GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC

NGUYỄN VÕ LỘC

ĐẶC ĐIỂM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ

HẠ ĐƯỜNG MÁU Ở TRẺ SƠ SINH

TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN BÁC SĨ NỘI TRÚ

THÁI NGUYÊN – NĂM 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC

NGUYỄN VÕ LỘC

ĐẶC ĐIỂM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ

HẠ ĐƯỜNG MÁU Ở TRẺ SƠ SINH

TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành : Nhi Khoa

Mã số : NT 62 72 16 55

LUẬN VĂN BÁC SĨ NỘI TRÚ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

Tiến sĩ: Nguyễn Bích Hoàng

THÁI NGUYÊN – NĂM 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là : Nguyễn Võ Lộc, bác sĩ nội trú khóa 10 Trường Đại học Y

Dược Thái Nguyên, chuyên ngành Nhi khoa, xin cam đoan:

1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng

dẫn của thầy TS. Nguyễn Bích Hoàng.

2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã

được công bố tại Việt Nam.

3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,

trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi

nghiên cứu.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019

Người cam đoan

Nguyễn Võ Lộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này,

tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị, các

bạn đồng nghiệp và gia đình.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Nguyễn Bích Hoàng,

người Thầy tâm huyết đã tận tình hướng dẫn, khích lệ, dành nhiều thời gian

trao đổi và định hướng cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên và các

khoa, phòng trung tâm. Đặc biệt là Trung tâm Nhi khoa, khoa Sản phụ khoa,

các khoa xét nghiệm là nơi đã tạo điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu và thu

thập số liệu.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, phòng

Đào tạo, Bộ môn Nhi đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,

nghiên cứu.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban giám đốc Trung tâm Sản Nhi –

Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ và đặc biệt lãnh đạo cũng như đồng nghiệp

của tôi tại khoa Hồi sức tích cực, nơi tôi công tác, đã tạo mọi điều kiện và

động viên tôi học tập, nghiên cứu.

Tôi xin cảm ơn các bác sĩ và điều dưỡng khoa Sơ sinh – Cấp cứu nhi

đã tạo điều kiện, hỗ trợ tôi hết mình trong quá trình nghiên cứu.

Tôi xin cảm ơn và ghi nhớ các gia đình bệnh nhi đã tình nguyện tham

gia và hợp tác cùng tôi trong quá trình nghiên cứu.

Cuối cùng, tôi xin được trân trọng, biết ơn gia đình, không ngừng động

viên và là chỗ dựa vững chắc về mọi mặt cho tôi trong suốt quá trình học tập,

nghiên cứu.

Nguyễn Võ Lộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AAP : American Academy Pediatrics

Viện hàn lâm nhi khoa Hoa Kỳ

AGA : Approximate for gestational age

Cân nặng tương ứng tuổi thai

DTBS : Dị tật bẩm sinh

ĐHCSS : Đa hồng cầu sơ sinh

HĐM : Hạ đường máu

ICU : Intensive Care Unit

Phòng Chăm sóc đặc biệt

LGA : Large for gestational age

Lớn cân so với tuổi thai

MLT : Mổ lấy thai

NKSS : Nhiễm khuẩn sơ sinh

QTCD : Quá trình chuyển dạ

SGA : Small for gestational age

Nhẹ cân so với tuổi thai

SSNT : Sơ sinh non tháng

SSĐT : Sơ sinh đủ tháng

SSGT : Sơ sinh già tháng

SHH : Suy hô hấp

VDTBTD : Vàng da tăng bilirubin tự do

WHO : World Health Organization

Tổ chức Y tế thế giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... ii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................... iii MỤC LỤC .................................................................................................... iv DANH MỤC BẢNG ..................................................................................... v DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ ................................................................ vii ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN ............................................................................. 3 1.1. Đặc điểm hạ đường máu sơ sinh ............................................................ 3 1.2. Nguyên nhân và một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu sơ sinh.... 10 1.3. Các nghiên cứu về hạ đường máu ...................................................... 19 Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............. 23 2.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................... 23 2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu ............................................................ 23 2.3. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 23 2.4. Tổ chức nghiên cứu và thu thập số liệu ............................................... 35 2.5. Xử lý và phân tích số liệu .................................................................... 35 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................... 38 3.1. So sánh một số đặc điểm sơ sinh sớm hạ đường máu và sơ sinh sớm không hạ đường máu ................................................................................... 38 3.2. Đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm .......................................... 39 3.3. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm .............. 47 Chương 4: BÀN LUẬN .............................................................................. 53 4.1. Đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm ......................................... 53 4.2. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm .............. 59 4.3. Hạn chế của đề tài ................................................................................ 71 KẾT LUẬN ................................................................................................. 72 KIẾN NGHỊ ................................................................................................ 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

v

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Phân độ già tháng Cliffort .......................................................... 15

Bảng 2.1: Phân vùng vàng da của Kramer với nồng độ bilirubin máu ...... 31

Bảng 2.2: Đánh giá mức độ suy hô hấp theo chỉ số Silverman . ................ 33

Bảng 2.3: Thang điểm Apgar ...................................................................... 33

Bảng 2.4: Bảng tiếp liên 2x2 ....................................................................... 36

Bảng 3.1: So sánh một số đặc điểm sơ sinh sớm hạ đường máu và sơ

sinh sớm không hạ đường máu ................................................................... 38

Bảng 3.2: Đặc điểm về giới tính và tuổi thai .............................................. 39

Bảng 3.3: Đặc điểm dinh dưỡng ................................................................. 40

Bảng 3.4: Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm non tháng có hạ đường máu 41

Bảng 3.5: Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm đủ tháng có hạ đường máu . 41

Bảng 3.6: Đặc điểm bệnh lý ........................................................................ 42

Bảng 3.7: Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu ....... 42

Bảng 3.8: Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu ......... 43

Bảng 3.9: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm ............. 44

Bảng 3.10: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng .. 44

Bảng 3.11: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng 45

Bảng 3.12: Đặc điểm tiền sử sản khoa của sơ sinh sớm hạ đường máu ..... 46

Bảng 3.13: Đặc điểm nuôi dưỡng bằng sữa mẹ ở trẻ sơ sinh sớm hạ

đường máu (giờ) .......................................................................................... 46

Bảng 3.14: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm từ phía mẹ .............. 47

Bảng 3.15: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với tuổi thai ........... 48

Bảng 3.16: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với đặc điểm dinh

dưỡng ........................................................................................................... 48

Bảng 3.17: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng với đặc

điểm dinh dưỡng ......................................................................................... 49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vi

Bảng 3.18: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng với đặc

điểm dinh dưỡng ......................................................................................... 50

Bảng 3.19: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm theo giờ tuổi ......... 50

Bảng 3.20: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với ăn sữa mẹ ........ 51

Bảng 3.21: Nguy cơ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với suy hô hấp sơ

sinh, vàng da tăng bilirubin tự do ................................................................ 51

Bảng 3.22: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với dị tật bẩm sinh,

bệnh lý tiêu hóa ........................................................................................... 52

Bảng 3.23: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với nhiễm khuẩn

sơ sinh, ngạt, đa hồng cầu sơ sinh ............................................................... 52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vii

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ thiết kế nghiên cứu .......................................................... 24

Biểu đồ 3.1: Mức độ hạ đường máu ............................................................ 39

Biểu đồ 3.2: Đặc điểm hạ đường máu theo ngày tuổi ................................. 40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hạ đường máu (hạ glucose máu) ở trẻ sơ sinh là tình trạng giảm nồng độ

glucose trong máu, đây là hội chứng thường gặp ở trẻ sơ sinh đặc biệt là giai

đoạn sơ sinh sớm, do nhiều nguyên nhân gây nên như do sự giảm sản xuất

glucose hoặc giảm dự trữ glycogen trong thời kỳ bào thai. Ở trẻ sơ sinh, mức độ

tiêu thụ glucose nhiều hơn so với lứa tuổi khác, trong đó cơ quan tiêu thụ nhiều

nhất là não. Trẻ sơ sinh non tháng, thấp cân, sơ sinh bệnh lý thì việc dự trữ

glycogen thường giảm, khả năng phân hủy glycogen giảm, trong khi đó mức độ

tiêu thụ glucose cao nên trẻ dễ bị hạ đường máu.

Tỷ lệ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh rất khác nhau tùy theo các nghiên cứu.

Nghiên cứu của Mejri năm 2010 trên 187 trẻ cho thấy tỷ lệ hạ đường máu là

26% [55], nghiên cứu của Bromiker năm 2019 sàng lọc hạ đường máu trên

3595 trẻ sơ sinh tỷ lệ này là 12,1% [26]. Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết

năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh sớm tỷ lệ hạ đường máu là 19,8% [13].

Triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh thường nghèo nàn và không

điển hình, có thể gây nhầm lẫn với các nguyên nhân và bệnh cảnh lâm sàng

khác trong giai đoạn sơ sinh, đặc biệt là trong giai đoạn sơ sinh sớm. Glucose

là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng cho tổ chức thần kinh, thiếu glucose

cũng như thiếu oxy gây nên nhiều tổn thương cơ quan và bệnh cảnh lâm sàng

thường đa dạng, nếu không được chẩn đoán và xử trí kịp thời sẽ gây rối loạn

chức năng tế bào não, dù có triệu chứng hay không, vẫn có thể để lại di chứng

nặng nề thậm chí có thể tử vong.

Hạ đường máu ở trẻ sơ sinh có nhiều nguyên nhân và các yếu tố nguy

cơ khác nhau như: do thay đổi chuyển hóa ở mẹ (truyền glucose, thuốc trong

thai kỳ, mẹ bị tiểu đường,…), do di truyền bẩm sinh (đột biến gen mã hóa sự

điều hòa bài tiết insulin của tế bào beta đảo tụy như gen ABCC8, KCNJ11,

SUR1,…), tăng insulin thứ phát,… Ngoài ra trên những trẻ đẻ non, thai to so

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2

với tuổi thai, có stress sơ sinh, … Và thiếu sữa mẹ sau sinh có nguy cơ hạ

đường máu cao hơn bình thường. Để góp phần kiểm soát tốt đường máu ở trẻ

sơ sinh đặc biệt cần luôn quan tâm đến đặc điểm trẻ sơ sinh sớm hạ đường

máu và một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm.

Nghiên cứu về hạ đường máu ở trẻ sơ sinh ở Việt Nam còn ít được

quan tâm, đặc biệt là nghiên cứu về đặc điểm và các yếu tố nguy cơ gây hạ

đường máu ở trẻ sơ sinh sớm. Tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, Trung

tâm Nhi khoa hàng năm có gần 1000 trẻ sơ sinh nhập viện vì các bệnh lý khác

nhau, chắc chắn trong số đó luôn có một tỷ lệ hạ đường máu không nhỏ.

Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “ Đặc điểm và một số yếu

tố nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Trung Ương Thái

Nguyên” nhằm các mục tiêu sau:

1. Mô tả một số đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm tại khoa Sơ

sinh – Cấp cứu nhi Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2018-2019.

2. Xác định một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh

sớm tại khoa Sơ sinh – Cấp cứu nhi Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên

năm 2018 - 2019.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

3

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Đặc điểm hạ đường máu sơ sinh

1.1.1. Định nghĩa hạ đường máu sơ sinh

Theo Nguyễn Công Khanh, gọi là hạ đường máu (HĐM) khi đường

máu dưới 0,4 g/l, trừ ở trẻ sơ sinh mấy ngày đầu khi đường máu dưới 0,3 g/l

với trẻ sơ sinh đủ tháng và dưới 0,2 g/l với trẻ sơ sinh thiếu tháng [6].

Trong lịch sử, người ta định nghĩa HĐM dựa vào các triệu chứng lâm

sàng nhưng không có giới hạn cụ thể như dễ kích thích, co giật, li bì. Các triệu

chứng này có giá trị hướng đến HĐM. Có nhiều cách tiếp cận chẩn đoán

HĐM khác nhau, trong đó, đặc biệt ở người lớn, bộ ba Whipple thường được

sử dụng, bao gồm: có các triệu chứng HĐM, nồng độ glucose huyết thanh

thấp và hết triệu chứng khi nồng độ glucose huyết thanh trở về bình thường.

Tuy nhiên, ở trẻ sơ sinh, các triệu chứng này thường không rõ ràng [40].

Có rất nhiều định nghĩa của HĐM trẻ sơ sinh, từ điển y khoa Stedman đã

định nghĩa HĐM là sự sụt giảm bất thường của glucose trong máu, các câu hỏi

đã được đặt ra là: so với cái gì hay giảm như thế nào, liên quan với những gì:

chẳng hạn như lưu lượng máu não, nồng độ hemoglobin hoặc hematocrit, mức

oxygen, tình trạng thiếu oxy hay thiếu máu cục bộ, tình trạng nhiễm khuẩn ..

Thuật ngữ HĐM cũng liên quan đến sử dụng glucose ở các mô, tế bào, cơ

quan. Thuật ngữ HĐM được định nghĩa lần đầu tiên vào năm 1937 với mức

nhẹ là từ 2,2-3,3 mmol/l, vừa là 1,1-2,2 mmol/l, nặng là <1,1 mmol/l. Trải qua

70 năm và gần đây sách giáo khoa đã có nhiều định nghĩa theo các tác giả khác

nhau: theo Kalhan và Parimi định nghĩa HĐM là < 2 mmol/l, Ogata định nghĩa

HĐM là < 2 mmol/l, McGowan định nghĩa HĐM là < 2,2-2,5 mmol/l [64].

Theo Viện hàn lâm nhi khoa Hoa Kỳ - American Academy Pediatrics

(AAP), HĐM sơ sinh được xác định khi đường máu của trẻ dưới 2,6 mmol/l [65].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

4

Trong một số tài liệu khác có đưa ra các giá trị cụ thể hơn: HĐM sơ

sinh được xác định khi glucose huyết thanh dưới 2,2 mmol/l (40 mg/dl) trong

24 giờ đầu sau sinh với những trẻ không có triệu chứng và dưới 2,5 mmol/l

(45mg/dl) với những trẻ có triệu chứng và dưới 2,8 mmol/l sau 24 giờ tuổi

Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn HĐM sơ sinh theo

“Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em” của Bộ

Y Tế ban hành kèm theo Quyết định số 3312/QĐ-BYT ngày 7/8/2015 của Bộ

trưởng Bộ Y Tế: ngưỡng xác định HĐM chung cho trẻ sơ sinh khi Glucose

huyết thanh 2,6 mmol/l [10].

1.1.2. Vai trò glucose máu ở trẻ sơ sinh

Ở trẻ sơ sinh, não có trọng lượng rất lớn so với kích thước cơ thể. Vấn đề

chuyển hóa glucose có tương quan với trọng lượng não vì não đòi hỏi lượng

lớn glucose cho các hoạt động chức năng bình thường của nó, cũng như nồng

độ glucose ở não có quan hệ tuyến tính với nồng độ glucose huyết tương, khi

nồng độ glucose huyết tương thấp thì nồng độ glucose trong não cũng giảm

theo thậm chí bằng không, trong khi đó tế bào não không thể tổng hợp glucose

cũng như không có nguồn dự trữ glycogen, chính vì lẽ đó tổn thương não

thường dễ xảy ra [90]. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh các nguồn năng lượng

glucose dự trữ thường thấp ở trẻ sơ sinh non tháng, trẻ sơ sinh hạn chế tăng

trưởng trong tử cung, do những trẻ sơ sinh này có thể bị đa hồng cầu, tăng độ

nhớt máu, hạ huyết áp và giảm cung lượng tim, do đó, càng làm giảm lưu

lượng máu não và càng giảm cung cấp glucose đến não, hậu quả là tổn thương

chức năng của não cũng như thiếu oxy, thiếu máu cục bộ ảnh hưởng rất lớn đến

sự phát triển thần kinh sau này ở trẻ.

1.1.3. Chuyển hóa glucose ở thai nhi

Trứng phát triển liên tục suốt trong 37 tuần kể từ khi thụ thai đến khi trẻ

được sinh ra. Trong giai đoạn này sự chuyển hóa của thai dựa trên tuần hoàn

nhau xảy ra một cách dễ dàng và tùy thuộc vào chất lượng của nhau, sự chuyển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

5

hóa này dựa trên hai loại chất dinh dưỡng chính là glucose và acid amin, trong

đó glucose là loại thức ăn cung cấp năng lượng duy nhất của thai. Nồng độ

glucose máu của thai bằng nồng độ glucose nước não tủy của mẹ, nghĩa là ≥

50% nồng độ glucose máu của mẹ. Glucose trong thai có nhiệm vụ tạo dự trữ

chất béo và glucose trong quý 3 của quá trình trưởng thành của thai.

Trong suốt thời kỳ mang thai, toàn bộ glucose của thai nhi do mẹ cung

cấp cho thông qua con đường khuếch tán qua nhau thai. Như vậy, quá trình

tổng hợp glucose trong thai nhi bình thường là không xảy ra hoặc có xảy ra

cũng rất ít, mặc dù các enzym cần cho tổng hợp glycogen ở thai nhi đã có mặt

từ tháng thứ ba của thai kỳ. Nồng độ của glucose mà não thai nhi sử dụng chỉ

thấp hơn một chút so với nồng độ glucose huyết thanh của mẹ, với nồng độ

glucose bình thường của mẹ là 70 - 90 mg/dL (3,9 - 5.0 mmol/L), chênh lệch

glucose huyết thanh trung bình của thai nhi ở với mẹ chỉ ở mức 9 mg/dL (0,5

mmol/L) [75]. Nếu nhu cầu glucose của thai nhi không được đáp ứng bởi tình

trạng HĐM của mẹ hay suy nhau thai, thai nhi có thể sử dụng chất thay thế,

chẳng hạn như các ceton có nguồn gốc từ các a xít béo. Với nguồn cung cấp

glucose thấp kéo dài, thai nhi phát triển sản xuất con đường riêng, đầu tiên là

quá trình phân giải glycogen và sau thời gian dài quá trình tổng hợp glycogen

thiếu hụt gây những thay đổi phức tạp trong quá trình chuyển hóa glucose của

thai nhi, dẫn đến thai nhi chậm phát triển trong tử cung và hậu quả là những

thay đổi trong chuyển hóa glucose ở trẻ sơ sinh sau sinh mà hay gặp là HĐM

sau sinh. Ngược lại ở thai nhi được cung cấp quá nhiều glucose sẽ có hiện

tượng cường insulin thứ phát từ trong tử cung. Insulin và glucagon không qua

nhau thai. Nồng độ insulin tăng dần theo thời gian trong khi nồng độ glucagon

vẫn ở mức thấp. Trong suốt thai kỳ, khi nhau thai trưởng thành, insulin không

ảnh hưởng glucose hấp thu từ phía mẹ. Hầu hết sự lắng đọng glycogen của thai

nhi xảy ra nửa sau của thai kỳ. Việc vận chuyển đầy đủ glucose từ mẹ sang con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

6

được đánh giá bởi lưu lượng máu ở cuống rốn vì không có sự khác biệt về mức

độ protein vận chuyển glucose trong nhau thai [69].

1.1.4. Chuyển hóa glucose ở trẻ sơ sinh

Thời kỳ sơ sinh là thời kỳ bắt đầu cuộc sống bên ngoài từ lúc sinh ra

đến 4 tuần tuổi. Thường được chia làm 2 giai đoạn đó là giai đoạn sơ sinh

sớm (ngày thứ 1 đến ngày thứ 7 sau sinh), giai đoạn sơ sinh muộn (từ ngày

thứ 8 đến ngày 28 sau sinh) [4].

Có rất nhiều yếu tố tác động vào lúc sinh tạo sự chuyển tiếp hài hòa từ

cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào người mẹ trong môi trường nước ối trong

tử cung sang một cuộc sống độc lập bên ngoài. Sự chuyển tiếp đó có 4 sự kiện

cơ bản xảy ra đối với đứa trẻ:

+ Sự thay đổi về hệ thống tuần hoàn

+ Sự thành lập một hệ hô hấp có hiệu lực

+ Thận đảm bảo điều hòa môi trường bên trong cơ thể trẻ

+ Cơ thể trẻ phải tự điều hòa thân nhiệt.

Như vậy, một trẻ sơ sinh muốn tồn tại bằng hoạt động của chính cơ

thể thì cần phải có một sự thích nghi tốt. Để cho giai đoạn chuyển tiếp này

được điều hòa cần phải có các hoạt động: về hô hấp (phổi bắt đầu hoạt

động để tự cung cấp oxy), tuần hoàn (vòng tuần hoàn khép kín thay thế

vòng tuần hoàn nhau - thai), máu (thay HbF của bào thai thành HbA1,

giảm số lượng hồng cầu), tự điều hòa thân nhiệt, tự điều hòa mức đường

máu trong giới hạn bình thường (vào lúc sinh, sự cung cấp dinh dưỡng qua

nhau thai bị gián đoạn đột ngột, để duy trì đường máu phải có sự phân hủy

glycogen ở gan, được thay thế nhanh chóng bằng sữa khi cho bú), cũng

như các bộ phận khác như tiêu hoá, thận, thần kinh... đều chưa hoàn thiện,

nhưng nó biến đổi rất nhanh, đặc biệt trong tuần đầu đời sống.

Glucose chủ yếu do mẹ cung cấp qua nhau thai, khả năng dự trữ

chất này dưới dạng glycogen chỉ có sau 35 tuần tuổi thai. Trẻ sinh non

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

7

trước thời gian này hầu như không có glycogen hoặc dưới 10g%, trong khi

đó ở trẻ đủ tháng lượng glycogen dự trữ 34g%. Theo nghiên cứu của

Kayiran, khi kiểm tra nồng độ glucose ở trẻ sơ sinh khỏe mạnh cũng đã nhận

thấy rằng lượng glucose trong máu tăng dần cùng với sự tăng của tuổi thai, sự

khác biệt có ý nghĩa về nồng độ glucose trung bình giữa các nhóm tuổi 36-37

tuần, 38-39 tuần và ≥ 40 tuần [52].

Sự vận chuyển glucose từ mẹ sang thai nhi theo cơ chế khuếch tán dễ

dàng theo cả hai phía. Lượng đường cung cấp chỉ sử dụng cho thai khoảng

40-50%, còn lại để nhau thai sử dụng cho các phản ứng oxy hóa, vận chuyển,

chuyển hóa đường, do có sự liên quan trao đổi qua lại giữa đường máu mẹ và

đường máu thai nhi nên nồng độ đường máu thai nhi luôn giữ ở mức 70-80%

máu mẹ. Glucose khuyếch tán từ máu mẹ sang con dự trữ dưới 2 dạng chính:

+ Glycogen ở gan, cơ tim: Bắt đầu từ tuần thứ 36.

+ Mỡ dưới da và nơi khác: Bắt đầu từ tuần thứ 28 đến tuần thứ 30.

Sau khi sinh nguồn cung cấp glucose cho trẻ sơ sinh bị gián đoạn đột

ngột và nồng độ glucose trong máu giảm, hiện tượng này là phổ biến và là

sinh lý bình thường cần thiết để kích hoạt chức năng sản xuất glucose ở trẻ sơ

sinh. Những thay đổi hormon và chuyển hóa khi sinh tạo điều kiện thích nghi

cho trẻ sinh ra sau này. Nồng độ catecholamine tăng rõ rệt khi sinh và cùng

với glucagon kích hoạt quá trình phosphoryl hóa glycogen tại gan và quá

trình phân giải glycogen tại gan. Sự tăng tiết cortisol kích thích glucose-6-

phosphatase tại gan hoạt động và giải phóng glucose ở gan. Tăng

catecholamine cũng kích thích sự phân giải lipid, cung cấp năng lượng (ATP)

và cùng yếu tố (NADPH) tăng cường hoạt động của các enzyme chịu trách

nhiệm tổng hợp glycogen [65]. Nồng độ đường máu sau sẽ giảm dần trong

vòng 1-3 giờ sau khi sinh và nồng độ đường máu sẽ tự tăng dần lại sau giai

đoạn này. Ở trẻ sơ sinh đủ tháng khỏe mạnh, nồng độ đường máu ở các thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

8

điểm 3 giờ đầu sau sinh, từ 3 đến 24 giờ đầu sau sinh và sau 24 giờ đầu sau.

sinh hiếm khi nào giảm tương ứng dưới 35 mg/dl, 40 mg/dl và 45 mg/dl [80]

Trong những ngày đầu năng lượng được cung cấp chủ yếu dựa vào

các dự trữ đường, quan trọng nhất là phản ứng của tụy tiết ra glucagon có lợi

cho nội tiết để nồng độ đường trong máu có thể được duy trì. Các enzyme

tham gia sản xuất đường cũng tăng mạnh sau khi sinh đảm bảo nồng độ

đường cần thiết cho các hoạt động sống ngoài tử cung, bên cạnh đó nồng độ

insulin cũng giảm dần theo giờ tuổi trung bình 1,17mU/l trong 12 giờ đầu

sau sinh xuống còn 1,03mU/l trong 12-24 giờ sau sinh [31]. Cơ chế này có

thể giải thích một số nguyên nhân HĐM sơ sinh dựa trên những thay đổi

không phù hợp trong tiết hormon và không có các nguồn dự trữ ở dạng

glycogen ở gan, cơ, nguồn acid amin để sản xuất đường và nguồn lipid cần

cho sự chuyển hóa thành các acid béo.

1.1.5. Điều hòa glucose máu ở trẻ sơ sinh

Khi sinh, nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch rốn ở vào khoảng

60%-80% nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch mẹ. Sự sụt giảm nhanh

chóng lượng glucose trong máu diễn ra trong khoảng từ 30-60 phút sau sinh

và sau đó là ổn định dần trong khoảng 2-4 giờ sau sinh. Nồng độ glucose

máu tăng sau 48 giờ đầu của cuộc sống và tương tự với nồng độ glucose

máu ở 72-96 giờ tuổi [17].

Nồng độ glucose máu luôn được ổn định nhờ các yếu tố sau:

Thứ nhất là điều hòa đường máu do gan: Do gan có tính chất thấm

glucose dễ dàng hơn các mô khác, có khả năng tân tạo đường, cân bằng giữa

quá trình thoái hóa, tổng hợp glycogen tại gan nhờ vào enzym glucose-6-

phosphatase (enzyme này không có ở các mô khác) giải phóng glucose vào

máu, cung cấp glucose cho não, cơ và các mô khác sử dụng. Khi mức glucose

máu tăng sự giải phóng glucose máu ngưng lại và ở mức cao thì gan tăng

cường sử dụng glucose.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

9

Thứ hai là điều hòa đường máu do hormon: Hormon insulin do tụy tiết

ra gây HĐM do tăng sử dụng glucose trong tế bào, tăng quá trình đường phân

và ức chế quá trình tân tạo đường. Các hormon adrenalin, glucagon… làm

tăng đường máu do làm tăng quá trình phân ly glycogen thành glucose và

giảm tổng hợp glycogen từ glucose.

1.1.6. Phân mức hạ glucose máu sơ sinh

Hạ đường máu sơ sinh là một tình trạng cấp cứu cần được xử trí kịp

thời, những trẻ có nguy cơ HĐM cần phải kiểm tra glucose máu trong 2

giờ đầu sau sinh để có kế hoạch đối phó xử trí kịp thời.

Có thể chia thành 2 mức HĐM như sau:

+ Mức đường máu nặng: < 25mg/dl ( 1,1mmol/l)

+ Mức đường máu < 47mg/dl nhưng ≥ 25mg/dl .

1.1.7. Triệu chứng của hạ đường máu sơ sinh

Hạ đường máu ở trẻ sơ sinh hay gặp nhưng thường không có triệu

chứng. Trẻ có các triệu chứng chủ yếu liên quan đến suy giảm chức năng các

cơ quan cần thiết phải được sàng lọc và điều trị sớm, điều này rất có ý nghĩa

trong việc ngăn chặn các tổn thương thần kinh vì khi đã có triệu chứng, thì

tổn thương thường đã nặng và có thể có di chứng thần kinh [19].

- Các biểu hiện của tình trạng tăng catecholamin do HĐM như xanh tái,

vã mồ hôi, các triệu chứng do tổn thương tim mạch: tăng nhịp tim, hạ huyết

áp, và suy tim.

- Triệu chứng của giảm đường tới mô tế bào thần kinh bao gồm: ngưng

thở, co giật, hay li bì, là những triệu chứng HĐM rất nặng đòi hỏi phải điều trị

cấp cứu ngay tức thì. Có khoảng 30% trẻ này sẽ có những di chứng bất

thường về hệ thần kinh kể cả chậm phát triển tinh thần rất nặng nề. Theo

nghiên cứu của Wong và cộng sự năm 2013 trên những trẻ có tổn thương

thiếu máu - oxy não, khi so sánh với tỷ lệ hạ glucose máu, MRI có giá trị tiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

10

đoán dương là 82% và giá trị tiên đoán âm là 78%, có 34% trẻ sơ sinh có biểu

hiện HĐM trên lâm sàng trước khi chụp MRI [83].

Triệu chứng của HĐM thường không đặc hiệu và có thể đó là biểu hiện

của các bệnh lý nhiễm khuẩn nặng ở trẻ sơ sinh như: Dễ kích thích, giảm cử

động, bú kém, hạ thân nhiệt, li bì, rung cơ, giảm trương lực cơ, co giật, ngủ

lịm, chậm nhịp tim, ngưng tim, ngưng thở. Nghiên cứu của Sikandar Ali

Bhand và cộng sự cho thấy, 38% có biểu hiện dễ kích thích, 23% xanh tím,

32% rối loạn thân nhiệt và 25% li bì [25].

Trên thực tế lâm sàng, HĐM sơ sinh thường không có triệu chứng, tuy

nhiên nếu trẻ được sàng lọc, phát hiện và điều trị sớm sẽ giảm được nhiều

biến chứng do HĐM gây ra. Việc điều trị HĐM sơ sinh cũng không phải là

một vấn đề khó, hầu như chỉ cần truyền glucose ưu trương có thể hết HĐM

trừ những trường hợp HĐM dai dẳng cần thiết phải điều trị chuyên sâu tùy

theo nguyên nhân gây HĐM, cũng như theo khuyến cáo của AAP việc cho trẻ

bú mẹ sớm cùng với da kề da làm giảm nguy cơ HĐM ở trẻ sơ sinh sớm.

1.2. Nguyên nhân và một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu sơ sinh

1.2.1. Nguyên nhân hạ đường máu sơ sinh

Nguyên nhân gây HĐM ở trẻ sơ sinh là do dự trữ glycogen và lipid rất

ít. Tổ chức não khi trưởng thành sử dụng nhiều đường nên đường sẽ giảm rất

nhanh, chuyển hóa và tiêu thụ oxy cũng tăng trong mọi cơ quan tổ chức, trong

khi tụy sản xuất insulin nhiều, tuyến thượng thận phản ứng kém,

catecholamine máu lại không tăng nên đường càng giảm cùng với đó có đồng

vận mạnh về chuyển hóa protid, TSH tăng cao mà năng lượng lại thấp nên

càng dễ bị giảm glucose máu. Chính vì vậy những trẻ HĐM có thể bị HĐM

tái phát.

Từ lâu, cường insulin được coi là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến

HĐM ở giai đoạn sơ sinh. Tình trạng này xảy ra ngay sau khi sinh nhưng

cũng có thể xảy ra ở ngoài giai đoạn sơ sinh do giảm số lượng bữa ăn trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

11

ngày. Tình trạng này được biểu hiện bằng mức độ insulin và C-peptide không

phù hợp tương ứng với mức glucose huyết tương, giảm nồng độ axit béo tự

do, beta-hydroxybutyrate và protein gắn yếu tố tăng trưởng insulin 1 (do IGF

ức chế sao chép gen -BP1 bằng insulin). Cường insulin được phân thành hai

loại: thoáng qua và dai dẳng.

HĐM cũng có thể xảy ra sau khi phẫu thuật đường tiêu hóa, . Điều

này được ghi nhận là do giải phóng quá nhiều glucagon kiểu peptide-1 dẫn

đến bài tiết insulin quá mức.

HĐM cũng có thể liên quan đến đái tháo đường thai kỳ và việc điều

trị của mẹ. Các kỹ thuật mới giúp hỗ trợ phát hiện và ngăn ngừa tình trạng

này, bao gồm cả máy theo dõi glucose máu liên tục. Nó cũng quan trọng

để loại trừ suy thượng thận nếu trẻ mắc tiểu đường tuýp 1 bị HĐM kéo

dài. Suy thượng thận có thể liên quan đến bệnh tiểu đường type 1 vì thiếu

cortisol có liên quan đến tăng độ nhạy insulin.

Các nguyên nhân khác gây HĐM do cường insulin như do thuốc (thuốc

chẹn beta, thuốc hạ áp đường uống, thuốc kháng vi-rút hoặc thuốc chống loạn

nhịp tim). Cường insulin cũng có thể liên quan đến hội chứng Beckwith

Wiedemann, hội chứng Kabuki, hội chứng Costello và hội chứng Turner.

Bệnh dự trữ glycogen bao gồm các rối loạn liên quan đến khiếm

khuyết của các enzyme có liên quan đến vận chuyển glucose, tổng hợp

glycogen và phân giải glycogen.

Rối loạn bẩm sinh glycosyl hóa: do khiếm khuyết glycosyl hóa và

có thể xuất hiện với nhiều loại và đặc điểm kiểu hình trong đó type 1b

liên quan đến sự thiếu hụt phosphomannose isomerase với đặc trưng gây

HĐM [40]

Các nguyên nhân do giảm sản xuất / dự trữ glycogen [6] hay gặp

như: non tháng, thai chậm phát triển trong tử cung (15% HĐM), nhập năng

lượng không thích hợp, cho ăn muộn sau sinh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

12

Các nguyên nhân do tăng sử dụng và / hoặc giảm sản xuất glucose

hay gặp như: nhiễm khuẩn sơ sinh (NKSS), sốc, ngạt, hạ thân nhiệt, suy hô

hấp (SHH), các rối loạn chuyển hóa carbohydrate (bệnh dự trữ glycogen,

bất dung nạp fructose, galactosemie), thiếu nội tiết tố (suy thượng thận,

giảm các hormon vùng dưới đồi, suy tuyến yên bẩm sinh, thiếu glucagon,

thiếu epinephrine), rối loạn chuyển hóa amino acid, trẻ lớn cân so với tuổi

thai, mẹ tiểu đường, tăng sản tế bào β tụy, cường insulin khu trú hoặc lan

tỏa, sơ sinh tăng đáp ứng tạm thời quá mức, hội chứng Beckwith-

Weideman (macrosomia, lưỡi to, đầu nhỏ, thoát vị rốn, HĐM và lớn tạng

đặc), tuốc dùng cho mẹ: chloropamide (diabenese), lợi tiểu thiazide, beta-

giao cảm (terbutalin), thuốc ức chế β (labetalol, propranolol), truyền dịch

ưu trương trong chuyển dạ, catheter động mạch rốn sai vị trí, ngưng đột

ngột dịch truyền glucose nồng độ cao, sau thay máu.

1.2.2. Các yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu sơ sinh sớm

- Về phía con:

+ Trẻ nhẹ cân, suy dinh dưỡng bào thai < 2500gr

+ Trẻ đẻ non

+ Trẻ già tháng

+ Trẻ > 4000gr

+ Trẻ sinh đôi

+ Trẻ nhiễm khuẩn sơ sinh (NKSS)

+ Trẻ bị ngạt

+ Trẻ hạ thân nhiệt

+ Trẻ truyền thay máu

+ Các hội chứng bẩm sinh (ví dụ, Beckwith-Wiedemann) và các dị

tật bẩm sinh (ví dụ, dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt, dương vật nhỏ,...) [50].

+ Trẻ mắc một số bệnh lý giai đoạn sơ sinh như: vàng da tăng

Billirubin tự do (VDTBTD), đa hồng cầu sơ sinh (ĐHCSS), SHH,….

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

13

+ Trẻ bú sữa mẹ muộn sau khi sinh (sau 1 giờ sau sinh): sữa mẹ và sữa

công thức có thể giúp làm ổn định đường máu ở trẻ có mẹ bị tiểu đường và

ngăn ngừa HĐM. Trong khi sữa công thức có sẵn và được sử dụng thường

xuyên thì sữa mẹ thường ít được quan tâm sử dụng khi mẹ có tiểu đường, dẫn

đến những biến chứng cho trẻ sơ sinh bệnh lý có mẹ tiểu đường trong thai kỳ.

Bên cạnh đó, cũng nhiều lý do khiến trẻ không được bú sữa mẹ như: điều kiện

sống thấp, béo phì, mẹ hút thuốc, trình độ dân trí thấp, sinh non, trẻ bị tách mẹ

cũng dẫn tới những biến chứng của tiểu đường thai kỳ. Lợi ích của việc bú

sữa mẹ sớm đối với trẻ cũng như mẹ đã khiến sữa mẹ trở thành lựa chọn hàng

đầu, đặc biệt với trẻ có mẹ tiểu đường thai kỳ [28].

Bác sĩ lâm sàng cần chẩn đoán và kiểm soát HĐM, thúc đẩy việc ăn sữa

mẹ tránh việc trẻ phải nằm phòng chăm sóc đặc biệt cũng như ngăn việc tăng

đường máu do sự mất ổn định đường máu và các biến chứng thần kinh sau

này [16].

- Về phía mẹ:

+ Mẹ bị đái tháo đường

+ Mẹ tăng cân quá mức

+ Mẹ được truyền glucose trong quá trình chuyển dạ (QTCD)khi

sinh hay sử dụng các thuốc chống HĐM có nguy cơ bị HĐM khi sinh [91].

+ Mẹ dùng thuốc propranolon, cocain, amphetamin

+ Mẹ có sốt trong QTCD [32].

Nghiên cứu của Kamath và cộng sự trên 672 bà mẹ mang đơn thai

và được chỉ định mổ lấy thai cho thấy, việc mổ lấy thai (MLT) làm tăng

nguy cơ trẻ phải nhập viện vì HĐM [51].

1.2.3. Liên quan hạ đường máu với phân loại sơ sinh

1.2.3.1. Phân loại sơ sinh

Mục đích của phân loại sơ sinh là để có kế hoạch chăm sóc và tầm soát

sớm bệnh lý của từng loại sơ sinh giúp điều trị sớm nhằm hạn chế tử vong sơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

14

sinh. Từ năm 1963 Luchenco đã phân loại sơ sinh dựa vào cân nặng theo tuổi

thai, tuổi thai được đánh giá dựa vào tiêu chuẩn sản khoa hoặc dựa vào hình

thái nhi khoa theo Varrier Farr. Ngày nay Tổ chức y tế thế giới (World Health

Organization – WHO) đã dùng phân loại của Luchenco làm tiêu chí để phân

loại sơ sinh. Phân loại sơ sinh theo WHO như sau [4]:

Sơ sinh đủ tháng (SSĐT)

- Tiêu chuẩn chẩn đoán:

+ Tuổi thai từ 37 tuần - 41 tuần 6 ngày.

- Dựa vào cân nặng so với tuổi thai có thể phân thành 3 loại:

+ Sơ sinh đủ tháng cân nặng tương ứng so với tuổi thai

+ Sơ sinh đủ tháng cân nặng thấp so với tuổi thai

+ Sơ sinh đủ tháng cân nặng lớn so với tuổi thai

Sơ sinh non tháng (SSNT)

- Tiêu chuẩn chẩn đoán:

+ Tuổi thai từ < 37 tuần

- Các mức độ non tháng: Có 3 mức độ non tháng theo tuổi thai:

+ Loại cực non: SSNT < 28 tuần

+ Loại rất non: SSNT 28 - 33 tuần

+ Loại non tháng: SSNT > 33 - 37 tuần.

- Dựa vào cân nặng so với tuổi thai có thể phân thành:

+ Sơ sinh non tháng cân nặng tương ứng với tuổi thai < 28 tuần, 28

- 32 tuần

+ Sơ sinh non tháng 33-37 tuần cân nặng tương ứng với tuổi thai

+ Sơ sinh non tháng 33-37 tuần cân nặng thấp hơn so với tuổi thai

+ Sơ sinh non tháng 33-37 tuần cân nặng lớn hơn so với tuổi thai

Sơ sinh già tháng

- Tiêu chuẩn chẩn đoán:

+ Tuổi thai ≥ 42 tuần.

+ Và /hoặc Da bong khi miết nhẹ hoặc bong tự nhiên, rốn héo vàng

hoặc xanh thẩm, hoặc móng tay, móng chân dài vàng hoặc xanh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

15

Bảng 1.1. Phân độ già tháng Cliffort

Độ già tháng Độ 1 Độ 2 Độ 3

Da bong Khi miết Bong tự nhiên Bong từng mảng nhiều vị trí

Cuống rốn Héo Vàng úa Xanh thẫm phân su

Dài Dài, vàng Dài, xanh thẫm màu phân su Móng tay móng chân

- Dựa vào cân nặng so với tuổi thai có thể phân thành 3 loại:

+ Sơ sinh già tháng cân nặng tương ứng so với tuổi thai

+ Sơ sinh già tháng cân nặng thấp so với tuổi thai

+ Sơ sinh già tháng cân nặng lớn so với tuổi thai

Theo Nguyễn Công Khanh, thời kỳ sơ sinh có thể chia làm hai giai

đoạn là: Thời kỳ sơ sinh sớm (7 ngày đầu sau sinh) và thời kỳ sơ sinh muộn

(từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 28 sau sinh) [4]. Trong đó, hạ đường máu ở thời

kỳ sơ sinh sớm thường không có triệu chứng và được coi là hệ quả của sự

thích nghi với cuộc sống bên ngoài [26]. Nghiên cứu của Zhou và cộng sự

năm 2015 trên 668 trẻ sơ sinh cho thấy, tỷ lệ hạ đường máu ở nhóm trẻ sơ

sinh dưới 7 ngày tuổi là 21,1%, ở nhóm trẻ từ 8 đến 14 ngày tuổi và trên 14

ngày tuổi, tỷ lệ này lần lượt là 3% và 1,9%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê

lớn theo biến ngày tuổi (χ2 = 41,1; p < 0,001), tỷ lệ hạ đường máu trong vòng

bảy ngày tuổi cao hơn hẳn so với nhóm từ 8 đến 14 ngày tuổi và trên 14 ngày

tuổi) có ý nghĩa thống kê với lần lượt (χ2 = 18,3; p < 0,001) và (χ2 = 10,9; p <

0,001), trong khi đó không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm từ

8 đến 14 ngày tuổi và trên 14 ngày tuổi. Điều này gợi ý rằng, hạ đường máu

hầu như chỉ xảy ra ở giai đoạn sơ sinh sớm [86].

1.2.3.2. Sơ sinh đủ tháng và hạ đường máu

Trẻ khi còn trong bụng mẹ nhận được sự cung cấp glucose liên tục từ

mẹ qua nhau thai, sau khi sinh ra, sự cung cấp này bị dừng đột ngột, do đó

trẻ phải tự cung cấp glucose cho chính mình cho đến khi được bữa ăn, bữa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

16

bú đầu tiên. Trong thời gian này, có thể xảy ra các đợt HĐM. Đối với trẻ sơ

sinh đủ tháng khỏe mạnh, thì các chức năng giúp điều chỉnh đường máu

gần như là hoàn chỉnh do đó không cần can thiệp vào quá trình cho trẻ bú

tự nhiên ở nhóm này. AAP và WHO khuyến cáo nên sàng lọc đường máu

cho nhóm trẻ nguy cơ và có triệu chứng tuy nhiên không cần thiết sàng lọc

đường máu thường quy cho tất cả các trẻ sơ sinh. Dù vậy, vẫn có những ý

kiến lo ngại về việc HĐM không có triệu chứng mà không được phát hiện

sẽ để lại di chứng thần kinh. Một số nghiên cứu đã báo cáo rằng di chứng

thần kinh sau HĐM có tỷ lệ 35% ở nhóm có triệu chứng và lên tới 20% ở

nhóm không có triệu chứng. Nguyên nhân có thể do nguyên phát, cho trẻ

bú sai, trẻ không ngậm bắt được núm vú, do mẹ sử dụng an thần hay đau

sau đẻ và không cho trẻ bú sớm. Những vấn đề này xảy ra cả ở trẻ sơ sinh

đủ tháng khỏe mạnh và bệnh lý [66].

Nghiên cứu Edwin Dias và Sandeep Gada năm 2014 trên 100 trẻ sơ

sinh khi đo đường máu vào các thời điểm 0, 3, 6, 12, 24 giờ sau đẻ, nồng độ

glucose trong máu thấp nhất ở 0 giờ và 6 giờ và đạt tối đa ở 24 giờ. Khi mới

sinh, mức đường máu trung bình thấp nhất ở nhóm trẻ sơ sinh 34-36 tuần và

40-42 tuần. Tuy nhiên, sau 3 giờ, mức đường huyết trung bình tăng lên ở trẻ

sơ sinh 34-36 tuần, nhưng vẫn thấp ở trẻ sơ sinh 40-42 tuần. Điều này tương

đồng với các nghiên cứu khác, nơi trẻ sinh non có nồng độ glucose trong máu

trung bình thấp hơn trong vài giờ đầu sau sinh so với trẻ đủ tháng [34].

1.2.3.3. Sơ sinh non tháng và hạ đường máu

Trẻ sinh non bị hạn chế cả nguồn cung cấp cũng như dự trữ năng lượng

để chuyển hóa cacbonhydrate. Thêm vào đó, các cơ quan tham gia điều hòa

và chuyển hóa năng lượng như gan, tụy, não và các tuyến nội tiết đều chưa

phát triển hoàn chỉnh. Do đó, HĐM ở trẻ sơ sinh non tháng phổ biến hơn so

với trẻ sơ sinh đủ tháng. HĐM cũng hay gặp hơn ở trẻ sơ sinh nhỏ hơn tuổi

thai và trẻ bị ngạt chu sinh [84]. Trẻ sinh non có nguy cơ lớn phát triển thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

17

HĐM sau khi sinh bởi vì quá trình phân giải glycogen ở gan và phân giải lipid

ở mô mỡ còn non yếu, điều hòa nội tiết kém, và quá trình tổng hợp glycogen,

ceton ở gan còn thiếu. Nồng độ đường trong máu ở những trẻ sinh non thường

giảm xuống thấp nhất tại thời điểm 1-2 giờ sau khi sinh và vẫn ở mức thấp

cho đến khi con đường trao đổi chất có thể bù đắp được. Thời kỳ bào thai

chức năng dự trữ glucose dưới dạng glycogen chỉ có sau 35 tuần tuổi thai. Trẻ

sinh non trước thời gian đó hầu như không có glycogen dự trữ dưới 10g%

trong khi đó glycogen dự trữ ở trẻ đủ tháng khoảng 34g%. Lượng glycogen ở

gan được đánh giá bằng test glycogen: ở trẻ sơ sinh đủ tháng chỉ cần tiêm bắp

30µg glucagon chúng ta gây tăng đường máu trong thời gian dài 12-24 giờ, ở

trẻ sinh non phải tiêm 300µg glucagon trong tuần lễ đầu và 30µg từ tuần thứ

hai trở đi mới gây được tăng đường máu và cũng chỉ trong thời gian ngắn là 12

giờ . Trẻ sinh non sử dụng glucose rất kém chỉ có 60% và chủ yếu ở các tổ

chức ngoài gan, bên cạnh cơ chế điều hòa glucose chưa hoàn chỉnh cùng với đó

lượng đường trong máu ở trẻ sinh non là thấp hơn nên đó cũng là lý do HĐM

rất hay xảy ra ở nhóm trẻ này. Tỷ lệ HĐM ở trẻ sơ sinh non tháng cao gấp 2 -3

lần so với trẻ sơ sinh đủ tháng và trẻ sơ sinh non HĐM có nguy cơ nhập viện

cao hơn [27].

Hạ đường máu là một trong những vấn đề phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh, đặc

biệt là ở trẻ sinh non, HĐM có triệu chứng hoặc không có triệu chứng có thể gây

ra các biến chứng quan trọng có thể gây tử vong hoặc chậm phát triển sau này

trong đời. Nhưng nếu được phát hiện điều trị sớm, theo nghiên cứu của Rachel

Goode và cộng sự, không có sự khác biệt đáng kể nào về trí tuệ và thành tích học

tập của trẻ sinh non có HĐM và không HĐM [43]. Bên cạnh đó nghiên cứu của

Win Tin và cộng sự năm 2012 trên 543 trẻ sơ sinh < 1850 gram được đường

kiểm soát đường huyết sau sinh, liên kết chăm sóc với bệnh viện, tuổi thai, cân

nặng khi sinh cho đến khi 2 tuổi cũng không nhận thấy sự khác biệt về thể lực

cũng như tâm lý cho đến khi trẻ được 15 tuổi [79].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

18

1.2.3.4. Sơ sinh già tháng và hạ đường máu

Ở trẻ sơ sinh già tháng, vì quá ngày nên thai bị nuôi dưỡng kém do

nhau thai bị hủy hoại, mạch máu rốn bị tắc, tế bào nhau lắng đọng fibrin canxi

hóa dẫn đến rối loạn vận chuyển các chất dinh dưỡng. Lớp mỡ dưới da mỏng

dần, cân nặng giảm đi, vì vậy trẻ sinh ra có có hình dạng giống như trẻ chậm

phát triển trong tử cung, đây là nhóm trẻ có nguy cơ cao về các bệnh lý giai

đoạn sơ sinh sớm đặt biệt là hạ đường máu.

1.2.3.5. Sơ sinh Lớn cân so với tuổi thai và hạ đường máu

Trẻ sơ sinh Lớn cân so với tuổi thai – small for gestational age (SGA)

nguy cơ HĐM cũng dễ xảy ra vì trong những ngày đầu năng lượng cung cấp chủ

yếu dựa vào các dự trữ đường, nếu thiếu cơ thể sẽ huy động thêm các dự trữ mỡ

vùng bả vai, trung thất, quanh thận và cuối cùng nếu cần là dự trữ đạm. Ở trẻ sơ

sinh SGA kho dự trữ glycogen và acid béo nghèo nàn, sự tân sinh glucose không

hiệu quả, khối hồng cầu tăng, kèm có sự tiêu thụ lớn ở não do tỷ trọng của não

so với trọng lượng của cơ thể lớn trong khi đó glucose là nguồn cung cấp năng

lượng duy nhất cho tổ chức thần kinh và não sử dụng cho quá trình trao đổi

chất và nhiều tác giả cũng không tìm thấy hiện tượng cường insulin thứ phát

ở nhóm sơ sinh này [31]. Nghiên cứu của Ahmad và cộng sự năm 2012 trên

502 trẻ sơ sinh cho thấy nồng độ glucose trong máu ở trẻ sơ sinh có cân nặng

thấp < 2,5 kg luôn thấp hơn đáng kể so với nhóm trẻ sơ sinh có cân nặng >

2,5 kg [89]. HĐM ở trẻ sơ sinh rất nhẹ cân nguy cơ tử vong cao hơn. Trẻ sơ

sinh rất nhẹ cân có nguy cơ HĐM cao hơn hẳn do dự trữ glycogen và lipid bị

hạn chế trong khi đó dự trữ này chỉ đủ cho đến quý thứ ba của thai kỳ, trong

các thí nghiệm gần đây cho thấy HĐM sơ sinh dẫn tới não thiếu năng lượng,

tăng tình trạng kích thích do nhiễm độc và stress oxy hóa gây ra nitrat hóa

protein và peroxy hóa lipid [38]. Trẻ sơ sinh rất nhẹ cân có thời gian nằm viện

hay tỷ lệ tử vong đều cao hơn nếu có HĐM. Tổn thương não không hồi phục

chiếm tỷ lệ từ 25 - 50% trẻ dưới 6 tuổi có triệu chứng của HĐM nặng. Ngoài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

19

ra thiếu oxy não hay thiếu máu não do HĐM cũng sẽ dẫn tới tổn thương não

không hồi phục [77].

1.2.3.6. Sơ sinh Lớn cân so với tuổi thai và hạ đường máu

Trẻ sơ sinh có cân nặng lớn hơn so với tuổi thai – large for gestational

age (LGA) hay gặp ở những bà mẹ có đái tháo đường đang có xu hướng ngày

càng tăng lên. Trẻ sơ sinh LGA sẽ có nguy cơ HĐM [62]. Bài tiết insulin là

một yếu tố chính quyết định đến môi trường tồn tại của thai. Sự đáp ứng bài tiết

insulin chậm sau ăn và bài tiết insulin không đủ lúc đói dẫn đến hậu quả tăng

đường máu kéo dài và tăng lượng glucose tới thai. Insulin trong huyết thanh

của mẹ ảnh hưởng lớn tới nguồn năng lượng nội sinh, đặc biệt là ceton qua

nhau thai dễ dàng và đây là nguồn cung cấp năng lượng đáng kể cho thai. Sự

hình thành và hoạt động sớm của tiểu đảo tụy nội tiết của thai có ảnh hưởng lớn

đến tới mối quan hệ qua lại giữa nguồn năng lượng mẹ và con. Tăng cung cấp

năng lượng từ mẹ làm tăng tiết insulin của thai, lượng insulin thêm này làm

tăng quá trình giữ các chất dinh dưỡng do mẹ cung cấp. Hậu quả là thai to gây

các biến chứng chuyển hóa hay gặp nhất là HĐM sơ sinh trong những ngày đầu

sau đẻ. Nghiên cứu của Akin và cộng sự năm 2010 trên 829 trẻ sơ sinh quá

dưỡng có cân nặng > 4 kg và nhóm trẻ sơ sinh có cân nặng từ 2,5 kg – 4 kg cho

thấy HĐM xảy ra nhiều hơn cũng như các bệnh lý giai đoạn sơ sinh như ngạt,

đa hồng cầu ở nhóm trẻ sơ sinh quá dưỡng [18].

1.3. Các nghiên cứu về hạ đường máu

1.3.1. Các nghiên cứu ở Việt Nam

Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Kiều Nhi tại Huế năm

2003, HĐM sơ sinh gặp chủ yếu ở nhóm sơ sinh đủ tháng, cân nặng lớn hơn

so với tuổi thai với tỷ lệ là 10,8% [7].

Cũng theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kiều Nhi năm 2010 trên

trẻ sơ sinh giai đoạn sớm, tỷ lệ HĐM cao nhất ở loại SSNT <37 tuần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

20

(36,59%) tiếp đến là loại SSGT ≥ 42 tuần (19,78%) và thấp nhất ở loại SSĐT

38 – 42 tuần (10,42%) [8].

Nghiên cứu của Lê Minh Trác và cộng sự năm 2012 tại bệnh viện Phụ

sản Trung Ương cho thấy có 22% số trẻ sơ sinh non tháng và nhẹ cân có

HĐM [11].

Theo Vũ Thị Vân Yến và cộng sự nghiên cứu năm 2012 trên 667 trẻ đẻ

non, nhóm trẻ có đường huyết ≤ 2,2 mmol/l có nguy cơ tử vong cao gấp 1,87

lần so với nhóm trẻ có đường huyết 2,3 – 6,9 mmol/l [14].

Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh

trong giai đoạn sơ sinh sớm thấy tỷ lệ HĐM sơ sinh là 19,8%, tỷ lệ HĐM ở

sinh non tháng là 30,5%, sơ sinh già tháng và rối loạn chuyển hóa nhau là

16,2%; sơ sinh đủ tháng là 14,9% [13].

Theo Đậu Quang Liêu nghiên cứu năm 2015 trên 84 trẻ sơ sinh non

tháng điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện đa khoa Saint Paul cho thấy hơn một

nửa số trường hợp (45/84) được phát hiện có tình trạng HĐM [5].

Theo nghiên cứu của Trần Thị Thu Hà và Ngô Thị Oanh năm 2015 trên

245 sơ sinh tại Bệnh viện C Thái Nguyên, tỷ lệ HĐM sơ sinh là trong nghiên

cứu là 26,5%, HĐM gặp nhiều ở trẻ nam 61,8% nhưng không có ý nghĩa thống

kê, hạ glucose máu chiếm tỷ lệ cao ở trẻ có cân nặng > 4000g (44,6%), thấp

nhất ở nhóm trẻ có cân nặng từ 2500gram đến 3999gram (15,3%). Tỷ lệ hạ

glucose máu ở nhóm trẻ đẻ non là cao nhất 49%, thấp nhất ở nhóm trẻ đủ

tháng 16,9%. Tỷ lệ hạ glucose máu cao nhất trong nhóm trẻ vào viện < 24 giờ

(47%) [2].

Theo Nguyễn Thu Hằng, nghiên cứu năm 2016 ở 395 trẻ sơ sinh nhỏ

hơn tuổi thai, tỷ lệ HĐM ở trẻ nhỏ so với tuổi thai chiếm tỷ lệ 18,7%. Tỷ lệ hạ

glucose máu giảm dần theo độ tăng dần của tuần tuổi. HĐM chiếm tỷ lệ cao

nhất ở nhóm trẻ < 28 tuần tuổi và thấp nhất ở nhóm trẻ > 37 tuần [3].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

21

Theo nghiên cứu của Lê Thị Thanh Tâm năm 2017 trên các bà mẹ có

đái tháo đường thai kỳ tại Vinh (Nghệ An) từ năm 2013 – 2015 cho thấy tỷ

lệ HĐM sơ sinh là 3,9%. Nếu phân chia theo nhóm điều trị thì tỷ lệ HĐM sơ

sinh trong nhóm điều trị insulin cao nhất là 36,4%; nhóm không tuân thủ

phối hợp insulin chiếm 22,2% và nhóm điều trị bằng chế độ ăn và luyện tập

chiếm 1,4% [9].

Theo Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên nghiên cứu trên 108

trẻ sơ sinh nhẹ cân từ 2016 – 2018 tại Huế, tỷ lệ HĐM ở trẻ sơ sinh nhẹ cân là

38%, tỷ lệ hạ glucose máu cao ở nhóm trẻ sơ sinh có cân nhỏ hơn tuổi thai và

đẻ non là 52,6%, cao hơn nhóm cân nặng phù hợp với tuổi thai, cao nhất ở

nhóm nhiễm khuẩn sơ sinh 63,4% [12] .

1.3.2. Các nghiên cứu trên thế giới

Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về hạ đường máu ở trẻ sơ sinh.

Nghiên cứu của Croke năm 2009 trên trẻ sơ sinh đủ tháng có cân nặng

lớn hơn so với tuổi thai và nhỏ hơn so với tuổi thai, có 26% trẻ sơ sinh đủ

tháng Nhẹ cân so với tuổi thai bị HĐM và 17% trẻ sơ sinh đủ tháng Lớn cân

so với tuổi thai có nồng độ thấp hơn 2,6 mmol/l [29].

Nghiên cứu của Mejri và cộng sự nghiên cứu năm 2010 trên 187 sơ

sinh nhẹ cân so với tuổi thai tỷ lệ hạ đường máu là 26% [55].

Nghiên cứu của Najati và Saboktakin năm 2010 trên 14168 trẻ sơ sinh,

tỷ lệ HĐM là 6,1% trong số trẻ nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt, 59,6% ở

trẻ sinh non, 59,6% ở trẻ thấp cân so với tuổi thai, 40,4% ở trẻ có cân nặng rất

thấp [58].

Nghiên cứu của Jonas và cộng sự năm 2012 trên 145 trẻ có nguy cơ HĐM

sàng lọc từ 1074 cho thấy có 17 trẻ HĐM dưới 40 mg/dl (2,2 mmol/l), tương ứng

với tỷ lệ là 11,7%. Không có sự khác biệt giữa tỷ lệ HĐM giữa trẻ có một yếu tố

nguy cơ với trẻ có hai yếu tố nguy cơ [49].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

22

Nghiên cứu của Singh và cộng sự năm 2014 trên 125 trẻ sơ sinh cho

thấy tỷ lệ HĐM là 15,2%, trong đó gặp ở nam (32,7%) nhiều hơn so với nữ

(13,33%), thường gặp từ 0-24 giờ sau đẻ ( 63,15%) so với 48-72 giờ

(15,78%) [73].

Nghiên cứu của Edwin Dias và Sandeep Gada năm 2014 trên 100 trẻ sơ

sinh cho thấy giá trị đường máu thấp nhất ở lúc 6 giờ và cao nhất ở lúc 24 giờ sau

sinh. Đường máu ở trẻ sinh đường dưới luôn cao hơn ở cùng thời điểm so với trẻ

được MLT ở cùng thời điểm, có gần 19,6% trẻ MLT HĐM so với tỷ lệ 14,2% ở

trẻ đẻ đường dưới [34].

Nghiên cứu của Nihan Hilal Hosagasi và cộng sự năm 2018 trên 207

trẻ sơ sinh, tỷ lệ HĐM ở các nhóm sơ sinh có nguy cơ bao gồm mẹ tiểu đường

thai kỳ, nhỏ hơn so với tuổi thai, lớn hơn so với tuổi thai và sơ sinh non muộn

lần lượt là 16,6%, 12,7%, 12,2% và 34% [47].

Nghiên cứu của Bromiker năm 2019 trên 3595 trẻ, có 3,4% trẻ có

đường máu < 40mg/dl, 12,1% trẻ có đường máu dưới 47 mg/dl. Phân tích đơn

biến cho thấy thai đủ tháng, tiểu đường của mẹ, cân nặng lúc sinh thấp (<2500

g) và sinh đôi có liên quan đến HĐM ở trẻ sơ sinh sớm. Các yếu tố nguy cơ

khác (ví dụ: thai non tháng hay già tháng, trọng lượng sơ sinh> 3800 g) thì

không có mối liên quan. Trong phân tích đa biến, chỉ có tuổi thai là biến có

liên quan mạnh nhất, trong khi mẹ có tiểu đường thai kỳ và cân nặng lúc sinh

thấp không có ý nghĩa thống kê [26].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

23

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Bao gồm các bệnh nhân sơ sinh có đặc điểm sau

- Tất cả trẻ sơ sinh vào điều trị tại Phòng Chăm sóc đặc biệt (Intensive

Care Unit – ICU), khoa Sơ sinh - Cấp cứu nhi, Trung tâm Nhi khoa, Bệnh

viện Trung Ương Thái Nguyên.

- Tuổi trẻ sơ sinh từ 1 - 7 ngày tuổi.

- Mẹ của các trẻ sơ sinh trên.

2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn

Chỉ lựa chọn trong số bệnh nhân nói trên, được lấy máu và làm xét

nghiệm đường máu tại thời điểm vào điều trị tại phòng ICU, khoa Sơ sinh -

Cấp cứu nhi, Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:

Trong quá trình nghiên cứu loại trừ các bệnh nhân sau:

- Sơ sinh không được làm xét nghiệm đường máu hoặc được làm xét

nghiệm đường máu nhưng kết quả đường máu có sự sai lệch do kỹ thuật.

- Gia đình không đồng ý lấy máu làm xét nghiệm hay không đồng ý

tham gia nghiên cứu.

- Hồ sơ bệnh án của con hoặc mẹ không rõ, thiếu dữ liệu nghiên cứu.

2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tại khoa Sơ sinh – Cấp cứu Nhi, Trung tâm

Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.

Thời gian nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6/2018 đến tháng 6/2019

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

24

+ Đối với mục tiêu một là nghiên cứu mô tả: mô tả đặc điểm hạ đường

máu sơ sinh (bao gồm các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của con và một số

đặc điểm của mẹ).

+ Đối với mục tiêu hai là nghiên cứu bệnh - chứng: phân tích mối liên

quan giữa các yếu tố nguy cơ từ mẹ và con với hạ đường máu.

- Thiết kế nghiên cứu được trình bày bằng sơ đồ sau:

SƠ SINH BỆNH LÝ NHẬP KHOA

XÉT NGHIỆM ĐƯỜNG MÁU LÚC VÀO VIỆN

HẠ ĐƯỜNG MÁU

KHÔNG HẠ ĐƯỜNG MÁU

Lựa chọn bệnh nhân tương đồng đặc điểm nuôi dưỡng, cách sinh, giới tính

Đặc điểm hạ đường máu sơ sinh: - Tuổi thai - Triệu chứng - Bệnh lý…

Yếu tố nguy cơ: - Về phía mẹ - Về phía con

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ thiết kế nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

25

2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu

Để tính cỡ mẫu nghiên cứu, chúng tôi sử dụng công thức tính cỡ mẫu

áp dụng cho việc ước tính tỷ lệ trong quần thể.

n: Cỡ mẫu nghiên cứu.

α: Là mức ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05 (tương ứng với độ tin cậy 95%).

Z(1-α/2): Tra giá trị bảng, tương ứng với các giá trị của α = 0,05.

Kết quả là: Z(1-α/2) = 1,96.

p: Các nghiên cứu khác nhau cho thấy trẻ sơ sinh hạ đường máu có

triệu chứng chiếm tỷ lệ từ 2% - 8% tùy các nghiên cứu khác nhau [47],

[72], [82].

Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn 5%.

d: Độ chênh lệch mong muốn là: ± 5% (0,05).

Áp dụng công thức trên thu được kết quả như sau: 73 bệnh nhân. Trên

thực tế, chúng tôi lựa chọn được 106 bệnh nhân có hạ đường máu.

2.3.3. Phương pháp chọn mẫu

Chọn mẫu theo kỹ thuật chọn mẫu có chủ đích, trong đó khung mẫu là

tất cả bệnh nhân sơ sinh vào viện điều trị và được làm đường máu ngay tại

thời điểm nhập viện, chọn các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn từ lúc bắt đầu nghiên

cứu đến khi đủ số lượng.

Đối với mục tiêu 1, chúng tôi lựa chọn được 106 sơ sinh sớm hạ đường

máu, đạt tiêu chuẩn nghiên cứu.

Đối với mục tiêu 2, trong thời điểm nghiên cứu chúng tôi chọn bệnh

nhân ngẫu nhiên có tương đồng về giới tính, cách sinh, cách nuôi dưỡng và

đều là sơ sinh bệnh lý nặng phải điều trị tại ICU. Với cách làm như vậy, trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

26

quá trình nghiên cứu chúng tôi lựa chọn được 100 trẻ sơ sinh sớm không hạ

đường máu.

Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi có 106 trẻ sơ sinh sớm hạ

đường máu và 100 trẻ sơ sinh không hạ đường máu, tổng cộng có 206 trẻ

trong nghiên cứu.

2.3.4. Các chỉ số nghiên cứu

2.3.4.1. Các chỉ số nghiên cứu về phía trẻ sơ sinh

- Tuổi thai: bằng cách hỏi bà mẹ ngày kinh cuối cùng và thăm khám

lâm sàng đánh giá tuổi thai theo tiêu chuẩn hình thái nhi khoa phối hợp với

chuẩn phân loại già tháng theo Cliffort.

- Giới: xác định nam hoặc nữ.

- Xác định mức độ dinh dưỡng: bằng cách dựa vào cân nặng và tuổi

thai sau đó đối chiếu trên biểu đồ Luchenco.

- Xác định tuổi thai:

+ Theo tiêu chuẩn sản khoa: Ngày sinh trừ đi ngày đầu kỳ kinh cuối =

tổng số ngày/ 7 = số tuần. Tuy nhiên một số trường hợp không nhớ ngày kinh

cuối cùng có thể áp dụng siêu âm thai sớm trước 12 tuần cho phép xác định

ngày có thai nhưng sai số 5 ngày.

+ Theo hình thái nhi khoa (theo tiêu chuẩn Varrier Farr ở phụ lục).

+ Theo phân loại hình thái già tháng của Cliffort.

+ Gồm các biến số đó là sơ sinh non tháng, sơ sinh đủ tháng, sơ sinh

già tháng.

- Dinh dưỡng (theo biểu đồ Luchenco ở phụ lục):

+ Sơ sinh bình dưỡng: cân nặng tương ứng với tuổi thai (cân nặng nằm

trong miền giới hạn từ trên đường cong 10 bách phân vị đến đường cong 90

bách phân vị của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).

+ Sơ sinh thiểu dưỡng: cân nặng thấp so với tuổi thai (cân nặng dưới

đường cong 10 bách phân vị của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

27

+ Sơ sinh quá dưỡng: cân nặng lớn so với tuổi thai (cân nặng hiện có

trên đường cong 90 bách phân vị của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).

- Bệnh lý giai đoạn sơ sinh: Xác định bằng hỏi tiền sử, bệnh sử thai

nghén và thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng và theo dõi trong 6 ngày đầu sau

sinh. Các bệnh lý thường gặp giai đoạn sơ sinh gồm:

+ Nhiễm khuẩn sơ sinh

+ Đa hồng cầu sơ sinh

+ Suy hô hấp sơ sinh

+ Vàng da tăng bilirubin tự do

+ Dị tật bẩm sinh

+ Bệnh lý tiêu hóa

- Glucose huyết thanh: Xác định dựa vào lấy máu tĩnh mạch lúc vào

viện và được xét nghiệm tại khoa sinh hóa.

- Triệu chứng lâm sàng hạ đường máu:

+ Dễ kích thích: bệnh nhân không giật, các cử động rõ với các kích thích

nhạy cảm như ngừng nắm tay và không kèm theo các bất thường về mắt [73].

+ Xanh tím: là tình trạng bệnh lý đổi màu thành xanh hay tím của da và

niêm mạc.

+ Hạ thân nhiệt: Theo Nguyễn Công Khanh là tình trạng khi thân nhiệt

sơ sinh dưới 36,50C, thân nhiệt được đo ở nách bằng nhiệt kế thủy ngân,

chính xác đên 0,10C [4].

+ Co giật: cơn giật rung (là những cử động nhịp nhàng của các nhóm

cơ và thường đi kèm với những thay đổi trên điện não đồ), cơn co cứng (là

cơn toàn thể hay cục bộ, ở chi, lệch mắt, tư thế thân không đối xứng) và giật

cơ (là những biểu hiện co giật nhanh của các nhóm cơ, giật cơ có tần số nhanh

hơn cơn giật rung).

+ Ngừng thở: là thời gian ngừng thở trên 20 giây hoặc ngừng thở dưới

20 giây kèm theo nhịp tim chậm dưới 100 nhịp/phút, tím tái, xanh xao [36]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

28

+ Li bì: trẻ không đáp ứng tỉnh với kích thích thông thường.

+ Không có triệu chứng HĐM.

- Giờ tuổi nhập viện: tính theo ngày tuổi, từ ngày tuổi thứ nhất đến

ngày tuổi thứ .

- Thời điểm hạ đường máu: là thời điểm lấy máu làm xét nghiệm đường

máu, tính theo ngày.

2.3.4.2. Các chỉ số nghiên cứu về phía mẹ

- Tăng cân của mẹ: xác định bằng cách hỏi bà mẹ cân nặng trước mang

thai và cân nặng thời điểm trước sinh.

- Mẹ có truyền glucose trong QTCD: xác định bằng cách tham khảo hồ

sơ điều trị của mẹ của khoa Sản.

- Mẹ sốt trong QTCD: Xác định bằng cách tham khảo hồ sơ điều trị của

mẹ tại khoa Sản và hỏi người nhà bệnh nhân, mẹ được xác định là sốt khi thân

nhiệt trên 37,50C, thân nhiệt được đo ở nách bằng nhiệt kế thủy ngân, chính

xác đến 0,10C.

- Cách sinh: xác định bằng cách tham khảo hồ sơ điều trị của mẹ tại

khoa Sản và hỏi người nhà bệnh nhân.

2.3.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán chỉ số

2.3.5.1. Chẩn đoán hạ đường máu sơ sinh

Theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ

em của Bộ Y tế 2015:

Hạ đường máu sơ sinh khi nồng độ Glucose huyết thanh < 47 mg/dl

(2,6 mmol/l)

Các mức hạ đường máu :

- Mức HĐM nặng: < 25 mg/dl (1,1 mmol/l)

- Mức HĐM: ≤ 2,5 mg/dl đến < 47 mg/dl

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

29

2.3.5.2 Chẩn đoán loại sơ sinh

- Sơ sinh đủ tháng: là những sơ sinh có tuổi thai từ 37 tuần đến 41 tuần

6 ngày và không có hình thái già tháng theo Cliffort.

+ Sơ sinh đủ tháng bình dưỡng: là những sơ sinh đủ tháng và có cân

nặng tương ứng với tuổi thai (AGA) tức là cân nặng nằm trong miền giới hạn

từ trên đường cong 10 bách phân vị đến đường cong 90 bách phân vị của tuổi

thai trên biểu đồ Luchenco.

+Sơ sinh đủ tháng thiểu dưỡng: Là những sơ sinh đủ tháng và có cân

nặng thấp so với tuổi thai (SGA) (cân nặng dưới đường cong 10 bách phân vị

của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).

+ Sơ sinh đủ tháng quá dưỡng: Là những sơ sinh đủ tháng và có cân

nặng lớn so với tuổi thai (cân nặng hiện có trên đường cong 90 bách phân vị

của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).

- Sơ sinh non tháng: Là những sơ sinh có tuổi thai dưới 37 tuần.

+ Sơ sinh non tháng bình dưỡng: Là những sơ sinh non tháng và có cân

nặng tương ứng với tuổi thai (cân nặng nằm trong miền giới hạn từ trên

đường cong 10 bách phân vị đến đường cong 90 bách phân vị của tuổi thai

trên biểu đồ Luchenco).

+ Sơ sinh non tháng thiểu dưỡng: Là những sơ sinh non tháng và có

cân nặng thấp so với tuổi thai (cân nặng dưới đường cong 10 bách phân vị của

tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).

+ Sơ sinh non tháng quá dưỡng: Là những sơ sinh non tháng và có cân

nặng lớn so với tuổi thai (cân nặng hiện có trên đường cong 90 bách phân vị

của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).

- Sơ sinh già tháng: Là những sơ sinh sơ sinh có tuổi thai từ 42 tuần trở

lên và hoặc có hình thái già tháng theo Cliffort.

+ Sơ sinh già tháng bình dưỡng: là những sơ sinh già tháng và có cân

nặng tương ứng tuổi thai (cân nặng nằm trong miền giới hạn từ trên đường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

30

cong 10 bách phân vị đến đường cong 90 bách phân vị của tuổi thai trên biểu

đồ Luchenco).

+ Sơ sinh già tháng thiểu dưỡng: là những sơ sinh già tháng và có cân

nặng thấp so với tuổi thai (cân nặng dưới đường cong 10 bách phân vị của

tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).

+ Sơ sinh già tháng quá dưỡng: là những sơ sinh già tháng và có cân

nặng lớn hơn so với tuổi thai (cân nặng hiện có trên đường cong 90 bách phân

vị của tuổi thai trên biểu đồ Luchenco).

2.3.5.3 Chẩn đoán bệnh lý giai đoạn sơ sinh.

 Chẩn đoán bệnh lý nhiễm khuẩn sơ sinh: Theo Alonso tiêu chuẩn

chẩn đoán nhiễm khuẩn sơ sinh như sau:

Triệu chứng lâm sàng: sốt hoặc hạ thân nhiệt, nhịp tim trên 180 lần/

phút hoặc dưới 100 lần/ phút, nhịp thở trên 60 lần/phút kèm theo thở rên, bão

hòa oxy giảm, trẻ li bì/ thay đổi trạng thái tinh thần, ăn không tiêu.

Triệu chứng huyết động: huyết áp dưới -2SD theo tuổi, huyết áp tâm

thu <50 mmHg vào 1 ngày tuổi và <65 mmHg dưới 1 tháng tuổi.

Tưới máu mô giảm: thời gian làm đầy mao mạch >3s, lactate huyết

thanh >3 mmol/l.

Các marker viêm: Bạch cầu tăng trên 34.000/dL hoặc giảm dưới

5.000/dL, đa nhân trung tính tăng >10%, tiểu cầu giảm < 100.000/dL, CRP

>10 mg/dL hay lớn hơn 2SD so với trị số bình thường, procalcitonin >8,1

mg/dL hay lớn hươn 2SD so với trị số bình thường , IL-6 hoặc IL-8 >70

pg/ml, PCR dương tính.

Khẳng định là nhiễm khuẩn sơ sinh: khi cấy máu hay PCR dương tính

kèm theo có triệu chứng lâm sàng và biểu hiện nhiễm khuẩn, riêng đối với

Coagulase-negative Staphylococcus thì cần dương tính trên hai lần cấy máu

hoặc dương tính trên một lần cấy máu và một lần PC.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

31

Nghi ngờ nhiễm khuẩn sơ sinh: có các dấu hiệu và triệu chứng nhiễm

khuẩn, có ít nhất 2 kết quả xét nghiệm bất thường nhưng cấy máu âm tính.

Có thể nhiễm khuẩn sơ sinh: có các dấu hiệu và triệu chứng nhiễm

khuẩn, CRP tăng hoặc IL-6 hay IL-8 tăng, cấy máu âm tính [85].

 Chẩn đoán bệnh lý vàng da tăng bilirubine tự do:

Theo Khu Thị Khánh Dung, chẩn đoán vàng da như sau [1]:

Triệu chứng lâm sàng:

- Triệu chứng vàng da: Da có màu vàng, thường là vàng sáng, vàng

đậm là nặng, có thể nhìn thấy dưới ánh sáng tự nhiên, hoặc khi khám dùng

ngón tay miết trên da trẻ thấy màu vàng. Diễn tiến vàng da thường xuất hiện ở

vùng đầu mặt cổ, sau lan xuống ngực bụng, rồi đến lòng bàn tay, bàn chân là

nặng. Vàng da bệnh lý thường khi vàng da đã lan quá vùng 3 theo phân vùng

của Kramer (bảng 2.1)

Bảng 2.1: Phân vùng vàng da của Kramer với nồng độ bilirubin máu

Nồng độ Vùng Mức độ vàng da bilirubin

1 Mặt, cổ 100 μmol/l

2 ½ thân trên rốn + Vùng 1 150 μmol/l

3 ½ thân dưới rốn + Vùng 1, 2 200 μmol/l

4 Cánh tay, chân (trên mắt cá) + Vùng 1, 2, 3 250 μmol/l

5 Bàn tay, bàn chân + Các vùng trên > 250 μmol/l

- Vàng da có thể xuất hiện sớm ngay sau sinh, vàng da tăng nhanh, tăng

đậm, có thể thiếu máu, gan, lách to: Thường gặp nguyên nhân do bất đồng

nhóm máu mẹ con ABO, Rh, hoặc bệnh hemoglobin và yếu tố kháng nguyên

gây tan máu mạnh.

- Phân luôn có màu vàng (sau giai đoạn phân xu), nước tiểu vàng, phân

biệt với vàng da tăng bilirubin trực tiếp như tắc mật thì phân bạc màu. Lưu ý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

32

các trường hợp chậm đào thải phân xu, do nhiễm khuẩn hoặc do dị tật bẩm

sinh như phình đại tràng, có triệu chứng tiêu hóa như nôn trớ, chậm đi ngoài,

bụng chướng.

Xét nghiệm:

Định lượng nồng độ bilirubin toàn phần và gián tiếp trong máu: nồng

độ bilirubin gián tiếp tăng trên 15 mg/dl hay ≥ 220 µmol/l (đối với trẻ sơ sinh

đủ tháng, khỏe mạnh). Đối với trẻ sơ sinh có yếu tố nguy cơ kèm theo, trẻ đẻ

non, trẻ cân nặng thấp, trẻ có bệnh lý tùy từng trường hợp, thì nồng độ

bilirubin thấp hơn đã được coi là bệnh lý và cần can thiệp điều trị ngay.

 Chẩn đoán hội chứng đa hồng cầu sơ sinh:

Theo Sarici, trẻ được chẩn đoán là đa hồng cầu sơ sinh khi HCT ≥ 65%

hoặc Hb > 22 g/dl [67] hoặc HCT > 60% kèm hai trong những triệu chứng lâm

sàng sau:

- Da môi đỏ lựng hoặc tím bầm.

- Bú kém hơn trước.

- Nôn mửa hơn trước.

- Li bì, thẫn thờ.

- Thở nhanh, suy hô hấp.

 Chẩn đoán hội chứng suy hô hấp: Đánh giá mức độ suy hô hấp theo

chỉ số Silverman, kết hợp với tình trạng xanh tím, đếm nhịp thở, nghe phổi và

đo SpO2.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

33

Bảng 2.2: Đánh giá mức độ suy hô hấp theo chỉ số Silverman [54].

Điểm

0 1 2

Triệu chứng

Di động ngực bụng Cùng chiều Ngực < bụng Ngược chiều

Co kéo cơ liên sườn Không + ++

Lõm trên xương ức Không + ++

Đập cánh mũi Không + ++

Thở rên Không Qua ống nghe Nghe được bằng tai

Trên 6 điểm là có suy hô hấp.

 Chẩn đoán ngạt sơ sinh: trẻ sơ sinh bị gọi là ngạt nếu sau khi sinh

không thở cần phải thực hiện các bước hồi sức. Chẩn đoán dựa vào chỉ số

Apgar, đánh giá theo thang điểm Apgar như sau [30]

Bảng 2.3: Thang điểm Apgar

0 điểm 1 điểm 2 điểm

Nhịp tim Mất nhịp < 100 > 100

Thở chậm, Hô hấp Ngừng thở Tốt, khóc không đều

Gập tay và chân

Cử động Không cử động Vài cử động gập chống lại cử

động duỗi

Phản xạ Nhăn mặt, khóc Không đáp ứng Khóc to, ho, hắt hơi kích thích yếu

Tím đầu chi, Màu sắc da Nhợt nhạt, tím Hoàn toàn hồng hào thân hồng hào

7 – 10 điểm : bình thường

4 – 6 điểm: ngạt

0 – 3 điểm: ngạt nặng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

34

 Chẩn đoán dị tật bẩm sinh: chỉ bao gồm các dị tật tim bẩm sinh đã

được chẩn đoán xác định bằng siêu âm tim và các dị tật ngoại hình có thể phát

hiện được qua thăm khám lâm sàng.

 Chẩn đoán bệnh lý tiêu hóa: bao gồm các trường hợp bú kém, bỏ bú,

nôn trớ sơ sinh,… đã loại trừ dị tật bẩm sinh đường tiêu hóa bằng các phương

pháp thăm dò chức năng và các bệnh lý khác.

2.3.6. Các bước tiến hành nghiên cứu

Bước 1: Tất cả trẻ sơ sinh bệnh lý vào khoa Nhi có đủ tiêu chuẩn chọn

bệnh sẽ được khám đánh giá tuổi thai, mức độ dinh dưỡng để phân loại sơ sinh.

Bước 2: Được làm xét nghiệm đường máu lúc trẻ sơ sinh bệnh lý vào

khoa.

Bước 3: Khai thác tiền sử bệnh lý, quá trình thai nghén, tham khảo hồ sơ

của mẹ tại khoa Sản góp phần chẩn đoán các bệnh lý sơ sinh cũng như một số yếu

tố nguy cơ mẹ liên quan đến HĐM sơ sinh..

Bước 4: Số liệu sẽ được tổng hợp và thu thập bằng phiếu nghiên cứu.

Bước 5: Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.

2.3.7. Phương pháp định lượng Glucose máu huyết thanh

Chúng tôi tiến hành định lượng glucose huyết thanh bằng phương pháp

hexokinase, đây là phương pháp định lượng glucose chính xác nhất hiện nay.

Bằng việc sử dụng men hexokinase rất đặc hiệu với glucose mà không bị

nhiễu bởi các cacbonhydrat khác. Chúng tôi sử dụng máy xét nghiệm sinh hóa

tự động OLYMPUS AU5800 xuất xứ Mỹ và hóa chất do hãng BECKMAN

COULTER cung cấp. Địa điểm thực hiện tại khoa Sinh hóa Bệnh viện Trung

Ương Thái Nguyên.

Các yếu tố gây ảnh hưởng kết quả:

- Bệnh nhân được lấy máu sau khi ăn hoặc sau khi vừa truyền

glucose xong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

35

- Mẫu máu toàn phần để quá lâu (trên 30 phút) mà không tách huyết

thanh hoặc huyết tương: glucose máu giảm.

- Mẫu huyết thanh, huyết tương: nồng độ ascobate 20 mg/dl gây nhiễu

dưới 3% kết quả, nồng độ bilirubin 684 µmol/l gây nhiễu dưới 10% kết quả,

nồng độ intralipid 700mg/dl gây nhiễu dưới 3% kết quả, nông độ hemoglobin

5g/l gây nhiễu dưới 3% kết quả.

- Mẫu bệnh phẩm vỡ hồng cầu gây sai lệch kết quả nên không thực hiện

với mẫu bệnh phẩm vỡ hồng cầu.

2.4. Tổ chức nghiên cứu và thu thập số liệu

2.4.1. Nhân lực

Bản thân tác giả cùng các cán bộ của khoa Sơ sinh – Cấp cứu nhi,

Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên, các đồng nghiệp

là học viên nội trú, cao học theo học tại khoa và các cán bộ giảng dạy của Bộ

môn Nhi trường đại học Y Dược Thái Nguyên.

2.4.2. Tiến hành thu thập số liệu

Chuẩn bị giấy tờ, phiếu điều tra, bệnh án nghiên cứu. Nhân lực tham

gia nghiên cứu được tập huấn, thống nhất phương pháp thu thập số liệu. Mỗi

lần thăm khám, đánh giá bao gồm 2 cán bộ.

2.5. Xử lý và phân tích số liệu

2.5.1. Làm sạch số liệu

Các phiếu bệnh án thu thập được kiểm tra trước khi nhập số liệu và sau

khi nhập số liệu, các phiếu bệnh án không rõ ràng hoặc không phù hợp phải

được hoàn thiện lại hoặc loại bỏ.

2.5.2. Cách mã hóa

Tất cả các số liệu được nhập vào máy vi tính.

Thu thập số liệu dựa theo phiếu điều tra bằng phương thức phỏng vấn

trực tiếp người mẹ, khám lâm sàng trẻ sơ sinh và ghi nhận các kết quả cận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

36

lâm sàng, kết hợp ghi nhận một số yếu tố nguy cơ mẹ thông qua hồ sơ bệnh

án của mẹ tại khoa Sản Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên.

Số liệu được nhập vào máy tính trên phần mềm SPSS 16.0, các thông

tin được mã hóa bằng số hoặc ký tự riêng đồng thời kiểm tra tính logic.

2.5.3. Xử lý số liệu

Các số liệu được phân tích theo phương pháp thống kê y học. Việc xử

lý, tính toán số liệu và vẽ biểu đồ được thực hiện bằng phần mềm SPSS 16.0.

Các số liệu được xử lý như sau:

Bước 1. Tính tỷ lệ các đặc điểm hạ đường máu ở sơ sinh sớm.

Bước 2. Xác định các yếu tố nguy cơ qua tỷ suất chênh OR và xác định

P như sau:

- So sánh tần số phơi nhiễm với mỗi yếu tố nguy cơ giữa nhóm bệnh và

nhóm chứng. Để tính toán sự kết hợp, số liệu dịch tễ học được trình bày thành

bảng tiếp liên 2x2 như sau:

Bảng 2.4: Bảng tiếp liên 2x2

Bệnh Không bệnh Tổng

Có phơi nhiễm a b a+b

Không phơi nhiễm c d c+d

Tổng a+c b+d a+b+c+d

- Sử dụng công thức tính tỷ suất chênh OR như sau: OR = ad/bc

- Yếu tố nguy cơ được xác định khi OR > 1 và p < 0,05.

- Yếu tố nguy cơ không được xác định khi OR < 1 hoặc OR > 1

nhưng p > 0,05.

2.2.7. Đạo đức nghiên cứu

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này được sự thông qua Hội đồng đạo

đức của trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

37

Thu thập thông tin đầy đủ, trung thực, khách quan theo mục tiêu

nghiên cứu.

Giải thích đầy đủ về mục đích nghiên cứu khi khai thác thông tin của

bệnh nhi và mẹ bệnh nhi, để gia đình trẻ tự nguyện tham gia nghiên cứu.

Mọi thông tin của bệnh nhân đều được bảo mật, chỉ được sử dụng làm

nghiên cứu (không dùng vào mục đích khác).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

38

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 6 năm 2019,

trong số trẻ sơ sinh mắc các bệnh lý nặng khác nhau phải vào điều trị tại ICU,

Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, có 106 trẻ sơ sinh

bị hạ đường máu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi như sau:

3.1. So sánh một số đặc điểm sơ sinh sớm hạ đường máu và sơ sinh sớm

không hạ đường máu

Bảng 3.1: So sánh một số đặc điểm sơ sinh sớm hạ đường máu và sơ sinh

sớm không hạ đường máu

Không hạ đường Hạ đường máu máu Đặc điểm

n % n %

65 61,3 58 58,0 Nam Giới 41 38,7 42 40,3 Nữ

70 66,0 78 78,0 AGA Dinh 26 24,5 12 12,0 SGA dưỡng 10 9,4 10 10,0 LGA

11 10,4 17 17,0 Ăn sữa mẹ sớm Nuôi

95 dưỡng 89,6 83 83,0 Ăn sữa mẹ muộn

Nhận xét: Không có sự khác biệt đáng kể về đặc điểm giới tính, dinh

dưỡng, nuôi dưỡng ở hai nhóm sơ sinh có hạ đường máu và sơ sinh sớm

không hạ đường máu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

39

3.2. Đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm

3.2.1. Đặc điểm về giới tính và tuổi thai

Bảng 3.2: Đặc điểm về giới tính và tuổi thai

Phân loại sơ sinh theo tuổi thai Tổng Giới tính Non tháng Đủ tháng

n % n % n %

40 61,5 25 38,5 65 61,3 Nam

19 46,3 22 53,7 41 38,7 Nữ

59 55,7 47 44,3 106 100 Tổng

Nhận xét: trong 106 sơ sinh sớm hạ đường máu phần lớn là trẻ nam

chiếm 61,3%, tỷ lệ nam nữ là 1,58/1. Có 59 trẻ sơ sinh non tháng chiếm tỷ lệ

55,7%; 47 trẻ sơ sinh đủ tháng chiếm tỷ lệ 44,3%. Sự khác biệt không có ý

nghĩa thống kê với p > 0,05.

3.2.2. Mức độ hạ đường máu

Biểu đồ 3.1. Mức độ hạ đường máu

Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, ở mức độ nặng

(< 1,1 mmol/l) là 10,4%, mức độ từ 1,1 mmol/l đến dưới 2,6 mmol/l là

89,6%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

40

3.2.3. Đăc điểm hạ đường máu theo ngày tuổi

Biểu đồ 3.2. Đặc điểm hạ đường máu theo ngày tuổi

Nhận xét: Có 82,7% trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu ở ngày tuổi đầu tiên

và số sơ sinh hạ đường máu có xu hướng giảm dần cho đến ngày thứ 7.

3.2.4. Đặc điểm về dinh dưỡng

- Đặc điểm dinh dưỡng

Bảng 3.3: Đặc điểm dinh dưỡng

Cân nặng n %

Nhẹ cân so với tuổi thai 25 23,6

Cân nặng tương ứng tuổi thai 71 67,0

Lớn cân so với tuổi thai 10 9,4

106 100 Tổng

Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, có 71 trẻ cân nặng

tương ứng tuổi thai, chiếm 67,0%; 25 trẻ nhẹ cân so với tuổi thai chiếm

23,6%; 10 trẻ cân nặng lớn hơn so với tuổi thai chiếm 9,4%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

41

- Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm non tháng có hạ đường máu

Bảng 3.4: Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm non tháng có hạ đường máu

Sơ sinh non tháng n %

Nhẹ cân so với tuổi thai 12 20,3

Cân nặng tương ứng tuổi thai 43 72,9

Lớn cân so với tuổi thai 4 6,8

Tổng 59 100

Nhận xét: Trong 59 trẻ sơ sinh sớm non tháng có hạ đường máu: có

12 sơ sinh SGA chiếm 20,3%; 43 sơ sinh AGA chiếm 72,9%; 4 sơ sinh

LGA chiếm 6,8%.

- Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm đủ tháng có hạ đường máu

Bảng 3.5: Đặc điểm dinh dưỡng sơ sinh sớm đủ tháng có hạ đường máu

% Sơ sinh đủ tháng n

14 29,8 Nhẹ cân so với tuổi thai

27 57,4 Cân nặng tương ứng tuổi thai

6 12,8 Lớn cân so với tuổi thai

47 100 Tổng

Nhận xét: Trong 47 trẻ sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu: có 14 sơ

sinh SGA chiếm 29,8%; 27 sơ sinh AGA chiếm tỷ lệ 57,4%; 6 sơ sinh LGA

chiếm 12,8%.

3.2.5. Đặc điểm bệnh lý

- Đặc điểm bệnh lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

42

Bảng3.6: Đặc điểm bệnh lý

n %

43,4 10,4 14,2 4,7 7,5 12,3 7,5 100 46 11 15 5 8 13 8 106

Bệnh lý giai đoạn sơ sinh Suy hô hấp sơ sinh chung Vàng da tăng bilirubin tự do Nhiễm khuẩn sơ sinh Bệnh lý tiêu hóa Đa hồng cầu sơ sinh Ngạt Dị tật bẩm sinh Tổng Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, bệnh lý hay gặp

nhất là suy hô hấp, có 46 trẻ chiếm tỷ lệ 43,4%. Tiếp đến là các bệnh lý:

nhiễm khuẩn sơ sinh, ngạt, vàng da do tăng bilirubin tự do chiếm tỷ lệ lần

lượt là 14,2%; 12,3%, 10,4%. Các bệnh lý khác ít gặp hơn là: đa hồng cầu

sơ sinh, dị tật bẩm sinh, bệnh lý tiêu hóa chiếm tỷ lệ lần lượt là 7,5%; 7,5%

và 4,7%.

- Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu

Bảng 3.7: Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu

n %

Bệnh lý giai đoạn sơ sinh Suy hô hấp sơ sinh chung Vàng da tăng bilirubin tự do Nhiễm khuẩn sơ sinh Bệnh lý tiêu hóa Đa hồng cầu sơ sinh Ngạt Dị tật bẩm sinh Tổng 30 3 6 1 5 10 4 59 50,8 5,1 10,2 1,7 8,5 16,9 6,8 100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

43

Nhận xét: Trong 59 trẻ sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu, suy hô

hấp là bệnh lý hay gặp nhất: có 30 trẻ chiếm tỷ lệ 50,8%; tiếp đến là trẻ bị

ngạt, nhiễm khuẩn sơ sinh, đa hồng cầu sơ sinh chiếm tỷ lệ lần lượt là: 16,9%;

10,2%; 8,5%. Các bệnh lý ít gặp hơn là dị tật bẩm sinh, vàng da tăng bilirubin

tự do, bệnh lý tiêu hóa chiếm tỷ lệ lần lượt là: 6,8%; 5,1% và 1,7%.

- Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu

Bảng 3.8: Đặc điểm bệnh lý ở sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu

Bệnh lý giai đoạn % sơ sinh n

Suy hô hấp sơ sinh chung 34,0 16

Vàng da tăng bilirubin tự do 10,4 8

Nhiễm khuẩn sơ sinh 19,1 9

Bệnh lý tiêu hóa 8,5 4

Đa hồng cầu sơ sinh 6,4 3

Ngạt 6,4 3

Dị tật bẩm sinh 8,5 4

Tổng 100 47

Nhận xét: Trong 49 trẻ sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu, bệnh lý

hay gặp nhất là suy hô hấp với 16 trẻ chiếm tỷ lệ 34%. Các bệnh lý hay gặp

tiếp theo là: nhiễm khuẩn sơ sinh, vàng da do tăng bilirubin tự do, bệnh lý tiêu

hóa, dị tật bẩm sinh với tỷ lệ lần lượt là 19,1%; 10,4%; 8,5%; 8,5%. Hai bệnh

lý ít gặp nhất ở nhóm sơ sinh đủ tháng hạ đường máu là ngạt và đa hồng cầu

sơ sinh, đều chiếm 6,4%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

44

3.2.6. Đặc điểm triệu chứng

- Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm

Bảng 3.9: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm

Triệu chứng n %

13 Hạ thân nhiệt 12,3

12 Ngưng thở 11,3

5 Co giật 4,7

9 Dễ kích thích 8,5

9 Li bì 8,5

10 Xanh tím 9,4

48 Không có triệu chứng HĐM 45,3

106 Tổng 100

Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, có 48 trẻ không

có triệu chứng hạ đường máu chiếm 45,3%; các triệu chứng hạ đường máu

hay gặp lần lượt theo thứ tự là: hạ thân nhiệt (12,3%), ngưng thở (11,3%),

xanh tím (9,4%), dễ kích thích (8,5%), li bì (8,5%), co giật (4,7%).

- Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng

Bảng 3.10: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng

Triệu chứng n %

8 Hạ thân nhiệt 13,6

3 Ngưng thở 5,1

4 Co giật 6,8

5 Dễ kích thích 8,5

4 Li bì 6,8

7 Xanh tím 11,8

28 Không có triệu chứng HĐM 47,5

59 Tổng 100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

45

Nhận xét: Trong 59 trẻ sơ sinh sớm non tháng hạ đường máu, có 28 trẻ

không có triệu chứng hạ đường máu chiếm 47,5%. Các triệu chứng hạ đường

máu hay gặp lần lượt theo thứ tự: hạ thân nhiệt (13,6%), xanh tím (11,8%), dễ

kích thích (8,5%), li bì (6,8%), co giật (6,8%), ngưng thở (5,1%).

- Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng

Bảng 3.11: Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng

Triệu chứng n %

Hạ thân nhiệt 5 10,6

Ngưng thở 9 19,1

Co giật 1 2,1

Dễ kích thích 4 8,5

Li bì 5 10,6

Xanh tím 3 6,4

Không có triệu chứng HĐM 20 42,6

Tổng 47 100

Nhận xét: Trong số 47 trẻ sơ sinh sớm đủ tháng hạ đường máu có 20

trẻ không có triệu chứng hạ đường máu, chiếm 42,6%. Các triệu chứng hạ

đường máu thường gặp ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng lần lượt là: ngưng thở

(19,1%), hạ thân nhiệt (10,6%), li bì (10,6%), dễ kích thích (8,5%), xanh tím

(6,4%), co giật (2,1%).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

46

3.2.7. Đặc điểm tiền sử sản khoa của sơ sinh sớm hạ đường máu

Bảng 3.12: Đặc điểm tiền sử sản khoa của sơ sinh sớm hạ đường máu

Tiền sử sản khoa n %

Tăng cân thai kỳ trên 12kg 27 25,4

Truyền glucose trong QTCD 29 27,4

Sốt trong QTCD 22 20,8

Mổ lấy thai 61 57,5

Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh hạ đường máu, có 27 trẻ có mẹ tăng

trên 12 kg trong thai kỳ chiếm 25,4%; có 36 trẻ có mẹ được truyền glucose

trong QTCD chiếm 27,4%; có 22 trẻ có mẹ sốt trong QTCD chiếm 20,8%; có

61 trẻ được sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai chiếm 57,5%.

3.2.8. Đặc điểm nuôi dưỡng bằng sữa mẹ ở trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu

Bảng 3.13: Đặc điểm nuôi dưỡng bằng sữa mẹ ở trẻ sơ sinh sớm hạ đường

máu (giờ)

n % Ăn sữa mẹ ( giờ)

94 88,7 Muộn > 1 giờ

12 11,3 Sớm ≤ 1 giờ

106 100 Tổng

Nhận xét: Trong 106 trẻ sơ sinh hạ đường máu, có 94 trẻ ăn sữa mẹ

muộn (> 1 giờ sau đẻ) chiếm 88,7%, có 12 trẻ ăn sữa mẹ sớm (≤ 1 giờ sau đẻ)

chiếm 11,3%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

47

3.3. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm

3.3.1 Một số yếu tố nguy cơ từ mẹ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm

Bảng 3.14: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm từ phía mẹ

p Yếu tố nguy cơ HĐM Không HĐM OR (CI 95%)

1,19 Tăng cân thai kỳ > 12 kg > 0,05 Có Không

27 79 29 20 80 7 Có < 0,001 Mẹ truyền glucose trong QTCD 77 93 Không

Mẹ sốt trong QTCD < 0,01

Mổ lấy thai < 0,001 (0,69-2,08) 5,0 (2.08 – 12,05) 2,65 (1,15 -6,07) 2,63 (1,5 -4,63) Có Không Có Không 22 84 61 45 9 91 34 66

Nhận xét: Trẻ sơ sinh có mẹ tăng cân trong thai kỳ > 12 kg có nguy cơ

hạ đường máu cao gấp 1,19 lần so với trẻ sơ sinh có mẹ tăng cân trong thai kỳ

≤ 12 kg với OR = 1,19 (0,69 – 2,08), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt không

có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

Trẻ sơ sinh có mẹ phải truyền glucose trong QTCD có nguy cơ hạ

đường máu gấp 5 lần so với trẻ có mẹ không phải truyền glucose trong

QTCD, với OR = 5 (2,08 – 12,05), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê với p < 0,001.

Trẻ có mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ có nguy cơ hạ đườngg máu gấp 2,65

lần so với trẻ có mẹ không sốt trong quá trình chuyển dạ với OR = 2,65 (1,15 –

6,07), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

Trẻ được sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai có nguy cơ HĐM gấp

2,63 lần so với sơ sinh được sinh ra bằng phương pháp khác với OR = 2,63

(1,5 - 4,63), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <

0,001.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

48

3.3.2 Một số yếu tố nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm về phía con

3.3.2.1. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với tuổi thai

Bảng 3.15: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với tuổi thai

Không OR p Yếu tố nguy cơ HĐM HĐM (CI 95%)

59 29 Non tháng

3,07 (1,72 – 5,47) < 0,001 47 71 Sơ sinh khác

Nhận xét: Trẻ sơ sinh non tháng có nguy cơ hạ đường máu cao gấp

3,07 lần so với sơ sinh đủ tháng với OR = 3,07 (1,72 – 5,47) khoảng tin cậy

95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.

3.3.2.2. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với đặc điểm dinh dưỡng

- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với đặc điểm dinh dưỡng

Bảng 3.16: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với đặc điểm dinh dưỡng

Không OR p Yếu tố nguy cơ HĐM HĐM (CI 95%)

Có 24 11 Nhẹ cân so với tuổi 2,37 < 0,05 thai (1,09 - 5,13) Không 82 89

Có 63 79 Cân nặng tương ứng 0,39 < 0,01

tuổi thai (0,2 -0,72) Không 43 21

Có 19 10 Lớn cân so với tuổi 1,96 < 0,05 thai (1,16- 4,46) Không 87 90

Nhận xét: Sơ sinh sớm nhẹ cân so với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao

gấp 2,37 lần so với sơ sinh khác với OR = 2,37 (1,09 -5,13), khoảng tin cậy

95%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

49

Sơ sinh sớm cân nặng tương ứng với tuổi thai có nguy cơ gây hạ đường

máu gấp 0,39 lần sơ sinh khác với OR = 0,39 (0,2 – 0,72), khoảng tin cậy

95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

Sơ sinh sớm cân nặng lớn hơn so với tuổi thai có nguy cơ HĐM gấp

1,96 lần so với sơ sinh khác, OR = 1,96 (1,16 – 4,46), khoảng tin cậy 95%, p

< 0,05. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng với đặc điểm dinh

dưỡng

Bảng 3.17: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm non tháng với đặc

điểm dinh dưỡng

Không OR p Yếu tố nguy cơ HĐM HĐM (CI 95%)

Có 11 4 2,78 Nhẹ cân so với tuổi thai < 0,05 (1,85 -8,03) Không 95 96

Có 39 21 Cân nặng tương ứng 2,2 < 0,01 tuổi thai (2,17 -4,08) Không 67 79

Có 9 4 2,23 Lớn cân so với tuổi thai > 0,05 (0,66 -7,48) Không 97 96

Nhận xét: Sơ sinh non tháng nhẹ cân so với tuổi thai là yếu tố nguy cơ

hạ đường máu gấp 2,78 lần so với sơ sinh khác với OR = 2,78 và p < 0,05.

Sơ sinh non tháng cân nặng tương ứng tuổi thai là yếu tố nguy cơ

hạ đường máu gấp 2,2 lần so với sơ sinh khác với OR = 2,2 và p < 0,01.

Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm sơ sinh lớn cân so

với tuổi thai với hạ đường máu sơ sinh với p > 0,05.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

50

- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng với đặc điểm dinh

dưỡng

Bảng 3.18: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng với đặc điểm

dinh dưỡng

Không OR p Yếu tố nguy cơ HĐM HĐM (CI 95%)

13 7 Có 1,86 Nhẹ cân so với tuổi > 0,05 (0,71 -4,86) thai 93 93 Không

24 58 Có 0,21 Cân nặng tương ứng < 0,001 (0,12- 0,39) tuổi thai 82 42 Không

10 6 Có 1,63 Lớn cân so với tuổi > 0,05 (0,57-4,67) thai 96 94 Không

Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm sơ

sinh sớm đủ tháng nhẹ cân so với tuổi thai với hạ đường máu sơ sinh với

p > 0,05.

Trẻ sơ sinh sớm đủ tháng cân nặng tương ứng tuổi thai làm có nguy

cơ hạ đường máu gấp 0,21 lần với OR = 0,21 (0,12 – 0,39) và p < 0,001.

Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở trẻ sơ sinh sớm đủ tháng

lớn cân so với tuổi thai với hạ đường máu với p > 0,05.

3.3.2.3. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với giờ tuổi

Bảng 3.19: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm theo giờ tuổi

p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) Không HĐM

80 45 24 giờ đầu sau sinh 3,76 (2,08-6,8) < 0,001 26 55 Sau 24 giờ

Nhận xét: Trẻ sơ sinh sớm trong vòng 24 giờ đầu có nguy cơ hạ đường

máu cao gấp 3,7 lần so với sau 24 giờ với OR = 3,76 và p < 0,001.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

51

3.2.2.4. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với thời điểm ăn sữa mẹ

đầu tiên

Bảng 3.20: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với ăn sữa mẹ

Không p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) HĐM

Ăn sữa mẹ muộn (sau 1 giờ) 94 87

1,17 (0,51-2,7) > 0,05 Ăn sữa mẹ sớm (trước 1 giờ) 12 13

Nhận xét: Ăn sữa mẹ sớm ăn muộn hơn 1 giờ sau sinh không phải yếu

tố nguy cơ gây hạ đường máu và không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

3.2.2.5. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với một số bệnh lý giai đoạn

sơ sinh

Bảng 3.21: Nguy cơ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với suy hô hấp sơ sinh,

vàng da tăng bilirubin tự do

Không p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) HĐM

Có 46 44 Suy hô hấp 0,98 (0,56-1,69) > 0,05 Không 60 56

Có 11 18 0,52 VDTBTD > 0,05 (0,23 - 1,18) Không 95 82

Nhận xét: Sơ sinh sớm bị suy hô hấp không phải là yếu tố nguy cơ hạ

đường máu với p > 0,05. Sơ sinh sớm bị vàng da tăng biirubin tự do không

phải là yếu tố nguy cơ hạ đường máu với p > 0,05.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

52

Bảng 3.22: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với dị tật bẩm sinh,

bệnh lý tiêu hóa

p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) Không HĐM

Dị tật bẩm sinh 0,53 (0,21 -1,34) > 0,05

Bệnh lý tiêu hóa 0,4 (0,13 -1,2) > 0,05 Có Không Có Không 8 98 5 91 14 86 11 89

Nhận xét: Sơ sinh sớm có dị tật bẩm sinh không phải là yếu tố nguy cơ hạ đường máu với p > 0,05. Sơ sinh sớm có bệnh lý tiêu hóa không phải là yếu tố nguy cơ hạ đường máu với p > 0,05. Bảng 3.23: Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với nhiễm khuẩn sơ

sinh, ngạt, đa hồng cầu sơ sinh

p Yếu tố nguy cơ HĐM OR (CI 95%) Không HĐM

Có 15 6 Nhiễm khuẩn sơ sinh 2,58 (1,96 - 5,95) < 0,05 Không 91 94

Có 13 5 Ngạt 2,65 (1,91 - 6,75) < 0,05 Không 93 95

Có 8 2 Đa hồng cầu sơ sinh 4,0 (1,83 – 18,3) < 0,05 Không 98 98

Nhận xét: Sơ sinh sớm bị nhiễm khuẩn sơ sinh có nguy cơ hạ đường máu gấp 2,58 lần so với sơ sinh không bị nhiễm khuẩn sơ sinh, với OR = 2,58 (1,96 – 5,95), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sơ sinh sớm bị ngạt có nguy cơ bị hạ đường máu gấp 2,65 lần so với sơ sinh không bị ngạt với OR = 2,65 (1,91 – 6,75), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Sơ sinh sớm bị đa hồng cầu sơ sinh có nguy cơ hạ đường máu gấp 4 lần sơ sinh không bị đa hồng cầu với OR = 4 (1,83 -18,3), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

53

Chương 4

BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm

4.1.1. Đặc điểm về giới tính và tuổi thai

Bảng 3.2 cho thấy, trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu, trẻ nam

chiếm số lượng nhiều hơn trẻ nữ (chiếm 61,3%), tỷ lệ nam/nữ là 1,58/1. Điều

này tương tự với nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới cho thấy hạ đường

máu sơ sinh hay gặp ở nam nhiều hơn nữ [25], [26], [84]. Theo Simchen, sơ

sinh nam dường như làm tăng nguy cơ hạ đường máu cùng với thai to, sơ sinh

non tháng, thai chậm tăng trưởng trong tử cung. Trong khi đó giới nam được

coi như là yếu tố dự báo độc lập về hạ đường máu sơ sinh với tiểu đường thai

kỳ, trong nghiên cứu này, sơ sinh nam có khả năng hạ đường máu cao hơn

40% so với sơ sinh nữ, phát hiện này đúng với cả trẻ sơ sinh nhẹ cân so với

tuổi thai và cân nặng tương ứng tuổi thai. Tuy nhiên, để lý giải điều này thì

chưa được rõ ràng, các tác giả cho rằng testeron làm tăng nồng độ insulin dẫn

tới gây hạ đường máu sơ sinh ở trẻ nam nhiều hơn trong khi tác giả khác lại

cho rằng hạ đường máu sơ sinh do sự suy yếu điều hòa trong sản xuất các chất

nền thay thế như ceton [71].

Cũng theo kết quả nghiên cứu của bảng 3.2, trong 106 trẻ sơ sinh sớm

hạ đường máu, có 59 trẻ sơ sinh non tháng chiếm 55,7%; 47 trẻ đủ tháng

chiếm 44,3%. Theo William và cộng sự, trẻ sinh non quá trình phân giải

glycogen ở gan và lipid ở mô mỡ cũng như quá trình tân tạo glucose và ketose

chưa hoàn chỉnh nên trẻ sinh non thường bị HĐM 1-2 giờ đầu sau sinh cho

đến khi quá trình điều hòa glucose được hoàn thiện hoặc trẻ nhận được

glucose ngoại sinh. Do đó, vì nguy cơ HĐM nên khi trẻ sinh non nhập viện

cần thiết phải truyền glucose hơn nhóm trẻ đủ tháng [37]. Trong khi đó nhóm

sơ sinh đủ tháng đã hoàn toàn trưởng thành về mặt sinh lý học các cơ quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

54

trong đó quan trọng nhất là khả năng dự trữ glycogen tại gan cũng như hoạt

động đồng bộ của các enzym tân tạo đường và hormone điều hòa đường máu,

do đó nhóm trẻ đủ tháng ít có nguy cơ HĐM hơn. Nghiên cứu của chúng tôi

cho thấy kết quả tương tự với các nghiên cứu trên thế giới. Nghiên cứu của

Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh thấy rằng tỷ lệ HĐM ở

nhóm sơ sinh non tháng là 30,5% và đủ tháng là 14,9% [13], trong khi đó

theo nghiên cứu của Đậu Quang Liêu tại khoa sơ sinh bệnh viện Saint Paul

năm 2015 có hơn một nửa (45/84) trẻ sơ sinh non tháng có HĐM [5]. Nghiên

cứu của Yoon Singh và cộng sự năm 2014 trên 125 trẻ sơ sinh cho thấy tỷ lệ

HĐM ở nhóm trẻ sinh non là 19,05% cao hơn so với nhóm đủ tháng 14,42%

[73]. Nghiên cứu của Hogasagi và cộng sự năm 2018 trên 207 trẻ sơ sinh cho

thấy tỷ lệ HĐM ở nhóm trẻ sơ sinh non muộn là 34%[47].

4.1.2. Đặc điểm mức độ hạ đường máu

Biểu đồ 3.1 cho thấy, hầu hết trẻ hạ đường máu có nồng độ đường máu

từ 1,1 mmol/l đến dưới 2,6 mmol/l, chỉ có 10,4% số trẻ sơ sinh sớm hạ đường

máu là hạ đường máu ở mức độ nặng.

Một số nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự nghiên cứu của

chúng tôi. Nghiên cứu của Hogasasi và cộng sự năm 2018 trên 207 trẻ sơ sinh

cho thấy tỷ lệ hạ đường máu nặng là 10%. Trong khi đó nghiên cứu của

Bromiker năm 2019 trên 3595 trẻ sơ sinh bao gồm cả sơ sinh khỏe mạnh và

sơ sinh bệnh lý thì tỷ lệ HĐM nặng là 3,4% [26]. Nhóm trẻ có HĐM nặng này

có nguy cơ tổn thương não cao hơn hẳn so với nhóm trẻ có HĐM từ 1,1 đến

2,6 mmol/l [70]. Nghiên cứu của Trefz và cộng sự trên 10060 trẻ sơ sinh phải

nhập viện vì các bệnh lý khác nhau, tỷ lệ ra viện ở trẻ sơ sinh có nồng độ

đường máu < 1 mmol/l và từ 1,1 mmol/l – 1,9 mmo/l chỉ có lần lượt là 9,6%

và 26,4% [81]. Vì vậy cần chú ý theo dõi sát nồng độ đường máu trong suốt

quá trình nằm viện cũng như sự phát triển về tinh thần của nhóm trẻ này sau

khi ra viện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

55

4.1.3. Đặc điểm hạ đường máu theo ngày tuổi

Kết quả nghiên cứu ở biểu đồ 3.2, thời điểm hay hạ đường máu nhất là

trong ngày đầu tiên sau sinh, chiếm tới 82,7%; và có xu hướng giảm dần từ

ngày thứ nhất cho đến ngày thứ 7. Theo Adamkin và Polin, ở trẻ sơ sinh ngay

sau khi sinh, nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch rốn ở vào khoảng 60%-

80% nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch mẹ. Sự sụt giảm nhanh chóng

lượng glucose trong máu diễn ra trong khoảng từ 30-60 phút sau sinh và sau

đó là ổn định dần trong khoảng 2-4 giờ sau sinh. Nồng độ glucose máu tăng

sau 48 giờ đầu của cuộc sống và tương tự với nồng độ glucose máu ở 72-96

giờ tuổi [17]. Theo Maries Gueme và cộng sự, trẻ sơ sinh bình thường, cân

nặng tương ứng với tuổi thai thường có hạ đường máu sinh lý bình thường

trong suốt 2-4 giờ sau sinh, nồng độ đường máu thấp nhất đo được là 2,3

mmol/l; trong khi đó, trẻ sơ sinh ăn sữa mẹ nồng độ đường máu thấp nhất là

3,6 mmol/l; nồng độ đường máu tăng ngay lập tức sau khi trẻ được ăn sữa mẹ

hay sau 72 giờ tuổi cho thấy sự tương xứng với đáp ứng chuyển hóa tạo năng

lượng cần thiết cho trẻ sơ sinh đủ tháng và sơ sinh ăn sữa mẹ [44]. Nghiên

cứu của Nankadishore và cộng sự năm 2014 trên 150 trẻ sơ sinh nhận thấy

rằng phần lớn các trường hợp HĐM sơ sinh đều xảy ra trong vòng 24 giờ đầu

sau sinh (52%) và trong các trường hợp HĐM trong vòng 24 giờ đầu sau sinh

có tới 77% số trường hợp hạ đường máu chỉ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh

[59]. Nghiên cứu của Sighn và cộng sự năm 2014 trên 125 trẻ sơ sinh được

lựa chọn ngẫu nhiên tại khoa Sản, có 63,15% trẻ sơ sinh hạ đường máu trong

24 giờ đầu; 21,05% hạ đường máu trong vòng từ 24 đến 48 giờ và 15,78% hạ

đường máu từ 48 đến 72 giờ [73].

4.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.3 cho thấy, trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ

đường máu, có 25 trẻ nhẹ cân so với tuổi thai chiếm 23,6%; 71 trẻ cân nặng tương

ứng tuổi thai chiếm 67,0% và 10 trẻ lớn cân so với tuổi thai chiếm 9,4%.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

56

Bảng 3.4, trong số 59 trẻ sơ sinh non tháng hạ đường máu có 12 trẻ sơ

sinh cân nặng thấp hơn tuổi thai chiếm 20,3%; 43 cân nặng tương ứng tuổi

thai chiếm 72,9%, 4 trẻ lớn cân so với tuổi thai chiếm 6,8%. Trẻ sơ sinh non

cân nặng thấp hơn so với tuổi thai dễ bị hạ đường máu do tỷ lệ khối của não

so với trọng lượng cơ thể cao hơn cũng như dự trữ mỡ và glyogen kém hơn.

Nghiên cứu của Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên năm 2019 trên 108

trẻ sơ sinh, nhóm trẻ sinh nhẹ cân và có đẻ non tỷ lệ HĐM lên tới 78%, tỷ lệ

này cao nhất trên nhóm trẻ gần đủ tháng (sơ sinh non muộn từ 34 tuần đến

dưới 37 tuần) là 63,4%, tỷ lệ HĐM ở sơ sinh non tháng cân nặng tương ứng

với tuổi thai là 30,9% [12]. Nghiên cứu của Asril Aminullah và cộng sự năm

2001 trên 112 trẻ sơ trẻ sơ sinh non tháng và nhận thấy trong nhóm trẻ sơ sinh

non tháng thì nhóm trẻ nhẹ cân so với tuổi thai có tỷ lệ HĐM là 53% cao hơn

hẳn so với nhóm trẻ tương ứng với tuổi thai là 18% [88]. Theo nghiên cứu của

Dhananjaya năm 2011 trên 366 trẻ sơ sinh, tỷ lệ HĐM ở nhóm sơ sinh thiểu

dưỡng non tháng là 25%, sơ sinh quá dưỡng non tháng là 20%, sơ sinh non

tháng bình dưỡng là 9,09% [33]. Nghiên cứu của Shivani Dogra và cộng sự

năm 2012 trên 50 trẻ sơ sinh non tháng cho thấy kết quả tương tự với tỷ lệ

HĐM là 52% ở nhóm trẻ nhẹ cân so với tuổi thai cao hơn hẳn so với nhóm trẻ

tương ứng với tuổi thai chỉ có tỷ lệ này là 12% [35]. Nghiên cứu của Ju

Young Joon năm 2015 trên 141 trẻ sơ sinh về mức độ đường máu 7 ngày sau

sinh trên nhóm trẻ sơ sinh non tháng cho thấy trẻ nhẹ cân so với tuổi thai có tỷ

lệ HĐM là 45% [84].

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.5 cho thấy trong 47 trẻ sơ sinh đủ tháng

có 14 trẻ sơ sinh cân nặng nhỏ hơn so với tuổi thai chiếm 29,8%, 27 trẻ cân

nặng tương ứng tuổi thai chiếm 54,7%, 6 trẻ cân nặng tương ứng tuổi thai

chiếm 12,8%. Các nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự. Nghiên cứu

Paul Holtrop ở nhóm trẻ đủ tháng hạ đường máu, nhóm trẻ lớn cân hơn so với

tuổi thai chiếm 8,1% và nhóm nhẹ cân so với tuổi thai chiếm 14,7%. Thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

57

điểm HĐM trung bình của nhóm lớn cân so với tuổi thai là 2,9 giờ sau sinh,

đối với nhóm nhẹ cân so với tuổi thai là 6,1 giờ sau sinh [45]. Nghiên cứu của

Bandika và cộng sự năm 2014 trên 160 trẻ sơ sinh đủ tháng thấy rằng có 21%

số trẻ cân nặng lớn hơn so với tuổi thai có HĐM, trong nghiên cứu này, các

tác giả không đề cập đến nhóm sơ sinh đủ tháng nhẹ cân so với tuổi thai [22].

Nghiên cứu của Farzana Shaikh và cộng sự năm 2016 trên 565 trẻ đủ tháng

nhẹ cân so với tuổi thai tỷ lệ HĐM là 19% và nhiều nhất ở ngày đầu sau sinh

(13,9%) [68].

4.1.5. Đặc điểm bệnh lý

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.6 cho thấy, trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ

đường máu, bệnh lý hay gặp nhất là suy hô hấp, có 46 trẻ chiếm tỷ lệ 43,4%.

Tiếp đến là các bệnh lý: nhiễm khuẩn sơ sinh (NKSS), ngạt, vàng da tăng

bilirubin tự do (VDTBTD), chiếm tỷ lệ lần lượt là 14,2%; 12,3%, 10,4%. Các

bệnh lý khác ít gặp hơn là: đa hồng cầu sơ sinh (ĐHCSS), dị tật bẩm sinh

(DTBS), bệnh lý tiêu hóa chiếm tỷ lệ lần lượt là 7,5%; 7,5% và 4,7%. Trong giai

đoạn sơ sinh sớm, trẻ có thể mắc nhiều các bệnh lý khác nhau và trong số đó, có

nhiều bệnh lý có liên quan đến hạ đường máu như đa hồng cầu sơ sinh, ngạt,

nhiễm khuẩn sơ sinh, suy hô hấp….[8], [13], [25]. Giải thích điều này, các bệnh

lý trong giai đoạn sơ sinh được coi như là các stress chu sinh dẫn tới tăng sử

dụng glucose trong khi quá trình phân giải glycogen và tân tạo glucose chưa

hoàn thiện, do đó gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh giai đoạn sớm.

Kết quả này của chúng tôi tương tự với nhiều nghiên cứu trong và

ngoài nước. Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ

sinh cho thấy tỷ lệ HĐM cao nhất ở các nhóm sơ sinh mắc các bệnh lý: ngạt

(43%), ĐHCSS (42,1%), NKSS chiếm 26,7%, thấp ở nhóm trẻ sơ sinh có

vàng da do tăng bilirubin tự do 19,1% [13]. Nghiên cứu của Hoàng Thị Trang

và Hoàng Thị Thủy Yên năm 2019 trên 108 trẻ sơ sinh nhẹ cân, tỷ lệ HĐM

cao nhất ở nhóm NKSS chiếm 63,4%, suy hô hấp 20,5%, ngạt 25,6% [12].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

58

Nghiên cứu của Ghanim và cộng sự năm 2015 trên 112 trẻ sơ sinh nhận thấy

trẻ bị HĐM nhiều nhất ở các nhóm trẻ mắc các bệnh lần lượt là: ĐHCSS

(33,9%), suy hô hấp (32,1%), NKSS (16%) và ngạt (8%) [42]. Nghiên cứu

của Bhand và cộng sự năm 2014 trên 100 trẻ sơ sinh cho thấy tỷ lệ HĐM cao

nhất ở nhóm trẻ có suy hô hấp chung chiếm 32%, tiếp đến là nhóm trẻ hạ thân

nhiệt chiếm 25%, nhóm trẻ NKSS chiếm 20% [25]. Nghiên cứu của

Stomnaroska năm 2017 trên 84 trẻ sơ sinh HĐM cho thấy có 26,18% trẻ có

NKSS, 10,62% trẻ có suy hô hấp sơ sinh [78].

Đa hồng cầu ở trẻ sơ sinh là một vấn đề được quan tâm trong thời gian

gần đây, vấn đề này cần được theo dõi thường xuyên và chẩn đoán sớm do

các rối loạn liên quan gây tổn thương nhiều cơ quan như tim, phổi, ruột trong

giai đoạn sơ sinh, và đặc biệt là thần kinh trung ương, để lại những di chứng

vĩnh viễn. HĐM là một trong những biểu hiện hay gặp nhất của đa hồng cầu.

Nghiên cứu của Hopewell và cộng sự trong hai đoạn từ 1986 – 1996 và từ

1997 – 2007, con số này không có sự thay đổi và đều chiếm tỷ lệ 29% [46]

trong khi đó nghiên cứu của Abbas và cộng sự năm 2013 trên 100 trẻ sơ sinh

cho thấy sự hiện diện của HĐM chiếm 26% trong số trẻ có đa hồng cầu [15].

Nghiên cứu của Wei Zhou và cộng sự năm 2015 trên 668 trẻ sơ sinh

cho thấy tỷ lệ HĐM theo điểm Apgar ở nhóm trẻ ngạt nặng (0 – 3 điểm)

chiếm 42,9%, ở nhóm trẻ ngạt (4 – 7 điểm) chiếm 34.3% và ở nhóm trẻ không

ngạt là 14%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê lớn với p < 0,001 và gợi ý ngạt

là yếu tố liên quan đến HĐM. Quá trình bệnh lý thiếu oxy máu do hậu quả

của ngạt dẫn tới các rối loạn chuyển hóa đường, quá trình phân giải glycogen

theo con đường kỵ khí tăng, giảm sản xuất năng lượng trong khí quá trình tiêu

thụ đường tăng cũng như việc trẻ ăn ít hơn, tiêu hóa và hấp thụ kém hơn

khiến trẻ dễ bị HĐM. NKSS và các bệnh lý làm tăng tiêu thụ glycogen cũng

dễ dàng gây HĐM [86].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

59

4.1.6. Đặc điểm triệu chứng hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.9 cho thấy, trong 106 trẻ sơ sinh sớm hạ

đường máu, có 48 trẻ không có triệu chứng hạ đường máu chiếm 45,3%; các

triệu chứng hạ đường máu hay gặp lần lượt theo thứ tự là: hạ thân nhiệt

(12,3%), ngưng thở (11,3%), xanh tím (9,4%), dễ kích thích (8,5%), li bì

(8,5%), co giật (4,7%). Thực tế, sơ sinh sớm bệnh lý nặng vào viện vì rất

nhiều lý do khác nhau, với nhiều triệu chứng khác nhau do đó, không có triệu

chứng nào đặc hiệu cho hạ đường máu. Cùng với đó, các triệu chứng hạ

đường máu thường kín đáo, nên trẻ sơ sinh có hạ đường máu nhưng không

phải trẻ nào cũng biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Các nghiên cứu trong và

ngoài nước hầu như chưa đưa ra triệu chứng nào có tính đặc hiệu cho hạ

đường máu sơ sinh, và tỷ lệ giữa các triệu chứng cũng khác nhau tùy vào từng

nghiên cứu. Nghiên cứu của Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên năm

2019 trên 108 sơ sinh nhẹ cân cho thấy, không có đặc điểm lâm sàng nào đặc

hiệu cho hạ glucose máu ở trẻ sơ sinh nhẹ cân với p > 0,05 [12]. Nghiên cứu

của Bhand và cộng sự năm 2014 trên 100 trẻ sơ sinh, triệu chứng trên lâm

sàng thường gặp nhất là dễ kích thích (38%), xanh tím (23%), bất ổn thân

nhiệt (32%), li bì (25%) [25]. Nghiên cứu của Singh và cộng sự năm 2014

trên 125 trẻ sơ sinh, triệu chứng lâm sàng có tỷ lệ hạ đường máu cao nhất là li

bì (88,8%), ngạt (66,6%), co giật (55,55%), ngừng thở (11,11%) [73].

4.2. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm

4.2.1. Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm từ phía mẹ

- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với cách sinh

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.12 cho thấy, trong số 106 trẻ sơ sinh hạ

đường máu, có 61 trẻ được sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai (MLT)

chiếm 57,5%. Từ bảng 3.14 cho thấy nhóm trẻ được sinh ra bằng phương

pháp MLT có nguy cơ HĐM cao gấp 2,6 lần với OR = 2,63 (1,5-4,63).

Điều này có thể do nồng độ cortisol ở trẻ sơ sinh được sinh bằng phương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

60

pháp MLT cao hơn so với trẻ sơ sinh được sinh bằng phương pháp đẻ

đường dưới, mà cortisol là có vai trò bắt đầu quá trình tân tạo glucose, do

đó nồng độ cortisol thấp sẽ dẫn tới HĐM, vì vậy trẻ sơ sinh được sinh bằng

phương pháp MLT có nguy cơ HĐM cao hơn trẻ sơ sinh được sinh bằng

phương pháp đẻ đường dưới. Nghiên cứu của chúng tôi tương tự với nhiều

nghiên cứu khác trên thế giới. Nghiên cứu của Apolonia Patterson và cộng

sự năm 2012 trên 2092 trẻ sơ sinh có mẹ tiểu đường thai kỳ cho thấy trẻ

được sinh ra bằng phương pháp MLT có nguy cơ HĐM cao gấp 2,5 lần so

với trẻ được sinh bằng phương pháp khác, OR = 2,57 (1,35 – 4,87), khoảng

tin cậy 95%, p = 0,004 [41]. Một nghiên cứu khác của Ogunyemi và cộng

sự năm 2017 trên 8273 trẻ sơ sinh thì trong số các yếu tố của quá trình

chuyển dạ, chỉ có MLT và nong cổ tử cung lần cuối có liên quan tới HĐM

sơ sinh, trong đó MLT là yếu tố nguy cơ gây HĐM ở sơ sinh với OR =

1,57 (1,03 – 2,39), khoảng tin cậy 95%, p = 0,036 [61]. Nghiên cứu của

Bromiker và cộng sự năm 2019 trên 3595 trẻ sơ sinh cũng cho thấy có mối

liên quan giữa tỷ lệ HĐM ở trẻ sơ sinh sớm với MLT, cụ thể tỷ lệ HĐM ở

nhóm trẻ được sinh ra bằng phương pháp MLT có tỷ lệ HĐM cao nhất

chiếm 13,9%, khoảng tin cậy 95% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p =

0,03 [26].

- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với mẹ sốt trong quá trình

chuyển dạ

Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3.12, trong số 106 trẻ sơ sinh có hạ

đường máu, có 22 trẻ có mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ (QTCD), chiếm

20,8%. Từ bảng 3.14 ta thấy, trẻ có mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ có

nguy cơ HĐM cao gấp 2,65 lần so với sơ sinh khác với OR = 2,65 (1,5-

4,63). Khi mẹ bị sốt trong quá trình chuyển dạ dẫn đến việc tăng đường máu

thoáng qua do tăng các stress hóc môn như cortisol, adrenalin, glucagon,

việc tăng đường máu của mẹ này dẫn tới tăng vận chuyển glucose qua thai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

61

nhi làm tăng nồng độ glucose máu và insulin máu ở thai nhi và gây ra HĐM

ở sơ sinh. Vì vậy, trẻ có mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ có nguy cơ HĐM

cao hơn. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rằng, mẹ sốt trong quá

trình chuyển dạ là yếu tố nguy cơ gây HĐM ở trẻ sơ sinh. Nghiên cứu của

DePuy và cộng sự năm 2009 trên 348 trẻ sơ sinh cho thấy trẻ có mẹ sốt

trong quá trình chuyển dạ có nguy cơ HĐM cao gấp 4 lần, OR = 4,04 (1,39

– 11,69), CI : 95%, p = 0,01 [32]. Nghiên cứu của Ashwal và cộng sự năm

2018 trên 309 bà mẹ có sốt trong QTCD và 618 bà mẹ chứng cho thấy HĐM

là biến chứng hay gặp nhất khi mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ với tỷ lệ là

8,8% với p < 0,001 [21]. Nghiên cứu phân tích đa biến của Bromiker và

cộng sự năm 2019 trên 3595 trẻ sơ sinh bao gồm cả trẻ sơ sinh khỏe mạnh

và sơ sinh bệnh lý nhận thấy có mối liên quan giữa mẹ có sốt trong quá trình

chuyển dạ với tỷ lệ HĐM ở con [26].

- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với mẹ có truyền glucose

trong quá trình chuyển dạ

Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3.12, có 27,4% trẻ sơ sinh có hạ

đường máu có mẹ được truyền glucose trong QTCD. Theo bảng 3.14, sơ

sinh có mẹ truyền glucose trong lúc chuyển dạ có nguy cơ HĐM cao gấp 5

lần, OR = 5 (2,08 -12,05), khoảng tin cậy 95%, p < 0,05. Lý giải điều này,

chúng tôi cho rằng việc truyền glucose cho mẹ trong lúc chuyển dạ làm tăng

nồng độ gluose trong máu mẹ dẫn tới đồng thời làm tăng nồng độ glucose ở

thai nhi, do đó nồng độ insulin của thai nhi cũng tăng lên làm giảm sản xuất

glucose nội sinh nhưng lại tăng sử dụng glucose nên gây ra HĐM ở trẻ sơ

sinh. Vì vậy, truyền glucose cho mẹ trong quá trình chuyển dạ gây ảnh

hưởng rất lớn đến cân bằng glucose nội môi và insulin dẫn đến nguy cơ

HĐM sau đẻ. Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trong tổng số

72 bà mẹ có truyền glucose lúc chuyển dạ thì có tới 22 trẻ sơ sinh sinh ra bị

HĐM [13]. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng cho thấy rằng, mẹ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

62

có truyền glucose trong lúc chuyển dạ là yếu tố nguy cơ gây HĐM ở trẻ sơ

sinh. Nghiên cứu của Asril Aminullah và cộng sự năm 2001 đã tiến hành

nghiên cứu các yếu tố nguy cơ HĐM trên 112 trẻ sinh non nhận thấy sơ sinh

non có mẹ truyền glucose lúc chuyển dạ có tỷ lệ hạ đường máu lên tới

37,9% và nguy cơ HĐM sơ sinh gấp 2,56 lần [88]. Nghiên cứu của Fukuda

và cộng sự năm 2013 về ảnh hưởng của biện pháp truyền glucose cho mẹ

sinh mổ tới nồng độ glucose trong máu của sơ sinh. Nhóm nghiên cứu đã so

sánh 3 nhóm khi mẹ được truyền các dung dịch Ringer lactat chứa 0%

glucose (nhóm 1), chứa 1% glucose (nhóm 2) và chứa 5% glucose (nhóm 3).

Kết quả cho thấy cho thấy nồng độ glucose máu ở trẻ sơ sinh được sinh ra từ

các bà mẹ nhóm 1 là 35,7 ± 9,6 mg/dl, nhóm 2 là 49,8 ± 10,8 mg/dl, nhóm 3

là 29,2 ± 7,5 mg/dl. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, trong nhóm 3 có 9 trẻ

sinh ra có HĐM chiếm tỷ lệ cao nhất và thấp nhất ở nhóm 2 chỉ có 3 trẻ sinh

ra có HĐM. Tác giả cũng đã kết luận rằng dịch truyền glucose 1% là dịch

truyền giúp duy trì tối ưu đường máu của mẹ và làm giảm nguy cơ HĐM ở

sơ sinh. Tóm lại, nồng độ đường máu của mẹ tỷ lệ thuận với nồng độ

glucose mà mẹ nhận được và với những bà mẹ có truyền glucose có nồng độ

≥ 5% thì con sinh ra có nguy cơ HĐM cao hơn [39].

- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với mẹ tăng cân trong

thai kỳ

Nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.14 cho thấy HĐM ở sơ sinh không

có liên quan tới việc mẹ tăng cân trong thai kỳ. Điều này tương tự với nghiên

cứu của Chế Thị Ánh Tuyết cho thấy tăng cân của mẹ trong thai kỳ không có

liên quan gì đến HĐM ở trẻ sơ sinh được sinh ra [13]. Trên thế giới cũng có

nhiều nghiên cứu chỉ ra tương tự: nghiên cứu của Depuy và cộng sự năm

2009 trên 348 trẻ sơ sinh đủ tháng không có mẹ bị đái tháo đường nhận thấy

tỷ lệ HĐM ở sơ sinh không liên quan đến tăng cân của mẹ trong thai kỳ [32],

nghiên cứu của Apolonia Patterson và cộng sự năm 2012 trên nhóm 2092 trẻ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

63

sơ sinh có mẹ tiểu đường cũng không tìm thấy mối liên quan giữa tỷ lệ HĐM

ở trẻ sơ sinh với tăng cân của mẹ trong thai kỳ [41].

4.2.2. Một số yếu tố gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm từ phía con

4.2.2.1. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với tuổi thai

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.15 cho thấy trẻ sơ sinh non tháng có

nguy cơ HĐM gấp 3 lần so với trẻ sơ sinh đủ tháng với OR = 3,07 (1,72 -

5,47), khoảng tin cậy 95%, p < 0,001. Bảng 3.23 cho thấy sơ sinh non

tháng AGA cũng là yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu với OR = 2,2 (2,17 –

4,08). Sở dĩ trẻ sơ sinh non tháng có nguy cơ dễ bị HĐM và các biến chứng

liên quan là do các cơ quan còn non yếu, dự trữ glycogen và chất béo hạn

chế, không thể tạo ra glucose mới bằng con đường tân tạo glucose, có nhu

cầu trao đổi chất cao hơn, đặc biệt là kích thước não tương đối lớn so với

trọng lượng cơ thể [69]. Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả tương đồng

với nhiều nghiên cứu khác nhau trong và ngoài nước. Nghiên cứu của Chế

Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh cho thấy trẻ sơ sinh non

tháng có nguy cơ HĐM cao gấp 2,5 lần so với nhóm trẻ sơ sinh khác ( OR

= 2,5, p = 0,001) [13]. Nghiên cứu của William và cộng sự năm 2007 trên

592 trẻ sơ sinh non muộn, tác giả đã kết luận nhóm trẻ sơ sinh non muộn

có nguy cơ HĐM cao gấp 3,3 lần so với sơ sinh đủ tháng [37]. Nghiên cứu

của Zhou và cộng sự năm 2015 trên 668 trẻ sơ sinh, tỷ lệ HĐM ở trẻ sơ

sinh non tháng, đủ tháng, già tháng tương ứng lần lượt là 55,6%, 14,9% và

11,1% . Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm non tháng cao hơn hẳn

so với nhóm đủ tháng hay nhóm già tháng trong khi đó không có sự khác

biệt nhiều giữa nhóm đủ tháng với nhóm già tháng. Từ đó cho thấy, trẻ non

tháng dễ có nguy cơ bị HĐM hơn so với trẻ đủ tháng và già tháng [86].

Nghiên cứu của Bromiker và cộng sự năm 2019 trên 3595 trẻ sơ sinh trong

một nghiên cứu đa biến cho thấy tuổi thai là biến liên quan mạnh nhất đến

tỷ lệ HĐM với OR = 1,49 (1,3 -1,69) khoảng tin cậy 95% và OR = 1,45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

64

(1,25 -1,67) khoảng tin cậy 95% khi cắt ngang lần lượt tại điểm 47 mg/dl

và 40 mg/dl [26].

4.2.2.2. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với dinh dưỡng của con

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.16 cho thấy trẻ có cân nặng nhỏ hơn so

với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao gấp 2,3 lần so với sinh khác, OR = 2,37

(1,09 – 5,13) khoảng tin cậy 95%, p < 0,05. Sơ sinh SGA có mức dự trữ

glycogen thấp, hoạt động của các men trong tân tạo đường còn bị hạn chế,

dự trữ lipid giảm, khả năng huy động acid béo kém, quá trình tạo ceton yếu

và khả năng sử dụng các cơ chất tân tạo đường ( alanine, lactate, pyruvate)

bị giảm, trong khi đó sử dụng glucose cho não cao do trọng lượng não so với

cơ thể lớn, dẫn tới sản xuất glucose từ gan bị giảm xuống. Sự đáp ứng của

các axit amin huyết tương đối với glucagon có thể bị thay đổi ở trẻ sơ sinh

nhẹ cân so với tuổi thai khi bị HĐM. Thêm vào đó, sơ sinh SGA dễ bị các

stress như ngạt, suy hô hấp, nhiễm khuẩn sơ sinh, … Các stress này làm

giảm sự huy động các chất từ ngoại vi do giảm sư tưới máu, do chuyển hóa

theo con đường yếm khí gây tích tụ lactat cùng với tình trạng tăng insulin

chức năng thoáng qua càng làm cho trẻ dễ bị HĐM. Việc định lượng glucose

máu thường quy tại nhóm sơ sinh này là điều cần thiết. Nghiên cứu của

Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên năm 2019 trên 108 trẻ sơ sinh

cũng cho kết quả tương tự với chúng tôi, trẻ sơ sinh nhẹ cân so với tuổi thai

có nguy cơ hạ đượng máu gấp 2,3 lần so với trẻ sơ sinh khác, OR = 2,3 (1,0

-5,4), p = 0,048 [12]. Nghiên cứu của Inayatullah Khan năm 2010 trên 150

trẻ sơ sinh ghi nhận nguy cơ HĐM cao ở trẻ sơ sinh non tháng cũng như sơ

sinh nhẹ cân so với tuổi thai [53]. Nghiên cứu của Rassmusen và cộng sự

năm 2017 cho thấy trẻ nhẹ cân so với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao gấp 3,4

lần so với sơ sinh cân nặng tương ứng tuổi thai OR = 3,39 (2,86 - 4,03),

khoảng tin cậy 95%, p < 0,001 [63]. Trong nghiên cứu của Singh và cộng sự

năm 2017 trên những trẻ khỏe mạnh có nguy cơ hạ đường cao thấy trẻ nhẹ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

65

cân so với tuổi thai có tỷ lệ HĐM là 21,9% và có nguy cơ HĐM cao gấp 1,3

lần so với nhóm trẻ khác với OR = 1,3; khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có

ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [72]. Nghiên cứu của J Sternberg và cộng sự

năm 2017 trên 129 sơ sinh đủ tháng HĐM và đã được truyền glucose điều trị

thì nhóm sơ sinh SGA và sơ sinh cân nặng thấp là hai nhóm sơ sinh làm tăng

nguy cơ HĐM tái phát [76].

- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm lớn cân so với tuổi thai:

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.17 cho thấy, sơ sinh non tháng SGA có

nguy cơ hạ đường máu gấp 2,7 lần so với sơ sinh khác trong khi đó ở bảng

3.25 lại cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm sơ sinh

đủ tháng SGA. Sơ sinh non tháng SGA là một trong những yếu tố nguy cơ

rõ ràng nhất gây hạ đường máu. Theo A. Sharma, do ở trẻ sơ sinh non tháng

SGA, không có kho dự trữ glycogen, mỡ ở 3 tháng cuối thai kỳ, cũng như là

các yếu tố vi lượng sắt, canxi, các vitamin đặc biệt là các vitamin nhóm D.

Mặt khác sự chưa trưởng thành của các bộ phận cơ thể như là khả năng điều

nhiệt, sự tổng hợp chất surfactan, hô hấp tự chủ, nội mạc mạch máu, chức

năng ống thận, chức năng hormon, miễn dịch tế bào, tổng hợp prothrombin

phụ thuộc vitamin K, khả năng kết hợp bilirubin và glucoronyl tại gan, tổng

hợp erythropoietin, phân giải lipid…do đó sơ sinh non tháng SGA phải tiêu

hao nhiều năng lượng cần thiết hơn mới đảm bảo duy trì chức năng sống

bình thường bên ngoài tử cung, như vậy loại sơ sinh này vừa mang đặc điểm

bệnh lý của sơ sinh non tháng vừa mang đặc điểm bệnh lý của sơ sinh Nhẹ

cân so với tuổi thai [69]. Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên

353 trẻ sơ sinh cho thấy trẻ sơ sinh non tháng SGA có nguy cơ ạ đường máu

gấp 5,2 lần so với loại sơ sinh khác [13]. Nghiên cứu của Behera và cộng sự

năm 2015 trên 480 trẻ nhẹ cân so với tuổi thai, nhóm trẻ có cân nặng < 1500

gram có nguy cơ HĐM gấp 2,6 lần so với nhóm trẻ khác với OR = 2,6 (1,6 -

4,2), khoảng tinh cậy 95%, p < 0,01; nhóm trẻ dưới 34 tuần có nguy cơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

66

HĐM gấp 3 lần so với nhóm trẻ khác với OR = 3,0 (1,7 -5,1), khoảng tin cậy

95%, p < 0,001 [24].

- Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm lớn cân so với tuổi thai:

Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3.16 ta thấy loại sơ sinh cân nặng

lớn hơn so với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao gấp gần 2 lần so với loại sơ

sinh khác với OR = 1,96 ( 1,16 – 4,46), khoảng tin cậy 95%, p < 0,05. Do

sơ sinh LGA từ trong tử cung đã được tăng cung cấp năng lượng từ mẹ làm

tăng tiết insulin của thai, lượng insulin này tăng lên làm tăng quá trình giữ

các chất dinh dưỡng do mẹ cung cấp và hậy quả là cân nặng lớn hơn so với

tuổi thai. Sau khi sinh ra, nguồn năng lượng từ mẹ bị cắt đột ngột cùng với

hiện tượng cường insulin từ trong bào thai nên trẻ sinh ra dễ bị HĐM sơ

sinh. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kiều Nhi năm 2012 cho thấy sơ sinh quá

dưỡng là yếu tố nguy cơ HĐM cao gấp 4 lần so với các loại sơ sinh khác,

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê OR = 4,7368, khoảng tin cậy 95%, p <

0,05 [8]. Trong khi đó, nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên

353 trẻ sơ sinh cũng chỉ ra rằng lớn cân so với tuổi thai là yếu tố nguy cơ

gây HĐM với nguy cơ cao gấp 8,2 lần so với loại sơ sinh khác [13].

Nghiên cứu của Rassmusen và cộng sự năm 2017 cũng cho thấy trẻ lớn cân

so với tuổi thai có nguy cơ HĐM cao gấp 4 lần so với trẻ có cân nặng

tương ứng tuổi thai với OR = 4,1 ( 3,43 - 4, 9 ), khoảng tin cậy 95%, p <

0,001 [63]. Nghiên cứu của Mufidati và cộng sự năm 2017 trên 156 trẻ sơ

sinh đã chỉ ra rằng trẻ LGA có nguy cơ HĐM gấp 2 lần so với trẻ sơ sinh

khác với OR = 2,3 ( 1,09 – 4,77 ), khoảng tin cậy 95%, p = 0,029 [56].

Nghiên cứu của Persson và cộng sự tiến hành năm 2012 trên 3157 trẻ sơ

sinh được sinh ra từ mẹ mắc tiểu đường type 1, tuổi thai từ 32 đến 43 tuần,

nhóm trẻ nặng cân hơn so với tuổi thai và cân nặng tương ứng với tuổi thai

được tiếp tục chia thành nhóm trẻ cân xứng và không cân xứng dựa trên chỉ

số thể trọng ( được tính bằng thương của cân nặng tính theo gram với lập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

67

phương của chiều dài cơ thể tính theo centimet ), trong đó trẻ cân xứng là

trẻ có chỉ số thể trọng ≤ 90 percentiles còn trẻ không cân xứng là trẻ có chỉ

số thể trọng > 90 percentiles. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về

nguy cơ giữa HĐM giữa nhóm LGA cân xứng và LGA không cân xứng, và

LGA cân xứng là yếu tố nguy cơ với OR = 1,42 (1,01 – 2,0) khoảng tin cậy

95% so với nhóm AGA [62].

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.17 và bảng 3.18 cho thấy, ở nhóm sơ sinh

non tháng và nhóm sơ sinh đủ tháng, sơ sinh LGA không phải là yếu tố nguy

cơ gây hạ đường máu với lần lượt OR = 2,23 (0,66 -7,48), OR = 1,63 (0,57 –

1,67); sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Nguyên nhân do

trong các nhóm sơ sinh non tháng và đủ tháng, sơ sinh LGA chiếm số lượng

nhỏ nên kết quả không có ý nghĩa thống kê, sơ sinh LGA không phải là yếu tố

nguy cơ trong hai nhóm này như nhóm sơ sinh chung.

4.2.2.3. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với giờ tuổi nhập viện

Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3.19, trẻ sơ sinh trong vòng 24 giờ đầu

tiên có nguy cơ hạ đường máu cao gấp 3,7 lần so với thời điểm sau 24 giờ tuổi

với OR = 3,76 (2,08 -6,8), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng cho rằng, 24 giờ đầu đời là thời

điểm dễ HĐM nhất ở trẻ sơ sinh. Nghiên cứu của MH Naif và cộng sự năm

2013 trên 612 trẻ sơ sinh nhập viện vì các nguyên nhân khác nhau trừ vì

HĐM cho thấy mức đường máu thống kê được là dưới 35 mg/dl ở 1 – 3 giờ

đầu đời, dưới 40 mg/dl ở từ 3 giờ cho đến 24 giờ đầu đời và khoảng 45

mg/dl từ sau 24 giờ. 24 giờ đầu tiên là thời điểm dễ bị HĐM nhất, trong đó

43,3% không có triệu chứng và 56,7% có triệu chứng [57]. Nghiên cứu của

Nankadishore và cộng sự năm 2014 trên 150 trẻ sơ sinh nhận thấy rằng

phần lớn các trường hợp HĐM sơ sinh đều xảy ra trong vòng 24 giờ đầu

sau sinh (52%) và trong các trường hợp HĐM trong vòng 24 giờ đầu sau

sinh có tới 77% số trường hợp máu chỉ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh [59].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

68

Nghiên cứu của Samayam và cộng sự năm 2015 trên 100 trẻ sơ sinh thì tỷ

lệ HĐM là 10% tổng số trẻ sơ sinh khỏe mạnh, đủ tháng và tất cả số trẻ

HĐM đều có lần HĐM trong vòng 24 giờ đầu sau sinh [66]. Nghiên cứu

của tác giả Ogunlesi năm 2015 trên 277 trẻ sơ sinh thấy rằng, trẻ sơ sinh từ

3 – 24 giờ tuổi không có triệu chứng, có nguy cơ bị HĐM và hạ thân nhiệt

gấp gần 2 lần so với nhóm trẻ sơ sinh khác [60]. Nghiên cứu của Basu và

cộng sự năm 2016 trên 234 trẻ sơ sinh thiếu oxy máu não dựa vào mức độ

đường huyết trong vòng 12 giờ đầu tiên, nhận thấy rằng có đến 81% trẻ có

HĐM trong vòng 12 giờ đầu tiên sau sinh có kết quả không thuận lợi (tử

vong hoặc khuyết tật thần kinh) tại thời điểm 18 tháng, cao hơn nhiều so

với trẻ có đường máu bình thường (48%) [23]

4.2.2.4. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với thời điểm ăn sữa mẹ

lần đầu

Kết quả nghiên cứu bảng 3.20 cho thấy việc cho trẻ ăn sữa mẹ muộn

ngoài 1 giờ đầu sau đẻ không phải là yếu tố nguy cơ gây HĐM với OR = 1,17

(0,51-2,7).

Cho dù theo hướng dẫn của Hiệp hội nhi khoa Hoa Kỳ, việc cho trẻ ăn

sữa mẹ sớm, trong vòng một giờ đầu sau đẻ làm giảm nguy cơ HĐM, thế

nhưng, cũng như trong nghiên cứu của chúng tôi, nhiều nghiên cứu khác trên

thế giới cũng cho kết quả tương tự. Nghiên cứu của Samayam và cộng sự năm

2015 trên 100 trẻ sơ sinh, trẻ được ăn sữa mẹ sớm nhất có thể sau khi sinh, trẻ

sơ sinh được chia thành hai nhóm dựa vào thời gian cho ăn sữa mẹ gồm 76 trẻ

ăn sữa mẹ lần đầu trong vòng 1 giờ sau sinh và 24 trẻ ăn sữa mẹ ngoài 1 giờ

sau sinh. Trong nhóm sơ sinh được ăn sữa mẹ dưới 1 giờ tuổi có 6/76 trường

hợp có HĐM được ghi lại tương ứng 7,89%. Trong nhóm trẻ ăn sữa mẹ trên 1

giờ tuổi có 4 trường hợp HĐM được ghi lại tương ứng 16,67%, sự khác biệt

không có ý nghĩa thống kê với p = 0,212 [66]. Nghiên cứu của Zhou và cộng

sự năm 2015 trên 668 trẻ sơ sinh cũng cho thấy, không có sự khác biệt về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

69

nồng độ đường máu giữa nhóm sơ sinh được cho ăn sớm và cho ăn muộn,

thêm vào đó, tỷ lệ HĐM cũng không có sự khác biệt giữa nhóm sơ sinh ăn

sữa mẹ trong vòng một giờ đầu sau sinh và nhóm sơ sinh ăn sữa mẹ muộn

hơn một giờ đầu sau sinh [87]

4.2.2.5. Nguy cơ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh sớm với một số bệnh lý giai đoạn

sơ sinh sớm

- Liên quan hạ đường máu và nhiễm khuẩn sơ sinh

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.23 cho thấy, trẻ có NKSS có nguy cơ HĐM

cao gấp 2,5 lần so với nhóm trẻ không bị nhiễm khuẩn sơ sinh với OR = 2,58

(1,96 - 5,95), khoảng tin cậy 95%, p < 0,05. Ở trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn, do có

liên quan đến các vấn đề stress và bệnh tật thai nhi nên làm tăng nhu cầu sử dụng

glucose, các trẻ sơ sinh cũng có thể bị suy dinh dưỡng do nguồn năng lượng

cung cấp bị giảm do nhiễm khuẩn. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cũng

chỉ ra rằng nhiễm khuẩn sơ sinh là yếu tố nguy cơ gây HĐM.

Nghiên cứu của Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh sớm

cho thấy trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn sơ sinh có nguy cơ HĐM cao gấp 3,2 lần

so với trẻ sơ sinh không có nhiễm khuẩn sơ sinh [13]. Nghiên cứu của Hoàng

Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên năm 2019 trên 108 trẻ sơ sinh nhẹ cân so

với tuổi thai cũng chỉ ra bệnh lý nhiễm khuẩn sơ sinh sớm là yếu tố nguy cơ

gây HĐM cao gấp 2 lần so với các loại sơ sinh khác, sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê OR = 2,6057, khoảng tin cậy 95%, p < 0,05 [12]. Nghiên cứu của

Mufidati và cộng sự năm 2017 trên 156 trẻ sơ sinh chỉ ra rằng đối với trẻ

nhiễm khuẩn sơ sinh sớm < 72 giờ sau sinh, nguy cơ HĐM rất cao, gấp 40 lần

so với trẻ sơ sinh không bị nhiễm khuẩn sơ sinh sớm < 72 giờ sau sinh, OR =

40,6 (10,84 – 152,01), khoảng tin cậy 95%, p < 0,001 [56]. Nghiên cứu của

Islam và cộng sự năm 2017 trên 106 trẻ sơ sinh cũng cho thấy nhiễm khuẩn

sơ sinh có liên quan tới tình trạng hạ được máu và gợi ý vai trò của nhiễm

khuẩn sơ sinh trong bệnh sinh học của HĐM, điều này giúp đánh giá những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

70

thay đổi về mô hình tác nhân bệnh nguyên cũng như bất thường sinh lý bệnh

về máu ở trẻ nhiễm khuẩn sơ sinh, cung cấp những thông tin mới giúp cho

quản lý nhiễm khuẩn sơ sinh [48].

- Liên quan hạ đường máu và ngạt sơ sinh

Kết quả nghiên cứu bảng 3.23 cho thấy, sơ sinh bị ngạt có nguy cơ

HĐM cao gấp 2,6 lần so với sơ sinh không bị với OR = 2,65 (1,91 – 6,75),

khoảng tin cậy 95%, p < 0,05.

Ngạt sơ sinh là yếu tố nguy cơ gây HĐM do liên quan đến

catecholamin gây ra sự suy giảm glycogen thứ phát và hiện tượng cường

insulin, đó cũng là kết quả của sự thiếu oxy. Khi dây rốn bị cắt, nồng độ

glucagon và catecholamin huyết thanh tăng lên từ 3 – 5 lần, sự thay đổi sinh

lý này nhằm giúp cân bằng nồng độ glucose máu. Khi bị ngạt làm tăng khả

năng sử dụng glucose làm cạn kiệt nguồn glycogen dự trữ ở gan dẫn đến cân

bằng mong manh này bị phá vỡ do đó tình trạng HĐM sinh lý tức thời sẽ

không còn là sinh lý nữa. Vấn đề đặt ra để ngăn chặn tổn thương não vừa do

thiếu glucose vừa do thiếu oxy làm nặng lên tình trạng thiếu glucose cần phải

quản lý tốt thai nghén và xử trí kịp thời khi có sự cố. Theo nghiên cứu của

Chế Thị Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh sớm, trẻ bị ngạt có nguy cơ

HĐM gấp 2,4 lần trẻ sơ sinh không bị ngạt [13].

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rằng, ngạt sơ sinh là một

trong những yếu tố nguy cơ gây HĐM sơ sinh. Nghiên cứu của Rasmussen và

cộng sự năm 2017 cho thấy, trẻ bị ngạt sơ sinh có nguy cơ HĐM cao gấp 4

lần so với trẻ sơ sinh không bị ngạt, OR = 4,2 (3,56 - 4,9), khoảng tin cậy

95%, p < 0,001 [63]. Nghiên cứu của Mufidati và cộng sự năm 2017 trên 156

trẻ sơ sinh cũng cho thấy trẻ bị ngạt sơ sinh có nguy cơ HĐM cao gấp 2,8 lần

trẻ sơ sinh không bị ngạt với OR = 2,8 (1,01 – 7,8) , khoảng tin cậy 95%, p <

0,001 [56]. Trong một nghiên cứu phân tích hồi quy đa biến khác của Song và

cộng sự năm 2017 trên 120 trẻ sơ sinh hạ đường máu và 120 trẻ sơ sinh không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

71

hạ đường máu cũng cho thấy trẻ ngạt sơ sinh có nguy cơ HĐM cao gấp 2 lần

trẻ không bị ngạt với OR = 2,032 (1,114 - 11,139), khoảng tin cậy 95%, p <

0,05 [74].

- Liên quan hạ đường máu và đa hồng cầu sơ sinh

Từ kết quả nghiên cứu ở bảng 3.23 ta thấy, đa hồng cầu sơ sinh là

yếu tố nguy cơ gây HĐM ở trẻ sơ sinh, trẻ bị đa hồng cầu sơ sinh có nguy

cơ HĐM cao gấp 4 lần so với trẻ không bị đa hồng cầu sơ sinh với OR =

4,0 (1,83 – 18,3), khoảng tin cậy 95%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với

p < 0,05.

Các nghiên cứu khác nhau trong và ngoài nước cũng khẳng định rằng,

đa hồng cầu sơ sinh là yếu tố nguy cơ gây HĐM. Nghiên cứu của Chế Thị

Ánh Tuyết năm 2013 trên 353 trẻ sơ sinh nhận thấy trẻ bị đa hồng cầu sơ sinh

có nguy cơ bị HĐM cao gấp 3,2 lần so với trẻ sơ sinh không bị đa hồng cầu

[13]. Theo tác giả Anthony trong một nghiên cứu cắt ngang năm 2000 trên

578 trẻ sơ sinh tại Nepal đã đưa ra kết luận rằng trẻ mắc đa hồng cầu sơ sinh

làm tăng tỷ lệ HĐM lên gấp 2,77 lần [20].

4.3. Hạn chế của đề tài

Luận văn đã đạt được yêu cầu của mục tiêu đề ra, tuy nhiên đề tài vẫn

còn điểm hạn chế: Do thời gian nghiên cứu ngắn (trong vòng 1 năm), lựa

chọn nghiên cứu trên nhóm đối tượng bệnh lý nặng là các trẻ sơ sinh từ 1-7

ngày tuổi nhập viện vào Đơn vị điều trị tích cực của Khoa Sơ sinh cấp cứu

Nhi, bên cạnh đó, nhiều bệnh nhân chuyển từ tuyến dưới lên nên dữ liệu

nghiên cứu về mẹ trẻ còn chưa đầy đủ và bị loại trừ khỏi nghiên cứu, những

lý do trên dẫn đến việc số lượng bệnh nhi nhóm chứng ít hơn số lượng bệnh

nhi nhóm bệnh cần nghiên cứu hạ đường máu. Tuy nhiên, điều này không ảnh

hưởng đến kết quả nghiên cứu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

72

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu trên 206 trẻ sơ sinh sớm mắc các bệnh lý nặng phải

vào điều trị tại ICU, Khoa Sơ sinh - Cấp cứu nhi, Trung tâm Nhi khoa, Bệnh

viện Trung Ương Thái Nguyên cho kết quả như sau:

*Đặc điểm trẻ sơ sinh sớm hạ đường máu

Trong 106 trẻ sơ sinh sớm bệnh lý nặng hạ đường máu có các đặc

điểm sau:

- Nam chiếm 61,3%, nữ chiếm 38,7%.

- Trẻ sơ sinh non là 55,7%, sơ sinh đủ tháng là 44,3%.

- Hạ đường máu nặng chiếm 10,8%.

- Trẻ sơ sinh 1 ngày tuổi chiếm 82,7%.

- Trẻ sơ sinh cân nặng thấp hơn tuổi thai chiếm 23,6%, cân nặng lớn

hơn tuổi thai chiếm 9,4%, cân nặng tương ứng tuổi thai chiếm 67,0%.

- Suy hô hấp chiếm 43,4%.

- Không có triệu chứng hạ đường máu chiếm 45,8%.

- Trẻ ăn sữa mẹ muộn chiếm 88,7%.

* Một số yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu

- Một số yếu tố nguy cơ từ mẹ: Trẻ đường sinh ra bằng phương pháp

mổ lấy thai (OR = 2,63; p < 0,01), mẹ đẻ có truyền glucose lúc chuyển dạ

(OR = 5,0; p < 0,001), mẹ sốt trong chuyển dạ (OR = 2,65; p <0,001).

- Một số yếu tố nguy cơ từ con: Sơ sinh non tháng (OR = 3,07; p <

0,001), trẻ dưới 24 giờ tuổi (OR = 3,76; p < 0,001), sơ sinh Nhẹ cân so với

tuổi thai (OR = 2,37; p < 0,05), sơ sinh Lớn cân so với tuổi thai (OR = 1,96; p

< 0,05), sơ sinh mắc các bệnh lý như: nhiễm khuẩn sơ sinh (OR = 2,58; p <

0,05), ngạt (OR = 2,65; p < 0,05; đa hồng cầu sơ sinh (OR = 4,0; p < 0,05).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

73

KIẾN NGHỊ

Cần kiểm tra đường máu cho tất cả sơ sinh bệnh lý khi nhập viện, đặc

biệt là lứa tuổi sơ sinh sớm và có các yếu tố nguy cơ từ mẹ (mẹ truyền đường

trong quá trình chuyển dạ, mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ, trẻ được sinh

bằng phương pháp mổ lấy thai) và trẻ sơ sinh (sơ sinh non tháng, nhẹ cân so

với tuổi thai, cân nặng lớn hơn so với tuổi thai, dưới 24 giờ tuổi và mắc các

bệnh lý: nhiễm khuẩn sơ sinh, đa hồng cầu sơ sinh, ngạt).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Khu Thị Khánh Dung (2016), "Vàng da do tăng Bilirubin gián tiếp ở trẻ

sơ sinh", Sách giáo khoa nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 273.

2. Trần Thị Thu Hà và Ngô Thị Hoa (2015), Nhận xét đặc điểm dịch tễ học

lâm sàng và các yếu tố liên quan đến hạ đường huyết sơ sinh, Đề tài cơ

sở, Bệnh viện C Thái Nguyên.

3. Nguyễn Thu Hằng (2016), Nghiên cứu các biến chứng ở trẻ nhỏ hơn so

với tuổi thai và một số yếu tố liên quan từ phía mẹ tại bệnh viện Phụ sản

Trung ương, Luận văn Thạc sĩ, Nhi khoa, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

4. Nguyễn Công Khanh (2016), "Thăm khám trẻ sơ sinh", Sách giáo khoa

Nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 178-179.

5. Đậu Quang Liêu (2015), Đánh giá một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm

sàng của trẻ sơ sinh non tháng điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện Saint

Paul, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

6. Nguyễn Hoàng Nam Nguyễn Công Khanh (2017), "Hạ đường huyết",

Tiếp cận chẩn đoán và điều trị nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.

564 - 572.

7. Nguyễn Thị Kiều Nhi (2008), Đánh giá hiệu quả việc chăm sóc sơ sinh

bằng mô hình kết hợp sản - nhi tại khoa sản bệnh viện trường Đại học Y

Dược Huế, Luận án Tiến sĩ, Nhi khoa, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

8. Nguyễn Thị Kiều Nhi (2012), "Nghiên cứu bệnh lý hạ đường máu giai

đoạn sơ sinh sớm tại khoa Nhi bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế",

Tạp chí Y Dược học - Đại học Y Dược Huế 10, tr. 86-92.

9. Lê Thị Thanh Tâm (2017), Nghiên cứu phân bố - một số yếu tố liên quan

và kết quả sản khoa ở thai phụ đái tháo đường thai kỳ, Luận án Tiến sĩ,

Sản phụ khoa, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

10. Bộ Y Tế (2015), "Hạ đường huyết sơ sinh", Hướng dẫn chẩn đoán và

điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em, Hà Nội, tr. 185 -190.

11. Lê Minh Trác, Phan Thị Thu Nga và Lê Anh Tuấn (2012), "Thực trạng

sơ sinh thấp cân, non tháng đẻ tại bệnh viện phụ sản trung ương", Tạp

chí phụ sản. 10(2), tr. 98-103.

12. Hoàng Thị Trang và Hoàng Thị Thủy Yên (2019), "Nghiên cứu đặc điểm

lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng hạ đường máu ở trẻ sơ

sinh nhẹ cân", Kỷ yếu hội nghị nội tiết - đái tháo đường - rối loạn chuyển

hóa toàn quốc lần thứ IX, tr. 638 - 646.

13. Chế Thị Ánh Tuyết (2013), Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ hạ đường

máu giai đoạn sơ sinh sớm tại Khoa Nhi Bệnh viện Trường Đại học Y

Dược Huế, Đại học Y Dược Huế.

14. Vũ Thị Vân Yến, Phạm Thị Xuân Tú và Nguyễn Thị Quỳnh Hương

(2012), "Một số yếu tố liên quan đến tử vong của trẻ đẻ non", Tạp chí

nghiên cứu Y học. Phụ trương 80(3A), tr. 181 - 187.

Tài liệu tiếng Anh

15. Sawsan Sati Abbas, Hamed Fakhri Fayadh (2013), "Neonatal

polycythemia: Risk factors, clinical manifestation and treatment

applied", Iraqi Academic Scientific Journal. 12(3), 390-395.

16. David H Adamkin (2019), "Neonatal hypoglycemia", Common Problems

in the Newborn Nursery, Springer, 99-108.

17. David H Adamkin, Richard A Polin (2016), "Imperfect advice: neonatal

hypoglycemia", The Journal of pediatrics. 176, 195-196.

18. Yasemin Akin, et al. (2010), "Macrosomic newborns: a 3-year review",

The Turkish journal of pediatrics. 52(4), 378.

19. Didem Aliefendioğlu, et al. (2018), "Management of hypoglycemia in

newborn: Turkish Neonatal and Pediatric Endocrinology and Diabetes

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Societies consensus report", Turkish Archives of Pediatrics/Türk Pediatri

Arşivi. 53(Suppl 1), 224.

20. M de L Anthony, et al. (2000), "Neonatal hypoglycaemia in Nepal 2.

Availability of alternative fuels", Archives of Disease in Childhood-Fetal

and Neonatal Edition. 82(1), 52-58.

21. Eran Ashwal, et al. (2018), "Intrapartum fever and the risk for perinatal

complications–the effect of fever duration and positive cultures", The

Journal of Maternal-Fetal & Neonatal Medicine. 31(11), 1418-1425.

22. Victor L Bandika, et al. (2014), "Hypoglycaemia and hypocalcaemia as

determinants of admission birth weight criteria for term stable low risk

macrosomic neonates", African health sciences. 14(3), 510-516.

23. Sudeepta K Basu, et al. (2016), "Hypoglycaemia and hyperglycaemia are

associated with unfavourable outcome in infants with hypoxic ischaemic

encephalopathy: a post hoc analysis of the CoolCap Study", Archives of

Disease in Childhood-Fetal and Neonatal Edition. 101(2), 149-155.

24. Bijaylaxmi Behera, et al. (2015), "Hypoglycemia in small for gestational

age infants in a level III NICU: An observational study", Current

Medicine Research and Practice. 5(1), 10-13.

25. Sikandar Ali Bhand, et al (2014), "Neonatal hypoglycemia", The

Professional Medical Journal. 21(04), 745-749.

26. R. Bromiker, et al. (2019), "Early neonatal hypoglycemia: incidence of

and risk factors. A cohort study using universal point of care screening",

J Matern Fetal Neonatal Med. 32(5), 786-792.

27. Cahide Bulut, Tuğba Gürsoy and Fahri Ovalı (2016), "Short-term

outcomes and mortality of late preterm infants", Balkan medical journal.

33(2), 198-203.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

28. Leandro Cordero, et al. (2013), "Early feeding and neonatal

hypoglycemia in infants of diabetic mothers", SAGE open medicine. 1,

603-613.

29. Jennifer Croke, et al. (2009), "Two hour blood glucose levels in at-risk

babies: An audit of Canadian guidelines", Paediatrics & child health.

14(4), 238-244.

30. Hosein Dalili, et al. (2015), "Comparison of the four proposed Apgar

scoring systems in the assessment of birth asphyxia and adverse early

neurologic outcomes", PloS one. 10(3), 112-116.

31. L. Costello A. M. de, et al. (2000), "Neonatal hypoglycaemia in Nepal 2.

Availability of alternative fuels", Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed.

82(1), 52-58.

32. Amy M DePuy, et al. (2009), "Neonatal hypoglycemia in term,

nondiabetic pregnancies", American journal of obstetrics and

gynecology. 200(5), 45-51.

33. CD Dhananjaya, B Kiran (2011), "Clinical profile of hypoglycemia in

newborn babies in a rural hospital setting", Int J Biol Med Res. 2(4),

1110-1114.

34. E. Dias, S. Gada (2014), "Glucose levels in newborns with special

reference to hypoglycemia: a study from rural India", J Clin Neonatol.

3(1), 35-38.

35. Shivani Dogra, Kanya Mukhopadhyay and Anil Narang (2012), "Feed

intolerance and necrotizing enterocolitis in preterm small-for-gestational

age neonates with normal umbilical artery Doppler flow", Journal of

tropical pediatrics. 58(6), 513-516.

36. Eric C Eichenwald (2016), "Apnea of prematurity", Pediatrics. 137(1),

37-57.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

37. William A Engle, Kay M Tomashek and Carol Wallman (2007), "“Late-

preterm” infants: a population at risk", Pediatrics. 120(6), 1390-1401.

38. Florence engUettwiller, et al. (2015), "Real-time continuous glucose

monitoring reduces the duration of hypoglycemia episodes: a randomized

trial in very low birth weight neonates", PLoS One. 10(1), 62- 65.

39. Isao Fukuda, et al. (2013), "The effect of intravenous glucose solutions

on neonatal blood glucose levels after cesarean delivery", Journal of

anesthesia. 27(2), 180-185.

40. K. Gandhi (2017), "Approach to hypoglycemia in infants and children",

Transl Pediatr. 6(4), 408-420.

41. Apolonia García-Patterson, et al. (2012), "Maternal body mass index is a

predictor of neonatal hypoglycemia in gestational diabetes mellitus", The

Journal of Clinical Endocrinology. 97(5), 1623-1628.

42. Mohammed Abdulqader Ghanim, Raed Yeihya Salman and Mohammed

Habib (2015), "Risk Factors of Neonatal Hypoglycemia at Al Yarmook

Teaching Hospital", Iraq Journal of Community Medicine. 28(3), 113-119.

43. Rachel H Goode, et al. (2016), "Developmental outcomes of preterm

infants with neonatal hypoglycemia", Pediatrics. 138(6), 16-24.

44. Maria Güemes, Sofia A Rahman and Khalid Hussain (2016), "What is a

normal blood glucose?", Archives of disease in childhood. 101(6), 569-574.

45. Paul C Holtrop (1993), "The frequency of hypoglycemia in full-term

large and small for gestational age newborns", American journal of

perinatology. 10(02), 150-154.

46. Bridget Hopewell, et al. (2011), "Partial exchange transfusion for

polycythemia hyperviscosity syndrome", American journal of

perinatology. 28(07), 557-564.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

47. Nihan Hilal Hosagasi, et al. (2018), "Incidence of hypoglycemia in

newborns at risk and an audit of the 2011 American academy of

pediatrics guideline for hypoglycemia", Pediatrics & Neonatology.

59(4), 368-374.

48. Md Zahirul Islam, et al. (2017), "Evaluation of hypoglycemic status and

causative factors in neonatal sepsis", International Journal of

Contemporary Pediatrics. 4(6), 1927.

49. D Jonas, W Dietz and B Simma (2014), "Hypoglycemia in newborn

infants at risk", Klinische Pädiatrie. 226(05), 287-291.

50. Venkat Reddy Kallem, Aakash Pandita and Girish Gupta (2017),

"Hypoglycemia: when to treat?", Clinical Medicine Insights: Pediatrics.

11, 77-89.

51. Beena D Kamath, et al. (2009), "Neonatal outcomes after elective

cesarean delivery", Obstetrics and gynecology. 113(6), 1231.

52. S. M. Kayiran and B. Gurakan (2010), "Screening of blood glucose

levels in healthy neonates", Singapore Med J. 51(11), 853-855.

53. Inayatullah Khan, Taj Muhammad and Muhammad Qasim Khan (2010),

"Frequency and clinical characteristics of symptomatic hypoglycemia in

neonates", Gomal Journal of Medical Sciences. 8(2).

54. SS Mathai, U Raju and M Kanitkar (2007), "Management of respiratory

distress in the newborn", Medical journal, Armed Forces India. 63(3), 269.

55. A. Mejri, et al. (2010), "Hypoglycemia in term newborns with a birth

weight below the 10th percentile", Paediatr Child Health. 15(5), 271-

275.

56. Luthfina Mufidati, Alifah Anggraini and Tunjung Wibowo (2017),

"Asphyxia as a Risk Factor for Neonatal Hypoglycemia", Journal of

Nepal Paediatric Society. 37(2), 111-116.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

57. Monir H Naif, Basil M Hanoudi and Najla I Ayoub (2013), "Evaluation

of Maternal and Neonatal Risk factors for Neonatal Hypoglycemia", Iraq

Journal of Community Medicine. 26(1), 13-18.

58. N Najati and L Saboktakin (2010), "Prevalence and underlying etiologies

of neonatal hypoglycemia", Pakistan Journal of Biological Sciences.

13(15), 753.

59. P Nandakishore, et al. (2014), "Profile of risk factors and outcome of

hypoglycemia in newborns admitted in the neonatal unit of a tertiary care

hospital, Asram, West Godavari District", Journal of Evolution of

Medical and Dental Sciences. 3(18), 48-57.

60. Tinuade Ogunlesi (2015), "Mortality within the first 24 hours of

admission among neonates aged less than 24 hours in a special care baby

unit (SCBU) in Nigeria: the role of significant hypothermia and

hypoglycemia", Iranian Journal of Neonatology. 6(1), 1-7.

61. D Ogunyemi, et al. (2017), "Obstetrical correlates and perinatal

consequences of neonatal hypoglycemia in term infants", The Journal of

Maternal-Fetal & Neonatal Medicine. 30(11), 1372-1377.

62. M Persson, et al. (2012), "Disproportionate body composition and

perinatal outcome in large‐for‐gestational‐age infants to mothers with

type 1 diabetes", BJOG: An International Journal of Obstetrics &

Gynaecology. 119(5), 565-572.

63. Annett Helleskov Rasmussen, et al. (2017), "Retrospective evaluation of

a national guideline to prevent neonatal hypoglycemia", Pediatrics &

Neonatology. 58(5), 398-405.

64. P. J. Rozance and W. W. Hay(2010), "Describing hypoglycemia--

definition or operational threshold?", Early Hum Dev. 86(5), 275-280.

65. Paul J Rozance (2014), "Update on neonatal hypoglycemia", Current

opinion in endocrinology, diabetes, and obesity. 21(1), 45.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

66. Purnima Samayam, et al. (2015), "Study of asymptomatic hypoglycemia

in full term exclusively breastfed neonates in first 48 hours of life",

Journal of clinical and diagnostic research: JCDR. 9(9), 07.

67. SU Sarıcı, M Ozcan and D Altun (2016), "Neonatal Polycythemia: A

Review", Clinical Medical Reviews and Case Reports, 50-58.

68. Farzana Shaikh, et al. (2016), "Complications of low birth weight babies

during first 72 hours of life", Medical Channel. 22(1).

69. Anudeepa Sharma, Ajuah Davis and Prem S Shekhawat (2017),

"Hypoglycemia in the preterm neonate: etiopathogenesis, diagnosis,

management and long-term outcomes", Translational pediatrics. 6(4),

335.

70. Matthew Signal, et al. (2012), "Impact of retrospective calibration

algorithms on hypoglycemia detection in newborn infants using

continuous glucose monitoring", Diabetes technology & therapeutics.

14(10), 883-890.

71. Michal J Simchen, et al. (2014), "Male disadvantage for neonatal

complications of term infants, especially in small-for-gestational age

neonates", The Journal of Maternal-Fetal & Neonatal Medicine. 27(8),

839-843

.72. Princy Singh, et al. (2017), "Screening for hypoglycemia in exclusively

breastfed high-risk neonates", Indian pediatrics. 54(6), 477-480.

73. Yumkhaibam Premchandra Singh, et al. (2014), "Hypoglycemia in

newborn in Manipur", Journal of Medical Society. 28(2), 108.

74. Dan Song, et al. (2017), "Research on risk factors of neonatal

hypoglycemia", Chinese Journal of Postgraduates of Medicine. 40(11),

989-992.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

75. C. A. Stanley. (2015), "Re-evaluating "transitional neonatal

hypoglycemia": mechanism and implications for management", J

Pediatr. 166(6), 1520-1521.

76. Julie Sternberg, Riccardo E Pfister and Oliver Karam (2017),

"Hypoglycemic relapse in term infants treated with glucose infusion",

Journal of Clinical Neonatology. 6(3), 163.

77. Orhideja Stomnaroska, et al. (2015), "Neonatal hypoglycemia: A

continuing debate in definition and management", prilozi. 36(3), 91-97.

78. Orhideja Stomnaroska, et al. (2017), "Neonatal hypoglycemia: risk

factors and outcomes", prilozi. 38(1), 97-101.

79. Win Tin, et al. (2012), "15-year follow-up of recurrent “hypoglycemia”

in preterm infants", Pediatrics. 130(6), 497-503.

80. Mohammad Torkaman, et al. (2016), "A Comparative Study of Blood

Glucose Measurements Using Glucometer Readings and the Standard

Method in the Diagnosis of Neonatal Hypoglycemia", Iranian Journal of

Neonatology IJN. 7(1), 41-46.

81. FM Trefz, M Feist and I Lorenz (2016), "Hypoglycaemia in hospitalised

neonatal calves: Prevalence, associated conditions and impact on

prognosis", The Veterinary Journal. 217, 103-108.

82. M Vaideeswaran (2018), "Incidence of hypoglycemia in newborns with

risk factors", International Journal of Contemporary Pediatrics. 5(5),

1952.

83. DST Wong, et al. (2013), "Brain injury patterns in hypoglycemia in

neonatal encephalopathy", American Journal of Neuroradiology. 34(7),

1456-1461.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

84. Ju Young Yoon, et al. (2015), "Blood glucose levels within 7 days after

birth in preterm infants according to gestational age", Annals of pediatric

endocrinology & metabolism. 20(4), 213.

85. Alonso Zea-Vera and Theresa J Ochoa (2015), "Challenges in the

diagnosis and management of neonatal sepsis", Journal of tropical

pediatrics. 61(1), 1-13.

86. Wei Zhou, et al. (2015), "Hypoglycemia incidence and risk factors

assessment in hospitalized neonates", The Journal of Maternal-Fetal &

Neonatal Medicine. 28(4), 422-425.

87. Yin Zhou, et al. (2017), "The effect of early feeding on initial glucose

concentrations in term newborns", The Journal of pediatrics. 181, 112-

115.

88. Asril Aminullah, Dita Setiati and Sudigdo Sastroasmoro (2001),

"Hypoglycemia in preterm babies Incidence and risk factors",

Paediatrica Indonesiana. 41(3-4), 82-87.

89. S. Ahmad and R. Khalid (2012), "Blood glucose levels in neonatal sepsis

and probable sepsis and its association with mortality", J Coll Physicians

Surg Pak. 22(1), 15-18.

90. J. C. Lacherade, S. Jacqueminet and J. C. Preiser (2009), "An overview

of hypoglycemia in the critically ill", J Diabetes Sci Technol. 3(6), 1242-

1249.

91. C. B. Sweet, S. Grayson and M. Polak (2013), "Management strategies

for neonatal hypoglycemia", J Pediatr Pharmacol Ther. 18(3), 199-208.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

TIÊU CHUẨN VALERIE FARR

0 1 2 3 4

Màu sắc da Đỏ thẩm Hồng đều Trắng hồng Trắng -

không đều xanh (Ngoài cơn

khóc)

Độ trong Thấy một Thấy tĩnh Thấy rõ một Thấy Không

suốt của da mạng mạch và vài mạch máu không rõ nhìn thấy

mạch nhỏ mạch máu lớn một vài mạch máu

chi chít hướng tâm mạch nào cả

máu lớn

Độ dày hay Rất mỏng Mỏng và Dày trung bình Dày có Nhăn da,

độ mỏng và trơn trơn và trơn cảm giác có khi nứt

của da láng cứng

Phù (ấn đầu Phù rõ ở Godet (+) Không phù - -

trên xương mu bàn

chày) chân, bàn

tay

Lông tơ Nhiều, Thưa ở Từng mảng có Không có Không có

(quay lung dài, dày phần thấp từng mảng trên ít

về phía ánh trên suốt của lưng không nhất một

sáng) dọc lưng nửa lưng

Độ uốn Dẹt, bờ ít Một phần Một nửa trên Toàn bộ -

cong của uốn cong vành tai uốn vành tai uốn vành tai

vành tai cong cong uốn cong

Sụn vành tai Gấp dễ Gấp được, Sụn sờ suốt Vành tai -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dàng, trở về tư thế dọc vành tai, chắc, sụn

không trở bình thường trở về tư thể cứng

về tư thể chậm bình thường

bình nhanh

thường

Cơ quan Không sờ Sờ thấy một Sờ thấy một - -

sinh dục thấy tinh tinh hoàn ở tinh hoàn trong

ngoài trẻ hoàn phần cao bìu

nam trong bìu của ống bẹn

Cơ quan Phân biệt Môi lớn phù Môi lớn trùm - -

sinh dục rõ môi một phần kín môi bé

ngoài trẻ nữ lớn, môi môi bé

bé và âm

môn

Mô vú Không sờ 0,5cm 0,5-1cm >1cm -

thấy

Quầng vú Không Nhìn rõ, Nhìn rõ, quầng - -

nhìn rõ quầng vú vú gồ lên

phẳng

Nếp nhăn Không có Nếp nhăn Nếp nhăn rõ, Nếp nhăn Nếp nhăn

lòng bàn nếp nhăn nông ½ trên hơn ½ trên sâu, hơn sâu trên

chân lòng bàn lòng bàn chân 1/3 trên suốt dọc

lòng bàn lòng bàn chân

chân chân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tương đương giữa tổng số điểm của tiêu chuẩn Farr và tuổi thai

Điểm Tuổi thai Điểm Tuổi thai

5 28,1 19 38,1

6 29 20 38,5

7 29,9 21 39

8 30,8 22 39,4

9 31 23 39,7

10 32,4 24 40

11 33,2 25 43

12 33,5 26 40,6

13 34 27 48

14 34,5 28 41

15 35 29 41,1

16 36,5 30 41,2

17 37,1 31 41,3

18 37,6 32 41,4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

PHỤ LỤC 2

BIỂU ĐỒ LUCHENCO CÂN NẶNG THEO TUỔI THAI

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

PHỤ LỤC 3

Số phiếu nghiên cứu:……..

PHIẾU NGHIÊN CỨU

"Đặc điểm và một số yếu tố nguy cơ HĐM ở trẻ sơ sinh sớm tại Bệnh

viện Trung Ương Thái Nguyên”

I. Phần hành chính:

1. Họ và tên:................................................................

Số vào viện:……….... Mã bệnh án:………………….

PARA : □□□□

( Sinh, sớm, sảy, sống )

2. Ngày sinh:........................... Tuổi………………..

3. Giới:

□ Nam □ Nữ

4. Ngày vào viện: . ...................................... ………………………………

5. Dân tộc: ………………..

6. Địa chỉ:…………………..……………………………………..………...

7. Lý do vào viện: ….………………………………………………………

8. Chẩn đoán: ……………………………………………………………..

II. Đặc điểm liên quan đến mẹ số v/v………….…

1. Tuổi : < 20 □ 20 - 35 □ >35 □

2. Trình độ văn hóa:

Tiểu học □ Trung học □ Cao đẳng, đại học □ Sau đại học □

3. Nghề nghiệp:

Làm ruộng □ Công nhân □ Tự do □ Cán bộ □

4. Tiền sử thai nghén:

Thai suy □

Vỡ ối sớm □

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ối bẩn □

Các bệnh lý khác và thuốc được điều trị:………………………………….

5. Các yếu tố nguy cơ từ mẹ:

Đái tháo đường: □

đường máu tăng .................; đường niệu…………..

Mẹ đẻ có truyền glucose trong lúc chuyển dạ □

□ Mẹ tăng cân > 12 kg

□ Chuyển dạ kéo dài

□ Mẹ sốt trong quá trình chuyển dạ

III. Đặc điểm liên quan tới con:

1.Tiền sử:

Cách sinh :

Đẻ đường dưới □

Mổ lấy thai □

□……………….. Tuổi thai: < 37 tuần

□……………….. 37 - < 41tuần 6 ngày

□……………….. ≥ 42 tuần

Chiều cao:..............cm

Cân nặng:................gram

Vòng đầu:............ cm

2. Phân loại sơ sinh

SSNT □: 1. SSNT BD 2. SSNT TD 3. SSNT QD

SSĐT □: 1. SSĐT BD 2. SSĐT TD 3. SSĐT QD

SSGT □: 1. SSGT BD 2. SSGT TD 3. SSGT QD

3. Bệnh lý giai đoạn sơ sinh:

Ngạt sơ sinh □

Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm □

Đa hồng cầu sơ sinh □

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Dị tật bẩm sinh □

Suy hô hấp □

Vàng da do tăng Bilirubin tự do □

Loại dị tật bẩm sinh:.............. …………………………………………….

4. Dinh dưỡng

Trẻ được ăn sữa mẹ lần đầu sau khi sinh:

□ ≤ 1 giờ

□ > 1 giờ

5. Triệu chứng hạ đường máu

Dễ kích thích □

Hạ thân nhiệt □

Co giật □

Xanh tím □

Li bì □

Ngưng thở □

Không có triệu chứng hạ đường máu □

IV. Cận lâm sàng:

Glucose máu: Lần 1:..........lần 2:.......... mmol/l)

HCT: lần1...........lần 2…….... (%)

BC : lần1...........lần 2……… (109/l)

CRP: lần1...........lần2............. (mg/l)

Billirubintp. . ....................Biltt.....................Bilgt...................(mmol/l)

Xét nghiệm khác: .......................................................................................

Người thực hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn