
vietnam medical journal n01 - MARCH - 2020
86
thư vú giai đoạn II, III, Luận án Tiến sĩ Y học, Đại
học Y Hà Nội.
3. General principles of neoadjuvant management
of breast cancer. <https:// www.uptodate.com/
contents/general-principles-of-neoadjuvant-
management- of-breast-cancer>.
4. R. Catane and B.Kauffman (2010). Dose-dense
neoadjuvant chemotherapy in breast cancer. J Clin
Oncol, 23(16), 807–10.
5. Wang M., Hou L., Chen M., et al. (2017).
Neoadjuvant Chemotherapy Creates Surgery
Opportunities For Inoperable Locally Advanced
Breast Cancer. Sci Rep, 7(1), 44673.
6. Pierga J.-Y., Mouret E., Laurence V., et al.
(2003). Prognostic factors for survival after
neoadjuvant chemotherapy in operable breast cancer.
European Journal of Cancer, 39(8), 1089–1096.
7. Ustaalioglu B.B.O., Gumus M., Bilici A., et al.
(2010). Neoadjuvant chemotherapy for locally
advanced breast cancer: a single center
experience. Med Oncol, 27(2), 454–458.
HIỆU QUẢ GẠN TÁCH BẠCH CẦU Ở MỘT SỐ BỆNH MÁU
TẠI VIỆN HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG
Dương Doãn Thin1, Nguyn H Thanh1, Bạch Quốc Khánh1,
Lê Xuân Hải1, Nguyn Triu Vân1, Nguyn Anh Trí1
TÓM TẮT22
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả gạn tách
bạch cầu ở một số bệnh máu tại Viện Huyết học -
Truyền máu trung ương. Phương pháp nghiên cứu:
gồm 203 bệnh nhân có số lượng bạch cầu tăng cao
≥100 G/L (lơ xê mi cấp dòng lympho: 33 bệnh nhân;
lơ xê mi cấp dòng tủy: 58 bệnh nhân; lơ xê mi kinh
dòng lympho: 09 bệnh nhân và lơ xê mi kinh dòng
hạt: 103 BN). Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp
theo dõi dọc hiệu suất gạn tách bạch cầu ngay sau
gạn, sau gạn 12 giờ và 24 giờ. Kết quả nghiên cứu:
hiệu suất gạn tách bạch cầu ở thời điểm ngay sau gạn
tách là 33,4%; sau gạn tách 12 giờ là 42,8% và sau
24 giờ là 60,1%. Sau gạn tách bạch cầu 24 giờ các
triệu chứng ứ trệ bạch cầu giảm rõ rệt: đau lách giảm
từ 56,7% xuống 18,2%; đau đầu giảm từ 46,3%
xuống 5,4%; sưng chi giảm từ 4,9% xuống 1,5%; đau
chi giảm từ 4,4% xuống 1,5% (p<0,001).
Từ khóa:
bạch cầu, lơ xê mi, gạn tách bạch cầu.
SUMMARY
EFFICIENCY OF LEUKAPHERESIS IN SOME
BLOOD DISEASES AT NATIONAL INSTITUTE OF
HEMATOLOGY AND BLOOD TRANSFUSION
Objectives of the study: To evaluate the
effectiveness of leukapheresis in some blood diseases
at National Institute of Hematology and Blood
Transfusion. Research method: 203 patients had white
blood cell count ≥100 G/L (Acute Lymphoblastic
Leukemia: 33 patients; Acute Myelogenous Leukemia:
58 patients; Chronic lymphocytic leukemia: 09 patients
and Chronic Myelogenous Leukemia: 103 patients).
The study described cross-sectional combination with
vertical monitoring of efficiency of leukapheresis after
leukapheresis, after 12 hours and 24 hours. Research
1Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương
Chịu trách nhiệm chính: Dương Doãn Thiện
Email: drthienhn@gmail.com
Ngày nhận bài: 2.01.2020
Ngày phản biện khoa học: 21.2.2020
Ngày duyệt bài: 27.2.2020
results: efficiency of leukapheresis at the time
immediately after leukapheresis was 33.4%; after 12
hours was 42.8% and after 24 hours was 60.1%. After
leukapheresis 24 hours, the symptoms of leukostasis
decreased significantly: splenic pain decreased from
56.7% to 18.2%; headache decreased from 46.3% to
5.4%; swelling of the limb decreased from 4.9% to
1.5%; Pain of the limb decreased from 4.4% to 1.5%
(p<0.001).
Keywords:
leukocytes, leukemia, leukapheresis.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gạn bạch cầu (BC) giúp làm giảm nhanh
chóng số lượng BC (SLBC) sau mỗi lần gạn. Bên
cạnh đó nhờ việc loại bỏ nhanh chóng các tế bào
non đang lưu hành trong lòng mạch máu nên
các tế bào ở vị trí ngoài mạch và vi tuần hoàn sẽ
di chuyển vào khoảng trống trong lòng mạch làm
giảm nguy cơ kết dính tại vi mạch [1],[2],[3],
[4]. Gạn BC cũng làm giảm hội chứng tiêu khối u
đặc biệt là khi BN điều trị hoá chất. Có thể tiến
hành gạn BC trong các trường hợp chống chỉ
định và hạn chế dùng hoá trị liệu như phụ nữ
mang thai và người suy chức năng gan thận [5],
[6],[7],[8]. Trong một chu kỳ gạn tách, SLBC có
thể giảm được từ 10- 70%. Các chu kỳ gạn tách
có thể được lặp lại hàng ngày và có thể ngừng
khi hết các triệu chứng của ứ trệ BC và/hoặc
SLBC giảm dưới ngưỡng “kịch phát”: 100 G/l đối
với lơ xê mi (LXM) cấp dòng tủy và 300 G/l đối
với LXM cấp dòng lympho và các thể LXM khác
như lơ xê mi kinh dòng hạt (LXMKDH). Yilmaz D.
và cs. (2014) cho rằng tăng BC ở những bệnh
nhân (BN) LXM có liên quan đến tỷ lệ tử vong
sớm, đặc biệt là do các biến chứng hô hấp và
thần kinh do tắc mạch. Việc sử dụng kịp thời
phương pháp gạn tách BC có thể cải thiện sự
sống cho BN trong giai đoạn ban đầu.
Nghiên cứu được tiến hành nhằm:
Đánh giá