Hải Sâm - thuốc bổ thận ích tinh
Hải sâm có tên khoa
học là Stichopus
japonicus selenka
thuộc loại động vật
thân mềm, thân hình
dài, da có lông, xương
trong nằm ngay dưới
da. Hải sâm cư trú tại
Hải sâm các thảm san hô chết
hay dưới đáy biển,
nhiều nhất thấy ở độ sâu từ 2-5m.
Hải sâm vừa là loại thực phẩm biển tuyệt hảo,
được coi là món ăn bổ dưỡng và khoái khẩu tại
các nước như: Malaysia, Trung Quốc, Nhật Bản,
Indonesia, vừa là vị thuốc có công năng bổ thận
ích tinh.
Hải hâm trong đông y
Ở nước ta, hải sâm thấy nhiều ở vùng biển Khánh
Hòa hay biển đảo Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc,
Thổ Chu… Ngoài ra, còn thấy hải sâm phân bố khá
nhiều, tại các vùng biển Tây và Nam Thái Bình
Dương, Đông Ấn Độ, Đông châu Phi… Gần đây, với
xu thế hướng Đông, các thầy thuốc Đông y luôn tìm
lại những giá trị tuyệt hảo không những về dinh
dưỡng, mà còn thiên nhiều về giá trị dược lý của
nhiều loại cây cỏ động vật, trong đó không thể thiếu
hải sâm.
Hải sâm được sử dụng trong các phương thuốc cổ
truyền hay dưới dạng thực phẩm chức năng hoặc
dạng thực phẩm thuốc, nhằm khai thác chế phẩm
tăng lực, giàu hoạt tính sinh học có nguồn gốc tự
nhiên, mà xu thế thời đại cho rằng là loại thuốc có giá
trị bền vững và độ an toàn cao.
Đông y cho rằng, hải sâm có vị mặn, tính ấm đi vào
các kinh Tâm, Tỳ, Thận và Phế. Có công năng bổ
thận ích tinh, thêm tinh tủy, tráng dương, sát khuẩn,
dưỡng huyết, nhuận táo, sử dụng trị mọi chứng hư
lao như: các chứng huyết hao tổn, hư nhược, liệt
dương, di tinh, mộng tinh, tiểu tiện nhiều lần, táo bón,
lị kinh niên. Liều dùng trung bình cho mỗi ngày là 12-
20g, có khi tới 40g. Thứ hải sâm to lớn, mình có gai
gọi là hải sâm tử, sắc xanh đen, mềm là loại tốt.
Trong nhiều y thư cổ như: Bản thảo tùng tân, Bản
thảo nhiếp yếu, Cương mục thập di, Dược tính chỉ
nam… đều nói hải sâm bổ được thận kinh, ích tinh
tủy, tiêu đờm dãi, có tính tráng dương đạo, sát khuẩn,
chữa trị được chứng lở có sâu, lại giáng được hỏa,
bổ ích thận, thông lợi tràng vị, nhuận chỗ táo kết, trị
mọi chứng hư lao, ốm yếu gầy còm. Đặc biệt là tác
dụng bổ ích cường tráng (y học hiện đại thấy sự có
mặt của testosterol trong hải sâm nên công hiệu bổ
thận điều tinh, thích hợp với các phương trị liệu
chứng di tinh liệt dương, tiểu tiện đêm nhiều… Đặc
biệt có khả năng kháng ung nên còn được phối hợp
trong trị liệu ung thư…
Bởi thế, ngay từ xa xưa hải sâm đã được coi như một
trong tứ đại danh thái (bốn loại thực phẩm nổi tiếng),
sánh cùng óc khỉ, tay gấu, yến sào của ẩm thực cổ
truyền phương Đông nên được mệnh danh là “Nhân
sâm của biển cả”. Song về mặt thực phẩm, có nhiều y
gia đã coi thịt hải sâm ngang tầm với tám món ăn cao
lương mỹ vị nổi tiếng trong “bát trân” của phương
Đông, mà ngày xưa vẫn được sử dụng trong cung
đình.
Phương thuốc trị bệnh tiêu biểu từ hải sâm
Trị suy nhược thần kinh do thận hư (biểu hiện đầu
choáng váng, mắt hoa, lưng đau, gối mỏi, tai ù, điếc,
mất ngủ, di tinh, xuất tinh sớm): dùng hải sâm 30g,
gạo nếp 100g, cho cả 2 thứ ninh nhừ thành cháo,
nêm gia vị vừa miệng và ăn ngày 1 liều chia vài lần,
cần ăn trong 5 - 7 ngày liền.
Trị chứng đái tháo đường: hải sâm 2 con, trứng gà 1
quả, tụy lợn 1 cái, cho cả 3 thứ vào bát hấp chín và
ăn ngày 1 lần, cần ăn liền 5 - 7 ngày.
Chữa chứng huyết áp cao (kể cả xơ vữa động mạch):
dùng hải sâm 50g, cho hầm nhừ, thêm chút đường
phèn và ăn hết trong ngày, cần ăn 7 ngày liền.
Chữa đau lưng và suy giảm trí nhớ do thận hư: dùng
hải sâm 30g, xương sống lợn 60g, hạch đào nhân
15g, cho vào hầm nhừ, nêm đủ gia vị vừa miệng,
ngày ăn 1 lần, cần ăn 5 ngày.
Trị dương nuy (liệt dương): HS 20g, thịt dê 100g, hai
thứ hầm chung đến nhừ, nêm đủ gia vị ăn 1 lần trong
ngày. Cần ăn 5-7 ngày.
Trị liệt dương, di tinh, tinh lạnh, do thận hư (loại làm
hoàn): dùng hải sâm 480g (sao thơm), hạch đào nhân
100 hạt, thận dê 4-6 đôi, đỗ trọng 240g, thỏ ty tử
240g, ba kích 124g (tẩm nước cam thảo sao), câu kỷ
tử 120g, lộc giác giao 120g, bổ cốt chỉ 120g (sao với
muối), đương quy 120g, ngưu tất 120g (tẩm giấm
sao), quy bản 120g (sao với giấm), sau đó tất cả sấy
khô tán bột mịn, trộn đều luyện với mật ong làm hoàn,
mỗi viên nặng 9g, ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 viên
(27g).
Chữa động kinh: dùng nội tạng của hải sâm sấy khô
nghiền bột, mỗi lần uống 12g, chiêu với rượu vàng
(rượu vàng là loại rượu được cất từ loại cơm nâu bởi
3 loại: gạo nếp, gạo tẻ, kê hạt vàng rồi rải mỏng cho
nguội nhưng còn ấm, rắc men rượu đã tán nhỏ trộn
đều, ủ thành cái rượu lấy ngâm nước cất thành rượu
có màu vàng, độ cồn thấp có tác dụng thông hành
huyết mạch, dưỡng huyết nhuận da), uống liên tục 7-
10 ngày liền.
Chữa thiếu máu: hải sâm, đại táo lượng bằng nhau,
đem sấy khô tán bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 9g,
chiêu với nước ấm hoặc lấy 1 con hải sâm hầm cùng
mộc nhĩ, lấy nước pha chút đường phèn vừa ngọt
uống cùng, sau ăn cái.
Trị trĩ xuất huyết: lấy hải sâm lượng vừa đủ đốt tồn
tính, tán bột, mỗi lần uống 1,5g hòa với a giao 6g
trong nước sôi cho tan mà uống. Ngày uống 3 lần,
cần uống 5-7 ngày.
Táo bón do âm hư: hải sâm 30g, đại tràng lợn 120g,
mộc nhĩ đen 15g, 3 thứ cho vào hầm nhừ ăn ngày 1
lần, cần ăn liền trong nhiều ngày.