ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

------------------

NGUYỄN BÁ HÙNG

HÓA THẠCH HAI MẢNH VỎ DEVON SỚM VÙNG TÔ MÚA,

HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA VÀ Ý NGHĨA

ĐỊA TẦNG CỦA CHÚNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

-----------------

NGUYỄN BÁ HÙNG

HÓA THẠCH HAI MẢNH VỎ DEVON SỚM VÙNG TÔ MÚA,

HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA VÀ Ý NGHĨA

ĐỊA TẦNG CỦA CHÚNG

Chuyên ngành: Địa chất học

Mã số: 8440201.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

GS. TSKH. Tống Duy Thanh TS. Nguyễn Thùy Dương

Hà Nội - 2020

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này tác giả đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và động viên của giáo viên hướng dẫn, các chuyên gia trong ngành cổ sinh và bạn bè đồng nghiệp. Tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:

- TS. Nguyễn Thùy Dương (khoa Địa chất, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) người đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.

- TS. Nguyễn Hữu Hùng (Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) và TS. Đặng Trần Huyên (Hội Cổ sinh – Địa tầng Việt Nam) đã hướng dẫn, truyền đạt những kinh nghiệm quý báu và chỉ bảo tác giả nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ.

- ThS. Doãn Đinh Hùng chủ nhiệm Dự án thành phần “Xây dựng Bộ sưu tập mẫu Cổ sinh Việt Nam” mã số BSTMV.28/15-18 (Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình học, cho tác giả tham gia khảo sát thực địa, thu thập mẫu và cho phép tác giả sử dụng Bộ mẫu của Dự án cho luận văn này.

Mặc dù đã cố gắng, nỗ lực hết mình song chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự thông cảm và chỉ bảo tận tình từ quý thầy cô và các bạn.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................5 CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ VÙNG NGHIÊN CỨU.......................................7 1.1. Vị trí địa lý...............................................................................................7 1.2. Đặc điểm địa chất vùng nghiên cứu.........................................................8 1.2.1. Địa tầng.....................................................................................9 1.2.2. Magma....................................................................................19 1.3. Địa tầng chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng..........................20 1.3.1. Lịch sử nghiên cứu địa chất mặt cắt đèo Bó Mồng.................20 1.3.2. Địa tầng chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ....................................20 CHƯƠNG 2. CƠ SỞ TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............22 2.1. Cơ sở tài liệu..........................................................................................22 2.2. Phương pháp nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ..................................22 2.2.1. Phương pháp thu thập mẫu ngoài thực địa..............................22 2.2.2. Phương pháp gia công mẫu và chụp ảnh.................................25 2.2.3. Phương pháp mô tả và định loại..............................................27 2.2.4. Phương pháp nghiên cứu địa tầng...........................................28 2.2.5. Phương pháp cổ sinh thái........................................................28 2.3. Đặc điểm hình thái chung hóa thạch Hai mảnh vỏ.................................29 CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM HÓA THẠCH HAI MẢNH VỎ DEVON SỚM VÙNG TÔ MÚA VÀ Ý NGHĨA ĐỊA TẦNG CỦA CHÚNG..............................36 3.1. Mô tả cổ sinh.........................................................................................36 3.2. Ý nghĩa địa tầng của hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.............................................................................62 3.3. Sự phong phú và đa dạng của Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.............................................................................68 3.4. Điều kiện môi trường sống của Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.............................................................................70 3.4.1. Dạng sống ở đáy – chui rúc (infaunal bivalves)......................70 3.4.2. Dạng sống bán đáy – chui rúc, bò hoặc bám trên mặt đáy (semi-infaunal)............................................................................................72 3.4.3. Dạng sống trên mặt đáy – dạng bò hoặc bám trên mặt (epifaunal)...................................................................................................72 3.5. Mối quan hệ giữa Hai mảnh vỏ và môi trường trầm tích.......................73 KẾT LUẬN..................................................................................................75

1

2

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Sơ đồ vị trí vùng nghiên cứu; A, vị trí địa lý của vùng nghiên cứu trong khu vực Tây Bắc Việt Nam; B, vị trí vùng nghiên cứu ở tỉnh Sơn La; C, các điểm lộ (ngôi sao đen – CS800, CS801, CS802 và CS135) của hệ tầng Bản Nguồn tại đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La...................................7

Hình 1.2. Bản đồ địa chất vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La..........16

Hình 1.3. Mặt cắt địa chất đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La..................................................................................................................... 21

Hình 2.1. A. Đá phiến sét đen lộ ra tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; B. Hóa thạch Pseudosanguinolites douvillei Patte trong đá phiến sét............................................................................................................................ 22

Hình 2.2. Bộ búa (A), đục (B) mẫu cổ sinh ngoài thực địa mác Estwing, USA......................................................................................................................... 23

Hình 2.3. A. Địa bàn địa chất; B. Máy định vị toàn cầu (GPS).....................23

Hình 2.4. A. Giấy mềm; B. Báo; C. Bút xóa; D. Bút viết mẫu; E, F. Mẫu hóa thạch sau khi viết số hiệu mẫu Bút dạ mầu không xóa được...................................24

Hình 2.5. A, C. Hệ thống máy gia công bằng khí nén (Airscriber); B. Máy thổi bột (Sandblater); D. Tool để gia công của máy Airscriber................................25

Hình 2.6. A. Máy ảnh Cannon 5Dmark III; B. Ống kính macro 100mm; C. Dây magiê; D. Mẫu sau khi phủ magiê....................................................................26

Hình 2.7. Thước kẹp cơ hãng Mitutoyo, Nhật Bản dùng để đo mẫu.............27

Hình 2.8. Hình thái chung của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017).........................30

Hình 2.9. Một số hình dạng ở Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)..........................32

Hình 2.10. Các kiểu tô điểm mặt vỏ của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)..........33

Hình 2.11. Các kiểu răng của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)..........................34

Hình 3.1. Nuculoidea sp. (Mẫu CS135Bi77)................................................37

Hình 3.2. Nuculoidea cf. N. yongfuensis (mẫu CS135Bi72).........................39

Hình 3.3. Nuculites sp. (mẫu CS135Bi86)....................................................40

Hình 3.4. Schizodus aff. S. appressus (Conrad) (mẫu CS135Bi126)............42

Hình 3.5. Mặt ngoài mảnh phải Paracyclas rugosa (Goldfuss) (mẫu CS135Bi54).............................................................................................................44

Hình 3.6. Mặt ngoài mảnh trái Paracyclas sp. (mẫu CS135Bi43)................45

Hình 3.7. Mảnh phải Pseudosanguinolites douvillei Patte (mẫu CS135Bi148) ................................................................................................................................. 47

3

Hình 3.8. Mặt ngoài mảnh trái Beichuania guangcaoziensis (mẫu CS135Bi89).............................................................................................................49

Hình 3.9. Mặt ngoài mảnh phải Beichuania bomongensis (mẫu CS135Bi90) ................................................................................................................................. 51

Hình 3.10. Mặt ngoài mảnh trái Beichuania sonlaensis (Mẫu CS135Bi99). 54

Hình 3.11. Mảnh trái Sphenotus vanlinhensis (Mẫu CS135Bi136)...............56

Hình 3.12. Mặt ngoài mảnh phải Sanguinolites nagaolingensis (Mẫu CS135Bi140)...........................................................................................................57

Hình 3.13. Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad) (Mẫu CS135Bi142)....58

Hình 3.14. Mặt ngoài mảnh trái Myalina sp. (Mẫu CS135Bi124)................60

Hình 3.15. Mặt ngoài mảnh trái Limoptera? cf. macroptera (Conrad) (Mẫu CS135Bi57).............................................................................................................62

Hình 3.16. A. Vết lộ CS135 của hệ tầng Bản Nguồn tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; B. Hóa thạch Euryspirifer cf. tonkinensis (Mansuy) trong đá phiến sét đen.............................................................................63

Hình 3.17. Sơ đồ phân bố địa tầng của một số loài Hai mảnh vỏ trong đá phiến sét đen ở mặt cắt đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La........................65

Hình 3.18. A. Vết lộ đá vôi hệ tầng Bản Páp; B. Hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng của hệ tầng Bản Páp lộ ra tại mỏ khai thác đá vôi ở Bản Khảm, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.....................................................................................66

Hình 3.19. Cột địa tầng và các mức chứa hóa thạch trong các trầm tích ở đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La....................................................................66

Hình 3.20. Cột địa tầng của hệ tầng Bản Nguồn ở đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.....................................................................................67

Hình 3.21. Biểu đồ so sánh thành phần giống loài của một số nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon ở Việt Nam....................................................................68

Hình 3.22. Biểu đồ thể hiện thành phần giống của hóa thạch Hai mảnh vỏ vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La..............................................................69

Hình 3.23. Mô hình tái dựng lại điều kiện sống của Hai mảnh vỏ hệ tầng Bản Nguồn vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La: 1. Nuculoidea; 2. Nuculites; 3. Schizodus; 4. Paracyclas; 5. Pseudosanguinolites; 6. Beichuania; 7. Sanguinolites; 8. Sphenotus; 9. Mytilarca; 10. Limoptera; 11. Myalina (Trên cơ sở của Johnston (1985))..................................................................................................................... 71

Hình 3.24. A. Điểm lộ (CS135) đá phiến sét đen chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ; B. Tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ gồm Mytilarca, Pseudosanguinolites, Limoptera trong khối đá phiến sét đen....................................................................73

4

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Thành phần giống, loài của các mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.......................................................................36

Bảng 3.1. Kích thước của Nuculoidea sp......................................................38

Bảng 3.1. Kích thước của Nuculoidea cf. N. yongfuensis Pojeta & Zhang, 1986......................................................................................................................... 39

Bảng 3.1. Kích thước của Nuculites sp.........................................................41

Bảng 3.1. Kích thước của Schizodus aff. S. appressus (Conrad), 1842.........42

Bảng 3.1. Kích thước của Paracyclas rugosa (Goldfuss).............................44

Bảng 3.1. Kích thước của Paracyclas sp......................................................45

Bảng 3.1. Kích thước của Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927..........47

Bảng 3.1. Kích thước của Beichuania guancaoziensis.................................50

Bảng 3.2. Kích thước của Beichuania bomongensis.....................................51

Bảng 3.1. Kích thước của Beichuania sonlaensis.........................................53

Bảng 3.1. Kích thước của Sphenotus vanlinhensis Mansuy, 1916................56

Bảng 3.1. Kích thước của Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842...59

5

MỞ ĐẦU

Hai mảnh vỏ (Bivalvia) là thuật ngữ được Linnaeus (1758) đề xuất cho những động vật có hai mảnh sống trong môi trường thủy sinh. Trước đây, chúng còn có tên gọi là Chân rìu (Pelecypoda) hay Lamellibranchia có ý nghĩa mang giống như mang lá. Chúng thuộc một lớp của ngành Động vật thân mềm (Mollusca), xuất hiện từ Cambri sớm và thành công trên con đường phát triển và duy trì nòi giống ở hầu hết các kỷ địa chất từ sau Cambri đến ngày nay trong các môi trường biển, từ gần bờ tới xa bờ, trong các vĩ độ khác nhau của Trái đất, từ xích đạo đến các vùng cực bắc và nam bán cầu. Chúng cũng thành công và phát triển rực rỡ trong các hồ, ao, sông, ngòi nước ngọt trên lục địa. Cho đến nay, đã ghi nhận có khoảng 9200 loài thuộc 1260 giống và 106 họ xuất hiện trên Trái đất (Huber, 2010). Hóa thạch Động vật Hai mảnh vỏ được tìm thấy trong hầu hết các khoảng địa tầng, phân bố cả trong môi trường biển, nước lợ và nước ngọt. Hóa thạch Hai mảnh vỏ là bằng chứng quan trọng cho công tác định tuổi địa chất, xác định cổ môi trường, cổ sinh thái và đa dạng sinh học địa chất (geobiodiversity).

Trong kỷ Devon, động vật Hai mảnh vỏ phát triển rất mạnh mẽ và phân bố rộng khắp trên thế giới; tuy nhiên các nghiên cứu về hóa thạch này trước thế kỷ 19 chủ yếu do các nhà địa chất – cổ sinh của Mỹ như Hall (1862, 1884, 1885), Harris (1899), Henry (1889), Miller (1889) và Beushausen (1895) tiến hành. Sang thế kỷ 20 hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ Devon nhận được nhiều quan tâm nghiên cứu cả ở Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Á; có thể kể đến các công trình nghiên cứu của Clark (1913), William và Breger (1916), Conrad (1941, 1942), Bailey (1978, 1983, 1986, 1986a, 2011), Pojeta & Zhang (1986), Barron (1981), Boyd & Newell (1968), Newell & Boyd (1975), Bradshaw (1991), Cox (1951, 1961), Doumani (1965), Moore (1969), Fang (1997) và McAlester (1962, 1963, 1968). Sang thế kỷ 21, các nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ Devon có các công trình nghiên cứu của Kriz (2000, 2001, 2004, 2007, 2009), McRobert & Newell (2001, 2005), Farjat (2005), Amler (2010) và Andera (2015). Cho đến nay, có khoảng 200 giống hóa thạch Hai mảnh vỏ trong địa tầng Devon đã được phát hiện và mô tả.

Hóa thạch Hai mảnh vỏ trên lãnh thổ Việt Nam đã được phát hiện trong các trầm tích từ kỷ Cambri đến kỷ Đệ tứ, chúng đặc biệt phong phú trong các kỷ Devon, Trias, Jura, Paleogen và Neogen. Trước năm 1945, các nghiên cứu về địa chất và cổ sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế, nghiên cứu về nhóm hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ

6

Devon ở Việt Nam chỉ được đề cập đến trong một số công trình của các nhà địa chất Pháp như Mansuy (1908, 1912, 1915, 1919) và Dussalt (1929). Sau năm 1945, công tác đo vẽ Bản đồ địa chất và Khoáng sản tỷ lệ 1: 200.000 và 1: 50.000 các nghiên cứu về địa chất được tiến hành, các công trình nghiên cứu về cổ sinh cũng nhiều hơn. Trong đó, nhóm hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ Devon được nghiên cứu bởi Kulikova (in Dương Xuân Hảo, 1968), Đặng Trần Huyên (in Dương Xuân Hảo, 1980), Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc, 1991), Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc, 2012). Khoảng 30 loài của 15 giống trong các địa tầng Devon ở Việt Nam đã được mô tả.

Gần đây, một số lượng lớn mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ đã được Bảo tàng Thiên nhiên Việt nam sưu tập và lưu giữ, tuy nhiên chúng chưa được định loại do thiếu chuyên gia nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu “Hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn la và ý nghĩa địa tầng của chúng” được lựa chọn là hết sức cần thiết để học viên bước đầu nắm được phương pháp nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ, làm cơ sở cho công tác nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ ở các địa tầng khác trên lãnh thổ Việt Nam trong các giai đoạn tiếp theo, đồng thời đáp ứng nhiệm vụ trước mắt của dự án thành phần “Xây dựng Bộ sưu tập mẫu Cổ sinh Việt Nam” mã số BSTMV.28/15-18 thuộc dự án “Xây dựng Bộ sưu tập mẫu vật Quốc gia về Thiên nhiên Việt Nam” của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam do Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đảm nhiệm.

Luận án được xây dựng trên cơ sở hóa thạch Hai mảnh vỏ được sưu tập tại mặt cắt đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Trong đó tác giả là thành viên tham gia trong quá trình sưu tập mẫu và đo vẽ mặt cắt địa chất. Việc luận tuổi cho phức hệ hóa thạch Hai mảnh vỏ tác giả so sánh với các phức hệ Hai mảnh vỏ Devon sớm ở Tứ Xuyên và Quảng Tây, nam Trung Quốc. Tác giả cũng tham khảo các kết quả nghiên cứu hóa thạch Tay cuộn, Bọ ba thùy, San hô vách đáy đi cùng trong các lớp chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng do TS. Nguyễn Hữu Hùng (Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) phân tích. Để nhìn nhận một cách tổng thể cấu trúc địa chất cũng như trật tự địa tầng của vùng nghiên cứu, tác giả tham khảo các tài liệu đo vẽ bản đồ địa chất và tìm kiếm thăm dò khoáng sản do Nguyễn Xuân Bao (1978) chủ biên và được chỉnh lý năm 2005.

7

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ VÙNG NGHIÊN CỨU

1.1. Vị trí địa lý

Vùng nghiên cứu thuộc xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, phía bắc

Việt Nam (Hình 1.1). Xã Tô Múa nằm ở phía bắc huyện Vân Hồ, phía đông giáp xã

Mường Tè, phía tây giáp xã Hua Păng (Mộc Châu), phía nam giáp xã Chiềng Khoa,

phía bắc giáp xã Suối Bàng, Song Khủa. Đây là vùng núi cao có độ cao trung bình

khoảng 800 m - 1000 m so với mặt nước biển, địa hình bị chia cắt mạnh và thay đổi

rõ rệt theo chiều từ tây nam lên đông bắc. Nằm ở bờ phải phía hạ lưu Sông Đà, các

dãy núi có độ cao trung bình từ 500-800m. Mạng sông suối khá dày đặc, sông lớn

nhất trong vùng là Sông Đà và các sông suối nhánh của nó như suối Bàng, suối Sơ

Vin, suối Nhúng, suối Ngùi, suối Khủa, suối Ngậm, suối Kế, suối Chum.

Hình .1.1. Sơ đồ vị trí vùng nghiên cứu; A, vị trí địa lý của vùng nghiên cứu trong

khu vực Tây Bắc Việt Nam; B, vị trí vùng nghiên cứu ở tỉnh Sơn La; C, các điểm lộ

(ngôi sao đen – CS801, CS802, CS135, CS796 và CS736) của hệ tầng Bản Nguồn

tại đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

8

Vùng nghiên cứu nằm trong phạm vi của hai á miền khí hậu tây bắc và

đông bắc. Á miền khí hậu tây bắc thuộc phần cực tây nam của tờ bản đồ, ít chịu

ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, nhưng chịu ảnh hưởng lớn của gió tây nam, ít

mưa. Á miền khí hậu đông bắc chịu ảnh hưởng lớn của gió mùa đông bắc, giá lạnh,

mùa hè chịu ảnh hưởng của gió mùa đông nam, mưa nhiều, thực vật phát triển

phong phú, có nhiều loại gỗ quý và tre nứa.

Giao thông đường thuỷ có Sông Đà. Đường bộ có đường ô tô 101 nối liền

các xã, thôn, bản là tuyến đường giao thông huyết mạch trong vùng. Ngoài ra, còn

có hệ thống đường lâm nghiệp, đường dân sinh nối liền giữa các bản làng trong

vùng (Hình 1.1).

Dân cư phân bố không đều, có 4 dân tộc sinh sống gồm Thái, Kinh, Dao và

Mường. Tình hình kinh tế xã hội còn thấp. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, lâm

nghiệp, thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ.

1.2. Đặc điểm địa chất vùng nghiên cứu

Vùng nghiên cứu nằm trong tờ Bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ

1:200.000 tờ Vạn Yên. Địa chất tờ Vạn Yên đã được nghiên cứu từ lâu. Đầu tiên là

những công trình nghiên cứu địa chất của các nhà địa chất Pháp: Lantenois (1906-1907),

Deprat (1913, 1914, 1915), Dussault (1921), Jacop (1922, 1925) đến năm 1929 Dussault

thành lập tờ bản đồ địa chất Vạn Yên tỷ lệ 1:100.000.

Sau này Đovjikov (1965) thành lập bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam tỷ lệ

1:500.000 là một công trình nghiên cứu địa chất đầu tiên của Việt Nam được tiến

hành có hệ thống và đồng bộ nhiều phương pháp. Nguyễn Xuân Bao và nnk.,

(1969) hoàn thành Bản đồ địa chất tờ Vạn Yên tỷ lệ 1:200.000. Từ năm 1979 trở lại

đây, trên diện tích tờ Vạn Yên đã có nhiều công trình đo vẽ lập bản đồ địa chất và

điều tra khoáng sản được hoàn thành như Bản đồ địa chất nhóm tờ Vạn Yên- Hoà

Bình-Suối Rút tỷ lệ 1:50.000 của Nguyễn Công Lượng và nnk., (1992, 1995), các

công trình nghiên cứu chuyên đề của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.

Nhìn chung, vùng nghiên cứu nằm trong một vùng tổng thể có đặc điểm địa

chất phức tạp xuất hiện của các đá từ Cambri đến Đệ tứ, chiếm khối lượng chủ yếu

9

là các đá tuổi Devon và ít hơn là các đá của địa tầng Cambri và Trias (.1.2.1.Hình .

1.1.).

.1.2.1. Địa tầng

GIỚI PALEOZOI

HỆ CAMBRI – HỆ ORDOVIC

 Hệ tầng Bến Khế (ε-O1 bk)

Mặt cắt chuẩn (Holostratotyp): mặt cắt Bản Chanh - Bản Khủa (dọc theo bờ

sông Đà, đông nam làng Bến Khế 1 km, Mộc Châu, Sơn La. Hệ tầng gọi theo tên

làng Bến Khế (ven hạ lưu sông Đà, Mộc Châu, Sơn La) nơi lộ tốt các thành tạo hệ

tầng (Dovjikov A.E. và nnk. 1965).

Hệ tầng Bến Khế gồm trầm tích lục nguyên xen kẹp trầm tích lục nguyên -

carbonat. Chúng khác biệt rõ với các đá hoa dolomit thuộc hệ tầng Đá Đinh (NP3

dd) nằm không chỉnh hợp dưới và các đá vôi dolomit sáng màu dạng khối thuộc hệ

tầng Sinh Vinh (O3-S sv) nằm không chỉnh hợp trên nó.

Trong vùng nghiên cứu, hệ tầng Bến Khế lộ trên một diện nhỏ, phân bố chủ

yếu ở phía đông bắc. Tại mặt cắt chuẩn Bản Chanh - Bản Khua, có trật tự địa tầng

từ dưới lên như sau:

1. Cuội, sạn kết thạch anh và cát kết hạt thô phân lớp dày. Dày 140 m.

2. Dá phiến sét chứa vôi, phân dải, kẹp bột kết. Dày 150 m.

3. Đá vôi chíra nhiều tạp chất, xám sáng. Dày 150 m.

4. Quarzit hạt nhỏ, bột kết,và trên cùng là đá phiến sét bột kết. Dày 700 m.

Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng nằm bất chỉnh hợp trên đá hoa dolomit

của hệ tầng Đá Đinh (NP3 dd) và không chỉnh hợp dưới hệ tầng Sinh Vinh (O-S sv).

Tuổi Ordovic của hệ tầng được Trần Hữu Dần (1997) xác định dựa trên các di tích

tảo Manchuriophycus sp. trong đá phiến thạch anh - sericit thuộc phần cao mặt

cắt Nậm Cáy - đèo Sin Hồ và tuổi Cambri đến Ordovic được Nguyễn Văn Hoành

(2001) xác định dựa trên tảo ẩn nguồn Orygmatosphaeridium sp., Tremato sp.,

Haeridium sp..

HỆ ORDOVIC, THỐNG THƯỢNG – HỆ SILUR

10

 Hệ tầng Sinh Vinh (O-S sv)

Mặt Cắt chuẩn (Holostratotyp): dọc bờ phải sông Đà, đoạn từ cửa suối

Sinh Vinh đến cửa suối Nậm Tơn. Tên hệ tầng đặt theo suối Sinh Vinh, nơi bắt đầu

lộ mặt cắt chuẩn của hệ tầng (Dovjikov A.E. và nnk. 1965).

Đặc trưng của hệ tầng Sinh Vinh là đá vôi chiếm vai trò chủ yếu, trong đó

phần ưu trội là đá vôi dolomit xám sáng phân lớp dày. Hệ tầng này dễ phân biệt với

trầm tích lục nguyên của hệ tầng Bến Khế (ε-O bk) nằm dưới và đá phiến sét vôi

sẫm màu phân lớp mỏng của hệ tầng Bó Hiềng (S2 bh) nằm trên.

Hệ tầng lộ thành một dải hẹp theo hướng tây bắc – đông nam ở phía tây bắc

vùng nghiên cứu, dọc theo sông Đà. Ở mặt cắt chuẩn đoạn cửa suối Sinh Vinh, hệ

tầng gồm ba phần rõ nét với bề dày khoảng 800m.

1. Phần dưới: cuội kết cơ sở. Dày 40 m.

2. Phần giữa: cát kết vôi, bột kết vôi, đá vôi dolomit, đá vôi cát, đá vôi sét,

chứa san hô Reuschia sp., Plasmoporella kiaeri, Favositella alveolata. Dày khoảng

400m.

3. Phần trên: đá vôi dolomit, xám sáng, phân lớp dày, kẹp đá phiến sét vôi;

chứa san hô Favosites sp., F. aff. forsbesi, F. ex gr. gothlandica, F. cf. hisinger, F.

cf. coreaniformis. Mesofavosites sp., Squameofavosites sp. Parastriatopora sp.; dày

350 m.

Quan hệ địa tầng và tuổi. Theo Nguyễn Xuân Bao và nnk. (1969) hệ tầng

Sinh Vinh nằm không chỉnh hợp trên các thành tạo đá hoa dolomit của hệ tầng Đá

Đinh (NP3 dd); trên đá phiến sét, bột kết của hệ tầng Bến Khế (ε-O1 bk). Hệ tầng

nằm chỉnh hợp dưới hệ tầng Bó Hiềng (S3-4 bh) (Tống Duy Thanh và nnk., 2005;

Nguyễn Đình Hợp và nnk., 1989).

Tuổi Ordovic - Silur của hệ tầng được xác định nhờ phát hiện hoá thạch san

hô tuổi Ordovic muộn trong những ổ vôi của phần thấp hệ tầng ở gần cửa suối Sinh

Vinh, và hoá thạch san hô Silur muộn thuộc phần cao của hệ tầng.

HỆ SILUR, THỐNG TRUNG

11

 Hệ tầng Bó Hiềng (S3-4 bh)

Hệ tầng do Nguyễn Vĩnh (1978) xác lập theo mặt cắt Bo Tao - Bó Hiềng -

Tiên Ban (bờ Sông Đà) vùng Bó Hiềng, huyện Mộc Châu, Sơn La.

Hệ tầng phân bố rộng rãi ở phía đông bắc vùng nghiên cứu, dọc theo bờ phải

sông Đà. Nguyễn Vĩnh (1978) mô tả mặt cắt chuẩn chiếm phần thấp của mặt cắt Bo

Tao - Phu Chuột, đoạn từ Bo Tao đến Tiên Ban gồm:

1. Đá phiến vôi màu xanh sẫm, vàng lục xen đá vôi xám đen, có ít sét dạng

dải, chứa Retziella weberi. Dày khoảng 100 m.

2. Đá vôi đen, đá vôi kết tinh, đá vôi cát màu xám, phân lớp mỏng và trung

bình, có xen những dải mỏng và rất mỏng sét vôi màu đỏ nâu, vàng và bột kết màu

xám lục, chứa Retziella weberi, Tadschikia xuanbaoi, Howellella sp., Scoliopora

sp., Favosites kunjakemis. Dày 300 m.

Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Bó Hiềng nằm chỉnh hợp trên hệ tầng

Sinh Vinh (O-S sv) và chỉnh hợp dưới hệ tầng Sông Mua (D1 sm). Tống Duy Thanh

và nnk. (2001) xếp hệ tầng Bó Hiềng vào Silur thượng trên cơ sở phức hệ hóa thạch

Retziella weberi.

HỆ DEVON, THỐNG HẠ

 Hệ tầng Sông Mua (D1 sm)

Hệ tầng Sông Mua do Dovjikov xác lập ở Tây Bắc Bộ (Dovjikov và nnk.

1965). Mặt cắt chuẩn của hệ tầng ở thượng nguồn Sông Mua phía dưới làng Ngã

Hai, huyện Phù Yên, Sơn La. Đặc trưng cua hệ tầng là có bề dày lớn (1500 m ờ mặt

cắt Hoà Bình - Tu Lý và 2300 m ở mặt cắt thượng nguồn Sông Mua), thành phần

chủ yếu gồm đá phiến sét đen, phân biệt rõ nét với đá của các hệ tầng khác của

Devon ở Bắc Bộ.

Trong vùng nghiên cứu, hệ tầng lộ trên các khối nhỏ tạo thành một dải không

liên tục kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam. Tại mặt cắt chuẩn, theo Dovjikov

và nnk. (1965) hệ tầng gồm hai phần:

Phần dưới. Đá phiến sét đơn dạng, chủ yếu màu đen, đôi khi màu lục, xen ít

lớp kẹp cát kết màu xám lục và quarzit, dày 300 m.

12

Phần trên. Cũng gồm các loại đá tương tự, nhưng số lượng các lớp kẹp cát

kết và quarzit giảm đáng kể, dày gần 500 m.

Nguyễn Vĩnh (1977) đã mô tả chi tiết lại mặt cắt thượng nguồn Sông Mua và

phân thành 5 tập:

1. Đá phiến có vôi màu đen, xám đen, phần dưới có chỗ dạng sọc, xen ít lớp

cát kết mỏng, phần trên xen vài lớp đá phiến sét than; dày gần 900 m.

2. Đá phiến có vôi màu đen, xám đen; dày 700 m.

3. Đá phiến có vôi màu đen và xám chiếm ưu thế, phần dưới xen những lớp

cát kết, phần trên cùng có một số thấu kính đá vôi mỏng; dày 400 m. Hoá thạch đã

được thu thập gồm Howittia wangi (= Hysterolites wangi), Chonetes sp., ?

Pugnacina sp., Athyris sp., Lingula sp., Rhynchonellida, Spiriferida, Pteria

(Actinopteria) sp., di tích Bọ ba thuỳ và cá bảo tồn kém.

4. Đá phiến sét màu đen và xám đen, cát kết dạng quarzit; dày 400 m. Tập

hợp hoá thạch phong phú gồm: Howitlia cf. wangi, ?Pugnacina sp., Lingula sp.,

Sphenotus cf. spatulata, Mytilarca? sp., Pteria (Actinopteria) sp.

5. Đá phiến vôi và đá vôi có cát, sét màu xám, xám đen, phân lóp dày và

dạng khối; dày 170 m. Hoá thạch San hô bốn tia bảo tồn xấu.

Bề dày chung của mặt cắt này khoảng 2300 m.

Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng nằm chỉnh hợp trên đá vôi, vôi sét của hệ

tầng Bó Hiềng và nằm chỉnh hợp dưới trầm tích chứa phức hệ hoá thạch

Euryspirifer tonkinensis của hệ tầng Bản Nguồn.

Tuổi của hệ tầng được xác định dựa trên hai mức chứa hóa thạch trong đó

mức thứ nhất chủ yếu là Tay cuộn Mesodonvillina aff. subinterstrialis, Iridistrophia

aff. praeumbracula, Howellella sp., Schellwienella sp., Camarotoechia sp.,

Platyorthis sp., và một số ít Chân rìu Pteria sp., Sphenotus sp., Posidonia sp; mức

thứ hai là những dạng ứng với mức địa tầng tướng biển thấp nhất ờ Bắc Bộ chủ yếu

gồm Tay cuộn Howittia wangi, Howellella sp., Howellella sp., Pugnacina sp.,

Strophochonetes sp., Pugnacina aff. baoi, Tulynets hoabinhensis và Chân rìu. Dựa

13

trên hai phức hệ hóa thạch này có thể coi chúng gần tương đồng với hệ tầng Bắc

Bun và hệ tầng Si Ka ở đông Bắc Bộ.

 Hệ tầng Bản nguồn (D1 bn)

Hệ tầng do Nguyễn Xuân Bao và nnk. (1969) xác lập trong quá trình lập bản

đồ địa chất tờ Vạn Yên (tỳ lệ 1: 200.000). Hệ tầng phân bố ở thượng nguồn Sông

Mua, hạ lưu sông Đà, trong các vùng Ngã Hai, Bản Nguồn, Bản Thọc, Hoà Bình -

Tu Lý và một dải hẹp từ Mó Tôm qua Bản Ngùi ở bờ phải sông Đà.

Hệ tầng phân bố rộng rãi ở trung tâm vùng nghiên cứu. Mặt cắt chuẩn của hệ

tầng theo thượng nguồn sông Mua được Nguyễn Vĩnh (1977) mô tả chi tiết với trật

tự địa tầng từ dưới lên như sau:

1. Cát kết thạch anh dạng quarzit phân lớp vừa và dày, màu xám, xen kẽ cát kết lẫn

sét màu xám đen và những lớp đá phiến đen với những vi dải cát. Dày 120 m.

2. Đá phiến, bột kết, màu đen xen những lớp cát kết lẫn sét và cát kết dạng quarzit.

Có chỗ các lớp cát kết tập trung dày tới 25 m. Trong đá của tập chứa

Dicoelostrophia annamitica, Euryspirifer tonkinensis, Stropheodonta aff. pattei,

Nervostrophia rzonsnickajae, Chonetes magnini, Parastrophonella aff. dora,

Undispirifer sp., Schellwienella sp., (?) Howellella sp., Gipydulidae, (?) Posidonia

sp., Proetus sp., Calceola sp. Dày 160 m.

3. Cát kết dạng quarzit và cát kết chứa sét xen kẽ những lớp đá phiến đen. Trong đá

phiến có chứa ít di tích hoá thạch Euryspirifer tonkinensis, Posidonia sp. Dày 50 m.

4. Đá phiến, bột kết vôi có lớp lẫn cát chứa phong phú hoá thạch Calceola sp.,

Euryspirifer tonkinensis, Stropheodonta aff. pattei, Undispirifer sp., Strophomenida,

Bọ ba thuỳ, Rêu động vật. Dày 50 m.

Tổng bề dày của mặt cắt này khoảng 380 m.

Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Bản Nguồn nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Sông Mua

(D1 sm) và dưới hệ tầng Bản Páp (D1-2 bp). Thành phần hoá thạch thể hiện rõ tính chất

của phức hệ Euryspirifer tonkinensis phân bố rộng rãi trong trầm tích Devon hạ ở Bắc

Bộ. Tuổi Devon sớm, Praga (D1 pg) của phức hệ hoá thạch này đã được Tống Duy

Thanh (1979, 1980, 1982), Tống Duy Thanh và nnk. (1986, 1988) xác định.

14

HỆ DEVON, THỐNG HẠ-TRUNG

 Hệ tầng Bản Páp (D1-2 bp)

Mặt Cắt chuẩn (Holostratotyp): dọc theo thượng nguồn sông Mua, phía

trên Bản Nguồn khoảng 3 km, huyện Phù Yên, Sơn La. Hệ tầng Bản Páp mang tên

một bản cùng tên ở vùng Vạn Yên, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, do Nguyễn Xuân

Bao và nnk. (1969) xác lập trong quá trình đo vẽ bản đồ địa chất tờ Vạn Yên (tỷ lệ

1: 200 000), với tên gọi “Điệp” Bản Páp.

Hệ tầng gồm trầm tích carbonat, chủ yếu là đá vôi xám đen, phân lớp mỏng

và trung bình, phân bố rộng rãi ở Bắc Bộ. Các đá cacbonat của hệ tầng tạo thành dải

kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam phân bố ở trung tâm khu vực nghiên cứu.

Nguyễn Vĩnh (1977) đã mô tà chi tiết mặt cắt thượng nguồn Sông Mua với trật tự

địa tầng như sau:

1. Chỉnh hợp trên trầm tích lục nguyên của hệ tầng Bản Nguồn là đá phiến sét vôi

xám đen, phân lớp mỏng, xen đá vôi và đá vôi sét, chứa Favosites karpinskyi, F.

goldfussi, F. cf. kolimaemis, Emmonsia sp., Squameofavosites alveosquamatus,

Pachyfavosites aff. cronigerus, Yacutipora sp., Caliapora sp. Dày 190 m.

2. Đá vôi xám đen xen đá vôi xám sáng, xám sẫm, hạt nhỏ, phân lớp dày chứa

Amphipora sp. Dày 370 m.

3. Đá vôi hạt nhỏ màu xám, phân lớp mỏng xen những lớp đá vôi kết tinh hạt vừa,

phân lớp dày, chứa Amphipora sp. Dày 150 m.

4. Đá vôi hạt nhỏ màu xám sẫm xen đá vôi màu xám sáng, có chỗ bị tái kết tinh,

phân lớp trung bình chứa Amphipora sp. Dày 80 m.

5. Đá vôi hạt nhỏ màu xám, xám sẫm phân lóp dày, đôi nơi phân lớp trung bình;

những lớp tái kết tinh hạt thô màu xám sáng; chứa hoá thạch Amphipora ramosa,

Stachyoides sp. Dày 210 m.

6. Đá vôi xám sẫm, hạt vừa, phân lớp trung bình và dạng khối, chứa Caliapora sp.,

Scoliopora sp., Cyclochaetetes sp., Amphipora ramosa, Parallelopora sp. Dày 100m.

7. Đá vôi xám sẫm, hạt mịn, phân lớp mỏng và vừa, xen đá vôi sét hạt mịn màu xám

đen, phân lớp mỏng, chứa Atrypa (Desquamatia) sp., Grypophyllum sp. Dày 100m.

15

Tổng bề dày của hệ tầng Bản Páp trong mặt cắt chuẩn đạt 1200 m.

Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Bản Páp nằm chinh hợp trên trầm tích

lục nguyên của hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn) và dưới đá phiến vôi silic của hệ tầng

Tốc Tát (D3-C1 tt) (tại mặt cắt thượng nguồn Sông Mua và mặt cắt Bản Cải – Đa

Niêng). Tuổi của hệ tầng được xác định dựa trên các hóa thạch ở mặt cắt nêu trên và

các mặt cắt Nà Quản – Bằng Ca (vùng Hạ Lang), mặt cắt Đồng Văn (Hà Giang).

Trong đó, có ý nghĩa hơn cả là các hóa thạch Vỏ nón N. zlichovensis, N. barrandei

N. praecursor và Răng nón thuộc đới Pol. excavatas như P andorinellina

steinhornensis, Pol. excavatus, Pol. Nothoperbonus ứng với tuổi Emxi và hóa thạch

Răng nón thuộc đới Pa. transitans ứng với phần thấp nhất của bậc Frasni (D3 fr) ở

mặt cắt Đồng Văn.

HỆ CARBON – HỆ PERMI

 Hệ tầng Bắc Sơn (C-P bs)

Tên của phân vị được Nguyễn Văn Liêm (1974) đặt theo tên khối đá vôi Bắc

Sơn ở Đông Bắc Bộ.

Các đá vôi của hệ tầng tạo thành các khối nhỏ phân bố ở phía đông bắc và

phía tây vùng nghiên cứu. Thành phần thạch học của hệ tầng gồm đá vôi, đá vôi

dolomit hóa, đá vôi sét, đá vôi hữu cơ. Ở phần dưới của hệ tầng thường là đá vôi

sét, đá vôi silic phân lớp trung bình, màu xám hoặc xám tối. Phần giữa và phần trên

chủ yếu là đá vôi sinh vật, đá vôi trứng cá, phân lớp dày hoặc dạng khối, có màu

xám hoặc xám sáng.

16

Hình .1.1. Bản đồ địa chất vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La (Trích lược từ Bản đồ địa chất và Khoáng sản tờ Vạn Yên tỷ lệ 1/200.000, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam xuất bản năm 2005).

17

GIỚI MESOZOI

HỆ TRIAS, THỐNG THƯỢNG

 Hệ tầng Suối Bàng (T3n-r sb)

Mặt cắt chuẩn (Lectostratotyp): suối Láo, một nhánh trái của suối Bàng,

nằm ở vùng chứa than Suối Bàng bên bờ phải sông Đà, đông nam thị trấn Vạn Yên

(huyện Phù Yên, Sơn La) khoảng 10 km Vũ Khúc, Nguyễn Vĩnh (1967).

Trầm tích chứa than Trias thượng gồm hai phần rõ rệt - phần dưới là trầm

tích lục nguyên chứa ít lớp kẹp đá carbonat và hóa thạch động vật biển tuổi Nori,

chuyển lên phần trên là trầm tích á lục địa chứa than và hóa thạch thực vật trên cạn

tuổi Ret phân bố ở Tây Bắc Bộ.

Các đá của hệ tầng tạo thành dải kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam

phân bố ở trung tâm vùng nghiên cứu. Vũ Khúc và Nguyễn Vĩnh (1967) đã mô tả

mặt cắt theo suối Láo nằm trong vùng chuẩn trên bờ phải sông Đà. Mặt cắt này

được chia làm 3 phần, trong đó hai phần dưới gồm trầm tích biển, phần trên là trầm

tích lục địa xen những lớp trầm tích chứa hóa thạch biển.

• Phần dưới: bột kết và đá phiến sét màu xám sẫm, phân lóp mỏng, đôi khi

chứa vôi, xen các lớp kẹp đá vôi sét xám, đá vôi, cát két vôi chứa Hai mảnh vỏ loại

vỏ dày thuộc tướng biển ven bờ, các lớp kẹp cát kết hạt nhỏ, sáng màu hơn, ít nhiều

chứa vôi, dày 212 m. Trong phần này có rất nhiều lớp chứa hóa thạch động vật biển,

như Hai mảnh vỏ Halobia distincta, Zittelihalobia sublaevis, Gervillia shaniorum,

Anomia napengensis, Palaeocardita singularis, Mesoneilo fromageti, v.v... và Cúc

đá Discotropites noricus.

• Phần giữa: cát kết xám nhạt, phần dưới là cát kết thạch anh hạt vừa đến hạt

thô, phân lớp trung bình chứa các vảy mica xen vài lớp kẹp bột kết xám sẫm, trên

đó là cát kết đa khoáng xám sáng, hạt vừa xen ít lớp cát kết chứa vụn thực vật và

những vảy mica lớn nằm trên mặt lớp, rồi đến cát kết thạch anh hạt thô xen cát kết

chứa cuội, cuội kết, sỏi kết. Đặc biệt ở đây còn gặp những lớp kẹp dăm kết trầm tích

mà dăm là bột kết xám sẫm rất sắc cạnh nằm trong nền xi măng cát kết hạt vừa sáng

màu; bề dày chung là 425 m. Các lớp kẹp bột kết ở phần này vẫn chứa hóa thạch

18

thuộc cùng phức hệ với hóa thạch của phần 1, gồm Zitlelihalobia tenuicostata,

Burmesia lirata, Costatoria (Napengocosta) napengensis, Palaeocardita singularis,

Prolaria sollasi, Dentilucina mona, Triaphorus angulatus, Langvophorus garandi.

• Phần trên: bột kết xám đến xám sẫm, phân lớp mỏng đến trung bình,

thường chứa vụn thực vật xen cát kết xám, hạt nhỏ đến vừa, phân lớp trung bình, ít

lớp kẹp sét kết, sét than xám đen và vài vỉa than gày, chuyển lên trên cát kết giữ vai

trò chủ yếu, dày 270 m. Hóa thạch động vật trong tập này gồm những dạng biển và

nước lợ, như Gervillia cf. inflata, Isocyprina ewaldi, Vietnamicardium nequam,

ưnionites damdunensis v.v... đi cùng với thực vật trên cạn Clathopteris

meniscioides, Diclyophyllum nalhorstii, “Glossopteris” indica, Yuccites

vietnamemis, Neocalamiles hoerensis, Goeppertella microloba, v.v...

Bề dày chung của hệ tầng tại mặt cắt này khoảng 937 m.

Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Suối Bàng phủ không chỉnh hợp trên

nhiều hệ tầng cồ hơn, từ Proterozoi đến Mesozoi. Tuổi của hệ tầng được xác định là

Nori - Reti trên cơ sở hóa thạch Cúc đá Nori tìm thấy ở vùng Đầm Đùn như

Paratibedtes sp., Analibetites sp. và các loài khác nhau cùa giống Halobia, một

giống coi như đã tuyệt chủng vào cuối Nori; và hóa thạch thuộc “hệ thực vật Hòn

Gai” phân bố chủ yếu trong phần trên của hệ tầng.

GỚI KAINOZOI

HỆ PALEOGEN – THỐNG THƯỢNG

 Hệ tầng Nậm Ún (E3 nn)

Mặt cắt chuẩn (Holostratotyp): vùng đá dầu Nậm Ún, huyện Mai Sơn, tỉnh

Sơn La. Hệ tầng do Đỗ Văn Hãn và nnk., 1981 xác lập cho các thành tạo đá phiến

chứa dầu này đã được phát hiện ờ cạnh bản Sài Lương trong quá trình đo vẽ bản đồ

địa chất tỷ lệ 1:500.000 miền Bắc Việt Nam (1965), nhưng vì diện phân bố quá nhỏ

nên đã không được vẽ lên bản đồ và mô tả trong thuyết minh.

Trong quá trình đo vẽ bản đồ địa chất và khoáng sản nhóm tờ Yên Châu tỷ lệ

1:50.000 do Lê Thanh Hựu chủ biên, Vũ Khúc, Phạm Đình Trưởng, Lê Thanh Hựu

(2002) đã quan sát được một mặt cắt khá đầy đủ của hệ tầng đá phiến chứa dầu ở

19

vùng Sài Lương trên con đường ô tô mới mở từ xã Chiềng Chăn đi dọc theo suối

Phát ra sông Đà ở khoảng bản Ta Chan. Theo các tác giả trên, mặt cắt này gồm 4 tập

như sau:

1. Sạn kết màu xám vàng chứa cuội và sỏi xen ít lớp kẹp cát kết hạt thô, dày

4-5 m.

2. Bột kết, đá phiến sét cùng màu xám đen chứa nhiều mùn thực vật, xen

những lớp kẹp sạn kết và cát kết xám vàng, dày 4 m.

3. Bột kết và sét kết màu xám, phong hóa xám vàng, phân lớp mỏng đến

trung bình, xen ít lớp kẹp cát kết hạt nhỏ, dày 60 m.

4. Cát kết hạt vừa, hạt nhỏ màu xám vàng, phân lớp trung bình xen ít lớp kẹp

bột kết xám sẫm, dày 30 m.

Bề dày chung của hệ tầng ở mặt cắt này là 98 m.

Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Nậm Ún phủ bất chỉnh hợp trên móng

Paleo-Mesozoi. Tuổi Oligocen của hệ tầng được xác định trên cơ sở bào tử phấn

hoa Verrucatosporites sp., Mothofagidites sp., Polypodiaceisporites sp.,

Piceapollenites sp., Quercidites sp., tuổi Oligocen và thực vật gồm Laurus cf. sim

ilis, Arundo spp., Graminiphylliim sp., Phragm ites sp., Ficus sp.

 Đệ tứ không phân chia (Q)

Thường tập trung ở những thung lũng, dọc theo các sông, suối trong vùng

như Sông Đà, suối Bàng, suối Sơ Vin, suối Nhúng, suối Ngùi, suối Khủa, suối

Ngậm, suối Kế, suối Chum… trên các độ cao khác nhau; thành phần gồm: cuội, sỏi,

cát, sét. Nguồn gốc thành tạo thường là hỗn hợp: bồi tích, bồi tích - lũ tích và sườn

tích - lũ tích. Dày 0,5 - 2m.

.1.2.2. Magma

Trong vùng nghiên cứu chỉ lộ một khối nhỏ các đá kiềm của phức hệ Phu Sa

Phìn trên một diện nhỏ ở phía nam vùng nghiên cứu.

 Phức hệ Phu Sa Phìn

Phức hệ Phu Sa Phìn gồm các thể á núi lửa granit kiềm, granosyenit và syenit

phân bố ở phía nam vùng nghiên cứu, xuyên cắt đá vôi tuổi Carbon-Permi hệ tầng

20

Bắc Sơn liên quan chặt chẽ về nguồn gốc, không gian và thời gian với các thành tạo

ryolit-comendit tuổi Jura – Creta ở võng chồng Tú Lệ.

1.3. Địa tầng chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng

.1.3.1. Lịch sử nghiên cứu địa chất mặt cắt đèo Bó Mồng

Mặt cắt đèo Bó Mồng nằm ở ranh giới giữa hai xã Tô Múa và xã Mường Tè

(.1.1.1.Hình .1.1.C). Trong đoạn mặt cắt này chủ yếu lộ các đá trầm tích cát kết, đá

phiến sét đen và đá vôi chứa hóa thạch Devon sớm. Các trầm tích này đã được các

nhà địa chất Pháp, Nga và Việt Nam nghiên cứu. Deprat J. (1914b) đã ghi nhận các

đá vôi, cát kết và đá phiến sét xen kẽ nhau, dày 300m. Trong đá vôi có chứa san hô

và Tay cuộn Rhynchonella aff. Procta, trong đá phiến có Tay cuộn Spirifer

cabedans, S. bijugosus, Hai mảnh vỏ Modiomorpha brevis; gọi là loạt Mường Tè

(=Mường Thế) được xếp vào Gotland (Silur). Jacob C. (1921) phát hiện ra Tay cuộn

“Spirifer ziczac” và xếp loạt Mường Tè vào Devon trung – Devon thượng. Dussault

L. (1929) gắn loạt Mường Tè với các loạt trầm tích khác lộ ra ở vùng phía nam

thung lũng suối Sinh Vinh và thung lũng Sông Đà ở cửa Suối Rút. Những trầm tích

này chứa rất phong phú hóa thạch, trong đó có san hô bốn tia Calceola sandalina,

Tay cuộn Spirifer specioceus (=Euryspirifer tonkinensis), Bọ ba thùy Proetus

blondeli, Calymene maloungkaensis cho tuổi Eifel; các hóa thạch Tay cuộn khác

Spirifer ziczac, Rhynchonella triangualis, Lingullela dussaulti và Orbiculoidea sp.

cho tuổi Frasni. Saurin E. (1956) xếp loạt Mường Tè vào Eifel – Frasni. Nguyễn

Xuân Bao (1969, 2005) vẽ các trầm tích Devon hạ ở đèo Bó Mồng vào hệ tầng

Sông Mua. Mặc dù đã có một số nghiên cứu tuy nhiên tuổi và vị trí địa tầng của các

trầm tích Devon ở đèo Bó Mồng còn chưa rõ ràng.

.1.3.2. Địa tầng chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ

Các trầm tích chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng, xã Tô Múa,

huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La lộ ra dọc theo đường ô tô hướng ra sông Đà. Trong

đoạn mặt cắt này, chúng tôi đã khảo sát 05 điểm lộ, thu được nhiều hóa thạch Hai

mảnh vỏ, Tay cuộn, Bọ ba thùy, Chân bụng, Chân đầu, san hô và Lỗ tầng bảo tồn

21

tốt. Theo quan sát và nghiên cứu ngoài thực địa cho thấy các trầm tích này lộ ra

gồm 3 phần.

 Phần dưới. Đá vôi, vôi sét màu xám đen phân lớp trung bình đến dày chứa

phong phú hóa thạch Tay cuộn bảo tồn tốt tạo thành vỉa xác dày, dày trên 40m.

Đá có thế nằm đơn nghiêng 140/14o (Điểm khảo sát CS801 và CS802).

 Phần giữa. Đá phiến sét chứa vôi màu xám đen xen thấu kính đá vôi màu đen

và cát kết màu xám đen chứa phong phú hóa thạch Hai mảnh vỏ, Tay cuộn, san

hô, Bọ ba thùy, Chân đầu, Chân bụng và Động vật dạng rêu, dày 50m. Đá có thế

nằm 208/20o (Điểm khảo sát CS135).

Hình .1.1. Mặt cắt địa chất đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

 Phần trên. Đá vôi màu xám đen chứa phong phú hóa thạch san hô vách đáy,

dày trên 20m. Thế nằm của đá 186/22o (Điểm khảo sát CS796).

Tổng chiều dày của các trầm tích này khoảng 110m.

Nằm chỉnh hợp trên các trầm tích trên là đá vôi màu xám đen phân lớp trung bình đến dày chứa phong phú hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng (Điểm lộ CS736 Hình 1.3) của hệ tầng Bản Páp (D1-2 bp). Quan hệ với hệ tầng cổ hơn chưa quan sát được do xuất hiện nhiều đứt gãy.

22

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở tài liệu

Luận văn được xây dựng trên cơ sở các hóa thạch được sưu tập tại 5 điểm lộ CS736, CS796, CS135, CS801 và CS802 tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La (.1.1.1.Hình .1.1.). 176 mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ cùng 35 mẫu Tay cuộn, 15 mẫu Bọ ba thùy, 8 mẫu san hô, 5 mẫu Chân bụng, 7 mẫu Chân đầu và 4 mẫu Động vật dạng rêu được sưu tập trong đá phiến sét đen chứa vôi xen kẹp các lớp cát kết, sét vôi tại điểm CS135 (.1.1.1.Hình .1.1., Hình .1.1.). 35 mẫu hóa thạch Tay cuộn được sưu tập tại điểm CS801 và SC802 trong tập đá vôi, vôi sét màu xám đen phân lớp trung bình nằm dưới, dày khoảng 40m. 07 mẫu san hô được thu thập tại điểm SC796 trong đá vôi màu xám đen nằm trên, dày khoảng 20m. Ngoài ra, 20 mẫu hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng thu được trong đá vôi màu xám phân lớp trung bình tới dày tại điểm CS736.

A B

Hình .1.1. A. Đá phiến sét đen lộ ra tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; B. Hóa thạch Pseudosanguinolites douvillei Patte trong đá phiến sét.

2.2. Phương pháp nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ

.2.2.1. Phương pháp thu thập mẫu ngoài thực địa

Ở ngoài thực địa, khảo sát sự xuất hiện của các hóa thạch theo mặt cắt hoặc

tuyến khảo sát, xem xét vị trí xuất hiện của các hóa thạch (Hình 1.1C). Sử dụng các

dụng cụ như búa, đục (Hình 2.7) để tách hóa thạch Hai mảnh vỏ ra khỏi đá gốc.

Tiến hành thu thập mẫu theo các vị trí trong mặt cắt, sử dụng địa bàn, GPS (Hình

2.8) để xem xét vị trí trong không gian và loại đá chứa hóa thạch.

23

Công tác ghi chép ngoài thực địa đóng vai trò quan trọng cho công tác giám định mẫu. Tất cả các thông tin liên quan đến mẫu sưu tập cần được ghi chi tiết trong sổ nhật ký địa chất:

- Ngày, tháng, năm,

- Người sưu tập,

- Tình trạng bảo tồn,

- Loại đá chứa hóa thạch,

- Tuổi phân vị địa tầng và phân bố địa lý,

- Quần xã Hai mảnh vỏ cùng với các nhóm hóa thạch khác, - Ký hiệu và đánh số thứ tự mẫu đảm bảo không bị nhầm lẫn về trình tự địa

tầng, nhầm lẫn mẫu với vùng khác.

B

A Hình .1.1. Bộ búa (A), đục (B) mẫu cổ sinh ngoài thực địa mác Estwing, USA.

B A

Hình .1.2. A. Địa bàn địa chất; B. Máy định vị toàn cầu (GPS).

24

Các mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ được thu thập trong các loại đá bùn kết, sét

kết, bột kết. Những mẫu này sau khi tách khỏi đá gốc được quấn bằng giấy mềm,

báo hoặc các loại vật liệu chuyên dụng khác, sử dụng bút xóa, bút dạ không xóa

được ghi rõ số hiệu theo vị trí lấy mẫu (Hình 2.8).

A B

D C

E F

Hình .1.3. A. Giấy mềm; B. Báo; C. Bút xóa; D. Bút viết mẫu; E, F. Mẫu hóa thạch sau khi viết số hiệu mẫu Bút dạ mầu không xóa được

25

.2.2.2. Phương pháp gia công mẫu và chụp ảnh

Hiện nay, thiết bị thường được sử dụng trong các phòng thí nghiệm để gia

công mẫu Hai mảnh vỏ là hệ máy Airscriber và Sandblaster. Airscrber (thiết bị

tỉa/tách mẫu) được dùng để loại bỏ đá vây quanh và các mảng bám trên bề mặt mẫu;

Sandblaster (máy thổi bột) dùng để làm sạch bề mặt mẫu sau khi tỉa mẫu để làm rõ

các tô điểm.

B

A

C D

Hình .1.1. A, C. Hệ thống máy gia công bằng khí nén (Airscriber); B. Máy thổi bột (Sandblater); D. Tool để gia công của máy Airscriber

Hiện nay Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đã trang bị thiết bị Airscriber, cho

phép gia công mẫu dễ dàng. Tuy nhiên, việc gia công mẫu nhiều khi cũng không

giải quyết hết được vấn đề nghiên cứu đặc điểm hình thái của mẫu. Nhiều mẫu

26

không thể gia công để quan sát được cấu trúc bên trong. Phần lớn các mẫu thể hiện

rõ hình thái cũng như cấu trúc bên trong và bên ngoài đều có được bằng nhiều lần

sưu tập mẫu. Dụng cụ thu thập mẫu gồm búa, đục... Mẫu sau khi thu ngoài thực địa

về được xem sét, chọn lọc các mẫu bảo tồn tốt và hoàn chỉnh nhất đặc biệt các mẫu

bảo tồn đầy đủ cấu trúc bên trong và cả bên ngoài để gia công. Một số trường hợp

sau khi thu thập mẫu có thể dùng dung dịch axit acetic loãng để làm sạch bề mặt

mẫu.

Mẫu được chụp bằng máy ảnh Cannon DmaxIII với ống kính Macro 100mm

được trang bị cùng hệ thống giá chụp mẫu (Hình .1.2.A,B). Trước khi chụp mẫu

được làm trắng bề mặt bằng cách đốt dây magiê trên ngọn lửa để tạo khói magiê

bám vào bề mặt mẫu để làm rõ các tô điểm bề mặt của mẫu khi chụp (Hình .

1.2.C,D). Mẫu Hai mảnh vỏ được chụp ảnh ở nhiều góc độ khác nhau như mảnh

trái, mảnh phải, mặt lưng, mặt bụng (mặt trước, mặt sau đối với giống Beichuania),

răng, bản lề, dây chằng, vết bám cơ, đường viền áo và khuyết đường áo (nếu có).

B A

D C

Hình .1.2. A. Máy ảnh Cannon 5Dmark III; B. Ống kính macro 100mm; C. Dây magiê; D. Mẫu sau khi phủ magiê

27

.2.2.3. Phương pháp mô tả và định loại

Mẫu sau gia công được xem xét, làm rõ các đặc điểm hình thái và tiến hành

đo đạc, mô tả mẫu. Thành phần giống, loài của mẫu được xác định qua các đặc

điểm hình thái được nêu chi tiết ở mục 2.3.

Các phép đo trong nghiên cứu này được thực hiện thông qua các kỹ thuật

khác nhau. Đối với các kích thước như chiều dài, chiều cao và chiều rộng của vỏ sử

dụng thước kẹp Mitutoyo – 200mm để đo (Hình .1.1.).

Hình .1.1. Thước kẹp cơ hãng Mitutoyo, Nhật Bản dùng để đo mẫu

Kích thước sử dụng trong nghiên cứu này được xác định theo chiều dài (L),

chiều cao (H), chiều rộng (W). Chiều dài (L): Kích thước tối đa theo hướng trước

sau, mẫu được định hướng đúng. Chiều cao (H), Kích thước tối đa theo hướng lưng

bụng, mẫu vật được định hướng đúng. Chiều rộng (W), Kích thước tối đa đo theo

độ phồng của vỏ được tính bằng tổng của cả hai mảnh trong một mẫu có cả hai

mảnh.

Trên cơ sở đặc điểm hình thái, mẫu được tra cứu trên các atlas, chuyên khảo

về dạng hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ Devon của Hall (1884, 1885), Pojeta & Zhang

(1986), Zhang và nnk (2015), Đặng Trần Huyên (trong Dương Xuân Hảo, 1980),

Đặng Trần Huyên (trong Vũ Khúc, 1991), Đặng Trần Huyên (trong Vũ Khúc, 2012)

mẫu được xác định thuộc vào các bộ, họ, giống và loài tương ứng. 15 loài thuộc 11

giống của 10 họ, 6 bộ đã được xác định (Bản ảnh 1-10).

28

.2.2.4. Phương pháp nghiên cứu địa tầng

Hóa thạch Hai mảnh vỏ sưu tập tại mặt cắt đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện

Vân Hồ, tỉnh Sơn La được thu thập theo lớp đá và xem xét sự xuất hiện trong không

gian của chúng. Nghiện cứu, so sánh hoá thạch chứa trong các tầng đá cho phép

phân biệt được sự già trẻ khác nhau của các đá chứa những hoá thạch đó. Mặt khác,

dựa vào di tích hoá thạch cũng có thể đối sánh và xác định các tầng đá cùng tuổi tuy

chúng phân bố ở các địa phương khác nhau. Việc luận tuổi cho phức hệ hóa thạch

Hai mảnh vỏ tác giả so sánh với các phức hệ Hai mảnh vỏ Devon sớm ở Tứ Xuyên

và Quảng Tây, (Trung Quốc), New South Wale (Australia), Mỹ… Tác giả cũng

tham khảo các kết quả nghiên cứu hóa thạch Tay cuộn, Bọ ba thùy, San hô vách đáy

đi cùng trong các lớp chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng do TS. Nguyễn

Hữu Hùng (Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) phân tích.

Đặc điểm thành phần thạch học của đá cũng được xác định để đối chiếu tính

chất của các lớp, các tầng đá trong trình tự sắp xếp của chúng ở mặt cắt địa chất để

xác định trình tự già trẻ khác nhau của các tầng, các lớp trong mặt cắt để xác lập

nên trật tự địa tầng của các tầng đá trong vùng. Để nhìn nhận một cách tổng thể cấu

trúc địa chất cũng như trật tự địa tầng của vùng nghiên cứu, tác giả tham khảo các

tài liệu đo vẽ bản đồ địa chất và tìm kiếm thăm dò khoáng sản do Nguyễn Xuân Bao

(1978) chủ biên và được chỉnh lý năm 2005.

.2.2.5. Phương pháp cổ sinh thái

Phương pháp này nhằm đánh giá, tái dựng lại điều kiện sống của Hai mảnh

vỏ kỷ Devon ở vùng đèo Bó Mồng dựa trên những nghiên cứu về đặc điểm hình

thái, dạng bảo tồn trong không gian và điều kiện môi trường trầm tích của chúng.

Theo Stanley (1970), Zhang và nnk (2015) điều kiện sống của Hai mảnh vỏ được

chia ra làm 3 loại chính theo: vị trí sinh sống, cách thức vận động hoặc bám và kiểu

ăn.

Theo vị trí sinh sống: được chia ra thành sống ở đáy (infaunal) và sống trên

mặt đáy (epifaunal) và sống bán đáy (semi-infaunal).

29

Theo cách thức vận động hoặc bám: rất hữu ích cho việc chia Hai mảnh vỏ ra

thành các nhóm sinh thái. Bảy nhóm chính đã được nhận biết như: bám (attached),

gắn cố định (cemented), nằm tựa trên vật gì đó (reclining), bơi (swimming), đào bới

(burrowing), khoan (boring), nestling (nép mình).

Theo kiểu ăn: ăn dạng lơ lửng (suspension feeding) và ăn trong trầm tích

(deposit feeding).

Đánh giá điều kiện cổ môi trường và điều kiện sống của Hai mảnh vỏ trong

báo cáo này dựa trên nghiên cứu của Stanley (1970), Johnston (1985) và Zhang và

nnk (2015). Để thể hiện mối quan hệ giữa hình thái vỏ với môi trường sinh sống của

động vật Hai mảnh vỏ, báo cáo này sẽ chia hệ động vật Hai mảnh vỏ vùng Tô Múa

theo vị trí sinh sống.

2.3. Đặc điểm hình thái chung hóa thạch Hai mảnh vỏ

Hai mảnh vỏ là một lớp thuộc ngành động vật Thân mềm, có vỏ gồm hai

mảnh, thường đối xứng với nhau qua mặt phẳng đi qua trục bản lề. Ở phía trên hay

phía lưng, mép vỏ đính lại với nhau bởi dây chằng đàn hồi, còn ở phía bên trong hai

mảnh của vỏ có các cơ để mở và khép vỏ lại. Dọc bờ lưng, phát triển bản lề để đảm

bảo sự cố định của hướng chuyển động của các mảnh khi mở ra hoặc khép lại.

a. Hình dạng vỏ

Hình dạng vỏ của động vật thân mềm thuộc lớp Hai mảnh vỏ rất đa dạng và

phụ thuộc vào kiểu sống của các sinh vật này. Nhìn chung, có 34 loại hình dạng vỏ

được minh họa (Hình .1.2.). Các hình dạng vỏ thường gặp có hình dạng tròn, bầu

dục, nêm, ba góc...

b. Đặc điểm của vỏ

Vỏ có hai mảnh – mảnh trái và phải (Hình .1.1.). Ở phía lưng của mỗi mảnh

có phần nhô ra mà mặt ngoài được phủ đều đặn các đường tăng lớn đồng tâm gọi là

đỉnh; đó là điểm xuất phát của sự phát triển của vỏ. Đỉnh thường lệch về phía trước

và đôi khi lệch về phía sau, nó có thể nhô cao hoặc không và cũng có khi cuộn lại.

Bờ trước phân biệt với bờ sau bởi các dấu hiệu: đỉnh thường lệch về phía trước,

khuyết đường áo (sinus) ở đường viền xoang áo luôn luôn ở phía sau, dây chằng

30

thường được phát triển ở phía sau, vết in cơ khép sau thường lớn hơn vết in cơ khép

trước.

Hình .1.1. Hình thái chung của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)

(Umbo – đỉnh; Dorsal margin – bờ lưng; Anterior margin – bờ trước; Posterior margin – bờ sau; Ventral margin – bờ bụng; Cardinal tooth – răng chính; Lateral tooth – răng bên; Anterior adductor scar – vết bám cơ trước; Pallial line – đường viền áo; Pallial sinus – khuyết đường áo; Posterior adductor scar – vết bám cơ sau; Ligament – dây chằng; Height – chiều cao; Length – chiều dài; Inflation – độ phồng; Escutcheon – khiên; Lunule – trăng; Right valve – mảnh phải; Left valve – mảnh trái; Hinge plate – phiến bản lề)

Trong mỗi mảnh phân biệt các bờ sau; bờ bản lề hay bờ lưng ở phía trên; bờ

dưới hay bờ bụng ở phía dưới, đối diện với bờ bản lề; bờ trước và bờ sau nằm ở

giữa bờ bản lề và bờ dưới (Hình .1.1.). Đối với mỗi mảnh có thể đo các trị số như:

chiều dài – khoảng cách từ bờ trước tới bờ sau, chiều cao – khoảng cách từ đỉnh tới

bờ dưới vuông góc với chiều dài; độ phồng của mảnh – khoảng cách giữa mặt tiếp

giáp của vỏ với điểm phồng nhất của mỗi mảnh (Hình .1.1.).

31

Tô điểm bề mặt vỏ rất đa dạng, song có khi nhẵn, khi đó chỉ thấy các dấu

hiệu của các đường tăng lớn đồng tâm bao quanh đỉnh và song song với mép vỏ.

Ngoài đường tăng lớn ra, trong nhiều trường hợp trên bề mặt vỏ có các kiểu tô điểm

rất đa dạng gồm: các gờ hướng tâm, các phiến, các gờ đồng tâm, các rãnh, các mấu,

các gai... (Hình .1.3.). Tô điểm hướng tâm xuất phát từ đỉnh đi về các phía, còn tô

điểm đồng tâm chạy song song với mép vỏ. Độ lớn của các gờ, hình dạng và số

lượng của chúng rất khác nhau. Chúng có thể là đơn hoặc phân nhánh hai, ba, bốn

lần. Khi đó các gờ được phân ra là các gờ nguyên sinh, bậc 1, bậc 2, bậc 3... Trường

hợp các tô điểm hướng tâm và đồng tâm cắt nhau có khi tạo nên các tô điểm dạng

mấu (Hình .1.3.).

Ở phần lưng của vỏ về phía trước và phía sau thường tách ra các diện riêng

biệt được gọi là trăng và khiên (Hình .1.1.). Chúng khác biệt với phần chính của vỏ

bởi các gờ, rãnh hoặc tô điểm khác nhau. Bề mặt trong của vỏ thường nhẵn, song

đôi khi cũng quan sát thấy các gờ hoặc các rãnh, các nếp uốn... Bờ trong của các

mảnh, nhất là bờ dưới, trong nhiều trường hợp bị xẻ răng cưa, trong khi đó mặt

ngoài nhẵn hay có tô điểm đồng tâm.

Trong tất cả các vỏ Hai mảnh vỏ ở phía bên trong còn thấy dấu vết của các

cơ khép vỏ, đường viền áo, xoang áo, cấu tạo khuyết đường áo (Hình .1.1.).

c. Dây chằng

Dây chằng (Hình .1.1.) là thành tạo được tiết ra từ lớp áo, là phần dạng sừng

từ lớp tạo mặt vỏ bên ngoài. Dựa theo vị trí, dây chằng hoặc là ở ngoài hoặc ở

trong. Thông thường, dây chằng gồm hai phần phân biệt về mặt cấu trúc và cơ dọc,

thực hiện các chức năng đối lập nhau. Cấu trúc của dây chằng trong và ngoài rất

khác nhau, nó có thể gồm cả hai phần dây chằng kể trên, nhưng dây chằng ngoài

thông thường dạng tấm, còn dây chằng trong – dạng sợi.

32

Hình .1.2. Một số hình dạng ở Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)

1. Hình dạng chung; 2. Trapezoidal - hình thang; 3. Cyclindrical - hình trụ; 4. Ensiform - hình kiếm; 5. Oblong - hình thuôn; 6. Subrectangular - gần hình chữ nhật; 7. Subquadrate - gần hình vuông; 8. Trigonal - hnh tam giác; 9. Obliquely ovate - hình trứng xiên; 10. Oval - hình bầu dục; 11. Narrowly subovate - gần bầu dục hẹp; 12. Broadly rounded - dạng tròn rộng; 13. Narrowly rounded - dạng tròn hẹp; 14. Mytiliform - dạng Mytilus; 15. Modioliform - hình trục bánh xe; 16. Submodioliform - gần hình trục bánh xe; 17. Subeliptical - gần elip; 18. Subrostrate - dạng gần có mỏ; 19. Obliquely subtruncate - dạng cụt nghiêng; 20. Subacute - dạng gần nhọn; 21. Elliptical - elip; 22. Truncate - dạng cắt cụt; 23. Acuminate or Acute - dạng nhọn; 24. Cuneate - dạng nêm; 25. Brodly subovate - gần hình trứng rộng; 26. Subcircular - gần tròn; 27. Subtrigonal -gần tam giác; 28. Rhomboidal - gần hình thoi; 29. Ovate - hình trứng; 30. Polygonal - đa giác; 31. Sinuate - ngoằn ngoèo; 32. Discoid - hình đĩa; 33. Auriclate - hình tai; 34. Rostrate - dạng mỏ; 35. Alate - dạng cánh)

33

Hình .1.3. Các kiểu tô điểm mặt vỏ của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)

(Radial – tỏa tia; Concentric – đồng tâm; Lines – dạng đường; Liration – gờ; Ridges – rãnh; Undulation – gợn sóng; Divergent – phân tán; Divericate – phân hướng; Oblique – nghiêng; Scissulcate – dạng chẽ ra; Non-linear – không có đường; Lines – dạng đường; Threads – dạng chỉ; Ribs – gờ; Riblet – sợi; Cancellate – hình mạng; Decussate – chéo hình chữ thập; Imbricate – dạng gối lên nhau; Reticulate – dạng mạng lưới; Cross bars – thanh ngang; Tubercles – dạng mấu; Spines – dạng gai)

34

d. Bản lề

Vỏ của đa số các Hai mảnh vỏ có cơ cấu bản lề ở mặt trong của bờ bản lề.

Nó gồm các mấu hay răng và các hốc tương ứng trên mảnh đối diện gọi là hốc răng

(Hình .1.4.). Phần dày lên của bờ bản lề trên đó có các răng gọi là diện bản lề. Cấu

trúc bản lề là một trong những dấu hiện quan trọng để phân loại Hai mảnh vỏ, có 7

kiểu bản lề tương ứng với cấu trúc răng gồm Taxodont, Schizodont, Dysodont,

Isodont, Heterodont, Desmodont và Pachydont (Hình .1.4.). Ngoài ra, còn dạng Hai

mảnh vỏ mà không có răng được gọi là Edentate (hoặc Edentulous hoặc Anodont)

(Hình .1.4.). Dưới đây là một số kiểu bản lề thường hay được sử dụng nhất trong

phân loại học.

Hình .1.4. Các kiểu răng của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)

Bản lề Dysodonta (răng yếu) (Hình .1.4..3): các phiến răng nguyên sinh tồn

tại trong thời gian ngắn hay dài. Chúng đôi khi teo đi hoặc lớn lên, thực hiện chức

năng của răng. Như vậy, bản lề Dysodonta được đặc trưng bởi bản lề không có răng

hoàn toàn (giống Chiamys) hoặc có các răng nhỏ hay mấu dạng răng (giống

Mytilus).

Bản lề Taxodonta (răng dãy) (Hình .1.4..1): gồm nhiều răng ít nhiều giống

nhau được phân bố thành dãy ở cả hai phía đỉnh (Arcidae, Nuculidae.v.v...).

Bản lề Heterodonta (răng khác nhau) (Hình .1.4..5): gồm ít răng khác nhau

về hình dạng và sự sắp xếp. Các răng chính ở dưới đỉnh ít nhiều thẳng góc với bờ

35

bản lề, còn các răng bên nằm ở phía trước và sau đỉnh và ít nhiều song song với bờ

bản lề (bộ Veneroida).

Bản lề Schizodonta (răng xẻ) (Hình .1.4..2): ở mảnh phải có hai răng tỏa tia

ra từ đỉnh và ở mảnh trái có ba răng, trong đó cái giữa bị xẻ ra và có các răng ở

mảnh phải xen vào giữa.

Bản lề Desmodonta (răng dây chằng) (Hình .1.4..6): đặc trưng bởi sự tiêu

giảm của các răng và sự phát triển của dây chằng trong. Có các mấu dạng thìa làm

giá đỡ các dây chằng này (giống Mya).

Bản lề Pachyodonta (răng dày) (Hình .1.4..7): đặc trưng cho các Rudistae

gồm ít răng lớn, thô, không cân đối, dạng gai, uốn cong cắm vào các hốc ở mảnh

đối diện.

36

CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM HÓA THẠCH HAI MẢNH VỎ DEVON SỚM

VÙNG TÔ MÚA VÀ Ý NGHĨA ĐỊA TẦNG CỦA CHÚNG

3.1. Mô tả cổ sinh

Trong đoạn mặt cắt dày khoảng 10m chứa các lớp đá phiến sét đen tại mặt

cắt đèo Bó Mồng ở vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã thu được 176 mẫu

hóa thạch Hai mảnh vỏ của 15 loài thuộc 11 giống của 10 họ, 6 Bộ, 4 phụ lớp (Bảng

3.1). Mô tả thành phần giống, loài của các mẫu hóa thạch hai mảnh vỏ sử dụng

trong luận văn này chủ yếu dựa trên hệ thống phân loại được tổng hợp trong

“Chuyên luận về Động vật không xương sống (Treatise on Invertebrate

Paleontology)” của Cox in Moore (1969).

Bảng .1.1. Thành phần giống, loài của các mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ vùng Tô

Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

Loài

STT 1 Mytilarca cf. M. chemungensis Số lượng 50 Phần trăm 28.4

Pseudosanguinolites douvillei Beichuania guangzicaoensis 2 3 23 2 13.1 1.1

4 5 Beichuania sonlaensis Beichuania bomongensis 5 13 2.8 7.4

6 7 Paracyclas rugosa Paracyclas sp. 28 1 15.9 0.6

8 9 Limoptera cf. L. macroptera Nuculoidea sp. 16 14 9.1 8.0

10 11 Nuculoidea cf. N. yongfuensis Nuculites sp. 3 5 1.7 2.8

12 13 Schizodus aff. S. appressus Myalina sp. 4 6 2.3 3.4

14 15 Sphenotus vanlinhensis Sanguinolites cf. nagaolingensis 4 2 2.3 1.1

Tổng 176

37

Ngành Mollusca Linnaeus, 1758

Lớp Bivalvia Linnaeus, 1758

Phụ lớp Palaeotaxodonta Koronkov, 1954

Bộ Nuculoida Dall, 1889

Thượng họ Nuculacea Gray, 1824

Họ Nuculidae Gray, 1824

Phụ họ Nuculinae Gray, 1824

Giống Nuculoidea William and Breger, 1916

Loài chuẩn. Cucullea opima Hall, 1843

Chẩn định. Dạng hạt dẻ, không đều bên có đỉnh thẳng và mỏ quay trước hướng

theo đầu trước dài của vỏ (Pojeta, 1986).

Nuculoidea sp.

(Bản ảnh 1, ảnh 1-5, 7, 8)

Tài liệu. 03 mảnh trái, CS135Bi76, CS135Bi70, CS135Bi79; 01 mảnh phải,

CS135Bi77; 01 nhân trong mảnh phải, CS135Bi78.

Hình .1.2. Nuculoidea sp. (Mẫu CS135Bi77)

Mô tả. Vỏ dạng gần hình trứng, đều mảnh, không đều bên. Kích thước trung bình

so với các loài của giống. Bờ bản lề có hai nhánh, nhánh trước hơi lồi, nhánh sau

thẳng (Bản ảnh 1, ảnh 2, 6-8). Bờ trước và bờ sau khá tròn chuyển tiếp đều đặn

xuống bờ bụng. Bờ bụng là một cung tròn đều. Vỏ tương đối phồng, phần phồng

nhất là phần giữa của vỏ. Đỉnh quay về phía trước, nổi cao, nhô cao hơn khỏi bờ

bản lề, lệch về phía sau, nằm ở khoảng 1/3 chiều dài vỏ. Tô điểm ngoài gồm các

đường tăng trưởng đồng tâm thanh (Bản ảnh 1, ảnh 1). Đường viền áo liền (Bản ảnh

38

1, ảnh 4). Vết bám cơ trước và vết bám cơ sau rõ, dạng gần hình elip (Bản ảnh 1,

ảnh 4, 5). Răng dạng răng dãy, nhánh trước của bờ bản lề có 09 răng, nhánh sau

không quan sát được (Bản ảnh 1, ảnh 7-8).

Kích thước (mm).

Bảng .2.1. Kích thước của Nuculoidea sp.

Số hiệu mẫu CS135Bi77 H 16 L 22 W/2 7 Ghi chú Mảnh phải

CS135Bi76 15.5 22.5 6.5

CS135Bi70 16 23 5.5 Bị vỡ phần sau

CS135Bi78 12.5 20 Nhân trong

Nhận xét. Giống Nuculoidea đã được nhiều tác giả chẩn định (William and Breger,

1916; Keen in Cox (1969), p. N231; Bailey, 1983, p. 247; Bailey, 1986; Pojeta và

nnk., 1986, p. 60). Tuy nhiên, các mẫu được xếp vào Nuculoidea ở đèo Bó Mồng về

mặt hình thái và tô điểm giống với chẩn định của Pojeta (1986, p. 60).

Pojeta và nnk., (1986) xác định 2 loài trong kỷ Devon ở Quảng Tây, Trung

Quốc và 01 loài ở Michigan, Mỹ. Các loài này đều khác với mẫu ở đèo Bó Mồng,

loài Nuculoidea yongfuensis có bờ lưng trước lõm, loài Nuculoidea minuta có đỉnh

nằm ở gần giữa bờ lưng; miền trước và miền sau tương đối cân, loài N. cf. N. lirata

(Conrad), 1842 có gờ tăng trưởng đồng tâm thô khác với mẫu ở đèo Bó Mồng.

Mẫu ở đèo Bó Mồng khác với các loài thuộc giống Nuculoidea ở miền Bắc

Việt Nam đã được Kulikova V. F. (trong Dương Xuân Hảo, 1968, p. 53. Pl. XXIII,

fig. 12; p. 54, pl. XXI, fig. 5; p. 54, pl. XXI, fig. 6) và Đặng Trần Huyên (trong

Dương Xuân Hảo, 1980, p. 96, pl. 31, fig. 18; p. 96, pl. 31, fig. 11; p. 97, pl. 31, fig.

10) mô tả về hình dạng, số lượng răng và độ phồng của vỏ. Vì vậy, mẫu ở đèo Bó

Mồng được cho là một dạng mới, tuy nhiên cần thu thập thêm tài liệu để khẳng định

là loài mới.

Phân bố địa tầng và địa lý. Hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn), Devon hạ, đèo Bó Mồng,

vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

Nuculoidea cf. N. yongfuensis Pojeta & Zhang, 1986

39

(Bản ảnh 1, ảnh 9-11)

Tài liệu. 02 mảnh phải CS135Bi72, CS135Bi82 và 01 mảnh trái CS135Bi83

Hình .1.3. Nuculoidea cf. N. yongfuensis (mẫu CS135Bi72)

Mô tả. Vỏ dạng gần như ba cạnh. Bờ bản lề hai nhánh gặp nhau ở đỉnh dưới một

góc gần vuông, nhánh trước thoải và dài hơn, nhánh sau ngắn. Bờ trước tạo với bờ

bụng tạo một góc nhọn; bờ sau chuyển tiếp đều đặn sang bờ bụng. Bờ bụng là một

cung tròn đều. Đỉnh quay về phía sau, nổi cao, nhô cao hơn khỏi bờ bản lề, lệch về

phía sau. Tô điểm ngoài gồm các đường tăng trưởng đồng tâm thanh tụ lại thành bó

(Bản ảnh 1, ảnh 9, 10).

Kích thước (mm).

Bảng .3.1. Kích thước của Nuculoidea cf. N. yongfuensis Pojeta & Zhang, 1986

Số hiệu mẫu CS135Bi72 CS135Bi85 H 8.5 8 L 10.5 10 W/2 - -

Nhận xét. 03 mẫu được xếp vào giống Nuculoidea trên cơ sở hình dạng chung của

vỏ. Một mẫu (Bản ảnh 1, ảnh 10) lộ phần nhân trong của miền trước có dạng mấu

nổi cao giống như vết bám cơ trước nhưng không rõ ràng. Mẫu có hình dạng gần

gũi với loài N. yongfuensis (Pojeta & Zhang, 1986, Bản ảnh 2, ảnh 2-5) trong hệ

tầng Ertang tuổi Emxi ở vùng Quảng Tây, Trung Quốc.

Phân bố địa tầng và địa lý. Trong hệ tầng Ertang tuổi Emxi ở vùng Quảng Tây,

Trung Quốc, hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ, đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa,

huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

40

Thượng họ Nuculanacea H. Adams & A. Adams, 1858

Họ Malletiidae H. Adams and A. Adams, 1858

Giống Nuculites Conrad, 1841

Loài chuẩn. Nuculites oblongata Conrad, 1841

Chẩn định. Dạng hạt dẻ, có đỉnh tương đối cao. Mỏ thay đổi (cả quay trước, thẳng

và quay sau). Vỏ có các đường tăng trưởng dạng bó và đường tỏa tia thanh, không

liên tục đến liên tục (phía sau rõ nhất). Mấu chằng dạng thìa nhỏ, dạng tam giác,

dựng đứng đến hơi nghiêng, ít khi nhô khỏi mặt trong vỏ. Mấu chằng dạng thìa nằm

giữa các đầu trước và sau của hàng răng bản lề răng dãy. Mấu chằng dạng thìa thể

hiện hốc nhỏ đến trung bình trên phiến bản lề (Bailey, 1986).

Nuculites sp.

(Bản ảnh 1, ảnh 12-14)

Tài liệu. 04 mảnh trái có mặt ngoài bảo tồn kém (CS135Bi85-CS135Bi88) và 01

mặt trong mảnh phải (CS135Bi84) thể hiện cấu tạo răng dạng răng dãy.

Hình .1.4. Nuculites sp. (mẫu CS135Bi86)

Mô tả. Vỏ dạng gần hình elip, tương đối dày, đều mảnh, kích thước trung bình so

với các loài của giống, rất không đều bên, kéo dài về phía sau. Bờ bản lề có hai

nhánh, nhánh trước hơi lõm, nhánh sau thẳng. Bờ trước khá tròn tạo với bờ lưng

một góc gần vuông (Bản ảnh 1, ảnh 14), chuyển tiếp đều đặn xuống bờ dưới. Bờ

dưới là một cung tròn mở rộng về 2 bên, rộng hơn về phía sau. Đỉnh nhỏ, nằm lệch

về phía trước, nằm ở khoảng ¼ chiều dài của vỏ, hơi nhô cao hơn bờ bản lề. Mặt

ngoài nhẵn. Răng dạng răng dãy gồm hai nhánh nhánh trước và nhánh sau tạo thành

một chuỗi liên tục (Bản ảnh 1, ảnh 14). Nhánh sau bao gồm các răng hình trụ hẹp,

41

song song theo chiều dọc, trở nên ngắn hơn, thưa và to hơn về phía sau, cao hơn và

mỏng hơn về phía trước. Vết bám cơ trước nằm ngay trước gờ trước đỉnh nông và

rộng, không quan sát được vết bám cơ sau.

Kích thước (mm).

Bảng .4.1. Kích thước của Nuculites sp.

Số hiệu mẫu H L W/2

Ghi chú Miền sau CS135Bi86 13.5 - 6 không bảo tồn

CS135Bi85 13.5 33 6

Nhận xét. Các mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào giống Nuculites dựa trên hình

dạng của vỏ, sự có mặt của vách trong trước và cấu trúc răng dạng răng dãy (bản

ảnh 1, ảnh 14). Mẫu có hình dạng giống với Nuculites sp. B được Pojeta & Zhang

(1986) xác định trong hệ tầng Ertang (Emxi), hệ tầng Sipai (Emxi) ở vùng Quảng

Tây, Trung Quốc.

Mẫu ở đèo Bó Mồng khác với 4 loài Nuculites oblongatus, N. cuneiformis,

N. triqueter, N. nyssa trong loạt Hamilton ở New York, Mỹ Hall (1885) mô tả và

loài N. argentinum Sánchez tuổi Devon trung trong hệ tầng Punta ở bồn

Precordillera, Argentina (Sánchez và nnk., 1995), Sterren F. A. và nnk., (2015) bởi

hình dạng thon, dài hơn và mặt ngoài nhẵn.

Phân bố địa tầng và địa lý. Hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ, đèo Bó

Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

Bộ Trigonioida Dall, 1889

Thượng họ Trigonioidae Lamarck, 1819

Họ Schizodidae Newell and Boyd, 1975

Phụ họ Schizodinae Newell & Boyd, 1975

Giống Schizodus de Verneuil and Murchison, 1844

Loài chuẩn. Axinus obscurus J. Sowerby, 1821

42

Chẩn định. Tỷ lệ chiều dài với chiều cao thường là 1,1/1 đến ,5/1. Tỷ lệ chiều

cao/độ phồng của mảnh đơn khoảng 3/1. Đỉnh thường nổi cao, nằm ở gần giữa hơi

quay trước. Mỏ uốn cong mạnh hướng vào phía bản lề. Tô điểm mặt ngoài gồm các

đường tăng trưởng đồng tâm. Miền sau thường hơi cụt. Đường sống sau tròn rộng.

Không có khiên và trăng (Newell and Boyd, 1975).

Schizodus aff. S. appressus (Conrad), 1842

(Bản ảnh 2, ảnh 6)

1885 Schizodus appressus (Conrad), 1842: Hall, p. 449, pl. LXXV, fig. 3-9

1986 Schizodus aff. S. appressus (Conrad), 1842: Pojeta & Zhang, p. 80, pl. 23,

fig. 4-7;

Tài liệu. 01 mảnh phải CS135Bi126

Hình .1.5. Schizodus aff. S. appressus (Conrad) (mẫu CS135Bi126)

Mô tả. Vỏ dạng gần hình thang, bờ bản lề hơi cong; bờ sau gần thẳng tạo với bản lể

một góc tù; bờ trước tương đối tròn chuyển tiếp đều đặn xuống bờ dưới, bờ bụng

tròn rộng. Độ phồng lớn nhất ở phía sau đỉnh, đỉnh nổi cao, ở gần giữa và quay

trước; mỏ quặp xuống và nhô cao hơn khỏi bờ bản lề, miền sau hẹp và dốc, miền

trước ngắn và dốc hơn, có một đường sống nổi cao chạy từ đỉnh xuống góc dưới

sau, mờ dần ở phía sau. Tô điểm ngoài gồm những đường tăng trưởng đồng tâm

thanh, đều sát nhau. Không quan sát được cấu trúc bên trong.

Kích thước (mm).

Bảng .5.1. Kích thước của Schizodus aff. S. appressus (Conrad), 1842

Số hiệu mẫu CS135Bi126 H 55.5 L 62 W/2 17

43

Nhận xét. Mẫu ở đèo Bó Mồng bảo tồn bờ trước không đầy đủ nhưng vẫn bảo tồn

các đặc điểm chính của giống như vỏ dạng hình thang, mỏ nổi cao hơn so với

đường bản lề và quặp xuống; có đường sống chạy từ đỉnh xuống góc dưới sau. Mẫu

được xếp vào giống Schizodus dựa trên hình dạng và tô điểm mặt ngoài. Các mẫu ở

đèo Bó Mồng rất giống với loài S. aff. S. appressus được Pojeta & Zhang (1986)

xác định trong hệ tầng Nagaoling và Ertang ở Quảng Tây, Trung Quốc.

Phân bố địa tầng và địa lý. Loài Schizodus aff. S. appressus (Conrad) phân bố

trong trong tập Nagaoling hệ tầng Nagaoling (bậc Nagaoling) ứng với phần trên bậc

Praga và trong hệ tậng Ertang bậc Emxi ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ở Việt

Nam, chúng phân bố trong hệ tầng hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn), Devon hạ, đèo Bó

Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

Phụ lớp Heterodonta Neumayr, 1884

Bộ Veneroida H. Adams and A. Adams, 1856

Thượng họ Lucinacea Fleming, 1828

Họ Mactromyidae Cox, 1929

Giống Paracyclas Hall, 1843

Loài chuẩn. Paracyclas elliptica Hall, 1843

Chẩn định. Dạng Lucinid trong kỷ Devon có đỉnh nằm gần giữa mảnh vỏ (Pojeta,

1986)

Paracyclas rugosa (Goldfuss), 1837

(Bản ảnh 4, ảnh 5-10)

1885 Paracyclas lirata Hall, p. 441, pl. 72, fig. 19.

1889 Paracyclas lirata Henry, p. 211, pl. 2, fig. 4-7. ‘

1950 Paracyclas elliptica Hall, 1843 – LaRocque, p. 309, pl. 12, fig. 1-7.

1983 Paracyclas rugosa (Goldfuss), 1837 – Bailey, p. 305, pl. 5F, fig. 51A-H.

1986 Paracyclas rugosa (Goldfuss), 1837 – Pojeta et al., p. 81, pl. 21, fig. 1-9; pl.

22, fig. 3-8; pl. 53, fig. 4, 5.

44

Tài liệu. 01 mảnh phải CS135Bi54 và 04 mảnh trái CS135Bi45, CS135Bi35;

CS135Bi31, CS135Bi44.

Hình .1.6. Mặt ngoài mảnh phải Paracyclas rugosa (Goldfuss) (mẫu CS135Bi54)

Mô tả. Vỏ mỏng, kích thước trung bình so với các loài của giống, có dạng gần tròn,

đều mảnh, đều bên; chiều dài hơi lớn hơn chiều cao. Bờ bản lề cong, dài gần bằng

chiều dài của vỏ. Bờ trước và bờ sau là cung tròn tạo với bờ bản lề một góc tù

khoảng 120o, chuyển tiếp đều đặn xuống bờ dưới. Bờ dưới là một cung tròn đều.

Các mảnh phồng đều, chỗ phồng nhất ở phần đỉnh và ở phần giữa mảnh vỏ. Đỉnh

nhỏ hướng về phía trước và hơi nhô khỏi bờ bản lề. Tô điểm mặt ngoài gồm các gờ

và rãnh đồng tâm thô tròn cạnh, phân bố đều trên mặt vỏ, số lượng gờ từ 12-15 gờ.

Dây chằng và hình thái bên trong không quan sát được.

Kích thước (mm).

Bảng .6.1. Kích thước của Paracyclas rugosa (Goldfuss)

Số hiệu mẫu H L W/2

Ghi chú Không bảo tồn CS135Bi45 17 - 5 miền sau

5

CS135Bi35 CS135Bi31 20 14.5 - 18.5

Nhận xét. Theo đặc điểm hình thái vỏ, dạng mô tả ở trên hoàn toàn giống với loài

Paracyclas rugosa được mô tả và xác định bởi Bailey (1983) và Pojeta & Zhang

(1986). Mẫu ở đèo Bó Mồng có mặt ngoài giống với mô tả của Đặng Trần Huyên

45

(in Dương Xuân Hảo, 1980, p. 102, bản ảnh 31, ảnh 1-2) nhưng mẫu ở đèo Bó

Mồng có hình dạng tròn hơn.

Phân bố địa lý và địa tầng. Loài Paracyclas rugosa (Conrad) xuất hiện trong hệ

tầng Ertang (bậc Emxi) và trong phần thấp của hệ tầng Donggangling (bậc Givet) ở

vùng Quảng Tây, Trung Quốc; trong tập Gorbut, hệ tầng Gravel Point (phần giữa

bậc Givet) và hệ tầng Potter Farm (phần trên bậc Givet) ở vùng Michigan, Mỹ

(Pojeta & Zhang, 1986). Ở Việt Nam; ở đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa, huyện Vân

Hồ, tỉnh Sơn La đi cùng phức hệ hóa thạch Tay cuộn Euryspirifer tonkinensis.

Paracyclas sp.

(Bản ảnh 4, ảnh 4)

Tài liệu. 01 mảnh trái bảo tồn nguyên vẹn (CS135Bi43)

Hình .1.7. Mặt ngoài mảnh trái Paracyclas sp. (mẫu CS135Bi43)

Mô tả. Vỏ tương đối dày, kích thước lớn hơn kích thước trung bình của giống

Paracylcas, vỏ có dạng gần tròn, đều bên. Bờ bản lề cong, hơi ngắn hơn chiều dài

của vỏ. Bờ trước và bờ sau cong thoải tạo với bờ bản lề một góc tù khoảng 160o. Bờ

dưới là một cung tròn thoải.

Đỉnh nhỏ, hướng về phía trước, hơi lệch về phía trước và nhô cao hơn khỏi

bờ bản lề. Tô điểm mặt ngoài gồm các đường đồng tâm mờ chia bề mặt vỏ thành 3

bậc rõ rệt. Dây chằng và hình thái bên trong không quan sát được.

Kích thước (mm).

Bảng .7.1. Kích thước của Paracyclas sp.

Số hiệu mẫu CS135Bi43 H 23 L 23.5 W -

46

Nhận xét. Mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào Paracyclas sp. trên cơ sở cấu trúc và

tô điểm ngoài của vỏ. Mẫu mang những đặc điểm chung của giống nhưng có tô

điểm hoàn toàn khác với các đại biểu của giống trước đây được mô tả bởi Pojeta &

Zhang (1986); Bailey (1983); Hall (1885); Kulikova (in Dương Xuân Hảo, 1968);

Đặng Trần Huyên (in Dương Xuân Hảo, 1980) và Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc,

2012).

Phân bố địa tầng và địa lý. Ở đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh

Sơn La đi cùng phức hệ hóa thạch Tay cuộn Euryspirifer tonkinensis.

.

Thượng họ Carditacea Fleming, 1820

Họ Permophoridae van de Poel, 1959

Phụ họ Myoconchinae Newell, 1957

Giống Pseudosanguinolites Patte, 1927

Loài chuẩn. Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927

Chẩn định. Hình dạng thon dài và cong, mặt trước góc cạnh, mặt sau ít nhiều tròn;

vỏ dày, với mỏ ở tận cùng phía trước. Diện hình thang ở trên phiến bản lề, ở mảnh

phải có răng chính kéo dài về phía sau song song với bờ trên; dây chằng bên ngoài

dài, hẹp; phần trước của bản lề không rõ, vết bám cơ trước hình elip và vết bám cơ

sau có thể nhìn thấy (Cox in Moore, 1969).

Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927

(Bản ảnh 3, ảnh 1-6; Bản ảnh 4, ảnh 1-3)

1929 Pseudosanguinolites douvillei - Patte, p. 62, Pl.7, fig. 11, Pl. 8, fig. 1a, b.

1988 Ganxiella longa - Liu, p.265, pl.84, fig. 4-7.

1997 Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927 - Fang et al., Pl. 1, fig. 1-11, Pl 2,

fig. 1-5, Pl. 5, fig. 6-8.

Tài liệu. 07 mẫu nguyên con và nhiều mảnh không hoàn chỉnh

47

Hình .1.8. Mảnh phải Pseudosanguinolites douvillei Patte (mẫu CS135Bi148)

Mô tả. Vỏ dày, lớn, dạng kéo dài, gần hình chữ nhật, gần đều mảnh hoặc mảnh phải

hơi lớn hơn và phồng hơn mảnh trái; rất không đều bên với đỉnh nằm gần cực trước,

hơi nhô cao hơn so với đường bản lề; trăng sâu và hẹp, khiên lớn và kéo dài về phía

sau; bờ bản lề dài, nằm thẳng theo bờ lưng phía sau đỉnh; bờ bụng gần song song

với bờ bản lề, hơi uốn cong hình vòng cung, gần như tạo thành một góc hẹp với bờ

lưng trước; bờ trước tương đối tròn và hẹp; bờ sau gần như cắt cụt; đường sống kéo

từ đỉnh hướng xuống góc dưới sau mờ dần khi đạt nửa chiều dài vỏ; tô điểm ngoài

gồm các đường tăng trưởng đồng tâm nổi cao và rõ ở nửa trước vỏ dần tạo thành

nếp nhăn dạng gợn sóng ở nửa sau vỏ; dây chằng ngoài.

Răng chính dài, gần thẳng có khuynh hướng xuất phát từ đỉnh. Vết bám cơ

trước sâu, gần tròn nằm ngay dưới bản lề và răng chính. Vết bám cơ sau rộng, nông

hình oval và lớn hơn vết bám cơ trước, nằm gần đầu sau của răng bên. Vỏ dày, đặc

biệt ở vùng sườn phía sau đỉnh và mỏng dần về phía sau.

Kích thước (mm).

Bảng .8.1. Kích thước của Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927

Số hiệu mẫu CS135Bi147 CS135Bi148 CS135Bi149 CS135Bi150 H 62 69 60 57 L 195 202 195 189 W/2 13.5 18.5 15 16

Nhận xét. Các mẫu được xếp vào giống Pseudosanguinolites ở vùng đèo Bó Mồng

bảo tồn tốt, cho phép quan sát được rõ ràng cấu trúc bên trong đặc biệt là đặc điểm

dây chằng mà Patte (1927), Liu (1988) và Fang (1997) chưa đưa ra được. Các mẫu

được xếp vào loài P. douvillei ở đèo Bó Mồng có đặc điểm hình thái và cấu trúc bên

48

trong hoàn toàn giống với mô tả của Patte (1927) và Fang (1997), Zhang và nnk

(2015).

Phân bố địa tầng và địa lý. Loài P. sanguinolites được Fang (1997) mô tả trong hệ

tầng Ganxi, Devon hạ (tuổi Emxi) ở vùng Ganxi, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc; hệ

tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ, đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ,

tỉnh Sơn La.

Thượng họ Beichuaniacea Liu and Gu, 1988

Họ Beichuaniidae Liu and Gu, 1988

Giống Beichuania Liu and Gu, 1988

Loài chuẩn. Beichuania ganxiensis Liu and Gu, 1988

Chẩn định. Vỏ dày, kích thước trung bình đến tương đối lớn, không đối xứng hai

bên và rất không đều bên; hình trứng, hình chữ nhật, hình tam giác đến hình nêm;

mảnh phải lớn hơn và phồng hơn mảnh trái, đỉnh nhô cao hơn khỏi đường bản lề,

đường sống đỉnh nổi cao và kéo dài xuống góc dưới sau, có một răng giả răng chính

hình nón lớn, một đến hai răng bên; mảnh trái kém phồng hơn, và có hốc răng

tương ứng với răng ở mảnh phải (Liu & Gu in Hou Hong Fei, 1988).

Beichuania guangcaoziensis Liu and Gu, 1988

(Bản ảnh 7, ảnh 1-6)

Beichuania guangcaoziensis Liu et Gu, 1988, pl. 79, figs. 5, 11, 17.

Tài liệu. Một mảnh trái (CS135Bi89) và một mảnh phải (CS135Bi90) bảo tồn tốt

thể hiện rõ các đặc điểm hình thái bên trong và bên ngoài.

Hình .1.9. Mặt ngoài mảnh trái Beichuania guangcaoziensis (mẫu CS135Bi89)

49

Mô tả. Vỏ kích thước tương đối lớn so với kích thước trung bình của giống, không

đối xứng hai bên, rất không đều mảnh và không đều bên, gần hình trứng đến gần

hình chữ nhật, vỏ rất dày.

Bờ bản lề hình cung; bờ trước và bờ sau tròn, hợp với nhau thành một góc

khoảng 87-100o; bờ lưng trước thẳng; bờ lưng sau hơi cong đến gần thẳng; bờ lưng

trước bằng 1/3 chiều dài vỏ; bờ bụng gần song song với bờ lưng nhưng dần hẹp lại

về phía sau tạo thành một góc nhọn; bờ bụng trước và bờ lưng trước hợp với nhau

thành một góc gần vuông; tô điểm mặt ngoài gồm các đường tăng trưởng đồng tâm

không đều; bề mặt bên trong nhẵn; trăng hẹp; khiên rõ, dài và hẹp; dây chằng ngoài

và nằm ở phía trước khiên.

Mảnh phải lớn và phồng; lớn hơn và lồi hơn mảnh trái, phồng nhất ở phía

trên đường sống đỉnh và nằm ở giữa vỏ; đường sống đỉnh rõ và dạng góc cạnh

nhưng mờ dần về phía bờ bụng sau, phần trên rất dốc và phần dưới thoải hơn; đỉnh

quay về phía trước, nhô cao hơn nhiều bờ bản lề, nằm ở khoảng 1/3 chiều dài vỏ

tính từ bờ trước; mỏ nhọn và dạng góc cạnh, uốn cong vào phía trong. Đỉnh của

mảnh trái tương đối phẳng, kém lồi và hơi nhô cao hơn khỏi bờ bản lề.

Có một răng giả răng chính hình nón, lớn nằm dưới đỉnh của mảnh trái và

nối với nó bởi một răng giả răng bên sau dài; một hốc lớn tương ứng nằm dưới đỉnh

và một hốc răng bên sau trên mảnh phải.

Vết ám cơ trước gần tròn, nông; vết bám cơ sau rõ gần hình tròn, gồ lên từ

mặt trong của vỏ và lớn gần bằng hai lần vết bám cơ trước, nằm ở gần đầu cuối của

răng giả răng bên; vết bám cơ chân trước nhỏ và sâu nằm giữa vết bám cơ trước và

răng giả răng chính; đường viền áo hoàn chỉnh.

Kích thước (mm).

Bảng .9.1. Kích thước của Beichuania guancaoziensis

Ghi chú

Số hiệu mẫu CS135Bi CS135Bi L 98.2 90.8 H W/2 Mảnh 72.1 65.2 37.0 Right Hơi bị biến dạng 20.1 Left

50

Nhận xét. Mặc dù không nhiều mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào loài B.

guangcaoziensis, chỉ gồm một mảnh phải và một mảnh trái nhưng chúng thể hiện

đặc điểm hình thái bên trong và bên ngoài rõ ràng. Chúng được xếp vào loài B.

guangcaoziensis bởi các đặc điểm như không đối xứng hai bên, rất không đều

mảnh, không đều bên; hình dạng gần hình trứng đến gần hình chữ nhật; vỏ rất dày;

có một răng giả răng chính lớn, hình nón trên mảnh trái và theo sau bởi răng bên sau

lớn và dài.

B. guangcaoziensis được Liu & Gu (in Hou Hong Fei, 1988) báo cáo trong

hệ tầng Xiejiawan (Emxi). Đây là lần đầu tiên B. guangcaoziensis được tìm thấy

trong địa tầng Devon ở Việt Nam nói chung và hệ tầng Bản Nguồn nói riêng.

Phân bố địa lý và địa tầng. Hệ tầng Xiejiawan, bậc Emxi, vùng Tứ Xuyên, Trung

Quốc;Ở đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đi cùng phức hệ

hóa thạch Tay cuộn Euryspirifer tonkinensis.

Beichuania bomongensis sp. nov.

(Bản ảnh 8, ảnh 1-8; Bản ảnh 9, ảnh 1-12)

Mẫu chuẩn. CS135Bi93; Mẫu phụ chuẩn. CS135Bi92, CS135Bi93, CS135Bi94

Vị trí, tuổi và địa tầng. Vị trí: đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; Phần

giữa của hệ tầng Bản Nguồn? tuổi Emxi.

Nguồn gốc tên gọi. Bó Mồng: tên của ngôi làng tại vị trí lấy mẫu, vị trí tìm thấy

hóa thạch.

Tài liệu. Nhiều mẫu được bảo tồn tốt thể hiện rõ các đặc điểm hình thái gồm hai

mẫu nguyên con, ba mảnh trái và bốn mảnh phải.

Kích thước (mm).

Bảng .9.2. Kích thước của Beichuania bomongensis

L H W/2 Mảnh Ghi chú

Số hiệu mẫu CS135Bi91 43.2 18.5 Phải Nguyên con

CS135Bi91 CS135Bi92 49.5+ 38.5+ 59.5- 38.4 64.2- 12.5 21.0+ Trái Phải

51

CS135Bi92 57.0- 55.9- 19.5+ Trái

CS135Bi93 52.6 20.1 Trái Nguyên con nhưng hơi bị biến dạng Bờ sau không bảo tồn

Bị biến dạng

CS135Bi94 CS135Bi95 65.3- 61.1+ 46.2 48.2 59.6 18.3 21.1 Trái Phải

Chẩn định. Vỏ rất dày, chiều dài vỏ lớn hơn chiều cao, không đối xứng hai bên,

không đều mảnh, dạng gần ba cạnh đến gần hình trứng rộng. Tô điểm mặt ngoài

gồm các đường tăng trưởng đồng tâm không đều. Mảnh trái có đỉnh tương đối

phẳng, hơi nhô cao hơn khỏi đường bản lề; có một răng giả răng chính hình nón, lớn

nằm phía dưới đỉnh và nối với nó là một răng giả răng bên sau to và dài. Mảnh phải

có đỉnh nhô cao hơn hẳn đường bản lề; mỏ nhọn và uốn mạnh vào phía trong; có

hốc răng tương ứng với răng của mảnh trái và một răng bên trước thấp, to nằm tiếp

giáp với hốc răng giả răng chính.

Hình .1.10. Mặt ngoài mảnh phải Beichuania bomongensis (mẫu CS135Bi90)

Mô tả. Vỏ rất dày, kích thước trung bình so với kích thước của giống; không đối

xứng hai bên, không đều mảnh và không đều bên; dạng gần ba cạnh đến gần hình

trứng rộng. Bờ bản lề hình cung; bờ trước và bờ sau tròn tạo với nhau một góc

khoảng 95-110o và chuyển tiếp đều đặn xuống bờ bụng; bờ bụng là một cung tròn

nhưng hơi hẹp về phía sau, tạo thành góc dưới sau gần nhọn; tô điểm mặt ngoài

gồm các đường tăng trưởng đồng tâm không đều; mặt trong nhẵn; trăng hẹp và nhỏ;

khiên hẹp và dài; dây chằng ngoài và nằm ở trước khiên.

52

Mảnh phải hơi lớn hơn và phồng hơn mảnh trái, phồng nhất ở giữa vỏ; đỉnh

nhô cao hơn khỏi bờ bản lề, nằm ở gần giữa bờ lưng và quy trước; đường sống đỉnh

rõ, tương đối sắc cạnh và mờ dần về phía góc dưới sau; mỏ nhọn và uốn cong vào

trong. Đỉnh mảnh trái tương đối phẳng hơi nhô cao khỏi bờ bản lề. Mảnh trái có

một răng giả răng chính hình nón, lớn nằm ở dưới đỉnh và theo sau bởi một răng giả

răng bên sau lớn và dài. Mảnh phải có hai hốc răng của răng tương ứng và một răng

bên trước lớn cạnh ngay sát hốc răng giả răng chính. Vết bám cơ trước sâu, gần

hình tròn tới hình elip; vết bám cơ sau rõ, gần hình tròn và lớn hơn vết bám cơ

trước, nằm gần đầu cuối của răng giả răng chính. Đường viền áo hoàn toàn.

Nhận xét. Beichuania bomongensis sp. nov. có hình thái gần giống với loài chuẩn

B. ganxiensis Liu & Gu (Liu & Gu in Hou Hong Fei, 1988) nhưng được phân biệt

với loài này dựa trên đặc điểm cấu trúc vỏ, độ phồng của hai mảnh gần bằng nhau,

đỉnh nằm ở gần giữa bờ lưng.

Phân bố địa tầng và địa lý. Beichuania bomongensis đi cùng với các loài Hai

mảnh vỏ, Tay cuộn, Bọ ba thùy, san hô, Chân bụng, Chân đầu của phức hệ

Euryspirifer tonkinensis, tuổi Emxi sớm; có vị trí địa tầng nằm trên hệ lớp chứa Tay

cuộn Athyris elongata ứng với phần thấp của hệ tầng Mia Lé ở khu vực Đông Bắc

Bộ. Mẫu được sưu tập tại mặt cắt đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh

Sơn La.

Beichuania sonlaensis sp. nov.

(Bản ảnh 10, ảnh 1-11)

Holotype. CS135Bi99; Paratype. CS135Bi100, CS135Bi101, CS135Bi102

Vị trí, tuổi và địa tầng. Vị trí: đèo Bó Mồng; Phần giữa của hệ tầng Bản Nguồn?

tuổi Emxi.

Nguồn gốc tên gọi. Son La: tên của tỉnh, nơi tìm thấy hóa thạch.

Tài liệu. Một mảnh trái và một mảnh phải tương đối hoàn chình và bảo tồn tốt thể

hiện rõ các đặc điểm hình thái; ba mảnh trái không hoàn chỉnh thể hiện rõ cấu trúc

bản lề.

Kích thước (mm).

53

Bảng .10.1. Kích thước của Beichuania sonlaensis

Số hiệu L H W/2 Mảnh Ghi chú

mẫu CS135Bi99 96.8 CS135Bi100 108.5 75.9 86.2 35.8 22.0 Phải Trái Hơi bị biến dạng Hơi bị biến dạng

Chẩn định. Vỏ tương đối dày, chiều dài vỏ lớn hơn chiều cao, không đối xứng hai

bên, không đều mảnh, rất không đều bên, dạng gần hình chữ nhật. Tô điểm mặt

ngoài gồm các đường tăng trưởng đồng tâm không đều. Mảnh trái có đỉnh tương đối

phẳng; có một răng giả răng chính hình nón, lớn nằm phía dưới đỉnh và một răng

bên sau dạng phiến mỏng, dài. Mảnh phải có đỉnh nhô cao hơn hẳn đường bản lề;

mỏ nhọn, quay về phía trước và uốn mạnh vào phía trong; có hốc răng tương ứng

với răng của mảnh trái và một răng bên trước thấp, to nằm tiếp giáp với hốc răng

giả răng chính.

Mô tả. Vỏ dày, kích thước rất lớn so với kích thước trung bình của giống, không đối

xứng hai bên, rất không đều mảnh và không đều bên; dạng gần hình chữ nhật; chiều

dài lớn hơn chiều cao; bờ trước và bờ sau tròn tạo với nhau một góc khoảng 87-110 o

và chuyển tiếp đều đặn xuống bờ bụng; bờ lưng sau hơi cong đến gần thẳng; bờ

lưng trước ngắn bằng khoảng 1/3 bờ lưng sau; bờ bụng gần thẳng và gần song song

với bờ lưng, nhưng hơi hẹp lại về phía sau; bờ lưng trước và bờ bụng trước tạo với

nhau thành một góc gần vuông; tô điểm mặt ngoài gồm các đường tăng trưởng đồng

tâm không đều; mặt trong vỏ nhẵn; không có trăng; khiên hẹp và dài; dây chằng

ngoài.

Hình .1.11. Mặt ngoài mảnh trái Beichuania sonlaensis (Mẫu CS135Bi99)

54

Mảnh phải lớn và hơi phồng hơn mảnh trái, phần phồng nhất ở giữa vỏ nằm trên

đường sống đỉnh; đường sống đỉnh rõ và nổi cao nhưng mờ dần về phía góc dưới

sau, phần trên dốc và phần dưới thoải hơn; đỉnh hơi quay trước, nhô cao hơn bờ bản

lề và nằm ở khoảng ¼ chiều dài vỏ tính từ bờ trước; mỏ dạng góc cạnh, uốn cong

vào phía trong. Mảnh phải có một răng giả răng chính hình nón, lớn nằm ở ngay

dưới đỉnh. Mảnh trái có một hốc răng tương ứng và một răng bên trước bên cạnh

hốc răng. Mảnh trái có một răng bên dạng phiến dài nằm trên vết bám cơ chân sau.

Vết bám cơ trước sâu và hình gần tròn. Vết bám cơ chân trước nhỏ và sâu nằm giữa

vết bám cơ trước và răng giả răng chính. Vết bám cơ sau rõ, hình gần tròn, nông

hơn và lớn hơn vết bám cơ trước, nằm gần đầu sau của răng bên sau. Đường viền áo

hoàn toàn.

Nhận xét. Về mặt hình thái Beichuania sonlaensis sp. nov. gần gũi với B. sinensis.

Nhưng loài B. sonlaensis được phân biệt với B. sinensis bởi đỉnh cao hơn và nằm

gần bờ trước hơn, tỷ lệ chiều cao so với chiều dài là rất lớn (0.8 and 0.63); miền sau

phía trên đường sống đỉnh lớn hơn. Do đó, loài B. sonlaensis được cho là loài mới.

Loài mới này có hình dạng gần giống với B. rectangula nhưng khác bởi bờ

lưng sau hơi cong đến gần thẳng, bờ bụng tròn và đỉnh của mảnh phải cao hơn.

Phân bố địa lý và địa tầng. Beichuania sonlaensis đi cùng với các loài Hai mảnh

vỏ, Tay cuộn, Bọ ba thùy, san hô, Chân bụng, Chân đầu của phức hệ Euryspirifer

tonkinensis, tuổi Emxi sớm; có vị trí địa tầng nằm trên hệ lớp chứa Tay cuộn

Athyris elongata ứng với phần thấp của hệ tầng Mia Lé ở khu vực Đông Bắc Bộ.

Mẫu được sưu tập tại mặt cắt đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn

La..

Phụ lớp Anomalodesmata Dall, 1889

Bộ Pholadomyoida Newell, 1965

Thượng họ Pholadomyacea Gray, 1847

Họ Grammysiidae Miller, 1877

55

Phụ họ Grammysiinae Miller, 1877

Giống Sphenotus

Loài chuẩn. Sanguinolites arcaeformis Hall and Whitfield, 1869

Chẩn định. Dạng kéo dài, đều mảnh, rất không đều bên; miền trước ngắn, miền sau

dài nghiêng, hẹp; đường sống dài, thẳng; đường sống đỉnh kéo dài xuống góc dưới

sau; bề mặt có đường tăng trưởng đồng tâm; hai răng ngắn nằm dưới đỉnh của mảnh

phải, một hoặc hai răng bên; dây chằng ngoài, nằm trong rãnh; vết bám cơ trước rõ;

vết bám cơ sau mờ; đường viền áo hoàn chỉnh (Miller, 1889).

Sphenotus vanlinhensis Mansuy, 1916

(Bản ảnh 2, ảnh 3-5)

1916 Sphenotus vanlinhensis - Mansuy, p.56, pl. 8, fig.5

2012 Sphenotus vanlinhensis Mansuy, 1916 – Dang Tran Huyen in Vu Khuc, p. 60,

pl. 5, fig.6-7

Tài liệu. 01 mảnh trái (CS135Bi136); 01 khuôn ngoài mảnh phải (CS135Bi137); 01

nhân trong mảnh phải (CS135Bi138)

Mô tả. Vỏ mỏng, dạng hình bầu dục kéo dài. Bờ bản lề thẳng. Bờ trước và bờ sau

cong lồi, bờ trước tròn hẹp. Bờ dưới gần như song song với bờ bản lề và hơi lõm

vào ở khoảng 1/3 chiều dài vỏ. Vỏ kém phồng ở phần sau, chỗ phồng nhất ở gần

đỉnh. Một đường kin đi từ đỉnh tới góc sau dưới (Bản ảnh 2, ảnh 3).

Đỉnh rộng, hình tam giác tròn cạnh, ở rất gần bờ trước và nhô chút ít khỏi đường

bản lề. Tô điểm mặt ngoài gồm những gờ và rãnh đồng tâm không đều, nổi lên rõ

rệt ở phần miền trước và mờ dần ở phần miền sau.

Hình .1.12. Mảnh trái Sphenotus vanlinhensis (Mẫu CS135Bi136)

Kích thước (mm).

Bảng .12.1. Kích thước của Sphenotus vanlinhensis Mansuy, 1916

56

Số hiệu mẫu CS135Bi136 H 20 L 69.5 W -

Nhận xét. Mẫu của chúng tôi giống với loài Sphenotus vanlinhensis được Đặng

Trần Huyên (in Vũ Khúc, 2012) mô tả nhưng có bờ sau dài hơn. Đặng Trần Huyên

(in Dương Xuân Hảo, 1980) mô tả loài S. aff. Solenoids Hall trong phần dưới của hệ

tầng Bản Nguồn (Devon trung) và S. (?) spatulata (Mansuy) trong điệp Suối Tra

(Devon hạ) ở hạ lưu sông Đà nhưng khác với mẫu mô tả ở trên bởi kích thước lớn

hơn và chiều dài ngắn hơn.

Phân bố địa tầng và địa lý. Hệ tầng Mia Lé (D1 ml), Devon hạ, vùng Vạn Linh,

tỉnh Lạng Sơn; hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ đèo Bó Mồng, vùng Tô

Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

Giống Sanguinolites M’Coy, 1844

Loài chuẩn. Sanguinolites discors McCoy, 1844

Chẩn định. Dạng kéo dài, đều mảnh, rất không đều bên; miền trước ngắn, miền sau

dài nghiêng, hẹp; đường sống đỉnh kéo dài xuống góc dưới sau dài, thẳng; vỏ tô

điểm đồng tâm dạng nếp nhăn ở miền trước đến đường sống sau đỉnh và không có

tô điểm tỏa tia ở vùng lưng (Pojeta & Zhang, 1986).

Sanguinolites nagaolingensis Pojeta & Zhang, 1986

(Bản ảnh 2, ảnh 1-2)

1986 Sanguinolites nagaolingensis Pojeta & Zhang, pl 31, figs. 1-6

Tài liệu. 02 mảnh phải bảo tồn kém (CS135Bi140, CS135Bi141).

Hình .1.13. Mặt ngoài mảnh phải Sanguinolites nagaolingensis (Mẫu CS135Bi140)

57

Mô tả. Vỏ mỏng, dạng bầu dục kéo dài, mở rộng về phía sau. Bờ bản lề thẳng. Bờ

bụng gần song song với đường bản lề. Bờ trước là một cung tròn hẹp, ngắn; bờ sau

là một cung tròn rộng. Phần phía trước phồng. Có một đường sống kéo dài từ đỉnh

đến góc dưới sau và mờ dần ở phía sau. Đỉnh nhỏ, không nhô cao hơn khỏi đường

bản lề, nằm ở khoảng 1/5 chiều dài vỏ. Tô điểm mặt ngoài gồm các nếp nhăn và

rãnh nông đồng tâm.

Nhận xét. Mẫu có hình dạng và tô điểm giống với loài Sanguinolites

nagoalingensis tuổi Devon hạ, hệ tầng Nagaoling, vùng Nagaoling, Guangxi, Trung

Quốc được Pojeta & Zhang (1986) mô tả.

Phân bố địa tầng và địa lý. Loài S. nagaolingensis xuất hiện trong tập Nagaoling

hệ tầng Nagaoling (phần trên của bậc Lockov); trong hệ tầng Ertang (bậc Emxi); hệ

tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ,

tỉnh Sơn La.

58

Phụ lớp Pteriomorphia Beurlen, 1944

Bộ Pterioida Newell, 1965

Phụ bộ Pteriina Newell, 1965

Phụ họ Ambonychiacea Miller, 1877

Họ Ambonychiidae Miller, 1877

Giống Mytilarca Hall & Whitfield, 1869

Loài chuẩn. Inoceramus chemungensis Conrad, 1842

Chẩn định. Vỏ hình chiếc dép, hơi hình lưỡi liềm, mỏ ở tận cùng; không có tô điểm

tỏa tia hoặc khe tơ bám; đường sống đỉnh kém rõ ràng hơn so với Glosseletia; vài

răng chính nghiêng và 2 hoặc 3 răng bên ở mỗi mảnh (Cox in Moore, 1969).

Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842

(Bản ảnh. 5, ảnh 1-16)

1842 Inoceramus chemungensis – Conrad, p. 246, pl. 13, fig. 9

1962 Mytilarca chemungensis (Conrad) – McAlester, p. 38, pl. 15, fig. 1, 2, 8, 9,

10, 11, 12, 13, 14, 15, 17, 18; pl. 16, fig. 1.

1986 Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842 – Pojeta et al., p. 91, pl. 34,

fig. 1, 8, 9; pl. 35, fig. 3-5; pl. 57, fig. 3, 4, 12.

Hình .1.14. Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad) (Mẫu CS135Bi142)

Tài liệu. 04 mẫu nguyên con, 03 mảnh phải hoàn chỉnh và 04 mảnh phải không

hoàn chỉnh.

Mô tả. Vỏ dạng mytilus, đều mảnh hoặc gần đều mảnh, không đều bên. Hình dạng

thay đổi; bờ lưng lồi, bờ bản lề thẳng. Bờ bụng thẳng hoặc hơi lõm. Đỉnh nhọn, lệch

59

hẳn về phía trước nhưng không nhô khỏi bản lề. Tô điểm bề mặt là các gờ và rãnh

đồng tâm mờ, cách nhau không đều.

Kích thước (mm).

Bảng .14.1. Kích thước của Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842

Số hiệu mẫu W/2

CS135Bi19 CS135Bi142 CS135Bi143 CS135Bi144 CS135Bi146 CS135Bi14 CS135Bi20 CS135Bi25 CS135Bi01 H 37.5 33.5 30 27 29.5 28.5 22 22 27.5 L 23.5 21 19 17 20 19 15.5 17 16.5 9 5.5 6 6.5 - - - -

Nhận xét. Các mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào loài Mytilarca chemungensis bảo

tồn tốt hình dạng và tô điểm ngoài nhưng cấu trúc bên trong không quan sát được.

Mẫu được xác định dựa trên hình dạng và tô điểm mặt ngoài. Mẫu ở đèo Bó Mồng

có hình dạng và tô điểm ngoài giống với loài M. chemungensis (Conrad) do Hall

(1884), McAlester (1962) mô tả và Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842

Pojeta & Zhang (1986). Các mẫu được xếp vào M. cf. M. chemungensis ở đèo Bó

Mồng có hình dạng rất thay đổi có mảnh phải kém phồng hơn mảnh trái (Bản ảnh 6,

ảnh 2).

Mẫu mô tả ở trên khác với Mytilarca sp. được Đặng Trần Huyên (trong

Dương Xuân Hảo, 1980, p. 100, pl. 31, fig. 6-7) bởi kích thước nhỏ hơn và không

thể hiện những rãnh dọc nhỏ song song với nhau trên diện khớp.

Phân bố địa tầng và địa lý. Loài Mytilarca cf. M. chemungensis được tìm thấy

trong các hệ tầng Yujiang (bậc Praga-Emxi), Ertang (Emxi), Yingtang (Eifel) ở

Quảng Đông, Trung Quốc; hệ tầng Four Mile Dam (Givet) ở Michigan, Mỹ; hệ tầng

Bản Nguồn (D1 bn), Devon hạ đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh

Sơn La. Loài M. chemungensis được ghi nhận trong địa tầng Devon thượng ở New

York và phía bắc Pennsylvania.

60

Họ Myalinidae Frech, 1891

Giống Myalina De Koninck, 1842

Loài chuẩn. Myalina goldfussiana DeKoninck, 1842

Chẩn định. Vỏ dạng Mytilus với các mỏ ở gần tận cùng, thường không có tô điểm,

bề mặt mảnh trái ở một số loài xù xì bởi các phiến tăng trưởng nổi cao; mảnh phải

kém phồng và thường hơi nhỏ hơn mảnh trái; đỉnh không có tô điểm (More, 1969).

Myalina sp.

(Bản ảnh.2, ảnh 8)

Tài liệu. 01 mảnh trái bảo tồn tốt (CS135Bi131); 01 mẫu bảo tồn nhân trong mảnh

trái và bờ lưng mảnh phải (CS135Bi130).

Hình .1.15. Mặt ngoài mảnh trái Myalina sp. (Mẫu CS135Bi124)

Mô tả. Vỏ dạng mytilus, tương đối mỏng; bờ bản lề thẳng, bằng chiều dài của vỏ;

tai sau rất phát triển; bờ trước thẳng; bờ sau lồi rộng, gần song song với bờ trước;

mỏ ở tận cùng, nhọn và hướng về phía trước; tô điểm bề mặt gồm các đường tăng

trưởng đồng tâm thanh, đôi chỗ dạng gợn sóng. Dây chằng sau, dạng kép?

(duplivincular).

Nhận xét. 01 mảnh trái bảo tồn tốt (Bản ảnh 2; ảnh 8) cho phép quan sát được hình

thái chung và tô điểm mặt ngoài, một mẫu (Bản ảnh 2; ảnh 7) thể hiện dây chằng

dạng kép, song cấu trúc bên trong không quan sát được. Về mặt hình thái rất giống

với M. copei Whitfield, 1902 (McRobert & Newell, 2005) song bờ trước ở M. copei

dựng hơn và bề mặt thường nhẵn hoặc có đường tăng trưởng mờ. McAlester (1962)

61

mô tả hai loài trong Devon thượng ở New York Chemung Stage nhưng chúng khác

với mẫu ở đèo Bó Mồng bởi vỏ phồng hơn, bờ sau ngắn hơn và bờ trước cong hơn.

Phân bố địa tầng và địa lý. Hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn), Devon hạ ở đèo Bó

Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

Thượng họ Pteriacea Gray, 1847

Họ Pterineidae Miller, 1877

Giống Limoptera Hall and Whitfield, 1869

Loài chuẩn. Lima macroptera Conrad, 1838

Chẩn định. Dạng có cánh, có gờ đơn giản, hai mặt lồi với thùy trước tiêu giảm;

mảnh phải kém phồng hơn mảnh trái (Pojeta, 1986).

Limoptera? cf. macroptera (Conrad), 1838

(Bản ảnh 8, ảnh 1-8)

1838 Lima macroptera – Conrad, p. 117

1986 Limoptera macroptera (Conrad), 1838 – Pojeta et al., p. 96, pl. 61, fig. 2-4,

6-8; pl. 62, fig. 1-3, 7, 8; pl. 64, fig. 1-5.

Tài liệu. 04 mặt ngoài mảnh trái CS135Bi57, CS135Bi54, CS135Bi55, CS135Bi66;

02 khuôn trong mảnh trái CS135Bi47, CS135Bi48.

Mô tả. Vỏ dạng gần hình vuông, thẳng đứng. Chiều cao lớn hơn 1/3-1/4 lần chiều

dài. Bờ bản lề thẳng và ngắn hơn chiều dài vỏ. Đỉnh nhỏ, nổi cao hướng về phía

trước và nhô lên khỏi đường bản lề, nằm lệch về phía trước của vỏ. Vùng đỉnh nổi

cao, phồng khi còn nhỏ và có dạng bướu ở những mẫu trưởng thành. Bờ trước

tương đối tròn; bờ sau gần thẳng tạo với đường bản lề một góc gần vuông. Tai trước

và tai sau phát triển; tai trước nhỏ, tai sau dạng hình cánh. Tô điểm mặt ngoài vỏ

gồm các gờ tỏa tia bậc 1 và bậc 2 (Bản ảnh 8; ảnh 1,2,4). Gờ bậc 1 xuất phát từ đỉnh

và kéo xuống tới mép bờ bụng; gờ bậc 2 nhỏ hơn xuất phát từ khoảng 1/3 chiều cao

vỏ tính từ đỉnh kéo dài xuống mép bờ bụng.

62

Hình .1.16. Mặt ngoài mảnh trái Limoptera? cf. macroptera (Conrad) (Mẫu CS135Bi57) Diện dây chằng kéo dài theo chiều dài của bản lề. Bờ bản lề thẳng và ngắn

hơn chiều dài vỏ. Dây chằng kép, đánh dấu bằng các rãnh và gờ dọc, song song,

nhấp nhô (Bản ảnh 8, ảnh 3, 6). Trên diện dây chằng đếm được 4-5 gờ gần song

song nhau chạy dọc theo diện dây chằng. Vết bám cơ sau nông, rộng nằm gần giữa

vỏ.

Nhận xét. Các mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào giống Limoptera bảo tồn tương

đối tốt, thể hiện các đặc điểm cơ bản của giống. Song khoảng 20 mẫu thu thập

được, chỉ cho thấy bảo tồn mảnh trái. Các mẫu CS135Bi54, CS135Bi57 và

CS135Bi55 thể hiện hình dạng và tô điểm mặt ngoài nhưng không đầy đủ. Các

khuôn trong CS135Bi47, CS135Bi48 thể hiện vết bám cơ sau lớn và mặt trong

mảnh vỏ CS135Bi66 thể hiện dây chằng dạng kép rất rõ ràng.

Phân bố địa tầng và địa lý. trong đá tuổi Hamilton, vùng New York và Virginia;

trong đá phiến silic (Givet) ở Ohio, Mỹ (Pojeta & Zhang, 1986); Hệ tầng Bản

Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn

La.

3.2. Ý nghĩa địa tầng của hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

Mặt cắt đèo Bó Mồng nằm ở ranh giới giữa hai xã Tô Múa và xã Mường Tè (.1.1.1.Hình .1.1.). Trong đoạn mặt cắt này chủ yếu lộ các đá trầm tích cát kết, đá phiến sét đen và đá vôi chứa hóa thạch Devon sớm (Hình .1.1., Hình .1.4.). Có một số ý kiến về tuổi của các trầm tích lộ ra trên đèo Bó Mồng. Theo mô tả của Deprat

63

J. (1914), chúng được xếp vào “Série de Muong Té” tuổi Silur, trong khi các trầm tích này được Jacob C. (1921), Dussault L. (1929) cho là tuổi Devon giữa hoặc sớm; Dovjikov A. E. (1965) xếp vào Eifel; Nguyễn Xuân Bao (1978, 2005) xếp vào hệ tầng Sông Mua.

Tại mặt cắt đèo Bó Mồng, các hóa thạch Hai mảnh vỏ được tìm thấy trong đá phiến sét đen chứa vôi dày khoảng 10m (Hình .1.1., Hình .1.4.) xen kẽ các lớp cát kết, sét vôi đi cùng các hóa thạch Tay cuộn, Bọ ba thùy, Chân đầu, Chân bụng, san hô và Rêu động vật, dày 50m. Một số loài Tay cuộn được TS. Nguyễn Hữu Hùng xác định gồm Euryspirifer cf. tonkinensis (Mansuy), Acrospirifer sp., Guistrophia cf. modesa Wang et Rong, Euryspirifer aff. tranversus Zuong; Bọ ba thùy gồm Phacops sp., Gravicalymene aff. maloungkaensis (Mansuy); san hô Syringopora (?) (Bản ảnh 11). Các phức hệ Tay cuộn và Bọ ba thùy kể trên cho tuổi Praga-Emxi sớm. Thành phần hoá thạch thể hiện tính chất của phức hệ Euryspirifer tonkinensis phân bố rộng rãi trong trầm tích Devon hạ ở Bắc Bộ.

A B

Hình .1.1. A. Vết lộ CS135 của hệ tầng Bản Nguồn tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; B. Hóa thạch Euryspirifer cf. tonkinensis (Mansuy) trong đá phiến sét đen.

nagaolingensis, Sanguinolites vanlinhensis Sphenotus

Các hóa thạch Hai mảnh vỏ trong đá phiến sét đen tại đèo Bó Mồng được xác định gồm Nuculoidea sp., Nuculoidea cf. N. yongfuensis, Nuculites sp., Schizodus aff. S. appressus (Conrad), Paracyclas rugosa (Goldfuss), Paracyclas sp., Mansuy, Pseudosanguinolites douvillei Patte, Beichuania guangzicaoensis, B. bomongensis, B. sonlaensis, Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), Myalina sp., Limoptera? cf. macroptera. Trong đó, loài Schizodus aff. S. appressus (Conrad) được tìm thấy

64

trong tập Nagaoling, hệ tầng Nagaoling (bậc Nagaoling) tuổi Praga và trong hệ tầng Ertang, tuổi Emxi ở Quảng Tây, Trung Quốc. Loài Paracyclas rugosa (Conrad) xuất hiện trong hệ tầng Ertang (tuổi Emxi) và phần dưới hệ tầng Donggangling (tuổi Givet) ở Quảng Tây, Trung Quốc; trong hệ tầng Gravel Point (tuổi Givet) và hệ tầng Potter Farm (tuổi Givet) ở Michigan, Mỹ. Loài Pseudosanguinolites douvillei được Patte (1927) tìm thấy trong các trầm tích tuổi Devon ở vùng Vạn Yên, miền Bắc Việt Nam được Liu và Gu (1988) mô tả vào loài Ganxiella longa trong hệ tầng Ganxi tuổi Emxi, ở vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc. Loài Sphenotus vanlinhensis được Đặng Trần Huyên (trong Vũ Khúc, 2012) mô tả trong trầm tích của hệ tầng Mia Lé (D1 ml) ở vùng Vạn Linh, tỉnh Lạng Sơn. Loài Sanguinolites nagaolingensis được Pojeta & Zhang (1986) mô tả trong hệ tầng Nagaoling tuổi Praga ở vùng Quảng Tây, Trung Quốc. Loài Mytilarca cf. M. chemumgensis được Pojeta & Zhang (1986) mô tả trong hệ tầng Yujiang (Emxi), hệ tầng Ertang (Emxi), Yingtang (Eifel) ở vùng Quảng Tây, Trung Quốc; trong hệ tầng Four Mile Dam (Givet) ở Michigan và trong các địa tầng Devon thượng ở New York và phía bắc Pennsylvania, Mỹ. Loài Limoptera? cf. macroptera được tìm thấy trong đá vôi Hamilton (Devon muộn) ở New York và Virginia, trong đá phiến silic tuổi Givet ở Ohio, Mỹ. Loài Beichuania guangzicaoensis được Liu và Gu (1988), Zhang và nnk (2015) thu thập và mô tả trong hệ tầng Xiejiawan, tuổi Emxi, vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc. Kết quả luận giải, so sánh tuổi và mô hình hóa trên sơ đồ phân bố địa tầng (Hình .1.2.) cho các loài Hai mảnh vỏ ở trên cho thấy phần lớn các loài đều thể hiện tuổi Emxi.

65

Hình .1.2. Sơ đồ phân bố địa tầng của một số loài Hai mảnh vỏ trong đá phiến sét đen ở mặt cắt đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

Ngoài ra, kết quả khảo sát, đo vẽ mặt cắt địa chất đèo Bó Mồng (Hình .1.4.)

cho thấy trật tự địa tầng như sau:

Nằm dưới tập đá phiến sét đen xen kẽ cát kết, sét vôi kể trên trên là đá vôi, vôi sét màu xám chứa phong phú hóa thạch Tay cuộn bảo tồn nguyên con tạo thành vỉa xác dày, dày 40m (Hình .1.4.). Theo xác định của TS. Nguyễn Hữu Hùng các loài Tay cuộn trong tập này phổ biến gồm Athyris elongate, A. aucta và A. pauca. Trong đó, loài Athyris elongata được Wang et Rong (1986) mô tả lần đầu trong các trầm tích của tập Shizhou, nửa trên của phần thấp hệ tầng Úc Giang, tuổi Emxi sớm ở Nanning-Liujing, Quảng Tây của Nam Trung Quốc.

Chuyển lên là đá vôi chứa hóa thạch san hô vách đáy Thamnopora sp., dày

trên 20m.

Chỉnh hợp trên tập đá vôi chứa hóa thạch san hô vách đáy Thamnopora sp. là đá vôi màu xám đen phân lớp trung bình tới dày chứa phong phú hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng của hệ tầng Bản Páp (Hình .1.3., Hình .1.4.). Quan hệ dưới với các

66

trầm tích cổ hơn không quan sát được do có sự xuất hiện của nhiều đứt gãy trong vùng nghiên cứu.

A B

Hình .1.3. A. Vết lộ đá vôi hệ tầng Bản Páp; B. Hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng của hệ tầng Bản Páp lộ ra tại mỏ khai thác đá vôi ở Bản Khảm, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

Hình .1.4. Cột địa tầng và các mức chứa hóa thạch trong các trầm tích ở đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

67

Hình .1.5. Cột địa tầng của hệ tầng Bản Nguồn ở đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

Như đã mô tả ở trên, các trầm tích lộ ra ở đèo Bó Mồng chứa phong phú hóa thạch, các hóa thạch Tay cuộn, Bọ ba thùy và phần lớn hóa thạch Hai mảnh vỏ đều cho tuổi Emxi. Ngoài ra, ở mặt cắt đèo Bó Mồng các trầm tích này nằm trên hệ tầng Sông Mua (D1 sm) và hệ tầng Nậm Pìa? (D1 np?) và nằm dưới hệ tầng Bản Páp (D1-2 bp). Trên cơ sở các tài liệu về đặc điểm thạch học, tập hợp hóa thạch nêu trên và quan hệ địa tầng, các trầm tích lộ ra ở đèo Bó Mồng được cho là thuộc hệ tầng Bản Nguồn (D1em bn) và có tuổi Emxi. Cột địa tầng của hệ tầng Bản Nguồn ở đèo Bó Mồng được thể hiện chi tiết ở Hình .1.5..

Về mặt địa lý và địa tầng, tập hợp Hai mảnh vỏ kể trên nằm trong mức địa tầng chứa phức hệ Euryspirifer tonkinensis, phân bố rộng rãi ở miền Bắc Việt Nam (Tống Duy Thanh, 2005) tương ứng với hệ tầng Mia Lé. Tuy nhiên, các dạng Hai mảnh vỏ của hệ tầng Bản Nguồn thể hiện sự khác biệt. Nuculites, Schizodus, Myalina và Pseudosanguinolites chỉ tìm thấy trong hệ tầng Bản Nguồn. Ngoài ra, hệ tầng Sông Mua thể hiện sự tương đồng về đặc điểm thạch học nhưng không phát hiện các dạng Hai mảnh vỏ kể trên. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tập hợp Hai mảnh vỏ này như là một dấu hiệu ban đầu cho việc xác định sự có mặt của các trầm tích hệ tầng Bản Nguồn trong một vùng hoặc khu vực nghiên cứu bất kỳ.

68

Pseudosanguinolites douvillei được Patte (1927) mô tả lần đầu tiên ở vùng Vạn Yên, miền Bắc Việt Nam cũng được Liu & Gu (1988), Fang (1997), Zhang và nnk (2015) mô tả trong trầm tích Devon hạ ở vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc; các loài Sanguinolites nagaolingensis, Schizodus aff. S. appressus, Paracyclas rugosa, Mytilarca cf. M. chemungensis cũng được Pojeta & Zhang (1986), Zhang và nnk (2015) mô tả ở vùng Quảng Tây, Trung Quốc. Nuculoidea, Nuculites, Mytilarca, Limoptera, Schizodus, Paracyclas, Sanguinolites cũng được Johnston (1985) đề cập trong nghiên cứu về Hai mảnh vỏ Devon hạ ở vùng New South Wales và Victoria, Australia. Do đó, tập hợp Hai mảnh vỏ của hệ tầng Bản Nguồn thể hiện sự tương đồng cao với hệ động vật Hai mảnh vỏ ở nam Trung Quốc (Pojeta & Zhang, 1986) và đông nam Australia (Johnston, 1985). 3.3. Sự phong phú và đa dạng của Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa,

huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

Kết quả định loại ghi nhận 15 loài thuộc 11 giống của 10 họ, 6 bộ của 176

mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ trong đá phiến sét tại mặt cắt đèo Bó Mồng ở vùng Tô

Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã thu được 176 mẫu của khác nhau. Mặc dù một

số đơn vị phân loại cần nghiên cứu chi tiết hơn nữa song các số liệu này thể hiện sự

phong phú và đa dạng của Hai mảnh vỏ tuổi Devon sớm trong hệ tầng Bản Nguồn

vùng Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La so với 20 loài của 9 giống thuộc 4 bộ

trong địa tầng Devon ở miền Bắc Việt Nam được Kulikova (in Dương Xuân Hảo,

1968) mô tả và 18 loài thuộc 9 giống trong địa tầng Devon miền Bắc Việt Nam

được Đặng Trần Huyên (in Dương Xuân Hảo, 1980) mô tả và Nguyễn Vĩnh (1977)

mô tả 5 loài thuộc 5 giống Hai mảnh vỏ của Hệ tầng bản nguồn ở mặt cắt chuẩn.

Hình .1.1. Biểu đồ so sánh thành phần giống loài của một số nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon ở Việt Nam

69

Trong 6 phụ lớp Hai mảnh vỏ (Cox in Moore, 1969) có 4 phụ lớp xuất hiện

trong đá phiến sét của hệ tầng Bản nguồn. Trong đó Palaeotaxodonta chiếm khoảng

(15%) số giống (gồm Nuculoidea, Nuculites, Schizodus), Heterodonta chiếm

khoảng (41%) (gồm Paracyclas, Pseudosanguinolites, Beichuania),

Anomalodesmata (3%) (gồm Sphenotus, Sanguinolites), Pteriomorphia (41%) (gồm

Mytilarca, Myalina, Limoptera).

Hình .1.2. Biểu đồ thể hiện thành phần giống của hóa thạch Hai mảnh vỏ vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

Ở cấp giống hệ động vật Hai mảnh vỏ ở vùng Tô Múa gồm giống

Pseudosanguinolites, Beichuania được cho là đặc hữu, giống Myalina được tìm

thấy ở Bắc Mỹ và 08 giống còn lại phân bố toàn cầu. Hệ động vật này được đặc

trưng bởi sự phong phú và đa dạng cao với sự phát triển thịnh vượng của các đại

biểu thuộc họ Ambonychiidae (Mytilarca), Mactromyidae (Paracycals),

Beichuaniidae (Beichuania) và Permophoridae (Pseudosanguinolites). Trong đó,

giống Mytilarca (28.4%), Paracyclas (16.5%), Pseudosanguinolites (13.1%),

Beichuania (11.3%), Nuculoidea (9.7%), Limoptera (9.1%), Nuculites (2.8%),

Myalina (3.4%), Schizodus (2.3%), Sphenotus (2.3%) và Sanguinolites (1.1%). Đặc

70

biệt, giống Pseudosanguinolites, Beichuania mới chỉ ghi nhận trong địa tầng Devon

hạ ở miền nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam.

Với những dẫn liệu nêu trên, hệ động vật Hai mảnh vỏ trong hệ tầng Bản

Nguồn ở vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La được cho là một trong những hệ

động vật phong phú và đa dạng Hai mảnh vỏ tuổi Devon sớm Việt Nam.

3.4. Điều kiện môi trường sống của Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa,

huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

Trong nghiên cứu cổ sinh thái, người ta sử dụng khái niệm hình thái chức

năng để mô tả các đặc điểm hình thái của sinh vật phản ánh điều kiện và thói quen

sống của sinh vật. Định nghĩa thói quen sống ở đây theo Stanley (1970) để thể hiện

các hành vi của Hai mảnh vỏ liên quan đến đặc điểm bên ngoài với không gian

sống, cách thức sống và sự tồn tại của chúng. Trên cơ sở phân tích đặc điểm hình

thái, 3 dạng sống của Hai mảnh vỏ kỷ Devon ở vùng đèo Bó Mồng được tái dựng

gồm dạng sống ở đáy (chui rúc), sống bán đáy (vừa chui rúc vừa bò hoặc bám vào

đáy) và sống trên bề mặt trầm tích (bò hoặc bám trên mặt đáy) (.3.4.1.Hình .1.1.).

.3.4.1. Dạng sống ở đáy – chui rúc (infaunal bivalves)

Theo Zhang và nnk (2015) và Johnston (1985) Nuculoidea, Nuculites,

Schizodus, Paracyclas, Psedosanguinolites là những dạng sống ở đáy (infaunal)

(Hình .1.1.). Trong đó, Nuculoidea và Nuculites là các dạng ăn các lắng đọng trầm

tích và đào bới (deposit feeders và burrowers) (Hình .1.1.).

Pseudosanguinolites và Beichuania có vỏ rất dày, chỉ có một răng chính hoặc

răng giả răng chính và vết bám cơ trước và sau lớn; ngoài ra nhiều mẫu thu được

còn bảo tồn nguyên con điều này gợi ý rằng chúng là những dạng ít di chuyển,

thường nằm cố định trong lớp trầm tích, không chịu được môi trường có động năng

lớn. Theo Zhang và nnk (2015) Pseudosanguinolites thường có vị trí sống nằm

nghiêng khoảng 45º so với mặt bám (bề mặt trầm tích). Paracyclas có vỏ mỏng và

hình dạng tương đối tròn gợi ý rằng chúng có thể là dạng đào bới giống như các

dạng Lucinaceans đang sống. Dạng vỏ dẹt và bề mặt nhẵn gợi ý rằng Schizodus là

dạng đào bới nhanh. Đặc điểm miền sau cụt (cắt cụt/ ngắn) chỉ ra rằng chúng là

71

dạng không có siphon (non-siphonate), sống trong trầm tích và gần với bề mặt trầm

tích. Trong khi đó, Nuculoidea và Nuculites thường có dạng hình thoi, với đỉnh

lệch, kích thước nhỏ chỉ một vài cm, mặt vỏ thường nhẵn và cấu trúc răng dạng

răng dãy gợi ý rằng chúng là những loại đào bới và di chuyển linh hoạt, chịu được

môi trường có động năng cao.

Hình .1.1. Mô hình tái dựng lại điều kiện sống của Hai mảnh vỏ hệ tầng Bản Nguồn

vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La: 1. Nuculoidea; 2. Nuculites; 3.

Schizodus; 4. Paracyclas; 5. Pseudosanguinolites; 6. Beichuania; 7. Sanguinolites;

8. Sphenotus; 9. Mytilarca; 10. Limoptera; 11. Myalina (Trên cơ sở của Johnston

(1985))

Những giống này thích nghi tốt với với môi trường nước nông có dòng chảy

mạnh mà có thể cuốn trôi Hai mảnh vỏ, đo đó chúng phải chui rúc vào lớp trầm

tích.

Sphenotus có vỏ mỏng, dạng hình bầu dục, vỏ có nhiều nếp nhăn thô và cấu

trúc răng yếu. Theo Zhang và nnk., (2015) hình dạng vỏ của Sphenotus gợi ý rằng

72

nó tương đối bất động, có lẽ nó là dạng Hai mảnh vỏ bám vào trong lớp trầm tích,

mà có vị trí sống miền sau của vỏ gần với mặt trầm tích.

.3.4.2. Dạng sống bán đáy – chui rúc, bò hoặc bám trên mặt đáy (semi-infaunal)

Theo Zhang và nnk (2015) Sanguinolites là một dạng thuộc nhóm

anomalodesmats thường có một khe tơ bám dài và hẹp tại một hõm nông nằm ở bờ

bụng trước đến giữa bờ bụng. Sanguinolites có vỏ dạng hình bầu dục, vỏ tương đối

nhẵn chỉ có một vài nếp nhăn. Những đặc điểm này gợi ý rằng Sanguinolites là

dạng Hai mảnh vỏ sống vừa chui rúc vừa bám trên mặt đáy (semi-infaunal

bivalves).

.3.4.3. Dạng sống trên mặt đáy – dạng bò hoặc bám trên mặt (epifaunal)

Theo Zhang và nnk (2015) và Johnston (1985) dạng Hai mảnh vỏ sống trên

bề mặt trầm tích (epifaunal) ở vùng Tô Múa, gồm Mytilarca, Limopteria và

Myalina. Các dạng Ambonychiids này thể hiện hai đặc điểm mà cho thấy rằng

chúng ít sống cố định hơn Mytilus. Thứ nhất là hệ cơ yếu (weaker byssal

musculature); thứ hai là dạng vỏ dẹt đặc trưng cho phép chống đỡ các lực bên ngoài

(offered disruptive external forces) là một lợi thế lớn so với các tơ bám (a large

mechinical advantage against the byssal apparatus).

Mytilarca được xem là dạng sống trên mặt đáy (epibyssate) thường sống với

mặt phẳng khớp nối vuông góc với mặt bám (Stanley, 1970). Kauffman (1969) cho

rằng các giống Mytiloid hiện đại thường sống trong điều kiện nước nông, năng

lượng lớn, phổ biến được tìm thấy ở những vùng có độ sâu nhỏ hơn 15m nước.

Dạng Pterinopectinidae sống trên mặt là Limoptera, giống như các dạng có

cánh hiện đại. Limoptera có thể sống tự do trên bề mặt đá cứng ở đáy hoặc bám vào

bề mặt nào đó bởi sợi tơ chân. Sự xuất hiện của tai trước dài và khe tơ bám riêng

biệt gợi ý rằng nó sống bám vào bề mặt nào đó bởi tơ bám này.

Ở Limoptera đường bản lề dài và các tai được hình thành mà không tách rời

khỏi phần thân bởi vịnh áo rõ ràng, điều này giúp cho miền sau của phần thân giữa

không bị nước phá hủy khi bơi.

73

3.5. Mối quan hệ giữa Hai mảnh vỏ và môi trường trầm tích

Hóa thạch Hai mảnh vỏ được thu thập trong đá phiến sét đen chứa vôi

(Hình .1.1.) nằm phía trên các lớp đá vôi, vôi sét xen kẹp các lớp đá phiến sét, cát

kết và nằm dưới các đá cát kết xen lẫn đá phiến sét chỉ ra rằng các trầm tích này có

thể được thành tạo trong môi trường biển nông. Các lớp trầm tích không dày dày

nhất là lớp đá phiến sét chứa tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ khoảng 10m. Nằm

dưới lớp đá phiến sét này là các đá vôi sét phân lớp dày xen một vài lớp đá phiến sét

phân mỏng đến trung bình dày khoảng 40m; nằm trên là các lớp đá vôi, vôi sét phân

lớp trung bình dày khoảng 20m. Thành phần vật chất của các đá trong đoạn mặt cắt

này phản ánh quá trình lắng đọng nhanh và đa phần, điều này gợi ý rằng các thành

tạo trầm tích này được lắng đọng ở vị trí gần bờ.

A B

Hình .1.1. A. Điểm lộ (CS135) đá phiến sét đen chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ; B.

Tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ gồm Mytilarca, Pseudosanguinolites, Limoptera

trong khối đá phiến sét đen

Tập hợp hóa thạch thu thập được cùng hóa thạch Hai mảnh vỏ gồm có Tay

cuộn, Bọ ba thùy, Chân đầu, Chân bụng, san hô và Động vật dạng rêu. Đây là các

dạng hóa thạch sống trong môi trường biển chủ yếu ở dạng bám đáy theo vị trí từ

thềm đến gần bờ. Ngoài ra, các dạng hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đây phần lớn là các

dạng có vỏ dày; chúng thường nằm lộn xộn, không theo một trật tự nhất định trong

lớp trầm tích (Hình .1.1.B) điều này gợi ý rằng chúng sinh sống ở trong vùng chịu

tác động mạnh của sóng hoặc các dòng hải lưu và thường bị vận chuyển đi sau khi

74

chết. Tuy nhiên, các mẫu thu được phần lớn vẫn bảo tồn tốt ít bị vỡ và còn nhiều

mẫu bảo tồn dạng nguyên con như các đại biểu của giống Mytilarca, Beichuania,

Pseudosanguinolites, Nuculoidea chứng tỏ chúng bị vận chuyển không xa khỏi nơi

sinh sống sau khi chết. Do đó, có thể cho rằng các hóa thạch Hai mảnh vỏ hệ tầng

Bản Nguồn thuộc tướng biển nông gần bờ.

75

KẾT LUẬN

Mytilarca cf.

Đề tài luận văn đã xác định được 15 loài thuộc 11 giống của 10 họ, 6 Bộ, 4 phụ lớp cho 176 mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ thu được trong đoạn mặt cắt dày khoảng 10m chứa các lớp đá phiến sét tại mặt cắt đèo Bó Mồng ở vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Các loài được xác định gồm Nuculoidea sp., Nuculoidea cf. N. yongfuensis, Nuculites sp., Schizodus aff. S. appressus (Conrad), Paracyclas rugosa (Goldfuss), Paracyclas sp., Sanguinolites nagaolingensis, Sphenotus vanlinhensis Mansuy, Pseudosanguinolites douvillei Patte, Beichuania guangzicaoensis, B. bomongensis, Beichuania sonlaensis., M. chemungensis (Conrad), Myalina sp., Limoptera? cf. macroptera. Hai loài mới được xác lập gồm Beichuania bomongensis và B. sonlaensis. Nuculites, Schizodus, Myalina, Limoptera và Beichuania lần đầu tiên được ghi nhận trong hệ tầng Bản Nguồn ở vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Pseudosanguinolites douvillei chưa từng được ghi nhận trong địa tầng khác ở Việt Nam

Kết quả nghiên cứu tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ ở mặt cắt đèo Bó Mồng vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La góp phần cung cấp thông tin về tuổi và vị trí địa tầng của hệ tầng Bản Nguồn. Phát hiện mới này giúp bổ sung thông tin về mặt cổ sinh và địa tầng cho hệ tầng Bản Nguồn ở khu vực Tây Bắc của Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ tuổi Devon sớm trong hệ tầng Bản Nguồn ở vùng Tô Múa thể hiện sự phong phú và đa dạng cao so với các địa tầng Devon chứa Hai mảnh vỏ ở Việt Nam đã được phát hiện và nghiên cứu.

Về mặt Cổ sinh thái đã xác định được 03 kiểu sống của Hai mảnh vỏ hệ tầng Bản Nguồn ở vùng Tô Múa gồm sống ở đáy – chui rúc (infaunal), sống bán đáy – chui rúc, bám hoặc bò trên mặt (semi-infaunal) và sống trên mặt đáy (epifaunal). Trong đó, các dạng sống ở đáy gồm Nuculoidea, Nuculites, Schizodus, Paracyclas, Psedosanguinolites, Beichuania; các dạng sống bán đáy gồm Sanguinolites, Sphenotus và dạng sống trên mặt đáy gồm Mytilarca, Limopteria và Myalina. Trên cơ sở đặc điểm thành phần thạch học, tập hợp hóa thạch, đặc điểm hình thái và sự xuất hiện trong không gian của hóa thạch Hai mảnh vỏ cùng các hóa thạch khác có thể cho rằng các hóa thạch Hai mảnh vỏ hệ tầng Bản Nguồn thuộc tướng biển nông gần bờ.

76

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đặng Trần Huyên (in Dương Xuân Hảo, 1980), Hóa thạch đặc trưng ở miền

Bắc Việt Nam (Lớp Chân rìu), NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr. 96-102, Hà Nội.

2. Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc, 1991), Atlas cổ sinh Việt Nam, Tập 3- Thân

mềm, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

3. Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc, 2012), Atlas Cổ sinh vật Việt Nam – Tập Thân

mềm (Hai mảnh vỏ), NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr. 13-14, 18, 20, 38-39, 46,

54, 57, 60, Hà Nội.

4. Đovjikov A.E. (Chủ biên) (1971), Địa chất miền Bắc Việt Nam, NXB Khoa học

và Kỹ thuật, 583 tr., Hà Nội.

5. Dương Xuân Hảo (1975), So sánh sinh địa tầng Đevon ở Bắc Việt Nam với một

số nơi khác, Tạp chí Địa chất, 118: 21-24, Hà Nội.

6. Dương Xuân Hảo, Nguyễn Thơm, Nguyễn Đức Khoa (1973), Tài liệu mới về

sinh địa tầng Đevon ở miền Bắc Việt Nam, Tạp chí Địa chất, 108: 15-19, Hà

Nội.

7. Dương Xuân Hảo, Nguyễn Thơm, Nguyễn Đức Khoa, (1975), Tài liệu mới về

sinh địa tầng các trầm tích Paleozoi trung (từ năm 1964 đến năm 1973), Tuyển

tập Công trình nghiên cứu về Địa tầng: 66-105, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà

Nội.

8. Dương Xuân Hảo, Rjonxnitxkaia M.A., Bunvanke E.Z., Kulikova V.F.,

Makximova Z.A., Tống Duy Thanh (1968), Những hoá thạch đặc trưng cho địa

tầng Đevon ở miền Bắc Việt Nam, Tổng cục Địa chất, Hà Nội, 123 tr.

9. Kulikova (in Dương Xuân Hảo, 1968). Những hóa thạch đặc trưng cho địa

tầng Devon ở miền Bắc Việt Nam (Lớp Chân rìu), Tổng cục Địa chất, tr. 53-64,

Hà Nội.

10. Nguyễn Vĩnh (1977), Trầm tích Silua muộn - Đevon ờ Tây Băc Việt Nam, Trong

Những vấn đề địa chất Tây Bắc Việt Nam: 82-108, NXB Khoa học và Kỹ thuật,

Hà Nội.

77

11. Nguyễn Xuân Bao (Chủ biên) (1978). Địa chất tờ Vạn Yên, Thuyết minh Bản

đồ địa chất tờ Vạn Yên tỷ lệ 1:200.000, Tổng cục Địa chất, Hà Nội, Báo cáo:

1969. Trung tâm Thông tin - Lưu trữ địa chất, Hà Nội.

12. Nguyễn Xuân Bao (Chủ biên) (2005), Bản đồ địa chất và khoáng sản tờ Vạn

Yên tỷ lệ 1:200.000, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội.

13. Nguyễn Xuân Bao (1970), Tài liệu mới về cấu trúc địa chất vùng Vạn Yên, Tạp

chí Địa chất, 91-92: 63-67, Hà Nội.

14. Phan Cự Tiến, Trần Quốc Hải, Lê Đình Hữu, Phan Viết Kỷ, Bùi Phú Mỹ,

Nguyễn Vĩnh (1977), Chú giải Bán đồ địa chất tây bắc Việt Nam, loạt tờ bản

đồ Sông Đà tỷ lệ 1: 200.000, Trong Nhũng vấn đề địa chất Tây Bắc Việt Nam:

9-64, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

15. Tống Duy Thanh (Chủ biên) (1986), Hệ Devon ở Việt Nam, NXB Khoa học và

Kỹ thuật, 141tr., Hà Nội.

16. Tống Duy Thanh, Vũ Khúc (Đồng chủ biên) (2005), Các phân vị địa tầng Việt

Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 520tr., Hà Nội.

17. Trần Văn Trị (Chủ biên) (1977), Địa chất Việt Nam, Phần miền Bắc, NXB

Khoa học và Kỹ thuật, 354tr., Hà Nội.

18. Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ (chủ biên) (1989), Địa chất Việt Nam, Tập I-Địa tầng,

Tổng cục Mỏ và Địa chất, 388tr., Hà Nội.

Tiếng Anh

19. Amler, M. R. W. (1993), Shallow marine Bivalves at the

Devonian/Carboniferous boundary from the Velbert anticline (Rheinischs

Schiefergebirge), Société géologique de Belgique, T. 115-fasc.: 405-423.

20. Amler, M. R. W. (2010), Late Devonian (Frasnian) bivalves from the

Nocedo Formation – the results of Wilhelm Kegel’s 1927 field

trip to northern Spain. Scripta Geol., Spec. Issue 7.

78

21. Cox, L. R. et al. (1969). In: Moore, R. C. (ed.) Treatise on Invertebrate

Paleontology. Part N. Mollusca 6. Bivalvia. Geological Society of America,

Boulder, CO, and University of Kansas Press, Lawrence, KS.

22. Farjat, A. D. (2005), The genera Praectenodonta, Praenucula and Notonucula

(Palaeotaxontaxodonta: Bivalvia) in the Silurian-Devonian of Bivalvia.

Geobios, 38: 171-186.

23. Gu D Y, Liu X Z. New bivalves, Beichuania, from the Lower Devonian of

Sichuan, China [J]. In: McMillan N J, Embry A F, Glass D J. (eds) Devonian of

the Worl: Canadian Society of Petroleum Geologists Memoir, 1988, 14(3): 357-

378.

24. Jain, S. (2017), Fundamentals of Invertebrate Palaeontology – Macrofossils,

Springer Geology. DOI 10.1007/978-81-322-3658-0_10. 411p.

25. Kotzian, C. B. (2003), A new Devonian Modiolopsidae (Mollusca: Bivalvia)

from the Ponta Grossa formation, Paraná basin, Brazil. Geociências, 30(2): 27-

32, 2003.

26. Křίž, J. (2004), Latest Frasnian and earliest Famennian (Late Devonian)

bivalves from the Montagne Noire (France). Senckenbergiana lethacea, 84(1/2):

85-123, Frankfurt am Main.

27. McAlester, A. L. (1962), Upper Devonian Pelecypods of the New York

Chemung Stage. Peabody Museum of Natural History (Yale University).

Bulletin 16, 159p. New Haven, Conn.

28. Pojeta, John, Jr. (1986), Devon – Devonian rocks and lower and middle

Devonian Pelecypods of Guangxi, China, and the Traverse Group of Michigan,

U.S. Geological survey professional paper 1394-A-G. United States

government printing office. 248p.. Washington.

29. Pojeta, John, Jr., Jiřί Křίž and Jean M. Berdan (1976), Silurian-Devonian

Pelecypods and Paleozoic stratigraphy of subsurface rocks in Floria and

Geogia and related Silurian Pelecypods from Bolivia and Turkey, Geological

79

survey professional paper 879, United States government printing office, 43p..

Washington.

30. Rocque, A. L. (1950), Pre-traverse Devonian Pelecypods of Michigan,

University of Michigan press, Vol. VII, No. 10, pp. 271-366, Ann Arbor.

31. Tong Dzuy Thanh, Vu Khuc (Eds.) (2011), Stratigraphic units of Viet Nam, Vietnam National University Publishing House, 526p, Hanoi.

32. Tran Van Tri, Vu Khuc et al. (2011), Geology and Resources of Vietnam, Science and Technics Publishing House, 589p. Hanoi.

33. Williams, H. S. (1916), The fauna of the Chapman Sandstone of Maine,

Geological survey professional paper 89, United States government printing

office. 347p., Washington.

34. Zhang Renjie, Yao Huazhou, Yao Jianxin, Tu Bing, Yan Daoping, Wang Jianxiong, Duan Qifa, Tang Chaoyang (2015), Devonian Bivalves of Guangxi and biodiversity changes of Devonian bivalves in South China, China University of Geosciences Press.

35. Huber, Markus (2010), Compendium of Bivalves. A Full-color Guide to 3,300 of the World's Marine Bivalves, A Status on Bivalvia after 250 Years of Research. ConchBooks. tr. 23. ISBN 978-3-939767-28-2.

Tiếng Pháp

36. Mansuy H. (1908), Contribution à la carte géologiques de L’Indochine.

Paléontologie, 73 p., Hanoi.

37. Mansuy H. (1912), Contribution à la géologiques du Tonkin, Mém. Serv. Géol.

Indoch., I/4 : 82 p., Hanoi.

38. Mansuy H. (1913), Nouvelle contribution à la paléontogie de L’Indochine. I-

Contribution à I’étude des faunes paléozoiques et triasiques du Tonkin, Mém.

SGI., II/5 :39p., Hanoi.

39. Mansuy H. (1913), Paléontologie de I’Annam et du Tonkin, Mém. SGI., II/3:

48p., Hanoi.

40. Mansuy H. (1915), Contribution à I’étude des faunnes de I’Ordovicien et du

Gothlandien du Tonkin, Mém. SGI., IV/3 : 22p.. Hanoi.

80

41. Mansuy H., 1919. Par terrains et par localités des fossils recueillis en Indochine

et au Yunnan, par les geologues du Service géologique et par les officiers du

Service géographique de I’Indochine, au cours des années 1903-1918.

42. Patte E. (1926), Etudes paléontologiques relatives à la geologie de I’Est du

Tonkin (paleozoique et tri), Bull. SGI., XV/1 : 240p., Hanoi.

43. Patte E. (1927), Etudes géologiques dans I’Est du Tonkin, Bull. SGI., XVI/1 :

314p.. Hanoi.

44. Saurin E. (1956), Indochine. In “Lexique stratigraphique International”, IIl/6a:

140 p. Centre National de la Recherche Scientifique. Paris.

Tiếng Nga

50. Dovjikov A. E., (chủ biên) 1965, Геология Северного Вьетнама - Обжаснителназа запитска к геологической карте Северного Вьетнама; 1Довжиков А.Е., 2Вашильевская Е.Д., Замойда А.Ж., 4Иванов Г.В., 5Изох Е.П., Марейев А.М.

81

Bản ảnh 1.

1-8. Nuculoidea sp.;

1. CS135Bi77, mặt ngoài mảnh trái; 2. CS135Bi76, mặt ngoài mảnh phải miền sau

bị vỡ; 3. CS135Bi70, mặt ngoài mảnh phải bảo tồn kém; 4. CS135Bi78, nhân trong

mảnh phải thể hiện vết bám cơ trước, vết bám cơ sau và đường viền áo hoàn chỉnh;

6. CS135Bi78, mặt lưng nhân trong thể hiện vết bám cơ trước và vết bám cơ sau. 7.

CS135Bi77, mặt trong thể hiện cấu tạo răng dạng răng dãy; 8. CS135Bi77, cấu tạo

răng phóng đại. Thước tỷ lệ 10mm.

9-11. Nuculoidea cf. N. yongfuensis;

9. CS135Bi72, mặt ngoài mảnh trái; 10. CS135Bi82, mặt ngoài mảnh trái và một

phần nhân trong thể hiện vết bám cơ sau; 11, CS135Bi83, mặt ngoài mảnh phải.

Thước tỷ lệ 10mm.

12-14. Nuculites sp.;

12. CS135Bi86, mặt ngoài mảnh trái với miền sau không hoàn chỉnh; 13.

CS135Bi85, mặt ngoài mảnh trái với miền sau không hoàn chỉnh; 14. CS135Bi84,

mặt trong của mảnh phải thể hiện cấu tạo răng dạng răng dãy. Thước tỷ lệ 10mm.

Bản ảnh 2.

1, 2. Sanguinolites cf. nagaolingensis

1. CS135Bi140, mặt ngoài mảnh phải với miền sau không hoàn chỉnh; 2.

CS135Bi141, mặt ngoài mảnh phải với miền sau không hoàn chỉnh. Thước tỷ lệ

20mm.

3-5. Sphenotus vanlinhensis

3. CS135Bi138, nhân trong mảnh phải; 4. CS135Bi137, khuôn ngoài mảnh phải. 5.

CS135Bi136, mặt ngoài mảnh trái, miền trước không đầy đủ và miền trước bị biến

dạng. Thước tỷ lệ 20mm.

6. Schizodus cf. S. appressus (Conrad)

6. CS135Bi125, mặt ngoài mảnh phải, miền sau không hoàn chỉnh;

7-8. Myalina sp.

82

7. CS135Bi132, mặt ngoài mảnh trái bờ bụng và bờ sau không hoàn chỉnh. Thước

tỷ lệ 20mm.

8. CS135Bi124, mặt ngoài mảnh trái không bảo tồn cánh sau và bờ sau; Thước tỷ lệ

20mm.

Bản ảnh 3.

1-6. Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927

1. CS135Bi148, mặt ngoài mảnh phải; 2. CS135Bi148, mặt lưng; 3. CS135Bi148,

mặt ngoài mảnh trái; 4. CS135Bi147, mặt ngoài mảnh phải; 5. CS135Bi147, mặt

lưng bảo tồn dây chằng; 6. CS135Bi147, mặt ngoài mảnh trái. Thước tỷ lệ 50mm.

Bản ảnh 4.

1-3. Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927

1. CS135Bi156, mặt trong mảnh trái cá thể chưa trưởng thành; 2. CS135Bi156, mặt

ngoài mảnh trái cá thể chưa trưởng thành; 3. CS135Bi158, mặt trong mảnh phải

không bảo tồn miền sau thể hiện rõ vết bám cơ trước và vết bám cơ sau. Thước tỷ lệ

10mm.

4. Paracyclas sp. indet; CS135Bi43, mặt ngoài mảnh trái. Thước tỷ lệ 10mm.

5-10. Paracyclas rugosa;

5. CS135Bi44, mặt ngoài mảnh trái, miền bụng bị biến dạng; 6. CS135Bi35. mặt

ngoài mảnh trái; 7. CS135Bi31, mặt ngoài mảnh trái; 8. CS135Bi169, mặt ngoài

mảnh phải; 9. CS135Bi45, A. mặt ngoài mảnh phải; B. mặt ngoài mảnh trái; 10.

CS135Bi54, A. mặt ngoài mảnh phải; B. Mytilarca cf. M. chemungensis; Thước tỷ

lệ 10mm.

Bản ảnh 5.

1-14. Mytilarca cf. M. chemungensis

1. CS135Bi142. mặt ngoài mảnh phải; 2. CS135Bi142, mặt bụng; 3. CS135Bi142,

mặt ngoài mảnh trái; 4. CS135Bi10, mặt ngoài mảnh phải; 5. CS135Bi02, mặt

ngoài mảnh phải; 6. CS135Bi12, mặt ngoài mảnh phải; 7, CS135Bi20, mặt ngoài

mảnh phải; 8. CS135Bi25, mặt ngoài mảnh phải; 9. CS135Bi14, mặt ngoài mảnh

phải; 10. CS135Bi143, mặt ngoài mảnh phải; 11. CS135Bi143, mặt bụng; 12.

83

CS135Bi143, mặt ngoài mảnh trái; 13. CS135Bi144, mặt ngoài mảnh phải; 14.

CS135Bi144, mặt bụng; 15. CS135Bi144, mặt ngoài mảnh trái; 16. CS135Bi19,

mặt ngoài mảnh trái. Thước tỷ lệ 10mm.

Bản ảnh 6.

1-8. Limoptera? cf. macroptera (Conrad), 1838

1. CS135Bi57, mặt ngoài mảnh trái không bảo tồn phần cánh sau và cánh sau mảnh

phải thể hiện rãnh và gờ của dây chằng kép (Duplivincular ligament) dọc theo bờ

lưng sau; 2. CS135Bi54, mặt ngoài mảnh trái không hoàn chỉnh; 3. CS135Bi57,

cánh sau mảnh phải thể hiện rãnh và gờ của dây chằng kép (Duplivincular

ligament). 4. CS136Bi55, mặt ngoài mảnh trái không bảo tồn miền bụng và một

phần miền sau, thể hiện đỉnh và tai trước; 5. CS135Bi47, khuôn trong mảnh trái bảo

tồn không đầy đủ miền bụng, thể hiện vết bám cơ ở miền sau; 6. CS135Bi66, cánh

sau mảnh trái thể hiện rãnh và gờ của dây chằng kép (Duplivincular ligament); 7.

CS135Bi48, khuôn trong mảnh trái bảo tồn không đầy đủ miền bụng thể hiện vết

bám cơ và dây chằng kép; 8. CS135Bi66, mặt ngoài mảnh trái bảo tồn không đầy đủ

miền bụng trước và một phần miền sau.

Bản ảnh 7.

1-8. Beichuania guangcaoziensis Liu and Gu, 1988

1. CS135Bi89, mặt trong của mảnh phải; 2. CS135Bi89, mặt trong của mảnh phải;

3. CS135Bi90, mặt bên mảnh trái; 4. CS135Bi89, mặt bên mảnh phải; 5.

CS135Bi90, bờ sau mảnh trái; 6. CS135Bi89, bờ sau mảnh phải; 7. CS135Bi90, mặt

lưng mảnh trái; 8. CS135Bi89, mặt lưng mảnh phải.

Bản ảnh 8.

1-8. Beichuania bomongensis sp. nov.

1. CS135Bi91, mặt lưng của mẫu nguyên con; 2. CS135Bi91, miền sau của mẫu

nguyên con; 3. CS135Bi91, mặt lưng mẫu nguyên con; 4. CS135Bi91, mặt bên phải

của mẫu nguyên con; 5. CS135Bi91, mặt bên mảnh trái của mẫu nguyên con; 6.

CS135Bi92, mặt bên phải của mẫu nguyên con; 7. CS135Bi92, mặt bên mảnh trái

của mẫu nguyên con; 8. CS135Bi92, mặt lưng của mẫu nguyên con.

84

Bản ảnh 9.

1-12. Beichuania bomongensis sp. nov.

1. CS135Bi93, mặt trong mảnh trái; 2. CS135Bi93, mặt bên mảnh trái; 3.

CS135Bi93, mặt lưng mảnh trái; 4. CS135Bi94, mặt trong mảnh trái; 5.

CS135Bi94, mặt bên mảnh trái; 6. CS135Bi94, mặt lưng mảnh trái; 7. CS135Bi95,

mặt trong mảnh phải; 8. CS135Bi95, mặt bên mảnh phải; 9. CS135Bi95, mặt lưng

mảnh phải; 10. CS135Bi96, mặt bên mảnh phải; 11. CS135Bi97, mặt bên mảnh

phải; 12. CS135Bi98, mặt bên mảnh phải.

Bản ảnh 10.

1-11. Beichuania sonlaensis sp. nov.

1. CS135Bi99, mặt trong mảnh trái; 2. CS135Bi100, mặt trong mảnh phải; 3.

CS135Bi99, mặt bên mảnh trái; 4. CS135Bi100, mặt bên mảnh phải; 5. CS135Bi99,

bờ sau mảnh trái; 6. CS135Bi100, bờ sau mảnh phải; 7. CS135Bi99, mặt lưng mảnh

trái; 8. CS135Bi100, mặt lưng mảnh phải; 9. CS135Bi101, mặt trong không hoàn

chỉnh của mảnh trái; 10. CS135Bi101, mặt bên không hoàn chỉnh của mảnh trái; 11.

CS135Bi102, mặt trong không hoàn chỉnh của mảnh trái.

Bản ảnh 11.

1. Euryspirifer cf. tonkinensis (Mansuy); 2. Acrospirifer sp.; 3. Guistrophia cf.

modesa Wang et Rong; 4. Euryspirifer aff. tranversus Zuong; 5-6. Phacops sp.; 7.

Gravicalymene aff. malougkaensis (Mansuy); 8-9. Syringopora?. Tất cả các ảnh x1.

85

Bảnh ảnh 1. Nuculoidea, Nuculites

86

Bảnh ảnh 2. Sanguinolites, Sphenotus, Schizodus, Myalina

87

88

Bảnh ảnh 3. Pseudosanguinolites

89

Bản ảnh 4. Pseudosanguinolites, Paracyclas

90

Bản ảnh 6. Mytilarca

91

Bản ảnh 6. Limoptera

92

Bản ảnh 7. Beichuania

93

Bản ảnh 8. Beichuania

94

Bản ảnh 9. Beichuania

95

Bản ảnh 10. Beichuania

96

Bản ảnh 11. Một số hóa thạch khác

8 9

97