
vietnam medical journal n01 - MARCH - 2020
148
soát huyết áp ở nhóm hạ huyết áp tư thế đứng
chỉ có 39,3% thấp hơn nhiều so với nhóm không
hạ huyết áp tư thế là 58,7%. Qua phân tích đơn
biến, khả năng kiểm soát huyết áp của nhóm hạ
huyết áp tư thế chỉ bằng 0,456 lần so với nhóm
không bị hạ huyết áp tư thế đứng với p=0,007.
Như vậy hạ huyết áp tư thế đứng là một rào cản
đối với việc kiểm soát tốt huyết áp ở NCT.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với
nhận định của Shen SS và cộng sựkhi nghiên
cứu mối liên quan giữa việc không kiểm soát
huyết áp và hạ huyết áp tư thế đứng với việc
đứng thăng bằng của bệnh nhân cao tuổi có THA
nhận thấy, tỷ lệ không kiểm soát của nhóm hạ
huyết áp tư thế là 63,9% cao hơn đáng kể so với
nhóm không hạ huyết áp tư thế là 27,9% với
p<0,001[7].
Valbusa trong nghiên cứu về NCT của mình
cũng cho rằng hạ huyết áp tư thế xảy ra thường
xuyên hơn ở nhóm bệnh nhân có huyết áp không
được kiểm soát [8]. Tác giả cho rằng, bệnh nhân
không kiểm soát được huyết áp thường có tình
trạng lợi tiểu về đêm do huyết áp cao dẫn đến
giảm thể tích tuần hoàn và làm trầm trọng hơn
tình trạng hạ huyết áp tư thế đứng.
Đối với NCT có THA, hạ huyết áp tư thế
thường khiến người bệnh tự dừng uống thuốc hạ
huyết áp để hạn chế cơn hạ huyết áp tư thế,
giảm chóng mặt và té ngã. Mặt khác các thầy
thuốc cũng được khuyến cáo dùng thuốc nên
điều chỉnh phù hợp với mức huyết áp thấp và
đây có lẽ là các lý do khiến cho kiểm soát huyết
áp ở bệnh nhân có hạ huyết áp tư thế đứng khó
khăn hơn.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu 390 bệnh nhân cao tuổi có THA
điều trị tại phòng khám Khoa Điều trị cán bộ cao
cấp bệnh viện Quân y 175, chúng tôi rút ra một
số kết luận:
- Tỷ lệ hạ huyết áp tư thế đứng là 14,4%.
- NCT có THA nếu bị hạ huyết áp tư thế đứng
thì khả năng kiểm soát huyết áp thấp hơn những
bệnh nhân không bị hạ huyết áp tư thế đứng (OR
= 0,456; 95% CI = 0,26 – 8,81) với p=0,007.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thắng và cs (2003), “Tìm hiểu tỷ lệ hạ
huyết áp tư thế ở người già sống tại cộng đồng”,
Tạp chí nội khoa, 3, tr 6-11.
2. Nguyễn Văn Trí (2014). Điều trị tăng huyết áp ở
người cao tuổi. Chuyên đề tim mạch học. Hội tim
mạch học Tp Hồ Chí Minh.
3. Vũ Mai Hương (2003), Tìm hiểu tỷ lệ hạ huyết
áp tư thế đứng một số yếu tố nguy cơ ở người cao
tuổi tại một thị xã và tại Viện Lão khoa, Luận án
tốt nghiệp chuyên khoa 2, Đại học Y Hà nội.
4. Barochiner J et al, (2012). “Orthstatic
hypotension in Treated hypertension patients”
Rom.J. Intern.Med, 50 (3), pp. 203 – 209.
5. Beckett NS, Ruth Peters et al (2008), “Treatment
of Hypertension in Patients 80 Years of Age or Older”,
N Engl J Med, 358, pp: 1887-1898 (HYVET).
6. Fedorowski A, Wahlstrand B et al (2014),
“Systolic and diastolic component of orthostatic
hypotension and cardiovascular events in
hypertensive patients: the Captopril Prevention
Project “, J Hypertens, 32(1), pp:5-81.
7. Shen SS, He T, et al, (2015), “Uncontrolled
hypertension and orthostatic hypotension in relation
to standing balance in elderly hypertensive patients”,
Journal List Clin Interv Agingv, 10, pp. 897-906.
8. Valbusa F et al (2012). “Orthstatic hypotension
in very old subject living in nursing home: the
PARTAGE study”. Hypertens, 30, pp. 53 -60.
HIỆU QUẢ GẠN TÁCH TIỂU CẦU Ở MỘT SỐ BỆNH MÁU
TẠI VIỆN HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU TRUNG ƯƠNG
Dương Doãn Thin1, Nguyn H Thanh1, Bạch Quốc Khánh1,
Lê Xuân Hải1, Nguyn Triu Vân1, Nguyn Anh Trí1
TÓM TẮT38
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả gạn
tách tiểu cầu ở một số bệnh máu tại Viện Huyết học -
Truyền máu trung ương. Phương pháp nghiên cứu:
gồm 147 bệnh nhân có số lượng tiểu cầu tăng cao
1Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương
Chịu trách nhiệm chính: Dương Doãn Thiện
Email: drthienhn@gmail.com
Ngày nhận bài: 23.01.2020
Ngày phản biện khoa học: 24.2.2020
Ngày duyệt bài: 28.2.2020
≥1000 G/L (16 bệnh nhân lơ xê mi kinh dòng hạt và
131 bệnh nhân tăng tiểu cầu tiên phát). Nghiên cứu
mô tả cắt ngang kết hợp theo dõi dọc hiệu suất gạn
tách tiểu cầu ngay sau gạn, sau gạn 12 giờ và 24 giờ.
Kết quả nghiên cứu: Hiệu suất gạn tách tiểu cầu ở
thời điểm ngay sau gạn tách là 47,9%; sau gạn tách
12 giờ là 45,5% và sau 24 giờ là 44,3%. Hiệu suất
gạn tiểu cầu của nhóm có số lượng tiểu cầu <1500 G/l
không khác biệt so với nhóm ≥1500 G/l (p>0,05). Sau
gạn tách tiểu cầu 24 giờ các triệu chứng ứ trệ tiểu cầu
giảm rõ rệt: đau lách giảm từ 7,5% xuống 3,4%; đau
đầu giảm từ 50,3% xuống 4,8%; sưng chi giảm từ
7,5% xuống 0,7%; đau chi giảm từ 9,5% xuống 0,7%
và tê bì chi giảm từ 45,6% xuống 5,4%, (p<0,001).