốc). Có ý
kiến cho rằng: Gốm men ngọc Chu Đậu có thể là cơ sở của chuyên cung cấp men
ngọc cho Thăng Long hoặc cửa ngõ của Thăng Long. Ngoài men ngọc, gốm hoa
lam Chu Đậu thực sự khó có thể lò gốm nào của Hải Dương lúc bấy giờ so sánh
được. Chu Đậu sản xuất ra các loại hình đặc sắc với những bình hoa lam lớn, đĩa
lớn và được vẽ hoa văn rất sinh động, tuyệt mỹ.
3.3. Vai trò của gốm Chu Đậu trong lịch sử gốm cổ thời Lê sơ ở Hải
Dương
Đồ gốm nói chung là sản phẩm không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày của con người. Bất cứ tầng lớp nào, quốc gia nào cũng thế sự hiện diện
của đồ gốm sứ. Vai trò đó giúp cho những hiện vật gốm sứ nhỏ bé từ lâu đã hằn sâu
vào tâm trí con người chúng ta từ bữa ăn hàng ngày cho đến các buổi yến tiêc, các
nghi lễ tôn giáo, lễ hội....
Gốm Chu Đậu có ảnh hưởng không nhỏ đến đến đời sống xã hội của xứ Hải
Dương cũng như Đại Việt lúc bấy giờ. Sự đa dạng về các loại hình gốm Chu Đậu
được phản ánh trong các khía cạnh khác nhau trong đời sống xã hội thông qua các
nhóm sau: Thứ nhất, nhóm đồ gốm dùng trong sinh hoạt hàng ngày như bát, đĩa, âu,
nắp thường có nhiều hình dáng và kiểu dáng khác nhau, nó hoàn toàn có thể đáp
ứng các nhu cầu và thị hiếu khác nhau. Có loại có hoa văn trang trí, có loại không
có hoa văn trang trí hoặc được tạo dáng cầu kỳ hơn loại khác... Điều này phản ánh
rằng, các thợ gốm Chu Đậu rất linh hoạt trong việc sản xuất các mặt hàng nhằm đáp
ứng nhu cầu của thị trường thời bấy giờ. Thứ hai, nhóm đồ gốm phục vụ cho phong
tục tập quán như ăn trầu, tiệc rượu hay uống trà được phản ánh thông qua các loại
74
hình như bình vôi, bình tỳ bà, chén, tước. Thứ ba, nhóm hiện vật phục vụ nghi lễ
tôn giáo trong đó nổi bật với loại hình lư hương và bình hoa.
Nghệ thuật làm gốm Chu Đậu có ảnh hưởng không nhỏ đến nghệ thuật làm
gốm các lò khác cùng thời. Ngay cả Triều đình Thăng Long đã phải chiêu tập thợ
giỏi của làng gốm Chu Đậu lên kinh thành để sản xuất gốm phục vụ Hoàng cung.
Trong sử cũ cũng ghi chép về việc chiêu tập thợ giỏi khắp nơi vào làm trong Cục
Bách tác trong Kinh Thành. Những thợ giỏi này tuy làm việc trong xưởng gốm ở
Thăng Long, ngoài việc sản xuất những loại gốm cao cấp phục vụ nhà Vua và
Hoàng tộc theo hình mẫu và yêu cầu của triều đình, họ vẫn duy trì phong cách
truyền thống trong việc sản xuất gốm. Họ đã vẽ lại làng quê Chu Đậu, từ hoa lá, cỏ
cây, đến những phong cảnh yên bình của miền đất Xứ Đông với bên đò, mái đình,
làng mạc, những cánh cò và ruộng đồng. Người thợ gốm Chu Đậu xưa đã gửi gắm
tình yêu quê hương, cách cảm, cách nghĩ của mình vào từng đề tài hoa văn trang trí,
từng sản phẩm.
Những hiện vật gốm Chu Đậu được tìm thấy trên những con tàu đắm, trên
các bảo tàng trong và ngoài nước cho thấy gốm Chu Đậu đóng vai trò là mặt hàng
xuất khẩu chủ lực. Tại di tích tàu đắm ở Pandana (Philippin), người ta phát hiện
khoảng 4000 đồ gốm trong đó Việt Nam chiếm khoảng 70% bao gồm gốm Bình
Định, Chu Đậu và Ngói (Hải Dương). Và, tại di tích tàu đắm Hội An (Việt Nam),
trong so 240.000 hiện vật đa số là gốm Chu Đậu và gốm Ngói… Đây là minh chứng
rõ nhất chứng minh sự tham gia tích cực của gốm Hải Dương nói chung và gốm
Chu Đậu nói riêng trong hoạt động thương mại biển Châu Á trong thế kỷ 15.
Mặc dù, chế độ phong kiến thời Lê sơ hay chế độ phong kiến Đại Việt luôn
thực hiện chính sách “trọng nông, ức thương” để tự vệ, hạn chế sự do thám của
nước ngoài để bảo vệ lãnh thổ. Tuy nhiên không nằm trong khuôn khổ đó, gốm Chu
Đậu không ngừng phát triển, các hoạt động ngoài thương rất mạnh ở khu vực cảng
biển Vân Đồn. Điều này đã giúp sản phẩm gốm Chu Đậu đã có mặt ở nhiều nước
trên thế giới như: Indonesia, Philippin, Thái Lan, Brunei, Malaysia, Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Á, Ai Cập….Điều này giúp cho hình ảnh
75
quê hương, đất nước, phong tục tập quán của Đại Việt được nhiều nước trên thế giới
biết đến. Vai trò lan tỏa văn hóa của Chu Đậu (Hải Dương) đã phát huy rất rõ ở đây.
Tiểu kết Chương 3
Từ kết quả khai quật, nghiên cứu, chỉnh lý đánh giá hiện vật khai quật được
năm 2014 kết hợp với việc kế thừa kết quả của những cuộc khai quật trước đó và
qua nghiên cứu so sánh có thể khái quát nên những đặc trưng của gốm Chu Đậu từ
dòng men, loại hình, loại kiểu; các tiêu chí về hoa văn; kỹ thuật học sản xuất từ
khâu chọn nguyên liệu, tạo hình, tạo men, kỹ thuật xếp nung. Đặt gốm Chu Đậu vào
bối cảnh nghề thủ công nghiệp Đại Việt thời Lê sơ để thấy được mối quan hệ vùng,
liên vùng trong sản xuất gốm. Những điều đó đặt cơ sở, tiền đề cho những nghiên
cứu chuyên sâu hơn về gốm Chu Đậu nói riêng và nghề thủ công truyền thống của
xứ Đông nói chung thời Lê sơ.
Thế kỷ 15 là thời kỳ phát triển đỉnh cao của gốm Chu Đậu với nhiều dòng
men: Men ngọc, men trắng, men nâu, hoa lam. Trong đó, gốm men ngọc và gốm
hoa lam của Chu Đậu đạt đến đỉnh cao về chất lượng. Chất lượng gốm men ngọc
Chu Đậu không thua kém gì với gốm men ngọc lò Thăng Long cũng như men ngọc
lò Long Tuyền của Trung Quốc. Đến thế kỷ 16, có những dòng gốm được tiếp tục
bảo lưu, phát triển, nhưng có những dòng gốm không còn sản xuất (gốm men nâu).
Đối với những dòng gốm truyền thống cũng có sự thay đổi khá rõ về loại hình, kỹ
thuật. Điều này phản ánh về sự biến đổi của thị hiếu và thị trường. Trái ngược lại
với sự biến đổi đó, những truyền thống kỹ thuật dường như được bảo lưu qua các
thời kỳ.
Ngoài gốm Chu Đậu, vào thời Lê sơ thế kỷ 15 – 16 ở Hải Dương còn nhiều
các lò gốm khác: Hùng Thắng, Hợp Lễ, Ngói, Cậy, Láo, Bá Thủy. Những lò gốm
này có mối liên hệ với nhau trong quá trình sản xuất như việc xây dựng lò nung gốm,
kỹ thuật nung gốm. Tuy nhiên, mỗi lò lại có những đặc trưng riêng – nó được coi như
là dấu hiệu nhận biết sản phẩm của mình mà các lò khác không thể bắt chước, mô
phỏng được. Những đặc điểm này phản ảnh tính kế thừa, tính bảo lưu, tính độc đáo,
tính sáng tạo của nghề thủ công làm gốm.
76
Những sản phẩm gốm thể hiện sự sáng tạo, tâm huyết từ bàn tay, khối óc của
các nghệ nhân làm gốm Chu Đậu đã đóng góp phần không nhỏ đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội xứ Hải Dương thời Đại Việt nói chung. Gốm Chu Đậu nói riêng, gốm
Hải Dương nói chung đã vươn mình vượt qua được không gian các làng nghề, có vị
thế, chỗ đứng và được ưa chuộng ở kinh thành Thăng Long, hơn thế, những sản phẩm
này còn tham gia vào thị trường thương mại biển trở thành mặt hàng ưa chuộng tại
nhiều nước trên thế giới trong thế kỷ 15.
77
KẾT LUẬN
1. Nằm trong không gian văn hóa xứ Đông, không gian văn hóa của vùng đồng
bằng Bắc bộ trù phú, giàu có, Chu Đậu – Nam Sách có rất nhiều điều kiện thuận lợi
trong việc tạo dựng các lò sản xuất gốm có quy mô lớn bên tả ngạn sông Thái Bình, từ
đó thúc đẩy hoạt động sản xuất, tiến hành trao đổi hàng hóa và giao lưu kinh tế. Di chỉ
này được phát hiện năm 1983 và đã được khai quật 7 lần vào các năm 1986, 1987,
1988, 1990, 1991, 2002 và 2014. Kết quả các cuộc khai quật đã tìm thấy các dấu tích lò
nung cùng số lượng rất lớn đồ gốm men và dụng cụ sản xuất gốm, phản ánh rõ Chu
Đậu là một trung tâm sản xuất gốm lớn và quan trọng của Bắc Việt Nam vào thời Lê
sơ. Từ những phát hiện quan trọng này, di chỉ gốm Chu Đậu đã nhanh chóng trở nên
nổi tiếng và nhận được rất nhiều sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước.
2. Cuộc khai quật năm 2014 do Viện Nghiên cứu Kinh thành phối hợp với bảo
tàng Hải Dương thực hiện đã thu được nhiều kết quả quan trọng, cung cấp nhiều tư liệu
khoa học mới trong việc nghiên cứu về niên đại, đặc trưng loại hình, đặc trưng dòng
men gốm, đặc biệt là kỹ thuật sản xuất gốm Chu Đậu trong phạm vi/khu vực của một
xưởng lò sản xuất gốm. Trong đó, dấu tích lò nung và khu vực xưởng sản xuất gốm
cùng các đồ phế thải và dụng cụ sản xuất đã cho thấy rõ mối quan hệ tương đồng về
mặt loại hình và kỹ thuật. Từ đó cho phép các nhà nghiên cứu xác định đây là một khu
vực xưởng lò sản xuất gốm. Dấu vết lò nung ở đây thuộc loại lò bầu, có hệ bầu đốt hai
ngăn. Phân tích từ đồ gốm phế phẩm và công cụ sản xuất cho thấy, lò nung này chuyên
sản xuất đồ dùng sinh hoạt với ba dòng men chính: men ngọc, men trắng và hoa lam,
gồm nhiều loại hình khác nhau. Điều này phản ánh rằng, các lò gốm Chu Đậu sản xuất
nhiều dòng men và nhiều loại hình sản phẩm trong cùng một lò. Tư liệu từ đồ gốm phế
thải minh chứng rõ điều này. Các loại gốm và các dòng men gốm được xếp nung cùng
nhau trong cùng một lò. Đây là những phát hiện rất thú vị, cung cấp cho chúng ta nhiều
tư liệu và bằng chứng tin cậy để nghiên cứu và lý giải sâu hơn về đặc trưng kỹ thuật
cũng truyền thống sản xuất gốm Chu Đậu trong lịch sử.
3. Qua tư liệu nghiên cứu gốm Chu Đậu cho thấy rằng, trong cùng một thời kỳ,
các dòng gốm phát triển song song với nhau. Có những dòng gốm có chất lượng rất tốt
78
và dường như sản xuất theo đơn đặt hàng hoặc có những dòng gốm có chất lượng thấp
hơn sản xuất hàng loạt nhằm đáp ứng thị trường rộng lớn trong và ngoài nước đương
thời. Điều đáng lưu ý là, hai loại gốm này có thể được sản xuất cùng một lò. Chu Đậu
là nơi sản xuất nhiều dòng gốm và có sự biến đổi theo thời kỳ. Có những dòng gốm
được tiếp tục bảo lưu, phát triển nhưng có những dòng gốm không còn sản xuất ở giai
đoạn sau. Đối với những dòng gốm truyền thống cũng có sự thay đổi khá rõ về loại
hình, kỹ thuật. Điều này phản ánh về sự biến đổi của thị hiếu và thị trường.
Trái ngược sự phát triển và biến đổi của các loại hình trong dòng gốm, những
truyền thống kỹ thuật sản xuất dường như được bảo lưu qua các thời kỳ. Điều này được
thể hiện rõ nhất qua các khâu làm gốm như: khâu chọn đất là nguyên liệu tạo xương
gốm; kỹ thuật tạo hình dáng; kỹ thuật tạo tạo hoa văn; đặc biệt là kỹ thuật nung gốm
như việc sử dụng bao nung để bảo vệ sản phẩm, sử dụng con kê để chống dính men
hoặc cách xếp nung sản phẩm.... Tại Chu Đậu hay tại những nơi sản xuất gốm sứ khác
chúng ta đều thấy rõ điều này. Việc nghiên cứu kỹ thuật sản xuất cũng giúp chúng ta
thấy được sự kế thừa truyền thống của các lò gốm qua các thời kỳ khác nhau.
4. Qua nghiên cứu so sánh chúng ta đã tìm thấy những bằng chứng về mối liên
hệ và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa gốm Chu Đậu với gốm Hợp Lễ, Cậy, Ngói, Ngói,
và Bá Thủy. Cùng nằm trong không gian văn hóa xứ Đông, trong thời gian hình
thành và phát triển dường như các lò gốm ở Hải Dương có sự ảnh hưởng lẫn nhau rõ
nét. Tuy nhiên, khi so sánh kỹ về chất lượng, hình dáng, kỹ thuật tạo chân đế, hoa văn
chúng ta nhận thấy các di chỉ có nhiều sự khác nhau. Sự khác đó chính là đặc trưng
của từng lò, giúp cho chúng ta nhận diện được nguồn gốc sản xuất. Điều này cũng
đồng nghĩa rằng các di chỉ gốm luôn có những phong cách khác nhau, phong cách lò
xưởng – phong cách thợ gốm hay phong cách cá nhân của những thợ gốm tại mỗi
lò/xưởng.
Không chỉ có mối quan hệ với các đồ gốm cùng khu vực, Chu Đậu có mối
quan hệ với gốm lò Thăng Long. Kết quả nghiên cứu so sánh với đồ gốm sản xuất tại
lò Quan (Thăng Long) của PGS.TS. Bùi Minh Trí cho thấy, nhiều loại hình gốm hoa
79
lam của Thăng Long mang phong cách của gốm Chu Đậu. Theo PGS.TS chính điều
này phản ánh hai xu hướng: Thứ nhất: Gốm Thăng Long sản xuất theo mẫu của gốm
Chu Đậu hoặc ngược lại; Thứ hai: Triều đình Thăng Long đã chiêu tập thợ giỏi của
làng gốm Chu Đậu lên kinh thành để sản xuất gốm phục vụ Hoàng cung. Trong sử cũ
cũng ghi chép về việc chiêu tập thợ giỏi khắp nơi vào làm trong Cục Bách tác trong
Kinh Thành họ chuyên sản xuất những sản phẩm phục vụ trong triều. Những thợ giỏi
này tuy làm việc trong xưởng gốm ở Thăng Long, ngoài việc sản xuất những loại
gốm cao cấp phục vụ nhà Vua và Hoàng tộc theo hình mẫu và yêu cầu của triều đình,
họ vẫn duy trì phong cách truyền thống trong việc sản xuất gốm. Họ đã vẽ lại làng
quê Chu Đậu, từ hoa lá, cỏ cây, đến những phong cảnh yên bình của miền đất Xứ
Đông với bên đò, mái đình, làng mạc, những cánh cò và ruộng đồng. Người thợ gốm
Chu Đậu xưa đã gửi gắm tình yêu quê hương, làng mạc, cảm nghĩ của mình vào từng
đề tài hoa văn trang trí trong từng sản phẩm.
Các mối liên hệ với bên ngoài Việt Nam cũng được phản ảnh khá rõ qua dòng
gốm men ngọc và hoa lam. Nó thể hiện rõ nét trong phong cách tạo hình dáng cũng
như đồ án hoa văn trang trí. PGS.TS. Bùi Minh Trí cho rằng một số đồ gốm hoa lam
mang phong cách lò Cảnh Đức Trấn (Giang Tây) (xem PL.70), và một số đồ gốm
men ngọc mang phong cách gốm Long Tuyền (Chiết Giang) (xem PL.69).
5. Việc tìm thấy số lượng lớn gốm Chu Đậu trên các con tàu đắm (xem PL.77-
80), trên các bảo tàng trên thế giới là bằng chứng nói lên gốm Chu Đậu không những
đáp ứng được thị trường trong nước mà nó còn được xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Sản phẩm gốm Chu Đậu đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới như: Indonesia,
Philippin, Thái Lan, Brunei, Malaysia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ
Kỳ, Tây Á, Ai Cập…. Giúp cho hình ảnh quê hương, đất nước, phong tục tập quán
của Đại Việt được nhiều nước trên thế giới biết đến. Điều này khẳng định vai trò và
vị trí quan trọng của di chỉ gốm Chu Đậu trong lịch sử.
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1964) Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb KHXH, Hà Nội.
2. Lê Thị Bính, Phạm Thị Oanh, Nguyễn Thị Thanh Hiếu (2015) “Sưu tập con
kê gốm trong hố khai quật chi chỉ Chu Đậu, xã Thái Tân, Huyện Nam Sách, tỉnh Hải
Dương năm 2014”, NPHM về KCH Năm 2015, Nxb KHXH, Hà Nội, Tr 498-500.
3. Lê Thị Bính (2019) “Kỹ thuật sản xuất gốm Chu Đậu - nhận thức từ kết
quả cuộc khai quật năm 2014”, Kinh thành cổ Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr
137-152.
4. Hà Văn Cẩn, Nguyễn Văn Đoàn (1997) “Sưu tập gốm Chu Đậu trong đợt
điều tra năm 1996”, Thông báo khoa học, Viện bảo tàng Lịch Sử Việt Nam, Hà Nội.
5. Hà Văn Cẩn (1998) “Gốm Hải Hưng được phát hiện ở Nghi Xuân (Hà
Tĩnh)”, NPHM về KCH năm 1997, Nxb. KHXH, Hà Nội. Tr.606.
6. Hà Văn Cẩn (1999) “Về niên đại các trung tâm gốm cổ ở Hải Dương”
Khảo cổ học, số 3, Tr.72-90.
7. Hà Văn Cẩn (1999) “Từ bình ngọc hồ xuân đến bình tỳ bà trong gốm sứ
Hải Dương”, Khảo cổ học, số 2, Tr 66-77.
8. Hà Văn Cẩn (1999) “Vành hoa văn đặc trưng Việt Nam trên đĩa gốm Chu
Đậu”, NPHM về KCH năm 1998, Nxb. KHXH, Hà Nội. Tr.414-417.
9. Hà Văn Cẩn (1999) “So sánh gốm Celadon Xóm Hống (Hải Dương) với
Celadon Việt Nam và Trung Quốc qua thành phần xương gốm”, NPHM về KCH
năm 1998, Nxb. KHXH, Hà Nội.Tr.406-407.
10. Hà Văn Cẩn (2000) “Các trung tâm sản xuất gốm sứ cổ ở Hải Dương”,
Luận án tiến sĩ, Trường Đại Học Khoa học xã hội và Nhân văn.
11. Hà Văn Cẩn (2001) “Vài nét nhận xét về kết quả phát hiện và nghiên cứu
gốm sứ Hải Dương trong thời gian qua”, Một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam, tập 2,
Nxb. KHXH, Hà Nội.
12. Hà Văn Cẩn, Thân Văn Tiệp (2015) “Khảo sát lò gốm Chu Đậu huyện
Nam Sách tỉnh Hải Dương”, NPHM về KCH năm 2015, Nxb KHXH, Tr 339-341.
13. Nguyễn Đình Chiến (1991) “Nhóm gốm men thế kỷ 16 ký tên tác giả
Đặng Huyền Thông”, Khảo cổ học, Tr.55-65.
14. Nguyễn Đình Chiến (1999) Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có văn minh thế
kỷ XV – XIX. Nxb. Bản đồ, Hà Nội
15. Trần Khánh Chương (1990) Nghệ thuật gốm Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật,
Hà Nội.
16. Trần Khánh Chương (2001) Gốm Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
17. Trần Khánh Chương (2004) Gốm Việt Nam từ đất nung đến sứ, Nxb. Mỹ
thuật, Hà Nội.
18. Trần Khánh Chương (2012) Gốm Việt Nam kỹ thuật và nghệ thuật, Nxb.
Mỹ thuật, Hà Nội.
19. Trần Anh Dũng (1996) “Trở lại một số địa điểm gốm cổ ở tỉnh Hải
Dương”, NPHM về KCH năm 1995, Nxb. KHXH, Hà Nội.
20. Trần Anh Dũng, Hà Văn Cẩn (1998) “Một số loại hình con kê gốm ở một
số lò gốm cổ ở nước ta”, NPHM về KCH năm 1997, Nxb. KHXH, Hà Nội.
21. Trần Anh Dũng (1999) “Một loại dụng cụ kê gốm đặc biệt”, NPHM về
KCH năm 1998, Nxb. KHXH, Hà Nội.
22. Trần Hạnh, Bùi Minh Trí (1999) “Dấu tích lò nung gốm mới phát hiện ở
Chu Đậu (Nam Sách)”, NPHM về KCH năm 1998, Nxb. KHXH, Hà Nội.Tr.432-433
23. Trương Thị Minh Hằng (2010) Văn hóa gốm của người Việt ở vùng
Đồng Bằng Sông Hồng, công trình khoa học cấp bộ, Viện Khoa học xã hội Việt
Nam, Viện nghiên cứu văn hóa, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Thanh Hiếu (2015) “Bát đĩa trang trí văn sóng nước phát
hiện ở di chỉ gốm Chu Đậu tỉnh Hải Dương năm 2014”, NPHM về KCH năm 2015.
Nxb.KHXH, Hà Nội, Tr 490-492.
25. Tăng Bá Hoành (1985) Nghề cổ truyền tập 1, Nxb.Văn hóa thông tin
Hải Hưng.
26. Tăng Bá Hoành (1985) “Những di tích lò gốm trên đất Hải Hưng”.
NPHMVKCH năm 1984, Viện khảo cổ học, Hà Nội.Tr.195-196
27. Tăng Bá Hoành (1987) Nghề cổ truyền tập 2, Nxb. Văn hóa thông tin
Hải Hưng.
28. Tăng Bá Hoành (1988) “Khai quật Chu Đậu – Hợp Lễ (Hải Hưng) lần
thứ hai”, NPHM về KCH năm 1987, viện KCH, Hà Nội. Tr.215
29. Tăng Bá Hoành (1987) “Khai quật di tích lò gốm Chu Đậu (Hải Hưng)”
NPHMVKCH năm 1986, Viện khảo cổ học, Hà Nội.Tr.287-289
30. Tăng Bá Hoành (1990) “Hải Hưng mùa khai quật năm 1989”, NPHM về
KCH năm 1989, Viện khảo cổ học, Hà Nội.
31. Tăng Bá Hoành, Đặng Văn Thắng (1997) “Con kê ở di tích gốm Mỹ Xá
(Hải Hưng)”, NPHM về KCH năm 1996, Nxb. KHXH, Hà Nội.Tr 354-356
32. Tăng Bá Hoành, Đặng Đình Thể, Nguyễn Duy Cương, Nguyễn Khắc
Ninh (1999) Gốm Chu Đậu, Bảo tàng Hải Dương.
33. Hán Văn Khẩn, Tăng Bá Hoành (1991) “Khai quật Chu Đậu lần thứ tư”,
NPHM về KCH năm 1990, Nxb. KHXH, Hà Nội. Tr180-183
34. Hán Văn Khẩn, Tăng Bá Hoành và Peter Burns (Úc) (1991), “Khai quật
Cậy”, NPHM về KCH năm 1990, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.183 - 185.
35. Hán Văn Khẩn, Tăng Bá Hoành và Peter Burns (Úc) (1991), “Đào thám
sát Ngói”, NPHM về KCH năm 1990, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.186.
36. Hán Văn Khẩn, Peter burns, Caroline, Tăng Bá Hoành (1996), “Thông
báo kết quả phân tích hóa học xương gốm di tích Chu Đậu (Hải Hưng)”. NPHM về
KCH năm 1995, Nxb, KHXH, Hà Nội.
37. Hán Văn Khẩn, Tăng Bá Hoành và Peter Burns (Úc) (1999), “Phân tích
nhiệt độ nung gốm sứ Chu Đậu và Ngói”. NPHM về KCH năm 1998, Nxb. KHXH,
Hà Nội.
38. Nguyễn Thị Hồng Lê, Lê Thị Bính (2016), “Gốm men ngọc Chu Đậu, tư
liệu và nhận thức từ kết quả khai quật năm 2014”, thông báo khoa học – Trung tâm
nghiên cứu Kinh thành, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.149-179.
39. Nguyễn Thị Hồng Lê, Lê Thị Bính (2018), “Gốm hoa lam Chu Đậu (Hải
Dương) loại hình và đặc trưng”, Kinh thành cổ Việt Nam, Nxb.KHXH, Hà Nội,
tr.169-191.
40. Phạm Thị Oanh (2012), Gốm Hải Dương và vai trò của nó trong lịch sử
ngoại thương Việt Nam thế kỷ XV – XVII, Luận văn thạc sĩ lịch sử, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội.
41. Phạm Thị Oanh (2018), “Đồ gốm sứ Hải Dương trong hoàng cung Thăng
Long thời Lê Trung Hưng”, Kinh thành cổ Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội.
42. Ngô Thị Phương (2008), Nghề gốm Chu Đậu ở Nam Sách – Hải Dương,
Luận văn thạc sĩ lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
43. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống trí, tập 3, Nxb.
KHXH, Hà Nội.
44. Phạm Côn Sơn, (2004) Làng nghề truyền thống, Nxb.Văn hóa Dân tộc,
Hà Nội.
45. Trịnh Cao Tưởng, Seichi Kikuchi, (1996), “Thêm thông tin về con tàu
chở gốm Chu Đậu thế kỷ 16 bị đắm ở ngoài khơi của biển Hội An”, NPHM về KCH
1995, Nxb. KHXH, Hà Nội.
46. Bùi Minh Trí (1995) “Điều tra thám sát di tích gốm sứ Ngói huyện Cẩm
Bình, tỉnh Hải Hưng 1995”, NPHM về KCH năm 1996, Nxb. KHXH, Hà Nội.
47. Bùi Minh Trí (1996), “Đôi nét về gốm sứ Hải Hưng thời Lê qua kết quả
phân tích Quang Phổ”, NPHM về KCH năm 1995, Nxb. KHXH, Hà Nội.
48. Bùi Minh Trí, (1997), “Bàn xoay gốm thời Lê lần đầu tiên được tìm thấy
tại Việt Nam”, NPHM về KCH năm 1996. Nxb. KHXH, Hà Nội, Tr.345
49. Bùi Minh Trí, (1998), “Những nét riêng truyền thống của nghệ thuật gốm
hoa lam Việt Nam”, Khảo cổ học số 3-1998, Tr 90-104
50. Bùi Minh Trí (1995), “Đôi điều suy nghĩ về gốm sứ thời Lê qua một số
trung tâm gốm ở tỉnh Hải Hưng”, NPHM về KCH năm 1994. Nxb. KHXH, Hà Nội.
51. Bùi Minh Trí (1995), “Tìm hiểu kỹ thuật xếp nung gốm qua các đồ phế thải
ở di tích Hợp Lễ (Hải Hưng)”, NPHM về KCH năm 1994. Nxb. KHXH, Hà Nội.
52. Bùi Minh Trí (2000), Gốm Hợp Lễ trong phức hợp gốm sứ thời Lê, Luận
án Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn.
53. Bùi Minh Trí, Kerry Nguyễn Long (2001), Gốm hoa lam Việt Nam, Nxb,
KHXH, Hà Nội.
54. Bùi Minh Trí, (2003), “Tìm hiểu ngoại thương Việt Nam qua con đường
gốm sứ trên Biển”, khảo cổ học, số 5.
55. Bùi Minh Trí, (2008), “Gốm Việt Nam trong ngoại thương biển Châu Á
thế kỷ XVII”, khảo cổ học, số 8.
56. Bùi Minh Trí (2013) “Phương pháp và qui trình nghiên cứu, chính lý và
lập hồ sơ khoa học về di vật khảo cổ học đô thị”, tư liệu Viện Nghiên cứu Kinh
thành.
57. Bùi Minh Trí, Nguyễn Thị Hồng Lê, Lê Thị Bính (2015) “Báo cáo kết quả
khai quật di chỉ gốm Chu Đậu năm 2014”, Tư liệu Viện Nghiên cứu Kinh thành.
58. Bùi Minh Trí, Nguyễn Thị Hồng Lê, Lê Thị Bính (2015), “Di chỉ gốm
Chu Đậu – nhận thức từ kết quả khai quật năm 2014”, Thông báo khảo cổ học,
Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành, Nxb.KHXH, Hà Nội.
59. Bùi Minh Trí (2016), “Gốm vẽ nhiều màu Việt Nam trong bối cảnh Lịch
Sử - Văn hóa Châu Á”, Thông báo khảo cổ học, Trung tâm Nghiên cứu Kinh
Thành, Nxb.KHXH, Hà Nội.
60. Bùi Minh Trí, Nguyễn Thị Hồng Lê (TT Nghiên cứu Kinh thành), Vũ Đình
Tiến (BT.Hải Dương) (2015) “Khai quật di tích gốm Chu Đậu xã Thái Tân, huyện
Nam Sách tỉnh Hải Dương năm 2014” NPHM về KCH năm 2015, Tr 301-303
61. Bùi Văn Vượng (2010) Nghề gốm cổ truyền Việt Nam, năm 2010, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.