Hàng xóm

TRUYỆN NGẮN CỦA CHU THÙY ANH

Hàng xóm này cụ thể là hàng xóm ở đối diện. Tầng có tất cả chín nhà, quây xung quanh

cái cầu thang máy. Thực ra thì không có nhà nào thực là đối diện nhà nào cả, nhưng nhìn

chênh chếch vẫn có thể thấy được cửa nhà nhau. Nhà này, là hàng xóm nhìn chênh chếch

có thể thấy được cửa nhà ông. Cũng tức là, nhà ông, nhìn chênh chếch thấy được cửa nhà

ấy.

Thường thì các nhà cửa đóng then cài cẩn mật. Không hẳn vì sợ trộm cắp, trộm làm sao

đi qua được phòng bảo vệ ở tầng một, ấn thang máy qua mười ba tầng lên đến tận đây, rồi

làm sao phá được khóa cửa sắt để vào nhà, thật cũng lắm gian nan. Nhưng là thói quen

thế, nhà nào cũng khóa cả cửa sắt bên ngoài và cửa gỗ bên trong. Giữa cửa sắt và cửa gỗ

có năm mươi phân cách biệt, không hiểu người ta thiết kế như thế để làm gì, năm mươi

phân thì để vừa được gì và ai cần để cái gì giữa cửa sắt và cửa gỗ. Thực ra chẳng có nhà

nào để gì cả, trừ nhà hàng xóm ấy. Mỗi lần ông nhìn chênh chếch sang, đều thấy mấy đôi

dép xếp thẳng hàng. Bốn đôi người lớn và hai đôi trẻ con vào ngày nghỉ. Hai đôi người

lớn vào giờ hành chính ngày trong tuần. Lại đủ bốn đôi người lớn và hai đôi trẻ con sau

sáu giờ chiều từ thứ hai đến thứ sáu. Chỉ có nhà ấy là xếp dép vào khoảng năm mươi

phân giữa hai lớp cửa. Có khi là dép, có khi là giày. Nhìn cỡ thì biết có một bé trai và một

bé gái, đâu đó tầm mươi mười ba tuổi. Nhưng ông cũng chỉ biết đến thế. Ông sống ở đây

một năm trời rồi mà chưa nhìn thấy nhà hàng xóm ấy bao giờ. Những hàng xóm khác có

thi thoảng gặp, cười cười “bác ạ” rồi ai khép cửa nhà nấy. Riêng nhà có sáu đôi dép thì

chưa bao giờ thấy mở cửa, chỉ có những đôi dép lần lượt đảo chỗ cho nhau

Thực ra ông chẳng cố tình nhìn vào nhà ấy làm gì. Mỗi người đã có cửa của mình, ai

bước vào cửa nấy. Chẳng qua chỉ một lần vô tình lúc mở cửa, hôm ấy chắc giở giời,

người ngợm thế nào cứ uể oải, làm gì cũng chậm chạp hơn, ông bỗng thấy đôi dép xỏ

ngón màu hồng có nơ be bé, ở bên kia cửa sắt nhà chênh chếch đối diện. Giống như là

đương lướt mắt qua cả vệt hành lang, cái nhìn bỗng mắc lại ở chỗ nơ hồng ấy. Đôi dép

xinh xinh chắc của bé gái độ tám, mười tuổi. Chắc bằng tuổi cháu ông. Cháu tuần về chơi

với ông một lần. Tuần nào bố mẹ nó bận thì có thể may mắn hơn, cháu sẽ được gửi qua

đêm với ông; hoặc, có thể ít may mắn hơn, vì bận mà chẳng buồn đưa cháu về nữa.

Nhưng đúng lịch thì một tuần sẽ có một lần hai ông cháu gặp nhau. Bố mẹ nó về đây ăn

uống thăm hỏi một ngày, rồi sáu ngày tiếp theo ông lại tự ăn uống thăm hỏi một mình,

chờ đến chủ nhật. Cái gì là quen rồi thì cũng thấy bình thường thôi. Hằng ngày ông dậy

vào giờ của ông, ăn uống kiểu của ông. Cách một ngày có một người đến dọn dẹp, chuẩn

bị đồ ăn cho ông. Ông vẫn còn khỏe, vẫn tự cho mọi thứ vào lò vi sóng, hoặc bắc bếp làm

nóng được. Ông có hội cờ tướng của ông, có hội tập thể dục hàng sáng và hàng chiều của

ông. Nói thực lòng là thi thoảng cũng mong ngóng chủ nhật lắm. Nhưng để sống cho qua

được sáu ngày để đến chủ nhật tiếp theo cũng không phải là khó khăn, vì ông đã quen rồi.

Hơn nữa người già ở thế này cũng tiện, mọi thứ trên một mặt bằng, không lên xuống cầu

thang, đỡ lo ngã. Ông cũng được sinh hoạt cái kiểu của ông.

Chỉ có hôm ấy, chắc vì giời đổi tiết, thành ra mắt ông mắc lại ở cái nơ hồng be bé ấy.

Ông nhìn đôi dép một hồi lâu, nhìn sáu đôi dép một hồi lâu, rồi từ tốn khép cửa, khóa lại

cẩn thận trước khi bước vào thang máy. Ông xuống nhà đi dạo ba vòng hít thật đầy khí

trời buổi tối, mát lành dễ chịu. Thế mà đêm ấy vẫn trằn trọc mãi không sao ngủ được.

Từ hôm ấy ông bỗng chú ý đến nhà hàng xóm có sáu đôi dép hơn.

Ông từng chờ rất nhiều lần xem hàng xóm của mình là ai. ở chung cư này đa phần là các

gia đình trẻ, có vài nhà như ông, sống một mình. Rất hiếm những gia đình nhiều thế hệ.

Nên cái cửa ấy càng làm ông tò mò hơn. Thế nhưng hình như hàng xóm cứ chờ ông bận

bịu đâu đó không ngó ra cửa được thì mới đi ra đi vào. Bẵng đi một cái, ông lại thấy dép

xếp lại rồi, lần nào ông cũng tiếc rẻ vì những việc linh tinh mà không gặp hàng xóm của

mình được. Ông có cả một ngày để làm những việc linh tinh, thế mà thế nào lại toàn làm

lỡ dịp gặp hàng xóm, lại là hàng xóm đặc biệt, kể cũng thấy tiếc.

Cho đến một ngày, khi ông đã thôi ý định ngồi ngóng ra cửa chỉ để chờ gặp hàng xóm,

thì bỗng dưng lại gặp bà. Bà bé nhỏ, chắc quãng tuổi ông, hoặc nhiều ít hơn đôi chút.

Ông gặp bà trong thang máy, lên cùng một tầng. Đôi mắt bà đỏ hoe, đầu mũi cũng đỏ. Bà

im lặng không nhìn ai, chờ mọi người ra hết rồi mới bước ra khỏi thang, đi về cửa căn hộ

ấy. Bà bước vào nhà, bên cạnh một đôi dép đàn ông đã xếp sẵn ở cửa, giờ xếp thêm đôi

dép phụ nữ. Ông cứ đứng nhìn từ cửa nhà mình, vì bất ngờ quá. Ông đã chờ đợi bao

nhiêu lần để gặp được hàng xóm của mình, đã mường tượng ra cảnh cả gia đình họ ríu rít

dắt nhau vào thang máy thế nào. Đâu ngờ một ngày gặp được hàng xóm, lại là một người

đàn bà bé nhỏ vừa rấm rứt khóc xong.

Vì ông có cả một ngày để làm những gì mình muốn, có đến sáu ngày như thế trong tuần,

nên ông không thể thôi suy nghĩ về chuyện làm thế nào gặp lại hàng xóm của mình. Vào

cái tuổi ấy mà khóc hẳn phải vì lý do gì ghê gớm lắm. Dỗi chồng dỗi con hay là bị ngược

đãi. Ngoài cửa trông vào tưởng là êm ấm thế, bên ngoài nghe ngóng cũng chẳng thấy cãi

cọ bao giờ. Nào có ai ngờ. Ông không biết có nên báo tổ dân phố không. Thực ra ở chung

cư thì tổ trưởng tổ dân phố cũng chỉ để một năm đi dạo vài vòng quanh các nhà. Hơn nữa

ông chưa biết cụ thể việc gì diễn ra, bỗng dưng đi báo cũng buồn cười. Chẳng nhẽ bảo

trong thang máy tôi gặp bà ấy sống ở số nhà ấy mắt đỏ hoe như thế ấy, bác tổ trưởng đi

kiểm tra tình hình gia đình văn hóa giúp tôi? Mà thực ra từ khi về sống ở đây đến giờ ông

đã bao giờ gặp tổ trưởng tổ dân phố đâu. Lần nào có ai ấn chuông ông cũng coi như

không có người ở nhà, không mở. Các loại hóa đơn nhờ trả hết ở phòng quản trị tầng

một. Không ai bước chân vào nhà ông được. Ông không muốn ai nhìn thấy một tủ giày

chỉ có vài đôi, cùng một cỡ, của ông.

Thế nhưng ông muốn sang ấn chuông nhà hàng xóm ghê gớm. Sự tò mò về sáu đôi dép

lớn một, thì tò mò về đôi mắt ướt nhẹp đỏ hoe của bà hàng xóm phải lớn gấp mười. Ông

cứ nghĩ mãi, ở cái tuổi này còn gì có thể làm cho người ta khóc? Trừ sự tủi thân. Hoặc

mất mát. Nhưng sau hôm ấy sáu đôi dép vẫn xếp ngay ngắn vào đúng khoảng thời gian

như mọi khi. Không có gì xáo trộn. Nhìn từ ngoài cửa, nghe từ hành lang, thì căn hộ ấy

vẫn sống cùng một nhịp cứ như bà lão chưa bao giờ khóc cả.

***

Đến một ngày, nghĩ mãi vẫn chẳng có cớ gì, nhưng ông vẫn sang ấn chuông nhà hàng

xóm. Là cứ ấn thế chứ không mong có ai mở cửa cho mình, mà có mở ông cũng chẳng

biết phải nói câu gì. Thế mà rồi cửa lại mở. Bà lão he hé cửa chào ông. Ông, bất ngờ quá,

không biết nói gì, tự dưng lại xin bà một phích nước.

Phiền bác quá, ấm đun nước nhà tôi bỗng dưng lại hỏng, các cháu thì đi làm hết rồi, thèm

ấm trà mà không pha được...

Thế mà bà lão mở hẳn cửa ra. Mời ông vào.

Ông được mời trà ngay ở căn hộ bên ấy, không cần xin phích nước về nhà mình nữa.

Căn hộ này áng chừng cũng rộng như căn hộ của ông, cũng ngần ấy cánh cửa khép. Nhà

có trẻ con mà gọn gàng ngăn nắp. Trên bàn để mấy khung ảnh, có một cái ảnh bà lão với

con chó con, chụp chừng đã lâu lắm rồi; còn lại là rất nhiều ảnh chó, hình như cùng một

con, qua những năm tháng khác nhau. Bên bậu cửa sổ có mấy cây hoa lốm đốm những

chấm xanh lơ.

Bà mời ông dùng trà, hỏi han những câu rất cơ bản như khi người ta đi hết một hàng cau,

qua cái cổng duối, bước vào sân là có thể hỏi nhau. Bà hỏi ra bác cũng ở đây, bác ở đây

lâu chưa, các cháu công tác thế nào...

Câu chuyện bắt đầu như thế. Mắt bà hôm nay không đỏ. Thế nên ông không biết phải bắt

đầu cái phần chính yếu của sự tò mò như thế nào. Uống hết cả ấm trà (thực ra lâu lắm rồi

ông không uống, thế này khéo đủ để mất ngủ nguyên một tuần), câu chuyện vẫn do ông

kể. Rằng tôi sống bên nhà ấy số ấy, các cháu công tác ổn, các cháu có một cháu gái rồi, à

mà cháu gái tôi chắc bằng cháu gái bà, tự dưng ông buột miệng thế. Xong im lặng. Nào

ông đã gặp cháu gái bà bao giờ. Bà cũng im. Lặng. Ông không biết nói sao đành thú thật

mình đã nhìn rất lâu, rất nhiều lần vào sáu đôi dép, trong đó có một đôi xỏ ngón nơ hồng,

mà ông đồ rằng chắc của cháu gái bà.

Bà vẫn không nói gì.

Ông thấy cứ lặng như thế này, ở tầng mười bốn thậm chí không có cả muỗi bay để nghe

tiếng vo ve, thật là nghẹt thở quá. Rốt cục ông đứng dậy, nói cố một câu trước khi về:

Thực ra tôi ở đây có một mình thôi. Các cháu cuối tuần mới về

...

Bà một lúc mới cất lời, chẳng ngước lên nhìn ông:

Thực ra tôi cũng ở đây có một mình thôi. Tôi thậm chí chẳng có các cháu để cuối tuần về.

Sáu đôi dép tôi tự mua tự xếp đấy. Để tự thấy rằng mình ấm áp.

Ông đứng lên rồi lại ngồi xuống. Nhìn bà. Kinh ngạc.

Bà dừng một hồi rồi tiếp:

Trước đây tôi còn có con chó, sống cùng tôi từ mười bốn năm nay, từ trước cả khi chuyển

về đây ở. Về đây biết là người ta cấm nuôi động vật, nhưng tôi vẫn nuôi giấu. Tôi nuôi nó

từ thuở lọt lòng, nó coi tôi như mẹ, tôi coi nó như con, không có nó tôi chẳng có ai.

Nhưng đến nó cũng ra đi rồi. Tôi đành đem chôn. Có mỗi tôi khóc cho nó. Tôi cũng chỉ

có mỗi nó để khóc mà thôi.. .

Bà nói một hơi dài mắt từ từ ậng nước. Ông chuyển từ kinh ngạc sang bối rối. Ông đã

sang ấn chuông vì muốn nhìn sâu hơn một chút vào cửa căn hộ này. Trước cửa có xếp

sáu đôi dép, bốn đôi người lớn và hai đôi trẻ con.

Ông xoay xoay cốc trà đã cạn, không biết làm gì với bà lão mắt đã lại đỏ hoe, vết đỏ lan

ra đến tận đầu mũi. Xoay cốc đủ hai mươi chín vòng thì ông nói, rồi dứt khoát đứng lên

đi về trước khi vệt đỏ ấy lan sang cả mắt rồi tràn xuống đầu mũi ông mất.

Xin phép bác, chủ nhật cho ông cháu tôi sang đây xin phích nước nóng.