GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC
NGUYỄN VÕ LỘC
ĐẶC ĐIỂM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ
HẠ ĐƯỜNG MÁU Ở TRẺ SƠ SINH
TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN BÁC SĨ NỘI TRÚ
THÁI NGUYÊN – NĂM 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC
NGUYỄN VÕ LỘC
ĐẶC ĐIỂM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ
HẠ ĐƯỜNG MÁU Ở TRẺ SƠ SINH
TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành : Nhi Khoa
Mã số : NT 62 72 16 55
LUẬN VĂN BÁC SĨ NỘI TRÚ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Tiến sĩ: Nguyễn Bích Hoàng
THÁI NGUYÊN – NĂM 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là : Nguyễn Võ Lộc, bác sĩ nội trú khóa 10 Trường Đại học Y
Dược Thái Nguyên, chuyên ngành Nhi khoa, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của thầy TS. Nguyễn Bích Hoàng.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019
Người cam đoan
Nguyễn Võ Lộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này,
tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị, các
bạn đồng nghiệp và gia đình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Nguyễn Bích Hoàng,
người Thầy tâm huyết đã tận tình hướng dẫn, khích lệ, dành nhiều thời gian
trao đổi và định hướng cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên và các
khoa, phòng trung tâm. Đặc biệt là Trung tâm Nhi khoa, khoa Sản phụ khoa,
các khoa xét nghiệm là nơi đã tạo điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu và thu
thập số liệu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, phòng
Đào tạo, Bộ môn Nhi đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban giám đốc Trung tâm Sản Nhi –
Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ và đặc biệt lãnh đạo cũng như đồng nghiệp
của tôi tại khoa Hồi sức tích cực, nơi tôi công tác, đã tạo mọi điều kiện và
động viên tôi học tập, nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn các bác sĩ và điều dưỡng khoa Sơ sinh – Cấp cứu nhi
đã tạo điều kiện, hỗ trợ tôi hết mình trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn và ghi nhớ các gia đình bệnh nhi đã tình nguyện tham
gia và hợp tác cùng tôi trong quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin được trân trọng, biết ơn gia đình, không ngừng động
viên và là chỗ dựa vững chắc về mọi mặt cho tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu.
Nguyễn Võ Lộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AAP : American Academy Pediatrics
Viện hàn lâm nhi khoa Hoa Kỳ
AGA : Approximate for gestational age
Cân nặng tương ứng tuổi thai
DTBS : Dị tật bẩm sinh
ĐHCSS : Đa hồng cầu sơ sinh
HĐM : Hạ đường máu
ICU : Intensive Care Unit
Phòng Chăm sóc đặc biệt
LGA : Large for gestational age
Lớn cân so với tuổi thai
MLT : Mổ lấy thai
NKSS : Nhiễm khuẩn sơ sinh
QTCD : Quá trình chuyển dạ
SGA : Small for gestational age
Nhẹ cân so với tuổi thai
SSNT : Sơ sinh non tháng
SSĐT : Sơ sinh đủ tháng
SSGT : Sơ sinh già tháng
SHH : Suy hô hấp
VDTBTD : Vàng da tăng bilirubin tự do
WHO : World Health Organization
Tổ chức Y tế thế giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... ii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................... iii MỤC LỤC .................................................................................................... iv DANH MỤC BẢNG ..................................................................................... v DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ ................................................................ vii ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN ............................................................................. 3 1.1. Đặc điểm hạ đường máu sơ sinh ............................................................ 3 1.2. Nguyên nhân và một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu sơ sinh.... 10 1.3. Các nghiên cứu về hạ đường máu ...................................................... 19 Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............. 23 2.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................... 23 2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu ............................................................ 23 2.3. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 23 2.4. Tổ chức nghiên cứu và thu thập số liệu ............................................... 35 2.5. Xử lý và phân tích số liệu .................................................................... 35 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................... 38 3.1. So sánh một số đặc điểm sơ sinh sớm hạ đường máu và sơ sinh sớm không hạ đường máu ................................................................................... 38 3.2. Đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm .......................................... 39 3.3. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm .............. 47 Chương 4: BÀN LUẬN .............................................................................. 53 4.1. Đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm ......................................... 53 4.2. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm .............. 59 4.3. Hạn chế của đề tài ................................................................................ 71 KẾT LUẬN ................................................................................................. 72 KIẾN NGHỊ ................................................................................................ 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Phân độ già tháng Cliffort .......................................................... 15
Bảng 2.1: Phân vùng vàng da của Kramer với nồng độ bilirubin máu ...... 31
Bảng 2.2: Đánh giá mức độ suy hô hấp theo chỉ số Silverman . ................ 33
Bảng 2.3: Thang điểm Apgar ...................................................................... 33
Bảng 2.4: Bảng tiếp liên 2x2 ....................................................................... 36
Bảng 3.1: So sánh một số đặc điểm sơ sinh sớm hạ đường máu và sơ
sinh sớm không hạ đường máu ................................................................... 38
Bảng 3.2: Đặc điểm về giới tính và tuổi thai .............................................. 39
Bảng 3.3: Đặc điểm dinh dưỡng ................................................................. 40
Bảng 3.4: Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm non tháng có hạ đường máu 41
Bảng 3.5: Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm đủ tháng có hạ đường máu . 41
Bảng 3.6: Đặc điểm bệnh lý ........................................................................ 42
Bảng 3.7: Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu ....... 42
Bảng 3.8: Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu ......... 43
Bảng 3.9: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm ............. 44
Bảng 3.10: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng .. 44
Bảng 3.11: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng 45
Bảng 3.12: Đặc điểm tiền sử sản khoa của sơ sinh sớm hạ đường máu ..... 46
Bảng 3.13: Đặc điểm nuôi dưỡng bằng sữa mẹ ở trẻ sơ sinh sớm hạ
đường máu (giờ) .......................................................................................... 46
Bảng 3.14: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm từ phía mẹ .............. 47
Bảng 3.15: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với tuổi thai ........... 48
Bảng 3.16: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với đặc điểm dinh
dưỡng ........................................................................................................... 48
Bảng 3.17: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng với đặc
điểm dinh dưỡng ......................................................................................... 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vi
Bảng 3.18: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng với đặc
điểm dinh dưỡng ......................................................................................... 50
Bảng 3.19: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm theo giờ tuổi ......... 50
Bảng 3.20: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với ăn sữa mẹ ........ 51
Bảng 3.21: Nguy cơ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với suy hô hấp sơ
sinh, vàng da tăng bilirubin tự do ................................................................ 51
Bảng 3.22: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với dị tật bẩm sinh,
bệnh lý tiêu hóa ........................................................................................... 52
Bảng 3.23: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với nhiễm khuẩn
sơ sinh, ngạt, đa hồng cầu sơ sinh ............................................................... 52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ thiết kế nghiên cứu .......................................................... 24
Biểu đồ 3.1: Mức độ hạ đường máu ............................................................ 39
Biểu đồ 3.2: Đặc điểm hạ đường máu theo ngày tuổi ................................. 40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hạ đường máu (hạ glucose máu) ở trẻ sơ sinh là tình trạng giảm nồng độ
glucose trong máu, đây là hội chứng thường gặp ở trẻ sơ sinh đặc biệt là giai
đoạn sơ sinh sớm, do nhiều nguyên nhân gây nên như do sự giảm sản xuất
glucose hoặc giảm dự trữ glycogen trong thời kỳ bào thai. Ở trẻ sơ sinh, mức độ
tiêu thụ glucose nhiều hơn so với lứa tuổi khác, trong đó cơ quan tiêu thụ nhiều
nhất là não. Trẻ sơ sinh non tháng, thấp cân, sơ sinh bệnh lý thì việc dự trữ
glycogen thường giảm, khả năng phân hủy glycogen giảm, trong khi đó mức độ
tiêu thụ glucose cao nên trẻ dễ bị hạ đường máu.
Tỷ lệ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh rất khác nhau tùy theo các nghiên cứu.
Nghiên cứu của Mejri năm 2010 trên 187 trẻ cho thấy tỷ lệ hạ đường máu là
26% [55], nghiên cứu của Bromiker năm 2019 sàng lọc hạ đường máu trên
3595 trẻ sơ sinh tỷ lệ này là 12,1% [26]. Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết
năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh sớm tỷ lệ hạ đường máu là 19,8% [13].
Triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh thường nghèo nàn và không
điển hình, có thể gây nhầm lẫn với các nguyên nhân và bệnh cảnh lâm sàng
khác trong giai đoạn sơ sinh, đặc biệt là trong giai đoạn sơ sinh sớm. Glucose
là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng cho tổ chức thần kinh, thiếu glucose
cũng như thiếu oxy gây nên nhiều tổn thương cơ quan và bệnh cảnh lâm sàng
thường đa dạng, nếu không được chẩn đoán và xử trí kịp thời sẽ gây rối loạn
chức năng tế bào não, dù có triệu chứng hay không, vẫn có thể để lại di chứng
nặng nề thậm chí có thể tử vong.
Hạ đường máu ở trẻ sơ sinh có nhiều nguyên nhân và các yếu tố nguy
cơ khác nhau như: do thay đổi chuyển hóa ở mẹ (truyền glucose, thuốc trong
thai kỳ, mẹ bị tiểu đường,…), do di truyền bẩm sinh (đột biến gen mã hóa sự
điều hòa bài tiết insulin của tế bào beta đảo tụy như gen ABCC8, KCNJ11,
SUR1,…), tăng insulin thứ phát,… Ngoài ra trên những trẻ đẻ non, thai to so
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2
với tuổi thai, có stress sơ sinh, … Và thiếu sữa mẹ sau sinh có nguy cơ hạ
đường máu cao hơn bình thường. Để góp phần kiểm soát tốt đường máu ở trẻ
sơ sinh đặc biệt cần luôn quan tâm đến đặc điểm trẻ sơ sinh sớm hạ đường
máu và một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm.
Nghiên cứu về hạ đường máu ở trẻ sơ sinh ở Việt Nam còn ít được
quan tâm, đặc biệt là nghiên cứu về đặc điểm và các yếu tố nguy cơ gây hạ
đường máu ở trẻ sơ sinh sớm. Tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, Trung
tâm Nhi khoa hàng năm có gần 1000 trẻ sơ sinh nhập viện vì các bệnh lý khác
nhau, chắc chắn trong số đó luôn có một tỷ lệ hạ đường máu không nhỏ.
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “ Đặc điểm và một số yếu
tố nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Trung Ương Thái
Nguyên” nhằm các mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm tại khoa Sơ
sinh – Cấp cứu nhi Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2018-2019.
2. Xác định một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh
sớm tại khoa Sơ sinh – Cấp cứu nhi Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
năm 2018 - 2019.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm hạ đường máu sơ sinh
1.1.1. Định nghĩa hạ đường máu sơ sinh
Theo Nguyễn Công Khanh, gọi là hạ đường máu (HĐM) khi đường
máu dưới 0,4 g/l, trừ ở trẻ sơ sinh mấy ngày đầu khi đường máu dưới 0,3 g/l
với trẻ sơ sinh đủ tháng và dưới 0,2 g/l với trẻ sơ sinh thiếu tháng [6].
Trong lịch sử, người ta định nghĩa HĐM dựa vào các triệu chứng lâm
sàng nhưng không có giới hạn cụ thể như dễ kích thích, co giật, li bì. Các triệu
chứng này có giá trị hướng đến HĐM. Có nhiều cách tiếp cận chẩn đoán
HĐM khác nhau, trong đó, đặc biệt ở người lớn, bộ ba Whipple thường được
sử dụng, bao gồm: có các triệu chứng HĐM, nồng độ glucose huyết thanh
thấp và hết triệu chứng khi nồng độ glucose huyết thanh trở về bình thường.
Tuy nhiên, ở trẻ sơ sinh, các triệu chứng này thường không rõ ràng [40].
Có rất nhiều định nghĩa của HĐM trẻ sơ sinh, từ điển y khoa Stedman đã
định nghĩa HĐM là sự sụt giảm bất thường của glucose trong máu, các câu hỏi
đã được đặt ra là: so với cái gì hay giảm như thế nào, liên quan với những gì:
chẳng hạn như lưu lượng máu não, nồng độ hemoglobin hoặc hematocrit, mức
oxygen, tình trạng thiếu oxy hay thiếu máu cục bộ, tình trạng nhiễm khuẩn ..
Thuật ngữ HĐM cũng liên quan đến sử dụng glucose ở các mô, tế bào, cơ
quan. Thuật ngữ HĐM được định nghĩa lần đầu tiên vào năm 1937 với mức
nhẹ là từ 2,2-3,3 mmol/l, vừa là 1,1-2,2 mmol/l, nặng là <1,1 mmol/l. Trải qua
70 năm và gần đây sách giáo khoa đã có nhiều định nghĩa theo các tác giả khác
nhau: theo Kalhan và Parimi định nghĩa HĐM là < 2 mmol/l, Ogata định nghĩa
HĐM là < 2 mmol/l, McGowan định nghĩa HĐM là < 2,2-2,5 mmol/l [64].
Theo Viện hàn lâm nhi khoa Hoa Kỳ - American Academy Pediatrics
(AAP), HĐM sơ sinh được xác định khi đường máu của trẻ dưới 2,6 mmol/l [65].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
4
Trong một số tài liệu khác có đưa ra các giá trị cụ thể hơn: HĐM sơ
sinh được xác định khi glucose huyết thanh dưới 2,2 mmol/l (40 mg/dl) trong
24 giờ đầu sau sinh với những trẻ không có triệu chứng và dưới 2,5 mmol/l
(45mg/dl) với những trẻ có triệu chứng và dưới 2,8 mmol/l sau 24 giờ tuổi
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn HĐM sơ sinh theo
“Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em” của Bộ
Y Tế ban hành kèm theo Quyết định số 3312/QĐ-BYT ngày 7/8/2015 của Bộ
trưởng Bộ Y Tế: ngưỡng xác định HĐM chung cho trẻ sơ sinh khi Glucose
huyết thanh 2,6 mmol/l [10].
1.1.2. Vai trò glucose máu ở trẻ sơ sinh
Ở trẻ sơ sinh, não có trọng lượng rất lớn so với kích thước cơ thể. Vấn đề
chuyển hóa glucose có tương quan với trọng lượng não vì não đòi hỏi lượng
lớn glucose cho các hoạt động chức năng bình thường của nó, cũng như nồng
độ glucose ở não có quan hệ tuyến tính với nồng độ glucose huyết tương, khi
nồng độ glucose huyết tương thấp thì nồng độ glucose trong não cũng giảm
theo thậm chí bằng không, trong khi đó tế bào não không thể tổng hợp glucose
cũng như không có nguồn dự trữ glycogen, chính vì lẽ đó tổn thương não
thường dễ xảy ra [90]. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh các nguồn năng lượng
glucose dự trữ thường thấp ở trẻ sơ sinh non tháng, trẻ sơ sinh hạn chế tăng
trưởng trong tử cung, do những trẻ sơ sinh này có thể bị đa hồng cầu, tăng độ
nhớt máu, hạ huyết áp và giảm cung lượng tim, do đó, càng làm giảm lưu
lượng máu não và càng giảm cung cấp glucose đến não, hậu quả là tổn thương
chức năng của não cũng như thiếu oxy, thiếu máu cục bộ ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển thần kinh sau này ở trẻ.
1.1.3. Chuyển hóa glucose ở thai nhi
Trứng phát triển liên tục suốt trong 37 tuần kể từ khi thụ thai đến khi trẻ
được sinh ra. Trong giai đoạn này sự chuyển hóa của thai dựa trên tuần hoàn
nhau xảy ra một cách dễ dàng và tùy thuộc vào chất lượng của nhau, sự chuyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
5
hóa này dựa trên hai loại chất dinh dưỡng chính là glucose và acid amin, trong
đó glucose là loại thức ăn cung cấp năng lượng duy nhất của thai. Nồng độ
glucose máu của thai bằng nồng độ glucose nước não tủy của mẹ, nghĩa là ≥
50% nồng độ glucose máu của mẹ. Glucose trong thai có nhiệm vụ tạo dự trữ
chất béo và glucose trong quý 3 của quá trình trưởng thành của thai.
Trong suốt thời kỳ mang thai, toàn bộ glucose của thai nhi do mẹ cung
cấp cho thông qua con đường khuếch tán qua nhau thai. Như vậy, quá trình
tổng hợp glucose trong thai nhi bình thường là không xảy ra hoặc có xảy ra
cũng rất ít, mặc dù các enzym cần cho tổng hợp glycogen ở thai nhi đã có mặt
từ tháng thứ ba của thai kỳ. Nồng độ của glucose mà não thai nhi sử dụng chỉ
thấp hơn một chút so với nồng độ glucose huyết thanh của mẹ, với nồng độ
glucose bình thường của mẹ là 70 - 90 mg/dL (3,9 - 5.0 mmol/L), chênh lệch
glucose huyết thanh trung bình của thai nhi ở với mẹ chỉ ở mức 9 mg/dL (0,5
mmol/L) [75]. Nếu nhu cầu glucose của thai nhi không được đáp ứng bởi tình
trạng HĐM của mẹ hay suy nhau thai, thai nhi có thể sử dụng chất thay thế,
chẳng hạn như các ceton có nguồn gốc từ các a xít béo. Với nguồn cung cấp
glucose thấp kéo dài, thai nhi phát triển sản xuất con đường riêng, đầu tiên là
quá trình phân giải glycogen và sau thời gian dài quá trình tổng hợp glycogen
thiếu hụt gây những thay đổi phức tạp trong quá trình chuyển hóa glucose của
thai nhi, dẫn đến thai nhi chậm phát triển trong tử cung và hậu quả là những
thay đổi trong chuyển hóa glucose ở trẻ sơ sinh sau sinh mà hay gặp là HĐM
sau sinh. Ngược lại ở thai nhi được cung cấp quá nhiều glucose sẽ có hiện
tượng cường insulin thứ phát từ trong tử cung. Insulin và glucagon không qua
nhau thai. Nồng độ insulin tăng dần theo thời gian trong khi nồng độ glucagon
vẫn ở mức thấp. Trong suốt thai kỳ, khi nhau thai trưởng thành, insulin không
ảnh hưởng glucose hấp thu từ phía mẹ. Hầu hết sự lắng đọng glycogen của thai
nhi xảy ra nửa sau của thai kỳ. Việc vận chuyển đầy đủ glucose từ mẹ sang con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
6
được đánh giá bởi lưu lượng máu ở cuống rốn vì không có sự khác biệt về mức
độ protein vận chuyển glucose trong nhau thai [69].
1.1.4. Chuyển hóa glucose ở trẻ sơ sinh
Thời kỳ sơ sinh là thời kỳ bắt đầu cuộc sống bên ngoài từ lúc sinh ra
đến 4 tuần tuổi. Thường được chia làm 2 giai đoạn đó là giai đoạn sơ sinh
sớm (ngày thứ 1 đến ngày thứ 7 sau sinh), giai đoạn sơ sinh muộn (từ ngày
thứ 8 đến ngày 28 sau sinh) [4].
Có rất nhiều yếu tố tác động vào lúc sinh tạo sự chuyển tiếp hài hòa từ
cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào người mẹ trong môi trường nước ối trong
tử cung sang một cuộc sống độc lập bên ngoài. Sự chuyển tiếp đó có 4 sự kiện
cơ bản xảy ra đối với đứa trẻ:
+ Sự thay đổi về hệ thống tuần hoàn
+ Sự thành lập một hệ hô hấp có hiệu lực
+ Thận đảm bảo điều hòa môi trường bên trong cơ thể trẻ
+ Cơ thể trẻ phải tự điều hòa thân nhiệt.
Như vậy, một trẻ sơ sinh muốn tồn tại bằng hoạt động của chính cơ
thể thì cần phải có một sự thích nghi tốt. Để cho giai đoạn chuyển tiếp này
được điều hòa cần phải có các hoạt động: về hô hấp (phổi bắt đầu hoạt
động để tự cung cấp oxy), tuần hoàn (vòng tuần hoàn khép kín thay thế
vòng tuần hoàn nhau - thai), máu (thay HbF của bào thai thành HbA1,
giảm số lượng hồng cầu), tự điều hòa thân nhiệt, tự điều hòa mức đường
máu trong giới hạn bình thường (vào lúc sinh, sự cung cấp dinh dưỡng qua
nhau thai bị gián đoạn đột ngột, để duy trì đường máu phải có sự phân hủy
glycogen ở gan, được thay thế nhanh chóng bằng sữa khi cho bú), cũng
như các bộ phận khác như tiêu hoá, thận, thần kinh... đều chưa hoàn thiện,
nhưng nó biến đổi rất nhanh, đặc biệt trong tuần đầu đời sống.
Glucose chủ yếu do mẹ cung cấp qua nhau thai, khả năng dự trữ
chất này dưới dạng glycogen chỉ có sau 35 tuần tuổi thai. Trẻ sinh non
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
7
trước thời gian này hầu như không có glycogen hoặc dưới 10g%, trong khi
đó ở trẻ đủ tháng lượng glycogen dự trữ 34g%. Theo nghiên cứu của
Kayiran, khi kiểm tra nồng độ glucose ở trẻ sơ sinh khỏe mạnh cũng đã nhận
thấy rằng lượng glucose trong máu tăng dần cùng với sự tăng của tuổi thai, sự
khác biệt có ý nghĩa về nồng độ glucose trung bình giữa các nhóm tuổi 36-37
tuần, 38-39 tuần và ≥ 40 tuần [52].
Sự vận chuyển glucose từ mẹ sang thai nhi theo cơ chế khuếch tán dễ
dàng theo cả hai phía. Lượng đường cung cấp chỉ sử dụng cho thai khoảng
40-50%, còn lại để nhau thai sử dụng cho các phản ứng oxy hóa, vận chuyển,
chuyển hóa đường, do có sự liên quan trao đổi qua lại giữa đường máu mẹ và
đường máu thai nhi nên nồng độ đường máu thai nhi luôn giữ ở mức 70-80%
máu mẹ. Glucose khuyếch tán từ máu mẹ sang con dự trữ dưới 2 dạng chính:
+ Glycogen ở gan, cơ tim: Bắt đầu từ tuần thứ 36.
+ Mỡ dưới da và nơi khác: Bắt đầu từ tuần thứ 28 đến tuần thứ 30.
Sau khi sinh nguồn cung cấp glucose cho trẻ sơ sinh bị gián đoạn đột
ngột và nồng độ glucose trong máu giảm, hiện tượng này là phổ biến và là
sinh lý bình thường cần thiết để kích hoạt chức năng sản xuất glucose ở trẻ sơ
sinh. Những thay đổi hormon và chuyển hóa khi sinh tạo điều kiện thích nghi
cho trẻ sinh ra sau này. Nồng độ catecholamine tăng rõ rệt khi sinh và cùng
với glucagon kích hoạt quá trình phosphoryl hóa glycogen tại gan và quá
trình phân giải glycogen tại gan. Sự tăng tiết cortisol kích thích glucose-6-
phosphatase tại gan hoạt động và giải phóng glucose ở gan. Tăng
catecholamine cũng kích thích sự phân giải lipid, cung cấp năng lượng (ATP)
và cùng yếu tố (NADPH) tăng cường hoạt động của các enzyme chịu trách
nhiệm tổng hợp glycogen [65]. Nồng độ đường máu sau sẽ giảm dần trong
vòng 1-3 giờ sau khi sinh và nồng độ đường máu sẽ tự tăng dần lại sau giai
đoạn này. Ở trẻ sơ sinh đủ tháng khỏe mạnh, nồng độ đường máu ở các thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
8
điểm 3 giờ đầu sau sinh, từ 3 đến 24 giờ đầu sau sinh và sau 24 giờ đầu sau.
sinh hiếm khi nào giảm tương ứng dưới 35 mg/dl, 40 mg/dl và 45 mg/dl [80]
Trong những ngày đầu năng lượng được cung cấp chủ yếu dựa vào
các dự trữ đường, quan trọng nhất là phản ứng của tụy tiết ra glucagon có lợi
cho nội tiết để nồng độ đường trong máu có thể được duy trì. Các enzyme
tham gia sản xuất đường cũng tăng mạnh sau khi sinh đảm bảo nồng độ
đường cần thiết cho các hoạt động sống ngoài tử cung, bên cạnh đó nồng độ
insulin cũng giảm dần theo giờ tuổi trung bình 1,17mU/l trong 12 giờ đầu
sau sinh xuống còn 1,03mU/l trong 12-24 giờ sau sinh [31]. Cơ chế này có
thể giải thích một số nguyên nhân HĐM sơ sinh dựa trên những thay đổi
không phù hợp trong tiết hormon và không có các nguồn dự trữ ở dạng
glycogen ở gan, cơ, nguồn acid amin để sản xuất đường và nguồn lipid cần
cho sự chuyển hóa thành các acid béo.
1.1.5. Điều hòa glucose máu ở trẻ sơ sinh
Khi sinh, nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch rốn ở vào khoảng
60%-80% nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch mẹ. Sự sụt giảm nhanh
chóng lượng glucose trong máu diễn ra trong khoảng từ 30-60 phút sau sinh
và sau đó là ổn định dần trong khoảng 2-4 giờ sau sinh. Nồng độ glucose
máu tăng sau 48 giờ đầu của cuộc sống và tương tự với nồng độ glucose
máu ở 72-96 giờ tuổi [17].
Nồng độ glucose máu luôn được ổn định nhờ các yếu tố sau:
Thứ nhất là điều hòa đường máu do gan: Do gan có tính chất thấm
glucose dễ dàng hơn các mô khác, có khả năng tân tạo đường, cân bằng giữa
quá trình thoái hóa, tổng hợp glycogen tại gan nhờ vào enzym glucose-6-
phosphatase (enzyme này không có ở các mô khác) giải phóng glucose vào
máu, cung cấp glucose cho não, cơ và các mô khác sử dụng. Khi mức glucose
máu tăng sự giải phóng glucose máu ngưng lại và ở mức cao thì gan tăng
cường sử dụng glucose.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
9
Thứ hai là điều hòa đường máu do hormon: Hormon insulin do tụy tiết
ra gây HĐM do tăng sử dụng glucose trong tế bào, tăng quá trình đường phân
và ức chế quá trình tân tạo đường. Các hormon adrenalin, glucagon… làm
tăng đường máu do làm tăng quá trình phân ly glycogen thành glucose và
giảm tổng hợp glycogen từ glucose.
1.1.6. Phân mức hạ glucose máu sơ sinh
Hạ đường máu sơ sinh là một tình trạng cấp cứu cần được xử trí kịp
thời, những trẻ có nguy cơ HĐM cần phải kiểm tra glucose máu trong 2
giờ đầu sau sinh để có kế hoạch đối phó xử trí kịp thời.
Có thể chia thành 2 mức HĐM như sau:
+ Mức đường máu nặng: < 25mg/dl ( 1,1mmol/l)
+ Mức đường máu < 47mg/dl nhưng ≥ 25mg/dl .
1.1.7. Triệu chứng của hạ đường máu sơ sinh
Hạ đường máu ở trẻ sơ sinh hay gặp nhưng thường không có triệu
chứng. Trẻ có các triệu chứng chủ yếu liên quan đến suy giảm chức năng các
cơ quan cần thiết phải được sàng lọc và điều trị sớm, điều này rất có ý nghĩa
trong việc ngăn chặn các tổn thương thần kinh vì khi đã có triệu chứng, thì
tổn thương thường đã nặng và có thể có di chứng thần kinh [19].
- Các biểu hiện của tình trạng tăng catecholamin do HĐM như xanh tái,
vã mồ hôi, các triệu chứng do tổn thương tim mạch: tăng nhịp tim, hạ huyết
áp, và suy tim.
- Triệu chứng của giảm đường tới mô tế bào thần kinh bao gồm: ngưng
thở, co giật, hay li bì, là những triệu chứng HĐM rất nặng đòi hỏi phải điều trị
cấp cứu ngay tức thì. Có khoảng 30% trẻ này sẽ có những di chứng bất
thường về hệ thần kinh kể cả chậm phát triển tinh thần rất nặng nề. Theo
nghiên cứu của Wong và cộng sự năm 2013 trên những trẻ có tổn thương
thiếu máu - oxy não, khi so sánh với tỷ lệ hạ glucose máu, MRI có giá trị tiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
10
đoán dương là 82% và giá trị tiên đoán âm là 78%, có 34% trẻ sơ sinh có biểu
hiện HĐM trên lâm sàng trước khi chụp MRI [83].
Triệu chứng của HĐM thường không đặc hiệu và có thể đó là biểu hiện
của các bệnh lý nhiễm khuẩn nặng ở trẻ sơ sinh như: Dễ kích thích, giảm cử
động, bú kém, hạ thân nhiệt, li bì, rung cơ, giảm trương lực cơ, co giật, ngủ
lịm, chậm nhịp tim, ngưng tim, ngưng thở. Nghiên cứu của Sikandar Ali
Bhand và cộng sự cho thấy, 38% có biểu hiện dễ kích thích, 23% xanh tím,
32% rối loạn thân nhiệt và 25% li bì [25].
Trên thực tế lâm sàng, HĐM sơ sinh thường không có triệu chứng, tuy
nhiên nếu trẻ được sàng lọc, phát hiện và điều trị sớm sẽ giảm được nhiều
biến chứng do HĐM gây ra. Việc điều trị HĐM sơ sinh cũng không phải là
một vấn đề khó, hầu như chỉ cần truyền glucose ưu trương có thể hết HĐM
trừ những trường hợp HĐM dai dẳng cần thiết phải điều trị chuyên sâu tùy
theo nguyên nhân gây HĐM, cũng như theo khuyến cáo của AAP việc cho trẻ
bú mẹ sớm cùng với da kề da làm giảm nguy cơ HĐM ở trẻ sơ sinh sớm.
1.2. Nguyên nhân và một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu sơ sinh
1.2.1. Nguyên nhân hạ đường máu sơ sinh
Nguyên nhân gây HĐM ở trẻ sơ sinh là do dự trữ glycogen và lipid rất
ít. Tổ chức não khi trưởng thành sử dụng nhiều đường nên đường sẽ giảm rất
nhanh, chuyển hóa và tiêu thụ oxy cũng tăng trong mọi cơ quan tổ chức, trong
khi tụy sản xuất insulin nhiều, tuyến thượng thận phản ứng kém,
catecholamine máu lại không tăng nên đường càng giảm cùng với đó có đồng
vận mạnh về chuyển hóa protid, TSH tăng cao mà năng lượng lại thấp nên
càng dễ bị giảm glucose máu. Chính vì vậy những trẻ HĐM có thể bị HĐM
tái phát.
Từ lâu, cường insulin được coi là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến
HĐM ở giai đoạn sơ sinh. Tình trạng này xảy ra ngay sau khi sinh nhưng
cũng có thể xảy ra ở ngoài giai đoạn sơ sinh do giảm số lượng bữa ăn trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
11
ngày. Tình trạng này được biểu hiện bằng mức độ insulin và C-peptide không
phù hợp tương ứng với mức glucose huyết tương, giảm nồng độ axit béo tự
do, beta-hydroxybutyrate và protein gắn yếu tố tăng trưởng insulin 1 (do IGF
ức chế sao chép gen -BP1 bằng insulin). Cường insulin được phân thành hai
loại: thoáng qua và dai dẳng.
HĐM cũng có thể xảy ra sau khi phẫu thuật đường tiêu hóa, . Điều
này được ghi nhận là do giải phóng quá nhiều glucagon kiểu peptide-1 dẫn
đến bài tiết insulin quá mức.
HĐM cũng có thể liên quan đến đái tháo đường thai kỳ và việc điều
trị của mẹ. Các kỹ thuật mới giúp hỗ trợ phát hiện và ngăn ngừa tình trạng
này, bao gồm cả máy theo dõi glucose máu liên tục. Nó cũng quan trọng
để loại trừ suy thượng thận nếu trẻ mắc tiểu đường tuýp 1 bị HĐM kéo
dài. Suy thượng thận có thể liên quan đến bệnh tiểu đường type 1 vì thiếu
cortisol có liên quan đến tăng độ nhạy insulin.
Các nguyên nhân khác gây HĐM do cường insulin như do thuốc (thuốc
chẹn beta, thuốc hạ áp đường uống, thuốc kháng vi-rút hoặc thuốc chống loạn
nhịp tim). Cường insulin cũng có thể liên quan đến hội chứng Beckwith
Wiedemann, hội chứng Kabuki, hội chứng Costello và hội chứng Turner.
Bệnh dự trữ glycogen bao gồm các rối loạn liên quan đến khiếm
khuyết của các enzyme có liên quan đến vận chuyển glucose, tổng hợp
glycogen và phân giải glycogen.
Rối loạn bẩm sinh glycosyl hóa: do khiếm khuyết glycosyl hóa và
có thể xuất hiện với nhiều loại và đặc điểm kiểu hình trong đó type 1b
liên quan đến sự thiếu hụt phosphomannose isomerase với đặc trưng gây
HĐM [40]
Các nguyên nhân do giảm sản xuất / dự trữ glycogen [6] hay gặp
như: non tháng, thai chậm phát triển trong tử cung (15% HĐM), nhập năng
lượng không thích hợp, cho ăn muộn sau sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
12
Các nguyên nhân do tăng sử dụng và / hoặc giảm sản xuất glucose
hay gặp như: nhiễm khuẩn sơ sinh (NKSS), sốc, ngạt, hạ thân nhiệt, suy hô
hấp (SHH), các rối loạn chuyển hóa carbohydrate (bệnh dự trữ glycogen,
bất dung nạp fructose, galactosemie), thiếu nội tiết tố (suy thượng thận,
giảm các hormon vùng dưới đồi, suy tuyến yên bẩm sinh, thiếu glucagon,
thiếu epinephrine), rối loạn chuyển hóa amino acid, trẻ lớn cân so với tuổi
thai, mẹ tiểu đường, tăng sản tế bào β tụy, cường insulin khu trú hoặc lan
tỏa, sơ sinh tăng đáp ứng tạm thời quá mức, hội chứng Beckwith-
Weideman (macrosomia, lưỡi to, đầu nhỏ, thoát vị rốn, HĐM và lớn tạng
đặc), tuốc dùng cho mẹ: chloropamide (diabenese), lợi tiểu thiazide, beta-
giao cảm (terbutalin), thuốc ức chế β (labetalol, propranolol), truyền dịch
ưu trương trong chuyển dạ, catheter động mạch rốn sai vị trí, ngưng đột
ngột dịch truyền glucose nồng độ cao, sau thay máu.
1.2.2. Các yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu sơ sinh sớm
- Về phía con:
+ Trẻ nhẹ cân, suy dinh dưỡng bào thai < 2500gr
+ Trẻ đẻ non
+ Trẻ già tháng
+ Trẻ > 4000gr
+ Trẻ sinh đôi
+ Trẻ nhiễm khuẩn sơ sinh (NKSS)
+ Trẻ bị ngạt
+ Trẻ hạ thân nhiệt
+ Trẻ truyền thay máu
+ Các hội chứng bẩm sinh (ví dụ, Beckwith-Wiedemann) và các dị
tật bẩm sinh (ví dụ, dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt, dương vật nhỏ,...) [50].
+ Trẻ mắc một số bệnh lý giai đoạn sơ sinh như: vàng da tăng
Billirubin tự do (VDTBTD), đa hồng cầu sơ sinh (ĐHCSS), SHH,….
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
13
+ Trẻ bú sữa mẹ muộn sau khi sinh (sau 1 giờ sau sinh): sữa mẹ và sữa
công thức có thể giúp làm ổn định đường máu ở trẻ có mẹ bị tiểu đường và
ngăn ngừa HĐM. Trong khi sữa công thức có sẵn và được sử dụng thường
xuyên thì sữa mẹ thường ít được quan tâm sử dụng khi mẹ có tiểu đường, dẫn
đến những biến chứng cho trẻ sơ sinh bệnh lý có mẹ tiểu đường trong thai kỳ.
Bên cạnh đó, cũng nhiều lý do khiến trẻ không được bú sữa mẹ như: điều kiện
sống thấp, béo phì, mẹ hút thuốc, trình độ dân trí thấp, sinh non, trẻ bị tách mẹ
cũng dẫn tới những biến chứng của tiểu đường thai kỳ. Lợi ích của việc bú
sữa mẹ sớm đối với trẻ cũng như mẹ đã khiến sữa mẹ trở thành lựa chọn hàng
đầu, đặc biệt với trẻ có mẹ tiểu đường thai kỳ [28].
Bác sĩ lâm sàng cần chẩn đoán và kiểm soát HĐM, thúc đẩy việc ăn sữa
mẹ tránh việc trẻ phải nằm phòng chăm sóc đặc biệt cũng như ngăn việc tăng
đường máu do sự mất ổn định đường máu và các biến chứng thần kinh sau
này [16].
- Về phía mẹ:
+ Mẹ bị đái tháo đường
+ Mẹ tăng cân quá mức
+ Mẹ được truyền glucose trong quá trình chuyển dạ (QTCD)khi
sinh hay sử dụng các thuốc chống HĐM có nguy cơ bị HĐM khi sinh [91].
+ Mẹ dùng thuốc propranolon, cocain, amphetamin
+ Mẹ có sốt trong QTCD [32].
Nghiên cứu của Kamath và cộng sự trên 672 bà mẹ mang đơn thai
và được chỉ định mổ lấy thai cho thấy, việc mổ lấy thai (MLT) làm tăng
nguy cơ trẻ phải nhập viện vì HĐM [51].
1.2.3. Liên quan hạ đường máu với phân loại sơ sinh
1.2.3.1. Phân loại sơ sinh
Mục đích của phân loại sơ sinh là để có kế hoạch chăm sóc và tầm soát
sớm bệnh lý của từng loại sơ sinh giúp điều trị sớm nhằm hạn chế tử vong sơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
14
sinh. Từ năm 1963 Luchenco đã phân loại sơ sinh dựa vào cân nặng theo tuổi
thai, tuổi thai được đánh giá dựa vào tiêu chuẩn sản khoa hoặc dựa vào hình
thái nhi khoa theo Varrier Farr. Ngày nay Tổ chức y tế thế giới (World Health
Organization – WHO) đã dùng phân loại của Luchenco làm tiêu chí để phân
loại sơ sinh. Phân loại sơ sinh theo WHO như sau [4]:
Sơ sinh đủ tháng (SSĐT)
- Tiêu chuẩn chẩn đoán:
+ Tuổi thai từ 37 tuần - 41 tuần 6 ngày.
- Dựa vào cân nặng so với tuổi thai có thể phân thành 3 loại:
+ Sơ sinh đủ tháng cân nặng tương ứng so với tuổi thai
+ Sơ sinh đủ tháng cân nặng thấp so với tuổi thai
+ Sơ sinh đủ tháng cân nặng lớn so với tuổi thai
Sơ sinh non tháng (SSNT)
- Tiêu chuẩn chẩn đoán:
+ Tuổi thai từ < 37 tuần
- Các mức độ non tháng: Có 3 mức độ non tháng theo tuổi thai:
+ Loại cực non: SSNT < 28 tuần
+ Loại rất non: SSNT 28 - 33 tuần
+ Loại non tháng: SSNT > 33 - 37 tuần.
- Dựa vào cân nặng so với tuổi thai có thể phân thành:
+ Sơ sinh non tháng cân nặng tương ứng với tuổi thai < 28 tuần, 28
- 32 tuần
+ Sơ sinh non tháng 33-37 tuần cân nặng tương ứng với tuổi thai
+ Sơ sinh non tháng 33-37 tuần cân nặng thấp hơn so với tuổi thai
+ Sơ sinh non tháng 33-37 tuần cân nặng lớn hơn so với tuổi thai
Sơ sinh già tháng
- Tiêu chuẩn chẩn đoán:
+ Tuổi thai ≥ 42 tuần.
+ Và /hoặc Da bong khi miết nhẹ hoặc bong tự nhiên, rốn héo vàng
hoặc xanh thẩm, hoặc móng tay, móng chân dài vàng hoặc xanh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
15
Bảng 1.1. Phân độ già tháng Cliffort
Độ già tháng Độ 1 Độ 2 Độ 3
Da bong Khi miết Bong tự nhiên Bong từng mảng nhiều vị trí
Cuống rốn Héo Vàng úa Xanh thẫm phân su
Dài Dài, vàng Dài, xanh thẫm màu phân su Móng tay móng chân
- Dựa vào cân nặng so với tuổi thai có thể phân thành 3 loại:
+ Sơ sinh già tháng cân nặng tương ứng so với tuổi thai
+ Sơ sinh già tháng cân nặng thấp so với tuổi thai
+ Sơ sinh già tháng cân nặng lớn so với tuổi thai
Theo Nguyễn Công Khanh, thời kỳ sơ sinh có thể chia làm hai giai
đoạn là: Thời kỳ sơ sinh sớm (7 ngày đầu sau sinh) và thời kỳ sơ sinh muộn
(từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 28 sau sinh) [4]. Trong đó, hạ đường máu ở thời
kỳ sơ sinh sớm thường không có triệu chứng và được coi là hệ quả của sự
thích nghi với cuộc sống bên ngoài [26]. Nghiên cứu của Zhou và cộng sự
năm 2015 trên 668 trẻ sơ sinh cho thấy, tỷ lệ hạ đường máu ở nhóm trẻ sơ
sinh dưới 7 ngày tuổi là 21,1%, ở nhóm trẻ từ 8 đến 14 ngày tuổi và trên 14
ngày tuổi, tỷ lệ này lần lượt là 3% và 1,9%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
lớn theo biến ngày tuổi (χ2 = 41,1; p < 0,001), tỷ lệ hạ đường máu trong vòng
bảy ngày tuổi cao hơn hẳn so với nhóm từ 8 đến 14 ngày tuổi và trên 14 ngày
tuổi) có ý nghĩa thống kê với lần lượt (χ2 = 18,3; p < 0,001) và (χ2 = 10,9; p <
0,001), trong khi đó không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm từ
8 đến 14 ngày tuổi và trên 14 ngày tuổi. Điều này gợi ý rằng, hạ đường máu
hầu như chỉ xảy ra ở giai đoạn sơ sinh sớm [86].
1.2.3.2. Sơ sinh đủ tháng và hạ đường máu
Trẻ khi còn trong bụng mẹ nhận được sự cung cấp glucose liên tục từ
mẹ qua nhau thai, sau khi sinh ra, sự cung cấp này bị dừng đột ngột, do đó
trẻ phải tự cung cấp glucose cho chính mình cho đến khi được bữa ăn, bữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
16
bú đầu tiên. Trong thời gian này, có thể xảy ra các đợt HĐM. Đối với trẻ sơ
sinh đủ tháng khỏe mạnh, thì các chức năng giúp điều chỉnh đường máu
gần như là hoàn chỉnh do đó không cần can thiệp vào quá trình cho trẻ bú
tự nhiên ở nhóm này. AAP và WHO khuyến cáo nên sàng lọc đường máu
cho nhóm trẻ nguy cơ và có triệu chứng tuy nhiên không cần thiết sàng lọc
đường máu thường quy cho tất cả các trẻ sơ sinh. Dù vậy, vẫn có những ý
kiến lo ngại về việc HĐM không có triệu chứng mà không được phát hiện
sẽ để lại di chứng thần kinh. Một số nghiên cứu đã báo cáo rằng di chứng
thần kinh sau HĐM có tỷ lệ 35% ở nhóm có triệu chứng và lên tới 20% ở
nhóm không có triệu chứng. Nguyên nhân có thể do nguyên phát, cho trẻ
bú sai, trẻ không ngậm bắt được núm vú, do mẹ sử dụng an thần hay đau
sau đẻ và không cho trẻ bú sớm. Những vấn đề này xảy ra cả ở trẻ sơ sinh
đủ tháng khỏe mạnh và bệnh lý [66].
Nghiên cứu Edwin Dias và Sandeep Gada năm 2014 trên 100 trẻ sơ
sinh khi đo đường máu vào các thời điểm 0, 3, 6, 12, 24 giờ sau đẻ, nồng độ
glucose trong máu thấp nhất ở 0 giờ và 6 giờ và đạt tối đa ở 24 giờ. Khi mới
sinh, mức đường máu trung bình thấp nhất ở nhóm trẻ sơ sinh 34-36 tuần và
40-42 tuần. Tuy nhiên, sau 3 giờ, mức đường huyết trung bình tăng lên ở trẻ
sơ sinh 34-36 tuần, nhưng vẫn thấp ở trẻ sơ sinh 40-42 tuần. Điều này tương
đồng với các nghiên cứu khác, nơi trẻ sinh non có nồng độ glucose trong máu
trung bình thấp hơn trong vài giờ đầu sau sinh so với trẻ đủ tháng [34].
1.2.3.3. Sơ sinh non tháng và hạ đường máu
Trẻ sinh non bị hạn chế cả nguồn cung cấp cũng như dự trữ năng lượng
để chuyển hóa cacbonhydrate. Thêm vào đó, các cơ quan tham gia điều hòa
và chuyển hóa năng lượng như gan, tụy, não và các tuyến nội tiết đều chưa
phát triển hoàn chỉnh. Do đó, HĐM ở trẻ sơ sinh non tháng phổ biến hơn so
với trẻ sơ sinh đủ tháng. HĐM cũng hay gặp hơn ở trẻ sơ sinh nhỏ hơn tuổi
thai và trẻ bị ngạt chu sinh [84]. Trẻ sinh non có nguy cơ lớn phát triển thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
17
HĐM sau khi sinh bởi vì quá trình phân giải glycogen ở gan và phân giải lipid
ở mô mỡ còn non yếu, điều hòa nội tiết kém, và quá trình tổng hợp glycogen,
ceton ở gan còn thiếu. Nồng độ đường trong máu ở những trẻ sinh non thường
giảm xuống thấp nhất tại thời điểm 1-2 giờ sau khi sinh và vẫn ở mức thấp
cho đến khi con đường trao đổi chất có thể bù đắp được. Thời kỳ bào thai
chức năng dự trữ glucose dưới dạng glycogen chỉ có sau 35 tuần tuổi thai. Trẻ
sinh non trước thời gian đó hầu như không có glycogen dự trữ dưới 10g%
trong khi đó glycogen dự trữ ở trẻ đủ tháng khoảng 34g%. Lượng glycogen ở
gan được đánh giá bằng test glycogen: ở trẻ sơ sinh đủ tháng chỉ cần tiêm bắp
30µg glucagon chúng ta gây tăng đường máu trong thời gian dài 12-24 giờ, ở
trẻ sinh non phải tiêm 300µg glucagon trong tuần lễ đầu và 30µg từ tuần thứ
hai trở đi mới gây được tăng đường máu và cũng chỉ trong thời gian ngắn là 12
giờ . Trẻ sinh non sử dụng glucose rất kém chỉ có 60% và chủ yếu ở các tổ
chức ngoài gan, bên cạnh cơ chế điều hòa glucose chưa hoàn chỉnh cùng với đó
lượng đường trong máu ở trẻ sinh non là thấp hơn nên đó cũng là lý do HĐM
rất hay xảy ra ở nhóm trẻ này. Tỷ lệ HĐM ở trẻ sơ sinh non tháng cao gấp 2 -3
lần so với trẻ sơ sinh đủ tháng và trẻ sơ sinh non HĐM có nguy cơ nhập viện
cao hơn [27].
Hạ đường máu là một trong những vấn đề phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh, đặc
biệt là ở trẻ sinh non, HĐM có triệu chứng hoặc không có triệu chứng có thể gây
ra các biến chứng quan trọng có thể gây tử vong hoặc chậm phát triển sau này
trong đời. Nhưng nếu được phát hiện điều trị sớm, theo nghiên cứu của Rachel
Goode và cộng sự, không có sự khác biệt đáng kể nào về trí tuệ và thành tích học
tập của trẻ sinh non có HĐM và không HĐM [43]. Bên cạnh đó nghiên cứu của
Win Tin và cộng sự năm 2012 trên 543 trẻ sơ sinh < 1850 gram được đường
kiểm soát đường huyết sau sinh, liên kết chăm sóc với bệnh viện, tuổi thai, cân
nặng khi sinh cho đến khi 2 tuổi cũng không nhận thấy sự khác biệt về thể lực
cũng như tâm lý cho đến khi trẻ được 15 tuổi [79].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
18
1.2.3.4. Sơ sinh già tháng và hạ đường máu
Ở trẻ sơ sinh già tháng, vì quá ngày nên thai bị nuôi dưỡng kém do
nhau thai bị hủy hoại, mạch máu rốn bị tắc, tế bào nhau lắng đọng fibrin canxi
hóa dẫn đến rối loạn vận chuyển các chất dinh dưỡng. Lớp mỡ dưới da mỏng
dần, cân nặng giảm đi, vì vậy trẻ sinh ra có có hình dạng giống như trẻ chậm
phát triển trong tử cung, đây là nhóm trẻ có nguy cơ cao về các bệnh lý giai
đoạn sơ sinh sớm đặt biệt là hạ đường máu.
1.2.3.5. Sơ sinh Lớn cân so với tuổi thai và hạ đường máu
Trẻ sơ sinh Lớn cân so với tuổi thai – small for gestational age (SGA)
nguy cơ HĐM cũng dễ xảy ra vì trong những ngày đầu năng lượng cung cấp chủ
yếu dựa vào các dự trữ đường, nếu thiếu cơ thể sẽ huy động thêm các dự trữ mỡ
vùng bả vai, trung thất, quanh thận và cuối cùng nếu cần là dự trữ đạm. Ở trẻ sơ
sinh SGA kho dự trữ glycogen và acid béo nghèo nàn, sự tân sinh glucose không
hiệu quả, khối hồng cầu tăng, kèm có sự tiêu thụ lớn ở não do tỷ trọng của não
so với trọng lượng của cơ thể lớn trong khi đó glucose là nguồn cung cấp năng
lượng duy nhất cho tổ chức thần kinh và não sử dụng cho quá trình trao đổi
chất và nhiều tác giả cũng không tìm thấy hiện tượng cường insulin thứ phát
ở nhóm sơ sinh này [31]. Nghiên cứu của Ahmad và cộng sự năm 2012 trên
502 trẻ sơ sinh cho thấy nồng độ glucose trong máu ở trẻ sơ sinh có cân nặng
thấp < 2,5 kg luôn thấp hơn đáng kể so với nhóm trẻ sơ sinh có cân nặng >
2,5 kg [89]. HĐM ở trẻ sơ sinh rất nhẹ cân nguy cơ tử vong cao hơn. Trẻ sơ
sinh rất nhẹ cân có nguy cơ HĐM cao hơn hẳn do dự trữ glycogen và lipid bị
hạn chế trong khi đó dự trữ này chỉ đủ cho đến quý thứ ba của thai kỳ, trong
các thí nghiệm gần đây cho thấy HĐM sơ sinh dẫn tới não thiếu năng lượng,
tăng tình trạng kích thích do nhiễm độc và stress oxy hóa gây ra nitrat hóa
protein và peroxy hóa lipid [38]. Trẻ sơ sinh rất nhẹ cân có thời gian nằm viện
hay tỷ lệ tử vong đều cao hơn nếu có HĐM. Tổn thương não không hồi phục
chiếm tỷ lệ từ 25 - 50% trẻ dưới 6 tuổi có triệu chứng của HĐM nặng. Ngoài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
19
ra thiếu oxy não hay thiếu máu não do HĐM cũng sẽ dẫn tới tổn thương não
không hồi phục [77].
1.2.3.6. Sơ sinh Lớn cân so với tuổi thai và hạ đường máu
Trẻ sơ sinh có cân nặng lớn hơn so với tuổi thai – large for gestational
age (LGA) hay gặp ở những bà mẹ có đái tháo đường đang có xu hướng ngày
càng tăng lên. Trẻ sơ sinh LGA sẽ có nguy cơ HĐM [62]. Bài tiết insulin là
một yếu tố chính quyết định đến môi trường tồn tại của thai. Sự đáp ứng bài tiết
insulin chậm sau ăn và bài tiết insulin không đủ lúc đói dẫn đến hậu quả tăng
đường máu kéo dài và tăng lượng glucose tới thai. Insulin trong huyết thanh
của mẹ ảnh hưởng lớn tới nguồn năng lượng nội sinh, đặc biệt là ceton qua
nhau thai dễ dàng và đây là nguồn cung cấp năng lượng đáng kể cho thai. Sự
hình thành và hoạt động sớm của tiểu đảo tụy nội tiết của thai có ảnh hưởng lớn
đến tới mối quan hệ qua lại giữa nguồn năng lượng mẹ và con. Tăng cung cấp
năng lượng từ mẹ làm tăng tiết insulin của thai, lượng insulin thêm này làm
tăng quá trình giữ các chất dinh dưỡng do mẹ cung cấp. Hậu quả là thai to gây
các biến chứng chuyển hóa hay gặp nhất là HĐM sơ sinh trong những ngày đầu
sau đẻ. Nghiên cứu của Akin và cộng sự năm 2010 trên 829 trẻ sơ sinh quá
dưỡng có cân nặng > 4 kg và nhóm trẻ sơ sinh có cân nặng từ 2,5 kg – 4 kg cho
thấy HĐM xảy ra nhiều hơn cũng như các bệnh lý giai đoạn sơ sinh như ngạt,
đa hồng cầu ở nhóm trẻ sơ sinh quá dưỡng [18].
1.3. Các nghiên cứu về hạ đường máu
1.3.1. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Kiều Nhi tại Huế năm
2003, HĐM sơ sinh gặp chủ yếu ở nhóm sơ sinh đủ tháng, cân nặng lớn hơn
so với tuổi thai với tỷ lệ là 10,8% [7].
Cũng theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kiều Nhi năm 2010 trên
trẻ sơ sinh giai đoạn sớm, tỷ lệ HĐM cao nhất ở loại SSNT <37 tuần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
20
(36,59%) tiếp đến là loại SSGT ≥ 42 tuần (19,78%) và thấp nhất ở loại SSĐT
38 – 42 tuần (10,42%) [8].
Nghiên cứu của Lê Minh Trác và cộng sự năm 2012 tại bệnh viện Phụ
sản Trung Ương cho thấy có 22% số trẻ sơ sinh non tháng và nhẹ cân có
HĐM [11].
Theo Vũ Thị Vân Yến và cộng sự nghiên cứu năm 2012 trên 667 trẻ đẻ
non, nhóm trẻ có đường huyết ≤ 2,2 mmol/l có nguy cơ tử vong cao gấp 1,87
lần so với nhóm trẻ có đường huyết 2,3 – 6,9 mmol/l [14].
Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh
trong giai đoạn sơ sinh sớm thấy tỷ lệ HĐM sơ sinh là 19,8%, tỷ lệ HĐM ở
sinh non tháng là 30,5%, sơ sinh già tháng và rối loạn chuyển hóa nhau là
16,2%; sơ sinh đủ tháng là 14,9% [13].
Theo Đậu Quang Liêu nghiên cứu năm 2015 trên 84 trẻ sơ sinh non
tháng điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện đa khoa Saint Paul cho thấy hơn một
nửa số trường hợp (45/84) được phát hiện có tình trạng HĐM [5].
Theo nghiên cứu của Trần Thị Thu Hà và Ngô Thị Oanh năm 2015 trên
245 sơ sinh tại Bệnh viện C Thái Nguyên, tỷ lệ HĐM sơ sinh là trong nghiên
cứu là 26,5%, HĐM gặp nhiều ở trẻ nam 61,8% nhưng không có ý nghĩa thống
kê, hạ glucose máu chiếm tỷ lệ cao ở trẻ có cân nặng > 4000g (44,6%), thấp
nhất ở nhóm trẻ có cân nặng từ 2500gram đến 3999gram (15,3%). Tỷ lệ hạ
glucose máu ở nhóm trẻ đẻ non là cao nhất 49%, thấp nhất ở nhóm trẻ đủ
tháng 16,9%. Tỷ lệ hạ glucose máu cao nhất trong nhóm trẻ vào viện < 24 giờ
(47%) [2].
Theo Nguyễn Thu Hằng, nghiên cứu năm 2016 ở 395 trẻ sơ sinh nhỏ
hơn tuổi thai, tỷ lệ HĐM ở trẻ nhỏ so với tuổi thai chiếm tỷ lệ 18,7%. Tỷ lệ hạ
glucose máu giảm dần theo độ tăng dần của tuần tuổi. HĐM chiếm tỷ lệ cao
nhất ở nhóm trẻ < 28 tuần tuổi và thấp nhất ở nhóm trẻ > 37 tuần [3].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
21
Theo nghiên cứu của Lê Thị Thanh Tâm năm 2017 trên các bà mẹ có
đái tháo đường thai kỳ tại Vinh (Nghệ An) từ năm 2013 – 2015 cho thấy tỷ
lệ HĐM sơ sinh là 3,9%. Nếu phân chia theo nhóm điều trị thì tỷ lệ HĐM sơ
sinh trong nhóm điều trị insulin cao nhất là 36,4%; nhóm không tuân thủ
phối hợp insulin chiếm 22,2% và nhóm điều trị bằng chế độ ăn và luyện tập
chiếm 1,4% [9].
Theo Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên nghiên cứu trên 108
trẻ sơ sinh nhẹ cân từ 2016 – 2018 tại Huế, tỷ lệ HĐM ở trẻ sơ sinh nhẹ cân là
38%, tỷ lệ hạ glucose máu cao ở nhóm trẻ sơ sinh có cân nhỏ hơn tuổi thai và
đẻ non là 52,6%, cao hơn nhóm cân nặng phù hợp với tuổi thai, cao nhất ở
nhóm nhiễm khuẩn sơ sinh 63,4% [12] .
1.3.2. Các nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về hạ đường máu ở trẻ sơ sinh.
Nghiên cứu của Croke năm 2009 trên trẻ sơ sinh đủ tháng có cân nặng
lớn hơn so với tuổi thai và nhỏ hơn so với tuổi thai, có 26% trẻ sơ sinh đủ
tháng Nhẹ cân so với tuổi thai bị HĐM và 17% trẻ sơ sinh đủ tháng Lớn cân
so với tuổi thai có nồng độ thấp hơn 2,6 mmol/l [29].
Nghiên cứu của Mejri và cộng sự nghiên cứu năm 2010 trên 187 sơ
sinh nhẹ cân so với tuổi thai tỷ lệ hạ đường máu là 26% [55].
Nghiên cứu của Najati và Saboktakin năm 2010 trên 14168 trẻ sơ sinh,
tỷ lệ HĐM là 6,1% trong số trẻ nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt, 59,6% ở
trẻ sinh non, 59,6% ở trẻ thấp cân so với tuổi thai, 40,4% ở trẻ có cân nặng rất
thấp [58].
Nghiên cứu của Jonas và cộng sự năm 2012 trên 145 trẻ có nguy cơ HĐM
sàng lọc từ 1074 cho thấy có 17 trẻ HĐM dưới 40 mg/dl (2,2 mmol/l), tương ứng
với tỷ lệ là 11,7%. Không có sự khác biệt giữa tỷ lệ HĐM giữa trẻ có một yếu tố
nguy cơ với trẻ có hai yếu tố nguy cơ [49].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
22
Nghiên cứu của Singh và cộng sự năm 2014 trên 125 trẻ sơ sinh cho
thấy tỷ lệ HĐM là 15,2%, trong đó gặp ở nam (32,7%) nhiều hơn so với nữ
(13,33%), thường gặp từ 0-24 giờ sau đẻ ( 63,15%) so với 48-72 giờ
(15,78%) [73].
Nghiên cứu của Edwin Dias và Sandeep Gada năm 2014 trên 100 trẻ sơ
sinh cho thấy giá trị đường máu thấp nhất ở lúc 6 giờ và cao nhất ở lúc 24 giờ sau
sinh. Đường máu ở trẻ sinh đường dưới luôn cao hơn ở cùng thời điểm so với trẻ
được MLT ở cùng thời điểm, có gần 19,6% trẻ MLT HĐM so với tỷ lệ 14,2% ở
trẻ đẻ đường dưới [34].
Nghiên cứu của Nihan Hilal Hosagasi và cộng sự năm 2018 trên 207
trẻ sơ sinh, tỷ lệ HĐM ở các nhóm sơ sinh có nguy cơ bao gồm mẹ tiểu đường
thai kỳ, nhỏ hơn so với tuổi thai, lớn hơn so với tuổi thai và sơ sinh non muộn
lần lượt là 16,6%, 12,7%, 12,2% và 34% [47].
Nghiên cứu của Bromiker năm 2019 trên 3595 trẻ, có 3,4% trẻ có
đường máu < 40mg/dl, 12,1% trẻ có đường máu dưới 47 mg/dl. Phân tích đơn
biến cho thấy thai đủ tháng, tiểu đường của mẹ, cân nặng lúc sinh thấp (<2500
g) và sinh đôi có liên quan đến HĐM ở trẻ sơ sinh sớm. Các yếu tố nguy cơ
khác (ví dụ: thai non tháng hay già tháng, trọng lượng sơ sinh> 3800 g) thì
không có mối liên quan. Trong phân tích đa biến, chỉ có tuổi thai là biến có
liên quan mạnh nhất, trong khi mẹ có tiểu đường thai kỳ và cân nặng lúc sinh
thấp không có ý nghĩa thống kê [26].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
23
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm các bệnh nhân sơ sinh có đặc điểm sau
- Tất cả trẻ sơ sinh vào điều trị tại Phòng Chăm sóc đặc biệt (Intensive
Care Unit – ICU), khoa Sơ sinh - Cấp cứu nhi, Trung tâm Nhi khoa, Bệnh
viện Trung Ương Thái Nguyên.
- Tuổi trẻ sơ sinh từ 1 - 7 ngày tuổi.
- Mẹ của các trẻ sơ sinh trên.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Chỉ lựa chọn trong số bệnh nhân nói trên, được lấy máu và làm xét
nghiệm đường máu tại thời điểm vào điều trị tại phòng ICU, khoa Sơ sinh -
Cấp cứu nhi, Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
Trong quá trình nghiên cứu loại trừ các bệnh nhân sau:
- Sơ sinh không được làm xét nghiệm đường máu hoặc được làm xét
nghiệm đường máu nhưng kết quả đường máu có sự sai lệch do kỹ thuật.
- Gia đình không đồng ý lấy máu làm xét nghiệm hay không đồng ý
tham gia nghiên cứu.
- Hồ sơ bệnh án của con hoặc mẹ không rõ, thiếu dữ liệu nghiên cứu.
2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại khoa Sơ sinh – Cấp cứu Nhi, Trung tâm
Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
Thời gian nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2019
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
24
+ Đối với mục tiêu một là nghiên cứu mô tả: mô tả đặc điểm hạ đường
máu sơ sinh (bao gồm các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của con và một số
đặc điểm của mẹ).
+ Đối với mục tiêu hai là nghiên cứu bệnh - chứng: phân tích mối liên
quan giữa các yếu tố nguy cơ từ mẹ và con với hạ đường máu.
- Thiết kế nghiên cứu được trình bày bằng sơ đồ sau:
SƠ SINH BỆNH LÝ NHẬP KHOA
XÉT NGHIỆM ĐƯỜNG MÁU LÚC VÀO VIỆN
HẠ ĐƯỜNG MÁU
KHÔNG HẠ ĐƯỜNG MÁU
Lựa chọn bệnh nhân tương đồng đặc điểm nuôi dưỡng, cách sinh, giới tính
Đặc điểm hạ đường máu sơ sinh: - Tuổi thai - Triệu chứng - Bệnh lý…
Yếu tố nguy cơ: - Về phía mẹ - Về phía con
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ thiết kế nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
25
2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
Để tính cỡ mẫu nghiên cứu, chúng tôi sử dụng công thức tính cỡ mẫu
áp dụng cho việc ước tính tỷ lệ trong quần thể.
n: Cỡ mẫu nghiên cứu.
α: Là mức ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05 (tương ứng với độ tin cậy 95%).
Z(1-α/2): Tra giá trị bảng, tương ứng với các giá trị của α = 0,05.
Kết quả là: Z(1-α/2) = 1,96.
p: Các nghiên cứu khác nhau cho thấy trẻ sơ sinh hạ đường máu có
triệu chứng chiếm tỷ lệ từ 2% - 8% tùy các nghiên cứu khác nhau [47],
[72], [82].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn 5%.
d: Độ chênh lệch mong muốn là: ± 5% (0,05).
Áp dụng công thức trên thu được kết quả như sau: 73 bệnh nhân. Trên
thực tế, chúng tôi lựa chọn được 106 bệnh nhân có hạ đường máu.
2.3.3. Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu theo kỹ thuật chọn mẫu có chủ đích, trong đó khung mẫu là
tất cả bệnh nhân sơ sinh vào viện điều trị và được làm đường máu ngay tại
thời điểm nhập viện, chọn các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn từ lúc bắt đầu nghiên
cứu đến khi đủ số lượng.
Đối với mục tiêu 1, chúng tôi lựa chọn được 106 sơ sinh sớm hạ đường
máu, đạt tiêu chuẩn nghiên cứu.
Đối với mục tiêu 2, trong thời điểm nghiên cứu chúng tôi chọn bệnh
nhân ngẫu nhiên có tương đồng về giới tính, cách sinh, cách nuôi dưỡng và
đều là sơ sinh bệnh lý nặng phải điều trị tại ICU. Với cách làm như vậy, trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
26
quá trình nghiên cứu chúng tôi lựa chọn được 100 trẻ sơ sinh sớm không hạ
đường máu.
Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi có 106 trẻ sơ sinh sớm hạ
đường máu và 100 trẻ sơ sinh không hạ đường máu, tổng cộng có 206 trẻ
trong nghiên cứu.
2.3.4. Các chỉ số nghiên cứu
2.3.4.1. Các chỉ số nghiên cứu về phía trẻ sơ sinh
- Tuổi thai: bằng cách hỏi bà mẹ ngày kinh cuối cùng và thăm khám
lâm sàng đánh giá tuổi thai theo tiêu chuẩn hình thái nhi khoa phối hợp với
chuẩn phân loại già tháng theo Cliffort.
- Giới: xác định nam hoặc nữ.
- Xác định mức độ dinh dưỡng: bằng cách dựa vào cân nặng và tuổi
thai sau đó đối chiếu trên biểu đồ Luchenco.
- Xác định tuổi thai:
+ Theo tiêu chuẩn sản khoa: Ngày sinh trừ đi ngày đầu kỳ kinh cuối =
tổng số ngày/ 7 = số tuần. Tuy nhiên một số trường hợp không nhớ ngày kinh
cuối cùng có thể áp dụng siêu âm thai sớm trước 12 tuần cho phép xác định
ngày có thai nhưng sai số 5 ngày.
+ Theo hình thái nhi khoa (theo tiêu chuẩn Varrier Farr ở phụ lục).
+ Theo phân loại hình thái già tháng của Cliffort.
+ Gồm các biến số đó là sơ sinh non tháng, sơ sinh đủ tháng, sơ sinh
già tháng.
- Dinh dưỡng (theo biểu đồ Luchenco ở phụ lục):
+ Sơ sinh bình dưỡng: cân nặng tương ứng với tuổi thai (cân nặng nằm
trong miền giới hạn từ trên đường cong 10 bách phân vị đến đường cong 90
bách phân vị của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).
+ Sơ sinh thiểu dưỡng: cân nặng thấp so với tuổi thai (cân nặng dưới
đường cong 10 bách phân vị của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
27
+ Sơ sinh quá dưỡng: cân nặng lớn so với tuổi thai (cân nặng hiện có
trên đường cong 90 bách phân vị của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).
- Bệnh lý giai đoạn sơ sinh: Xác định bằng hỏi tiền sử, bệnh sử thai
nghén và thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng và theo dõi trong 6 ngày đầu sau
sinh. Các bệnh lý thường gặp giai đoạn sơ sinh gồm:
+ Nhiễm khuẩn sơ sinh
+ Đa hồng cầu sơ sinh
+ Suy hô hấp sơ sinh
+ Vàng da tăng bilirubin tự do
+ Dị tật bẩm sinh
+ Bệnh lý tiêu hóa
- Glucose huyết thanh: Xác định dựa vào lấy máu tĩnh mạch lúc vào
viện và được xét nghiệm tại khoa sinh hóa.
- Triệu chứng lâm sàng hạ đường máu:
+ Dễ kích thích: bệnh nhân không giật, các cử động rõ với các kích thích
nhạy cảm như ngừng nắm tay và không kèm theo các bất thường về mắt [73].
+ Xanh tím: là tình trạng bệnh lý đổi màu thành xanh hay tím của da và
niêm mạc.
+ Hạ thân nhiệt: Theo Nguyễn Công Khanh là tình trạng khi thân nhiệt
sơ sinh dưới 36,50C, thân nhiệt được đo ở nách bằng nhiệt kế thủy ngân,
chính xác đên 0,10C [4].
+ Co giật: cơn giật rung (là những cử động nhịp nhàng của các nhóm
cơ và thường đi kèm với những thay đổi trên điện não đồ), cơn co cứng (là
cơn toàn thể hay cục bộ, ở chi, lệch mắt, tư thế thân không đối xứng) và giật
cơ (là những biểu hiện co giật nhanh của các nhóm cơ, giật cơ có tần số nhanh
hơn cơn giật rung).
+ Ngừng thở: là thời gian ngừng thở trên 20 giây hoặc ngừng thở dưới
20 giây kèm theo nhịp tim chậm dưới 100 nhịp/phút, tím tái, xanh xao [36]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
28
+ Li bì: trẻ không đáp ứng tỉnh với kích thích thông thường.
+ Không có triệu chứng HĐM.
- Giờ tuổi nhập viện: tính theo ngày tuổi, từ ngày tuổi thứ nhất đến
ngày tuổi thứ .
- Thời điểm hạ đường máu: là thời điểm lấy máu làm xét nghiệm đường
máu, tính theo ngày.
2.3.4.2. Các chỉ số nghiên cứu về phía mẹ
- Tăng cân của mẹ: xác định bằng cách hỏi bà mẹ cân nặng trước mang
thai và cân nặng thời điểm trước sinh.
- Mẹ có truyền glucose trong QTCD: xác định bằng cách tham khảo hồ
sơ điều trị của mẹ của khoa Sản.
- Mẹ sốt trong QTCD: Xác định bằng cách tham khảo hồ sơ điều trị của
mẹ tại khoa Sản và hỏi người nhà bệnh nhân, mẹ được xác định là sốt khi thân
nhiệt trên 37,50C, thân nhiệt được đo ở nách bằng nhiệt kế thủy ngân, chính
xác đến 0,10C.
- Cách sinh: xác định bằng cách tham khảo hồ sơ điều trị của mẹ tại
khoa Sản và hỏi người nhà bệnh nhân.
2.3.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán chỉ số
2.3.5.1. Chẩn đoán hạ đường máu sơ sinh
Theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ
em của Bộ Y tế 2015:
Hạ đường máu sơ sinh khi nồng độ Glucose huyết thanh < 47 mg/dl
(2,6 mmol/l)
Các mức hạ đường máu :
- Mức HĐM nặng: < 25 mg/dl (1,1 mmol/l)
- Mức HĐM: ≤ 2,5 mg/dl đến < 47 mg/dl
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
29
2.3.5.2 Chẩn đoán loại sơ sinh
- Sơ sinh đủ tháng: là những sơ sinh có tuổi thai từ 37 tuần đến 41 tuần
6 ngày và không có hình thái già tháng theo Cliffort.
+ Sơ sinh đủ tháng bình dưỡng: là những sơ sinh đủ tháng và có cân
nặng tương ứng với tuổi thai (AGA) tức là cân nặng nằm trong miền giới hạn
từ trên đường cong 10 bách phân vị đến đường cong 90 bách phân vị của tuổi
thai trên biểu đồ Luchenco.
+Sơ sinh đủ tháng thiểu dưỡng: Là những sơ sinh đủ tháng và có cân
nặng thấp so với tuổi thai (SGA) (cân nặng dưới đường cong 10 bách phân vị
của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).
+ Sơ sinh đủ tháng quá dưỡng: Là những sơ sinh đủ tháng và có cân
nặng lớn so với tuổi thai (cân nặng hiện có trên đường cong 90 bách phân vị
của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).
- Sơ sinh non tháng: Là những sơ sinh có tuổi thai dưới 37 tuần.
+ Sơ sinh non tháng bình dưỡng: Là những sơ sinh non tháng và có cân
nặng tương ứng với tuổi thai (cân nặng nằm trong miền giới hạn từ trên
đường cong 10 bách phân vị đến đường cong 90 bách phân vị của tuổi thai
trên biểu đồ Luchenco).
+ Sơ sinh non tháng thiểu dưỡng: Là những sơ sinh non tháng và có
cân nặng thấp so với tuổi thai (cân nặng dưới đường cong 10 bách phân vị của
tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).
+ Sơ sinh non tháng quá dưỡng: Là những sơ sinh non tháng và có cân
nặng lớn so với tuổi thai (cân nặng hiện có trên đường cong 90 bách phân vị
của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).
- Sơ sinh già tháng: Là những sơ sinh sơ sinh có tuổi thai từ 42 tuần trở
lên và hoặc có hình thái già tháng theo Cliffort.
+ Sơ sinh già tháng bình dưỡng: là những sơ sinh già tháng và có cân
nặng tương ứng tuổi thai (cân nặng nằm trong miền giới hạn từ trên đường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
30
cong 10 bách phân vị đến đường cong 90 bách phân vị của tuổi thai trên biểu
đồ Luchenco).
+ Sơ sinh già tháng thiểu dưỡng: là những sơ sinh già tháng và có cân
nặng thấp so với tuổi thai (cân nặng dưới đường cong 10 bách phân vị của
tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).
+ Sơ sinh già tháng quá dưỡng: là những sơ sinh già tháng và có cân
nặng lớn hơn so với tuổi thai (cân nặng hiện có trên đường cong 90 bách phân
vị của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).
2.3.5.3 Chẩn đoán bệnh lý giai đoạn sơ sinh.
Chẩn đoán bệnh lý nhiễm khuẩn sơ sinh: Theo Alonso tiêu chuẩn
chẩn đoán nhiễm khuẩn sơ sinh như sau:
Triệu chứng lâm sàng: sốt hoặc hạ thân nhiệt, nhịp tim trên 180 lần/
phút hoặc dưới 100 lần/ phút, nhịp thở trên 60 lần/phút kèm theo thở rên, bão
hòa oxy giảm, trẻ li bì/ thay đổi trạng thái tinh thần, ăn không tiêu.
Triệu chứng huyết động: huyết áp dưới -2SD theo tuổi, huyết áp tâm
thu <50 mmHg vào 1 ngày tuổi và <65 mmHg dưới 1 tháng tuổi.
Tưới máu mô giảm: thời gian làm đầy mao mạch >3s, lactate huyết
thanh >3 mmol/l.
Các marker viêm: Bạch cầu tăng trên 34.000/dL hoặc giảm dưới
5.000/dL, đa nhân trung tính tăng >10%, tiểu cầu giảm < 100.000/dL, CRP
>10 mg/dL hay lớn hơn 2SD so với trị số bình thường, procalcitonin >8,1
mg/dL hay lớn hươn 2SD so với trị số bình thường , IL-6 hoặc IL-8 >70
pg/ml, PCR dương tính.
Khẳng định là nhiễm khuẩn sơ sinh: khi cấy máu hay PCR dương tính
kèm theo có triệu chứng lâm sàng và biểu hiện nhiễm khuẩn, riêng đối với
Coagulase-negative Staphylococcus thì cần dương tính trên hai lần cấy máu
hoặc dương tính trên một lần cấy máu và một lần PC.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
31
Nghi ngờ nhiễm khuẩn sơ sinh: có các dấu hiệu và triệu chứng nhiễm
khuẩn, có ít nhất 2 kết quả xét nghiệm bất thường nhưng cấy máu âm tính.
Có thể nhiễm khuẩn sơ sinh: có các dấu hiệu và triệu chứng nhiễm
khuẩn, CRP tăng hoặc IL-6 hay IL-8 tăng, cấy máu âm tính [85].
Chẩn đoán bệnh lý vàng da tăng bilirubine tự do:
Theo Khu Thị Khánh Dung, chẩn đoán vàng da như sau [1]:
Triệu chứng lâm sàng:
- Triệu chứng vàng da: Da có màu vàng, thường là vàng sáng, vàng
đậm là nặng, có thể nhìn thấy dưới ánh sáng tự nhiên, hoặc khi khám dùng
ngón tay miết trên da trẻ thấy màu vàng. Diễn tiến vàng da thường xuất hiện ở
vùng đầu mặt cổ, sau lan xuống ngực bụng, rồi đến lòng bàn tay, bàn chân là
nặng. Vàng da bệnh lý thường khi vàng da đã lan quá vùng 3 theo phân vùng
của Kramer (bảng 2.1)
Bảng 2.1: Phân vùng vàng da của Kramer với nồng độ bilirubin máu
Nồng độ Vùng Mức độ vàng da bilirubin
1 Mặt, cổ 100 μmol/l
2 ½ thân trên rốn + Vùng 1 150 μmol/l
3 ½ thân dưới rốn + Vùng 1, 2 200 μmol/l
4 Cánh tay, chân (trên mắt cá) + Vùng 1, 2, 3 250 μmol/l
5 Bàn tay, bàn chân + Các vùng trên > 250 μmol/l
- Vàng da có thể xuất hiện sớm ngay sau sinh, vàng da tăng nhanh, tăng
đậm, có thể thiếu máu, gan, lách to: Thường gặp nguyên nhân do bất đồng
nhóm máu mẹ con ABO, Rh, hoặc bệnh hemoglobin và yếu tố kháng nguyên
gây tan máu mạnh.
- Phân luôn có màu vàng (sau giai đoạn phân xu), nước tiểu vàng, phân
biệt với vàng da tăng bilirubin trực tiếp như tắc mật thì phân bạc màu. Lưu ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
32
các trường hợp chậm đào thải phân xu, do nhiễm khuẩn hoặc do dị tật bẩm
sinh như phình đại tràng, có triệu chứng tiêu hóa như nôn trớ, chậm đi ngoài,
bụng chướng.
Xét nghiệm:
Định lượng nồng độ bilirubin toàn phần và gián tiếp trong máu: nồng
độ bilirubin gián tiếp tăng trên 15 mg/dl hay ≥ 220 µmol/l (đối với trẻ sơ sinh
đủ tháng, khỏe mạnh). Đối với trẻ sơ sinh có yếu tố nguy cơ kèm theo, trẻ đẻ
non, trẻ cân nặng thấp, trẻ có bệnh lý tùy từng trường hợp, thì nồng độ
bilirubin thấp hơn đã được coi là bệnh lý và cần can thiệp điều trị ngay.
Chẩn đoán hội chứng đa hồng cầu sơ sinh:
Theo Sarici, trẻ được chẩn đoán là đa hồng cầu sơ sinh khi HCT ≥ 65%
hoặc Hb > 22 g/dl [67] hoặc HCT > 60% kèm hai trong những triệu chứng lâm
sàng sau:
- Da môi đỏ lựng hoặc tím bầm.
- Bú kém hơn trước.
- Nôn mửa hơn trước.
- Li bì, thẫn thờ.
- Thở nhanh, suy hô hấp.
Chẩn đoán hội chứng suy hô hấp: Đánh giá mức độ suy hô hấp theo
chỉ số Silverman, kết hợp với tình trạng xanh tím, đếm nhịp thở, nghe phổi và
đo SpO2.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
33
Bảng 2.2: Đánh giá mức độ suy hô hấp theo chỉ số Silverman [54].
Điểm
0 1 2
Triệu chứng
Di động ngực bụng Cùng chiều Ngực < bụng Ngược chiều
Co kéo cơ liên sườn Không + ++
Lõm trên xương ức Không + ++
Đập cánh mũi Không + ++
Thở rên Không Qua ống nghe Nghe được bằng tai
Trên 6 điểm là có suy hô hấp.
Chẩn đoán ngạt sơ sinh: trẻ sơ sinh bị gọi là ngạt nếu sau khi sinh
không thở cần phải thực hiện các bước hồi sức. Chẩn đoán dựa vào chỉ số
Apgar, đánh giá theo thang điểm Apgar như sau [30]
Bảng 2.3: Thang điểm Apgar
0 điểm 1 điểm 2 điểm
Nhịp tim Mất nhịp < 100 > 100
Thở chậm, Hô hấp Ngừng thở Tốt, khóc không đều
Gập tay và chân
Cử động Không cử động Vài cử động gập chống lại cử
động duỗi
Phản xạ Nhăn mặt, khóc Không đáp ứng Khóc to, ho, hắt hơi kích thích yếu
Tím đầu chi, Màu sắc da Nhợt nhạt, tím Hoàn toàn hồng hào thân hồng hào
7 – 10 điểm : bình thường
4 – 6 điểm: ngạt
0 – 3 điểm: ngạt nặng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
34
Chẩn đoán dị tật bẩm sinh: chỉ bao gồm các dị tật tim bẩm sinh đã
được chẩn đoán xác định bằng siêu âm tim và các dị tật ngoại hình có thể phát
hiện được qua thăm khám lâm sàng.
Chẩn đoán bệnh lý tiêu hóa: bao gồm các trường hợp bú kém, bỏ bú,
nôn trớ sơ sinh,… đã loại trừ dị tật bẩm sinh đường tiêu hóa bằng các phương
pháp thăm dò chức năng và các bệnh lý khác.
2.3.6. Các bước tiến hành nghiên cứu
Bước 1: Tất cả trẻ sơ sinh bệnh lý vào khoa Nhi có đủ tiêu chuẩn chọn
bệnh sẽ được khám đánh giá tuổi thai, mức độ dinh dưỡng để phân loại sơ sinh.
Bước 2: Được làm xét nghiệm đường máu lúc trẻ sơ sinh bệnh lý vào
khoa.
Bước 3: Khai thác tiền sử bệnh lý, quá trình thai nghén, tham khảo hồ sơ
của mẹ tại khoa Sản góp phần chẩn đoán các bệnh lý sơ sinh cũng như một số yếu
tố nguy cơ mẹ liên quan đến HĐM sơ sinh..
Bước 4: Số liệu sẽ được tổng hợp và thu thập bằng phiếu nghiên cứu.
Bước 5: Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.
2.3.7. Phương pháp định lượng Glucose máu huyết thanh
Chúng tôi tiến hành định lượng glucose huyết thanh bằng phương pháp
hexokinase, đây là phương pháp định lượng glucose chính xác nhất hiện nay.
Bằng việc sử dụng men hexokinase rất đặc hiệu với glucose mà không bị
nhiễu bởi các cacbonhydrat khác. Chúng tôi sử dụng máy xét nghiệm sinh hóa
tự động OLYMPUS AU5800 xuất xứ Mỹ và hóa chất do hãng BECKMAN
COULTER cung cấp. Địa điểm thực hiện tại khoa Sinh hóa Bệnh viện Trung
Ương Thái Nguyên.
Các yếu tố gây ảnh hưởng kết quả:
- Bệnh nhân được lấy máu sau khi ăn hoặc sau khi vừa truyền
glucose xong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
35
- Mẫu máu toàn phần để quá lâu (trên 30 phút) mà không tách huyết
thanh hoặc huyết tương: glucose máu giảm.
- Mẫu huyết thanh, huyết tương: nồng độ ascobate 20 mg/dl gây nhiễu
dưới 3% kết quả, nồng độ bilirubin 684 µmol/l gây nhiễu dưới 10% kết quả,
nồng độ intralipid 700mg/dl gây nhiễu dưới 3% kết quả, nông độ hemoglobin
5g/l gây nhiễu dưới 3% kết quả.
- Mẫu bệnh phẩm vỡ hồng cầu gây sai lệch kết quả nên không thực hiện
với mẫu bệnh phẩm vỡ hồng cầu.
2.4. Tổ chức nghiên cứu và thu thập số liệu
2.4.1. Nhân lực
Bản thân tác giả cùng các cán bộ của khoa Sơ sinh – Cấp cứu nhi,
Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên, các đồng nghiệp
là học viên nội trú, cao học theo học tại khoa và các cán bộ giảng dạy của Bộ
môn Nhi trường đại học Y Dược Thái Nguyên.
2.4.2. Tiến hành thu thập số liệu
Chuẩn bị giấy tờ, phiếu điều tra, bệnh án nghiên cứu. Nhân lực tham
gia nghiên cứu được tập huấn, thống nhất phương pháp thu thập số liệu. Mỗi
lần thăm khám, đánh giá bao gồm 2 cán bộ.
2.5. Xử lý và phân tích số liệu
2.5.1. Làm sạch số liệu
Các phiếu bệnh án thu thập được kiểm tra trước khi nhập số liệu và sau
khi nhập số liệu, các phiếu bệnh án không rõ ràng hoặc không phù hợp phải
được hoàn thiện lại hoặc loại bỏ.
2.5.2. Cách mã hóa
Tất cả các số liệu được nhập vào máy vi tính.
Thu thập số liệu dựa theo phiếu điều tra bằng phương thức phỏng vấn
trực tiếp người mẹ, khám lâm sàng trẻ sơ sinh và ghi nhận các kết quả cận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
36
lâm sàng, kết hợp ghi nhận một số yếu tố nguy cơ mẹ thông qua hồ sơ bệnh
án của mẹ tại khoa Sản Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên.
Số liệu được nhập vào máy tính trên phần mềm SPSS 16.0, các thông
tin được mã hóa bằng số hoặc ký tự riêng đồng thời kiểm tra tính logic.
2.5.3. Xử lý số liệu
Các số liệu được phân tích theo phương pháp thống kê y học. Việc xử
lý, tính toán số liệu và vẽ biểu đồ được thực hiện bằng phần mềm SPSS 16.0.
Các số liệu được xử lý như sau:
Bước 1. Tính tỷ lệ các đặc điểm hạ đường máu ở sơ sinh sớm.
Bước 2. Xác định các yếu tố nguy cơ qua tỷ suất chênh OR và xác định
P như sau:
- So sánh tần số phơi nhiễm với mỗi yếu tố nguy cơ giữa nhóm bệnh và
nhóm chứng. Để tính toán sự kết hợp, số liệu dịch tễ học được trình bày thành
bảng tiếp liên 2x2 như sau:
Bảng 2.4: Bảng tiếp liên 2x2
Bệnh Không bệnh Tổng
Có phơi nhiễm a b a+b
Không phơi nhiễm c d c+d
Tổng a+c b+d a+b+c+d
- Sử dụng công thức tính tỷ suất chênh OR như sau: OR = ad/bc
- Yếu tố nguy cơ được xác định khi OR > 1 và p < 0,05.
- Yếu tố nguy cơ không được xác định khi OR < 1 hoặc OR > 1
nhưng p > 0,05.
2.2.7. Đạo đức nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này được sự thông qua Hội đồng đạo
đức của trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
37
Thu thập thông tin đầy đủ, trung thực, khách quan theo mục tiêu
nghiên cứu.
Giải thích đầy đủ về mục đích nghiên cứu khi khai thác thông tin của
bệnh nhi và mẹ bệnh nhi, để gia đình trẻ tự nguyện tham gia nghiên cứu.
Mọi thông tin của bệnh nhân đều được bảo mật, chỉ được sử dụng làm
nghiên cứu (không dùng vào mục đích khác).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
38
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 6 năm 2019,
trong số trẻ sơ sinh mắc các bệnh lý nặng khác nhau phải vào điều trị tại ICU,
Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, có 106 trẻ sơ sinh
bị hạ đường máu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi như sau:
3.1. So sánh một số đặc điểm sơ sinh sớm hạ đường máu và sơ sinh sớm
không hạ đường máu
Bảng 3.1: So sánh một số đặc điểm sơ sinh sớm hạ đường máu và sơ sinh
sớm không hạ đường máu
Không hạ đường Hạ đường máu máu Đặc điểm
n % n %
65 61,3 58 58,0 Nam Giới 41 38,7 42 40,3 Nữ
70 66,0 78 78,0 AGA Dinh 26 24,5 12 12,0 SGA dưỡng 10 9,4 10 10,0 LGA
11 10,4 17 17,0 Ăn sữa mẹ sớm Nuôi
95 dưỡng 89,6 83 83,0 Ăn sữa mẹ muộn
Nhận xét: Không có sự khác biệt đáng kể về đặc điểm giới tính, dinh
dưỡng, nuôi dưỡng ở hai nhóm sơ sinh có hạ đường máu và sơ sinh sớm
không hạ đường máu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
39
3.2. Đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm
3.2.1. Đặc điểm về giới tính và tuổi thai
Bảng 3.2: Đặc điểm về giới tính và tuổi thai
Phân loại sơ sinh theo tuổi thai Tổng Giới tính Non tháng Đủ tháng
n % n % n %
40 61,5 25 38,5 65 61,3 Nam
19 46,3 22 53,7 41 38,7 Nữ
59 55,7 47 44,3 106 100 Tổng
Nhận xét: trong 106 sơ sinh sớm hạ đường máu phần lớn là trẻ nam
chiếm 61,3%, tỷ lệ nam nữ là 1,58/1. Có 59 trẻ sơ sinh non tháng chiếm tỷ lệ
55,7%; 47 trẻ sơ sinh đủ tháng chiếm tỷ lệ 44,3%. Sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05.
3.2.2. Mức độ hạ đường máu
Biểu đồ 3.1. Mức độ hạ đường máu
Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, ở mức độ nặng
(< 1,1 mmol/l) là 10,4%, mức độ từ 1,1 mmol/l đến dưới 2,6 mmol/l là
89,6%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
40
3.2.3. Đăc điểm hạ đường máu theo ngày tuổi
Biểu đồ 3.2. Đặc điểm hạ đường máu theo ngày tuổi
Nhận xét: Có 82,7% trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu ở ngày tuổi đầu tiên
và số sơ sinh hạ đường máu có xu hướng giảm dần cho đến ngày thứ 7.
3.2.4. Đặc điểm về dinh dưỡng
- Đặc điểm dinh dưỡng
Bảng 3.3: Đặc điểm dinh dưỡng
Cân nặng n %
Nhẹ cân so với tuổi thai 25 23,6
Cân nặng tương ứng tuổi thai 71 67,0
Lớn cân so với tuổi thai 10 9,4
106 100 Tổng
Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, có 71 trẻ cân nặng
tương ứng tuổi thai, chiếm 67,0%; 25 trẻ nhẹ cân so với tuổi thai chiếm
23,6%; 10 trẻ cân nặng lớn hơn so với tuổi thai chiếm 9,4%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
41
- Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm non tháng có hạ đường máu
Bảng 3.4: Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm non tháng có hạ đường máu
Sơ sinh non tháng n %
Nhẹ cân so với tuổi thai 12 20,3
Cân nặng tương ứng tuổi thai 43 72,9
Lớn cân so với tuổi thai 4 6,8
Tổng 59 100
Nhận xét: Trong 59 trẻ sơ sinh sớm non tháng có hạ đường máu: có
12 sơ sinh SGA chiếm 20,3%; 43 sơ sinh AGA chiếm 72,9%; 4 sơ sinh
LGA chiếm 6,8%.
- Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm đủ tháng có hạ đường máu
Bảng 3.5: Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm đủ tháng có hạ đường máu
% Sơ sinh đủ tháng n
14 29,8 Nhẹ cân so với tuổi thai
27 57,4 Cân nặng tương ứng tuổi thai
6 12,8 Lớn cân so với tuổi thai
47 100 Tổng
Nhận xét: Trong 47 trẻ sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu: có 14 sơ
sinh SGA chiếm 29,8%; 27 sơ sinh AGA chiếm tỷ lệ 57,4%; 6 sơ sinh LGA
chiếm 12,8%.
3.2.5. Đặc điểm bệnh lý
- Đặc điểm bệnh lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
42
Bảng3.6: Đặc điểm bệnh lý
n %
43,4 10,4 14,2 4,7 7,5 12,3 7,5 100 46 11 15 5 8 13 8 106
Bệnh lý giai đoạn sơ sinh Suy hô hấp sơ sinh chung Vàng da tăng bilirubin tự do Nhiễm khuẩn sơ sinh Bệnh lý tiêu hóa Đa hồng cầu sơ sinh Ngạt Dị tật bẩm sinh Tổng Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, bệnh lý hay gặp
nhất là suy hô hấp, có 46 trẻ chiếm tỷ lệ 43,4%. Tiếp đến là các bệnh lý:
nhiễm khuẩn sơ sinh, ngạt, vàng da do tăng bilirubin tự do chiếm tỷ lệ lần
lượt là 14,2%; 12,3%, 10,4%. Các bệnh lý khác ít gặp hơn là: đa hồng cầu
sơ sinh, dị tật bẩm sinh, bệnh lý tiêu hóa chiếm tỷ lệ lần lượt là 7,5%; 7,5%
và 4,7%.
- Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu
Bảng 3.7: Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu
n %
Bệnh lý giai đoạn sơ sinh Suy hô hấp sơ sinh chung Vàng da tăng bilirubin tự do Nhiễm khuẩn sơ sinh Bệnh lý tiêu hóa Đa hồng cầu sơ sinh Ngạt Dị tật bẩm sinh Tổng 30 3 6 1 5 10 4 59 50,8 5,1 10,2 1,7 8,5 16,9 6,8 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
43
Nhận xét: Trong 59 trẻ sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu, suy hô
hấp là bệnh lý hay gặp nhất: có 30 trẻ chiếm tỷ lệ 50,8%; tiếp đến là trẻ bị
ngạt, nhiễm khuẩn sơ sinh, đa hồng cầu sơ sinh chiếm tỷ lệ lần lượt là: 16,9%;
10,2%; 8,5%. Các bệnh lý ít gặp hơn là dị tật bẩm sinh, vàng da tăng bilirubin
tự do, bệnh lý tiêu hóa chiếm tỷ lệ lần lượt là: 6,8%; 5,1% và 1,7%.
- Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu
Bảng 3.8: Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu
Bệnh lý giai đoạn % sơ sinh n
Suy hô hấp sơ sinh chung 34,0 16
Vàng da tăng bilirubin tự do 10,4 8
Nhiễm khuẩn sơ sinh 19,1 9
Bệnh lý tiêu hóa 8,5 4
Đa hồng cầu sơ sinh 6,4 3
Ngạt 6,4 3
Dị tật bẩm sinh 8,5 4
Tổng 100 47
Nhận xét: Trong 49 trẻ sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu, bệnh lý
hay gặp nhất là suy hô hấp với 16 trẻ chiếm tỷ lệ 34%. Các bệnh lý hay gặp
tiếp theo là: nhiễm khuẩn sơ sinh, vàng da do tăng bilirubin tự do, bệnh lý tiêu
hóa, dị tật bẩm sinh với tỷ lệ lần lượt là 19,1%; 10,4%; 8,5%; 8,5%. Hai bệnh
lý ít gặp nhất ở nhóm sơ sinh đủ tháng hạ đường máu là ngạt và đa hồng cầu
sơ sinh, đều chiếm 6,4%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
44
3.2.6. Đặc điểm triệu chứng
- Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm
Bảng 3.9: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm
Triệu chứng n %
13 Hạ thân nhiệt 12,3
12 Ngưng thở 11,3
5 Co giật 4,7
9 Dễ kích thích 8,5
9 Li bì 8,5
10 Xanh tím 9,4
48 Không có triệu chứng HĐM 45,3
106 Tổng 100
Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, có 48 trẻ không
có triệu chứng hạ đường máu chiếm 45,3%; các triệu chứng hạ đường máu
hay gặp lần lượt theo thứ tự là: hạ thân nhiệt (12,3%), ngưng thở (11,3%),
xanh tím (9,4%), dễ kích thích (8,5%), li bì (8,5%), co giật (4,7%).
- Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng
Bảng 3.10: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng
Triệu chứng n %
8 Hạ thân nhiệt 13,6
3 Ngưng thở 5,1
4 Co giật 6,8
5 Dễ kích thích 8,5
4 Li bì 6,8
7 Xanh tím 11,8
28 Không có triệu chứng HĐM 47,5
59 Tổng 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
45
Nhận xét: Trong 59 trẻ sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu, có 28 trẻ
không có triệu chứng hạ đường máu chiếm 47,5%. Các triệu chứng hạ đường
máu hay gặp lần lượt theo thứ tự: hạ thân nhiệt (13,6%), xanh tím (11,8%), dễ
kích thích (8,5%), li bì (6,8%), co giật (6,8%), ngưng thở (5,1%).
- Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng
Bảng 3.11: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng
Triệu chứng n %
Hạ thân nhiệt 5 10,6
Ngưng thở 9 19,1
Co giật 1 2,1
Dễ kích thích 4 8,5
Li bì 5 10,6
Xanh tím 3 6,4
Không có triệu chứng HĐM 20 42,6
Tổng 47 100
Nhận xét: Trong số 47 trẻ sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu có 20
trẻ không có triệu chứng hạ đường máu, chiếm 42,6%. Các triệu chứng hạ
đường máu thường gặp ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng lần lượt là: ngưng thở
(19,1%), hạ thân nhiệt (10,6%), li bì (10,6%), dễ kích thích (8,5%), xanh tím
(6,4%), co giật (2,1%).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
46
3.2.7. Đặc điểm tiền sử sản khoa của sơ sinh sớm hạ đường máu
Bảng 3.12: Đặc điểm tiền sử sản khoa của sơ sinh sớm hạ đường máu
Tiền sử sản khoa n %
Tăng cân thai kỳ trên 12kg 27 25,4
Truyền glucose trong QTCD 29 27,4
Sốt trong QTCD 22 20,8
Mổ lấy thai 61 57,5
Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh hạ đường máu, có 27 trẻ có mẹ tăng
trên 12 kg trong thai kỳ chiếm 25,4%; có 36 trẻ có mẹ được truyền glucose
trong QTCD chiếm 27,4%; có 22 trẻ có mẹ sốt trong QTCD chiếm 20,8%; có
61 trẻ được sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai chiếm 57,5%.
3.2.8. Đặc điểm nuôi dưỡng bằng sữa mẹ ở trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu
Bảng 3.13: Đặc điểm nuôi dưỡng bằng sữa mẹ ở trẻ sơ sinh sớm hạ đường
máu (giờ)
n % Ăn sữa mẹ ( giờ)
94 88,7 Muộn > 1 giờ
12 11,3 Sớm ≤ 1 giờ
106 100 Tổng
Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh hạ đường máu, có 94 trẻ ăn sữa mẹ
muộn (> 1 giờ sau đẻ) chiếm 88,7%, có 12 trẻ ăn sữa mẹ sớm (≤ 1 giờ sau đẻ)
chiếm 11,3%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
47
3.3. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm
3.3.1 Một số yếu tố nguy cơ từ mẹ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm
Bảng 3.14: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm từ phía mẹ
p Yếu tố nguy cơ HĐM Không HĐM OR (CI 95%)
1,19 Tăng cân thai kỳ > 12 kg > 0,05 Có Không
27 79 29 20 80 7 Có < 0,001 Mẹ truyền glucose trong QTCD 77 93 Không
Mẹ sốt trong QTCD < 0,01
Mổ lấy thai < 0,001 (0,69-2,08) 5,0 (2.08 – 12,05) 2,65 (1,15 -6,07) 2,63 (1,5 -4,63) Có Không Có Không 22 84 61 45 9 91 34 66
Nhận xét: Trẻ sơ sinh có mẹ tăng cân trong thai kỳ > 12 kg có nguy cơ
hạ đường máu cao gấp 1,19 lần so với trẻ sơ sinh có mẹ tăng cân trong thai kỳ
≤ 12 kg với OR = 1,19 (0,69 – 2,08), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Trẻ sơ sinh có mẹ phải truyền glucose trong QTCD có nguy cơ hạ
đường máu gấp 5 lần so với trẻ có mẹ không phải truyền glucose trong
QTCD, với OR = 5 (2,08 – 12,05), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p < 0,001.
Trẻ có mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ có nguy cơ hạ đườngg máu gấp 2,65
lần so với trẻ có mẹ không sốt trong quá trình chuyển dạ với OR = 2,65 (1,15 –
6,07), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
Trẻ được sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai có nguy cơ HĐM gấp
2,63 lần so với sơ sinh được sinh ra bằng phương pháp khác với OR = 2,63
(1,5 - 4,63), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <
0,001.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
48
3.3.2 Một số yếu tố nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm về phía con
3.3.2.1. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với tuổi thai
Bảng 3.15: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với tuổi thai
Không OR p Yếu tố nguy cơ HĐM HĐM (CI 95%)
59 29 Non tháng
3,07 (1,72 – 5,47) < 0,001 47 71 Sơ sinh khác
Nhận xét: Trẻ sơ sinh non tháng có nguy cơ hạ đường máu cao gấp
3,07 lần so với sơ sinh đủ tháng với OR = 3,07 (1,72 – 5,47) khoảng tin cậy
95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
3.3.2.2. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với đặc điểm dinh dưỡng
- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với đặc điểm dinh dưỡng
Bảng 3.16: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với đặc điểm dinh dưỡng
Không OR p Yếu tố nguy cơ HĐM HĐM (CI 95%)
Có 24 11 Nhẹ cân so với tuổi 2,37 < 0,05 thai (1,09 - 5,13) Không 82 89
Có 63 79 Cân nặng tương ứng 0,39 < 0,01
tuổi thai (0,2 -0,72) Không 43 21
Có 19 10 Lớn cân so với tuổi 1,96 < 0,05 thai (1,16- 4,46) Không 87 90
Nhận xét: Sơ sinh sớm nhẹ cân so với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao
gấp 2,37 lần so với sơ sinh khác với OR = 2,37 (1,09 -5,13), khoảng tin cậy
95%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
49
Sơ sinh sớm cân nặng tương ứng với tuổi thai có nguy cơ gây hạ đường
máu gấp 0,39 lần sơ sinh khác với OR = 0,39 (0,2 – 0,72), khoảng tin cậy
95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
Sơ sinh sớm cân nặng lớn hơn so với tuổi thai có nguy cơ HĐM gấp
1,96 lần so với sơ sinh khác, OR = 1,96 (1,16 – 4,46), khoảng tin cậy 95%, p
< 0,05. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng với đặc điểm dinh
dưỡng
Bảng 3.17: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng với đặc
điểm dinh dưỡng
Không OR p Yếu tố nguy cơ HĐM HĐM (CI 95%)
Có 11 4 2,78 Nhẹ cân so với tuổi thai < 0,05 (1,85 -8,03) Không 95 96
Có 39 21 Cân nặng tương ứng 2,2 < 0,01 tuổi thai (2,17 -4,08) Không 67 79
Có 9 4 2,23 Lớn cân so với tuổi thai > 0,05 (0,66 -7,48) Không 97 96
Nhận xét: Sơ sinh non tháng nhẹ cân so với tuổi thai là yếu tố nguy cơ
hạ đường máu gấp 2,78 lần so với sơ sinh khác với OR = 2,78 và p < 0,05.
Sơ sinh non tháng cân nặng tương ứng tuổi thai là yếu tố nguy cơ
hạ đường máu gấp 2,2 lần so với sơ sinh khác với OR = 2,2 và p < 0,01.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm sơ sinh lớn cân so
với tuổi thai với hạ đường máu sơ sinh với p > 0,05.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
50
- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng với đặc điểm dinh
dưỡng
Bảng 3.18: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng với đặc điểm
dinh dưỡng
Không OR p Yếu tố nguy cơ HĐM HĐM (CI 95%)
13 7 Có 1,86 Nhẹ cân so với tuổi > 0,05 (0,71 -4,86) thai 93 93 Không
24 58 Có 0,21 Cân nặng tương ứng < 0,001 (0,12- 0,39) tuổi thai 82 42 Không
10 6 Có 1,63 Lớn cân so với tuổi > 0,05 (0,57-4,67) thai 96 94 Không
Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm sơ
sinh sớm đủ tháng nhẹ cân so với tuổi thai với hạ đường máu sơ sinh với
p > 0,05.
Trẻ sơ sinh sớm đủ tháng cân nặng tương ứng tuổi thai làm có nguy
cơ hạ đường máu gấp 0,21 lần với OR = 0,21 (0,12 – 0,39) và p < 0,001.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng
lớn cân so với tuổi thai với hạ đường máu với p > 0,05.
3.3.2.3. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với giờ tuổi
Bảng 3.19: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm theo giờ tuổi
p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) Không HĐM
80 45 24 giờ đầu sau sinh 3,76 (2,08-6,8) < 0,001 26 55 Sau 24 giờ
Nhận xét: Trẻ sơ sinh sớm trong vòng 24 giờ đầu có nguy cơ hạ đường
máu cao gấp 3,7 lần so với sau 24 giờ với OR = 3,76 và p < 0,001.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
51
3.2.2.4. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với thời điểm ăn sữa mẹ
đầu tiên
Bảng 3.20: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với ăn sữa mẹ
Không p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) HĐM
Ăn sữa mẹ muộn (sau 1 giờ) 94 87
1,17 (0,51-2,7) > 0,05 Ăn sữa mẹ sớm (trước 1 giờ) 12 13
Nhận xét: Ăn sữa mẹ sớm ăn muộn hơn 1 giờ sau sinh không phải yếu
tố nguy cơ gây hạ đường máu và không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
3.2.2.5. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với một số bệnh lý giai đoạn
sơ sinh
Bảng 3.21: Nguy cơ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với suy hô hấp sơ sinh,
vàng da tăng bilirubin tự do
Không p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) HĐM
Có 46 44 Suy hô hấp 0,98 (0,56-1,69) > 0,05 Không 60 56
Có 11 18 0,52 VDTBTD > 0,05 (0,23 - 1,18) Không 95 82
Nhận xét: Sơ sinh sớm bị suy hô hấp không phải là yếu tố nguy cơ hạ
đường máu với p > 0,05. Sơ sinh sớm bị vàng da tăng biirubin tự do không
phải là yếu tố nguy cơ hạ đường máu với p > 0,05.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
52
Bảng 3.22: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với dị tật bẩm sinh,
bệnh lý tiêu hóa
p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) Không HĐM
Dị tật bẩm sinh 0,53 (0,21 -1,34) > 0,05
Bệnh lý tiêu hóa 0,4 (0,13 -1,2) > 0,05 Có Không Có Không 8 98 5 91 14 86 11 89
Nhận xét: Sơ sinh sớm có dị tật bẩm sinh không phải là yếu tố nguy cơ hạ đường máu với p > 0,05. Sơ sinh sớm có bệnh lý tiêu hóa không phải là yếu tố nguy cơ hạ đường máu với p > 0,05. Bảng 3.23: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với nhiễm khuẩn sơ
sinh, ngạt, đa hồng cầu sơ sinh
p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) Không HĐM
Có 15 6 Nhiễm khuẩn sơ sinh 2,58 (1,96 - 5,95) < 0,05 Không 91 94
Có 13 5 Ngạt 2,65 (1,91 - 6,75) < 0,05 Không 93 95
Có 8 2 Đa hồng cầu sơ sinh 4,0 (1,83 – 18,3) < 0,05 Không 98 98
Nhận xét: Sơ sinh sớm bị nhiễm khuẩn sơ sinh có nguy cơ hạ đường máu gấp 2,58 lần so với sơ sinh không bị nhiễm khuẩn sơ sinh, với OR = 2,58 (1,96 – 5,95), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sơ sinh sớm bị ngạt có nguy cơ bị hạ đường máu gấp 2,65 lần so với sơ sinh không bị ngạt với OR = 2,65 (1,91 – 6,75), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sơ sinh sớm bị đa hồng cầu sơ sinh có nguy cơ hạ đường máu gấp 4 lần sơ sinh không bị đa hồng cầu với OR = 4 (1,83 -18,3), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
53
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm
4.1.1. Đặc điểm về giới tính và tuổi thai
Bảng 3.2 cho thấy, trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, trẻ nam
chiếm số lượng nhiều hơn trẻ nữ (chiếm 61,3%), tỷ lệ nam/nữ là 1,58/1. Điều
này tương tự với nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới cho thấy hạ đường
máu sơ sinh hay gặp ở nam nhiều hơn nữ [25], [26], [84]. Theo Simchen, sơ
sinh nam dường như làm tăng nguy cơ hạ đường máu cùng với thai to, sơ sinh
non tháng, thai chậm tăng trưởng trong tử cung. Trong khi đó giới nam được
coi như là yếu tố dự báo độc lập về hạ đường máu sơ sinh với tiểu đường thai
kỳ, trong nghiên cứu này, sơ sinh nam có khả năng hạ đường máu cao hơn
40% so với sơ sinh nữ, phát hiện này đúng với cả trẻ sơ sinh nhẹ cân so với
tuổi thai và cân nặng tương ứng tuổi thai. Tuy nhiên, để lý giải điều này thì
chưa được rõ ràng, các tác giả cho rằng testeron làm tăng nồng độ insulin dẫn
tới gây hạ đường máu sơ sinh ở trẻ nam nhiều hơn trong khi tác giả khác lại
cho rằng hạ đường máu sơ sinh do sự suy yếu điều hòa trong sản xuất các chất
nền thay thế như ceton [71].
Cũng theo kết quả nghiên cứu của bảng 3.2, trong 106 trẻ sơ sinh sớm
hạ đường máu, có 59 trẻ sơ sinh non tháng chiếm 55,7%; 47 trẻ đủ tháng
chiếm 44,3%. Theo William và cộng sự, trẻ sinh non quá trình phân giải
glycogen ở gan và lipid ở mô mỡ cũng như quá trình tân tạo glucose và ketose
chưa hoàn chỉnh nên trẻ sinh non thường bị HĐM 1-2 giờ đầu sau sinh cho
đến khi quá trình điều hòa glucose được hoàn thiện hoặc trẻ nhận được
glucose ngoại sinh. Do đó, vì nguy cơ HĐM nên khi trẻ sinh non nhập viện
cần thiết phải truyền glucose hơn nhóm trẻ đủ tháng [37]. Trong khi đó nhóm
sơ sinh đủ tháng đã hoàn toàn trưởng thành về mặt sinh lý học các cơ quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
54
trong đó quan trọng nhất là khả năng dự trữ glycogen tại gan cũng như hoạt
động đồng bộ của các enzym tân tạo đường và hormone điều hòa đường máu,
do đó nhóm trẻ đủ tháng ít có nguy cơ HĐM hơn. Nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy kết quả tương tự với các nghiên cứu trên thế giới. Nghiên cứu của
Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh thấy rằng tỷ lệ HĐM ở
nhóm sơ sinh non tháng là 30,5% và đủ tháng là 14,9% [13], trong khi đó
theo nghiên cứu của Đậu Quang Liêu tại khoa sơ sinh bệnh viện Saint Paul
năm 2015 có hơn một nửa (45/84) trẻ sơ sinh non tháng có HĐM [5]. Nghiên
cứu của Yoon Singh và cộng sự năm 2014 trên 125 trẻ sơ sinh cho thấy tỷ lệ
HĐM ở nhóm trẻ sinh non là 19,05% cao hơn so với nhóm đủ tháng 14,42%
[73]. Nghiên cứu của Hogasagi và cộng sự năm 2018 trên 207 trẻ sơ sinh cho
thấy tỷ lệ HĐM ở nhóm trẻ sơ sinh non muộn là 34%[47].
4.1.2. Đặc điểm mức độ hạ đường máu
Biểu đồ 3.1 cho thấy, hầu hết trẻ hạ đường máu có nồng độ đường máu
từ 1,1 mmol/l đến dưới 2,6 mmol/l, chỉ có 10,4% số trẻ sơ sinh sớm hạ đường
máu là hạ đường máu ở mức độ nặng.
Một số nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự nghiên cứu của
chúng tôi. Nghiên cứu của Hogasasi và cộng sự năm 2018 trên 207 trẻ sơ sinh
cho thấy tỷ lệ hạ đường máu nặng là 10%. Trong khi đó nghiên cứu của
Bromiker năm 2019 trên 3595 trẻ sơ sinh bao gồm cả sơ sinh khỏe mạnh và
sơ sinh bệnh lý thì tỷ lệ HĐM nặng là 3,4% [26]. Nhóm trẻ có HĐM nặng này
có nguy cơ tổn thương não cao hơn hẳn so với nhóm trẻ có HĐM từ 1,1 đến
2,6 mmol/l [70]. Nghiên cứu của Trefz và cộng sự trên 10060 trẻ sơ sinh phải
nhập viện vì các bệnh lý khác nhau, tỷ lệ ra viện ở trẻ sơ sinh có nồng độ
đường máu < 1 mmol/l và từ 1,1 mmol/l – 1,9 mmo/l chỉ có lần lượt là 9,6%
và 26,4% [81]. Vì vậy cần chú ý theo dõi sát nồng độ đường máu trong suốt
quá trình nằm viện cũng như sự phát triển về tinh thần của nhóm trẻ này sau
khi ra viện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
55
4.1.3. Đặc điểm hạ đường máu theo ngày tuổi
Kết quả nghiên cứu ở biểu đồ 3.2, thời điểm hay hạ đường máu nhất là
trong ngày đầu tiên sau sinh, chiếm tới 82,7%; và có xu hướng giảm dần từ
ngày thứ nhất cho đến ngày thứ 7. Theo Adamkin và Polin, ở trẻ sơ sinh ngay
sau khi sinh, nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch rốn ở vào khoảng 60%-
80% nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch mẹ. Sự sụt giảm nhanh chóng
lượng glucose trong máu diễn ra trong khoảng từ 30-60 phút sau sinh và sau
đó là ổn định dần trong khoảng 2-4 giờ sau sinh. Nồng độ glucose máu tăng
sau 48 giờ đầu của cuộc sống và tương tự với nồng độ glucose máu ở 72-96
giờ tuổi [17]. Theo Maries Gueme và cộng sự, trẻ sơ sinh bình thường, cân
nặng tương ứng với tuổi thai thường có hạ đường máu sinh lý bình thường
trong suốt 2-4 giờ sau sinh, nồng độ đường máu thấp nhất đo được là 2,3
mmol/l; trong khi đó, trẻ sơ sinh ăn sữa mẹ nồng độ đường máu thấp nhất là
3,6 mmol/l; nồng độ đường máu tăng ngay lập tức sau khi trẻ được ăn sữa mẹ
hay sau 72 giờ tuổi cho thấy sự tương xứng với đáp ứng chuyển hóa tạo năng
lượng cần thiết cho trẻ sơ sinh đủ tháng và sơ sinh ăn sữa mẹ [44]. Nghiên
cứu của Nankadishore và cộng sự năm 2014 trên 150 trẻ sơ sinh nhận thấy
rằng phần lớn các trường hợp HĐM sơ sinh đều xảy ra trong vòng 24 giờ đầu
sau sinh (52%) và trong các trường hợp HĐM trong vòng 24 giờ đầu sau sinh
có tới 77% số trường hợp hạ đường máu chỉ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh
[59]. Nghiên cứu của Sighn và cộng sự năm 2014 trên 125 trẻ sơ sinh được
lựa chọn ngẫu nhiên tại khoa Sản, có 63,15% trẻ sơ sinh hạ đường máu trong
24 giờ đầu; 21,05% hạ đường máu trong vòng từ 24 đến 48 giờ và 15,78% hạ
đường máu từ 48 đến 72 giờ [73].
4.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.3 cho thấy, trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ
đường máu, có 25 trẻ nhẹ cân so với tuổi thai chiếm 23,6%; 71 trẻ cân nặng tương
ứng tuổi thai chiếm 67,0% và 10 trẻ lớn cân so với tuổi thai chiếm 9,4%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
56
Bảng 3.4, trong số 59 trẻ sơ sinh non tháng hạ đường máu có 12 trẻ sơ
sinh cân nặng thấp hơn tuổi thai chiếm 20,3%; 43 cân nặng tương ứng tuổi
thai chiếm 72,9%, 4 trẻ lớn cân so với tuổi thai chiếm 6,8%. Trẻ sơ sinh non
cân nặng thấp hơn so với tuổi thai dễ bị hạ đường máu do tỷ lệ khối của não
so với trọng lượng cơ thể cao hơn cũng như dự trữ mỡ và glyogen kém hơn.
Nghiên cứu của Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên năm 2019 trên 108
trẻ sơ sinh, nhóm trẻ sinh nhẹ cân và có đẻ non tỷ lệ HĐM lên tới 78%, tỷ lệ
này cao nhất trên nhóm trẻ gần đủ tháng (sơ sinh non muộn từ 34 tuần đến
dưới 37 tuần) là 63,4%, tỷ lệ HĐM ở sơ sinh non tháng cân nặng tương ứng
với tuổi thai là 30,9% [12]. Nghiên cứu của Asril Aminullah và cộng sự năm
2001 trên 112 trẻ sơ trẻ sơ sinh non tháng và nhận thấy trong nhóm trẻ sơ sinh
non tháng thì nhóm trẻ nhẹ cân so với tuổi thai có tỷ lệ HĐM là 53% cao hơn
hẳn so với nhóm trẻ tương ứng với tuổi thai là 18% [88]. Theo nghiên cứu của
Dhananjaya năm 2011 trên 366 trẻ sơ sinh, tỷ lệ HĐM ở nhóm sơ sinh thiểu
dưỡng non tháng là 25%, sơ sinh quá dưỡng non tháng là 20%, sơ sinh non
tháng bình dưỡng là 9,09% [33]. Nghiên cứu của Shivani Dogra và cộng sự
năm 2012 trên 50 trẻ sơ sinh non tháng cho thấy kết quả tương tự với tỷ lệ
HĐM là 52% ở nhóm trẻ nhẹ cân so với tuổi thai cao hơn hẳn so với nhóm trẻ
tương ứng với tuổi thai chỉ có tỷ lệ này là 12% [35]. Nghiên cứu của Ju
Young Joon năm 2015 trên 141 trẻ sơ sinh về mức độ đường máu 7 ngày sau
sinh trên nhóm trẻ sơ sinh non tháng cho thấy trẻ nhẹ cân so với tuổi thai có tỷ
lệ HĐM là 45% [84].
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.5 cho thấy trong 47 trẻ sơ sinh đủ tháng
có 14 trẻ sơ sinh cân nặng nhỏ hơn so với tuổi thai chiếm 29,8%, 27 trẻ cân
nặng tương ứng tuổi thai chiếm 54,7%, 6 trẻ cân nặng tương ứng tuổi thai
chiếm 12,8%. Các nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự. Nghiên cứu
Paul Holtrop ở nhóm trẻ đủ tháng hạ đường máu, nhóm trẻ lớn cân hơn so với
tuổi thai chiếm 8,1% và nhóm nhẹ cân so với tuổi thai chiếm 14,7%. Thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
57
điểm HĐM trung bình của nhóm lớn cân so với tuổi thai là 2,9 giờ sau sinh,
đối với nhóm nhẹ cân so với tuổi thai là 6,1 giờ sau sinh [45]. Nghiên cứu của
Bandika và cộng sự năm 2014 trên 160 trẻ sơ sinh đủ tháng thấy rằng có 21%
số trẻ cân nặng lớn hơn so với tuổi thai có HĐM, trong nghiên cứu này, các
tác giả không đề cập đến nhóm sơ sinh đủ tháng nhẹ cân so với tuổi thai [22].
Nghiên cứu của Farzana Shaikh và cộng sự năm 2016 trên 565 trẻ đủ tháng
nhẹ cân so với tuổi thai tỷ lệ HĐM là 19% và nhiều nhất ở ngày đầu sau sinh
(13,9%) [68].
4.1.5. Đặc điểm bệnh lý
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.6 cho thấy, trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ
đường máu, bệnh lý hay gặp nhất là suy hô hấp, có 46 trẻ chiếm tỷ lệ 43,4%.
Tiếp đến là các bệnh lý: nhiễm khuẩn sơ sinh (NKSS), ngạt, vàng da tăng
bilirubin tự do (VDTBTD), chiếm tỷ lệ lần lượt là 14,2%; 12,3%, 10,4%. Các
bệnh lý khác ít gặp hơn là: đa hồng cầu sơ sinh (ĐHCSS), dị tật bẩm sinh
(DTBS), bệnh lý tiêu hóa chiếm tỷ lệ lần lượt là 7,5%; 7,5% và 4,7%. Trong giai
đoạn sơ sinh sớm, trẻ có thể mắc nhiều các bệnh lý khác nhau và trong số đó, có
nhiều bệnh lý có liên quan đến hạ đường máu như đa hồng cầu sơ sinh, ngạt,
nhiễm khuẩn sơ sinh, suy hô hấp….[8], [13], [25]. Giải thích điều này, các bệnh
lý trong giai đoạn sơ sinh được coi như là các stress chu sinh dẫn tới tăng sử
dụng glucose trong khi quá trình phân giải glycogen và tân tạo glucose chưa
hoàn thiện, do đó gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh giai đoạn sớm.
Kết quả này của chúng tôi tương tự với nhiều nghiên cứu trong và
ngoài nước. Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ
sinh cho thấy tỷ lệ HĐM cao nhất ở các nhóm sơ sinh mắc các bệnh lý: ngạt
(43%), ĐHCSS (42,1%), NKSS chiếm 26,7%, thấp ở nhóm trẻ sơ sinh có
vàng da do tăng bilirubin tự do 19,1% [13]. Nghiên cứu của Hoàng Thị Trang
và Hoàng Thị Thủy Yên năm 2019 trên 108 trẻ sơ sinh nhẹ cân, tỷ lệ HĐM
cao nhất ở nhóm NKSS chiếm 63,4%, suy hô hấp 20,5%, ngạt 25,6% [12].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
58
Nghiên cứu của Ghanim và cộng sự năm 2015 trên 112 trẻ sơ sinh nhận thấy
trẻ bị HĐM nhiều nhất ở các nhóm trẻ mắc các bệnh lần lượt là: ĐHCSS
(33,9%), suy hô hấp (32,1%), NKSS (16%) và ngạt (8%) [42]. Nghiên cứu
của Bhand và cộng sự năm 2014 trên 100 trẻ sơ sinh cho thấy tỷ lệ HĐM cao
nhất ở nhóm trẻ có suy hô hấp chung chiếm 32%, tiếp đến là nhóm trẻ hạ thân
nhiệt chiếm 25%, nhóm trẻ NKSS chiếm 20% [25]. Nghiên cứu của
Stomnaroska năm 2017 trên 84 trẻ sơ sinh HĐM cho thấy có 26,18% trẻ có
NKSS, 10,62% trẻ có suy hô hấp sơ sinh [78].
Đa hồng cầu ở trẻ sơ sinh là một vấn đề được quan tâm trong thời gian
gần đây, vấn đề này cần được theo dõi thường xuyên và chẩn đoán sớm do
các rối loạn liên quan gây tổn thương nhiều cơ quan như tim, phổi, ruột trong
giai đoạn sơ sinh, và đặc biệt là thần kinh trung ương, để lại những di chứng
vĩnh viễn. HĐM là một trong những biểu hiện hay gặp nhất của đa hồng cầu.
Nghiên cứu của Hopewell và cộng sự trong hai đoạn từ 1986 – 1996 và từ
1997 – 2007, con số này không có sự thay đổi và đều chiếm tỷ lệ 29% [46]
trong khi đó nghiên cứu của Abbas và cộng sự năm 2013 trên 100 trẻ sơ sinh
cho thấy sự hiện diện của HĐM chiếm 26% trong số trẻ có đa hồng cầu [15].
Nghiên cứu của Wei Zhou và cộng sự năm 2015 trên 668 trẻ sơ sinh
cho thấy tỷ lệ HĐM theo điểm Apgar ở nhóm trẻ ngạt nặng (0 – 3 điểm)
chiếm 42,9%, ở nhóm trẻ ngạt (4 – 7 điểm) chiếm 34.3% và ở nhóm trẻ không
ngạt là 14%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê lớn với p < 0,001 và gợi ý ngạt
là yếu tố liên quan đến HĐM. Quá trình bệnh lý thiếu oxy máu do hậu quả
của ngạt dẫn tới các rối loạn chuyển hóa đường, quá trình phân giải glycogen
theo con đường kỵ khí tăng, giảm sản xuất năng lượng trong khí quá trình tiêu
thụ đường tăng cũng như việc trẻ ăn ít hơn, tiêu hóa và hấp thụ kém hơn
khiến trẻ dễ bị HĐM. NKSS và các bệnh lý làm tăng tiêu thụ glycogen cũng
dễ dàng gây HĐM [86].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
59
4.1.6. Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.9 cho thấy, trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ
đường máu, có 48 trẻ không có triệu chứng hạ đường máu chiếm 45,3%; các
triệu chứng hạ đường máu hay gặp lần lượt theo thứ tự là: hạ thân nhiệt
(12,3%), ngưng thở (11,3%), xanh tím (9,4%), dễ kích thích (8,5%), li bì
(8,5%), co giật (4,7%). Thực tế, sơ sinh sớm bệnh lý nặng vào viện vì rất
nhiều lý do khác nhau, với nhiều triệu chứng khác nhau do đó, không có triệu
chứng nào đặc hiệu cho hạ đường máu. Cùng với đó, các triệu chứng hạ
đường máu thường kín đáo, nên trẻ sơ sinh có hạ đường máu nhưng không
phải trẻ nào cũng biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Các nghiên cứu trong và
ngoài nước hầu như chưa đưa ra triệu chứng nào có tính đặc hiệu cho hạ
đường máu sơ sinh, và tỷ lệ giữa các triệu chứng cũng khác nhau tùy vào từng
nghiên cứu. Nghiên cứu của Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên năm
2019 trên 108 sơ sinh nhẹ cân cho thấy, không có đặc điểm lâm sàng nào đặc
hiệu cho hạ glucose máu ở trẻ sơ sinh nhẹ cân với p > 0,05 [12]. Nghiên cứu
của Bhand và cộng sự năm 2014 trên 100 trẻ sơ sinh, triệu chứng trên lâm
sàng thường gặp nhất là dễ kích thích (38%), xanh tím (23%), bất ổn thân
nhiệt (32%), li bì (25%) [25]. Nghiên cứu của Singh và cộng sự năm 2014
trên 125 trẻ sơ sinh, triệu chứng lâm sàng có tỷ lệ hạ đường máu cao nhất là li
bì (88,8%), ngạt (66,6%), co giật (55,55%), ngừng thở (11,11%) [73].
4.2. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm
4.2.1. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm từ phía mẹ
- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với cách sinh
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.12 cho thấy, trong số 106 trẻ sơ sinh hạ
đường máu, có 61 trẻ được sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai (MLT)
chiếm 57,5%. Từ bảng 3.14 cho thấy nhóm trẻ được sinh ra bằng phương
pháp MLT có nguy cơ HĐM cao gấp 2,6 lần với OR = 2,63 (1,5-4,63).
Điều này có thể do nồng độ cortisol ở trẻ sơ sinh được sinh bằng phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
60
pháp MLT cao hơn so với trẻ sơ sinh được sinh bằng phương pháp đẻ
đường dưới, mà cortisol là có vai trò bắt đầu quá trình tân tạo glucose, do
đó nồng độ cortisol thấp sẽ dẫn tới HĐM, vì vậy trẻ sơ sinh được sinh bằng
phương pháp MLT có nguy cơ HĐM cao hơn trẻ sơ sinh được sinh bằng
phương pháp đẻ đường dưới. Nghiên cứu của chúng tôi tương tự với nhiều
nghiên cứu khác trên thế giới. Nghiên cứu của Apolonia Patterson và cộng
sự năm 2012 trên 2092 trẻ sơ sinh có mẹ tiểu đường thai kỳ cho thấy trẻ
được sinh ra bằng phương pháp MLT có nguy cơ HĐM cao gấp 2,5 lần so
với trẻ được sinh bằng phương pháp khác, OR = 2,57 (1,35 – 4,87), khoảng
tin cậy 95%, p = 0,004 [41]. Một nghiên cứu khác của Ogunyemi và cộng
sự năm 2017 trên 8273 trẻ sơ sinh thì trong số các yếu tố của quá trình
chuyển dạ, chỉ có MLT và nong cổ tử cung lần cuối có liên quan tới HĐM
sơ sinh, trong đó MLT là yếu tố nguy cơ gây HĐM ở sơ sinh với OR =
1,57 (1,03 – 2,39), khoảng tin cậy 95%, p = 0,036 [61]. Nghiên cứu của
Bromiker và cộng sự năm 2019 trên 3595 trẻ sơ sinh cũng cho thấy có mối
liên quan giữa tỷ lệ HĐM ở trẻ sơ sinh sớm với MLT, cụ thể tỷ lệ HĐM ở
nhóm trẻ được sinh ra bằng phương pháp MLT có tỷ lệ HĐM cao nhất
chiếm 13,9%, khoảng tin cậy 95% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p =
0,03 [26].
- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với mẹ sốt trong quá trình
chuyển dạ
Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3.12, trong số 106 trẻ sơ sinh có hạ
đường máu, có 22 trẻ có mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ (QTCD), chiếm
20,8%. Từ bảng 3.14 ta thấy, trẻ có mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ có
nguy cơ HĐM cao gấp 2,65 lần so với sơ sinh khác với OR = 2,65 (1,5-
4,63). Khi mẹ bị sốt trong quá trình chuyển dạ dẫn đến việc tăng đường máu
thoáng qua do tăng các stress hóc môn như cortisol, adrenalin, glucagon,
việc tăng đường máu của mẹ này dẫn tới tăng vận chuyển glucose qua thai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
61
nhi làm tăng nồng độ glucose máu và insulin máu ở thai nhi và gây ra HĐM
ở sơ sinh. Vì vậy, trẻ có mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ có nguy cơ HĐM
cao hơn. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rằng, mẹ sốt trong quá
trình chuyển dạ là yếu tố nguy cơ gây HĐM ở trẻ sơ sinh. Nghiên cứu của
DePuy và cộng sự năm 2009 trên 348 trẻ sơ sinh cho thấy trẻ có mẹ sốt
trong quá trình chuyển dạ có nguy cơ HĐM cao gấp 4 lần, OR = 4,04 (1,39
– 11,69), CI : 95%, p = 0,01 [32]. Nghiên cứu của Ashwal và cộng sự năm
2018 trên 309 bà mẹ có sốt trong QTCD và 618 bà mẹ chứng cho thấy HĐM
là biến chứng hay gặp nhất khi mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ với tỷ lệ là
8,8% với p < 0,001 [21]. Nghiên cứu phân tích đa biến của Bromiker và
cộng sự năm 2019 trên 3595 trẻ sơ sinh bao gồm cả trẻ sơ sinh khỏe mạnh
và sơ sinh bệnh lý nhận thấy có mối liên quan giữa mẹ có sốt trong quá trình
chuyển dạ với tỷ lệ HĐM ở con [26].
- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với mẹ có truyền glucose
trong quá trình chuyển dạ
Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3.12, có 27,4% trẻ sơ sinh có hạ
đường máu có mẹ được truyền glucose trong QTCD. Theo bảng 3.14, sơ
sinh có mẹ truyền glucose trong lúc chuyển dạ có nguy cơ HĐM cao gấp 5
lần, OR = 5 (2,08 -12,05), khoảng tin cậy 95%, p < 0,05. Lý giải điều này,
chúng tôi cho rằng việc truyền glucose cho mẹ trong lúc chuyển dạ làm tăng
nồng độ gluose trong máu mẹ dẫn tới đồng thời làm tăng nồng độ glucose ở
thai nhi, do đó nồng độ insulin của thai nhi cũng tăng lên làm giảm sản xuất
glucose nội sinh nhưng lại tăng sử dụng glucose nên gây ra HĐM ở trẻ sơ
sinh. Vì vậy, truyền glucose cho mẹ trong quá trình chuyển dạ gây ảnh
hưởng rất lớn đến cân bằng glucose nội môi và insulin dẫn đến nguy cơ
HĐM sau đẻ. Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trong tổng số
72 bà mẹ có truyền glucose lúc chuyển dạ thì có tới 22 trẻ sơ sinh sinh ra bị
HĐM [13]. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng cho thấy rằng, mẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
62
có truyền glucose trong lúc chuyển dạ là yếu tố nguy cơ gây HĐM ở trẻ sơ
sinh. Nghiên cứu của Asril Aminullah và cộng sự năm 2001 đã tiến hành
nghiên cứu các yếu tố nguy cơ HĐM trên 112 trẻ sinh non nhận thấy sơ sinh
non có mẹ truyền glucose lúc chuyển dạ có tỷ lệ hạ đường máu lên tới
37,9% và nguy cơ HĐM sơ sinh gấp 2,56 lần [88]. Nghiên cứu của Fukuda
và cộng sự năm 2013 về ảnh hưởng của biện pháp truyền glucose cho mẹ
sinh mổ tới nồng độ glucose trong máu của sơ sinh. Nhóm nghiên cứu đã so
sánh 3 nhóm khi mẹ được truyền các dung dịch Ringer lactat chứa 0%
glucose (nhóm 1), chứa 1% glucose (nhóm 2) và chứa 5% glucose (nhóm 3).
Kết quả cho thấy cho thấy nồng độ glucose máu ở trẻ sơ sinh được sinh ra từ
các bà mẹ nhóm 1 là 35,7 ± 9,6 mg/dl, nhóm 2 là 49,8 ± 10,8 mg/dl, nhóm 3
là 29,2 ± 7,5 mg/dl. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, trong nhóm 3 có 9 trẻ
sinh ra có HĐM chiếm tỷ lệ cao nhất và thấp nhất ở nhóm 2 chỉ có 3 trẻ sinh
ra có HĐM. Tác giả cũng đã kết luận rằng dịch truyền glucose 1% là dịch
truyền giúp duy trì tối ưu đường máu của mẹ và làm giảm nguy cơ HĐM ở
sơ sinh. Tóm lại, nồng độ đường máu của mẹ tỷ lệ thuận với nồng độ
glucose mà mẹ nhận được và với những bà mẹ có truyền glucose có nồng độ
≥ 5% thì con sinh ra có nguy cơ HĐM cao hơn [39].
- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với mẹ tăng cân trong
thai kỳ
Nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.14 cho thấy HĐM ở sơ sinh không
có liên quan tới việc mẹ tăng cân trong thai kỳ. Điều này tương tự với nghiên
cứu của Chế Thị Ánh Tuyết cho thấy tăng cân của mẹ trong thai kỳ không có
liên quan gì đến HĐM ở trẻ sơ sinh được sinh ra [13]. Trên thế giới cũng có
nhiều nghiên cứu chỉ ra tương tự: nghiên cứu của Depuy và cộng sự năm
2009 trên 348 trẻ sơ sinh đủ tháng không có mẹ bị đái tháo đường nhận thấy
tỷ lệ HĐM ở sơ sinh không liên quan đến tăng cân của mẹ trong thai kỳ [32],
nghiên cứu của Apolonia Patterson và cộng sự năm 2012 trên nhóm 2092 trẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
63
sơ sinh có mẹ tiểu đường cũng không tìm thấy mối liên quan giữa tỷ lệ HĐM
ở trẻ sơ sinh với tăng cân của mẹ trong thai kỳ [41].
4.2.2. Một số yếu tố gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm từ phía con
4.2.2.1. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với tuổi thai
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.15 cho thấy trẻ sơ sinh non tháng có
nguy cơ HĐM gấp 3 lần so với trẻ sơ sinh đủ tháng với OR = 3,07 (1,72 -
5,47), khoảng tin cậy 95%, p < 0,001. Bảng 3.23 cho thấy sơ sinh non
tháng AGA cũng là yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu với OR = 2,2 (2,17 –
4,08). Sở dĩ trẻ sơ sinh non tháng có nguy cơ dễ bị HĐM và các biến chứng
liên quan là do các cơ quan còn non yếu, dự trữ glycogen và chất béo hạn
chế, không thể tạo ra glucose mới bằng con đường tân tạo glucose, có nhu
cầu trao đổi chất cao hơn, đặc biệt là kích thước não tương đối lớn so với
trọng lượng cơ thể [69]. Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả tương đồng
với nhiều nghiên cứu khác nhau trong và ngoài nước. Nghiên cứu của Chế
Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh cho thấy trẻ sơ sinh non
tháng có nguy cơ HĐM cao gấp 2,5 lần so với nhóm trẻ sơ sinh khác ( OR
= 2,5, p = 0,001) [13]. Nghiên cứu của William và cộng sự năm 2007 trên
592 trẻ sơ sinh non muộn, tác giả đã kết luận nhóm trẻ sơ sinh non muộn
có nguy cơ HĐM cao gấp 3,3 lần so với sơ sinh đủ tháng [37]. Nghiên cứu
của Zhou và cộng sự năm 2015 trên 668 trẻ sơ sinh, tỷ lệ HĐM ở trẻ sơ
sinh non tháng, đủ tháng, già tháng tương ứng lần lượt là 55,6%, 14,9% và
11,1% . Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm non tháng cao hơn hẳn
so với nhóm đủ tháng hay nhóm già tháng trong khi đó không có sự khác
biệt nhiều giữa nhóm đủ tháng với nhóm già tháng. Từ đó cho thấy, trẻ non
tháng dễ có nguy cơ bị HĐM hơn so với trẻ đủ tháng và già tháng [86].
Nghiên cứu của Bromiker và cộng sự năm 2019 trên 3595 trẻ sơ sinh trong
một nghiên cứu đa biến cho thấy tuổi thai là biến liên quan mạnh nhất đến
tỷ lệ HĐM với OR = 1,49 (1,3 -1,69) khoảng tin cậy 95% và OR = 1,45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
64
(1,25 -1,67) khoảng tin cậy 95% khi cắt ngang lần lượt tại điểm 47 mg/dl
và 40 mg/dl [26].
4.2.2.2. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với dinh dưỡng của con
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.16 cho thấy trẻ có cân nặng nhỏ hơn so
với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao gấp 2,3 lần so với sinh khác, OR = 2,37
(1,09 – 5,13) khoảng tin cậy 95%, p < 0,05. Sơ sinh SGA có mức dự trữ
glycogen thấp, hoạt động của các men trong tân tạo đường còn bị hạn chế,
dự trữ lipid giảm, khả năng huy động acid béo kém, quá trình tạo ceton yếu
và khả năng sử dụng các cơ chất tân tạo đường ( alanine, lactate, pyruvate)
bị giảm, trong khi đó sử dụng glucose cho não cao do trọng lượng não so với
cơ thể lớn, dẫn tới sản xuất glucose từ gan bị giảm xuống. Sự đáp ứng của
các axit amin huyết tương đối với glucagon có thể bị thay đổi ở trẻ sơ sinh
nhẹ cân so với tuổi thai khi bị HĐM. Thêm vào đó, sơ sinh SGA dễ bị các
stress như ngạt, suy hô hấp, nhiễm khuẩn sơ sinh, … Các stress này làm
giảm sự huy động các chất từ ngoại vi do giảm sư tưới máu, do chuyển hóa
theo con đường yếm khí gây tích tụ lactat cùng với tình trạng tăng insulin
chức năng thoáng qua càng làm cho trẻ dễ bị HĐM. Việc định lượng glucose
máu thường quy tại nhóm sơ sinh này là điều cần thiết. Nghiên cứu của
Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên năm 2019 trên 108 trẻ sơ sinh
cũng cho kết quả tương tự với chúng tôi, trẻ sơ sinh nhẹ cân so với tuổi thai
có nguy cơ hạ đượng máu gấp 2,3 lần so với trẻ sơ sinh khác, OR = 2,3 (1,0
-5,4), p = 0,048 [12]. Nghiên cứu của Inayatullah Khan năm 2010 trên 150
trẻ sơ sinh ghi nhận nguy cơ HĐM cao ở trẻ sơ sinh non tháng cũng như sơ
sinh nhẹ cân so với tuổi thai [53]. Nghiên cứu của Rassmusen và cộng sự
năm 2017 cho thấy trẻ nhẹ cân so với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao gấp 3,4
lần so với sơ sinh cân nặng tương ứng tuổi thai OR = 3,39 (2,86 - 4,03),
khoảng tin cậy 95%, p < 0,001 [63]. Trong nghiên cứu của Singh và cộng sự
năm 2017 trên những trẻ khỏe mạnh có nguy cơ hạ đường cao thấy trẻ nhẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
65
cân so với tuổi thai có tỷ lệ HĐM là 21,9% và có nguy cơ HĐM cao gấp 1,3
lần so với nhóm trẻ khác với OR = 1,3; khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [72]. Nghiên cứu của J Sternberg và cộng sự
năm 2017 trên 129 sơ sinh đủ tháng HĐM và đã được truyền glucose điều trị
thì nhóm sơ sinh SGA và sơ sinh cân nặng thấp là hai nhóm sơ sinh làm tăng
nguy cơ HĐM tái phát [76].
- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm lớn cân so với tuổi thai:
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.17 cho thấy, sơ sinh non tháng SGA có
nguy cơ hạ đường máu gấp 2,7 lần so với sơ sinh khác trong khi đó ở bảng
3.25 lại cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm sơ sinh
đủ tháng SGA. Sơ sinh non tháng SGA là một trong những yếu tố nguy cơ
rõ ràng nhất gây hạ đường máu. Theo A. Sharma, do ở trẻ sơ sinh non tháng
SGA, không có kho dự trữ glycogen, mỡ ở 3 tháng cuối thai kỳ, cũng như là
các yếu tố vi lượng sắt, canxi, các vitamin đặc biệt là các vitamin nhóm D.
Mặt khác sự chưa trưởng thành của các bộ phận cơ thể như là khả năng điều
nhiệt, sự tổng hợp chất surfactan, hô hấp tự chủ, nội mạc mạch máu, chức
năng ống thận, chức năng hormon, miễn dịch tế bào, tổng hợp prothrombin
phụ thuộc vitamin K, khả năng kết hợp bilirubin và glucoronyl tại gan, tổng
hợp erythropoietin, phân giải lipid…do đó sơ sinh non tháng SGA phải tiêu
hao nhiều năng lượng cần thiết hơn mới đảm bảo duy trì chức năng sống
bình thường bên ngoài tử cung, như vậy loại sơ sinh này vừa mang đặc điểm
bệnh lý của sơ sinh non tháng vừa mang đặc điểm bệnh lý của sơ sinh Nhẹ
cân so với tuổi thai [69]. Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên
353 trẻ sơ sinh cho thấy trẻ sơ sinh non tháng SGA có nguy cơ ạ đường máu
gấp 5,2 lần so với loại sơ sinh khác [13]. Nghiên cứu của Behera và cộng sự
năm 2015 trên 480 trẻ nhẹ cân so với tuổi thai, nhóm trẻ có cân nặng < 1500
gram có nguy cơ HĐM gấp 2,6 lần so với nhóm trẻ khác với OR = 2,6 (1,6 -
4,2), khoảng tinh cậy 95%, p < 0,01; nhóm trẻ dưới 34 tuần có nguy cơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
66
HĐM gấp 3 lần so với nhóm trẻ khác với OR = 3,0 (1,7 -5,1), khoảng tin cậy
95%, p < 0,001 [24].
- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm lớn cân so với tuổi thai:
Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3.16 ta thấy loại sơ sinh cân nặng
lớn hơn so với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao gấp gần 2 lần so với loại sơ
sinh khác với OR = 1,96 ( 1,16 – 4,46), khoảng tin cậy 95%, p < 0,05. Do
sơ sinh LGA từ trong tử cung đã được tăng cung cấp năng lượng từ mẹ làm
tăng tiết insulin của thai, lượng insulin này tăng lên làm tăng quá trình giữ
các chất dinh dưỡng do mẹ cung cấp và hậy quả là cân nặng lớn hơn so với
tuổi thai. Sau khi sinh ra, nguồn năng lượng từ mẹ bị cắt đột ngột cùng với
hiện tượng cường insulin từ trong bào thai nên trẻ sinh ra dễ bị HĐM sơ
sinh. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kiều Nhi năm 2012 cho thấy sơ sinh quá
dưỡng là yếu tố nguy cơ HĐM cao gấp 4 lần so với các loại sơ sinh khác,
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê OR = 4,7368, khoảng tin cậy 95%, p <
0,05 [8]. Trong khi đó, nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên
353 trẻ sơ sinh cũng chỉ ra rằng lớn cân so với tuổi thai là yếu tố nguy cơ
gây HĐM với nguy cơ cao gấp 8,2 lần so với loại sơ sinh khác [13].
Nghiên cứu của Rassmusen và cộng sự năm 2017 cũng cho thấy trẻ lớn cân
so với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao gấp 4 lần so với trẻ có cân nặng
tương ứng tuổi thai với OR = 4,1 ( 3,43 - 4, 9 ), khoảng tin cậy 95%, p <
0,001 [63]. Nghiên cứu của Mufidati và cộng sự năm 2017 trên 156 trẻ sơ
sinh đã chỉ ra rằng trẻ LGA có nguy cơ HĐM gấp 2 lần so với trẻ sơ sinh
khác với OR = 2,3 ( 1,09 – 4,77 ), khoảng tin cậy 95%, p = 0,029 [56].
Nghiên cứu của Persson và cộng sự tiến hành năm 2012 trên 3157 trẻ sơ
sinh được sinh ra từ mẹ mắc tiểu đường type 1, tuổi thai từ 32 đến 43 tuần,
nhóm trẻ nặng cân hơn so với tuổi thai và cân nặng tương ứng với tuổi thai
được tiếp tục chia thành nhóm trẻ cân xứng và không cân xứng dựa trên chỉ
số thể trọng ( được tính bằng thương của cân nặng tính theo gram với lập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
67
phương của chiều dài cơ thể tính theo centimet ), trong đó trẻ cân xứng là
trẻ có chỉ số thể trọng ≤ 90 percentiles còn trẻ không cân xứng là trẻ có chỉ
số thể trọng > 90 percentiles. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về
nguy cơ giữa HĐM giữa nhóm LGA cân xứng và LGA không cân xứng, và
LGA cân xứng là yếu tố nguy cơ với OR = 1,42 (1,01 – 2,0) khoảng tin cậy
95% so với nhóm AGA [62].
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.17 và bảng 3.18 cho thấy, ở nhóm sơ sinh
non tháng và nhóm sơ sinh đủ tháng, sơ sinh LGA không phải là yếu tố nguy
cơ gây hạ đường máu với lần lượt OR = 2,23 (0,66 -7,48), OR = 1,63 (0,57 –
1,67); sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Nguyên nhân do
trong các nhóm sơ sinh non tháng và đủ tháng, sơ sinh LGA chiếm số lượng
nhỏ nên kết quả không có ý nghĩa thống kê, sơ sinh LGA không phải là yếu tố
nguy cơ trong hai nhóm này như nhóm sơ sinh chung.
4.2.2.3. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với giờ tuổi nhập viện
Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3.19, trẻ sơ sinh trong vòng 24 giờ đầu
tiên có nguy cơ hạ đường máu cao gấp 3,7 lần so với thời điểm sau 24 giờ tuổi
với OR = 3,76 (2,08 -6,8), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng cho rằng, 24 giờ đầu đời là thời
điểm dễ HĐM nhất ở trẻ sơ sinh. Nghiên cứu của MH Naif và cộng sự năm
2013 trên 612 trẻ sơ sinh nhập viện vì các nguyên nhân khác nhau trừ vì
HĐM cho thấy mức đường máu thống kê được là dưới 35 mg/dl ở 1 – 3 giờ
đầu đời, dưới 40 mg/dl ở từ 3 giờ cho đến 24 giờ đầu đời và khoảng 45
mg/dl từ sau 24 giờ. 24 giờ đầu tiên là thời điểm dễ bị HĐM nhất, trong đó
43,3% không có triệu chứng và 56,7% có triệu chứng [57]. Nghiên cứu của
Nankadishore và cộng sự năm 2014 trên 150 trẻ sơ sinh nhận thấy rằng
phần lớn các trường hợp HĐM sơ sinh đều xảy ra trong vòng 24 giờ đầu
sau sinh (52%) và trong các trường hợp HĐM trong vòng 24 giờ đầu sau
sinh có tới 77% số trường hợp máu chỉ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh [59].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
68
Nghiên cứu của Samayam và cộng sự năm 2015 trên 100 trẻ sơ sinh thì tỷ
lệ HĐM là 10% tổng số trẻ sơ sinh khỏe mạnh, đủ tháng và tất cả số trẻ
HĐM đều có lần HĐM trong vòng 24 giờ đầu sau sinh [66]. Nghiên cứu
của tác giả Ogunlesi năm 2015 trên 277 trẻ sơ sinh thấy rằng, trẻ sơ sinh từ
3 – 24 giờ tuổi không có triệu chứng, có nguy cơ bị HĐM và hạ thân nhiệt
gấp gần 2 lần so với nhóm trẻ sơ sinh khác [60]. Nghiên cứu của Basu và
cộng sự năm 2016 trên 234 trẻ sơ sinh thiếu oxy máu não dựa vào mức độ
đường huyết trong vòng 12 giờ đầu tiên, nhận thấy rằng có đến 81% trẻ có
HĐM trong vòng 12 giờ đầu tiên sau sinh có kết quả không thuận lợi (tử
vong hoặc khuyết tật thần kinh) tại thời điểm 18 tháng, cao hơn nhiều so
với trẻ có đường máu bình thường (48%) [23]
4.2.2.4. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với thời điểm ăn sữa mẹ
lần đầu
Kết quả nghiên cứu bảng 3.20 cho thấy việc cho trẻ ăn sữa mẹ muộn
ngoài 1 giờ đầu sau đẻ không phải là yếu tố nguy cơ gây HĐM với OR = 1,17
(0,51-2,7).
Cho dù theo hướng dẫn của Hiệp hội nhi khoa Hoa Kỳ, việc cho trẻ ăn
sữa mẹ sớm, trong vòng một giờ đầu sau đẻ làm giảm nguy cơ HĐM, thế
nhưng, cũng như trong nghiên cứu của chúng tôi, nhiều nghiên cứu khác trên
thế giới cũng cho kết quả tương tự. Nghiên cứu của Samayam và cộng sự năm
2015 trên 100 trẻ sơ sinh, trẻ được ăn sữa mẹ sớm nhất có thể sau khi sinh, trẻ
sơ sinh được chia thành hai nhóm dựa vào thời gian cho ăn sữa mẹ gồm 76 trẻ
ăn sữa mẹ lần đầu trong vòng 1 giờ sau sinh và 24 trẻ ăn sữa mẹ ngoài 1 giờ
sau sinh. Trong nhóm sơ sinh được ăn sữa mẹ dưới 1 giờ tuổi có 6/76 trường
hợp có HĐM được ghi lại tương ứng 7,89%. Trong nhóm trẻ ăn sữa mẹ trên 1
giờ tuổi có 4 trường hợp HĐM được ghi lại tương ứng 16,67%, sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p = 0,212 [66]. Nghiên cứu của Zhou và cộng
sự năm 2015 trên 668 trẻ sơ sinh cũng cho thấy, không có sự khác biệt về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
69
nồng độ đường máu giữa nhóm sơ sinh được cho ăn sớm và cho ăn muộn,
thêm vào đó, tỷ lệ HĐM cũng không có sự khác biệt giữa nhóm sơ sinh ăn
sữa mẹ trong vòng một giờ đầu sau sinh và nhóm sơ sinh ăn sữa mẹ muộn
hơn một giờ đầu sau sinh [87]
4.2.2.5. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với một số bệnh lý giai đoạn
sơ sinh sớm
- Liên quan hạ đường máu và nhiễm khuẩn sơ sinh
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.23 cho thấy, trẻ có NKSS có nguy cơ HĐM
cao gấp 2,5 lần so với nhóm trẻ không bị nhiễm khuẩn sơ sinh với OR = 2,58
(1,96 - 5,95), khoảng tin cậy 95%, p < 0,05. Ở trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn, do có
liên quan đến các vấn đề stress và bệnh tật thai nhi nên làm tăng nhu cầu sử dụng
glucose, các trẻ sơ sinh cũng có thể bị suy dinh dưỡng do nguồn năng lượng
cung cấp bị giảm do nhiễm khuẩn. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cũng
chỉ ra rằng nhiễm khuẩn sơ sinh là yếu tố nguy cơ gây HĐM.
Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh sớm
cho thấy trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn sơ sinh có nguy cơ HĐM cao gấp 3,2 lần
so với trẻ sơ sinh không có nhiễm khuẩn sơ sinh [13]. Nghiên cứu của Hoàng
Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên năm 2019 trên 108 trẻ sơ sinh nhẹ cân so
với tuổi thai cũng chỉ ra bệnh lý nhiễm khuẩn sơ sinh sớm là yếu tố nguy cơ
gây HĐM cao gấp 2 lần so với các loại sơ sinh khác, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê OR = 2,6057, khoảng tin cậy 95%, p < 0,05 [12]. Nghiên cứu của
Mufidati và cộng sự năm 2017 trên 156 trẻ sơ sinh chỉ ra rằng đối với trẻ
nhiễm khuẩn sơ sinh sớm < 72 giờ sau sinh, nguy cơ HĐM rất cao, gấp 40 lần
so với trẻ sơ sinh không bị nhiễm khuẩn sơ sinh sớm < 72 giờ sau sinh, OR =
40,6 (10,84 – 152,01), khoảng tin cậy 95%, p < 0,001 [56]. Nghiên cứu của
Islam và cộng sự năm 2017 trên 106 trẻ sơ sinh cũng cho thấy nhiễm khuẩn
sơ sinh có liên quan tới tình trạng hạ được máu và gợi ý vai trò của nhiễm
khuẩn sơ sinh trong bệnh sinh học của HĐM, điều này giúp đánh giá những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
70
thay đổi về mô hình tác nhân bệnh nguyên cũng như bất thường sinh lý bệnh
về máu ở trẻ nhiễm khuẩn sơ sinh, cung cấp những thông tin mới giúp cho
quản lý nhiễm khuẩn sơ sinh [48].
- Liên quan hạ đường máu và ngạt sơ sinh
Kết quả nghiên cứu bảng 3.23 cho thấy, sơ sinh bị ngạt có nguy cơ
HĐM cao gấp 2,6 lần so với sơ sinh không bị với OR = 2,65 (1,91 – 6,75),
khoảng tin cậy 95%, p < 0,05.
Ngạt sơ sinh là yếu tố nguy cơ gây HĐM do liên quan đến
catecholamin gây ra sự suy giảm glycogen thứ phát và hiện tượng cường
insulin, đó cũng là kết quả của sự thiếu oxy. Khi dây rốn bị cắt, nồng độ
glucagon và catecholamin huyết thanh tăng lên từ 3 – 5 lần, sự thay đổi sinh
lý này nhằm giúp cân bằng nồng độ glucose máu. Khi bị ngạt làm tăng khả
năng sử dụng glucose làm cạn kiệt nguồn glycogen dự trữ ở gan dẫn đến cân
bằng mong manh này bị phá vỡ do đó tình trạng HĐM sinh lý tức thời sẽ
không còn là sinh lý nữa. Vấn đề đặt ra để ngăn chặn tổn thương não vừa do
thiếu glucose vừa do thiếu oxy làm nặng lên tình trạng thiếu glucose cần phải
quản lý tốt thai nghén và xử trí kịp thời khi có sự cố. Theo nghiên cứu của
Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh sớm, trẻ bị ngạt có nguy cơ
HĐM gấp 2,4 lần trẻ sơ sinh không bị ngạt [13].
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rằng, ngạt sơ sinh là một
trong những yếu tố nguy cơ gây HĐM sơ sinh. Nghiên cứu của Rasmussen và
cộng sự năm 2017 cho thấy, trẻ bị ngạt sơ sinh có nguy cơ HĐM cao gấp 4
lần so với trẻ sơ sinh không bị ngạt, OR = 4,2 (3,56 - 4,9), khoảng tin cậy
95%, p < 0,001 [63]. Nghiên cứu của Mufidati và cộng sự năm 2017 trên 156
trẻ sơ sinh cũng cho thấy trẻ bị ngạt sơ sinh có nguy cơ HĐM cao gấp 2,8 lần
trẻ sơ sinh không bị ngạt với OR = 2,8 (1,01 – 7,8) , khoảng tin cậy 95%, p <
0,001 [56]. Trong một nghiên cứu phân tích hồi quy đa biến khác của Song và
cộng sự năm 2017 trên 120 trẻ sơ sinh hạ đường máu và 120 trẻ sơ sinh không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
71
hạ đường máu cũng cho thấy trẻ ngạt sơ sinh có nguy cơ HĐM cao gấp 2 lần
trẻ không bị ngạt với OR = 2,032 (1,114 - 11,139), khoảng tin cậy 95%, p <
0,05 [74].
- Liên quan hạ đường máu và đa hồng cầu sơ sinh
Từ kết quả nghiên cứu ở bảng 3.23 ta thấy, đa hồng cầu sơ sinh là
yếu tố nguy cơ gây HĐM ở trẻ sơ sinh, trẻ bị đa hồng cầu sơ sinh có nguy
cơ HĐM cao gấp 4 lần so với trẻ không bị đa hồng cầu sơ sinh với OR =
4,0 (1,83 – 18,3), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,05.
Các nghiên cứu khác nhau trong và ngoài nước cũng khẳng định rằng,
đa hồng cầu sơ sinh là yếu tố nguy cơ gây HĐM. Nghiên cứu của Chế Thị
Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh nhận thấy trẻ bị đa hồng cầu sơ sinh
có nguy cơ bị HĐM cao gấp 3,2 lần so với trẻ sơ sinh không bị đa hồng cầu
[13]. Theo tác giả Anthony trong một nghiên cứu cắt ngang năm 2000 trên
578 trẻ sơ sinh tại Nepal đã đưa ra kết luận rằng trẻ mắc đa hồng cầu sơ sinh
làm tăng tỷ lệ HĐM lên gấp 2,77 lần [20].
4.3. Hạn chế của đề tài
Luận văn đã đạt được yêu cầu của mục tiêu đề ra, tuy nhiên đề tài vẫn
còn điểm hạn chế: Do thời gian nghiên cứu ngắn (trong vòng 1 năm), lựa
chọn nghiên cứu trên nhóm đối tượng bệnh lý nặng là các trẻ sơ sinh từ 1-7
ngày tuổi nhập viện vào Đơn vị điều trị tích cực của Khoa Sơ sinh cấp cứu
Nhi, bên cạnh đó, nhiều bệnh nhân chuyển từ tuyến dưới lên nên dữ liệu
nghiên cứu về mẹ trẻ còn chưa đầy đủ và bị loại trừ khỏi nghiên cứu, những
lý do trên dẫn đến việc số lượng bệnh nhi nhóm chứng ít hơn số lượng bệnh
nhi nhóm bệnh cần nghiên cứu hạ đường máu. Tuy nhiên, điều này không ảnh
hưởng đến kết quả nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
72
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 206 trẻ sơ sinh sớm mắc các bệnh lý nặng phải
vào điều trị tại ICU, Khoa Sơ sinh - Cấp cứu nhi, Trung tâm Nhi khoa, Bệnh
viện Trung Ương Thái Nguyên cho kết quả như sau:
*Đặc điểm trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu
Trong 106 trẻ sơ sinh sớm bệnh lý nặng hạ đường máu có các đặc
điểm sau:
- Nam chiếm 61,3%, nữ chiếm 38,7%.
- Trẻ sơ sinh non là 55,7%, sơ sinh đủ tháng là 44,3%.
- Hạ đường máu nặng chiếm 10,8%.
- Trẻ sơ sinh 1 ngày tuổi chiếm 82,7%.
- Trẻ sơ sinh cân nặng thấp hơn tuổi thai chiếm 23,6%, cân nặng lớn
hơn tuổi thai chiếm 9,4%, cân nặng tương ứng tuổi thai chiếm 67,0%.
- Suy hô hấp chiếm 43,4%.
- Không có triệu chứng hạ đường máu chiếm 45,8%.
- Trẻ ăn sữa mẹ muộn chiếm 88,7%.
* Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu
- Một số yếu tố nguy cơ từ mẹ: Trẻ đường sinh ra bằng phương pháp
mổ lấy thai (OR = 2,63; p < 0,01), mẹ đẻ có truyền glucose lúc chuyển dạ
(OR = 5,0; p < 0,001), mẹ sốt trong chuyển dạ (OR = 2,65; p <0,001).
- Một số yếu tố nguy cơ từ con: Sơ sinh non tháng (OR = 3,07; p <
0,001), trẻ dưới 24 giờ tuổi (OR = 3,76; p < 0,001), sơ sinh Nhẹ cân so với
tuổi thai (OR = 2,37; p < 0,05), sơ sinh Lớn cân so với tuổi thai (OR = 1,96; p
< 0,05), sơ sinh mắc các bệnh lý như: nhiễm khuẩn sơ sinh (OR = 2,58; p <
0,05), ngạt (OR = 2,65; p < 0,05; đa hồng cầu sơ sinh (OR = 4,0; p < 0,05).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
73
KIẾN NGHỊ
Cần kiểm tra đường máu cho tất cả sơ sinh bệnh lý khi nhập viện, đặc
biệt là lứa tuổi sơ sinh sớm và có các yếu tố nguy cơ từ mẹ (mẹ truyền đường
trong quá trình chuyển dạ, mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ, trẻ được sinh
bằng phương pháp mổ lấy thai) và trẻ sơ sinh (sơ sinh non tháng, nhẹ cân so
với tuổi thai, cân nặng lớn hơn so với tuổi thai, dưới 24 giờ tuổi và mắc các
bệnh lý: nhiễm khuẩn sơ sinh, đa hồng cầu sơ sinh, ngạt).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Khu Thị Khánh Dung (2016), "Vàng da do tăng Bilirubin gián tiếp ở trẻ
sơ sinh", Sách giáo khoa nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 273.
2. Trần Thị Thu Hà và Ngô Thị Hoa (2015), Nhận xét đặc điểm dịch tễ học
lâm sàng và các yếu tố liên quan đến hạ đường huyết sơ sinh, Đề tài cơ
sở, Bệnh viện C Thái Nguyên.
3. Nguyễn Thu Hằng (2016), Nghiên cứu các biến chứng ở trẻ nhỏ hơn so
với tuổi thai và một số yếu tố liên quan từ phía mẹ tại bệnh viện Phụ sản
Trung ương, Luận văn Thạc sĩ, Nhi khoa, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
4. Nguyễn Công Khanh (2016), "Thăm khám trẻ sơ sinh", Sách giáo khoa
Nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 178-179.
5. Đậu Quang Liêu (2015), Đánh giá một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm
sàng của trẻ sơ sinh non tháng điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện Saint
Paul, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
6. Nguyễn Hoàng Nam Nguyễn Công Khanh (2017), "Hạ đường huyết",
Tiếp cận chẩn đoán và điều trị nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.
564 - 572.
7. Nguyễn Thị Kiều Nhi (2008), Đánh giá hiệu quả việc chăm sóc sơ sinh
bằng mô hình kết hợp sản - nhi tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y
Dược Huế, Luận án Tiến sĩ, Nhi khoa, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Kiều Nhi (2012), "Nghiên cứu bệnh lý hạ đường máu giai
đoạn sơ sinh sớm tại khoa Nhi bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế",
Tạp chí Y Dược học - Đại học Y Dược Huế 10, tr. 86-92.
9. Lê Thị Thanh Tâm (2017), Nghiên cứu phân bố - một số yếu tố liên quan
và kết quả sản khoa ở thai phụ đái tháo đường thai kỳ, Luận án Tiến sĩ,
Sản phụ khoa, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
10. Bộ Y Tế (2015), "Hạ đường huyết sơ sinh", Hướng dẫn chẩn đoán và
điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em, Hà Nội, tr. 185 -190.
11. Lê Minh Trác, Phan Thị Thu Nga và Lê Anh Tuấn (2012), "Thực trạng
sơ sinh thấp cân, non tháng đẻ tại bệnh viện phụ sản trung ương", Tạp
chí phụ sản. 10(2), tr. 98-103.
12. Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên (2019), "Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng hạ đường máu ở trẻ sơ
sinh nhẹ cân", Kỷ yếu hội nghị nội tiết - đái tháo đường - rối loạn chuyển
hóa toàn quốc lần thứ IX, tr. 638 - 646.
13. Chế Thị Ánh Tuyết (2013), Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ hạ đường
máu giai đoạn sơ sinh sớm tại Khoa Nhi Bệnh viện Trường Đại học Y
Dược Huế, Đại học Y Dược Huế.
14. Vũ Thị Vân Yến, Phạm Thị Xuân Tú và Nguyễn Thị Quỳnh Hương
(2012), "Một số yếu tố liên quan đến tử vong của trẻ đẻ non", Tạp chí
nghiên cứu Y học. Phụ trương 80(3A), tr. 181 - 187.
Tài liệu tiếng Anh
15. Sawsan Sati Abbas, Hamed Fakhri Fayadh (2013), "Neonatal
polycythemia: Risk factors, clinical manifestation and treatment
applied", Iraqi Academic Scientific Journal. 12(3), 390-395.
16. David H Adamkin (2019), "Neonatal hypoglycemia", Common Problems
in the Newborn Nursery, Springer, 99-108.
17. David H Adamkin, Richard A Polin (2016), "Imperfect advice: neonatal
hypoglycemia", The Journal of pediatrics. 176, 195-196.
18. Yasemin Akin, et al. (2010), "Macrosomic newborns: a 3-year review",
The Turkish journal of pediatrics. 52(4), 378.
19. Didem Aliefendioğlu, et al. (2018), "Management of hypoglycemia in
newborn: Turkish Neonatal and Pediatric Endocrinology and Diabetes
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Societies consensus report", Turkish Archives of Pediatrics/Türk Pediatri
Arşivi. 53(Suppl 1), 224.
20. M de L Anthony, et al. (2000), "Neonatal hypoglycaemia in Nepal 2.
Availability of alternative fuels", Archives of Disease in Childhood-Fetal
and Neonatal Edition. 82(1), 52-58.
21. Eran Ashwal, et al. (2018), "Intrapartum fever and the risk for perinatal
complications–the effect of fever duration and positive cultures", The
Journal of Maternal-Fetal & Neonatal Medicine. 31(11), 1418-1425.
22. Victor L Bandika, et al. (2014), "Hypoglycaemia and hypocalcaemia as
determinants of admission birth weight criteria for term stable low risk
macrosomic neonates", African health sciences. 14(3), 510-516.
23. Sudeepta K Basu, et al. (2016), "Hypoglycaemia and hyperglycaemia are
associated with unfavourable outcome in infants with hypoxic ischaemic
encephalopathy: a post hoc analysis of the CoolCap Study", Archives of
Disease in Childhood-Fetal and Neonatal Edition. 101(2), 149-155.
24. Bijaylaxmi Behera, et al. (2015), "Hypoglycemia in small for gestational
age infants in a level III NICU: An observational study", Current
Medicine Research and Practice. 5(1), 10-13.
25. Sikandar Ali Bhand, et al (2014), "Neonatal hypoglycemia", The
Professional Medical Journal. 21(04), 745-749.
26. R. Bromiker, et al. (2019), "Early neonatal hypoglycemia: incidence of
and risk factors. A cohort study using universal point of care screening",
J Matern Fetal Neonatal Med. 32(5), 786-792.
27. Cahide Bulut, Tuğba Gürsoy and Fahri Ovalı (2016), "Short-term
outcomes and mortality of late preterm infants", Balkan medical journal.
33(2), 198-203.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
28. Leandro Cordero, et al. (2013), "Early feeding and neonatal
hypoglycemia in infants of diabetic mothers", SAGE open medicine. 1,
603-613.
29. Jennifer Croke, et al. (2009), "Two hour blood glucose levels in at-risk
babies: An audit of Canadian guidelines", Paediatrics & child health.
14(4), 238-244.
30. Hosein Dalili, et al. (2015), "Comparison of the four proposed Apgar
scoring systems in the assessment of birth asphyxia and adverse early
neurologic outcomes", PloS one. 10(3), 112-116.
31. L. Costello A. M. de, et al. (2000), "Neonatal hypoglycaemia in Nepal 2.
Availability of alternative fuels", Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed.
82(1), 52-58.
32. Amy M DePuy, et al. (2009), "Neonatal hypoglycemia in term,
nondiabetic pregnancies", American journal of obstetrics and
gynecology. 200(5), 45-51.
33. CD Dhananjaya, B Kiran (2011), "Clinical profile of hypoglycemia in
newborn babies in a rural hospital setting", Int J Biol Med Res. 2(4),
1110-1114.
34. E. Dias, S. Gada (2014), "Glucose levels in newborns with special
reference to hypoglycemia: a study from rural India", J Clin Neonatol.
3(1), 35-38.
35. Shivani Dogra, Kanya Mukhopadhyay and Anil Narang (2012), "Feed
intolerance and necrotizing enterocolitis in preterm small-for-gestational
age neonates with normal umbilical artery Doppler flow", Journal of
tropical pediatrics. 58(6), 513-516.
36. Eric C Eichenwald (2016), "Apnea of prematurity", Pediatrics. 137(1),
37-57.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
37. William A Engle, Kay M Tomashek and Carol Wallman (2007), "“Late-
preterm” infants: a population at risk", Pediatrics. 120(6), 1390-1401.
38. Florence engUettwiller, et al. (2015), "Real-time continuous glucose
monitoring reduces the duration of hypoglycemia episodes: a randomized
trial in very low birth weight neonates", PLoS One. 10(1), 62- 65.
39. Isao Fukuda, et al. (2013), "The effect of intravenous glucose solutions
on neonatal blood glucose levels after cesarean delivery", Journal of
anesthesia. 27(2), 180-185.
40. K. Gandhi (2017), "Approach to hypoglycemia in infants and children",
Transl Pediatr. 6(4), 408-420.
41. Apolonia García-Patterson, et al. (2012), "Maternal body mass index is a
predictor of neonatal hypoglycemia in gestational diabetes mellitus", The
Journal of Clinical Endocrinology. 97(5), 1623-1628.
42. Mohammed Abdulqader Ghanim, Raed Yeihya Salman and Mohammed
Habib (2015), "Risk Factors of Neonatal Hypoglycemia at Al Yarmook
Teaching Hospital", Iraq Journal of Community Medicine. 28(3), 113-119.
43. Rachel H Goode, et al. (2016), "Developmental outcomes of preterm
infants with neonatal hypoglycemia", Pediatrics. 138(6), 16-24.
44. Maria Güemes, Sofia A Rahman and Khalid Hussain (2016), "What is a
normal blood glucose?", Archives of disease in childhood. 101(6), 569-574.
45. Paul C Holtrop (1993), "The frequency of hypoglycemia in full-term
large and small for gestational age newborns", American journal of
perinatology. 10(02), 150-154.
46. Bridget Hopewell, et al. (2011), "Partial exchange transfusion for
polycythemia hyperviscosity syndrome", American journal of
perinatology. 28(07), 557-564.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
47. Nihan Hilal Hosagasi, et al. (2018), "Incidence of hypoglycemia in
newborns at risk and an audit of the 2011 American academy of
pediatrics guideline for hypoglycemia", Pediatrics & Neonatology.
59(4), 368-374.
48. Md Zahirul Islam, et al. (2017), "Evaluation of hypoglycemic status and
causative factors in neonatal sepsis", International Journal of
Contemporary Pediatrics. 4(6), 1927.
49. D Jonas, W Dietz and B Simma (2014), "Hypoglycemia in newborn
infants at risk", Klinische Pädiatrie. 226(05), 287-291.
50. Venkat Reddy Kallem, Aakash Pandita and Girish Gupta (2017),
"Hypoglycemia: when to treat?", Clinical Medicine Insights: Pediatrics.
11, 77-89.
51. Beena D Kamath, et al. (2009), "Neonatal outcomes after elective
cesarean delivery", Obstetrics and gynecology. 113(6), 1231.
52. S. M. Kayiran and B. Gurakan (2010), "Screening of blood glucose
levels in healthy neonates", Singapore Med J. 51(11), 853-855.
53. Inayatullah Khan, Taj Muhammad and Muhammad Qasim Khan (2010),
"Frequency and clinical characteristics of symptomatic hypoglycemia in
neonates", Gomal Journal of Medical Sciences. 8(2).
54. SS Mathai, U Raju and M Kanitkar (2007), "Management of respiratory
distress in the newborn", Medical journal, Armed Forces India. 63(3), 269.
55. A. Mejri, et al. (2010), "Hypoglycemia in term newborns with a birth
weight below the 10th percentile", Paediatr Child Health. 15(5), 271-
275.
56. Luthfina Mufidati, Alifah Anggraini and Tunjung Wibowo (2017),
"Asphyxia as a Risk Factor for Neonatal Hypoglycemia", Journal of
Nepal Paediatric Society. 37(2), 111-116.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
57. Monir H Naif, Basil M Hanoudi and Najla I Ayoub (2013), "Evaluation
of Maternal and Neonatal Risk factors for Neonatal Hypoglycemia", Iraq
Journal of Community Medicine. 26(1), 13-18.
58. N Najati and L Saboktakin (2010), "Prevalence and underlying etiologies
of neonatal hypoglycemia", Pakistan Journal of Biological Sciences.
13(15), 753.
59. P Nandakishore, et al. (2014), "Profile of risk factors and outcome of
hypoglycemia in newborns admitted in the neonatal unit of a tertiary care
hospital, Asram, West Godavari District", Journal of Evolution of
Medical and Dental Sciences. 3(18), 48-57.
60. Tinuade Ogunlesi (2015), "Mortality within the first 24 hours of
admission among neonates aged less than 24 hours in a special care baby
unit (SCBU) in Nigeria: the role of significant hypothermia and
hypoglycemia", Iranian Journal of Neonatology. 6(1), 1-7.
61. D Ogunyemi, et al. (2017), "Obstetrical correlates and perinatal
consequences of neonatal hypoglycemia in term infants", The Journal of
Maternal-Fetal & Neonatal Medicine. 30(11), 1372-1377.
62. M Persson, et al. (2012), "Disproportionate body composition and
perinatal outcome in large‐for‐gestational‐age infants to mothers with
type 1 diabetes", BJOG: An International Journal of Obstetrics &
Gynaecology. 119(5), 565-572.
63. Annett Helleskov Rasmussen, et al. (2017), "Retrospective evaluation of
a national guideline to prevent neonatal hypoglycemia", Pediatrics &
Neonatology. 58(5), 398-405.
64. P. J. Rozance and W. W. Hay(2010), "Describing hypoglycemia--
definition or operational threshold?", Early Hum Dev. 86(5), 275-280.
65. Paul J Rozance (2014), "Update on neonatal hypoglycemia", Current
opinion in endocrinology, diabetes, and obesity. 21(1), 45.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
66. Purnima Samayam, et al. (2015), "Study of asymptomatic hypoglycemia
in full term exclusively breastfed neonates in first 48 hours of life",
Journal of clinical and diagnostic research: JCDR. 9(9), 07.
67. SU Sarıcı, M Ozcan and D Altun (2016), "Neonatal Polycythemia: A
Review", Clinical Medical Reviews and Case Reports, 50-58.
68. Farzana Shaikh, et al. (2016), "Complications of low birth weight babies
during first 72 hours of life", Medical Channel. 22(1).
69. Anudeepa Sharma, Ajuah Davis and Prem S Shekhawat (2017),
"Hypoglycemia in the preterm neonate: etiopathogenesis, diagnosis,
management and long-term outcomes", Translational pediatrics. 6(4),
335.
70. Matthew Signal, et al. (2012), "Impact of retrospective calibration
algorithms on hypoglycemia detection in newborn infants using
continuous glucose monitoring", Diabetes technology & therapeutics.
14(10), 883-890.
71. Michal J Simchen, et al. (2014), "Male disadvantage for neonatal
complications of term infants, especially in small-for-gestational age
neonates", The Journal of Maternal-Fetal & Neonatal Medicine. 27(8),
839-843
.72. Princy Singh, et al. (2017), "Screening for hypoglycemia in exclusively
breastfed high-risk neonates", Indian pediatrics. 54(6), 477-480.
73. Yumkhaibam Premchandra Singh, et al. (2014), "Hypoglycemia in
newborn in Manipur", Journal of Medical Society. 28(2), 108.
74. Dan Song, et al. (2017), "Research on risk factors of neonatal
hypoglycemia", Chinese Journal of Postgraduates of Medicine. 40(11),
989-992.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
75. C. A. Stanley. (2015), "Re-evaluating "transitional neonatal
hypoglycemia": mechanism and implications for management", J
Pediatr. 166(6), 1520-1521.
76. Julie Sternberg, Riccardo E Pfister and Oliver Karam (2017),
"Hypoglycemic relapse in term infants treated with glucose infusion",
Journal of Clinical Neonatology. 6(3), 163.
77. Orhideja Stomnaroska, et al. (2015), "Neonatal hypoglycemia: A
continuing debate in definition and management", prilozi. 36(3), 91-97.
78. Orhideja Stomnaroska, et al. (2017), "Neonatal hypoglycemia: risk
factors and outcomes", prilozi. 38(1), 97-101.
79. Win Tin, et al. (2012), "15-year follow-up of recurrent “hypoglycemia”
in preterm infants", Pediatrics. 130(6), 497-503.
80. Mohammad Torkaman, et al. (2016), "A Comparative Study of Blood
Glucose Measurements Using Glucometer Readings and the Standard
Method in the Diagnosis of Neonatal Hypoglycemia", Iranian Journal of
Neonatology IJN. 7(1), 41-46.
81. FM Trefz, M Feist and I Lorenz (2016), "Hypoglycaemia in hospitalised
neonatal calves: Prevalence, associated conditions and impact on
prognosis", The Veterinary Journal. 217, 103-108.
82. M Vaideeswaran (2018), "Incidence of hypoglycemia in newborns with
risk factors", International Journal of Contemporary Pediatrics. 5(5),
1952.
83. DST Wong, et al. (2013), "Brain injury patterns in hypoglycemia in
neonatal encephalopathy", American Journal of Neuroradiology. 34(7),
1456-1461.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
84. Ju Young Yoon, et al. (2015), "Blood glucose levels within 7 days after
birth in preterm infants according to gestational age", Annals of pediatric
endocrinology & metabolism. 20(4), 213.
85. Alonso Zea-Vera and Theresa J Ochoa (2015), "Challenges in the
diagnosis and management of neonatal sepsis", Journal of tropical
pediatrics. 61(1), 1-13.
86. Wei Zhou, et al. (2015), "Hypoglycemia incidence and risk factors
assessment in hospitalized neonates", The Journal of Maternal-Fetal &
Neonatal Medicine. 28(4), 422-425.
87. Yin Zhou, et al. (2017), "The effect of early feeding on initial glucose
concentrations in term newborns", The Journal of pediatrics. 181, 112-
115.
88. Asril Aminullah, Dita Setiati and Sudigdo Sastroasmoro (2001),
"Hypoglycemia in preterm babies Incidence and risk factors",
Paediatrica Indonesiana. 41(3-4), 82-87.
89. S. Ahmad and R. Khalid (2012), "Blood glucose levels in neonatal sepsis
and probable sepsis and its association with mortality", J Coll Physicians
Surg Pak. 22(1), 15-18.
90. J. C. Lacherade, S. Jacqueminet and J. C. Preiser (2009), "An overview
of hypoglycemia in the critically ill", J Diabetes Sci Technol. 3(6), 1242-
1249.
91. C. B. Sweet, S. Grayson and M. Polak (2013), "Management strategies
for neonatal hypoglycemia", J Pediatr Pharmacol Ther. 18(3), 199-208.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
TIÊU CHUẨN VALERIE FARR
0 1 2 3 4
Màu sắc da Đỏ thẩm Hồng đều Trắng hồng Trắng -
không đều xanh (Ngoài cơn
khóc)
Độ trong Thấy một Thấy tĩnh Thấy rõ một Thấy Không
suốt của da mạng mạch và vài mạch máu không rõ nhìn thấy
mạch nhỏ mạch máu lớn một vài mạch máu
chi chít hướng tâm mạch nào cả
máu lớn
Độ dày hay Rất mỏng Mỏng và Dày trung bình Dày có Nhăn da,
độ mỏng và trơn trơn và trơn cảm giác có khi nứt
của da láng cứng
Phù (ấn đầu Phù rõ ở Godet (+) Không phù - -
trên xương mu bàn
chày) chân, bàn
tay
Lông tơ Nhiều, Thưa ở Từng mảng có Không có Không có
(quay lung dài, dày phần thấp từng mảng trên ít
về phía ánh trên suốt của lưng không nhất một
sáng) dọc lưng nửa lưng
Độ uốn Dẹt, bờ ít Một phần Một nửa trên Toàn bộ -
cong của uốn cong vành tai uốn vành tai uốn vành tai
vành tai cong cong uốn cong
Sụn vành tai Gấp dễ Gấp được, Sụn sờ suốt Vành tai -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dàng, trở về tư thế dọc vành tai, chắc, sụn
không trở bình thường trở về tư thể cứng
về tư thể chậm bình thường
bình nhanh
thường
Cơ quan Không sờ Sờ thấy một Sờ thấy một - -
sinh dục thấy tinh tinh hoàn ở tinh hoàn trong
ngoài trẻ hoàn phần cao bìu
nam trong bìu của ống bẹn
Cơ quan Phân biệt Môi lớn phù Môi lớn trùm - -
sinh dục rõ môi một phần kín môi bé
ngoài trẻ nữ lớn, môi môi bé
bé và âm
môn
Mô vú Không sờ 0,5cm 0,5-1cm >1cm -
thấy
Quầng vú Không Nhìn rõ, Nhìn rõ, quầng - -
nhìn rõ quầng vú vú gồ lên
phẳng
Nếp nhăn Không có Nếp nhăn Nếp nhăn rõ, Nếp nhăn Nếp nhăn
lòng bàn nếp nhăn nông ½ trên hơn ½ trên sâu, hơn sâu trên
chân lòng bàn lòng bàn chân 1/3 trên suốt dọc
lòng bàn lòng bàn chân
chân chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tương đương giữa tổng số điểm của tiêu chuẩn Farr và tuổi thai
Điểm Tuổi thai Điểm Tuổi thai
5 28,1 19 38,1
6 29 20 38,5
7 29,9 21 39
8 30,8 22 39,4
9 31 23 39,7
10 32,4 24 40
11 33,2 25 43
12 33,5 26 40,6
13 34 27 48
14 34,5 28 41
15 35 29 41,1
16 36,5 30 41,2
17 37,1 31 41,3
18 37,6 32 41,4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC 2
BIỂU ĐỒ LUCHENCO CÂN NẶNG THEO TUỔI THAI
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC 3
Số phiếu nghiên cứu:……..
PHIẾU NGHIÊN CỨU
"Đặc điểm và một số yếu tố nguy cơ HĐM ở trẻ sơ sinh sớm tại Bệnh
viện Trung Ương Thái Nguyên”
I. Phần hành chính:
1. Họ và tên:................................................................
Số vào viện:……….... Mã bệnh án:………………….
PARA : □□□□
( Sinh, sớm, sảy, sống )
2. Ngày sinh:........................... Tuổi………………..
3. Giới:
□ Nam □ Nữ
4. Ngày vào viện: . ...................................... ………………………………
5. Dân tộc: ………………..
6. Địa chỉ:…………………..……………………………………..………...
7. Lý do vào viện: ….………………………………………………………
8. Chẩn đoán: ……………………………………………………………..
II. Đặc điểm liên quan đến mẹ số v/v………….…
1. Tuổi : < 20 □ 20 - 35 □ >35 □
2. Trình độ văn hóa:
Tiểu học □ Trung học □ Cao đẳng, đại học □ Sau đại học □
3. Nghề nghiệp:
Làm ruộng □ Công nhân □ Tự do □ Cán bộ □
4. Tiền sử thai nghén:
Thai suy □
Vỡ ối sớm □
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ối bẩn □
Các bệnh lý khác và thuốc được điều trị:………………………………….
5. Các yếu tố nguy cơ từ mẹ:
Đái tháo đường: □
đường máu tăng .................; đường niệu…………..
Mẹ đẻ có truyền glucose trong lúc chuyển dạ □
□ Mẹ tăng cân > 12 kg
□ Chuyển dạ kéo dài
□ Mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ
III. Đặc điểm liên quan tới con:
1.Tiền sử:
Cách sinh :
Đẻ đường dưới □
Mổ lấy thai □
□……………….. Tuổi thai: < 37 tuần
□……………….. 37 - < 41tuần 6 ngày
□……………….. ≥ 42 tuần
Chiều cao:..............cm
Cân nặng:................gram
Vòng đầu:............ cm
2. Phân loại sơ sinh
SSNT □: 1. SSNT BD 2. SSNT TD 3. SSNT QD
SSĐT □: 1. SSĐT BD 2. SSĐT TD 3. SSĐT QD
SSGT □: 1. SSGT BD 2. SSGT TD 3. SSGT QD
3. Bệnh lý giai đoạn sơ sinh:
Ngạt sơ sinh □
Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm □
Đa hồng cầu sơ sinh □
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Dị tật bẩm sinh □
Suy hô hấp □
Vàng da do tăng Bilirubin tự do □
Loại dị tật bẩm sinh:.............. …………………………………………….
4. Dinh dưỡng
Trẻ được ăn sữa mẹ lần đầu sau khi sinh:
□ ≤ 1 giờ
□ > 1 giờ
5. Triệu chứng hạ đường máu
Dễ kích thích □
Hạ thân nhiệt □
Co giật □
Xanh tím □
Li bì □
Ngưng thở □
Không có triệu chứng hạ đường máu □
IV. Cận lâm sàng:
Glucose máu: Lần 1:..........lần 2:.......... mmol/l)
HCT: lần1...........lần 2…….... (%)
BC : lần1...........lần 2……… (109/l)
CRP: lần1...........lần2............. (mg/l)
Billirubintp. . ....................Biltt.....................Bilgt...................(mmol/l)
Xét nghiệm khác: .......................................................................................
Người thực hiện