ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
------------------
NGUYỄN BÁ HÙNG
HÓA THẠCH HAI MẢNH VỎ DEVON SỚM VÙNG TÔ MÚA,
HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA VÀ Ý NGHĨA
ĐỊA TẦNG CỦA CHÚNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-----------------
NGUYỄN BÁ HÙNG
HÓA THẠCH HAI MẢNH VỎ DEVON SỚM VÙNG TÔ MÚA,
HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA VÀ Ý NGHĨA
ĐỊA TẦNG CỦA CHÚNG
Chuyên ngành: Địa chất học
Mã số: 8440201.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TSKH. Tống Duy Thanh TS. Nguyễn Thùy Dương
Hà Nội - 2020
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này tác giả đã nhận được rất nhiều sự hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và động viên của giáo viên hướng dẫn, các chuyên gia trong ngành cổ sinh và bạn bè đồng nghiệp. Tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
- TS. Nguyễn Thùy Dương (khoa Địa chất, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) người đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
- TS. Nguyễn Hữu Hùng (Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) và TS. Đặng Trần Huyên (Hội Cổ sinh – Địa tầng Việt Nam) đã hướng dẫn, truyền đạt những kinh nghiệm quý báu và chỉ bảo tác giả nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ.
- ThS. Doãn Đinh Hùng chủ nhiệm Dự án thành phần “Xây dựng Bộ sưu tập mẫu Cổ sinh Việt Nam” mã số BSTMV.28/15-18 (Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình học, cho tác giả tham gia khảo sát thực địa, thu thập mẫu và cho phép tác giả sử dụng Bộ mẫu của Dự án cho luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng, nỗ lực hết mình song chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự thông cảm và chỉ bảo tận tình từ quý thầy cô và các bạn.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................5 CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ VÙNG NGHIÊN CỨU.......................................7 1.1. Vị trí địa lý...............................................................................................7 1.2. Đặc điểm địa chất vùng nghiên cứu.........................................................8 1.2.1. Địa tầng.....................................................................................9 1.2.2. Magma....................................................................................19 1.3. Địa tầng chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng..........................20 1.3.1. Lịch sử nghiên cứu địa chất mặt cắt đèo Bó Mồng.................20 1.3.2. Địa tầng chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ....................................20 CHƯƠNG 2. CƠ SỞ TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............22 2.1. Cơ sở tài liệu..........................................................................................22 2.2. Phương pháp nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ..................................22 2.2.1. Phương pháp thu thập mẫu ngoài thực địa..............................22 2.2.2. Phương pháp gia công mẫu và chụp ảnh.................................25 2.2.3. Phương pháp mô tả và định loại..............................................27 2.2.4. Phương pháp nghiên cứu địa tầng...........................................28 2.2.5. Phương pháp cổ sinh thái........................................................28 2.3. Đặc điểm hình thái chung hóa thạch Hai mảnh vỏ.................................29 CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM HÓA THẠCH HAI MẢNH VỎ DEVON SỚM VÙNG TÔ MÚA VÀ Ý NGHĨA ĐỊA TẦNG CỦA CHÚNG..............................36 3.1. Mô tả cổ sinh.........................................................................................36 3.2. Ý nghĩa địa tầng của hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.............................................................................62 3.3. Sự phong phú và đa dạng của Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.............................................................................68 3.4. Điều kiện môi trường sống của Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.............................................................................70 3.4.1. Dạng sống ở đáy – chui rúc (infaunal bivalves)......................70 3.4.2. Dạng sống bán đáy – chui rúc, bò hoặc bám trên mặt đáy (semi-infaunal)............................................................................................72 3.4.3. Dạng sống trên mặt đáy – dạng bò hoặc bám trên mặt (epifaunal)...................................................................................................72 3.5. Mối quan hệ giữa Hai mảnh vỏ và môi trường trầm tích.......................73 KẾT LUẬN..................................................................................................75
1
2
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Sơ đồ vị trí vùng nghiên cứu; A, vị trí địa lý của vùng nghiên cứu trong khu vực Tây Bắc Việt Nam; B, vị trí vùng nghiên cứu ở tỉnh Sơn La; C, các điểm lộ (ngôi sao đen – CS800, CS801, CS802 và CS135) của hệ tầng Bản Nguồn tại đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La...................................7
Hình 1.2. Bản đồ địa chất vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La..........16
Hình 1.3. Mặt cắt địa chất đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La..................................................................................................................... 21
Hình 2.1. A. Đá phiến sét đen lộ ra tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; B. Hóa thạch Pseudosanguinolites douvillei Patte trong đá phiến sét............................................................................................................................ 22
Hình 2.2. Bộ búa (A), đục (B) mẫu cổ sinh ngoài thực địa mác Estwing, USA......................................................................................................................... 23
Hình 2.3. A. Địa bàn địa chất; B. Máy định vị toàn cầu (GPS).....................23
Hình 2.4. A. Giấy mềm; B. Báo; C. Bút xóa; D. Bút viết mẫu; E, F. Mẫu hóa thạch sau khi viết số hiệu mẫu Bút dạ mầu không xóa được...................................24
Hình 2.5. A, C. Hệ thống máy gia công bằng khí nén (Airscriber); B. Máy thổi bột (Sandblater); D. Tool để gia công của máy Airscriber................................25
Hình 2.6. A. Máy ảnh Cannon 5Dmark III; B. Ống kính macro 100mm; C. Dây magiê; D. Mẫu sau khi phủ magiê....................................................................26
Hình 2.7. Thước kẹp cơ hãng Mitutoyo, Nhật Bản dùng để đo mẫu.............27
Hình 2.8. Hình thái chung của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017).........................30
Hình 2.9. Một số hình dạng ở Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)..........................32
Hình 2.10. Các kiểu tô điểm mặt vỏ của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)..........33
Hình 2.11. Các kiểu răng của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)..........................34
Hình 3.1. Nuculoidea sp. (Mẫu CS135Bi77)................................................37
Hình 3.2. Nuculoidea cf. N. yongfuensis (mẫu CS135Bi72).........................39
Hình 3.3. Nuculites sp. (mẫu CS135Bi86)....................................................40
Hình 3.4. Schizodus aff. S. appressus (Conrad) (mẫu CS135Bi126)............42
Hình 3.5. Mặt ngoài mảnh phải Paracyclas rugosa (Goldfuss) (mẫu CS135Bi54).............................................................................................................44
Hình 3.6. Mặt ngoài mảnh trái Paracyclas sp. (mẫu CS135Bi43)................45
Hình 3.7. Mảnh phải Pseudosanguinolites douvillei Patte (mẫu CS135Bi148) ................................................................................................................................. 47
3
Hình 3.8. Mặt ngoài mảnh trái Beichuania guangcaoziensis (mẫu CS135Bi89).............................................................................................................49
Hình 3.9. Mặt ngoài mảnh phải Beichuania bomongensis (mẫu CS135Bi90) ................................................................................................................................. 51
Hình 3.10. Mặt ngoài mảnh trái Beichuania sonlaensis (Mẫu CS135Bi99). 54
Hình 3.11. Mảnh trái Sphenotus vanlinhensis (Mẫu CS135Bi136)...............56
Hình 3.12. Mặt ngoài mảnh phải Sanguinolites nagaolingensis (Mẫu CS135Bi140)...........................................................................................................57
Hình 3.13. Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad) (Mẫu CS135Bi142)....58
Hình 3.14. Mặt ngoài mảnh trái Myalina sp. (Mẫu CS135Bi124)................60
Hình 3.15. Mặt ngoài mảnh trái Limoptera? cf. macroptera (Conrad) (Mẫu CS135Bi57).............................................................................................................62
Hình 3.16. A. Vết lộ CS135 của hệ tầng Bản Nguồn tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; B. Hóa thạch Euryspirifer cf. tonkinensis (Mansuy) trong đá phiến sét đen.............................................................................63
Hình 3.17. Sơ đồ phân bố địa tầng của một số loài Hai mảnh vỏ trong đá phiến sét đen ở mặt cắt đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La........................65
Hình 3.18. A. Vết lộ đá vôi hệ tầng Bản Páp; B. Hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng của hệ tầng Bản Páp lộ ra tại mỏ khai thác đá vôi ở Bản Khảm, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.....................................................................................66
Hình 3.19. Cột địa tầng và các mức chứa hóa thạch trong các trầm tích ở đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La....................................................................66
Hình 3.20. Cột địa tầng của hệ tầng Bản Nguồn ở đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.....................................................................................67
Hình 3.21. Biểu đồ so sánh thành phần giống loài của một số nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon ở Việt Nam....................................................................68
Hình 3.22. Biểu đồ thể hiện thành phần giống của hóa thạch Hai mảnh vỏ vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La..............................................................69
Hình 3.23. Mô hình tái dựng lại điều kiện sống của Hai mảnh vỏ hệ tầng Bản Nguồn vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La: 1. Nuculoidea; 2. Nuculites; 3. Schizodus; 4. Paracyclas; 5. Pseudosanguinolites; 6. Beichuania; 7. Sanguinolites; 8. Sphenotus; 9. Mytilarca; 10. Limoptera; 11. Myalina (Trên cơ sở của Johnston (1985))..................................................................................................................... 71
Hình 3.24. A. Điểm lộ (CS135) đá phiến sét đen chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ; B. Tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ gồm Mytilarca, Pseudosanguinolites, Limoptera trong khối đá phiến sét đen....................................................................73
4
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Thành phần giống, loài của các mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.......................................................................36
Bảng 3.1. Kích thước của Nuculoidea sp......................................................38
Bảng 3.1. Kích thước của Nuculoidea cf. N. yongfuensis Pojeta & Zhang, 1986......................................................................................................................... 39
Bảng 3.1. Kích thước của Nuculites sp.........................................................41
Bảng 3.1. Kích thước của Schizodus aff. S. appressus (Conrad), 1842.........42
Bảng 3.1. Kích thước của Paracyclas rugosa (Goldfuss).............................44
Bảng 3.1. Kích thước của Paracyclas sp......................................................45
Bảng 3.1. Kích thước của Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927..........47
Bảng 3.1. Kích thước của Beichuania guancaoziensis.................................50
Bảng 3.2. Kích thước của Beichuania bomongensis.....................................51
Bảng 3.1. Kích thước của Beichuania sonlaensis.........................................53
Bảng 3.1. Kích thước của Sphenotus vanlinhensis Mansuy, 1916................56
Bảng 3.1. Kích thước của Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842...59
5
MỞ ĐẦU
Hai mảnh vỏ (Bivalvia) là thuật ngữ được Linnaeus (1758) đề xuất cho những động vật có hai mảnh sống trong môi trường thủy sinh. Trước đây, chúng còn có tên gọi là Chân rìu (Pelecypoda) hay Lamellibranchia có ý nghĩa mang giống như mang lá. Chúng thuộc một lớp của ngành Động vật thân mềm (Mollusca), xuất hiện từ Cambri sớm và thành công trên con đường phát triển và duy trì nòi giống ở hầu hết các kỷ địa chất từ sau Cambri đến ngày nay trong các môi trường biển, từ gần bờ tới xa bờ, trong các vĩ độ khác nhau của Trái đất, từ xích đạo đến các vùng cực bắc và nam bán cầu. Chúng cũng thành công và phát triển rực rỡ trong các hồ, ao, sông, ngòi nước ngọt trên lục địa. Cho đến nay, đã ghi nhận có khoảng 9200 loài thuộc 1260 giống và 106 họ xuất hiện trên Trái đất (Huber, 2010). Hóa thạch Động vật Hai mảnh vỏ được tìm thấy trong hầu hết các khoảng địa tầng, phân bố cả trong môi trường biển, nước lợ và nước ngọt. Hóa thạch Hai mảnh vỏ là bằng chứng quan trọng cho công tác định tuổi địa chất, xác định cổ môi trường, cổ sinh thái và đa dạng sinh học địa chất (geobiodiversity).
Trong kỷ Devon, động vật Hai mảnh vỏ phát triển rất mạnh mẽ và phân bố rộng khắp trên thế giới; tuy nhiên các nghiên cứu về hóa thạch này trước thế kỷ 19 chủ yếu do các nhà địa chất – cổ sinh của Mỹ như Hall (1862, 1884, 1885), Harris (1899), Henry (1889), Miller (1889) và Beushausen (1895) tiến hành. Sang thế kỷ 20 hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ Devon nhận được nhiều quan tâm nghiên cứu cả ở Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Á; có thể kể đến các công trình nghiên cứu của Clark (1913), William và Breger (1916), Conrad (1941, 1942), Bailey (1978, 1983, 1986, 1986a, 2011), Pojeta & Zhang (1986), Barron (1981), Boyd & Newell (1968), Newell & Boyd (1975), Bradshaw (1991), Cox (1951, 1961), Doumani (1965), Moore (1969), Fang (1997) và McAlester (1962, 1963, 1968). Sang thế kỷ 21, các nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ Devon có các công trình nghiên cứu của Kriz (2000, 2001, 2004, 2007, 2009), McRobert & Newell (2001, 2005), Farjat (2005), Amler (2010) và Andera (2015). Cho đến nay, có khoảng 200 giống hóa thạch Hai mảnh vỏ trong địa tầng Devon đã được phát hiện và mô tả.
Hóa thạch Hai mảnh vỏ trên lãnh thổ Việt Nam đã được phát hiện trong các trầm tích từ kỷ Cambri đến kỷ Đệ tứ, chúng đặc biệt phong phú trong các kỷ Devon, Trias, Jura, Paleogen và Neogen. Trước năm 1945, các nghiên cứu về địa chất và cổ sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế, nghiên cứu về nhóm hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ
6
Devon ở Việt Nam chỉ được đề cập đến trong một số công trình của các nhà địa chất Pháp như Mansuy (1908, 1912, 1915, 1919) và Dussalt (1929). Sau năm 1945, công tác đo vẽ Bản đồ địa chất và Khoáng sản tỷ lệ 1: 200.000 và 1: 50.000 các nghiên cứu về địa chất được tiến hành, các công trình nghiên cứu về cổ sinh cũng nhiều hơn. Trong đó, nhóm hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ Devon được nghiên cứu bởi Kulikova (in Dương Xuân Hảo, 1968), Đặng Trần Huyên (in Dương Xuân Hảo, 1980), Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc, 1991), Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc, 2012). Khoảng 30 loài của 15 giống trong các địa tầng Devon ở Việt Nam đã được mô tả.
Gần đây, một số lượng lớn mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ đã được Bảo tàng Thiên nhiên Việt nam sưu tập và lưu giữ, tuy nhiên chúng chưa được định loại do thiếu chuyên gia nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu “Hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn la và ý nghĩa địa tầng của chúng” được lựa chọn là hết sức cần thiết để học viên bước đầu nắm được phương pháp nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ, làm cơ sở cho công tác nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ ở các địa tầng khác trên lãnh thổ Việt Nam trong các giai đoạn tiếp theo, đồng thời đáp ứng nhiệm vụ trước mắt của dự án thành phần “Xây dựng Bộ sưu tập mẫu Cổ sinh Việt Nam” mã số BSTMV.28/15-18 thuộc dự án “Xây dựng Bộ sưu tập mẫu vật Quốc gia về Thiên nhiên Việt Nam” của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam do Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đảm nhiệm.
Luận án được xây dựng trên cơ sở hóa thạch Hai mảnh vỏ được sưu tập tại mặt cắt đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Trong đó tác giả là thành viên tham gia trong quá trình sưu tập mẫu và đo vẽ mặt cắt địa chất. Việc luận tuổi cho phức hệ hóa thạch Hai mảnh vỏ tác giả so sánh với các phức hệ Hai mảnh vỏ Devon sớm ở Tứ Xuyên và Quảng Tây, nam Trung Quốc. Tác giả cũng tham khảo các kết quả nghiên cứu hóa thạch Tay cuộn, Bọ ba thùy, San hô vách đáy đi cùng trong các lớp chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng do TS. Nguyễn Hữu Hùng (Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) phân tích. Để nhìn nhận một cách tổng thể cấu trúc địa chất cũng như trật tự địa tầng của vùng nghiên cứu, tác giả tham khảo các tài liệu đo vẽ bản đồ địa chất và tìm kiếm thăm dò khoáng sản do Nguyễn Xuân Bao (1978) chủ biên và được chỉnh lý năm 2005.
7
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ VÙNG NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí địa lý
Vùng nghiên cứu thuộc xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, phía bắc
Việt Nam (Hình 1.1). Xã Tô Múa nằm ở phía bắc huyện Vân Hồ, phía đông giáp xã
Mường Tè, phía tây giáp xã Hua Păng (Mộc Châu), phía nam giáp xã Chiềng Khoa,
phía bắc giáp xã Suối Bàng, Song Khủa. Đây là vùng núi cao có độ cao trung bình
khoảng 800 m - 1000 m so với mặt nước biển, địa hình bị chia cắt mạnh và thay đổi
rõ rệt theo chiều từ tây nam lên đông bắc. Nằm ở bờ phải phía hạ lưu Sông Đà, các
dãy núi có độ cao trung bình từ 500-800m. Mạng sông suối khá dày đặc, sông lớn
nhất trong vùng là Sông Đà và các sông suối nhánh của nó như suối Bàng, suối Sơ
Vin, suối Nhúng, suối Ngùi, suối Khủa, suối Ngậm, suối Kế, suối Chum.
Hình .1.1. Sơ đồ vị trí vùng nghiên cứu; A, vị trí địa lý của vùng nghiên cứu trong
khu vực Tây Bắc Việt Nam; B, vị trí vùng nghiên cứu ở tỉnh Sơn La; C, các điểm lộ
(ngôi sao đen – CS801, CS802, CS135, CS796 và CS736) của hệ tầng Bản Nguồn
tại đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
8
Vùng nghiên cứu nằm trong phạm vi của hai á miền khí hậu tây bắc và
đông bắc. Á miền khí hậu tây bắc thuộc phần cực tây nam của tờ bản đồ, ít chịu
ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, nhưng chịu ảnh hưởng lớn của gió tây nam, ít
mưa. Á miền khí hậu đông bắc chịu ảnh hưởng lớn của gió mùa đông bắc, giá lạnh,
mùa hè chịu ảnh hưởng của gió mùa đông nam, mưa nhiều, thực vật phát triển
phong phú, có nhiều loại gỗ quý và tre nứa.
Giao thông đường thuỷ có Sông Đà. Đường bộ có đường ô tô 101 nối liền
các xã, thôn, bản là tuyến đường giao thông huyết mạch trong vùng. Ngoài ra, còn
có hệ thống đường lâm nghiệp, đường dân sinh nối liền giữa các bản làng trong
vùng (Hình 1.1).
Dân cư phân bố không đều, có 4 dân tộc sinh sống gồm Thái, Kinh, Dao và
Mường. Tình hình kinh tế xã hội còn thấp. Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ.
1.2. Đặc điểm địa chất vùng nghiên cứu
Vùng nghiên cứu nằm trong tờ Bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ
1:200.000 tờ Vạn Yên. Địa chất tờ Vạn Yên đã được nghiên cứu từ lâu. Đầu tiên là
những công trình nghiên cứu địa chất của các nhà địa chất Pháp: Lantenois (1906-1907),
Deprat (1913, 1914, 1915), Dussault (1921), Jacop (1922, 1925) đến năm 1929 Dussault
thành lập tờ bản đồ địa chất Vạn Yên tỷ lệ 1:100.000.
Sau này Đovjikov (1965) thành lập bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam tỷ lệ
1:500.000 là một công trình nghiên cứu địa chất đầu tiên của Việt Nam được tiến
hành có hệ thống và đồng bộ nhiều phương pháp. Nguyễn Xuân Bao và nnk.,
(1969) hoàn thành Bản đồ địa chất tờ Vạn Yên tỷ lệ 1:200.000. Từ năm 1979 trở lại
đây, trên diện tích tờ Vạn Yên đã có nhiều công trình đo vẽ lập bản đồ địa chất và
điều tra khoáng sản được hoàn thành như Bản đồ địa chất nhóm tờ Vạn Yên- Hoà
Bình-Suối Rút tỷ lệ 1:50.000 của Nguyễn Công Lượng và nnk., (1992, 1995), các
công trình nghiên cứu chuyên đề của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
Nhìn chung, vùng nghiên cứu nằm trong một vùng tổng thể có đặc điểm địa
chất phức tạp xuất hiện của các đá từ Cambri đến Đệ tứ, chiếm khối lượng chủ yếu
9
là các đá tuổi Devon và ít hơn là các đá của địa tầng Cambri và Trias (.1.2.1.Hình .
1.1.).
.1.2.1. Địa tầng
GIỚI PALEOZOI
HỆ CAMBRI – HỆ ORDOVIC
Hệ tầng Bến Khế (ε-O1 bk)
Mặt cắt chuẩn (Holostratotyp): mặt cắt Bản Chanh - Bản Khủa (dọc theo bờ
sông Đà, đông nam làng Bến Khế 1 km, Mộc Châu, Sơn La. Hệ tầng gọi theo tên
làng Bến Khế (ven hạ lưu sông Đà, Mộc Châu, Sơn La) nơi lộ tốt các thành tạo hệ
tầng (Dovjikov A.E. và nnk. 1965).
Hệ tầng Bến Khế gồm trầm tích lục nguyên xen kẹp trầm tích lục nguyên -
carbonat. Chúng khác biệt rõ với các đá hoa dolomit thuộc hệ tầng Đá Đinh (NP3
dd) nằm không chỉnh hợp dưới và các đá vôi dolomit sáng màu dạng khối thuộc hệ
tầng Sinh Vinh (O3-S sv) nằm không chỉnh hợp trên nó.
Trong vùng nghiên cứu, hệ tầng Bến Khế lộ trên một diện nhỏ, phân bố chủ
yếu ở phía đông bắc. Tại mặt cắt chuẩn Bản Chanh - Bản Khua, có trật tự địa tầng
từ dưới lên như sau:
1. Cuội, sạn kết thạch anh và cát kết hạt thô phân lớp dày. Dày 140 m.
2. Dá phiến sét chứa vôi, phân dải, kẹp bột kết. Dày 150 m.
3. Đá vôi chíra nhiều tạp chất, xám sáng. Dày 150 m.
4. Quarzit hạt nhỏ, bột kết,và trên cùng là đá phiến sét bột kết. Dày 700 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng nằm bất chỉnh hợp trên đá hoa dolomit
của hệ tầng Đá Đinh (NP3 dd) và không chỉnh hợp dưới hệ tầng Sinh Vinh (O-S sv).
Tuổi Ordovic của hệ tầng được Trần Hữu Dần (1997) xác định dựa trên các di tích
tảo Manchuriophycus sp. trong đá phiến thạch anh - sericit thuộc phần cao mặt
cắt Nậm Cáy - đèo Sin Hồ và tuổi Cambri đến Ordovic được Nguyễn Văn Hoành
(2001) xác định dựa trên tảo ẩn nguồn Orygmatosphaeridium sp., Tremato sp.,
Haeridium sp..
HỆ ORDOVIC, THỐNG THƯỢNG – HỆ SILUR
10
Hệ tầng Sinh Vinh (O-S sv)
Mặt Cắt chuẩn (Holostratotyp): dọc bờ phải sông Đà, đoạn từ cửa suối
Sinh Vinh đến cửa suối Nậm Tơn. Tên hệ tầng đặt theo suối Sinh Vinh, nơi bắt đầu
lộ mặt cắt chuẩn của hệ tầng (Dovjikov A.E. và nnk. 1965).
Đặc trưng của hệ tầng Sinh Vinh là đá vôi chiếm vai trò chủ yếu, trong đó
phần ưu trội là đá vôi dolomit xám sáng phân lớp dày. Hệ tầng này dễ phân biệt với
trầm tích lục nguyên của hệ tầng Bến Khế (ε-O bk) nằm dưới và đá phiến sét vôi
sẫm màu phân lớp mỏng của hệ tầng Bó Hiềng (S2 bh) nằm trên.
Hệ tầng lộ thành một dải hẹp theo hướng tây bắc – đông nam ở phía tây bắc
vùng nghiên cứu, dọc theo sông Đà. Ở mặt cắt chuẩn đoạn cửa suối Sinh Vinh, hệ
tầng gồm ba phần rõ nét với bề dày khoảng 800m.
1. Phần dưới: cuội kết cơ sở. Dày 40 m.
2. Phần giữa: cát kết vôi, bột kết vôi, đá vôi dolomit, đá vôi cát, đá vôi sét,
chứa san hô Reuschia sp., Plasmoporella kiaeri, Favositella alveolata. Dày khoảng
400m.
3. Phần trên: đá vôi dolomit, xám sáng, phân lớp dày, kẹp đá phiến sét vôi;
chứa san hô Favosites sp., F. aff. forsbesi, F. ex gr. gothlandica, F. cf. hisinger, F.
cf. coreaniformis. Mesofavosites sp., Squameofavosites sp. Parastriatopora sp.; dày
350 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Theo Nguyễn Xuân Bao và nnk. (1969) hệ tầng
Sinh Vinh nằm không chỉnh hợp trên các thành tạo đá hoa dolomit của hệ tầng Đá
Đinh (NP3 dd); trên đá phiến sét, bột kết của hệ tầng Bến Khế (ε-O1 bk). Hệ tầng
nằm chỉnh hợp dưới hệ tầng Bó Hiềng (S3-4 bh) (Tống Duy Thanh và nnk., 2005;
Nguyễn Đình Hợp và nnk., 1989).
Tuổi Ordovic - Silur của hệ tầng được xác định nhờ phát hiện hoá thạch san
hô tuổi Ordovic muộn trong những ổ vôi của phần thấp hệ tầng ở gần cửa suối Sinh
Vinh, và hoá thạch san hô Silur muộn thuộc phần cao của hệ tầng.
HỆ SILUR, THỐNG TRUNG
11
Hệ tầng Bó Hiềng (S3-4 bh)
Hệ tầng do Nguyễn Vĩnh (1978) xác lập theo mặt cắt Bo Tao - Bó Hiềng -
Tiên Ban (bờ Sông Đà) vùng Bó Hiềng, huyện Mộc Châu, Sơn La.
Hệ tầng phân bố rộng rãi ở phía đông bắc vùng nghiên cứu, dọc theo bờ phải
sông Đà. Nguyễn Vĩnh (1978) mô tả mặt cắt chuẩn chiếm phần thấp của mặt cắt Bo
Tao - Phu Chuột, đoạn từ Bo Tao đến Tiên Ban gồm:
1. Đá phiến vôi màu xanh sẫm, vàng lục xen đá vôi xám đen, có ít sét dạng
dải, chứa Retziella weberi. Dày khoảng 100 m.
2. Đá vôi đen, đá vôi kết tinh, đá vôi cát màu xám, phân lớp mỏng và trung
bình, có xen những dải mỏng và rất mỏng sét vôi màu đỏ nâu, vàng và bột kết màu
xám lục, chứa Retziella weberi, Tadschikia xuanbaoi, Howellella sp., Scoliopora
sp., Favosites kunjakemis. Dày 300 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Bó Hiềng nằm chỉnh hợp trên hệ tầng
Sinh Vinh (O-S sv) và chỉnh hợp dưới hệ tầng Sông Mua (D1 sm). Tống Duy Thanh
và nnk. (2001) xếp hệ tầng Bó Hiềng vào Silur thượng trên cơ sở phức hệ hóa thạch
Retziella weberi.
HỆ DEVON, THỐNG HẠ
Hệ tầng Sông Mua (D1 sm)
Hệ tầng Sông Mua do Dovjikov xác lập ở Tây Bắc Bộ (Dovjikov và nnk.
1965). Mặt cắt chuẩn của hệ tầng ở thượng nguồn Sông Mua phía dưới làng Ngã
Hai, huyện Phù Yên, Sơn La. Đặc trưng cua hệ tầng là có bề dày lớn (1500 m ờ mặt
cắt Hoà Bình - Tu Lý và 2300 m ở mặt cắt thượng nguồn Sông Mua), thành phần
chủ yếu gồm đá phiến sét đen, phân biệt rõ nét với đá của các hệ tầng khác của
Devon ở Bắc Bộ.
Trong vùng nghiên cứu, hệ tầng lộ trên các khối nhỏ tạo thành một dải không
liên tục kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam. Tại mặt cắt chuẩn, theo Dovjikov
và nnk. (1965) hệ tầng gồm hai phần:
Phần dưới. Đá phiến sét đơn dạng, chủ yếu màu đen, đôi khi màu lục, xen ít
lớp kẹp cát kết màu xám lục và quarzit, dày 300 m.
12
Phần trên. Cũng gồm các loại đá tương tự, nhưng số lượng các lớp kẹp cát
kết và quarzit giảm đáng kể, dày gần 500 m.
Nguyễn Vĩnh (1977) đã mô tả chi tiết lại mặt cắt thượng nguồn Sông Mua và
phân thành 5 tập:
1. Đá phiến có vôi màu đen, xám đen, phần dưới có chỗ dạng sọc, xen ít lớp
cát kết mỏng, phần trên xen vài lớp đá phiến sét than; dày gần 900 m.
2. Đá phiến có vôi màu đen, xám đen; dày 700 m.
3. Đá phiến có vôi màu đen và xám chiếm ưu thế, phần dưới xen những lớp
cát kết, phần trên cùng có một số thấu kính đá vôi mỏng; dày 400 m. Hoá thạch đã
được thu thập gồm Howittia wangi (= Hysterolites wangi), Chonetes sp., ?
Pugnacina sp., Athyris sp., Lingula sp., Rhynchonellida, Spiriferida, Pteria
(Actinopteria) sp., di tích Bọ ba thuỳ và cá bảo tồn kém.
4. Đá phiến sét màu đen và xám đen, cát kết dạng quarzit; dày 400 m. Tập
hợp hoá thạch phong phú gồm: Howitlia cf. wangi, ?Pugnacina sp., Lingula sp.,
Sphenotus cf. spatulata, Mytilarca? sp., Pteria (Actinopteria) sp.
5. Đá phiến vôi và đá vôi có cát, sét màu xám, xám đen, phân lóp dày và
dạng khối; dày 170 m. Hoá thạch San hô bốn tia bảo tồn xấu.
Bề dày chung của mặt cắt này khoảng 2300 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng nằm chỉnh hợp trên đá vôi, vôi sét của hệ
tầng Bó Hiềng và nằm chỉnh hợp dưới trầm tích chứa phức hệ hoá thạch
Euryspirifer tonkinensis của hệ tầng Bản Nguồn.
Tuổi của hệ tầng được xác định dựa trên hai mức chứa hóa thạch trong đó
mức thứ nhất chủ yếu là Tay cuộn Mesodonvillina aff. subinterstrialis, Iridistrophia
aff. praeumbracula, Howellella sp., Schellwienella sp., Camarotoechia sp.,
Platyorthis sp., và một số ít Chân rìu Pteria sp., Sphenotus sp., Posidonia sp; mức
thứ hai là những dạng ứng với mức địa tầng tướng biển thấp nhất ờ Bắc Bộ chủ yếu
gồm Tay cuộn Howittia wangi, Howellella sp., Howellella sp., Pugnacina sp.,
Strophochonetes sp., Pugnacina aff. baoi, Tulynets hoabinhensis và Chân rìu. Dựa
13
trên hai phức hệ hóa thạch này có thể coi chúng gần tương đồng với hệ tầng Bắc
Bun và hệ tầng Si Ka ở đông Bắc Bộ.
Hệ tầng Bản nguồn (D1 bn)
Hệ tầng do Nguyễn Xuân Bao và nnk. (1969) xác lập trong quá trình lập bản
đồ địa chất tờ Vạn Yên (tỳ lệ 1: 200.000). Hệ tầng phân bố ở thượng nguồn Sông
Mua, hạ lưu sông Đà, trong các vùng Ngã Hai, Bản Nguồn, Bản Thọc, Hoà Bình -
Tu Lý và một dải hẹp từ Mó Tôm qua Bản Ngùi ở bờ phải sông Đà.
Hệ tầng phân bố rộng rãi ở trung tâm vùng nghiên cứu. Mặt cắt chuẩn của hệ
tầng theo thượng nguồn sông Mua được Nguyễn Vĩnh (1977) mô tả chi tiết với trật
tự địa tầng từ dưới lên như sau:
1. Cát kết thạch anh dạng quarzit phân lớp vừa và dày, màu xám, xen kẽ cát kết lẫn
sét màu xám đen và những lớp đá phiến đen với những vi dải cát. Dày 120 m.
2. Đá phiến, bột kết, màu đen xen những lớp cát kết lẫn sét và cát kết dạng quarzit.
Có chỗ các lớp cát kết tập trung dày tới 25 m. Trong đá của tập chứa
Dicoelostrophia annamitica, Euryspirifer tonkinensis, Stropheodonta aff. pattei,
Nervostrophia rzonsnickajae, Chonetes magnini, Parastrophonella aff. dora,
Undispirifer sp., Schellwienella sp., (?) Howellella sp., Gipydulidae, (?) Posidonia
sp., Proetus sp., Calceola sp. Dày 160 m.
3. Cát kết dạng quarzit và cát kết chứa sét xen kẽ những lớp đá phiến đen. Trong đá
phiến có chứa ít di tích hoá thạch Euryspirifer tonkinensis, Posidonia sp. Dày 50 m.
4. Đá phiến, bột kết vôi có lớp lẫn cát chứa phong phú hoá thạch Calceola sp.,
Euryspirifer tonkinensis, Stropheodonta aff. pattei, Undispirifer sp., Strophomenida,
Bọ ba thuỳ, Rêu động vật. Dày 50 m.
Tổng bề dày của mặt cắt này khoảng 380 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Bản Nguồn nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Sông Mua
(D1 sm) và dưới hệ tầng Bản Páp (D1-2 bp). Thành phần hoá thạch thể hiện rõ tính chất
của phức hệ Euryspirifer tonkinensis phân bố rộng rãi trong trầm tích Devon hạ ở Bắc
Bộ. Tuổi Devon sớm, Praga (D1 pg) của phức hệ hoá thạch này đã được Tống Duy
Thanh (1979, 1980, 1982), Tống Duy Thanh và nnk. (1986, 1988) xác định.
14
HỆ DEVON, THỐNG HẠ-TRUNG
Hệ tầng Bản Páp (D1-2 bp)
Mặt Cắt chuẩn (Holostratotyp): dọc theo thượng nguồn sông Mua, phía
trên Bản Nguồn khoảng 3 km, huyện Phù Yên, Sơn La. Hệ tầng Bản Páp mang tên
một bản cùng tên ở vùng Vạn Yên, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, do Nguyễn Xuân
Bao và nnk. (1969) xác lập trong quá trình đo vẽ bản đồ địa chất tờ Vạn Yên (tỷ lệ
1: 200 000), với tên gọi “Điệp” Bản Páp.
Hệ tầng gồm trầm tích carbonat, chủ yếu là đá vôi xám đen, phân lớp mỏng
và trung bình, phân bố rộng rãi ở Bắc Bộ. Các đá cacbonat của hệ tầng tạo thành dải
kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam phân bố ở trung tâm khu vực nghiên cứu.
Nguyễn Vĩnh (1977) đã mô tà chi tiết mặt cắt thượng nguồn Sông Mua với trật tự
địa tầng như sau:
1. Chỉnh hợp trên trầm tích lục nguyên của hệ tầng Bản Nguồn là đá phiến sét vôi
xám đen, phân lớp mỏng, xen đá vôi và đá vôi sét, chứa Favosites karpinskyi, F.
goldfussi, F. cf. kolimaemis, Emmonsia sp., Squameofavosites alveosquamatus,
Pachyfavosites aff. cronigerus, Yacutipora sp., Caliapora sp. Dày 190 m.
2. Đá vôi xám đen xen đá vôi xám sáng, xám sẫm, hạt nhỏ, phân lớp dày chứa
Amphipora sp. Dày 370 m.
3. Đá vôi hạt nhỏ màu xám, phân lớp mỏng xen những lớp đá vôi kết tinh hạt vừa,
phân lớp dày, chứa Amphipora sp. Dày 150 m.
4. Đá vôi hạt nhỏ màu xám sẫm xen đá vôi màu xám sáng, có chỗ bị tái kết tinh,
phân lớp trung bình chứa Amphipora sp. Dày 80 m.
5. Đá vôi hạt nhỏ màu xám, xám sẫm phân lóp dày, đôi nơi phân lớp trung bình;
những lớp tái kết tinh hạt thô màu xám sáng; chứa hoá thạch Amphipora ramosa,
Stachyoides sp. Dày 210 m.
6. Đá vôi xám sẫm, hạt vừa, phân lớp trung bình và dạng khối, chứa Caliapora sp.,
Scoliopora sp., Cyclochaetetes sp., Amphipora ramosa, Parallelopora sp. Dày 100m.
7. Đá vôi xám sẫm, hạt mịn, phân lớp mỏng và vừa, xen đá vôi sét hạt mịn màu xám
đen, phân lớp mỏng, chứa Atrypa (Desquamatia) sp., Grypophyllum sp. Dày 100m.
15
Tổng bề dày của hệ tầng Bản Páp trong mặt cắt chuẩn đạt 1200 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Bản Páp nằm chinh hợp trên trầm tích
lục nguyên của hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn) và dưới đá phiến vôi silic của hệ tầng
Tốc Tát (D3-C1 tt) (tại mặt cắt thượng nguồn Sông Mua và mặt cắt Bản Cải – Đa
Niêng). Tuổi của hệ tầng được xác định dựa trên các hóa thạch ở mặt cắt nêu trên và
các mặt cắt Nà Quản – Bằng Ca (vùng Hạ Lang), mặt cắt Đồng Văn (Hà Giang).
Trong đó, có ý nghĩa hơn cả là các hóa thạch Vỏ nón N. zlichovensis, N. barrandei
N. praecursor và Răng nón thuộc đới Pol. excavatas như P andorinellina
steinhornensis, Pol. excavatus, Pol. Nothoperbonus ứng với tuổi Emxi và hóa thạch
Răng nón thuộc đới Pa. transitans ứng với phần thấp nhất của bậc Frasni (D3 fr) ở
mặt cắt Đồng Văn.
HỆ CARBON – HỆ PERMI
Hệ tầng Bắc Sơn (C-P bs)
Tên của phân vị được Nguyễn Văn Liêm (1974) đặt theo tên khối đá vôi Bắc
Sơn ở Đông Bắc Bộ.
Các đá vôi của hệ tầng tạo thành các khối nhỏ phân bố ở phía đông bắc và
phía tây vùng nghiên cứu. Thành phần thạch học của hệ tầng gồm đá vôi, đá vôi
dolomit hóa, đá vôi sét, đá vôi hữu cơ. Ở phần dưới của hệ tầng thường là đá vôi
sét, đá vôi silic phân lớp trung bình, màu xám hoặc xám tối. Phần giữa và phần trên
chủ yếu là đá vôi sinh vật, đá vôi trứng cá, phân lớp dày hoặc dạng khối, có màu
xám hoặc xám sáng.
16
Hình .1.1. Bản đồ địa chất vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La (Trích lược từ Bản đồ địa chất và Khoáng sản tờ Vạn Yên tỷ lệ 1/200.000, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam xuất bản năm 2005).
17
GIỚI MESOZOI
HỆ TRIAS, THỐNG THƯỢNG
Hệ tầng Suối Bàng (T3n-r sb)
Mặt cắt chuẩn (Lectostratotyp): suối Láo, một nhánh trái của suối Bàng,
nằm ở vùng chứa than Suối Bàng bên bờ phải sông Đà, đông nam thị trấn Vạn Yên
(huyện Phù Yên, Sơn La) khoảng 10 km Vũ Khúc, Nguyễn Vĩnh (1967).
Trầm tích chứa than Trias thượng gồm hai phần rõ rệt - phần dưới là trầm
tích lục nguyên chứa ít lớp kẹp đá carbonat và hóa thạch động vật biển tuổi Nori,
chuyển lên phần trên là trầm tích á lục địa chứa than và hóa thạch thực vật trên cạn
tuổi Ret phân bố ở Tây Bắc Bộ.
Các đá của hệ tầng tạo thành dải kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam
phân bố ở trung tâm vùng nghiên cứu. Vũ Khúc và Nguyễn Vĩnh (1967) đã mô tả
mặt cắt theo suối Láo nằm trong vùng chuẩn trên bờ phải sông Đà. Mặt cắt này
được chia làm 3 phần, trong đó hai phần dưới gồm trầm tích biển, phần trên là trầm
tích lục địa xen những lớp trầm tích chứa hóa thạch biển.
• Phần dưới: bột kết và đá phiến sét màu xám sẫm, phân lóp mỏng, đôi khi
chứa vôi, xen các lớp kẹp đá vôi sét xám, đá vôi, cát két vôi chứa Hai mảnh vỏ loại
vỏ dày thuộc tướng biển ven bờ, các lớp kẹp cát kết hạt nhỏ, sáng màu hơn, ít nhiều
chứa vôi, dày 212 m. Trong phần này có rất nhiều lớp chứa hóa thạch động vật biển,
như Hai mảnh vỏ Halobia distincta, Zittelihalobia sublaevis, Gervillia shaniorum,
Anomia napengensis, Palaeocardita singularis, Mesoneilo fromageti, v.v... và Cúc
đá Discotropites noricus.
• Phần giữa: cát kết xám nhạt, phần dưới là cát kết thạch anh hạt vừa đến hạt
thô, phân lớp trung bình chứa các vảy mica xen vài lớp kẹp bột kết xám sẫm, trên
đó là cát kết đa khoáng xám sáng, hạt vừa xen ít lớp cát kết chứa vụn thực vật và
những vảy mica lớn nằm trên mặt lớp, rồi đến cát kết thạch anh hạt thô xen cát kết
chứa cuội, cuội kết, sỏi kết. Đặc biệt ở đây còn gặp những lớp kẹp dăm kết trầm tích
mà dăm là bột kết xám sẫm rất sắc cạnh nằm trong nền xi măng cát kết hạt vừa sáng
màu; bề dày chung là 425 m. Các lớp kẹp bột kết ở phần này vẫn chứa hóa thạch
18
thuộc cùng phức hệ với hóa thạch của phần 1, gồm Zitlelihalobia tenuicostata,
Burmesia lirata, Costatoria (Napengocosta) napengensis, Palaeocardita singularis,
Prolaria sollasi, Dentilucina mona, Triaphorus angulatus, Langvophorus garandi.
• Phần trên: bột kết xám đến xám sẫm, phân lớp mỏng đến trung bình,
thường chứa vụn thực vật xen cát kết xám, hạt nhỏ đến vừa, phân lớp trung bình, ít
lớp kẹp sét kết, sét than xám đen và vài vỉa than gày, chuyển lên trên cát kết giữ vai
trò chủ yếu, dày 270 m. Hóa thạch động vật trong tập này gồm những dạng biển và
nước lợ, như Gervillia cf. inflata, Isocyprina ewaldi, Vietnamicardium nequam,
ưnionites damdunensis v.v... đi cùng với thực vật trên cạn Clathopteris
meniscioides, Diclyophyllum nalhorstii, “Glossopteris” indica, Yuccites
vietnamemis, Neocalamiles hoerensis, Goeppertella microloba, v.v...
Bề dày chung của hệ tầng tại mặt cắt này khoảng 937 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Suối Bàng phủ không chỉnh hợp trên
nhiều hệ tầng cồ hơn, từ Proterozoi đến Mesozoi. Tuổi của hệ tầng được xác định là
Nori - Reti trên cơ sở hóa thạch Cúc đá Nori tìm thấy ở vùng Đầm Đùn như
Paratibedtes sp., Analibetites sp. và các loài khác nhau cùa giống Halobia, một
giống coi như đã tuyệt chủng vào cuối Nori; và hóa thạch thuộc “hệ thực vật Hòn
Gai” phân bố chủ yếu trong phần trên của hệ tầng.
GỚI KAINOZOI
HỆ PALEOGEN – THỐNG THƯỢNG
Hệ tầng Nậm Ún (E3 nn)
Mặt cắt chuẩn (Holostratotyp): vùng đá dầu Nậm Ún, huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La. Hệ tầng do Đỗ Văn Hãn và nnk., 1981 xác lập cho các thành tạo đá phiến
chứa dầu này đã được phát hiện ờ cạnh bản Sài Lương trong quá trình đo vẽ bản đồ
địa chất tỷ lệ 1:500.000 miền Bắc Việt Nam (1965), nhưng vì diện phân bố quá nhỏ
nên đã không được vẽ lên bản đồ và mô tả trong thuyết minh.
Trong quá trình đo vẽ bản đồ địa chất và khoáng sản nhóm tờ Yên Châu tỷ lệ
1:50.000 do Lê Thanh Hựu chủ biên, Vũ Khúc, Phạm Đình Trưởng, Lê Thanh Hựu
(2002) đã quan sát được một mặt cắt khá đầy đủ của hệ tầng đá phiến chứa dầu ở
19
vùng Sài Lương trên con đường ô tô mới mở từ xã Chiềng Chăn đi dọc theo suối
Phát ra sông Đà ở khoảng bản Ta Chan. Theo các tác giả trên, mặt cắt này gồm 4 tập
như sau:
1. Sạn kết màu xám vàng chứa cuội và sỏi xen ít lớp kẹp cát kết hạt thô, dày
4-5 m.
2. Bột kết, đá phiến sét cùng màu xám đen chứa nhiều mùn thực vật, xen
những lớp kẹp sạn kết và cát kết xám vàng, dày 4 m.
3. Bột kết và sét kết màu xám, phong hóa xám vàng, phân lớp mỏng đến
trung bình, xen ít lớp kẹp cát kết hạt nhỏ, dày 60 m.
4. Cát kết hạt vừa, hạt nhỏ màu xám vàng, phân lớp trung bình xen ít lớp kẹp
bột kết xám sẫm, dày 30 m.
Bề dày chung của hệ tầng ở mặt cắt này là 98 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Hệ tầng Nậm Ún phủ bất chỉnh hợp trên móng
Paleo-Mesozoi. Tuổi Oligocen của hệ tầng được xác định trên cơ sở bào tử phấn
hoa Verrucatosporites sp., Mothofagidites sp., Polypodiaceisporites sp.,
Piceapollenites sp., Quercidites sp., tuổi Oligocen và thực vật gồm Laurus cf. sim
ilis, Arundo spp., Graminiphylliim sp., Phragm ites sp., Ficus sp.
Đệ tứ không phân chia (Q)
Thường tập trung ở những thung lũng, dọc theo các sông, suối trong vùng
như Sông Đà, suối Bàng, suối Sơ Vin, suối Nhúng, suối Ngùi, suối Khủa, suối
Ngậm, suối Kế, suối Chum… trên các độ cao khác nhau; thành phần gồm: cuội, sỏi,
cát, sét. Nguồn gốc thành tạo thường là hỗn hợp: bồi tích, bồi tích - lũ tích và sườn
tích - lũ tích. Dày 0,5 - 2m.
.1.2.2. Magma
Trong vùng nghiên cứu chỉ lộ một khối nhỏ các đá kiềm của phức hệ Phu Sa
Phìn trên một diện nhỏ ở phía nam vùng nghiên cứu.
Phức hệ Phu Sa Phìn
Phức hệ Phu Sa Phìn gồm các thể á núi lửa granit kiềm, granosyenit và syenit
phân bố ở phía nam vùng nghiên cứu, xuyên cắt đá vôi tuổi Carbon-Permi hệ tầng
20
Bắc Sơn liên quan chặt chẽ về nguồn gốc, không gian và thời gian với các thành tạo
ryolit-comendit tuổi Jura – Creta ở võng chồng Tú Lệ.
1.3. Địa tầng chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng
.1.3.1. Lịch sử nghiên cứu địa chất mặt cắt đèo Bó Mồng
Mặt cắt đèo Bó Mồng nằm ở ranh giới giữa hai xã Tô Múa và xã Mường Tè
(.1.1.1.Hình .1.1.C). Trong đoạn mặt cắt này chủ yếu lộ các đá trầm tích cát kết, đá
phiến sét đen và đá vôi chứa hóa thạch Devon sớm. Các trầm tích này đã được các
nhà địa chất Pháp, Nga và Việt Nam nghiên cứu. Deprat J. (1914b) đã ghi nhận các
đá vôi, cát kết và đá phiến sét xen kẽ nhau, dày 300m. Trong đá vôi có chứa san hô
và Tay cuộn Rhynchonella aff. Procta, trong đá phiến có Tay cuộn Spirifer
cabedans, S. bijugosus, Hai mảnh vỏ Modiomorpha brevis; gọi là loạt Mường Tè
(=Mường Thế) được xếp vào Gotland (Silur). Jacob C. (1921) phát hiện ra Tay cuộn
“Spirifer ziczac” và xếp loạt Mường Tè vào Devon trung – Devon thượng. Dussault
L. (1929) gắn loạt Mường Tè với các loạt trầm tích khác lộ ra ở vùng phía nam
thung lũng suối Sinh Vinh và thung lũng Sông Đà ở cửa Suối Rút. Những trầm tích
này chứa rất phong phú hóa thạch, trong đó có san hô bốn tia Calceola sandalina,
Tay cuộn Spirifer specioceus (=Euryspirifer tonkinensis), Bọ ba thùy Proetus
blondeli, Calymene maloungkaensis cho tuổi Eifel; các hóa thạch Tay cuộn khác
Spirifer ziczac, Rhynchonella triangualis, Lingullela dussaulti và Orbiculoidea sp.
cho tuổi Frasni. Saurin E. (1956) xếp loạt Mường Tè vào Eifel – Frasni. Nguyễn
Xuân Bao (1969, 2005) vẽ các trầm tích Devon hạ ở đèo Bó Mồng vào hệ tầng
Sông Mua. Mặc dù đã có một số nghiên cứu tuy nhiên tuổi và vị trí địa tầng của các
trầm tích Devon ở đèo Bó Mồng còn chưa rõ ràng.
.1.3.2. Địa tầng chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ
Các trầm tích chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng, xã Tô Múa,
huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La lộ ra dọc theo đường ô tô hướng ra sông Đà. Trong
đoạn mặt cắt này, chúng tôi đã khảo sát 05 điểm lộ, thu được nhiều hóa thạch Hai
mảnh vỏ, Tay cuộn, Bọ ba thùy, Chân bụng, Chân đầu, san hô và Lỗ tầng bảo tồn
21
tốt. Theo quan sát và nghiên cứu ngoài thực địa cho thấy các trầm tích này lộ ra
gồm 3 phần.
Phần dưới. Đá vôi, vôi sét màu xám đen phân lớp trung bình đến dày chứa
phong phú hóa thạch Tay cuộn bảo tồn tốt tạo thành vỉa xác dày, dày trên 40m.
Đá có thế nằm đơn nghiêng 140/14o (Điểm khảo sát CS801 và CS802).
Phần giữa. Đá phiến sét chứa vôi màu xám đen xen thấu kính đá vôi màu đen
và cát kết màu xám đen chứa phong phú hóa thạch Hai mảnh vỏ, Tay cuộn, san
hô, Bọ ba thùy, Chân đầu, Chân bụng và Động vật dạng rêu, dày 50m. Đá có thế
nằm 208/20o (Điểm khảo sát CS135).
Hình .1.1. Mặt cắt địa chất đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Phần trên. Đá vôi màu xám đen chứa phong phú hóa thạch san hô vách đáy,
dày trên 20m. Thế nằm của đá 186/22o (Điểm khảo sát CS796).
Tổng chiều dày của các trầm tích này khoảng 110m.
Nằm chỉnh hợp trên các trầm tích trên là đá vôi màu xám đen phân lớp trung bình đến dày chứa phong phú hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng (Điểm lộ CS736 Hình 1.3) của hệ tầng Bản Páp (D1-2 bp). Quan hệ với hệ tầng cổ hơn chưa quan sát được do xuất hiện nhiều đứt gãy.
22
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở tài liệu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở các hóa thạch được sưu tập tại 5 điểm lộ CS736, CS796, CS135, CS801 và CS802 tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La (.1.1.1.Hình .1.1.). 176 mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ cùng 35 mẫu Tay cuộn, 15 mẫu Bọ ba thùy, 8 mẫu san hô, 5 mẫu Chân bụng, 7 mẫu Chân đầu và 4 mẫu Động vật dạng rêu được sưu tập trong đá phiến sét đen chứa vôi xen kẹp các lớp cát kết, sét vôi tại điểm CS135 (.1.1.1.Hình .1.1., Hình .1.1.). 35 mẫu hóa thạch Tay cuộn được sưu tập tại điểm CS801 và SC802 trong tập đá vôi, vôi sét màu xám đen phân lớp trung bình nằm dưới, dày khoảng 40m. 07 mẫu san hô được thu thập tại điểm SC796 trong đá vôi màu xám đen nằm trên, dày khoảng 20m. Ngoài ra, 20 mẫu hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng thu được trong đá vôi màu xám phân lớp trung bình tới dày tại điểm CS736.
A B
Hình .1.1. A. Đá phiến sét đen lộ ra tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; B. Hóa thạch Pseudosanguinolites douvillei Patte trong đá phiến sét.
2.2. Phương pháp nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ
.2.2.1. Phương pháp thu thập mẫu ngoài thực địa
Ở ngoài thực địa, khảo sát sự xuất hiện của các hóa thạch theo mặt cắt hoặc
tuyến khảo sát, xem xét vị trí xuất hiện của các hóa thạch (Hình 1.1C). Sử dụng các
dụng cụ như búa, đục (Hình 2.7) để tách hóa thạch Hai mảnh vỏ ra khỏi đá gốc.
Tiến hành thu thập mẫu theo các vị trí trong mặt cắt, sử dụng địa bàn, GPS (Hình
2.8) để xem xét vị trí trong không gian và loại đá chứa hóa thạch.
23
Công tác ghi chép ngoài thực địa đóng vai trò quan trọng cho công tác giám định mẫu. Tất cả các thông tin liên quan đến mẫu sưu tập cần được ghi chi tiết trong sổ nhật ký địa chất:
- Ngày, tháng, năm,
- Người sưu tập,
- Tình trạng bảo tồn,
- Loại đá chứa hóa thạch,
- Tuổi phân vị địa tầng và phân bố địa lý,
- Quần xã Hai mảnh vỏ cùng với các nhóm hóa thạch khác, - Ký hiệu và đánh số thứ tự mẫu đảm bảo không bị nhầm lẫn về trình tự địa
tầng, nhầm lẫn mẫu với vùng khác.
B
A Hình .1.1. Bộ búa (A), đục (B) mẫu cổ sinh ngoài thực địa mác Estwing, USA.
B A
Hình .1.2. A. Địa bàn địa chất; B. Máy định vị toàn cầu (GPS).
24
Các mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ được thu thập trong các loại đá bùn kết, sét
kết, bột kết. Những mẫu này sau khi tách khỏi đá gốc được quấn bằng giấy mềm,
báo hoặc các loại vật liệu chuyên dụng khác, sử dụng bút xóa, bút dạ không xóa
được ghi rõ số hiệu theo vị trí lấy mẫu (Hình 2.8).
A B
D C
E F
Hình .1.3. A. Giấy mềm; B. Báo; C. Bút xóa; D. Bút viết mẫu; E, F. Mẫu hóa thạch sau khi viết số hiệu mẫu Bút dạ mầu không xóa được
25
.2.2.2. Phương pháp gia công mẫu và chụp ảnh
Hiện nay, thiết bị thường được sử dụng trong các phòng thí nghiệm để gia
công mẫu Hai mảnh vỏ là hệ máy Airscriber và Sandblaster. Airscrber (thiết bị
tỉa/tách mẫu) được dùng để loại bỏ đá vây quanh và các mảng bám trên bề mặt mẫu;
Sandblaster (máy thổi bột) dùng để làm sạch bề mặt mẫu sau khi tỉa mẫu để làm rõ
các tô điểm.
B
A
C D
Hình .1.1. A, C. Hệ thống máy gia công bằng khí nén (Airscriber); B. Máy thổi bột (Sandblater); D. Tool để gia công của máy Airscriber
Hiện nay Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đã trang bị thiết bị Airscriber, cho
phép gia công mẫu dễ dàng. Tuy nhiên, việc gia công mẫu nhiều khi cũng không
giải quyết hết được vấn đề nghiên cứu đặc điểm hình thái của mẫu. Nhiều mẫu
26
không thể gia công để quan sát được cấu trúc bên trong. Phần lớn các mẫu thể hiện
rõ hình thái cũng như cấu trúc bên trong và bên ngoài đều có được bằng nhiều lần
sưu tập mẫu. Dụng cụ thu thập mẫu gồm búa, đục... Mẫu sau khi thu ngoài thực địa
về được xem sét, chọn lọc các mẫu bảo tồn tốt và hoàn chỉnh nhất đặc biệt các mẫu
bảo tồn đầy đủ cấu trúc bên trong và cả bên ngoài để gia công. Một số trường hợp
sau khi thu thập mẫu có thể dùng dung dịch axit acetic loãng để làm sạch bề mặt
mẫu.
Mẫu được chụp bằng máy ảnh Cannon DmaxIII với ống kính Macro 100mm
được trang bị cùng hệ thống giá chụp mẫu (Hình .1.2.A,B). Trước khi chụp mẫu
được làm trắng bề mặt bằng cách đốt dây magiê trên ngọn lửa để tạo khói magiê
bám vào bề mặt mẫu để làm rõ các tô điểm bề mặt của mẫu khi chụp (Hình .
1.2.C,D). Mẫu Hai mảnh vỏ được chụp ảnh ở nhiều góc độ khác nhau như mảnh
trái, mảnh phải, mặt lưng, mặt bụng (mặt trước, mặt sau đối với giống Beichuania),
răng, bản lề, dây chằng, vết bám cơ, đường viền áo và khuyết đường áo (nếu có).
B A
D C
Hình .1.2. A. Máy ảnh Cannon 5Dmark III; B. Ống kính macro 100mm; C. Dây magiê; D. Mẫu sau khi phủ magiê
27
.2.2.3. Phương pháp mô tả và định loại
Mẫu sau gia công được xem xét, làm rõ các đặc điểm hình thái và tiến hành
đo đạc, mô tả mẫu. Thành phần giống, loài của mẫu được xác định qua các đặc
điểm hình thái được nêu chi tiết ở mục 2.3.
Các phép đo trong nghiên cứu này được thực hiện thông qua các kỹ thuật
khác nhau. Đối với các kích thước như chiều dài, chiều cao và chiều rộng của vỏ sử
dụng thước kẹp Mitutoyo – 200mm để đo (Hình .1.1.).
Hình .1.1. Thước kẹp cơ hãng Mitutoyo, Nhật Bản dùng để đo mẫu
Kích thước sử dụng trong nghiên cứu này được xác định theo chiều dài (L),
chiều cao (H), chiều rộng (W). Chiều dài (L): Kích thước tối đa theo hướng trước
sau, mẫu được định hướng đúng. Chiều cao (H), Kích thước tối đa theo hướng lưng
bụng, mẫu vật được định hướng đúng. Chiều rộng (W), Kích thước tối đa đo theo
độ phồng của vỏ được tính bằng tổng của cả hai mảnh trong một mẫu có cả hai
mảnh.
Trên cơ sở đặc điểm hình thái, mẫu được tra cứu trên các atlas, chuyên khảo
về dạng hóa thạch Hai mảnh vỏ kỷ Devon của Hall (1884, 1885), Pojeta & Zhang
(1986), Zhang và nnk (2015), Đặng Trần Huyên (trong Dương Xuân Hảo, 1980),
Đặng Trần Huyên (trong Vũ Khúc, 1991), Đặng Trần Huyên (trong Vũ Khúc, 2012)
mẫu được xác định thuộc vào các bộ, họ, giống và loài tương ứng. 15 loài thuộc 11
giống của 10 họ, 6 bộ đã được xác định (Bản ảnh 1-10).
28
.2.2.4. Phương pháp nghiên cứu địa tầng
Hóa thạch Hai mảnh vỏ sưu tập tại mặt cắt đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện
Vân Hồ, tỉnh Sơn La được thu thập theo lớp đá và xem xét sự xuất hiện trong không
gian của chúng. Nghiện cứu, so sánh hoá thạch chứa trong các tầng đá cho phép
phân biệt được sự già trẻ khác nhau của các đá chứa những hoá thạch đó. Mặt khác,
dựa vào di tích hoá thạch cũng có thể đối sánh và xác định các tầng đá cùng tuổi tuy
chúng phân bố ở các địa phương khác nhau. Việc luận tuổi cho phức hệ hóa thạch
Hai mảnh vỏ tác giả so sánh với các phức hệ Hai mảnh vỏ Devon sớm ở Tứ Xuyên
và Quảng Tây, (Trung Quốc), New South Wale (Australia), Mỹ… Tác giả cũng
tham khảo các kết quả nghiên cứu hóa thạch Tay cuộn, Bọ ba thùy, San hô vách đáy
đi cùng trong các lớp chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đèo Bó Mồng do TS. Nguyễn
Hữu Hùng (Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) phân tích.
Đặc điểm thành phần thạch học của đá cũng được xác định để đối chiếu tính
chất của các lớp, các tầng đá trong trình tự sắp xếp của chúng ở mặt cắt địa chất để
xác định trình tự già trẻ khác nhau của các tầng, các lớp trong mặt cắt để xác lập
nên trật tự địa tầng của các tầng đá trong vùng. Để nhìn nhận một cách tổng thể cấu
trúc địa chất cũng như trật tự địa tầng của vùng nghiên cứu, tác giả tham khảo các
tài liệu đo vẽ bản đồ địa chất và tìm kiếm thăm dò khoáng sản do Nguyễn Xuân Bao
(1978) chủ biên và được chỉnh lý năm 2005.
.2.2.5. Phương pháp cổ sinh thái
Phương pháp này nhằm đánh giá, tái dựng lại điều kiện sống của Hai mảnh
vỏ kỷ Devon ở vùng đèo Bó Mồng dựa trên những nghiên cứu về đặc điểm hình
thái, dạng bảo tồn trong không gian và điều kiện môi trường trầm tích của chúng.
Theo Stanley (1970), Zhang và nnk (2015) điều kiện sống của Hai mảnh vỏ được
chia ra làm 3 loại chính theo: vị trí sinh sống, cách thức vận động hoặc bám và kiểu
ăn.
Theo vị trí sinh sống: được chia ra thành sống ở đáy (infaunal) và sống trên
mặt đáy (epifaunal) và sống bán đáy (semi-infaunal).
29
Theo cách thức vận động hoặc bám: rất hữu ích cho việc chia Hai mảnh vỏ ra
thành các nhóm sinh thái. Bảy nhóm chính đã được nhận biết như: bám (attached),
gắn cố định (cemented), nằm tựa trên vật gì đó (reclining), bơi (swimming), đào bới
(burrowing), khoan (boring), nestling (nép mình).
Theo kiểu ăn: ăn dạng lơ lửng (suspension feeding) và ăn trong trầm tích
(deposit feeding).
Đánh giá điều kiện cổ môi trường và điều kiện sống của Hai mảnh vỏ trong
báo cáo này dựa trên nghiên cứu của Stanley (1970), Johnston (1985) và Zhang và
nnk (2015). Để thể hiện mối quan hệ giữa hình thái vỏ với môi trường sinh sống của
động vật Hai mảnh vỏ, báo cáo này sẽ chia hệ động vật Hai mảnh vỏ vùng Tô Múa
theo vị trí sinh sống.
2.3. Đặc điểm hình thái chung hóa thạch Hai mảnh vỏ
Hai mảnh vỏ là một lớp thuộc ngành động vật Thân mềm, có vỏ gồm hai
mảnh, thường đối xứng với nhau qua mặt phẳng đi qua trục bản lề. Ở phía trên hay
phía lưng, mép vỏ đính lại với nhau bởi dây chằng đàn hồi, còn ở phía bên trong hai
mảnh của vỏ có các cơ để mở và khép vỏ lại. Dọc bờ lưng, phát triển bản lề để đảm
bảo sự cố định của hướng chuyển động của các mảnh khi mở ra hoặc khép lại.
a. Hình dạng vỏ
Hình dạng vỏ của động vật thân mềm thuộc lớp Hai mảnh vỏ rất đa dạng và
phụ thuộc vào kiểu sống của các sinh vật này. Nhìn chung, có 34 loại hình dạng vỏ
được minh họa (Hình .1.2.). Các hình dạng vỏ thường gặp có hình dạng tròn, bầu
dục, nêm, ba góc...
b. Đặc điểm của vỏ
Vỏ có hai mảnh – mảnh trái và phải (Hình .1.1.). Ở phía lưng của mỗi mảnh
có phần nhô ra mà mặt ngoài được phủ đều đặn các đường tăng lớn đồng tâm gọi là
đỉnh; đó là điểm xuất phát của sự phát triển của vỏ. Đỉnh thường lệch về phía trước
và đôi khi lệch về phía sau, nó có thể nhô cao hoặc không và cũng có khi cuộn lại.
Bờ trước phân biệt với bờ sau bởi các dấu hiệu: đỉnh thường lệch về phía trước,
khuyết đường áo (sinus) ở đường viền xoang áo luôn luôn ở phía sau, dây chằng
30
thường được phát triển ở phía sau, vết in cơ khép sau thường lớn hơn vết in cơ khép
trước.
Hình .1.1. Hình thái chung của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)
(Umbo – đỉnh; Dorsal margin – bờ lưng; Anterior margin – bờ trước; Posterior margin – bờ sau; Ventral margin – bờ bụng; Cardinal tooth – răng chính; Lateral tooth – răng bên; Anterior adductor scar – vết bám cơ trước; Pallial line – đường viền áo; Pallial sinus – khuyết đường áo; Posterior adductor scar – vết bám cơ sau; Ligament – dây chằng; Height – chiều cao; Length – chiều dài; Inflation – độ phồng; Escutcheon – khiên; Lunule – trăng; Right valve – mảnh phải; Left valve – mảnh trái; Hinge plate – phiến bản lề)
Trong mỗi mảnh phân biệt các bờ sau; bờ bản lề hay bờ lưng ở phía trên; bờ
dưới hay bờ bụng ở phía dưới, đối diện với bờ bản lề; bờ trước và bờ sau nằm ở
giữa bờ bản lề và bờ dưới (Hình .1.1.). Đối với mỗi mảnh có thể đo các trị số như:
chiều dài – khoảng cách từ bờ trước tới bờ sau, chiều cao – khoảng cách từ đỉnh tới
bờ dưới vuông góc với chiều dài; độ phồng của mảnh – khoảng cách giữa mặt tiếp
giáp của vỏ với điểm phồng nhất của mỗi mảnh (Hình .1.1.).
31
Tô điểm bề mặt vỏ rất đa dạng, song có khi nhẵn, khi đó chỉ thấy các dấu
hiệu của các đường tăng lớn đồng tâm bao quanh đỉnh và song song với mép vỏ.
Ngoài đường tăng lớn ra, trong nhiều trường hợp trên bề mặt vỏ có các kiểu tô điểm
rất đa dạng gồm: các gờ hướng tâm, các phiến, các gờ đồng tâm, các rãnh, các mấu,
các gai... (Hình .1.3.). Tô điểm hướng tâm xuất phát từ đỉnh đi về các phía, còn tô
điểm đồng tâm chạy song song với mép vỏ. Độ lớn của các gờ, hình dạng và số
lượng của chúng rất khác nhau. Chúng có thể là đơn hoặc phân nhánh hai, ba, bốn
lần. Khi đó các gờ được phân ra là các gờ nguyên sinh, bậc 1, bậc 2, bậc 3... Trường
hợp các tô điểm hướng tâm và đồng tâm cắt nhau có khi tạo nên các tô điểm dạng
mấu (Hình .1.3.).
Ở phần lưng của vỏ về phía trước và phía sau thường tách ra các diện riêng
biệt được gọi là trăng và khiên (Hình .1.1.). Chúng khác biệt với phần chính của vỏ
bởi các gờ, rãnh hoặc tô điểm khác nhau. Bề mặt trong của vỏ thường nhẵn, song
đôi khi cũng quan sát thấy các gờ hoặc các rãnh, các nếp uốn... Bờ trong của các
mảnh, nhất là bờ dưới, trong nhiều trường hợp bị xẻ răng cưa, trong khi đó mặt
ngoài nhẵn hay có tô điểm đồng tâm.
Trong tất cả các vỏ Hai mảnh vỏ ở phía bên trong còn thấy dấu vết của các
cơ khép vỏ, đường viền áo, xoang áo, cấu tạo khuyết đường áo (Hình .1.1.).
c. Dây chằng
Dây chằng (Hình .1.1.) là thành tạo được tiết ra từ lớp áo, là phần dạng sừng
từ lớp tạo mặt vỏ bên ngoài. Dựa theo vị trí, dây chằng hoặc là ở ngoài hoặc ở
trong. Thông thường, dây chằng gồm hai phần phân biệt về mặt cấu trúc và cơ dọc,
thực hiện các chức năng đối lập nhau. Cấu trúc của dây chằng trong và ngoài rất
khác nhau, nó có thể gồm cả hai phần dây chằng kể trên, nhưng dây chằng ngoài
thông thường dạng tấm, còn dây chằng trong – dạng sợi.
32
Hình .1.2. Một số hình dạng ở Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)
1. Hình dạng chung; 2. Trapezoidal - hình thang; 3. Cyclindrical - hình trụ; 4. Ensiform - hình kiếm; 5. Oblong - hình thuôn; 6. Subrectangular - gần hình chữ nhật; 7. Subquadrate - gần hình vuông; 8. Trigonal - hnh tam giác; 9. Obliquely ovate - hình trứng xiên; 10. Oval - hình bầu dục; 11. Narrowly subovate - gần bầu dục hẹp; 12. Broadly rounded - dạng tròn rộng; 13. Narrowly rounded - dạng tròn hẹp; 14. Mytiliform - dạng Mytilus; 15. Modioliform - hình trục bánh xe; 16. Submodioliform - gần hình trục bánh xe; 17. Subeliptical - gần elip; 18. Subrostrate - dạng gần có mỏ; 19. Obliquely subtruncate - dạng cụt nghiêng; 20. Subacute - dạng gần nhọn; 21. Elliptical - elip; 22. Truncate - dạng cắt cụt; 23. Acuminate or Acute - dạng nhọn; 24. Cuneate - dạng nêm; 25. Brodly subovate - gần hình trứng rộng; 26. Subcircular - gần tròn; 27. Subtrigonal -gần tam giác; 28. Rhomboidal - gần hình thoi; 29. Ovate - hình trứng; 30. Polygonal - đa giác; 31. Sinuate - ngoằn ngoèo; 32. Discoid - hình đĩa; 33. Auriclate - hình tai; 34. Rostrate - dạng mỏ; 35. Alate - dạng cánh)
33
Hình .1.3. Các kiểu tô điểm mặt vỏ của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)
(Radial – tỏa tia; Concentric – đồng tâm; Lines – dạng đường; Liration – gờ; Ridges – rãnh; Undulation – gợn sóng; Divergent – phân tán; Divericate – phân hướng; Oblique – nghiêng; Scissulcate – dạng chẽ ra; Non-linear – không có đường; Lines – dạng đường; Threads – dạng chỉ; Ribs – gờ; Riblet – sợi; Cancellate – hình mạng; Decussate – chéo hình chữ thập; Imbricate – dạng gối lên nhau; Reticulate – dạng mạng lưới; Cross bars – thanh ngang; Tubercles – dạng mấu; Spines – dạng gai)
34
d. Bản lề
Vỏ của đa số các Hai mảnh vỏ có cơ cấu bản lề ở mặt trong của bờ bản lề.
Nó gồm các mấu hay răng và các hốc tương ứng trên mảnh đối diện gọi là hốc răng
(Hình .1.4.). Phần dày lên của bờ bản lề trên đó có các răng gọi là diện bản lề. Cấu
trúc bản lề là một trong những dấu hiện quan trọng để phân loại Hai mảnh vỏ, có 7
kiểu bản lề tương ứng với cấu trúc răng gồm Taxodont, Schizodont, Dysodont,
Isodont, Heterodont, Desmodont và Pachydont (Hình .1.4.). Ngoài ra, còn dạng Hai
mảnh vỏ mà không có răng được gọi là Edentate (hoặc Edentulous hoặc Anodont)
(Hình .1.4.). Dưới đây là một số kiểu bản lề thường hay được sử dụng nhất trong
phân loại học.
Hình .1.4. Các kiểu răng của Hai mảnh vỏ (Jain S., 2017)
Bản lề Dysodonta (răng yếu) (Hình .1.4..3): các phiến răng nguyên sinh tồn
tại trong thời gian ngắn hay dài. Chúng đôi khi teo đi hoặc lớn lên, thực hiện chức
năng của răng. Như vậy, bản lề Dysodonta được đặc trưng bởi bản lề không có răng
hoàn toàn (giống Chiamys) hoặc có các răng nhỏ hay mấu dạng răng (giống
Mytilus).
Bản lề Taxodonta (răng dãy) (Hình .1.4..1): gồm nhiều răng ít nhiều giống
nhau được phân bố thành dãy ở cả hai phía đỉnh (Arcidae, Nuculidae.v.v...).
Bản lề Heterodonta (răng khác nhau) (Hình .1.4..5): gồm ít răng khác nhau
về hình dạng và sự sắp xếp. Các răng chính ở dưới đỉnh ít nhiều thẳng góc với bờ
35
bản lề, còn các răng bên nằm ở phía trước và sau đỉnh và ít nhiều song song với bờ
bản lề (bộ Veneroida).
Bản lề Schizodonta (răng xẻ) (Hình .1.4..2): ở mảnh phải có hai răng tỏa tia
ra từ đỉnh và ở mảnh trái có ba răng, trong đó cái giữa bị xẻ ra và có các răng ở
mảnh phải xen vào giữa.
Bản lề Desmodonta (răng dây chằng) (Hình .1.4..6): đặc trưng bởi sự tiêu
giảm của các răng và sự phát triển của dây chằng trong. Có các mấu dạng thìa làm
giá đỡ các dây chằng này (giống Mya).
Bản lề Pachyodonta (răng dày) (Hình .1.4..7): đặc trưng cho các Rudistae
gồm ít răng lớn, thô, không cân đối, dạng gai, uốn cong cắm vào các hốc ở mảnh
đối diện.
36
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM HÓA THẠCH HAI MẢNH VỎ DEVON SỚM
VÙNG TÔ MÚA VÀ Ý NGHĨA ĐỊA TẦNG CỦA CHÚNG
3.1. Mô tả cổ sinh
Trong đoạn mặt cắt dày khoảng 10m chứa các lớp đá phiến sét đen tại mặt
cắt đèo Bó Mồng ở vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã thu được 176 mẫu
hóa thạch Hai mảnh vỏ của 15 loài thuộc 11 giống của 10 họ, 6 Bộ, 4 phụ lớp (Bảng
3.1). Mô tả thành phần giống, loài của các mẫu hóa thạch hai mảnh vỏ sử dụng
trong luận văn này chủ yếu dựa trên hệ thống phân loại được tổng hợp trong
“Chuyên luận về Động vật không xương sống (Treatise on Invertebrate
Paleontology)” của Cox in Moore (1969).
Bảng .1.1. Thành phần giống, loài của các mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ vùng Tô
Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Loài
STT 1 Mytilarca cf. M. chemungensis Số lượng 50 Phần trăm 28.4
Pseudosanguinolites douvillei Beichuania guangzicaoensis 2 3 23 2 13.1 1.1
4 5 Beichuania sonlaensis Beichuania bomongensis 5 13 2.8 7.4
6 7 Paracyclas rugosa Paracyclas sp. 28 1 15.9 0.6
8 9 Limoptera cf. L. macroptera Nuculoidea sp. 16 14 9.1 8.0
10 11 Nuculoidea cf. N. yongfuensis Nuculites sp. 3 5 1.7 2.8
12 13 Schizodus aff. S. appressus Myalina sp. 4 6 2.3 3.4
14 15 Sphenotus vanlinhensis Sanguinolites cf. nagaolingensis 4 2 2.3 1.1
Tổng 176
37
Ngành Mollusca Linnaeus, 1758
Lớp Bivalvia Linnaeus, 1758
Phụ lớp Palaeotaxodonta Koronkov, 1954
Bộ Nuculoida Dall, 1889
Thượng họ Nuculacea Gray, 1824
Họ Nuculidae Gray, 1824
Phụ họ Nuculinae Gray, 1824
Giống Nuculoidea William and Breger, 1916
Loài chuẩn. Cucullea opima Hall, 1843
Chẩn định. Dạng hạt dẻ, không đều bên có đỉnh thẳng và mỏ quay trước hướng
theo đầu trước dài của vỏ (Pojeta, 1986).
Nuculoidea sp.
(Bản ảnh 1, ảnh 1-5, 7, 8)
Tài liệu. 03 mảnh trái, CS135Bi76, CS135Bi70, CS135Bi79; 01 mảnh phải,
CS135Bi77; 01 nhân trong mảnh phải, CS135Bi78.
Hình .1.2. Nuculoidea sp. (Mẫu CS135Bi77)
Mô tả. Vỏ dạng gần hình trứng, đều mảnh, không đều bên. Kích thước trung bình
so với các loài của giống. Bờ bản lề có hai nhánh, nhánh trước hơi lồi, nhánh sau
thẳng (Bản ảnh 1, ảnh 2, 6-8). Bờ trước và bờ sau khá tròn chuyển tiếp đều đặn
xuống bờ bụng. Bờ bụng là một cung tròn đều. Vỏ tương đối phồng, phần phồng
nhất là phần giữa của vỏ. Đỉnh quay về phía trước, nổi cao, nhô cao hơn khỏi bờ
bản lề, lệch về phía sau, nằm ở khoảng 1/3 chiều dài vỏ. Tô điểm ngoài gồm các
đường tăng trưởng đồng tâm thanh (Bản ảnh 1, ảnh 1). Đường viền áo liền (Bản ảnh
38
1, ảnh 4). Vết bám cơ trước và vết bám cơ sau rõ, dạng gần hình elip (Bản ảnh 1,
ảnh 4, 5). Răng dạng răng dãy, nhánh trước của bờ bản lề có 09 răng, nhánh sau
không quan sát được (Bản ảnh 1, ảnh 7-8).
Kích thước (mm).
Bảng .2.1. Kích thước của Nuculoidea sp.
Số hiệu mẫu CS135Bi77 H 16 L 22 W/2 7 Ghi chú Mảnh phải
CS135Bi76 15.5 22.5 6.5
CS135Bi70 16 23 5.5 Bị vỡ phần sau
CS135Bi78 12.5 20 Nhân trong
Nhận xét. Giống Nuculoidea đã được nhiều tác giả chẩn định (William and Breger,
1916; Keen in Cox (1969), p. N231; Bailey, 1983, p. 247; Bailey, 1986; Pojeta và
nnk., 1986, p. 60). Tuy nhiên, các mẫu được xếp vào Nuculoidea ở đèo Bó Mồng về
mặt hình thái và tô điểm giống với chẩn định của Pojeta (1986, p. 60).
Pojeta và nnk., (1986) xác định 2 loài trong kỷ Devon ở Quảng Tây, Trung
Quốc và 01 loài ở Michigan, Mỹ. Các loài này đều khác với mẫu ở đèo Bó Mồng,
loài Nuculoidea yongfuensis có bờ lưng trước lõm, loài Nuculoidea minuta có đỉnh
nằm ở gần giữa bờ lưng; miền trước và miền sau tương đối cân, loài N. cf. N. lirata
(Conrad), 1842 có gờ tăng trưởng đồng tâm thô khác với mẫu ở đèo Bó Mồng.
Mẫu ở đèo Bó Mồng khác với các loài thuộc giống Nuculoidea ở miền Bắc
Việt Nam đã được Kulikova V. F. (trong Dương Xuân Hảo, 1968, p. 53. Pl. XXIII,
fig. 12; p. 54, pl. XXI, fig. 5; p. 54, pl. XXI, fig. 6) và Đặng Trần Huyên (trong
Dương Xuân Hảo, 1980, p. 96, pl. 31, fig. 18; p. 96, pl. 31, fig. 11; p. 97, pl. 31, fig.
10) mô tả về hình dạng, số lượng răng và độ phồng của vỏ. Vì vậy, mẫu ở đèo Bó
Mồng được cho là một dạng mới, tuy nhiên cần thu thập thêm tài liệu để khẳng định
là loài mới.
Phân bố địa tầng và địa lý. Hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn), Devon hạ, đèo Bó Mồng,
vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Nuculoidea cf. N. yongfuensis Pojeta & Zhang, 1986
39
(Bản ảnh 1, ảnh 9-11)
Tài liệu. 02 mảnh phải CS135Bi72, CS135Bi82 và 01 mảnh trái CS135Bi83
Hình .1.3. Nuculoidea cf. N. yongfuensis (mẫu CS135Bi72)
Mô tả. Vỏ dạng gần như ba cạnh. Bờ bản lề hai nhánh gặp nhau ở đỉnh dưới một
góc gần vuông, nhánh trước thoải và dài hơn, nhánh sau ngắn. Bờ trước tạo với bờ
bụng tạo một góc nhọn; bờ sau chuyển tiếp đều đặn sang bờ bụng. Bờ bụng là một
cung tròn đều. Đỉnh quay về phía sau, nổi cao, nhô cao hơn khỏi bờ bản lề, lệch về
phía sau. Tô điểm ngoài gồm các đường tăng trưởng đồng tâm thanh tụ lại thành bó
(Bản ảnh 1, ảnh 9, 10).
Kích thước (mm).
Bảng .3.1. Kích thước của Nuculoidea cf. N. yongfuensis Pojeta & Zhang, 1986
Số hiệu mẫu CS135Bi72 CS135Bi85 H 8.5 8 L 10.5 10 W/2 - -
Nhận xét. 03 mẫu được xếp vào giống Nuculoidea trên cơ sở hình dạng chung của
vỏ. Một mẫu (Bản ảnh 1, ảnh 10) lộ phần nhân trong của miền trước có dạng mấu
nổi cao giống như vết bám cơ trước nhưng không rõ ràng. Mẫu có hình dạng gần
gũi với loài N. yongfuensis (Pojeta & Zhang, 1986, Bản ảnh 2, ảnh 2-5) trong hệ
tầng Ertang tuổi Emxi ở vùng Quảng Tây, Trung Quốc.
Phân bố địa tầng và địa lý. Trong hệ tầng Ertang tuổi Emxi ở vùng Quảng Tây,
Trung Quốc, hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ, đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa,
huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
40
Thượng họ Nuculanacea H. Adams & A. Adams, 1858
Họ Malletiidae H. Adams and A. Adams, 1858
Giống Nuculites Conrad, 1841
Loài chuẩn. Nuculites oblongata Conrad, 1841
Chẩn định. Dạng hạt dẻ, có đỉnh tương đối cao. Mỏ thay đổi (cả quay trước, thẳng
và quay sau). Vỏ có các đường tăng trưởng dạng bó và đường tỏa tia thanh, không
liên tục đến liên tục (phía sau rõ nhất). Mấu chằng dạng thìa nhỏ, dạng tam giác,
dựng đứng đến hơi nghiêng, ít khi nhô khỏi mặt trong vỏ. Mấu chằng dạng thìa nằm
giữa các đầu trước và sau của hàng răng bản lề răng dãy. Mấu chằng dạng thìa thể
hiện hốc nhỏ đến trung bình trên phiến bản lề (Bailey, 1986).
Nuculites sp.
(Bản ảnh 1, ảnh 12-14)
Tài liệu. 04 mảnh trái có mặt ngoài bảo tồn kém (CS135Bi85-CS135Bi88) và 01
mặt trong mảnh phải (CS135Bi84) thể hiện cấu tạo răng dạng răng dãy.
Hình .1.4. Nuculites sp. (mẫu CS135Bi86)
Mô tả. Vỏ dạng gần hình elip, tương đối dày, đều mảnh, kích thước trung bình so
với các loài của giống, rất không đều bên, kéo dài về phía sau. Bờ bản lề có hai
nhánh, nhánh trước hơi lõm, nhánh sau thẳng. Bờ trước khá tròn tạo với bờ lưng
một góc gần vuông (Bản ảnh 1, ảnh 14), chuyển tiếp đều đặn xuống bờ dưới. Bờ
dưới là một cung tròn mở rộng về 2 bên, rộng hơn về phía sau. Đỉnh nhỏ, nằm lệch
về phía trước, nằm ở khoảng ¼ chiều dài của vỏ, hơi nhô cao hơn bờ bản lề. Mặt
ngoài nhẵn. Răng dạng răng dãy gồm hai nhánh nhánh trước và nhánh sau tạo thành
một chuỗi liên tục (Bản ảnh 1, ảnh 14). Nhánh sau bao gồm các răng hình trụ hẹp,
41
song song theo chiều dọc, trở nên ngắn hơn, thưa và to hơn về phía sau, cao hơn và
mỏng hơn về phía trước. Vết bám cơ trước nằm ngay trước gờ trước đỉnh nông và
rộng, không quan sát được vết bám cơ sau.
Kích thước (mm).
Bảng .4.1. Kích thước của Nuculites sp.
Số hiệu mẫu H L W/2
Ghi chú Miền sau CS135Bi86 13.5 - 6 không bảo tồn
CS135Bi85 13.5 33 6
Nhận xét. Các mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào giống Nuculites dựa trên hình
dạng của vỏ, sự có mặt của vách trong trước và cấu trúc răng dạng răng dãy (bản
ảnh 1, ảnh 14). Mẫu có hình dạng giống với Nuculites sp. B được Pojeta & Zhang
(1986) xác định trong hệ tầng Ertang (Emxi), hệ tầng Sipai (Emxi) ở vùng Quảng
Tây, Trung Quốc.
Mẫu ở đèo Bó Mồng khác với 4 loài Nuculites oblongatus, N. cuneiformis,
N. triqueter, N. nyssa trong loạt Hamilton ở New York, Mỹ Hall (1885) mô tả và
loài N. argentinum Sánchez tuổi Devon trung trong hệ tầng Punta ở bồn
Precordillera, Argentina (Sánchez và nnk., 1995), Sterren F. A. và nnk., (2015) bởi
hình dạng thon, dài hơn và mặt ngoài nhẵn.
Phân bố địa tầng và địa lý. Hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ, đèo Bó
Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bộ Trigonioida Dall, 1889
Thượng họ Trigonioidae Lamarck, 1819
Họ Schizodidae Newell and Boyd, 1975
Phụ họ Schizodinae Newell & Boyd, 1975
Giống Schizodus de Verneuil and Murchison, 1844
Loài chuẩn. Axinus obscurus J. Sowerby, 1821
42
Chẩn định. Tỷ lệ chiều dài với chiều cao thường là 1,1/1 đến ,5/1. Tỷ lệ chiều
cao/độ phồng của mảnh đơn khoảng 3/1. Đỉnh thường nổi cao, nằm ở gần giữa hơi
quay trước. Mỏ uốn cong mạnh hướng vào phía bản lề. Tô điểm mặt ngoài gồm các
đường tăng trưởng đồng tâm. Miền sau thường hơi cụt. Đường sống sau tròn rộng.
Không có khiên và trăng (Newell and Boyd, 1975).
Schizodus aff. S. appressus (Conrad), 1842
(Bản ảnh 2, ảnh 6)
1885 Schizodus appressus (Conrad), 1842: Hall, p. 449, pl. LXXV, fig. 3-9
1986 Schizodus aff. S. appressus (Conrad), 1842: Pojeta & Zhang, p. 80, pl. 23,
fig. 4-7;
Tài liệu. 01 mảnh phải CS135Bi126
Hình .1.5. Schizodus aff. S. appressus (Conrad) (mẫu CS135Bi126)
Mô tả. Vỏ dạng gần hình thang, bờ bản lề hơi cong; bờ sau gần thẳng tạo với bản lể
một góc tù; bờ trước tương đối tròn chuyển tiếp đều đặn xuống bờ dưới, bờ bụng
tròn rộng. Độ phồng lớn nhất ở phía sau đỉnh, đỉnh nổi cao, ở gần giữa và quay
trước; mỏ quặp xuống và nhô cao hơn khỏi bờ bản lề, miền sau hẹp và dốc, miền
trước ngắn và dốc hơn, có một đường sống nổi cao chạy từ đỉnh xuống góc dưới
sau, mờ dần ở phía sau. Tô điểm ngoài gồm những đường tăng trưởng đồng tâm
thanh, đều sát nhau. Không quan sát được cấu trúc bên trong.
Kích thước (mm).
Bảng .5.1. Kích thước của Schizodus aff. S. appressus (Conrad), 1842
Số hiệu mẫu CS135Bi126 H 55.5 L 62 W/2 17
43
Nhận xét. Mẫu ở đèo Bó Mồng bảo tồn bờ trước không đầy đủ nhưng vẫn bảo tồn
các đặc điểm chính của giống như vỏ dạng hình thang, mỏ nổi cao hơn so với
đường bản lề và quặp xuống; có đường sống chạy từ đỉnh xuống góc dưới sau. Mẫu
được xếp vào giống Schizodus dựa trên hình dạng và tô điểm mặt ngoài. Các mẫu ở
đèo Bó Mồng rất giống với loài S. aff. S. appressus được Pojeta & Zhang (1986)
xác định trong hệ tầng Nagaoling và Ertang ở Quảng Tây, Trung Quốc.
Phân bố địa tầng và địa lý. Loài Schizodus aff. S. appressus (Conrad) phân bố
trong trong tập Nagaoling hệ tầng Nagaoling (bậc Nagaoling) ứng với phần trên bậc
Praga và trong hệ tậng Ertang bậc Emxi ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ở Việt
Nam, chúng phân bố trong hệ tầng hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn), Devon hạ, đèo Bó
Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Phụ lớp Heterodonta Neumayr, 1884
Bộ Veneroida H. Adams and A. Adams, 1856
Thượng họ Lucinacea Fleming, 1828
Họ Mactromyidae Cox, 1929
Giống Paracyclas Hall, 1843
Loài chuẩn. Paracyclas elliptica Hall, 1843
Chẩn định. Dạng Lucinid trong kỷ Devon có đỉnh nằm gần giữa mảnh vỏ (Pojeta,
1986)
Paracyclas rugosa (Goldfuss), 1837
(Bản ảnh 4, ảnh 5-10)
1885 Paracyclas lirata Hall, p. 441, pl. 72, fig. 19.
1889 Paracyclas lirata Henry, p. 211, pl. 2, fig. 4-7. ‘
1950 Paracyclas elliptica Hall, 1843 – LaRocque, p. 309, pl. 12, fig. 1-7.
1983 Paracyclas rugosa (Goldfuss), 1837 – Bailey, p. 305, pl. 5F, fig. 51A-H.
1986 Paracyclas rugosa (Goldfuss), 1837 – Pojeta et al., p. 81, pl. 21, fig. 1-9; pl.
22, fig. 3-8; pl. 53, fig. 4, 5.
44
Tài liệu. 01 mảnh phải CS135Bi54 và 04 mảnh trái CS135Bi45, CS135Bi35;
CS135Bi31, CS135Bi44.
Hình .1.6. Mặt ngoài mảnh phải Paracyclas rugosa (Goldfuss) (mẫu CS135Bi54)
Mô tả. Vỏ mỏng, kích thước trung bình so với các loài của giống, có dạng gần tròn,
đều mảnh, đều bên; chiều dài hơi lớn hơn chiều cao. Bờ bản lề cong, dài gần bằng
chiều dài của vỏ. Bờ trước và bờ sau là cung tròn tạo với bờ bản lề một góc tù
khoảng 120o, chuyển tiếp đều đặn xuống bờ dưới. Bờ dưới là một cung tròn đều.
Các mảnh phồng đều, chỗ phồng nhất ở phần đỉnh và ở phần giữa mảnh vỏ. Đỉnh
nhỏ hướng về phía trước và hơi nhô khỏi bờ bản lề. Tô điểm mặt ngoài gồm các gờ
và rãnh đồng tâm thô tròn cạnh, phân bố đều trên mặt vỏ, số lượng gờ từ 12-15 gờ.
Dây chằng và hình thái bên trong không quan sát được.
Kích thước (mm).
Bảng .6.1. Kích thước của Paracyclas rugosa (Goldfuss)
Số hiệu mẫu H L W/2
Ghi chú Không bảo tồn CS135Bi45 17 - 5 miền sau
5
CS135Bi35 CS135Bi31 20 14.5 - 18.5
Nhận xét. Theo đặc điểm hình thái vỏ, dạng mô tả ở trên hoàn toàn giống với loài
Paracyclas rugosa được mô tả và xác định bởi Bailey (1983) và Pojeta & Zhang
(1986). Mẫu ở đèo Bó Mồng có mặt ngoài giống với mô tả của Đặng Trần Huyên
45
(in Dương Xuân Hảo, 1980, p. 102, bản ảnh 31, ảnh 1-2) nhưng mẫu ở đèo Bó
Mồng có hình dạng tròn hơn.
Phân bố địa lý và địa tầng. Loài Paracyclas rugosa (Conrad) xuất hiện trong hệ
tầng Ertang (bậc Emxi) và trong phần thấp của hệ tầng Donggangling (bậc Givet) ở
vùng Quảng Tây, Trung Quốc; trong tập Gorbut, hệ tầng Gravel Point (phần giữa
bậc Givet) và hệ tầng Potter Farm (phần trên bậc Givet) ở vùng Michigan, Mỹ
(Pojeta & Zhang, 1986). Ở Việt Nam; ở đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa, huyện Vân
Hồ, tỉnh Sơn La đi cùng phức hệ hóa thạch Tay cuộn Euryspirifer tonkinensis.
Paracyclas sp.
(Bản ảnh 4, ảnh 4)
Tài liệu. 01 mảnh trái bảo tồn nguyên vẹn (CS135Bi43)
Hình .1.7. Mặt ngoài mảnh trái Paracyclas sp. (mẫu CS135Bi43)
Mô tả. Vỏ tương đối dày, kích thước lớn hơn kích thước trung bình của giống
Paracylcas, vỏ có dạng gần tròn, đều bên. Bờ bản lề cong, hơi ngắn hơn chiều dài
của vỏ. Bờ trước và bờ sau cong thoải tạo với bờ bản lề một góc tù khoảng 160o. Bờ
dưới là một cung tròn thoải.
Đỉnh nhỏ, hướng về phía trước, hơi lệch về phía trước và nhô cao hơn khỏi
bờ bản lề. Tô điểm mặt ngoài gồm các đường đồng tâm mờ chia bề mặt vỏ thành 3
bậc rõ rệt. Dây chằng và hình thái bên trong không quan sát được.
Kích thước (mm).
Bảng .7.1. Kích thước của Paracyclas sp.
Số hiệu mẫu CS135Bi43 H 23 L 23.5 W -
46
Nhận xét. Mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào Paracyclas sp. trên cơ sở cấu trúc và
tô điểm ngoài của vỏ. Mẫu mang những đặc điểm chung của giống nhưng có tô
điểm hoàn toàn khác với các đại biểu của giống trước đây được mô tả bởi Pojeta &
Zhang (1986); Bailey (1983); Hall (1885); Kulikova (in Dương Xuân Hảo, 1968);
Đặng Trần Huyên (in Dương Xuân Hảo, 1980) và Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc,
2012).
Phân bố địa tầng và địa lý. Ở đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh
Sơn La đi cùng phức hệ hóa thạch Tay cuộn Euryspirifer tonkinensis.
.
Thượng họ Carditacea Fleming, 1820
Họ Permophoridae van de Poel, 1959
Phụ họ Myoconchinae Newell, 1957
Giống Pseudosanguinolites Patte, 1927
Loài chuẩn. Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927
Chẩn định. Hình dạng thon dài và cong, mặt trước góc cạnh, mặt sau ít nhiều tròn;
vỏ dày, với mỏ ở tận cùng phía trước. Diện hình thang ở trên phiến bản lề, ở mảnh
phải có răng chính kéo dài về phía sau song song với bờ trên; dây chằng bên ngoài
dài, hẹp; phần trước của bản lề không rõ, vết bám cơ trước hình elip và vết bám cơ
sau có thể nhìn thấy (Cox in Moore, 1969).
Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927
(Bản ảnh 3, ảnh 1-6; Bản ảnh 4, ảnh 1-3)
1929 Pseudosanguinolites douvillei - Patte, p. 62, Pl.7, fig. 11, Pl. 8, fig. 1a, b.
1988 Ganxiella longa - Liu, p.265, pl.84, fig. 4-7.
1997 Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927 - Fang et al., Pl. 1, fig. 1-11, Pl 2,
fig. 1-5, Pl. 5, fig. 6-8.
Tài liệu. 07 mẫu nguyên con và nhiều mảnh không hoàn chỉnh
47
Hình .1.8. Mảnh phải Pseudosanguinolites douvillei Patte (mẫu CS135Bi148)
Mô tả. Vỏ dày, lớn, dạng kéo dài, gần hình chữ nhật, gần đều mảnh hoặc mảnh phải
hơi lớn hơn và phồng hơn mảnh trái; rất không đều bên với đỉnh nằm gần cực trước,
hơi nhô cao hơn so với đường bản lề; trăng sâu và hẹp, khiên lớn và kéo dài về phía
sau; bờ bản lề dài, nằm thẳng theo bờ lưng phía sau đỉnh; bờ bụng gần song song
với bờ bản lề, hơi uốn cong hình vòng cung, gần như tạo thành một góc hẹp với bờ
lưng trước; bờ trước tương đối tròn và hẹp; bờ sau gần như cắt cụt; đường sống kéo
từ đỉnh hướng xuống góc dưới sau mờ dần khi đạt nửa chiều dài vỏ; tô điểm ngoài
gồm các đường tăng trưởng đồng tâm nổi cao và rõ ở nửa trước vỏ dần tạo thành
nếp nhăn dạng gợn sóng ở nửa sau vỏ; dây chằng ngoài.
Răng chính dài, gần thẳng có khuynh hướng xuất phát từ đỉnh. Vết bám cơ
trước sâu, gần tròn nằm ngay dưới bản lề và răng chính. Vết bám cơ sau rộng, nông
hình oval và lớn hơn vết bám cơ trước, nằm gần đầu sau của răng bên. Vỏ dày, đặc
biệt ở vùng sườn phía sau đỉnh và mỏng dần về phía sau.
Kích thước (mm).
Bảng .8.1. Kích thước của Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927
Số hiệu mẫu CS135Bi147 CS135Bi148 CS135Bi149 CS135Bi150 H 62 69 60 57 L 195 202 195 189 W/2 13.5 18.5 15 16
Nhận xét. Các mẫu được xếp vào giống Pseudosanguinolites ở vùng đèo Bó Mồng
bảo tồn tốt, cho phép quan sát được rõ ràng cấu trúc bên trong đặc biệt là đặc điểm
dây chằng mà Patte (1927), Liu (1988) và Fang (1997) chưa đưa ra được. Các mẫu
được xếp vào loài P. douvillei ở đèo Bó Mồng có đặc điểm hình thái và cấu trúc bên
48
trong hoàn toàn giống với mô tả của Patte (1927) và Fang (1997), Zhang và nnk
(2015).
Phân bố địa tầng và địa lý. Loài P. sanguinolites được Fang (1997) mô tả trong hệ
tầng Ganxi, Devon hạ (tuổi Emxi) ở vùng Ganxi, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc; hệ
tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ, đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ,
tỉnh Sơn La.
Thượng họ Beichuaniacea Liu and Gu, 1988
Họ Beichuaniidae Liu and Gu, 1988
Giống Beichuania Liu and Gu, 1988
Loài chuẩn. Beichuania ganxiensis Liu and Gu, 1988
Chẩn định. Vỏ dày, kích thước trung bình đến tương đối lớn, không đối xứng hai
bên và rất không đều bên; hình trứng, hình chữ nhật, hình tam giác đến hình nêm;
mảnh phải lớn hơn và phồng hơn mảnh trái, đỉnh nhô cao hơn khỏi đường bản lề,
đường sống đỉnh nổi cao và kéo dài xuống góc dưới sau, có một răng giả răng chính
hình nón lớn, một đến hai răng bên; mảnh trái kém phồng hơn, và có hốc răng
tương ứng với răng ở mảnh phải (Liu & Gu in Hou Hong Fei, 1988).
Beichuania guangcaoziensis Liu and Gu, 1988
(Bản ảnh 7, ảnh 1-6)
Beichuania guangcaoziensis Liu et Gu, 1988, pl. 79, figs. 5, 11, 17.
Tài liệu. Một mảnh trái (CS135Bi89) và một mảnh phải (CS135Bi90) bảo tồn tốt
thể hiện rõ các đặc điểm hình thái bên trong và bên ngoài.
Hình .1.9. Mặt ngoài mảnh trái Beichuania guangcaoziensis (mẫu CS135Bi89)
49
Mô tả. Vỏ kích thước tương đối lớn so với kích thước trung bình của giống, không
đối xứng hai bên, rất không đều mảnh và không đều bên, gần hình trứng đến gần
hình chữ nhật, vỏ rất dày.
Bờ bản lề hình cung; bờ trước và bờ sau tròn, hợp với nhau thành một góc
khoảng 87-100o; bờ lưng trước thẳng; bờ lưng sau hơi cong đến gần thẳng; bờ lưng
trước bằng 1/3 chiều dài vỏ; bờ bụng gần song song với bờ lưng nhưng dần hẹp lại
về phía sau tạo thành một góc nhọn; bờ bụng trước và bờ lưng trước hợp với nhau
thành một góc gần vuông; tô điểm mặt ngoài gồm các đường tăng trưởng đồng tâm
không đều; bề mặt bên trong nhẵn; trăng hẹp; khiên rõ, dài và hẹp; dây chằng ngoài
và nằm ở phía trước khiên.
Mảnh phải lớn và phồng; lớn hơn và lồi hơn mảnh trái, phồng nhất ở phía
trên đường sống đỉnh và nằm ở giữa vỏ; đường sống đỉnh rõ và dạng góc cạnh
nhưng mờ dần về phía bờ bụng sau, phần trên rất dốc và phần dưới thoải hơn; đỉnh
quay về phía trước, nhô cao hơn nhiều bờ bản lề, nằm ở khoảng 1/3 chiều dài vỏ
tính từ bờ trước; mỏ nhọn và dạng góc cạnh, uốn cong vào phía trong. Đỉnh của
mảnh trái tương đối phẳng, kém lồi và hơi nhô cao hơn khỏi bờ bản lề.
Có một răng giả răng chính hình nón, lớn nằm dưới đỉnh của mảnh trái và
nối với nó bởi một răng giả răng bên sau dài; một hốc lớn tương ứng nằm dưới đỉnh
và một hốc răng bên sau trên mảnh phải.
Vết ám cơ trước gần tròn, nông; vết bám cơ sau rõ gần hình tròn, gồ lên từ
mặt trong của vỏ và lớn gần bằng hai lần vết bám cơ trước, nằm ở gần đầu cuối của
răng giả răng bên; vết bám cơ chân trước nhỏ và sâu nằm giữa vết bám cơ trước và
răng giả răng chính; đường viền áo hoàn chỉnh.
Kích thước (mm).
Bảng .9.1. Kích thước của Beichuania guancaoziensis
Ghi chú
Số hiệu mẫu CS135Bi CS135Bi L 98.2 90.8 H W/2 Mảnh 72.1 65.2 37.0 Right Hơi bị biến dạng 20.1 Left
50
Nhận xét. Mặc dù không nhiều mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào loài B.
guangcaoziensis, chỉ gồm một mảnh phải và một mảnh trái nhưng chúng thể hiện
đặc điểm hình thái bên trong và bên ngoài rõ ràng. Chúng được xếp vào loài B.
guangcaoziensis bởi các đặc điểm như không đối xứng hai bên, rất không đều
mảnh, không đều bên; hình dạng gần hình trứng đến gần hình chữ nhật; vỏ rất dày;
có một răng giả răng chính lớn, hình nón trên mảnh trái và theo sau bởi răng bên sau
lớn và dài.
B. guangcaoziensis được Liu & Gu (in Hou Hong Fei, 1988) báo cáo trong
hệ tầng Xiejiawan (Emxi). Đây là lần đầu tiên B. guangcaoziensis được tìm thấy
trong địa tầng Devon ở Việt Nam nói chung và hệ tầng Bản Nguồn nói riêng.
Phân bố địa lý và địa tầng. Hệ tầng Xiejiawan, bậc Emxi, vùng Tứ Xuyên, Trung
Quốc;Ở đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đi cùng phức hệ
hóa thạch Tay cuộn Euryspirifer tonkinensis.
Beichuania bomongensis sp. nov.
(Bản ảnh 8, ảnh 1-8; Bản ảnh 9, ảnh 1-12)
Mẫu chuẩn. CS135Bi93; Mẫu phụ chuẩn. CS135Bi92, CS135Bi93, CS135Bi94
Vị trí, tuổi và địa tầng. Vị trí: đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; Phần
giữa của hệ tầng Bản Nguồn? tuổi Emxi.
Nguồn gốc tên gọi. Bó Mồng: tên của ngôi làng tại vị trí lấy mẫu, vị trí tìm thấy
hóa thạch.
Tài liệu. Nhiều mẫu được bảo tồn tốt thể hiện rõ các đặc điểm hình thái gồm hai
mẫu nguyên con, ba mảnh trái và bốn mảnh phải.
Kích thước (mm).
Bảng .9.2. Kích thước của Beichuania bomongensis
L H W/2 Mảnh Ghi chú
Số hiệu mẫu CS135Bi91 43.2 18.5 Phải Nguyên con
CS135Bi91 CS135Bi92 49.5+ 38.5+ 59.5- 38.4 64.2- 12.5 21.0+ Trái Phải
51
CS135Bi92 57.0- 55.9- 19.5+ Trái
CS135Bi93 52.6 20.1 Trái Nguyên con nhưng hơi bị biến dạng Bờ sau không bảo tồn
Bị biến dạng
CS135Bi94 CS135Bi95 65.3- 61.1+ 46.2 48.2 59.6 18.3 21.1 Trái Phải
Chẩn định. Vỏ rất dày, chiều dài vỏ lớn hơn chiều cao, không đối xứng hai bên,
không đều mảnh, dạng gần ba cạnh đến gần hình trứng rộng. Tô điểm mặt ngoài
gồm các đường tăng trưởng đồng tâm không đều. Mảnh trái có đỉnh tương đối
phẳng, hơi nhô cao hơn khỏi đường bản lề; có một răng giả răng chính hình nón, lớn
nằm phía dưới đỉnh và nối với nó là một răng giả răng bên sau to và dài. Mảnh phải
có đỉnh nhô cao hơn hẳn đường bản lề; mỏ nhọn và uốn mạnh vào phía trong; có
hốc răng tương ứng với răng của mảnh trái và một răng bên trước thấp, to nằm tiếp
giáp với hốc răng giả răng chính.
Hình .1.10. Mặt ngoài mảnh phải Beichuania bomongensis (mẫu CS135Bi90)
Mô tả. Vỏ rất dày, kích thước trung bình so với kích thước của giống; không đối
xứng hai bên, không đều mảnh và không đều bên; dạng gần ba cạnh đến gần hình
trứng rộng. Bờ bản lề hình cung; bờ trước và bờ sau tròn tạo với nhau một góc
khoảng 95-110o và chuyển tiếp đều đặn xuống bờ bụng; bờ bụng là một cung tròn
nhưng hơi hẹp về phía sau, tạo thành góc dưới sau gần nhọn; tô điểm mặt ngoài
gồm các đường tăng trưởng đồng tâm không đều; mặt trong nhẵn; trăng hẹp và nhỏ;
khiên hẹp và dài; dây chằng ngoài và nằm ở trước khiên.
52
Mảnh phải hơi lớn hơn và phồng hơn mảnh trái, phồng nhất ở giữa vỏ; đỉnh
nhô cao hơn khỏi bờ bản lề, nằm ở gần giữa bờ lưng và quy trước; đường sống đỉnh
rõ, tương đối sắc cạnh và mờ dần về phía góc dưới sau; mỏ nhọn và uốn cong vào
trong. Đỉnh mảnh trái tương đối phẳng hơi nhô cao khỏi bờ bản lề. Mảnh trái có
một răng giả răng chính hình nón, lớn nằm ở dưới đỉnh và theo sau bởi một răng giả
răng bên sau lớn và dài. Mảnh phải có hai hốc răng của răng tương ứng và một răng
bên trước lớn cạnh ngay sát hốc răng giả răng chính. Vết bám cơ trước sâu, gần
hình tròn tới hình elip; vết bám cơ sau rõ, gần hình tròn và lớn hơn vết bám cơ
trước, nằm gần đầu cuối của răng giả răng chính. Đường viền áo hoàn toàn.
Nhận xét. Beichuania bomongensis sp. nov. có hình thái gần giống với loài chuẩn
B. ganxiensis Liu & Gu (Liu & Gu in Hou Hong Fei, 1988) nhưng được phân biệt
với loài này dựa trên đặc điểm cấu trúc vỏ, độ phồng của hai mảnh gần bằng nhau,
đỉnh nằm ở gần giữa bờ lưng.
Phân bố địa tầng và địa lý. Beichuania bomongensis đi cùng với các loài Hai
mảnh vỏ, Tay cuộn, Bọ ba thùy, san hô, Chân bụng, Chân đầu của phức hệ
Euryspirifer tonkinensis, tuổi Emxi sớm; có vị trí địa tầng nằm trên hệ lớp chứa Tay
cuộn Athyris elongata ứng với phần thấp của hệ tầng Mia Lé ở khu vực Đông Bắc
Bộ. Mẫu được sưu tập tại mặt cắt đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh
Sơn La.
Beichuania sonlaensis sp. nov.
(Bản ảnh 10, ảnh 1-11)
Holotype. CS135Bi99; Paratype. CS135Bi100, CS135Bi101, CS135Bi102
Vị trí, tuổi và địa tầng. Vị trí: đèo Bó Mồng; Phần giữa của hệ tầng Bản Nguồn?
tuổi Emxi.
Nguồn gốc tên gọi. Son La: tên của tỉnh, nơi tìm thấy hóa thạch.
Tài liệu. Một mảnh trái và một mảnh phải tương đối hoàn chình và bảo tồn tốt thể
hiện rõ các đặc điểm hình thái; ba mảnh trái không hoàn chỉnh thể hiện rõ cấu trúc
bản lề.
Kích thước (mm).
53
Bảng .10.1. Kích thước của Beichuania sonlaensis
Số hiệu L H W/2 Mảnh Ghi chú
mẫu CS135Bi99 96.8 CS135Bi100 108.5 75.9 86.2 35.8 22.0 Phải Trái Hơi bị biến dạng Hơi bị biến dạng
Chẩn định. Vỏ tương đối dày, chiều dài vỏ lớn hơn chiều cao, không đối xứng hai
bên, không đều mảnh, rất không đều bên, dạng gần hình chữ nhật. Tô điểm mặt
ngoài gồm các đường tăng trưởng đồng tâm không đều. Mảnh trái có đỉnh tương đối
phẳng; có một răng giả răng chính hình nón, lớn nằm phía dưới đỉnh và một răng
bên sau dạng phiến mỏng, dài. Mảnh phải có đỉnh nhô cao hơn hẳn đường bản lề;
mỏ nhọn, quay về phía trước và uốn mạnh vào phía trong; có hốc răng tương ứng
với răng của mảnh trái và một răng bên trước thấp, to nằm tiếp giáp với hốc răng
giả răng chính.
Mô tả. Vỏ dày, kích thước rất lớn so với kích thước trung bình của giống, không đối
xứng hai bên, rất không đều mảnh và không đều bên; dạng gần hình chữ nhật; chiều
dài lớn hơn chiều cao; bờ trước và bờ sau tròn tạo với nhau một góc khoảng 87-110 o
và chuyển tiếp đều đặn xuống bờ bụng; bờ lưng sau hơi cong đến gần thẳng; bờ
lưng trước ngắn bằng khoảng 1/3 bờ lưng sau; bờ bụng gần thẳng và gần song song
với bờ lưng, nhưng hơi hẹp lại về phía sau; bờ lưng trước và bờ bụng trước tạo với
nhau thành một góc gần vuông; tô điểm mặt ngoài gồm các đường tăng trưởng đồng
tâm không đều; mặt trong vỏ nhẵn; không có trăng; khiên hẹp và dài; dây chằng
ngoài.
Hình .1.11. Mặt ngoài mảnh trái Beichuania sonlaensis (Mẫu CS135Bi99)
54
Mảnh phải lớn và hơi phồng hơn mảnh trái, phần phồng nhất ở giữa vỏ nằm trên
đường sống đỉnh; đường sống đỉnh rõ và nổi cao nhưng mờ dần về phía góc dưới
sau, phần trên dốc và phần dưới thoải hơn; đỉnh hơi quay trước, nhô cao hơn bờ bản
lề và nằm ở khoảng ¼ chiều dài vỏ tính từ bờ trước; mỏ dạng góc cạnh, uốn cong
vào phía trong. Mảnh phải có một răng giả răng chính hình nón, lớn nằm ở ngay
dưới đỉnh. Mảnh trái có một hốc răng tương ứng và một răng bên trước bên cạnh
hốc răng. Mảnh trái có một răng bên dạng phiến dài nằm trên vết bám cơ chân sau.
Vết bám cơ trước sâu và hình gần tròn. Vết bám cơ chân trước nhỏ và sâu nằm giữa
vết bám cơ trước và răng giả răng chính. Vết bám cơ sau rõ, hình gần tròn, nông
hơn và lớn hơn vết bám cơ trước, nằm gần đầu sau của răng bên sau. Đường viền áo
hoàn toàn.
Nhận xét. Về mặt hình thái Beichuania sonlaensis sp. nov. gần gũi với B. sinensis.
Nhưng loài B. sonlaensis được phân biệt với B. sinensis bởi đỉnh cao hơn và nằm
gần bờ trước hơn, tỷ lệ chiều cao so với chiều dài là rất lớn (0.8 and 0.63); miền sau
phía trên đường sống đỉnh lớn hơn. Do đó, loài B. sonlaensis được cho là loài mới.
Loài mới này có hình dạng gần giống với B. rectangula nhưng khác bởi bờ
lưng sau hơi cong đến gần thẳng, bờ bụng tròn và đỉnh của mảnh phải cao hơn.
Phân bố địa lý và địa tầng. Beichuania sonlaensis đi cùng với các loài Hai mảnh
vỏ, Tay cuộn, Bọ ba thùy, san hô, Chân bụng, Chân đầu của phức hệ Euryspirifer
tonkinensis, tuổi Emxi sớm; có vị trí địa tầng nằm trên hệ lớp chứa Tay cuộn
Athyris elongata ứng với phần thấp của hệ tầng Mia Lé ở khu vực Đông Bắc Bộ.
Mẫu được sưu tập tại mặt cắt đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn
La..
Phụ lớp Anomalodesmata Dall, 1889
Bộ Pholadomyoida Newell, 1965
Thượng họ Pholadomyacea Gray, 1847
Họ Grammysiidae Miller, 1877
55
Phụ họ Grammysiinae Miller, 1877
Giống Sphenotus
Loài chuẩn. Sanguinolites arcaeformis Hall and Whitfield, 1869
Chẩn định. Dạng kéo dài, đều mảnh, rất không đều bên; miền trước ngắn, miền sau
dài nghiêng, hẹp; đường sống dài, thẳng; đường sống đỉnh kéo dài xuống góc dưới
sau; bề mặt có đường tăng trưởng đồng tâm; hai răng ngắn nằm dưới đỉnh của mảnh
phải, một hoặc hai răng bên; dây chằng ngoài, nằm trong rãnh; vết bám cơ trước rõ;
vết bám cơ sau mờ; đường viền áo hoàn chỉnh (Miller, 1889).
Sphenotus vanlinhensis Mansuy, 1916
(Bản ảnh 2, ảnh 3-5)
1916 Sphenotus vanlinhensis - Mansuy, p.56, pl. 8, fig.5
2012 Sphenotus vanlinhensis Mansuy, 1916 – Dang Tran Huyen in Vu Khuc, p. 60,
pl. 5, fig.6-7
Tài liệu. 01 mảnh trái (CS135Bi136); 01 khuôn ngoài mảnh phải (CS135Bi137); 01
nhân trong mảnh phải (CS135Bi138)
Mô tả. Vỏ mỏng, dạng hình bầu dục kéo dài. Bờ bản lề thẳng. Bờ trước và bờ sau
cong lồi, bờ trước tròn hẹp. Bờ dưới gần như song song với bờ bản lề và hơi lõm
vào ở khoảng 1/3 chiều dài vỏ. Vỏ kém phồng ở phần sau, chỗ phồng nhất ở gần
đỉnh. Một đường kin đi từ đỉnh tới góc sau dưới (Bản ảnh 2, ảnh 3).
Đỉnh rộng, hình tam giác tròn cạnh, ở rất gần bờ trước và nhô chút ít khỏi đường
bản lề. Tô điểm mặt ngoài gồm những gờ và rãnh đồng tâm không đều, nổi lên rõ
rệt ở phần miền trước và mờ dần ở phần miền sau.
Hình .1.12. Mảnh trái Sphenotus vanlinhensis (Mẫu CS135Bi136)
Kích thước (mm).
Bảng .12.1. Kích thước của Sphenotus vanlinhensis Mansuy, 1916
56
Số hiệu mẫu CS135Bi136 H 20 L 69.5 W -
Nhận xét. Mẫu của chúng tôi giống với loài Sphenotus vanlinhensis được Đặng
Trần Huyên (in Vũ Khúc, 2012) mô tả nhưng có bờ sau dài hơn. Đặng Trần Huyên
(in Dương Xuân Hảo, 1980) mô tả loài S. aff. Solenoids Hall trong phần dưới của hệ
tầng Bản Nguồn (Devon trung) và S. (?) spatulata (Mansuy) trong điệp Suối Tra
(Devon hạ) ở hạ lưu sông Đà nhưng khác với mẫu mô tả ở trên bởi kích thước lớn
hơn và chiều dài ngắn hơn.
Phân bố địa tầng và địa lý. Hệ tầng Mia Lé (D1 ml), Devon hạ, vùng Vạn Linh,
tỉnh Lạng Sơn; hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ đèo Bó Mồng, vùng Tô
Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Giống Sanguinolites M’Coy, 1844
Loài chuẩn. Sanguinolites discors McCoy, 1844
Chẩn định. Dạng kéo dài, đều mảnh, rất không đều bên; miền trước ngắn, miền sau
dài nghiêng, hẹp; đường sống đỉnh kéo dài xuống góc dưới sau dài, thẳng; vỏ tô
điểm đồng tâm dạng nếp nhăn ở miền trước đến đường sống sau đỉnh và không có
tô điểm tỏa tia ở vùng lưng (Pojeta & Zhang, 1986).
Sanguinolites nagaolingensis Pojeta & Zhang, 1986
(Bản ảnh 2, ảnh 1-2)
1986 Sanguinolites nagaolingensis Pojeta & Zhang, pl 31, figs. 1-6
Tài liệu. 02 mảnh phải bảo tồn kém (CS135Bi140, CS135Bi141).
Hình .1.13. Mặt ngoài mảnh phải Sanguinolites nagaolingensis (Mẫu CS135Bi140)
57
Mô tả. Vỏ mỏng, dạng bầu dục kéo dài, mở rộng về phía sau. Bờ bản lề thẳng. Bờ
bụng gần song song với đường bản lề. Bờ trước là một cung tròn hẹp, ngắn; bờ sau
là một cung tròn rộng. Phần phía trước phồng. Có một đường sống kéo dài từ đỉnh
đến góc dưới sau và mờ dần ở phía sau. Đỉnh nhỏ, không nhô cao hơn khỏi đường
bản lề, nằm ở khoảng 1/5 chiều dài vỏ. Tô điểm mặt ngoài gồm các nếp nhăn và
rãnh nông đồng tâm.
Nhận xét. Mẫu có hình dạng và tô điểm giống với loài Sanguinolites
nagoalingensis tuổi Devon hạ, hệ tầng Nagaoling, vùng Nagaoling, Guangxi, Trung
Quốc được Pojeta & Zhang (1986) mô tả.
Phân bố địa tầng và địa lý. Loài S. nagaolingensis xuất hiện trong tập Nagaoling
hệ tầng Nagaoling (phần trên của bậc Lockov); trong hệ tầng Ertang (bậc Emxi); hệ
tầng Bản Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ,
tỉnh Sơn La.
58
Phụ lớp Pteriomorphia Beurlen, 1944
Bộ Pterioida Newell, 1965
Phụ bộ Pteriina Newell, 1965
Phụ họ Ambonychiacea Miller, 1877
Họ Ambonychiidae Miller, 1877
Giống Mytilarca Hall & Whitfield, 1869
Loài chuẩn. Inoceramus chemungensis Conrad, 1842
Chẩn định. Vỏ hình chiếc dép, hơi hình lưỡi liềm, mỏ ở tận cùng; không có tô điểm
tỏa tia hoặc khe tơ bám; đường sống đỉnh kém rõ ràng hơn so với Glosseletia; vài
răng chính nghiêng và 2 hoặc 3 răng bên ở mỗi mảnh (Cox in Moore, 1969).
Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842
(Bản ảnh. 5, ảnh 1-16)
1842 Inoceramus chemungensis – Conrad, p. 246, pl. 13, fig. 9
1962 Mytilarca chemungensis (Conrad) – McAlester, p. 38, pl. 15, fig. 1, 2, 8, 9,
10, 11, 12, 13, 14, 15, 17, 18; pl. 16, fig. 1.
1986 Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842 – Pojeta et al., p. 91, pl. 34,
fig. 1, 8, 9; pl. 35, fig. 3-5; pl. 57, fig. 3, 4, 12.
Hình .1.14. Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad) (Mẫu CS135Bi142)
Tài liệu. 04 mẫu nguyên con, 03 mảnh phải hoàn chỉnh và 04 mảnh phải không
hoàn chỉnh.
Mô tả. Vỏ dạng mytilus, đều mảnh hoặc gần đều mảnh, không đều bên. Hình dạng
thay đổi; bờ lưng lồi, bờ bản lề thẳng. Bờ bụng thẳng hoặc hơi lõm. Đỉnh nhọn, lệch
59
hẳn về phía trước nhưng không nhô khỏi bản lề. Tô điểm bề mặt là các gờ và rãnh
đồng tâm mờ, cách nhau không đều.
Kích thước (mm).
Bảng .14.1. Kích thước của Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842
Số hiệu mẫu W/2
CS135Bi19 CS135Bi142 CS135Bi143 CS135Bi144 CS135Bi146 CS135Bi14 CS135Bi20 CS135Bi25 CS135Bi01 H 37.5 33.5 30 27 29.5 28.5 22 22 27.5 L 23.5 21 19 17 20 19 15.5 17 16.5 9 5.5 6 6.5 - - - -
Nhận xét. Các mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào loài Mytilarca chemungensis bảo
tồn tốt hình dạng và tô điểm ngoài nhưng cấu trúc bên trong không quan sát được.
Mẫu được xác định dựa trên hình dạng và tô điểm mặt ngoài. Mẫu ở đèo Bó Mồng
có hình dạng và tô điểm ngoài giống với loài M. chemungensis (Conrad) do Hall
(1884), McAlester (1962) mô tả và Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), 1842
Pojeta & Zhang (1986). Các mẫu được xếp vào M. cf. M. chemungensis ở đèo Bó
Mồng có hình dạng rất thay đổi có mảnh phải kém phồng hơn mảnh trái (Bản ảnh 6,
ảnh 2).
Mẫu mô tả ở trên khác với Mytilarca sp. được Đặng Trần Huyên (trong
Dương Xuân Hảo, 1980, p. 100, pl. 31, fig. 6-7) bởi kích thước nhỏ hơn và không
thể hiện những rãnh dọc nhỏ song song với nhau trên diện khớp.
Phân bố địa tầng và địa lý. Loài Mytilarca cf. M. chemungensis được tìm thấy
trong các hệ tầng Yujiang (bậc Praga-Emxi), Ertang (Emxi), Yingtang (Eifel) ở
Quảng Đông, Trung Quốc; hệ tầng Four Mile Dam (Givet) ở Michigan, Mỹ; hệ tầng
Bản Nguồn (D1 bn), Devon hạ đèo Bó Mồng, Vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh
Sơn La. Loài M. chemungensis được ghi nhận trong địa tầng Devon thượng ở New
York và phía bắc Pennsylvania.
60
Họ Myalinidae Frech, 1891
Giống Myalina De Koninck, 1842
Loài chuẩn. Myalina goldfussiana DeKoninck, 1842
Chẩn định. Vỏ dạng Mytilus với các mỏ ở gần tận cùng, thường không có tô điểm,
bề mặt mảnh trái ở một số loài xù xì bởi các phiến tăng trưởng nổi cao; mảnh phải
kém phồng và thường hơi nhỏ hơn mảnh trái; đỉnh không có tô điểm (More, 1969).
Myalina sp.
(Bản ảnh.2, ảnh 8)
Tài liệu. 01 mảnh trái bảo tồn tốt (CS135Bi131); 01 mẫu bảo tồn nhân trong mảnh
trái và bờ lưng mảnh phải (CS135Bi130).
Hình .1.15. Mặt ngoài mảnh trái Myalina sp. (Mẫu CS135Bi124)
Mô tả. Vỏ dạng mytilus, tương đối mỏng; bờ bản lề thẳng, bằng chiều dài của vỏ;
tai sau rất phát triển; bờ trước thẳng; bờ sau lồi rộng, gần song song với bờ trước;
mỏ ở tận cùng, nhọn và hướng về phía trước; tô điểm bề mặt gồm các đường tăng
trưởng đồng tâm thanh, đôi chỗ dạng gợn sóng. Dây chằng sau, dạng kép?
(duplivincular).
Nhận xét. 01 mảnh trái bảo tồn tốt (Bản ảnh 2; ảnh 8) cho phép quan sát được hình
thái chung và tô điểm mặt ngoài, một mẫu (Bản ảnh 2; ảnh 7) thể hiện dây chằng
dạng kép, song cấu trúc bên trong không quan sát được. Về mặt hình thái rất giống
với M. copei Whitfield, 1902 (McRobert & Newell, 2005) song bờ trước ở M. copei
dựng hơn và bề mặt thường nhẵn hoặc có đường tăng trưởng mờ. McAlester (1962)
61
mô tả hai loài trong Devon thượng ở New York Chemung Stage nhưng chúng khác
với mẫu ở đèo Bó Mồng bởi vỏ phồng hơn, bờ sau ngắn hơn và bờ trước cong hơn.
Phân bố địa tầng và địa lý. Hệ tầng Bản Nguồn (D1 bn), Devon hạ ở đèo Bó
Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Thượng họ Pteriacea Gray, 1847
Họ Pterineidae Miller, 1877
Giống Limoptera Hall and Whitfield, 1869
Loài chuẩn. Lima macroptera Conrad, 1838
Chẩn định. Dạng có cánh, có gờ đơn giản, hai mặt lồi với thùy trước tiêu giảm;
mảnh phải kém phồng hơn mảnh trái (Pojeta, 1986).
Limoptera? cf. macroptera (Conrad), 1838
(Bản ảnh 8, ảnh 1-8)
1838 Lima macroptera – Conrad, p. 117
1986 Limoptera macroptera (Conrad), 1838 – Pojeta et al., p. 96, pl. 61, fig. 2-4,
6-8; pl. 62, fig. 1-3, 7, 8; pl. 64, fig. 1-5.
Tài liệu. 04 mặt ngoài mảnh trái CS135Bi57, CS135Bi54, CS135Bi55, CS135Bi66;
02 khuôn trong mảnh trái CS135Bi47, CS135Bi48.
Mô tả. Vỏ dạng gần hình vuông, thẳng đứng. Chiều cao lớn hơn 1/3-1/4 lần chiều
dài. Bờ bản lề thẳng và ngắn hơn chiều dài vỏ. Đỉnh nhỏ, nổi cao hướng về phía
trước và nhô lên khỏi đường bản lề, nằm lệch về phía trước của vỏ. Vùng đỉnh nổi
cao, phồng khi còn nhỏ và có dạng bướu ở những mẫu trưởng thành. Bờ trước
tương đối tròn; bờ sau gần thẳng tạo với đường bản lề một góc gần vuông. Tai trước
và tai sau phát triển; tai trước nhỏ, tai sau dạng hình cánh. Tô điểm mặt ngoài vỏ
gồm các gờ tỏa tia bậc 1 và bậc 2 (Bản ảnh 8; ảnh 1,2,4). Gờ bậc 1 xuất phát từ đỉnh
và kéo xuống tới mép bờ bụng; gờ bậc 2 nhỏ hơn xuất phát từ khoảng 1/3 chiều cao
vỏ tính từ đỉnh kéo dài xuống mép bờ bụng.
62
Hình .1.16. Mặt ngoài mảnh trái Limoptera? cf. macroptera (Conrad) (Mẫu CS135Bi57) Diện dây chằng kéo dài theo chiều dài của bản lề. Bờ bản lề thẳng và ngắn
hơn chiều dài vỏ. Dây chằng kép, đánh dấu bằng các rãnh và gờ dọc, song song,
nhấp nhô (Bản ảnh 8, ảnh 3, 6). Trên diện dây chằng đếm được 4-5 gờ gần song
song nhau chạy dọc theo diện dây chằng. Vết bám cơ sau nông, rộng nằm gần giữa
vỏ.
Nhận xét. Các mẫu ở đèo Bó Mồng được xếp vào giống Limoptera bảo tồn tương
đối tốt, thể hiện các đặc điểm cơ bản của giống. Song khoảng 20 mẫu thu thập
được, chỉ cho thấy bảo tồn mảnh trái. Các mẫu CS135Bi54, CS135Bi57 và
CS135Bi55 thể hiện hình dạng và tô điểm mặt ngoài nhưng không đầy đủ. Các
khuôn trong CS135Bi47, CS135Bi48 thể hiện vết bám cơ sau lớn và mặt trong
mảnh vỏ CS135Bi66 thể hiện dây chằng dạng kép rất rõ ràng.
Phân bố địa tầng và địa lý. trong đá tuổi Hamilton, vùng New York và Virginia;
trong đá phiến silic (Givet) ở Ohio, Mỹ (Pojeta & Zhang, 1986); Hệ tầng Bản
Nguồn (D1 bn)?, Devon hạ đèo Bó Mồng, vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn
La.
3.2. Ý nghĩa địa tầng của hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Mặt cắt đèo Bó Mồng nằm ở ranh giới giữa hai xã Tô Múa và xã Mường Tè (.1.1.1.Hình .1.1.). Trong đoạn mặt cắt này chủ yếu lộ các đá trầm tích cát kết, đá phiến sét đen và đá vôi chứa hóa thạch Devon sớm (Hình .1.1., Hình .1.4.). Có một số ý kiến về tuổi của các trầm tích lộ ra trên đèo Bó Mồng. Theo mô tả của Deprat
63
J. (1914), chúng được xếp vào “Série de Muong Té” tuổi Silur, trong khi các trầm tích này được Jacob C. (1921), Dussault L. (1929) cho là tuổi Devon giữa hoặc sớm; Dovjikov A. E. (1965) xếp vào Eifel; Nguyễn Xuân Bao (1978, 2005) xếp vào hệ tầng Sông Mua.
Tại mặt cắt đèo Bó Mồng, các hóa thạch Hai mảnh vỏ được tìm thấy trong đá phiến sét đen chứa vôi dày khoảng 10m (Hình .1.1., Hình .1.4.) xen kẽ các lớp cát kết, sét vôi đi cùng các hóa thạch Tay cuộn, Bọ ba thùy, Chân đầu, Chân bụng, san hô và Rêu động vật, dày 50m. Một số loài Tay cuộn được TS. Nguyễn Hữu Hùng xác định gồm Euryspirifer cf. tonkinensis (Mansuy), Acrospirifer sp., Guistrophia cf. modesa Wang et Rong, Euryspirifer aff. tranversus Zuong; Bọ ba thùy gồm Phacops sp., Gravicalymene aff. maloungkaensis (Mansuy); san hô Syringopora (?) (Bản ảnh 11). Các phức hệ Tay cuộn và Bọ ba thùy kể trên cho tuổi Praga-Emxi sớm. Thành phần hoá thạch thể hiện tính chất của phức hệ Euryspirifer tonkinensis phân bố rộng rãi trong trầm tích Devon hạ ở Bắc Bộ.
A B
Hình .1.1. A. Vết lộ CS135 của hệ tầng Bản Nguồn tại đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; B. Hóa thạch Euryspirifer cf. tonkinensis (Mansuy) trong đá phiến sét đen.
nagaolingensis, Sanguinolites vanlinhensis Sphenotus
Các hóa thạch Hai mảnh vỏ trong đá phiến sét đen tại đèo Bó Mồng được xác định gồm Nuculoidea sp., Nuculoidea cf. N. yongfuensis, Nuculites sp., Schizodus aff. S. appressus (Conrad), Paracyclas rugosa (Goldfuss), Paracyclas sp., Mansuy, Pseudosanguinolites douvillei Patte, Beichuania guangzicaoensis, B. bomongensis, B. sonlaensis, Mytilarca cf. M. chemungensis (Conrad), Myalina sp., Limoptera? cf. macroptera. Trong đó, loài Schizodus aff. S. appressus (Conrad) được tìm thấy
64
trong tập Nagaoling, hệ tầng Nagaoling (bậc Nagaoling) tuổi Praga và trong hệ tầng Ertang, tuổi Emxi ở Quảng Tây, Trung Quốc. Loài Paracyclas rugosa (Conrad) xuất hiện trong hệ tầng Ertang (tuổi Emxi) và phần dưới hệ tầng Donggangling (tuổi Givet) ở Quảng Tây, Trung Quốc; trong hệ tầng Gravel Point (tuổi Givet) và hệ tầng Potter Farm (tuổi Givet) ở Michigan, Mỹ. Loài Pseudosanguinolites douvillei được Patte (1927) tìm thấy trong các trầm tích tuổi Devon ở vùng Vạn Yên, miền Bắc Việt Nam được Liu và Gu (1988) mô tả vào loài Ganxiella longa trong hệ tầng Ganxi tuổi Emxi, ở vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc. Loài Sphenotus vanlinhensis được Đặng Trần Huyên (trong Vũ Khúc, 2012) mô tả trong trầm tích của hệ tầng Mia Lé (D1 ml) ở vùng Vạn Linh, tỉnh Lạng Sơn. Loài Sanguinolites nagaolingensis được Pojeta & Zhang (1986) mô tả trong hệ tầng Nagaoling tuổi Praga ở vùng Quảng Tây, Trung Quốc. Loài Mytilarca cf. M. chemumgensis được Pojeta & Zhang (1986) mô tả trong hệ tầng Yujiang (Emxi), hệ tầng Ertang (Emxi), Yingtang (Eifel) ở vùng Quảng Tây, Trung Quốc; trong hệ tầng Four Mile Dam (Givet) ở Michigan và trong các địa tầng Devon thượng ở New York và phía bắc Pennsylvania, Mỹ. Loài Limoptera? cf. macroptera được tìm thấy trong đá vôi Hamilton (Devon muộn) ở New York và Virginia, trong đá phiến silic tuổi Givet ở Ohio, Mỹ. Loài Beichuania guangzicaoensis được Liu và Gu (1988), Zhang và nnk (2015) thu thập và mô tả trong hệ tầng Xiejiawan, tuổi Emxi, vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc. Kết quả luận giải, so sánh tuổi và mô hình hóa trên sơ đồ phân bố địa tầng (Hình .1.2.) cho các loài Hai mảnh vỏ ở trên cho thấy phần lớn các loài đều thể hiện tuổi Emxi.
65
Hình .1.2. Sơ đồ phân bố địa tầng của một số loài Hai mảnh vỏ trong đá phiến sét đen ở mặt cắt đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Ngoài ra, kết quả khảo sát, đo vẽ mặt cắt địa chất đèo Bó Mồng (Hình .1.4.)
cho thấy trật tự địa tầng như sau:
Nằm dưới tập đá phiến sét đen xen kẽ cát kết, sét vôi kể trên trên là đá vôi, vôi sét màu xám chứa phong phú hóa thạch Tay cuộn bảo tồn nguyên con tạo thành vỉa xác dày, dày 40m (Hình .1.4.). Theo xác định của TS. Nguyễn Hữu Hùng các loài Tay cuộn trong tập này phổ biến gồm Athyris elongate, A. aucta và A. pauca. Trong đó, loài Athyris elongata được Wang et Rong (1986) mô tả lần đầu trong các trầm tích của tập Shizhou, nửa trên của phần thấp hệ tầng Úc Giang, tuổi Emxi sớm ở Nanning-Liujing, Quảng Tây của Nam Trung Quốc.
Chuyển lên là đá vôi chứa hóa thạch san hô vách đáy Thamnopora sp., dày
trên 20m.
Chỉnh hợp trên tập đá vôi chứa hóa thạch san hô vách đáy Thamnopora sp. là đá vôi màu xám đen phân lớp trung bình tới dày chứa phong phú hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng của hệ tầng Bản Páp (Hình .1.3., Hình .1.4.). Quan hệ dưới với các
66
trầm tích cổ hơn không quan sát được do có sự xuất hiện của nhiều đứt gãy trong vùng nghiên cứu.
A B
Hình .1.3. A. Vết lộ đá vôi hệ tầng Bản Páp; B. Hóa thạch Tay cuộn và Lỗ tầng của hệ tầng Bản Páp lộ ra tại mỏ khai thác đá vôi ở Bản Khảm, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Hình .1.4. Cột địa tầng và các mức chứa hóa thạch trong các trầm tích ở đèo Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
67
Hình .1.5. Cột địa tầng của hệ tầng Bản Nguồn ở đèo Bó Mồng, xã Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Như đã mô tả ở trên, các trầm tích lộ ra ở đèo Bó Mồng chứa phong phú hóa thạch, các hóa thạch Tay cuộn, Bọ ba thùy và phần lớn hóa thạch Hai mảnh vỏ đều cho tuổi Emxi. Ngoài ra, ở mặt cắt đèo Bó Mồng các trầm tích này nằm trên hệ tầng Sông Mua (D1 sm) và hệ tầng Nậm Pìa? (D1 np?) và nằm dưới hệ tầng Bản Páp (D1-2 bp). Trên cơ sở các tài liệu về đặc điểm thạch học, tập hợp hóa thạch nêu trên và quan hệ địa tầng, các trầm tích lộ ra ở đèo Bó Mồng được cho là thuộc hệ tầng Bản Nguồn (D1em bn) và có tuổi Emxi. Cột địa tầng của hệ tầng Bản Nguồn ở đèo Bó Mồng được thể hiện chi tiết ở Hình .1.5..
Về mặt địa lý và địa tầng, tập hợp Hai mảnh vỏ kể trên nằm trong mức địa tầng chứa phức hệ Euryspirifer tonkinensis, phân bố rộng rãi ở miền Bắc Việt Nam (Tống Duy Thanh, 2005) tương ứng với hệ tầng Mia Lé. Tuy nhiên, các dạng Hai mảnh vỏ của hệ tầng Bản Nguồn thể hiện sự khác biệt. Nuculites, Schizodus, Myalina và Pseudosanguinolites chỉ tìm thấy trong hệ tầng Bản Nguồn. Ngoài ra, hệ tầng Sông Mua thể hiện sự tương đồng về đặc điểm thạch học nhưng không phát hiện các dạng Hai mảnh vỏ kể trên. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tập hợp Hai mảnh vỏ này như là một dấu hiệu ban đầu cho việc xác định sự có mặt của các trầm tích hệ tầng Bản Nguồn trong một vùng hoặc khu vực nghiên cứu bất kỳ.
68
Pseudosanguinolites douvillei được Patte (1927) mô tả lần đầu tiên ở vùng Vạn Yên, miền Bắc Việt Nam cũng được Liu & Gu (1988), Fang (1997), Zhang và nnk (2015) mô tả trong trầm tích Devon hạ ở vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc; các loài Sanguinolites nagaolingensis, Schizodus aff. S. appressus, Paracyclas rugosa, Mytilarca cf. M. chemungensis cũng được Pojeta & Zhang (1986), Zhang và nnk (2015) mô tả ở vùng Quảng Tây, Trung Quốc. Nuculoidea, Nuculites, Mytilarca, Limoptera, Schizodus, Paracyclas, Sanguinolites cũng được Johnston (1985) đề cập trong nghiên cứu về Hai mảnh vỏ Devon hạ ở vùng New South Wales và Victoria, Australia. Do đó, tập hợp Hai mảnh vỏ của hệ tầng Bản Nguồn thể hiện sự tương đồng cao với hệ động vật Hai mảnh vỏ ở nam Trung Quốc (Pojeta & Zhang, 1986) và đông nam Australia (Johnston, 1985). 3.3. Sự phong phú và đa dạng của Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa,
huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Kết quả định loại ghi nhận 15 loài thuộc 11 giống của 10 họ, 6 bộ của 176
mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ trong đá phiến sét tại mặt cắt đèo Bó Mồng ở vùng Tô
Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã thu được 176 mẫu của khác nhau. Mặc dù một
số đơn vị phân loại cần nghiên cứu chi tiết hơn nữa song các số liệu này thể hiện sự
phong phú và đa dạng của Hai mảnh vỏ tuổi Devon sớm trong hệ tầng Bản Nguồn
vùng Bó Mồng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La so với 20 loài của 9 giống thuộc 4 bộ
trong địa tầng Devon ở miền Bắc Việt Nam được Kulikova (in Dương Xuân Hảo,
1968) mô tả và 18 loài thuộc 9 giống trong địa tầng Devon miền Bắc Việt Nam
được Đặng Trần Huyên (in Dương Xuân Hảo, 1980) mô tả và Nguyễn Vĩnh (1977)
mô tả 5 loài thuộc 5 giống Hai mảnh vỏ của Hệ tầng bản nguồn ở mặt cắt chuẩn.
Hình .1.1. Biểu đồ so sánh thành phần giống loài của một số nghiên cứu hóa thạch Hai mảnh vỏ Devon ở Việt Nam
69
Trong 6 phụ lớp Hai mảnh vỏ (Cox in Moore, 1969) có 4 phụ lớp xuất hiện
trong đá phiến sét của hệ tầng Bản nguồn. Trong đó Palaeotaxodonta chiếm khoảng
(15%) số giống (gồm Nuculoidea, Nuculites, Schizodus), Heterodonta chiếm
khoảng (41%) (gồm Paracyclas, Pseudosanguinolites, Beichuania),
Anomalodesmata (3%) (gồm Sphenotus, Sanguinolites), Pteriomorphia (41%) (gồm
Mytilarca, Myalina, Limoptera).
Hình .1.2. Biểu đồ thể hiện thành phần giống của hóa thạch Hai mảnh vỏ vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Ở cấp giống hệ động vật Hai mảnh vỏ ở vùng Tô Múa gồm giống
Pseudosanguinolites, Beichuania được cho là đặc hữu, giống Myalina được tìm
thấy ở Bắc Mỹ và 08 giống còn lại phân bố toàn cầu. Hệ động vật này được đặc
trưng bởi sự phong phú và đa dạng cao với sự phát triển thịnh vượng của các đại
biểu thuộc họ Ambonychiidae (Mytilarca), Mactromyidae (Paracycals),
Beichuaniidae (Beichuania) và Permophoridae (Pseudosanguinolites). Trong đó,
giống Mytilarca (28.4%), Paracyclas (16.5%), Pseudosanguinolites (13.1%),
Beichuania (11.3%), Nuculoidea (9.7%), Limoptera (9.1%), Nuculites (2.8%),
Myalina (3.4%), Schizodus (2.3%), Sphenotus (2.3%) và Sanguinolites (1.1%). Đặc
70
biệt, giống Pseudosanguinolites, Beichuania mới chỉ ghi nhận trong địa tầng Devon
hạ ở miền nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam.
Với những dẫn liệu nêu trên, hệ động vật Hai mảnh vỏ trong hệ tầng Bản
Nguồn ở vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La được cho là một trong những hệ
động vật phong phú và đa dạng Hai mảnh vỏ tuổi Devon sớm Việt Nam.
3.4. Điều kiện môi trường sống của Hai mảnh vỏ Devon sớm vùng Tô Múa,
huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La
Trong nghiên cứu cổ sinh thái, người ta sử dụng khái niệm hình thái chức
năng để mô tả các đặc điểm hình thái của sinh vật phản ánh điều kiện và thói quen
sống của sinh vật. Định nghĩa thói quen sống ở đây theo Stanley (1970) để thể hiện
các hành vi của Hai mảnh vỏ liên quan đến đặc điểm bên ngoài với không gian
sống, cách thức sống và sự tồn tại của chúng. Trên cơ sở phân tích đặc điểm hình
thái, 3 dạng sống của Hai mảnh vỏ kỷ Devon ở vùng đèo Bó Mồng được tái dựng
gồm dạng sống ở đáy (chui rúc), sống bán đáy (vừa chui rúc vừa bò hoặc bám vào
đáy) và sống trên bề mặt trầm tích (bò hoặc bám trên mặt đáy) (.3.4.1.Hình .1.1.).
.3.4.1. Dạng sống ở đáy – chui rúc (infaunal bivalves)
Theo Zhang và nnk (2015) và Johnston (1985) Nuculoidea, Nuculites,
Schizodus, Paracyclas, Psedosanguinolites là những dạng sống ở đáy (infaunal)
(Hình .1.1.). Trong đó, Nuculoidea và Nuculites là các dạng ăn các lắng đọng trầm
tích và đào bới (deposit feeders và burrowers) (Hình .1.1.).
Pseudosanguinolites và Beichuania có vỏ rất dày, chỉ có một răng chính hoặc
răng giả răng chính và vết bám cơ trước và sau lớn; ngoài ra nhiều mẫu thu được
còn bảo tồn nguyên con điều này gợi ý rằng chúng là những dạng ít di chuyển,
thường nằm cố định trong lớp trầm tích, không chịu được môi trường có động năng
lớn. Theo Zhang và nnk (2015) Pseudosanguinolites thường có vị trí sống nằm
nghiêng khoảng 45º so với mặt bám (bề mặt trầm tích). Paracyclas có vỏ mỏng và
hình dạng tương đối tròn gợi ý rằng chúng có thể là dạng đào bới giống như các
dạng Lucinaceans đang sống. Dạng vỏ dẹt và bề mặt nhẵn gợi ý rằng Schizodus là
dạng đào bới nhanh. Đặc điểm miền sau cụt (cắt cụt/ ngắn) chỉ ra rằng chúng là
71
dạng không có siphon (non-siphonate), sống trong trầm tích và gần với bề mặt trầm
tích. Trong khi đó, Nuculoidea và Nuculites thường có dạng hình thoi, với đỉnh
lệch, kích thước nhỏ chỉ một vài cm, mặt vỏ thường nhẵn và cấu trúc răng dạng
răng dãy gợi ý rằng chúng là những loại đào bới và di chuyển linh hoạt, chịu được
môi trường có động năng cao.
Hình .1.1. Mô hình tái dựng lại điều kiện sống của Hai mảnh vỏ hệ tầng Bản Nguồn
vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La: 1. Nuculoidea; 2. Nuculites; 3.
Schizodus; 4. Paracyclas; 5. Pseudosanguinolites; 6. Beichuania; 7. Sanguinolites;
8. Sphenotus; 9. Mytilarca; 10. Limoptera; 11. Myalina (Trên cơ sở của Johnston
(1985))
Những giống này thích nghi tốt với với môi trường nước nông có dòng chảy
mạnh mà có thể cuốn trôi Hai mảnh vỏ, đo đó chúng phải chui rúc vào lớp trầm
tích.
Sphenotus có vỏ mỏng, dạng hình bầu dục, vỏ có nhiều nếp nhăn thô và cấu
trúc răng yếu. Theo Zhang và nnk., (2015) hình dạng vỏ của Sphenotus gợi ý rằng
72
nó tương đối bất động, có lẽ nó là dạng Hai mảnh vỏ bám vào trong lớp trầm tích,
mà có vị trí sống miền sau của vỏ gần với mặt trầm tích.
.3.4.2. Dạng sống bán đáy – chui rúc, bò hoặc bám trên mặt đáy (semi-infaunal)
Theo Zhang và nnk (2015) Sanguinolites là một dạng thuộc nhóm
anomalodesmats thường có một khe tơ bám dài và hẹp tại một hõm nông nằm ở bờ
bụng trước đến giữa bờ bụng. Sanguinolites có vỏ dạng hình bầu dục, vỏ tương đối
nhẵn chỉ có một vài nếp nhăn. Những đặc điểm này gợi ý rằng Sanguinolites là
dạng Hai mảnh vỏ sống vừa chui rúc vừa bám trên mặt đáy (semi-infaunal
bivalves).
.3.4.3. Dạng sống trên mặt đáy – dạng bò hoặc bám trên mặt (epifaunal)
Theo Zhang và nnk (2015) và Johnston (1985) dạng Hai mảnh vỏ sống trên
bề mặt trầm tích (epifaunal) ở vùng Tô Múa, gồm Mytilarca, Limopteria và
Myalina. Các dạng Ambonychiids này thể hiện hai đặc điểm mà cho thấy rằng
chúng ít sống cố định hơn Mytilus. Thứ nhất là hệ cơ yếu (weaker byssal
musculature); thứ hai là dạng vỏ dẹt đặc trưng cho phép chống đỡ các lực bên ngoài
(offered disruptive external forces) là một lợi thế lớn so với các tơ bám (a large
mechinical advantage against the byssal apparatus).
Mytilarca được xem là dạng sống trên mặt đáy (epibyssate) thường sống với
mặt phẳng khớp nối vuông góc với mặt bám (Stanley, 1970). Kauffman (1969) cho
rằng các giống Mytiloid hiện đại thường sống trong điều kiện nước nông, năng
lượng lớn, phổ biến được tìm thấy ở những vùng có độ sâu nhỏ hơn 15m nước.
Dạng Pterinopectinidae sống trên mặt là Limoptera, giống như các dạng có
cánh hiện đại. Limoptera có thể sống tự do trên bề mặt đá cứng ở đáy hoặc bám vào
bề mặt nào đó bởi sợi tơ chân. Sự xuất hiện của tai trước dài và khe tơ bám riêng
biệt gợi ý rằng nó sống bám vào bề mặt nào đó bởi tơ bám này.
Ở Limoptera đường bản lề dài và các tai được hình thành mà không tách rời
khỏi phần thân bởi vịnh áo rõ ràng, điều này giúp cho miền sau của phần thân giữa
không bị nước phá hủy khi bơi.
73
3.5. Mối quan hệ giữa Hai mảnh vỏ và môi trường trầm tích
Hóa thạch Hai mảnh vỏ được thu thập trong đá phiến sét đen chứa vôi
(Hình .1.1.) nằm phía trên các lớp đá vôi, vôi sét xen kẹp các lớp đá phiến sét, cát
kết và nằm dưới các đá cát kết xen lẫn đá phiến sét chỉ ra rằng các trầm tích này có
thể được thành tạo trong môi trường biển nông. Các lớp trầm tích không dày dày
nhất là lớp đá phiến sét chứa tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ khoảng 10m. Nằm
dưới lớp đá phiến sét này là các đá vôi sét phân lớp dày xen một vài lớp đá phiến sét
phân mỏng đến trung bình dày khoảng 40m; nằm trên là các lớp đá vôi, vôi sét phân
lớp trung bình dày khoảng 20m. Thành phần vật chất của các đá trong đoạn mặt cắt
này phản ánh quá trình lắng đọng nhanh và đa phần, điều này gợi ý rằng các thành
tạo trầm tích này được lắng đọng ở vị trí gần bờ.
A B
Hình .1.1. A. Điểm lộ (CS135) đá phiến sét đen chứa hóa thạch Hai mảnh vỏ; B.
Tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ gồm Mytilarca, Pseudosanguinolites, Limoptera
trong khối đá phiến sét đen
Tập hợp hóa thạch thu thập được cùng hóa thạch Hai mảnh vỏ gồm có Tay
cuộn, Bọ ba thùy, Chân đầu, Chân bụng, san hô và Động vật dạng rêu. Đây là các
dạng hóa thạch sống trong môi trường biển chủ yếu ở dạng bám đáy theo vị trí từ
thềm đến gần bờ. Ngoài ra, các dạng hóa thạch Hai mảnh vỏ ở đây phần lớn là các
dạng có vỏ dày; chúng thường nằm lộn xộn, không theo một trật tự nhất định trong
lớp trầm tích (Hình .1.1.B) điều này gợi ý rằng chúng sinh sống ở trong vùng chịu
tác động mạnh của sóng hoặc các dòng hải lưu và thường bị vận chuyển đi sau khi
74
chết. Tuy nhiên, các mẫu thu được phần lớn vẫn bảo tồn tốt ít bị vỡ và còn nhiều
mẫu bảo tồn dạng nguyên con như các đại biểu của giống Mytilarca, Beichuania,
Pseudosanguinolites, Nuculoidea chứng tỏ chúng bị vận chuyển không xa khỏi nơi
sinh sống sau khi chết. Do đó, có thể cho rằng các hóa thạch Hai mảnh vỏ hệ tầng
Bản Nguồn thuộc tướng biển nông gần bờ.
75
KẾT LUẬN
Mytilarca cf.
Đề tài luận văn đã xác định được 15 loài thuộc 11 giống của 10 họ, 6 Bộ, 4 phụ lớp cho 176 mẫu hóa thạch Hai mảnh vỏ thu được trong đoạn mặt cắt dày khoảng 10m chứa các lớp đá phiến sét tại mặt cắt đèo Bó Mồng ở vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Các loài được xác định gồm Nuculoidea sp., Nuculoidea cf. N. yongfuensis, Nuculites sp., Schizodus aff. S. appressus (Conrad), Paracyclas rugosa (Goldfuss), Paracyclas sp., Sanguinolites nagaolingensis, Sphenotus vanlinhensis Mansuy, Pseudosanguinolites douvillei Patte, Beichuania guangzicaoensis, B. bomongensis, Beichuania sonlaensis., M. chemungensis (Conrad), Myalina sp., Limoptera? cf. macroptera. Hai loài mới được xác lập gồm Beichuania bomongensis và B. sonlaensis. Nuculites, Schizodus, Myalina, Limoptera và Beichuania lần đầu tiên được ghi nhận trong hệ tầng Bản Nguồn ở vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Pseudosanguinolites douvillei chưa từng được ghi nhận trong địa tầng khác ở Việt Nam
Kết quả nghiên cứu tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ ở mặt cắt đèo Bó Mồng vùng Tô Múa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La góp phần cung cấp thông tin về tuổi và vị trí địa tầng của hệ tầng Bản Nguồn. Phát hiện mới này giúp bổ sung thông tin về mặt cổ sinh và địa tầng cho hệ tầng Bản Nguồn ở khu vực Tây Bắc của Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tập hợp hóa thạch Hai mảnh vỏ tuổi Devon sớm trong hệ tầng Bản Nguồn ở vùng Tô Múa thể hiện sự phong phú và đa dạng cao so với các địa tầng Devon chứa Hai mảnh vỏ ở Việt Nam đã được phát hiện và nghiên cứu.
Về mặt Cổ sinh thái đã xác định được 03 kiểu sống của Hai mảnh vỏ hệ tầng Bản Nguồn ở vùng Tô Múa gồm sống ở đáy – chui rúc (infaunal), sống bán đáy – chui rúc, bám hoặc bò trên mặt (semi-infaunal) và sống trên mặt đáy (epifaunal). Trong đó, các dạng sống ở đáy gồm Nuculoidea, Nuculites, Schizodus, Paracyclas, Psedosanguinolites, Beichuania; các dạng sống bán đáy gồm Sanguinolites, Sphenotus và dạng sống trên mặt đáy gồm Mytilarca, Limopteria và Myalina. Trên cơ sở đặc điểm thành phần thạch học, tập hợp hóa thạch, đặc điểm hình thái và sự xuất hiện trong không gian của hóa thạch Hai mảnh vỏ cùng các hóa thạch khác có thể cho rằng các hóa thạch Hai mảnh vỏ hệ tầng Bản Nguồn thuộc tướng biển nông gần bờ.
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đặng Trần Huyên (in Dương Xuân Hảo, 1980), Hóa thạch đặc trưng ở miền
Bắc Việt Nam (Lớp Chân rìu), NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr. 96-102, Hà Nội.
2. Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc, 1991), Atlas cổ sinh Việt Nam, Tập 3- Thân
mềm, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
3. Đặng Trần Huyên (in Vũ Khúc, 2012), Atlas Cổ sinh vật Việt Nam – Tập Thân
mềm (Hai mảnh vỏ), NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr. 13-14, 18, 20, 38-39, 46,
54, 57, 60, Hà Nội.
4. Đovjikov A.E. (Chủ biên) (1971), Địa chất miền Bắc Việt Nam, NXB Khoa học
và Kỹ thuật, 583 tr., Hà Nội.
5. Dương Xuân Hảo (1975), So sánh sinh địa tầng Đevon ở Bắc Việt Nam với một
số nơi khác, Tạp chí Địa chất, 118: 21-24, Hà Nội.
6. Dương Xuân Hảo, Nguyễn Thơm, Nguyễn Đức Khoa (1973), Tài liệu mới về
sinh địa tầng Đevon ở miền Bắc Việt Nam, Tạp chí Địa chất, 108: 15-19, Hà
Nội.
7. Dương Xuân Hảo, Nguyễn Thơm, Nguyễn Đức Khoa, (1975), Tài liệu mới về
sinh địa tầng các trầm tích Paleozoi trung (từ năm 1964 đến năm 1973), Tuyển
tập Công trình nghiên cứu về Địa tầng: 66-105, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội.
8. Dương Xuân Hảo, Rjonxnitxkaia M.A., Bunvanke E.Z., Kulikova V.F.,
Makximova Z.A., Tống Duy Thanh (1968), Những hoá thạch đặc trưng cho địa
tầng Đevon ở miền Bắc Việt Nam, Tổng cục Địa chất, Hà Nội, 123 tr.
9. Kulikova (in Dương Xuân Hảo, 1968). Những hóa thạch đặc trưng cho địa
tầng Devon ở miền Bắc Việt Nam (Lớp Chân rìu), Tổng cục Địa chất, tr. 53-64,
Hà Nội.
10. Nguyễn Vĩnh (1977), Trầm tích Silua muộn - Đevon ờ Tây Băc Việt Nam, Trong
Những vấn đề địa chất Tây Bắc Việt Nam: 82-108, NXB Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội.
77
11. Nguyễn Xuân Bao (Chủ biên) (1978). Địa chất tờ Vạn Yên, Thuyết minh Bản
đồ địa chất tờ Vạn Yên tỷ lệ 1:200.000, Tổng cục Địa chất, Hà Nội, Báo cáo:
1969. Trung tâm Thông tin - Lưu trữ địa chất, Hà Nội.
12. Nguyễn Xuân Bao (Chủ biên) (2005), Bản đồ địa chất và khoáng sản tờ Vạn
Yên tỷ lệ 1:200.000, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội.
13. Nguyễn Xuân Bao (1970), Tài liệu mới về cấu trúc địa chất vùng Vạn Yên, Tạp
chí Địa chất, 91-92: 63-67, Hà Nội.
14. Phan Cự Tiến, Trần Quốc Hải, Lê Đình Hữu, Phan Viết Kỷ, Bùi Phú Mỹ,
Nguyễn Vĩnh (1977), Chú giải Bán đồ địa chất tây bắc Việt Nam, loạt tờ bản
đồ Sông Đà tỷ lệ 1: 200.000, Trong Nhũng vấn đề địa chất Tây Bắc Việt Nam:
9-64, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
15. Tống Duy Thanh (Chủ biên) (1986), Hệ Devon ở Việt Nam, NXB Khoa học và
Kỹ thuật, 141tr., Hà Nội.
16. Tống Duy Thanh, Vũ Khúc (Đồng chủ biên) (2005), Các phân vị địa tầng Việt
Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 520tr., Hà Nội.
17. Trần Văn Trị (Chủ biên) (1977), Địa chất Việt Nam, Phần miền Bắc, NXB
Khoa học và Kỹ thuật, 354tr., Hà Nội.
18. Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ (chủ biên) (1989), Địa chất Việt Nam, Tập I-Địa tầng,
Tổng cục Mỏ và Địa chất, 388tr., Hà Nội.
Tiếng Anh
19. Amler, M. R. W. (1993), Shallow marine Bivalves at the
Devonian/Carboniferous boundary from the Velbert anticline (Rheinischs
Schiefergebirge), Société géologique de Belgique, T. 115-fasc.: 405-423.
20. Amler, M. R. W. (2010), Late Devonian (Frasnian) bivalves from the
Nocedo Formation – the results of Wilhelm Kegel’s 1927 field
trip to northern Spain. Scripta Geol., Spec. Issue 7.
78
21. Cox, L. R. et al. (1969). In: Moore, R. C. (ed.) Treatise on Invertebrate
Paleontology. Part N. Mollusca 6. Bivalvia. Geological Society of America,
Boulder, CO, and University of Kansas Press, Lawrence, KS.
22. Farjat, A. D. (2005), The genera Praectenodonta, Praenucula and Notonucula
(Palaeotaxontaxodonta: Bivalvia) in the Silurian-Devonian of Bivalvia.
Geobios, 38: 171-186.
23. Gu D Y, Liu X Z. New bivalves, Beichuania, from the Lower Devonian of
Sichuan, China [J]. In: McMillan N J, Embry A F, Glass D J. (eds) Devonian of
the Worl: Canadian Society of Petroleum Geologists Memoir, 1988, 14(3): 357-
378.
24. Jain, S. (2017), Fundamentals of Invertebrate Palaeontology – Macrofossils,
Springer Geology. DOI 10.1007/978-81-322-3658-0_10. 411p.
25. Kotzian, C. B. (2003), A new Devonian Modiolopsidae (Mollusca: Bivalvia)
from the Ponta Grossa formation, Paraná basin, Brazil. Geociências, 30(2): 27-
32, 2003.
26. Křίž, J. (2004), Latest Frasnian and earliest Famennian (Late Devonian)
bivalves from the Montagne Noire (France). Senckenbergiana lethacea, 84(1/2):
85-123, Frankfurt am Main.
27. McAlester, A. L. (1962), Upper Devonian Pelecypods of the New York
Chemung Stage. Peabody Museum of Natural History (Yale University).
Bulletin 16, 159p. New Haven, Conn.
28. Pojeta, John, Jr. (1986), Devon – Devonian rocks and lower and middle
Devonian Pelecypods of Guangxi, China, and the Traverse Group of Michigan,
U.S. Geological survey professional paper 1394-A-G. United States
government printing office. 248p.. Washington.
29. Pojeta, John, Jr., Jiřί Křίž and Jean M. Berdan (1976), Silurian-Devonian
Pelecypods and Paleozoic stratigraphy of subsurface rocks in Floria and
Geogia and related Silurian Pelecypods from Bolivia and Turkey, Geological
79
survey professional paper 879, United States government printing office, 43p..
Washington.
30. Rocque, A. L. (1950), Pre-traverse Devonian Pelecypods of Michigan,
University of Michigan press, Vol. VII, No. 10, pp. 271-366, Ann Arbor.
31. Tong Dzuy Thanh, Vu Khuc (Eds.) (2011), Stratigraphic units of Viet Nam, Vietnam National University Publishing House, 526p, Hanoi.
32. Tran Van Tri, Vu Khuc et al. (2011), Geology and Resources of Vietnam, Science and Technics Publishing House, 589p. Hanoi.
33. Williams, H. S. (1916), The fauna of the Chapman Sandstone of Maine,
Geological survey professional paper 89, United States government printing
office. 347p., Washington.
34. Zhang Renjie, Yao Huazhou, Yao Jianxin, Tu Bing, Yan Daoping, Wang Jianxiong, Duan Qifa, Tang Chaoyang (2015), Devonian Bivalves of Guangxi and biodiversity changes of Devonian bivalves in South China, China University of Geosciences Press.
35. Huber, Markus (2010), Compendium of Bivalves. A Full-color Guide to 3,300 of the World's Marine Bivalves, A Status on Bivalvia after 250 Years of Research. ConchBooks. tr. 23. ISBN 978-3-939767-28-2.
Tiếng Pháp
36. Mansuy H. (1908), Contribution à la carte géologiques de L’Indochine.
Paléontologie, 73 p., Hanoi.
37. Mansuy H. (1912), Contribution à la géologiques du Tonkin, Mém. Serv. Géol.
Indoch., I/4 : 82 p., Hanoi.
38. Mansuy H. (1913), Nouvelle contribution à la paléontogie de L’Indochine. I-
Contribution à I’étude des faunes paléozoiques et triasiques du Tonkin, Mém.
SGI., II/5 :39p., Hanoi.
39. Mansuy H. (1913), Paléontologie de I’Annam et du Tonkin, Mém. SGI., II/3:
48p., Hanoi.
40. Mansuy H. (1915), Contribution à I’étude des faunnes de I’Ordovicien et du
Gothlandien du Tonkin, Mém. SGI., IV/3 : 22p.. Hanoi.
80
41. Mansuy H., 1919. Par terrains et par localités des fossils recueillis en Indochine
et au Yunnan, par les geologues du Service géologique et par les officiers du
Service géographique de I’Indochine, au cours des années 1903-1918.
42. Patte E. (1926), Etudes paléontologiques relatives à la geologie de I’Est du
Tonkin (paleozoique et tri), Bull. SGI., XV/1 : 240p., Hanoi.
43. Patte E. (1927), Etudes géologiques dans I’Est du Tonkin, Bull. SGI., XVI/1 :
314p.. Hanoi.
44. Saurin E. (1956), Indochine. In “Lexique stratigraphique International”, IIl/6a:
140 p. Centre National de la Recherche Scientifique. Paris.
Tiếng Nga
50. Dovjikov A. E., (chủ biên) 1965, Геология Северного Вьетнама - Обжаснителназа запитска к геологической карте Северного Вьетнама; 1Довжиков А.Е., 2Вашильевская Е.Д., Замойда А.Ж., 4Иванов Г.В., 5Изох Е.П., Марейев А.М.
81
Bản ảnh 1.
1-8. Nuculoidea sp.;
1. CS135Bi77, mặt ngoài mảnh trái; 2. CS135Bi76, mặt ngoài mảnh phải miền sau
bị vỡ; 3. CS135Bi70, mặt ngoài mảnh phải bảo tồn kém; 4. CS135Bi78, nhân trong
mảnh phải thể hiện vết bám cơ trước, vết bám cơ sau và đường viền áo hoàn chỉnh;
6. CS135Bi78, mặt lưng nhân trong thể hiện vết bám cơ trước và vết bám cơ sau. 7.
CS135Bi77, mặt trong thể hiện cấu tạo răng dạng răng dãy; 8. CS135Bi77, cấu tạo
răng phóng đại. Thước tỷ lệ 10mm.
9-11. Nuculoidea cf. N. yongfuensis;
9. CS135Bi72, mặt ngoài mảnh trái; 10. CS135Bi82, mặt ngoài mảnh trái và một
phần nhân trong thể hiện vết bám cơ sau; 11, CS135Bi83, mặt ngoài mảnh phải.
Thước tỷ lệ 10mm.
12-14. Nuculites sp.;
12. CS135Bi86, mặt ngoài mảnh trái với miền sau không hoàn chỉnh; 13.
CS135Bi85, mặt ngoài mảnh trái với miền sau không hoàn chỉnh; 14. CS135Bi84,
mặt trong của mảnh phải thể hiện cấu tạo răng dạng răng dãy. Thước tỷ lệ 10mm.
Bản ảnh 2.
1, 2. Sanguinolites cf. nagaolingensis
1. CS135Bi140, mặt ngoài mảnh phải với miền sau không hoàn chỉnh; 2.
CS135Bi141, mặt ngoài mảnh phải với miền sau không hoàn chỉnh. Thước tỷ lệ
20mm.
3-5. Sphenotus vanlinhensis
3. CS135Bi138, nhân trong mảnh phải; 4. CS135Bi137, khuôn ngoài mảnh phải. 5.
CS135Bi136, mặt ngoài mảnh trái, miền trước không đầy đủ và miền trước bị biến
dạng. Thước tỷ lệ 20mm.
6. Schizodus cf. S. appressus (Conrad)
6. CS135Bi125, mặt ngoài mảnh phải, miền sau không hoàn chỉnh;
7-8. Myalina sp.
82
7. CS135Bi132, mặt ngoài mảnh trái bờ bụng và bờ sau không hoàn chỉnh. Thước
tỷ lệ 20mm.
8. CS135Bi124, mặt ngoài mảnh trái không bảo tồn cánh sau và bờ sau; Thước tỷ lệ
20mm.
Bản ảnh 3.
1-6. Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927
1. CS135Bi148, mặt ngoài mảnh phải; 2. CS135Bi148, mặt lưng; 3. CS135Bi148,
mặt ngoài mảnh trái; 4. CS135Bi147, mặt ngoài mảnh phải; 5. CS135Bi147, mặt
lưng bảo tồn dây chằng; 6. CS135Bi147, mặt ngoài mảnh trái. Thước tỷ lệ 50mm.
Bản ảnh 4.
1-3. Pseudosanguinolites douvillei Patte, 1927
1. CS135Bi156, mặt trong mảnh trái cá thể chưa trưởng thành; 2. CS135Bi156, mặt
ngoài mảnh trái cá thể chưa trưởng thành; 3. CS135Bi158, mặt trong mảnh phải
không bảo tồn miền sau thể hiện rõ vết bám cơ trước và vết bám cơ sau. Thước tỷ lệ
10mm.
4. Paracyclas sp. indet; CS135Bi43, mặt ngoài mảnh trái. Thước tỷ lệ 10mm.
5-10. Paracyclas rugosa;
5. CS135Bi44, mặt ngoài mảnh trái, miền bụng bị biến dạng; 6. CS135Bi35. mặt
ngoài mảnh trái; 7. CS135Bi31, mặt ngoài mảnh trái; 8. CS135Bi169, mặt ngoài
mảnh phải; 9. CS135Bi45, A. mặt ngoài mảnh phải; B. mặt ngoài mảnh trái; 10.
CS135Bi54, A. mặt ngoài mảnh phải; B. Mytilarca cf. M. chemungensis; Thước tỷ
lệ 10mm.
Bản ảnh 5.
1-14. Mytilarca cf. M. chemungensis
1. CS135Bi142. mặt ngoài mảnh phải; 2. CS135Bi142, mặt bụng; 3. CS135Bi142,
mặt ngoài mảnh trái; 4. CS135Bi10, mặt ngoài mảnh phải; 5. CS135Bi02, mặt
ngoài mảnh phải; 6. CS135Bi12, mặt ngoài mảnh phải; 7, CS135Bi20, mặt ngoài
mảnh phải; 8. CS135Bi25, mặt ngoài mảnh phải; 9. CS135Bi14, mặt ngoài mảnh
phải; 10. CS135Bi143, mặt ngoài mảnh phải; 11. CS135Bi143, mặt bụng; 12.
83
CS135Bi143, mặt ngoài mảnh trái; 13. CS135Bi144, mặt ngoài mảnh phải; 14.
CS135Bi144, mặt bụng; 15. CS135Bi144, mặt ngoài mảnh trái; 16. CS135Bi19,
mặt ngoài mảnh trái. Thước tỷ lệ 10mm.
Bản ảnh 6.
1-8. Limoptera? cf. macroptera (Conrad), 1838
1. CS135Bi57, mặt ngoài mảnh trái không bảo tồn phần cánh sau và cánh sau mảnh
phải thể hiện rãnh và gờ của dây chằng kép (Duplivincular ligament) dọc theo bờ
lưng sau; 2. CS135Bi54, mặt ngoài mảnh trái không hoàn chỉnh; 3. CS135Bi57,
cánh sau mảnh phải thể hiện rãnh và gờ của dây chằng kép (Duplivincular
ligament). 4. CS136Bi55, mặt ngoài mảnh trái không bảo tồn miền bụng và một
phần miền sau, thể hiện đỉnh và tai trước; 5. CS135Bi47, khuôn trong mảnh trái bảo
tồn không đầy đủ miền bụng, thể hiện vết bám cơ ở miền sau; 6. CS135Bi66, cánh
sau mảnh trái thể hiện rãnh và gờ của dây chằng kép (Duplivincular ligament); 7.
CS135Bi48, khuôn trong mảnh trái bảo tồn không đầy đủ miền bụng thể hiện vết
bám cơ và dây chằng kép; 8. CS135Bi66, mặt ngoài mảnh trái bảo tồn không đầy đủ
miền bụng trước và một phần miền sau.
Bản ảnh 7.
1-8. Beichuania guangcaoziensis Liu and Gu, 1988
1. CS135Bi89, mặt trong của mảnh phải; 2. CS135Bi89, mặt trong của mảnh phải;
3. CS135Bi90, mặt bên mảnh trái; 4. CS135Bi89, mặt bên mảnh phải; 5.
CS135Bi90, bờ sau mảnh trái; 6. CS135Bi89, bờ sau mảnh phải; 7. CS135Bi90, mặt
lưng mảnh trái; 8. CS135Bi89, mặt lưng mảnh phải.
Bản ảnh 8.
1-8. Beichuania bomongensis sp. nov.
1. CS135Bi91, mặt lưng của mẫu nguyên con; 2. CS135Bi91, miền sau của mẫu
nguyên con; 3. CS135Bi91, mặt lưng mẫu nguyên con; 4. CS135Bi91, mặt bên phải
của mẫu nguyên con; 5. CS135Bi91, mặt bên mảnh trái của mẫu nguyên con; 6.
CS135Bi92, mặt bên phải của mẫu nguyên con; 7. CS135Bi92, mặt bên mảnh trái
của mẫu nguyên con; 8. CS135Bi92, mặt lưng của mẫu nguyên con.
84
Bản ảnh 9.
1-12. Beichuania bomongensis sp. nov.
1. CS135Bi93, mặt trong mảnh trái; 2. CS135Bi93, mặt bên mảnh trái; 3.
CS135Bi93, mặt lưng mảnh trái; 4. CS135Bi94, mặt trong mảnh trái; 5.
CS135Bi94, mặt bên mảnh trái; 6. CS135Bi94, mặt lưng mảnh trái; 7. CS135Bi95,
mặt trong mảnh phải; 8. CS135Bi95, mặt bên mảnh phải; 9. CS135Bi95, mặt lưng
mảnh phải; 10. CS135Bi96, mặt bên mảnh phải; 11. CS135Bi97, mặt bên mảnh
phải; 12. CS135Bi98, mặt bên mảnh phải.
Bản ảnh 10.
1-11. Beichuania sonlaensis sp. nov.
1. CS135Bi99, mặt trong mảnh trái; 2. CS135Bi100, mặt trong mảnh phải; 3.
CS135Bi99, mặt bên mảnh trái; 4. CS135Bi100, mặt bên mảnh phải; 5. CS135Bi99,
bờ sau mảnh trái; 6. CS135Bi100, bờ sau mảnh phải; 7. CS135Bi99, mặt lưng mảnh
trái; 8. CS135Bi100, mặt lưng mảnh phải; 9. CS135Bi101, mặt trong không hoàn
chỉnh của mảnh trái; 10. CS135Bi101, mặt bên không hoàn chỉnh của mảnh trái; 11.
CS135Bi102, mặt trong không hoàn chỉnh của mảnh trái.
Bản ảnh 11.
1. Euryspirifer cf. tonkinensis (Mansuy); 2. Acrospirifer sp.; 3. Guistrophia cf.
modesa Wang et Rong; 4. Euryspirifer aff. tranversus Zuong; 5-6. Phacops sp.; 7.
Gravicalymene aff. malougkaensis (Mansuy); 8-9. Syringopora?. Tất cả các ảnh x1.
85
Bảnh ảnh 1. Nuculoidea, Nuculites
86
Bảnh ảnh 2. Sanguinolites, Sphenotus, Schizodus, Myalina
87
88
Bảnh ảnh 3. Pseudosanguinolites
89
Bản ảnh 4. Pseudosanguinolites, Paracyclas
90
Bản ảnh 6. Mytilarca
91
Bản ảnh 6. Limoptera
92
Bản ảnh 7. Beichuania
93
Bản ảnh 8. Beichuania
94
Bản ảnh 9. Beichuania
95
Bản ảnh 10. Beichuania
96
Bản ảnh 11. Một số hóa thạch khác
8 9
97