ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------
Nguyễn Thị Huyền Trang
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH NHÂN LỰC KH&CN
TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHẰM HÌNH THÀNH
ĐẠI HỌC ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRƯỜNG ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội, 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------
Nguyễn Thị Huyền Trang
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH NHÂN LỰC KH&CN
TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHẰM HÌNH THÀNH
ĐẠI HỌC ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRƯỜNG ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 60340412
XÁC NHẬN HỌC VIÊN ĐÃ CHỈNH SỬA THEO GÓP Ý CỦA HỘI ĐỒNG
Giáo viên hướng dẫn
Chủ tịch hội đồng chấm luận văn thạc sĩ khoa học
PGS.TS. Đào Thanh Trường
Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Kiều Oanh
TS. Ngô Thị Kiều Oanh
Hà Nội, 2019
Để hoàn thành luận văn của mình, trước hết tác giả xin bày tỏ lòng biết
LỜI CẢM ƠN
ơn sâu sắc tới TS. Ngô Thị Kiều Oanh (Trưởng phòng Tổ chức Cán bộ),
người đã tận tâm hướng dẫn và giúp đỡ tác giả rất nhiều trong việc định
hướng nghiên cứu cũng như tinh thần làm việc, tinh thần nghiên cứu.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Vũ Cao Đàm,
TS. Trịnh Ngọc Thạch, PGS.TS. Đào Thanh Trường, nhờ sự giúp đỡ tận tình
của các thầy trong cả quá trình học tập và nghiên cứu đã giúp tác giả hoàn
thành luận văn này.
Cuối cùng, tác giả bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình và bạn bè đã ủng
hộ, tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Học viên
Nguyễn Thị Huyền Trang
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC .................................................................................................................. 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... 4
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HỘP .................................................................... 5
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................................... 8
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 12
4. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 12
5. Mẫu khảo sát ..................................................................................................... 12
6. Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................... 13
7. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................... 13
8. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 14
9. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 14
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH NHÂN LỰC KH&CN
TRONG TRƢỜNG ĐẠI HỌC............................................................................... 15
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài ................................................................ 15
1.1.1. Khái niệm về Đại học nghiên cứu ........................................................... 15
1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực KH&CN ....................................................... 19
1.1.3. Chính sách nhân lực KH&CN ................................................................. 21
1.2. Đặc điểm của nhân lực KH&CN ................................................................... 23
1.3. Vai trò của nhân lực KH&CN đối với việc hình thành ĐH ĐHNC .............. 25
1.3.1. Vai trò của nguồn nhân lực KH&CN trong hoạt động đào tạo .............. 26
1.3.2. Vai trò của nguồn nhân lực KH&CN trong nghiên cứu khoa học .......... 26
1.3.3. Vai trò của nguồn nhân lực KH&CN trong việc phục vụ xã hội ............ 27
1.4. Tiêu chí nhân lực KH&CN trong trường ĐH ĐHNC .................................... 28
Tiểu kết Chƣơng 1 .................................................................................................. 30
1
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NHÂN LỰC KH&CN
TRONG TRƢỜNG ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN ............................................... 31
2.1. Giới thiệu khái quát về Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN ...................... 31
2.1.1. Sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu chiến lược .............................................. 31
2.1.2. Định hướng phát triển ............................................................................. 33
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Trường ..................................................................... 33
2.2. Thực trạng nhân lực KH&CN của Trường ĐH KHXH&NV ........................ 33
2.2.1. Quy mô và trình độ đào tạo ..................................................................... 33
2.2.2. Cơ cấu về thâm niên nghề, giới tính, độ tuổi .......................................... 38
2.2.3. Năng lực khoa học ................................................................................... 40
2.2.4. Đánh giá nhân lực KH&CN của Trường ĐH KHXH&NV theo mô hình
ĐH ĐHNC ......................................................................................................... 43
2.3. Thực trạng Chính sách nhân lực KH&CN tại Trường ĐH KHXH&NV ...... 45
2.4. Nhận diện rào cản trong chính sách nhân lực KH&CN ................................. 53
2.4.1. Rào cản trong chính sách nhân lực KH&CN của Nhà nước .................. 53
2.4.2. Rào cản trong chính sách nhân lực KH&CN của ĐHQGHN
và Trường ĐH KHXH&NV ............................................................................... 57
2.5. Phân tích SWOT để đánh giá chính sách nhân lực KH&CN hiện nay
của Trường ĐH KHXH&NV ................................................................................ 58
2.5.1. Điểm mạnh ............................................................................................... 58
2.5.2. Điểm yếu .................................................................................................. 59
2.5.3. Cơ hội ...................................................................................................... 60
2.5.4. Thách thức ............................................................................................... 61
Tiểu kết Chƣơng 2 .................................................................................................. 63
CHƢƠNG 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
NHÂN LỰC KH&CN TRONG TRƢỜNG ĐH KHXH&NV
NHẰM HÌNH THÀNH ĐẠI HỌC ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU ................. 64
3.1. Kinh nghiệm về chính sách nhân lực KH&CN trong hệ thống giáo dục
một số nước trên thế giới....................................................................................... 64
3.1.1. Kinh nghiệm về chính sách nhân lực KH&CN trong hệ thống giáo dục
ở Singapore ........................................................................................................ 64
2
3.1.2. Kinh nghiệm về chính sách nhân lực KH&CN trong hệ thống giáo dục
ở Nhật Bản ......................................................................................................... 66
3.1.3. Kinh nghiệm về chính sách nhân lực KH&CN trong hệ thống giáo dục
ở Mỹ ................................................................................................................... 67
3.2. Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN nhằm hình thành
đại học định hướng nghiên cứu ............................................................................. 70
3.2.1. Cơ sở đề xuất giải pháp ........................................................................... 70
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN............................... 71
3.3. Điều kiện cần và đủ để hoàn thiện chính sách ............................................... 80
3.3.1. Điều kiện cần ........................................................................................... 80
3.3.2. Điều kiện đủ ............................................................................................. 82
Tiểu kết Chƣơng 3 .................................................................................................. 83
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 86
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Viết đầy đủ Viết tắt
1. Khoa học và công nghệ KH&CN
2. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ĐH KHXH&NV
3. Đại học Quốc gia Hà Nội ĐHQGHN
4. Cán bộ khoa học CBKH
5. Đại học định hướng nghiên cứu ĐH ĐHNC
6. Giáo sư GS
7. Phó Giáo sư PGS
4
8. Nghiên cứu khoa học NCKH
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HỘP
Nội dung Trang
Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN (cơ hữu) theo đơn vị 34
Bảng 2.2. Cơ cấu theo chức danh, trình độ của CBKH 36
Bảng 2.3. Số lượng GS, PGS sẽ nghỉ hưu trong 05 năm từ 2019 đến 2023 37
Bảng 2.4. Cơ cấu về thâm niên nghề của đội ngũ CBKH 38
Bảng 2.5. Cơ cấu về giới của đội ngũ CBKH 39
Bảng 2.6. Cơ cấu độ tuổi của đội ngũ nhân lực KH&CN 40
Bảng 2.7. Số lượng đề tài NCKH được ký giai đoạn 2015-2018 41
Bảng 2.8. Số lượng công trình khoa học giai đoạn 2015-2018 42
Bảng 2.9. Số lượng nhân lực KH&CN được tuyển dụng đặc cách, 46 ký HĐLĐ giai đoạn 2015-2018
Bảng 2.10. Tỷ lệ giảng viên đạt trình độ TS, chức danh GS, PGS 47
Bảng 2.11. Thống kê kinh phí khen thưởng công bố quốc tế giai đoạn 49 2014-2018
Bảng 2.12. Bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ nhân lực 50 KH&CN
Bảng 2.13. Tần suất sử dụng tiếng Anh của đội ngũ Giảng viên 51
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ diễn biến nguồn nhân lực KH&CN 37 giai đoạn 2014-2018
Biểu đồ 2.2. Biểu đồ biểu diễn chỉ số đánh giá ĐHNC của Trường ĐH 44 KHXH&NV giai đoạn 2014-2018.
Hộp 2.1. Đánh giá về tầm quan trọng của công bố quốc tế trong 48 trường đại học định hướng nghiên cứu
5
Hộp 2.2. Đánh giá thực trạng về chính sách tiền lương cho đội ngũ 56 cán bộ KH&CN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình toàn cầu hóa đang chi phối mạnh mẽ và trở thành động lực
thúc đẩy sự hội nhập của các nước vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực, trong
đó hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ (KH&CN) đang trở thành xu
thế tất yếu, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Nhiều quốc gia đang
tăng cường hợp tác, mở rộng quan hệ, hội nhập nhằm phát huy tiềm năng, nội
lực, khai thác các lợi thế, các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của
thế giới để phát triển đất nước.
Thực tiễn ngày càng khẳng định vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của
nguồn nhân lực KH&CN với sự phát triển của đất nước. Hội nhập quốc tế về
khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần thiết lập
vị thế mới của Việt Nam và được xác định là một động lực thúc đẩy các hoạt
động khoa học và công nghệ nước ta, nhằm khai thác có hiệu quả thành tựu
khoa học và công nghệ của thế giới, thu hút nguồn lực và công nghệ nước
ngoài để nâng cao và phát triển trình độ khoa học và công nghệ trong nước,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội, từng bước hội nhập vào nền kinh tế tri
thức của thế giới.
Luật Giáo dục Đại học (GDĐH) số 08/2012/QH13 được Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày
18 tháng 6 năm và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2013, đã xác định rõ
chủ trương của Nhà nước về xây dựng một hệ thống GDĐH có tính chất đa
dạng, với những loại trường khác nhau nhằm thực hiện những sứ mạng khác
nhau và đáp ứng những nhu cầu khác nhau của xã hội. Cơ sở giáo dục đại học
được phân tầng thành ba loại: Trường đại học định hướng nghiên cứu, trường
đại học định hướng ứng dụng, trường đại học định hướng thực hành. Trong đó,
6
trường đại học định hướng nghiên cứu có vai trò đặc biệt trong việc duy trì sự
ưu tú, tạo ra những kiến thức mới, ý tưởng mới, sáng tạo mới nhằm dẫn dắt tiến
bộ xã hội cũng như thúc đẩy sự giàu mạnh của quốc gia [1].
Do vậy, các trường đại học muốn đổi mới sáng tạo và bảo đảm chất
lượng đào tạo cần phải coi trọng hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc biệt là
định hướng trở thành trường đại học nghiên cứu trong tương lai. Trong đó,
chất lượng đào tạo, thành tích nghiên cứu khoa học và hội nhập quốc tế được
xem là những tiêu chí quan trọng hàng đầu.
Trường đại học trong bối cảnh đổi mới, hội nhập không thuần túy là
trang bị kiến thức cho người học mà còn phải định hướng, dẫn dắt để tạo ra
nguồn lực chất lượng cao đáp ứng và phục vụ tốt cho xã hội. Muốn vậy, đội
ngũ người thầy - các nhà khoa học phải nâng cao trình độ, năng lực của mình,
phải thực hiện hài hòa giữa nhiệm vụ nghiên cứu và giảng dạy, nghiên cứu để
phục vụ giảng dạy tốt hơn, không còn phong cách thầy chỉ nói những gì thầy
đã có, đã nghiên cứu mà thầy phải luôn luôn cập nhật, nghiên cứu tri thức mới
để phục vụ công tác giảng dạy.
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhân lực
KH&CN, đặc biệt chính sách đối với đội ngũ giảng viên, nhà khoa học trong
các trường đại học. Tuy vậy, nhân lực KH&CN trong các trường Đại học vẫn
còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc, các chính sách vẫn có những rào cản
với nhân lực KH&CN tại các trường Đại học.
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội là một “trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học chất lượng cao; cung ứng
nguồn nhân lực trình độ cao và có bản sắc riêng trong lĩnh vực khoa học xã
hội và nhân văn; cung cấp các sản phẩm khoa học làm cơ sở cho việc hoạch
định chính sách xã hội; góp phần tạo dựng vị thế của KHXH&NV Việt Nam
trong khu vực”. Việc hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN trong Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nhằm hình thành đại học định hướng
7
nghiên cứu cần nghiên cứu trên cơ sở đánh giá đầy đủ về thực trạng chính
sách nhân lực KH&CN, từ đó đưa ra các cơ sở khoa học và thực tiễn để đề
xuất hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN của Nhà trường.
Với những lý do đó, tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện chính sách nhân lực
KH&CN trong trường đại học nhằm hình thành đại học định hướng nghiên
cứu”. (Nghiên cứu trường hợp Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN) làm đề
tài nghiên cứu của Luận văn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có các công trình nghiên cứu về mô hình trường
ĐHNC và chính sách nhân lực KH&CN có thể kể đến các công trình sau:
- Bommel, Bas van (2015-12-14). "Between Bildung and 'Wissenschaft':
The 19th-Century German Ideal of Scientific Education German Education and
Science". Europäische Geschichte Online. Tác giả đã đưa ra khái niệm có ảnh
hưởng nhất trong lịch sử đại học Đức là "sự thống nhất giữa giảng dạy và
nghiên cứu". Từ cuối thế kỷ 19 trở đi, các cơ sở và cải cách đại học cả trong và
ngoài Europe đã được truyền cảm hứng từ ý tưởng - nguyên gốc của Đức -
rằng các trường đại học không chỉ nhắm đến việc truyền thụ kiến thức bằng
phương tiện giáo dục, mà còn tăng cường nó bằng cách khoa học nghiên cứu.
Trong thời đại chúng ta, việc tích hợp giảng dạy và nghiên cứu trong các tổ
chức giáo dục đại học vẫn được theo đuổi rộng rãi và thường được coi là di sản
trung tâm của trường đại học Đức.
- Philip G. Altbach and Jamil Salmi, The road to academic Excellence
(Con đường dẫn đến sự ưu tú trong học thuật), The making of world-class
research Universities, The World Bank, 2011. Các nghiên cứu được đề cập
trong cuốn sách cho thấy một cách tiếp cận nhanh hơn và hiệu quả hơn để đạt
được vị thế đại học đẳng cấp thế giới là thành lập một tổ chức mới. Các
trường đại học mới có thể phát triển thành các tổ chức nghiên cứu chất lượng
cao trong vòng hai hoặc ba thập kỷ khi tài năng, tài nguyên và quản trị được
8
liên kết đầy đủ ngay từ đầu.
- Steven Sample (2 December 2002). "The Research University of the
21st Century: What Will it Look Like?". University of Southern California.
Retrieved 8 August 2018. Bài viết đã trả lời câu hỏi một trường đại học
nghiên cứu là một trường đại học trong đó nghiên cứu ban đầu và học bổng là
một phần chính và không thể thiếu trong sứ mệnh của trường đại học. Các
giảng viên trong một trường đại học nghiên cứu không chỉ đơn giản là truyền
giảng các tác phẩm của người khác, mà là những người đóng góp tích cực cho
những gì họ được giảng dạy, suy nghĩ và thực hành trên khắp thế giới.
- Menand, Louis; Reitter, Paul; Wellmon, Chad (2017). "General
Introduction". The Rise of the Research University: A Sourcebook. Chicago:
University of Chicago Press. pp. 2-3. ISBN 9780226414850. Archived from
the original on 15 February 2017. Retrieved 25 January 2017. Cuốn sách đã
đưa ra một bức chân dung dễ tiếp cận của trường đại học nghiên cứu ban đầu,
cung cấp những hiểu biết vô giá về sự phát triển lịch sử của học tập và vai trò
của nó trong xã hội hiện đại.
Các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra một bức tranh tương đối rõ
nét về mô hình đại học nghiên cứu và con đường để đi đến xây dựng một
trường ĐHNC của một quốc gia thông qua việc nghiên cứu các mô hình
ĐHNC truyền thống và lâu đời cũng như các trường ĐHNC mới nổi để so
sánh con đường và kinh nghiệm xây dựng các trường ĐHNC.
2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
Chính sách nhân lực KH&CN là những vấn đề được rất nhiều cơ quan
và nhà khoa học trong nước nghiên cứu và đề xuất. Một số công trình nghiên
cứu có thể kể đến như:
- Công trình nghiên cứu của Nguyễn Kiều Oanh (2007), với đề tài“Các
biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng cán bộ, giảng viên của Đại học Quốc
gia Hà Nội”. Đề tài nghiên cứu góp phần cung cấp thêm các cơ sở khoa học
và thực tiễn để ĐHQGHN tiếp tục hoàn thiện quy trình đào tạo, bồi dưỡng đội
9
ngũ cán bộ, giảng viên nhằm đạt các mục tiêu về đội ngũ cán bộ trong kế
hoạch chiến lược phát triển ĐHQGHN đề ra. Tuy nhiên về vấn đề chính sách
phát triển nguồn nhân lực KH&CN như chính sách tuyển dụng, chính sách
trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học… chưa được chú trọng trong nghiên cứu
nghiên cứu này.
- “Quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức”- Nxb Giáo dục (2009) của
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Quân và Ths. Nguyễn Tấn Thịnh, tác giả đã đưa ra
các khái niệm, nội dung cơ bản của hoạt động quản lý nhân lực từ lúc hình
thành nguồn nhân lực đến việc tổ chức sử dụng có hiệu quả và phát triển
nguồn nhân lực đó.
- “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”, Nxb Khoa học xã hội (2005) của Nguyễn Hữu Thanh đã đưa ra
tình hình phát triển nguồn nhân lực và các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy
nhiên, những chính sách đối với đội ngũ cán bộ khoa học ở đây chưa phải là
nghiên cứu hướng tới môi trường đại học ĐHNC.
- Công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Hạnh (2010) với đề tài “Chính
sách phát triển nhân lực KH&CN để xây dựng Trường Đại học Công nghiệp
Hà Nội”. Đề tài đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực
KH&CN thích hợp đối với Trường Đại học Công nghiệp. Nghiên cứu này chú
trọng vào việc xác định các ngành nghề mũi nhọn, các ngành nghề ưu tiên
trước mắt cho Trường Đại học Công nghiệp để phù hợp với yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
- Công trình nghiên cứu của Nguyễn Đăng Khoa (2013), với đề tài
“Quản lý phát triển nguồn nhân lực KH&CN tiếp cận chuẩn quốc tế tại Đại
học Quốc gia Hà Nội giai đoạn 2012 - 2020”. Công trình đã cung cấp cơ sở
lý luận và thực tiễn phù hợp với định hướng phát triển ĐHQGHN trong thời
10
gian tới, tuy nhiên những phân tích chỉ đưa đến cơ sở khoa học để xây dựng
các giải pháp mà chưa tập trung xây dựng hệ thống những giải pháp cụ thể để
phát triển nguồn nhân lực KH&CN.
- Công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Chi (2010), với đề tài
“Đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay”. Công trình đã đưa ra hệ
thống cơ sở lý luận chung về công tác đào tạo nguồn nhân lực. Công trình
cũng chỉ ra một số hạn chế và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn.
- Công trình nghiên cứu của Trần Thị Huyền (2014), với đề tài “Chính
sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN trong trường Đại học theo định
hướng đại học nghiên cứu, (nghiên cứu trường hợp trường Đại học Khoa học
Tự nhiên”. Công trình đã định vị Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại
học Quốc gia Hà Nội trong nấc thang bước tới đại học nghiên cứu và đề xuất
các nhóm giải pháp và nhóm điều kiện cần thiết áp dụng vào thực tế xây dựng
và phát triển Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
thành đại học nghiên cứu tiên tiến. Tuy nhiên, trong thời kỳ cách mạng công
nghiệp lần thứ tư hiện nay, các trường đại học đang vừa phải thích ứng, đồng
thời phát huy các lợi thế và tiếp tục hoàn thiện sứ mệnh mới đòi hỏi việc hoàn
thiện chính sách nhân lực KH&CN xem như một giải pháp cấp thiết trên con
đường xây dựng ĐH ĐHNC. Ở luận văn này chỉ dừng lại ở các giải pháp
chung cho phát triển đội ngũ nhân lực chứ chưa nhận diện rào cản cản trở
trường đại học trở thành ĐH ĐHNC ở Việt Nam. Do đó, chưa có giải pháp
mang tính đột phá để thúc đẩy Trường ĐH KHTN sớm trở thành ĐHNC.
Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy đã có những tài liệu viết về phát triển
nguồn nhân lực KH&CN, tuy nhiên một số nghiên cứu mới chỉ dừng ở mức
độ nhất định. Hiện nay, chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể chỉ ra rằng tại sao
một trường đại học ở Việt Nam chưa thực sự hình thành đại học định hướng
nghiên cứu, rào cản nào cản trở trường đại học ở Việt Nam hình thành đại học
11
định hướng nghiên cứu, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào đề xuất giải pháp
hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN trong trường đại học nhằm hình
thành đại học định hướng nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:
Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN trong
trường Đại học nhằm hình thành đại học định hướng nghiên cứu - nghiên cứu
trường hợp Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách nhân lực KH&CN trong
trường ĐH;
- Khảo sát, đánh giá thực trạng nhân lực KH&CN và thực trạng chính
sách nhân lực KH&CN trong trường đại học (nghiên cứu trường hợp Trường
ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN);
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN trong
trường đại học nhằm hình thành đại học định hướng nghiên cứu – nghiên cứu
trường hợp Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu về chính sách nhân lực
KH&CN trong trường đại học nhằm hình thành đại học định hướng nghiên cứu.
- Phạm vi về thời gian: 05 năm (từ năm 2014 đến năm 2018)
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu tại Trường ĐH KHXH&NV,
ĐHQGHN.
5. Mẫu khảo sát
- Chính sách nhân lực KH&CN của Trường ĐH KHXH&NV trong giai
đoạn 2014-2018.
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp Trường, Khoa, Trường ĐH KHXH&NV
12
- Giảng viên, nhà khoa học của Trường ĐH KHXH&NV.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Chính sách nhân lực KH&CN của Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn sẽ được hoàn thiện như thế nào để phát triển Nhà trường theo đại
học định hướng nghiên cứu?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết chủ đạo
Chính sách nhân lực KH&CN trong trường đại học hiện tại có những
rào cản cản trở việc các trường đại học hình thành đại học định hướng nghiên
cứu. Chính sách nhân lực KH&CN trong trường đại học phải xem xét tới
những đặc điểm của hoạt động nghiên cứu khoa học để tránh vi phạm tính
mới, tính rủi ro trong nghiên cứu khoa học.
Hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN nhằm hình thành đại học định
hướng nghiên cứu tập trung vào những vấn đề trọng tâm:
Tuyển dụng, thu hút: tập trung vào hình thức thu hút nguồn nhân lực
chất lượng cao, thu hút nguồn nhân lực ảo.
Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học: Tập trung vào các chính sách
nhằm tăng cường công bố quốc tế, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ.
Hoàn thiện chính sách lương, đãi ngộ, tạo môi trường làm việc thuận
lợi cho đội ngũ nhân lực KH&CN, xây dựng các chính sách tạo động lực cả
về vật chất và tinh thần cho nguồn nhân lực KH&CN theo định hướng
ĐHNC.
Hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng: đổi mới chính sách đào tạo
bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, năng lực ngoại ngữ và kỹ năng cho nguồn
nhân lực KH&CN theo định hướng ĐHNC.
Hoàn thiện chính sách sử dụng, quy hoạch, phát triển đội ngũ nhân lực
13
KH&CN theo định hướng ĐHNC.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu tài liệu về nhân lực,
nhân lực KH&CN, tài liệu về chính sách nhân lực, đại học nghiên cứu, các
tạp chí về KH&CN, các đề tài NCKH, luận văn, luận án.
Nhằm: Khái quát cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu; nhận diện chính
sách và làm cơ sở đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia, nhà quản lý: Phỏng vấn các
chuyên gia nhằm khảo sát và đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và chính
sách nhân lực KH&CN của Trường ĐH KHXH&NV; Đánh giá những khuyến
nghị về hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN trong Trường ĐH KHXH&NV
nhằm hình thành đại học định hướng nghiên cứu.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu trúc 3 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về chính sách nhân lực KH&CN trong trường
đại học.
Chƣơng 2. Thực trạng chính sách nhân lực KH&CN trong Trường ĐH
KHXH&NV, ĐHQGHN
Chƣơng 3. Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN
14
trong trường ĐH KHXH&NV nhằm hình thành đại học định hướng nghiên cứu.
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH
NHÂN LỰC KH&CN TRONG TRƢỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm về Đại học nghiên cứu
Trong chương 1, để làm rõ cơ sở lý luận về chính sách nhân lực
KH&CN trong trường đại học nhằm hình thành đại học định hướng nghiên
cứu, trước tiên tác giả khảo sát các khái niệm cơ bản về đại học nghiên cứu
trên thế giới và khái niệm về đại học định hướng nghiên cứu ở Việt Nam.
Trường đại học nghiên cứu là trường đại học cam kết nghiên cứu giữ
một phần vai trò trung tâm trong nhiệm vụ của nó, không quan trọng là
trường công hay trường tư, hoặc nghiên cứu được tài trợ như thế nào [32][33].
Các trường đại học như vậy tập trung mạnh vào nghiên cứu và thường là
những trường có tên tuổi nổi tiếng. Các khóa học đại học tại nhiều trường đại
học nghiên cứu thường mang tính học thuật hơn là dạy nghề và có thể không
trang bị cho sinh viên đáp ứng các ngành nghề đặc biệt, nhưng nhiều nhà
tuyển dụng đánh giá cao bằng cấp từ các trường đại học nghiên cứu vì họ dạy
các kỹ năng sống cơ bản như tư duy phản biện. Trên thế giới, các trường đại
học nghiên cứu chủ yếu là các trường đại học công lập, ngoại trừ ngoại lệ
đáng chú ý là tại Hoa Kỳ và Nhật Bản [36].
Một trường đại học nghiên cứu cũng có thể kết hợp cả hai chức năng,
tổ chức một trường đại học nghệ thuật tự do cho sinh viên đại học trong khi
vẫn duy trì sự tập trung cao độ vào nghiên cứu trong các chương trình cấp
bằng sau đại học, như thường thấy ở các tổ chức Ivy League của Mỹ.
Khái niệm về trường đại học nghiên cứu hiện đại xuất hiện lần đầu tiên
ở Đức đầu thế kỷ 19, nơi mà Von Humboldt đã bảo vệ tầm nhìn của ông về
15
Einheit von Lehre und Forschung (sự thống nhất trong giảng dạy và nghiên
cứu), như một phương tiện sản xuất một nền giáo dục tập trung vào chính lĩnh
vực kiến thức (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn) thay vì các
mục tiêu trước đây của giáo dục đại học, đó là phát triển sự hiểu biết về sự
thật, vẻ đẹp và lòng tốt [37][38].
Roger L. Geiger, một nhà sử học chuyên về lịch sử giáo dục đại học ở
Hoa Kỳ, đã lập luận rằng "mô hình cho trường đại học nghiên cứu Mỹ được
thành lập bởi năm trường cao đẳng thuộc địa được thuê trước Cách mạng Mỹ
(Harvard, Yale, Pennsylvania, Princeton và Columbia), năm trường đại học
của tiểu bang (Michigan, Wisconsin, Minnesota, Illinois và California) và
năm tổ chức tư nhân được hình thành từ khi thành lập trường đại học nghiên
cứu (MIT, Cornell, Johns Hopkins, Stanford và Chicago). Từ những năm
1960, các trường đại học nghiên cứu của Mỹ và đặc biệt hệ thống đại học
nghiên cứu công lập hàng đầu của Mỹ, Đại học California đã được dùng làm mô hình cho các trường đại học nghiên cứu trên toàn thế giới [39][40].
Các đặc điểm của ĐHNC thành công đã được John Taylor định nghĩa [34]:
- Sự hiện diện của nghiên cứu thuần túy và ứng dụng
- Phân phối giảng dạy dựa trên nghiên cứu
- Bề rộng của các ngành học
- Tỷ lệ cao của các chương trình nghiên cứu sau đại học
- Mức thu nhập bên ngoài cao
- Một viễn cảnh quốc tế
Theo Philip Altbach thì định nghĩa các trường đại học nghiên cứu cần
để thành công là một tập hợp các đặc điểm chính khác nhau như: [41]
- Đứng đầu hệ thống phân cấp học thuật trong một hệ thống giáo dục đại
học khác biệt và nhận được sự hỗ trợ phù hợp
- Các tổ chức công cộng lớn
- Ít cạnh tranh từ các tổ chức nghiên cứu phi đại học, trừ khi chúng có
16
kết nối chuỗi với các trường đại học
- Tài trợ nhiều hơn các trường đại học khác để thu hút nhân viên và sinh
viên tốt nhất và hỗ trợ cơ sở hạ tầng nghiên cứu
- Ngân sách đầy đủ và bền vững
- Tiềm năng tạo thu nhập từ học phí và sở hữu trí tuệ
- Cơ sở vật chất phù hợp
- Quyền tự trị
- Tự do học thuật
Một báo cáo của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia năm 2012 đã xác
định các trường đại học nghiên cứu, trong bối cảnh Hoa Kỳ, có các giá trị về
tự do trí tuệ, sáng kiến và sáng tạo, xuất sắc và cởi mở, với các đặc điểm bổ
sung như: [42]
- Lớn và toàn diện - "đa dạng" của Clark Kerr
- Nhấn mạnh kinh nghiệm cư trú đại học (được gắn cờ đặc biệt là phân
biệt các trường đại học nghiên cứu của Hoa Kỳ với các trường đại học
ở lục địa châu Âu)
- Kết hợp giáo dục sau đại học với nghiên cứu
- Có giảng viên tham gia nghiên cứu và học bổng
- Tiến hành nghiên cứu ở cấp độ cao
- Có giác ngộ và lãnh đạo táo bạo
Theo Tuyên ngôn Hợp phì: “Các trường ĐHNC được định nghĩa bởi
những cam kết nghiêm túc và xuyên suốt của họ với hoạt động nghiên cứu
khoa học; bởi sự ưu tú, bởi bề rộng và khối lượng những kết quả nghiên cứu
của họ; và bởi cách thức văn hóa khoa học thẩm thấu, lan tỏa trong mọi hoạt
động của họ, từ giảng dạy, nghiên cứu đến gắn kết với giới doanh nghiệp, với
chính phủ và với cộng đồng xã hội. Việc đào tạo bậc ĐH ở các trường ĐHNC
được hưởng lợi to lớn từ những cơ hội mà nhà trường mang lại cho sinh viên
trong những lớp học hay phòng thí nghiệm với các giáo sư và nghiên cứu sinh
17
đang làm việc ở tuyến đầu của tri thức. Đào tạo sau ĐH ở các trường ĐHNC
được làm cho phong phú thêm nhờ sự gắn kết trực tiếp và mạnh mẽ của các
nghiên cứu sinh trong việc thực hiện nghiên cứu, còn chất lượng và năng suất
của hoạt động nghiên cứu trong trường thì được lợi rất nhiều nhờ sự sáng tạo
và năng lượng của các nghiên cứu sinh. Các trường ĐHNC thường chỉ là số ít
trong hệ thống giáo dục ĐH của mỗi nước, nhưng bao giờ cũng chiếm một
phần đáng kể thành quả nghiên cứu của quốc gia”[18].
Luật Giáo dục Đại học (GDĐH) số 08/2012/QH13 được Quốc hội
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông
qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2013
và Luật Giáo dục Đại học sửa đổi số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giáo dục Đại học được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 19 tháng 11 năm
2018 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2019, quy định căn cứ vào
năng lực và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, cơ sở giáo dục đại học xác
định mục tiêu phát triển, định hướng hoạt động như sau: Cơ sở giáo dục đại
học định hướng nghiên cứu và cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng.
Trong đó, cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu có vai trò đặc biệt
trong việc duy trì sự ưu tú, tạo ra những kiến thức mới, ý tưởng mới, sáng
tạo mới nhằm dẫn dắt tiến bộ xã hội cũng như thúc đẩy sự giàu mạnh của
quốc gia [1],[2].
Người thầy trong các trường ĐH ĐHNC không chỉ là những người
nghiên cứu giỏi mà còn phải có cách đào tạo giỏi, đào tạo qua nghiên cứu và
cho nghiên cứu. Nói một cách khái quát, trong ÐHNC, hàm lượng NCKH rất
cao trong mọi lĩnh vực hoạt động. Trường đại học, nhất là các ĐHNC là nơi
giao thoa của ba chức năng: Đào tạo, NCKH, phục vụ xã hội và sự kết hợp
chặt chẽ ba chức năng này hiện nay cũng là xu hướng cơ bản trong chiến lược
phát triển giáo dục đại học của các nước trên thế giới. Các trường đại học
18
không chỉ là trung tâm đào tạo mà đã thực sự trở thành các trung tâm NCKH,
sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ
mới hiện đại. Trong đó, NCKH và phục vụ thực tiễn vừa là phương tiện (học
qua NC), vừa là mục đích (học cho NC) vừa là động lực để đào tạo, nhất là
đào tạo chất lượng cao.
1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực KH&CN
Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) [43], thì nhân lực
KH&CN bao gồm những người đáp ứng được một trong những điều kiện
sau đây:
- Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng và làm việc trong một ngành
KH&CN;
- Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng không làm việc trong một
ngành KH&CN nào;
- Chưa tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng làm một công việc trong
lĩnh vực KH&CN đòi hỏi trình độ tương đương.
Đây chính là khái niệm nhân lực KH&CN theo nghĩa rộng. Theo đó, có
thể hiểu nhân lực KH&CN bao gồm cả những người đã tốt nghiệp đại học
nhưng không làm việc trong lĩnh vực KH&CN. Khái niệm này dường như
quá rộng để thể hiện nguồn nhân lực hoạt động KH&CN của một quốc gia.
Do vậy, các nước thường sử dụng khái niệm nhân lực nghiên cứu phát
triển (NCPT), hay còn gọi là R&D (research and development), để thể hiện
lực lượng lao động KH&CN của mình.
Theo cuốn Cẩm nang FRASCATI - Hướng dẫn thống kê nghiên cứu
phát triển của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), nhân lực nghiên
cứu phát triển bao gồm những người trực tiếp tham gia vào hoạt động nghiên
cứu phát triển hoặc trực tiếp hỗ trợ hoạt động nghiên cứu phát triển. Nhân lực
nghiên cứu phát triển được chia thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Các nhà nghiên cứu khoa học (nhà nghiên cứu/nhà khoa
19
học/kỹ sư nghiên cứu): đây là những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp có trình
độ cao đẳng/đại học, thạc sĩ và tiến sĩ hoặc không có văn bằng chính thức,
song họ vẫn thường xuyên làm các công việc tương đương như nhà nghiên
cứu/nhà khoa học, tham gia vào quá trình tạo ra tri thức, sản phẩm và quy
trình mới, tạo ra phương pháp và hệ thống mới.
Nhóm 2: Nhân viên kỹ thuật và tương đương: nhóm này bao gồm
những người thực hiện các công việc đòi hỏi phải có kinh nghiệm và hiểu biết
kỹ thuật trong những lĩnh vực của khoa học và công nghệ. Họ tham gia vào
nghiên cứu phát triển bằng việc thực hiện những nhiệm vụ khoa học và kỹ
thuật có áp dụng những khái niệm và phương pháp vận hành dưới sự giám sát
của các nhà nghiên cứu khoa học nhóm 1 như đã nêu trên.
Nhóm 3: Nhân viên phụ trợ trực tiếp nghiên cứu phát triển: bao gồm
những người có hoặc không có kỹ năng, nhân viên hành chính văn phòng
tham gia vào các dự án nghiên cứu phát triển. Trong nhóm này bao gồm cả
những người làm việc liên quan đến nhân sự, tài chính và hành chính trực
tiếp phục vụ công việc nghiên cứu phát triển của các tổ chức nghiên cứu
phát triển.
Theo định nghĩa của UNESCO [44], nguồn nhân lực KH&CN là những
người trực tiếp tham gia vào hoạt động KH&CN trong đơn vị và được trả
lương hay thù lao cho sự tham gia đó. Những người này bao gồm các nhà
khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân viên hỗ trợ.
Liên quan đến chuẩn quốc tế về thống kê KH&CN, UNESCO đề xuất
khái niệm “Tổng nhân lực có trình độ chuyên môn” và “Nhân lực có trình độ
chuyên môn đang làm việc” như sau [44][45].
- Tổng nhân lực có trình độ chuyên môn của một quốc gia/vùng lãnh
thổ bao gồm những người có đủ trình độ chuyên môn như đối với các “nhà
khoa học và kỹ sư” và “kỹ thuật viên”, không phân biệt lĩnh vực hoạt động,
tuổi, giới tính, dân tộc... có mặt tại quốc gia/vùng lãnh thổ trong một thời
20
điểm nhất định.
- Nhân lực có trình độ đang làm việc bao gồm những người có đủ trình
độ như đối với các “nhà khoa học và kỹ sư” hoặc “kỹ thuật viên” đang làm
việc hoặc đang tìm việc làm, tại một thời điểm nhất định.
Phạm vi khái niệm “Tổng nhân lực có trình độ chuyên môn” của
UNESCO có phạm vi rộng hơn khái niệm “Nguồn nhân lực KH&CN” của
OECD: bao gồm tất cả những người có đủ trình độ như đối với các “nhà
khoa học và kỹ sư” và “kỹ thuật viên”, tức là bao gồm những người có trình
độ từ trung cấp và tương đương trở lên, trong khi “Nguồn nhân lực
KH&CN” theo OECD chỉ bao gồm những người có trình độ từ cao đẳng và
tương đương trở lên.
Theo tiếp cận về nguồn nhân lực KH&CN của OECD thì nguồn nhân
lực KH&CN trong các trường đại học là đội ngũ thường xuyên làm các công
việc tương đương như nhà nghiên cứu/nhà khoa học, tham gia vào quá trình
tạo ra tri thức, sản phẩm và quy trình mới, tạo ra phương pháp và hệ thống
mới. Ở luận văn này, nhân lực KH&CN tác giả đề cập đến bao gồm các giảng
viên, nghiên cứu viên, giảng viên kiêm nhiệm ở trường đại học.
1.1.3. Chính sách nhân lực KH&CN
a. Khái niệm về chính sách
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như
sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.
Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực
cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc
vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Theo James E. Anderson thì “chính sách là quá trình hoạt động có mục
tiêu, mà hoặc một số chủ thể theo đuổi, để giải quyết vấn đề mà họ quan tâm" [46]
Nhƣ vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các
nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc
21
phạm vi thẩm quyền của mình.
Theo tác giả Vũ Cao Đàm:“Chính sách là một tập hợp biện pháp được
thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó
tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động
của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên
nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” [28].
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những thang bậc khác
nhau ví dụ như: chính sách của Chính phủ, chính sách của chính quyền địa
phương, chính sách của một bộ, chính sách của một doanh nghiệp, chính sách
của một trường đại học…
b. Chính sách nhân lực KH&CN trong trường đại học
Chính sách nhân lực KH&CN trong các trường đại học là hệ thống các
văn bản, quy định được ban hành cho chính đối tượng nhân lực KH&CN, đó
là những người làm những công việc liên quan đến các hoạt động giảng dạy,
NCKH, chuyển giao công nghệ. Đội ngũ này bao gồm các giảng viên, nghiên
cứu viên, cán bộ kỹ thuật có trình độ trung cấp, cao đẳng, kỹ sư, cử nhân, thạc
sĩ và tiến sĩ.
Chính sách nhân lực KH&CN cũng bao gồm những chính sách như
chính sách cho đội ngũ nhân lực nói chung đó là: Chính sách tuyển dụng và
thu hút, chính sách đào tạo và bồi dưỡng, chính sách đánh giá, khen thưởng;
chính sách trọng dụng, sử dụng… nhưng điểm khác về chính sách nhân lực
KH&CN ở đề tài này là chính sách phải gắn với việc hình thành ĐH ĐHNC.
Mục tiêu của chính sách nhân lực KH&CN trong trường đại học đó là: Thu
hút được sự tham gia của các nhà KH&CN giỏi vào các hoạt động KH&CN;
Chính sách phải đảm bảo lợi ích của nhà khoa học, trả thù lao theo chất xám,
trình độ và kết quả làm việc; tạo môi trường tự do về học thuật, thể hiện sáng
tạo, tự chủ về giờ làm việc; có điều kiện tiếp cận với công cụ sáng tạo cần
thiết để thử nghiệm; linh hoạt trong quyết định hướng nghiên cứu; chấp nhận
cá tính; khen thưởng, đánh giá và tôn vinh đúng mực. Linh hoạt trong việc
22
chuyển đổi, sử dụng nguồn nhân lực KH&CN.
Ở những quốc gia đã xây dựng thành công ĐH ĐHNC, môi trường vĩ
mô về chính trị, kinh tế của quốc gia và những quy định, mức độ tài trợ của
ngân sách, tự do học thuật, sự an toàn của môi trường làm việc trong nhà
trường đều là điều ảnh hưởng trực tiếp tạo ra hiệu quả sản phẩm KH&CN của
trường đại học hoạt động theo mô hình ĐH ĐHNC.
1.2. Đặc điểm của nhân lực KH&CN
Ngoài những tính chất chung của nhân lực lao động xã hội, nhân lực
KH&CN có những nét đặc trưng riêng là:
- Lao động khoa học là lao động bằng trí tuệ, vì vậy năng suất lao động
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực trí tuệ của đội ngũ nhân lực khoa học..
Cường độ lao động nhiều khi được tập trung cao độ và không chỉ diễn ra
trong giờ hành chính mà còn diễn ra trong toàn bộ thời gian sống của nhà
khoa học. Do đó xem xét điều kiện và môi trường lao động khoa học là cần
thiết trong đánh giá tổ chức KH&CN.
- Vai trò cá nhân của nhà khoa học có tính chất quyết định năng suất
lao động KH&CN. Trong thời đại ngày nay có nhiều công trình khoa học đòi
hỏi sự tham gia cộng tác của nhiều người, song kết quả tổng hợp cuối cùng và
chất lượng công trình do người chủ trì cũng như nhân lực khoa học đầu đàn
quyết định. Do đó, trong quản lý nguồn nhân lực KH&CN cần quan tâm đến
chất lượng hơn là số lượng.
- Tính kế thừa và tính cộng đồng trong hoạt động KH&CN: Các nhà
KH&CN luôn được hưởng ân huệ là kế thừa trực tiếp hay gián tiếp các thông
tin và kinh nghiệm hoạt động KH&CN của lớp người đi trước. Mặt khác, nhà
khoa học còn được thừa hưởng những thông tin khoa học từ kho tàng tri thức
của nhân loại và tri thức khoa học từ cộng đồng khoa học trên thế giới. Không
có nguồn tri thức này, khoa học không thể lớn mạnh được. Do đó quyền tự do
trao đổi khoa học trong cộng đồng khoa học là không có giới hạn và cần phải
23
có sự liên kết, trao đổi lẫn nhau trong cộng đồng khoa học.
- Tính rủi ro cao trong hoạt động khoa học: Nhà khoa học thường phải
chịu nhiều rủi ro trong quá trình nghiên cứu. Vì vậy cần có những đánh giá
đúng đắn về thành công hay thất bại của nhà khoa học và hiểu được những
khó khăn trong lao động sáng tạo của họ.
- Tính mới, không lặp lại trong NCKH: Mục tiêu của hệ thống khoa
học là luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới vì vậy nhà khoa học không nên theo
một lối mòn có sẵn. Đặc trưng này tạo nên sự biến động trong các tập thể
NCKH và trong các tổ chức khoa học, sự thay thế nhân lực KH&CN khác
nhau và đào thải nhân lực nghiên cứu không còn đáp ứng được nhu cầu sáng
tạo của tổ chức để nhường chỗ cho những nhân lực KH&CN năng động và
sáng tạo hơn.
- Tồn tại khoảng cách giữa kết quả NCKH và việc ứng dụng/áp dụng
kết quả đó vào sản xuất và đời sống xã hội: Trong lịch sử phát triển KH&CN
đã có rất nhiều công trình khoa học có giá trị vô cùng to lớn nhưng cũng rất
chậm được nhận biết và đánh giá, nhiều khi phải mất một thời gian khá dài
mới được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, với sự phát triển của
khoa học hiện đại và nhu cầu ngày càng cao, càng nhiều của con người thì
khoảng cách này được rút ngắn dần. Chúng ta có thể xem lại một số kết quả
NCKH và thời điểm áp dụng của chúng trong đời sống: đặc thù này liên quan
đến việc đánh giá các kết quả NCKH và đánh giá các nhà khoa học. Trong
lịch sử khoa học, có nhiều thành tựu khoa học vĩ đại nhưng phải mất rất nhiều
năm sau đó để có thể nhận biết được giá trị của các nghiên cứu này.
- Thiết bị nghiên cứu có quan hệ mật thiết với kết quả NCKH: Khoa
học ngày nay đã phát triển lên một trình độ khá cao và ngày càng đòi hỏi
những phương tiện nghiên cứu tiên tiến. Do vậy, để các nhà khoa học có thể
đem lại những thành tựu khoa học có giá trị thì việc đầu tư vào trang thiết bị
24
của tổ chức KH&CN là một yêu cầu bức thiết.
Do nguồn nhân lực KH&CN có những nét đặc trưng riêng như trên là
nguồn nhân lực chất lượng cao, luôn chịu nhiều rủi ro trong quá trình nghiên
cứu, luôn phải tìm tòi sáng tạo cái mới…Nên chính sách dành cho đội ngũ
này cũng phải có sự khác biệt với chính sách dành cho đội ngũ nhân lực nói
chung, để tạo động lực cho các nhà khoa học làm việc, cống hiến, không
phạm phải tính mới, tính rủi ro trong hoạt động nghiên cứu khoa học của họ.
Chính sách hiện có đối với cán bộ khoa học và công nghệ còn mang
nặng tính bình quân, chưa toàn diện, chưa tạo động lực cống hiến và phát huy
năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ, nhất là người có
trình độ cao, tài năng trẻ và người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước
ngoài. Thời gian vừa qua, tuy một số chính sách mới được ban hành, trong đó
có chính sách trọng dụng với nhóm những nhà khoa học có trình độ cao, có
thâm niên hoặc tài năng, song tính đột phá còn hạn chế, còn nặng về thủ tục
hành chính, vẫn bị ràng buộc bởi những quy định chung về cơ chế tài chính, về
khung chính sách dành cho viên chức nói chung. Hoạt động khoa học và công
nghệ có tính đặc thù nhưng chế độ sử dụng nhân lực trong lĩnh vực này đến nay
chưa có nhiều khác biệt so với nhân lực trong các lĩnh vực khác.
1.3. Vai trò của nhân lực KH&CN đối với việc hình thành ĐH ĐHNC
Philip Altbach cho rằng “Đại học nghiên cứu là các định chế học thuật
hàn lâm, cam kết sáng tạo và phổ biến tri thức trong một loạt các ngành và lĩnh
vực và có các phòng thí nghiệm phù hợp, thư viện và các cơ sở hạ tầng khác cho
phép thực hiện việc giảng dạy và nghiên cứu ở mức cao nhất có thể” [33].
Nhân lực KH&CN đóng vai trò quan trọng thiết yếu trong việc hình
thành đại học định hướng nghiên cứu. Nguồn nhân lực KH&CN trong trường
ĐHNC bao gồm các GV, NCV, cán bộ kỹ thuật và nhân viên phụ trợ tham gia
vào công tác đào tạo, NCKH, chuyển giao công nghệ và các hoạt động dịch
vụ KH&CN. Nguồn nhân lực KH&CN là lực lượng nòng cốt để thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ cơ bản của nhà trường. Vai trò của nguồn nhân lực
25
KH&CN được thể hiện trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản
của nhà trường qua các hoạt động: đào tạo, NCKH và phục vụ xã hội (nghiên
cứu theo đơn đặt hàng của các cơ sở thực tiễn).
1.3.1. Vai trò của nguồn nhân lực KH&CN trong hoạt động đào tạo
Ở bất cứ một trường đại học nào cũng đều có hai nhiệm vụ chính và
quan trọng nhất là: đào tạo và NCKH. Đây là hai hoạt động có mối quan hệ
hữu cơ, hai nhiệm vụ cơ bản chiến lược của nhà trường. Trong các trường đại
học, chức năng đào tạo là sứ mệnh quan trọng hàng đầu để đào tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế.
Nguồn nhân lực KH&CN trong các trường đại học là lực lượng nòng cốt,
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp để thực hiện chức năng này. Giáo dục và đào
tạo là yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển của xã hội trong tất cả các lĩnh
vực. Bởi vậy, các quốc gia phát triển đều xây dựng cho mình chiến lược phát
triển giáo dục và đào tạo. Ở phạm vi hẹp hơn, các trường đại học luôn luôn
chú trọng xây dựng và phát triển nguồn nhân lực KH&CN, coi đó là động lực
quyết định thúc đẩy sự phát triển vững mạnh của nhà trường.
1.3.2. Vai trò của nguồn nhân lực KH&CN trong nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục nói
chung và giáo dục đại học nói riêng. Trong các trường đại học, nghiên cứu
khoa học được xem là một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng đào tạo, tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu ngày càng
cao của xã hội. Nghiên cứu khoa học có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo
dục đại học vì không những góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo
ra những tri thức mới, sản phẩm mới phục vụ cho sự phát triển của nhân loại.
Với tầm quan trọng như vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành
TW khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu: "Các trường đại học
phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao và ứng
dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống".
Do vậy, để khoa học, công nghệ đáp ứng được nhu cầu phát triển của
26
xã hội, nguồn nhân lực KH&CN trong các trường đại học là lực lượng nòng
cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong những năm vừa qua, ngành giáo dục và nền
khoa học công nghệ nước ta đã đạt được thành tích đáng kể là nhờ có những
đóng góp không nhỏ từ hoạt động nghiên cứu khoa học của nhân lực KH&CN
trong các trường đại học.
Hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động chính và quan trọng hàng
đầu của một trường ĐHNC (sau đó mới đến hoạt động đào tạo và các hoạt
động khác). Nghiên cứu khoa học trong trường đại học bao gồm các loại hình:
Nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, triển khai và được gọi chung là
hoạt động nghiên cứu triển khai (hay hoạt động R&D). Hoạt động nghiên cứu
triển khai được tiến hành bởi các nhà khoa học đầu ngành, có kinh nghiệm và
uy tín khoa học trong các trường đại học.
1.3.3. Vai trò của nguồn nhân lực KH&CN trong việc phục vụ xã hội
Nhân lực KH&CN ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để đảm bảo điều kiện cho nhà trường thực
hiện tốt chức năng phục vụ xã hội của mình, nâng cao uy tín và vị thế của các
nhà khoa học trong xã hội thì nguồn nhân lực KH&CN phải trực tiếp tham gia
vào các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ nhằm tạo
ra tri thức, công nghệ, giải pháp mới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Tóm lại, từ sự phân tích các chức năng cơ bản trong trường đại học,
cho thấy vai trò của nhân lực KH&CN trong trường đại học là hết sức quan
trọng, đặc biệt với sự hình thành đại học định hướng nghiên cứu. Quá khứ,
hiện tại và tương lai của các trường ĐHNC trên thế giới đều bắt đầu từ việc
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực KH&CN và lịch sử đã chứng minh
những mô hình thành công là những mô hình có nguồn nhân lực KH&CN
chất lượng xứng tầm với sự đầu tư và phát triển. Do đó, việc hoàn thiện chính
sách nhân lực KH&CN trong các trường đại học nhằm hình thành đại học
định hướng nghiên cứu là vấn đề cần được chú trọng trong các nghiên cứu
27
trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.
1.4. Tiêu chí nhân lực KH&CN trong trƣờng ĐH ĐHNC
Tâm điểm của một trường đại học nghiên cứu là đội ngũ giảng viên,
nghiên cứu viên - những người phải gắn bó với tư tưởng nghiên cứu không vụ
lợi, nghiên cứu tri thức vì bản thân tri thức cũng như gắn bó với những nhân tố
thực tế của hoạt động nghiên cứu và sử dụng nó cho xã hội hiện tại. Do đó, đội
ngũ nhân lực này đóng vai trò quyết định trong việc hình thành ĐH ĐHNC.
ĐHQGHN đã ban hành Hướng dẫn số 1206/HD-ĐBCLGD ngày
23/4/2013 của ĐHQGHN về các tiêu chí trong ĐHNC bao gồm các chỉ số và
hướng dẫn cụ thể để các đơn vị có cơ sở: Xác định các tiêu chí xây dựng
ĐHNC theo tiếp cận chuẩn hóa và hội nhập quốc tế; định lượng hóa các tiêu
chí, làm cơ sở để ĐHQGHN, các cơ sở giáo dục đào tạo (trường đại học, viện
nghiên cứu) thành viên và các đơn vị trực thuộc phân tích đánh giá, định vị
hiện trạng, xác định đúng kế hoạch phát triển và các ưu tiên đầu tư; thúc đẩy
các đơn vị từng bước phát triển đạt chuẩn ĐHNC của khu vực và quốc tế [10].
Trong đó, có nêu chỉ số của các đại học nghiên cứu thuộc top 500 trên thế giới
thì tỷ lệ cán bộ có học vị tiến sĩ trở lên đạt ít nhất 80% trên tổng số cán bộ khoa
học, đối với ngành KHXH là 60% và tỷ lệ cán bộ có chức danh giáo sư, phó
giáo sư đạt ít nhất 80% cán bộ khoa học, đối với ngành KHXH là 60%.
Giảng viên, nghiên cứu viên của một trường đại học nghiên cứu
thường có bằng tiến sĩ hoặc tương đương, được đào tạo tại những trường đại
học hàng đầu trong nước hay trên thế giới. Các giáo sư của trường đại học
nghiên cứu có tính cạnh tranh và tính tập thể. Giới khoa học này thấm nhuần
khát vọng đóng góp cho khoa học và tri thức, vừa là cho tiến bộ khoa học
vừa là xây dựng sự nghiệp và uy tín. Đồng thời, họ làm việc theo nhóm, đặc
biệt là trong khoa học và hiểu được tầm quan trọng của sự hợp tác. Giáo sư
của các trường đại học nghiên cứu đóng góp rất nhiều cho khoa học qua các
bài báo nghiên cứu và sách. Ấn phẩm của họ vượt xa so với chuẩn mực
28
thông thường của giảng viên. Có thể, có đến 90% bài báo khoa học xuất hiện
trên các tập san hàng đầu là tác phẩm của các giáo sư trong những trường
đại học nghiên cứu mạnh.
Để một trường đại học nghiên cứu có thể thành công, các nhà khoa học
phải được hưởng những điều kiện làm việc cho phép họ cống hiến cho công
việc một cách tốt nhất. Các giáo sư của trường đại học nghiên cứu là những
người làm việc toàn bộ thời gian, hầu hết là được bảo đảm hợp lý bằng biên
chế, và được trả lương tương xứng, ít nhất cũng đủ bảo đảm cuộc sống cho
chính họ và gia đình. Nói cách khác, giáo sư của trường đại học nghiên cứu là
những người, so với các đồng nghiệp ở trường khác, là những nhà khoa học
có đặc quyền. Giáo sư của các trường đại học nghiên cứu thường có một
nhiệm vụ giảng dạy khá nhẹ nhàng; họ được dành thời gian để thực hiện
nghiên cứu và công bố kết quả nghiên cứu.
Giáo sư của các trường đại học nghiên cứu có khuynh hướng quốc tế
trong ý thức và thường là cả trong công việc. Họ tăng cường hợp tác với đồng
nghiệp ở nước khác và nhiều khi qua lại giữa các nước, nhận công việc ở
những nơi điều kiện làm việc, lương bổng, cơ sở làm việc tốt nhất.
Trong các trường đại học nghiên cứu, lãnh đạo hoạt động khoa học là
một việc ngày càng quan trọng hơn trong kỷ nguyên của những tổ chức khoa
học phức tạp. Vai trò của người đứng đầu trường đại học là quản lý và thực
hiện hoạt động khoa học. Có người cho rằng hiệu trưởng trường đại học phải
là những học giả hàng đầu, trong khi ý kiến khác thì thiên về những nhà quản
lý có nhiều thành công, đôi khi là những người nằm ngoài giới khoa học, nên
là người nắm vai trò lãnh đạo nhà trường. Trong các trường đại học nghiên
cứu, hiệu trưởng phải là người có uy tín khoa học và phải bày tỏ sự tôn trọng
và một hiểu biết sâu sắc về sứ mạng khoa học của nhà trường. Đồng thời, họ
phải có khả năng đại diện cho nhà trường trước mặt xã hội và phải biện minh
được tính chất quan trọng và trung tâm của nhà trường. Lãnh đạo giới khoa
học hiện đại là một nhiệm vụ đa diện và ngày càng phức tạp, và tìm được một
29
nhà lãnh đạo tài ba là vô cùng khó.
Tiểu kết Chƣơng 1
Trong chương 1, tác giả đã nghiên cứu và đưa ra được những khái niệm
cơ bản về mô hình ĐH ĐHNC, Vai trò của nhân lực KH&CN đối với việc
hình thành đại học định hướng nghiên cứu, khái niệm và định hướng hoàn
thiện chính nhân lực KH&CN trong trường đại học, cụ thể:
Tác giả nghiên cứu những quan điểm cơ bản về mô hình ĐHNC trên
thế giới và trong nước; từ đó đã hệ thống hóa các quan điểm về ĐH ĐHNC:
Theo đuổi sự ưu tú trong mọi lĩnh vực; có thành tựu nghiên cứu xuất sắc; có
cam kết đào tạo chất lượng cao; tận tâm với những chuẩn mực cao nhất của
hoạt động nghiên cứu và giảng dạy; thực thi quyền tự do học thuật với
CBKH; công tâm và hoan nghênh mọi quan điểm, cách nhìn, khuôn khổ nhận
thức và cương vị khác nhau của CBKH; quyền tự chủ của trường trên nền
tảng khoa học; cam kết hỗ trợ cộng đồng, địa phương và đóng góp cho sự
thịnh vượng của thế giới; cơ cấu quản trị cởi mở, minh bạch và trách nhiệm
xã hội cao.
Tác giả đưa ra những quan niệm về nguồn nhân lực KH&CN, vai trò
nguồn nhân lực KH&CN trong việc hình thành ĐH ĐHNC thể hiện trong
hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội; đưa ra những định
hướng để hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN trong trường ĐHNC.
Những nghiên cứu ở chương 1 là cơ sở để thực hiện các nội dung
nghiên cứu, đánh giá thực trạng của chính sách nhân lực KH&CN trong
Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN, từ đó đề xuất các nhóm giải pháp và
điều kiện để hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN của Trường ĐH
30
KHXH&NV nhằm hình thành đại học định hướng nghiên cứu.
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NHÂN LỰC KH&CN
TRONG TRƢỜNG ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN
2.1. Giới thiệu khái quát về Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN
2.1.1. Sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu chiến lược
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN được thành
lập theo Nghị định số 97/CP, ngày 10/12/1993 của Chính phủ, là sự tiếp nối,
kế thừa và phát huy truyền thống của Trường Đại học Văn khoa và Đại học
Tổng hợp Hà Nội - cái nôi đào tạo nên nhiều nhà khoa học ưu tú và nhiều nhà
hoạt động chính trị danh tiếng của đất nước. Trong quá trình xây dựng và phát
triển, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã xác định sứ mệnh và
mục tiêu phát triển của Trường như sau:
- Sứ mệnh và tầm nhìn
+ Sứ mệnh: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN
có sứ mệnh đi đầu trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao;
nghiên cứu, sáng tạo và truyền bá tri thức về Khoa học Xã hội và Nhân văn,
phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
+ Tầm nhìn 2035
Phát huy thế mạnh của một trường đại học khoa học cơ bản, tập trung
nguồn lực xây dựng Trường ĐH KHXH&NV thành một trường đại học
nghiên cứu, đa ngành và liên ngành với đội ngũ chuyên gia giỏi, đầu ngành;
phát triển một số ngành, chuyên ngành đào tạo mới, tiên phong đóng vai trò
nòng cốt trong đào tạo và nghiên cứu các ngành khoa học cơ bản của đất nước
đạt trình độ khu vực và quốc tế; xếp vào nhóm 100 các trường đại học hàng
đầu của khu vực châu Á và nhóm 500 đại học của thế giới.
- Mục tiêu chung: Phát triển Trường ĐH KHXH&NV theo định hướng
một đại học nghiên cứu, tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu trong nghiên cứu,
31
đào tạo các ngành khoa học xã hội và nhân văn của Việt Nam, phấn đấu đến
năm 2025 đưa Trường đứng vào nhóm 150 các trường đại học hàng đầu Châu
Á, năm 2035 vào nhóm 100 các trường đại học hàng đầu châu lục và ngang
tầm với các đại học tiên tiến (thuộc nhóm 500) của thế giới.
+ Các mục tiêu cụ thể
Xây dựng, tổ chức và vận hành Nhà trường theo mô hình, quy cách
hoạt động của một đại học nghiên cứu.
Đào tạo nguồn nhân lực KHXH&NV chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu
của xã hội, một số ngành đạt trình độ của các trường đại học tiên tiến
trong khu vực và từng bước đạt trình độ quốc tế.
Trang bị cho sinh viên kiến thức chuyên môn tốt, đáp ứng được yêu cầu
của công việc và tác nghiệp được ngay, không mất nhiều thời gian làm
quen với thực tiễn; từng bước tiến tới đạt chuẩn đào tạo của khu vực và
tiếp cận chuẩn đào tạo của quốc tế. Những ngành đào tạo đạt chuẩn
quốc tế có thể trao đổi sinh viên giữa các đại học trong khu vực và công
nhận kết quả học tập, bằng cấp của nhau.
Tăng cường năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên; tiếp cận kịp
thời các lý luận và phương pháp nghiên cứu tiên tiến; sản phẩm nghiên
cứu đạt trình độ khoa học cao, tăng cường các công bố quốc tế; nghiên
cứu khoa học phục vụ nhu cầu kinh tế - xã hội của đất nước, phục vụ sự
nghiệp đào tạo của nhà trường theo phương châm: nghiên cứu để đào
tạo và đào tạo đi đôi với nghiên cứu.
Xây dựng đội ngũ giảng viên từng bước đạt chuẩn quốc tế, đóng vai trò
động lực quyết định chất lượng các hoạt động nghiên cứu và đào tạo
của nhà trường.
Nâng cao nội lực về khoa học, đào tạo, tài chính để mở rộng và tăng
cường các khả năng, hiệu quả hợp tác quốc tế, mở rộng các liên kết
đào tạo quốc tế với các loại hình và bậc đào tạo khác nhau, qua đó góp
32
phần phát triển nội lực của nhà trường. Tăng cường cơ sở vật chất,
nguồn lực tài chính; sử dụng hiệu quả các nguồn kinh phí để nâng cao
chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, đồng thời tăng thu nhập cho
cán bộ viên chức.
2.1.2. Định hướng phát triển
- Phát huy thế mạnh của trường đào tạo và nghiên cứu về khoa học cơ
bản, tập trung nâng cao tư duy khoa học, sáng tạo và kỹ năng tác nghiệp của
người học.
- Xây dựng và phát triển nhanh các ngành, chuyên ngành đạt trình độ
quốc tế; phát triển hợp lý quy mô đào tạo cử nhân, mở rộng quy mô đào tạo
sau đại học. Phát triển mọi nguồn lực để mở rộng liên kết đào tạo quốc tế, thu
hút và mở rộng các quan hệ hợp tác khác với các trường đại học và tổ chức
khoa học, giáo dục, văn hóa trong nước và trên thế giới.
- Tăng cường các hoạt động học thuật, đổi mới lý luận và phương pháp
nghiên cứu, xây dựng những nhóm nghiên cứu mạnh, ưu tiên tập trung nghiên
cứu giải quyết những vấn đề cấp thiết, quan trọng của đất nước, trên cơ sở đó
đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Trường
Tính đến tháng 03/2019 Trường ĐH KHXH&NV có 15 khoa; 02 Viện
và 01 bộ môn trực thuộc trường; 15 trung tâm nghiên cứu và phục vụ đào tạo,
01 Bảo tàng, 01 tạp chí, 01 công ty; 08 phòng ban chức năng với tổng số 526
cán bộ, công chức, viên chức. Số cán bộ giảng dạy là 365 người, trong đó có
14 GS, 95 PGS. Số cán bộ theo chức danh khoa học có 261 TS, 187 ThS, 54
ĐH và 24 trình độ khác.
2.2. Thực trạng nhân lực KH&CN của Trƣờng ĐH KHXH&NV
2.2.1. Quy mô và trình độ đào tạo
Trường ĐH KHXH&NV có 15 khoa; 2 Viện và 01 bộ môn trực thuộc
trường; 15 trung tâm nghiên cứu và phục vụ đào tạo, 01 Bảo tàng, 01 tạp chí,
33
01 công ty; 08 phòng ban chức năng với quy mô nhân lực gồm 526 cán bộ,
trong đó có 365 giảng viên, 12 nghiên cứu viên được phân bố ở các khoa/bộ
môn trực thuộc như sau:
Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN (cơ hữu) theo đơn vị
Trình độ Chức danh Tổng chuyên môn TT Đơn vị số
GS PGS TS ThS ĐH
1. Khoa Khoa học Quản lý 10 3 4 1 18 0
2. Bộ môn Tôn giáo học 2 5 4 0 11 0
3. Khoa Triết học 10 21 9 1 42 1
Viện Đào tạo Báo chí và 4. 4 13 8 0 25 0 Truyền thông
5. Khoa Du lịch học 2 9 5 0 16 0
6. Khoa Ngôn ngữ học 7 15 3 0 27 2
7. Khoa Đông phương học 4 20 6 1 32 1
8. Khoa Lịch sử 12 32 9 0 55 2
9. Khoa Văn học 8 27 10 1 48 2
10. Khoa Quốc tế học 2 13 4 0 20 1
Trung tâm Đào tạo và ứng 11. 0 0 2 0 2 0 dụng Công nghệ Thông tin
12. Khoa Xã hội học 8 16 7 3 35 1
13. Khoa Nhân học 5 9 4 0 18 0
Khoa Việt Nam học và 14. 6 17 6 0 29 0 Tiếng Việt
34
15. Khoa Khoa học chính trị 3 11 7 0 21 0
Khoa Lưu trữ học và 16. 0 2 7 5 14 0 Quản trị văn phòng
17. Khoa Thông tin - Thư viện 0 1 5 5 11 0
18. Khoa Tâm lý học 15 2 7 2 26 0
Viện Chính sách và 19. 0 1 1 2 5 1 Quản lý
Phòng Hợp tác và 20. 0 0 1 0 1 0 Phát triển
21. Ban Giám hiệu 2 2 4 0 8 0
Trung tâm Đảm bảo 22. 0 1 2 0 3 0 chất lượng đào tạo
Tạp chí Khoa học Xã hội 23. 0 1 1 0 2 0 và Nhân văn
24. Phòng Đào tạo 0 2 2 0 4 0
Phòng Chính trị và 25. 0 1 1 0 2 0 Công tác sinh viên
Phòng Quản lý Nghiên cứu 26. 0 1 1 0 0 2 Khoa học
Trung tâm Ngoại ngữ và 27. 0 0 0 1 1 0 Hợp tác đào tạo
28. Bảo tàng Nhân học 0 0 1 4 6 1
Trung tâm Nghiên cứu 29. 0 0 0 2 2 0 Trung Quốc
Tổng số 9 14 95 253 115 486
35
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Bảng 2.2. Cơ cấu theo chức danh, trình độ của CBKH
Tổng
Tổng
Chức danh Trình độ
số
số
Tỷ lệ
CBVC
CBKH
Năm Tỷ lệ
GS PGS
GS,PGS TS ThS ĐH
toàn
(GV,
TS/CBKH
/CBKH
trƣờng
NCV)
2014 515 373 06 83 23,86% 191 166 16 51,21%
2015 531 382 08 94 26,70% 205 162 15 53,66%
2016 539 388 11 95 27,32% 226 148 14 58,25%
2017 531 382 11 86 25,39% 233 137 12 60,99%
2018 527 377 14 95 28,91% 253 115 9 67,1%
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Trong số cán bộ khoa học, số cán bộ có học vị tiến sĩ trở lên là 253
chiếm 67,1%, tỷ lệ đã này đáp ứng tiêu chí yêu cầu của ĐH ĐHNC. Tuy
nhiên số cán bộ có chức danh GS, PGS là 109 chiếm 28,9% trên tổng số cán
bộ khoa học mới chỉ đáp ứng yêu cầu về tiêu chí ĐHNC theo hướng dẫn số
1206/HD-ĐBCLGD của ĐHQGHN chứ chưa đáp ứng tiêu chí của ĐHNC
thuộc top 500 trên thế giới. Nhìn theo góc độ được đào tạo, Trường ĐH
KHXH&NV có nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao, nhiều tiềm năng để
gánh vác nhiệm vụ của một trung tâm nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam về
lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Hàng năm, để nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ giảng dạy cũng như tận dụng nguồn nhân lực KH&CN chất lượng
cao, Trường đã mời một số nhà khoa học giàu kinh nghiệm trong giảng dạy
và nghiên cứu tại các Viện và các đơn vị bên ngoài tham gia kiêm nhiệm
giảng dạy và nghiên cứu tại Trường. Số lượng giảng viên ký HĐLĐ (mời
36
ngoài) và giảng viên kiêm nhiệm trong năm 2018 gồm 74 người.
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ diễn biến nguồn nhân lực KH&CN
giai đoạn 2014-2018
545
540
535
530
525
520
515
510
505
500
2014
2015
2016
2017
2018
Số lượng
Số lượng
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Từ biểu đồ 2.1 có thể nhận thấy, giai đoạn 2014-2018 số lượng cán bộ,
viên chức toàn trường có biến động tăng từ 2014 đến 2016, tuy nhiên từ năm
2016 đến nay số lượng cán bộ, viên chức giảm, cho thấy sự khó khăn trong
công tác tuyển dụng do đặc thù của ngành khoa học xã hội và điều kiện tuyển
dụng theo quy định của ĐHQGHN ngày càng khắt khe.
Để có thể dự báo một số xu hướng về nguồn nhân lực KH&CN của
Trường ĐH KHXH&NV, có thể theo dõi bảng thống kê sau:
Bảng 2.3. Số lƣợng GS, PGS sẽ nghỉ hƣu trong 05 năm từ 2019-2023
Năm Năm Năm Năm Năm Tổng
2019 2020 2021 2022 2023 cộng
Số lƣợng GS, 5 10 9 4 8 36 PGS sẽ nghỉ hƣu
37
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Hiện nay, số giảng viên có trình độ TS từ 50 tuổi trở xuống chưa có học
hàm PGS là 137 người, dự đoán đến 2023, trong số 137 cán bộ này sẽ có 20
cán bộ đủ điều kiện công nhận chức danh GS, PGS. Như vậy, dự báo đến
2023, trường ĐH KHXH&NV sẽ có 36 GS, PGS sẽ nghỉ hưu. Nhìn tổng thể,
số lượng GS, PGS hàng năm có tăng nhưng không đủ để bù đắp đội ngũ GS,
PGS sẽ nghỉ hưu trong vài năm tới, gây nên sự hụt hẫng về đội ngũ kế cận.
Nhất là hiện nay, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số
37/2018/QĐ-TTg quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và
bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư (GS, PGS); thủ tục xét hủy bỏ công
nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh GS, PGS với tiêu chuẩn đạt tiêu
chuẩn chức danh GS, PGS cao hơn trước, theo đó đã lấy năng lực nghiên cứu
KH và năng suất KH của đội ngũ các nhà giáo cao cấp trong môi trường đại
học (GS, PGS) thông qua các “thước đo” quốc tế (công bố trên các tạp chí
quốc tế uy tín) làm tiêu chí hàng đầu, điều này cũng là một khó khăn lớn với
những người làm công tác nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn nói chung và trường ĐH KHXH&NV nói riêng, một lĩnh vực có đặc thù
riêng, số lượng công bố quốc tế hoàn toàn không dễ dàng. Điều này cũng
phản ánh một xu hướng là trong giai đoạn tới, tốc độ tăng của cán bộ đạt tiêu
chuẩn chức danh GS, PGS có xu hướng chậm lại.
2.2.2. Cơ cấu về thâm niên nghề, giới tính, độ tuổi
Chất lượng của đội ngũ nhân lực KH&CN còn được biểu hiện ở thâm
niên nghề và tỷ lệ trẻ hóa đội ngũ.
Bảng 2.4. Cơ cấu về thâm niên nghề của đội ngũ nhân lực KH&CN
Thâm niên công tác
Dưới 1 năm Từ 2 đến 7 năm Từ 8 năm đến 15 năm Trên 15 năm Tổng Giảng viên 12 79 93 181 365 Nghiên cứu viên 0 4 8 0 12
38
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Số lượng CBKH của Trường chủ yếu tập trung ở thâm niên nghề trên
15 năm, chiếm 48%, thâm niên nghề từ 8 năm đến 15 năm, chiếm 26%, thâm
niên nghề từ 2 năm đến 7 năm chiếm 22%, thâm niên nghề dưới 1 năm chiếm
4%. Theo kinh nghiệm của các chuyên gia giáo dục và các nhà quản lý ở các
trường đại học, để trở thành một cán bộ nghiên cứu khoa học nhất là đối với
các ngành khoa học xã hội, nếu vững vàng về chuyên môn cần phải có một
khoảng thời gian chuẩn bị hành trang vào nghề, tích lũy kinh nghiệm, trau dồi
kiến thức khoa học và phải được thử thách ở nhiều cấp độ khác nhau. Thời
gian tích lũy ấy cần dài học so với các ngành khoa học khác. Do đó, ta có thể
thấy chất lượng của đội ngũ CBKH trong trường được biểu hiện ở thâm niên
nghề là đội ngũ có kinh nghiệm trong chuyên môn.
Bảng 2.5. Cơ cấu về giới của đội ngũ nhân lực KH&CN
Đối tƣợng Giới tính nữ Giới tính nam
216 161 CBKH
125 67 CBKH trẻ
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Xét theo cơ cấu về giới của đội ngũ CBKH trong trường ĐH
KHXH&NV, trong số 377 CBKH toàn trường có 216 CBKH là nữ giới chiếm
57,2%, và số lượng CBKH là nữ giới chiếm 65,1% trong số CBKH trẻ. Điều
này cho thấy, cán bộ khoa học là nữ giới chiếm tỷ lệ đông hơn số lượng cán
bộ khoa học là nam giới, do đó ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động khoa học
của đội ngũ CBKH trong trường do nữ giới có ít lợi thế hơn nam giới về mặt
39
thời gian, tâm huyết dành cho hoạt động khoa học.
Bảng 2.6. Cơ cấu độ tuổi của đội ngũ nhân lực KH&CN
(chỉ tính những ngƣời có trình độ từ đại học trở lên)
Trình độ Chức
chuyên môn danh Độ tuổi Tổng
GS PGS TS ThS ĐH
0 0 Dưới 30 tuổi 9 41 9 59
0 13 Từ 31 đến 40 tuổi 80 55 0 148
0 24 Từ 41 đến 50 tuổi 48 16 0 88
5 27 Từ 51 đến 60 tuổi 5 3 0 40
9 31 Trên 60 tuổi 2 0 0 42
95 Tổng 9 377 14 144 115
(Nguồn Phòng Tổ chức cán bộ, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN)
Với cơ cấu độ tuổi trong bảng trên có thể thấy nguồn nhân lực KH&CN
của Trường ĐHKHXH&NV tập trung chính ở độ tuổi từ 31 đến 40 và từ 41
đến 50 tuổi. Với hai độ tuổi này số lượng TS và PGS chiếm tới 62%, điều này
cho thấy Trường có nguồn nhân lực KH&CN có tiềm năng lớn, đáp ứng mục
tiêu định hướng xây dựng Trường ĐHKHXH&NV thành ĐHĐHNC trong
tương lai gần.
2.2.3. Năng lực khoa học
Khi đánh giá năng lực của nguồn nhân lực KH&CN, ngoài việc căn cứ
vào trình độ được đào tạo thì việc căn cứ vào khả năng và sản phẩm nghiên
cứu khoa học của đội ngũ là điều cơ bản và quan trọng nhất.
Theo PGS.TS. Vũ Cao Đàm đưa ra 5 tiêu chí để đánh giá năng lực
nghiên cứu [27]:
- Biết phát hiện các sự kiện khoa học, nghĩa là biết nơi xuất hiện mâu
thuẫn giữa lý thuyết khoa học và thực tiễn.
- Biết đặt vấn đề nghiên cứu, hình dung rất rõ sẽ phải trả lời câu hỏi nào
40
trong nghiên cứu.
- Biết đưa ra luận điểm khoa học của mình, chính là luận điểm để giải
quyết vấn đề cần đặt ra.
- Biết sử dụng nhiều phương pháp thích hợp khác nhau để tìm kiếm và
chứng minh luận cứ, biết dùng hệ thống luận cứ để chứng minh luận điểm
khoa học.
Hiện nay, Trường ĐH KHXH&NV đã triển khai nhiều biện pháp nhằm
tăng cường năng lực, hàm lượng và chất lượng NCKH trong bối cảnh và tình
hình mới, rà soát lại hoạt động nghiên cứu, xác lập các định hướng nghiên
cứu, lĩnh vực nghiên cứu trọng tâm của toàn Trường và định hướng nghiên
cứu đặc thù, chủ yếu của các đơn vị. Trường đã tạo điều kiện thuận lợi và hỗ
trợ các đơn vị trong việc kết nối với các trường đại học, viện nghiên cứu trong
và ngoài Trường khi xây dựng các đề tài nghiên cứu đồng thời có cơ chế
khuyến khích, tăng cường năng lực nghiên cứu cho các đơn vị, cá nhân; thúc
đẩy công bố quốc tế; mở rộng hợp tác quốc tế; xây dựng các Nhóm nghiên
cứu mạnh; tăng cường tiềm lực KH&CN cho các đơn vị thông qua việc tiếp
cận với hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, các quỹ đầu tư cho hoạt động khởi
nghiệp. Hiện nay, đội ngũ cán bộ KH của Trường đang thực hiện 3 đề tài Quỹ
Nafosted, 42 đề tài ĐHQG HN, 56 đề tài cấp cơ sở, một số đề tài của Trung
tâm hỗ trợ Nghiên cứu châu Á và 16 đề tài cấp Nhà nước.
Bảng 2.7. Số lƣợng đề tài NCKH đƣợc ký mới giai đoạn 2015-2018
Stt Loại đề tài 2015 2016 2017 2018
1 Đề tài NCKH cấp Nhà nước 2 11 2 3
2 Đề tài NCKH cấp Bộ 3 1
3 Đề tài NCKH cấp ĐHQG 18 16 9 13
4 Đề tài NCKH cấp cơ sở (địa phương) 1
5 Đề tài NCKH cấp Trường ĐHKHXH&NV 19 22 15 23
TỔNG SỐ 39 50 29 40
41
(Nguồn Phòng QL NCKH, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Bảng 2.8. Số lƣợng công trình khoa học giai đoạn 2014-2018
Năm Năm Năm Năm Năm Tổng Stt Nội dung 2014 2015 2016 2017 2018
42 41 37 49 58 1 Tạp chí KH quốc tế 227
Trong đó: Tạp chí 6 5 10 22 43 ISI/Scopus
262 225 232 225 210 2 Tạp chí KH trong nƣớc 1.154
202 205 201 212 190 3 Hội thảo quốc tế 1.010
109 120 113 115 90 4 Hội thảo trong nƣớc 547
12 15 15 17 15 5 Sách chuyên khảo 74
Tổng cộng 627 606 598 618 563 3.012
(Nguồn Phòng QL NCKH, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Trong 05 năm (2014-2018), cán bộ KH&CN của Trường đã đăng
1.381 bài báo trong nước và quốc tế, bình quân 276,2 bài/năm, đạt tỷ lệ 0,73
bài/1 cán bộ KH&CN/năm. Tuy nhiên, số lượng các công bố trên các tạp chí
trong nước chiếm tỷ lệ hơn 83,56% số lượng công bố của toàn trường; số
lượng các công bố trên các tạp chí quốc tế chiếm khoảng 16,44%, trong đó
số lượng công bố trên tạp chí ISI/Scopus chỉ chiếm khoảng 3,11%, con số
này vẫn còn khiêm tốn. Điều này cho thấy, năng lực công bố quốc tế của đội
ngũ nhân lực KH&CN của Trường còn nhiều hạn chế, cần có sự quan tâm,
đầu tư, chính sách hỗ trợ hợp lý hơn nữa để thúc đẩy chỉ số này gia tăng
trong những năm tới.
Về hoạt động liên kết, hợp tác cung ứng với các sản phẩm NCKH ứng
dụng và đẩy mạnh chuyển giao tri thức: Công tác thông tin KH&CN được
thực hiện tốt và kịp thời cùng với năng lực đề xuất nhiệm vụ khoa học, xây
dựng thuyết minh và tổ chức nghiên cứu của Nhà trường và đội ngũ cán bộ
42
tiếp tục được tăng cường nên hệ thống các đề tài nghiên cứu khoa học của
Nhà trường đa dạng, phong phú. Nhà trường tiếp tục có những mối quan hệ
chặt chẽ, thường xuyên với các chương trình khoa học trọng điểm cấp Nhà
nước cũng như Bộ KH&CN và Quỹ KH&CN quốc gia để kịp thời tham gia
đề xuất, xây dựng thuyết minh và tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu lớn,
mang tính liên ngành và phục vụ các nhiệm vụ khoa học cũng như nhiệm vụ
tư vấn đường lối, chính sách của Việt Nam.
2.2.4. Đánh giá nhân lực KH&CN của Trường ĐH KHXH&NV theo mô
hình ĐH ĐHNC
ĐHQGHN đã ban hành Hướng dẫn số 1206/HD-ĐBCLGD ngày
23/4/2013 của ĐHQGHN về các tiêu chí trong ĐHNC. Theo đó, Trường
đại học nghiên cứu được đánh giá dựa trên các nhóm tiêu chuẩn và tiêu chí
sau đây [10]:
Tiêu chuẩn 1: Thành tích nghiên cứu khoa học và chuyển giao tri thức
Tiêu chuẩn 2. Chất lượng đào tạo
Tiêu chuẩn 3. Mức độ quốc tế hoá
Tiêu chuẩn 4. Cơ sở hạ tầng phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học
Trong đó các tiêu chí đánh giá ĐHNC liên quan đến nhân lực KH&CN
bao gồm:
- Tỷ lệ bài báo khoa học bình quân trên giảng viên.
- Số lượng trích dẫn bình quân trên bài báo.
- Số lượng sách chuyên khảo.
- Sản phẩm KH&CN tiêu biểu quốc gia.
- Số lượng giải thưởng khoa học.
- Số lượng các nhà khoa học được mời đọc báo cáo tại các hội thảo khoa
học quốc gia, quốc tế.
- Tỷ lệ giảng viên/người học.
- Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên.
- Số lượng các đề tài, chương trình hợp tác quốc tế có công bố quốc tế chung.
43
- Tỷ lệ giảng viên quốc tế.
Theo dữ liệu thống kê của Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo, Trường
ĐH KHXH&NV, tổng điểm đạt được của Trường ĐH KHXH&NV chấm
theo bộ tiêu chí tại Hướng dẫn 1206 của ĐHQGHN là 765 điểm/1.000 điểm
(tính đến tháng 12/2018).
Biểu đồ 2.2. Biểu đồ biểu diễn chỉ số đánh giá ĐHNC
của Trƣờng ĐH KHXH&NV giai đoạn 2014-2018
Điểm
1000
900
800
700
600
500
400
Điểm
300
200
100
0
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
(Nguồn Trung tâm Đảm bảo Chất lượng đào tạo, Trường ĐH KHXH&NV)
Căn cứ các trên chuẩn xác định mức độ đạt chuẩn trường đại học
nghiên cứu của ĐHQGHN, Trường ĐH KHXH&NV xác định Trường thuộc
nhóm “đạt mức 3”, tương đương với nhóm các trường đại học trong top 200
Châu Á. Tuy nhiên, tiêu chuẩn 1: Thành tích nghiên cứu khoa học và chuyển
giao tri thức, Trường ĐH KHXH&NV đạt trọng số (điểm) thấp nhất trong 4
tiêu chuẩn, năm 2018 là 310/500 điểm, chiếm 62% số điểm của tiêu chuẩn
này (theo quy định xác định nhóm đạt mức 3 thì tiêu chuẩn 1 phải đạt ít nhất
70% số điểm của tiêu chuẩn này). Do đó, để thúc đẩy các tiêu chuẩn, tiêu chí
để phát triển Trường thành một ĐH ĐHNC thì yếu tố quan trọng nhất chính
vẫn là chất lượng và số lượng nguồn nhân lực. Điều này, đòi hỏi Nhà trường
phải có chính sách phù hợp để xây dựng và phát triển đội ngũ, phát triển
44
nguồn nhân lực KH&CN đáp ứng sứ mạng của Nhà trường.
2.3. Thực trạng Chính sách nhân lực KH&CN tại Trƣờng ĐH KHXH&NV
Mục tiêu của nhà trường là sớm trở thành một đại học định hướng
nghiên cứu, có chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học đạt chuẩn khu vực,
trong đó phát triển một số ngành/chuyên ngành đạt trình độ quốc tế, góp phần
đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã đề ra những chỉ tiêu cụ thể sau: Nhanh
chóng chuẩn hoá đội ngũ cán bộ có học vị tiến sĩ trở lên, phấn đấu đến năm
2020, 90% cán bộ giảng dạy có học vị sau đại học, trong đó 70% có học vị
tiến sĩ, 30% có chức danh giáo sư, phó giáo sư; 100% sử dụng được ngoại
ngữ trong chuyên môn và 20% giảng viên có thể giảng dạy tiếng nước ngoài.
Để thực hiện mục tiêu, ngoài những chính sách chung của Nhà nước và
của Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà trường đã ban hành và thực hiện nhiều chủ
trương, chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN như
chính sách tuyển dụng và thu hút; Chính sách đào tạo và bồi dưỡng; Chính
sách đánh giá, khen thưởng; Chính sách trọng dụng, sử dụng.
Về chính sách tuyển dụng và thu hút.
Để tuyển dụng và thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao, Từ năm
2015 Nhà trường đã áp dụng chính sách tuyển dụng của ĐHQGHN ban hành theo
Quyết định số 3768/QĐ-ĐHQGHN ngày 22/10/2014 quy định về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý công chức, viên chức, người lao động trong ĐHQGHN, trong đó
có chính sách tuyển dụng đặc cách đối với những ứng viên đủ điều kiện, tiêu
chuẩn, có học vị tiến sĩ phù hợp với chuyên ngành cần tuyển dụng.
Ngoài chính sách tuyển dụng đặc cách, Nhà trường cũng có chính sách
ký hợp đồng tạo nguồn đối với một số vị trí khó tuyển từ nguồn sinh viên
giỏi, xuất sắc, hoặc ứng viên chưa đạt chuẩn học vị tiến sĩ nhưng đáp ứng
được yêu cầu vị trí việc làm. Những ứng viên này cũng có cam kết về lộ trình
đạt chuẩn học vị, cũng như các điều kiện khác theo quy định chung của
45
ĐHQGHN và của Nhà trường.
Bảng 2.9. Số lƣợng nhân lực KH&CN đƣợc tuyển dụng đặc cách,
ký HĐLĐ giai đoạn 2015-2018
Số lƣợng Số lƣợng Số lƣợng
Năm Giảng viên đƣợc Giảng viên đƣợc Nghiên cứu viên
xét tuyển đặc cách ký HĐLĐ đƣợc ký HĐLĐ
2015 02 9 1
2016 03 10 1
2017 05 7
2018 10 3
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn xác định xây dựng đội
ngũ cán bộ khoa học chất lượng cao để thực hiện sứ mệnh, mục tiêu của nhà
trường trên con đường hình thành đại học định hướng nghiên cứu. Do vậy,
nhiều chính sách được ban hành nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này, nâng
cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học như: Quy định về công tác
đào tạo, bồi dưỡng và quản lý cán bộ, viên chức trong Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn được ban hành theo Quyết định số 539/QĐ-XHNV-
TC ngày 13/2/2007 [14]. Những chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cũng được
thể hiện rõ trong Quy chế chi tiêu nội bộ hàng năm của Nhà trường như: hỗ
trợ kinh phí, học phí, giảm giờ giảng, giờ làm cho cán bộ đi học sau đại học;
khen thưởng cán bộ có thành tích học tập xuất sắc, bảo vệ luận văn, luận án
trước hạn, đúng thời hạn; khen thưởng cán bộ có công bố quốc tế; hỗ trợ kinh
phí cho cán bộ thi chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế đạt từ 5.5 điểm IELTS (hoặc
tương đương trở lên); hỗ trợ kinh phí cho cán bộ đi tham dự hội thảo quốc tế
46
nếu có bài báo cáo và trình bày bằng ngoại ngữ, vv...
Trường hiện có 129 cán bộ đang học sau đại học, trong đó có 120 cán
học nghiên cứu sinh, 09 cán bộ học cao học. Số cán bộ đang học ở nước ngoài
là 25 người. Chất lượng đội ngũ tăng lên nhanh trong giai đoạn 2015-2018.
Bảng 2.10. Tỷ lệ giảng viên đạt trình độ TS, đạt chức danh GS, PGS
Năm Năm Năm Năm TT Nội dung 2015 2016 2017 2018
1 Tỷ lệ GV đạt trình độ TS (%) 53,8 58,9 60,86 65,4
Tỷ lệ GV đạt chức danh GS, 2 26,9 26,5 26,9 28,6 PGS (%)
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ giảng
viên, nghiên cứu viên trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh
công bố quốc tế được trường đặc biệt chú trọng. Trong thời gian qua, Trường
ĐHKHXH&NV đã triển khai nhiều chính sách, giải pháp để thúc đẩy công bố
quốc tế cũng như phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ.
Không chỉ khen thưởng và hỗ trợ trực tiếp các tác giả có bài viết công bố
quốc tế, Nhà trường còn tổ chức nhiều toạ đàm, hội thảo xoay quanh việc chia
sẻ kinh nghiệm công bố quốc tế; các khoá học về academic writing; hình
thành diễn đàn, mạng lưới khoa học giúp thúc đẩy công bố quốc tế trong cán
bộ, đặc biệt là cán bộ trẻ, đưa chỉ tiêu công bố quốc tế vào các nhiệm vụ khoa
học thường xuyên; quan tâm đến các nhóm nghiên cứu mạnh... Năm 2018,
Nhà trường ban hành chính sách mới theo Quyết định số 1121/QĐ-XHNV-
KH ngày 24/4/2018 nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động này, theo đó
hỗ trợ tối đa lên tới 250 triệu cho một cuốn sách được xuất bản tại các nhà
xuất bản uy tín của nước ngoài. Nhờ đó, nhận thức về vai trò quan trọng của
hoạt động công bố quốc tế đã và đang dần thay đổi theo hướng tích cực trong
đội ngũ cán bộ. Nhà trường cũng kêu gọi sự nỗ lực hơn nữa các thầy cô trong
47
hoạt động nghiên cứu và công bố quốc tế nhằm khẳng định vị thế, vai trò,
năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ khoa học. Đã đến lúc công bố quốc
tế trở thành yếu tố gắn chặt với sinh mệnh khoa học của từng cá nhân và của
cả Trường ĐH KHXH&NV trong hiện tại và tương lai.
Nhận định về về tầm quan trọng của việc đẩy mạnh công bố quốc tế, tác
giả đã phỏng vấn một số cán bộ quản lý và giáo sư đầu ngành và xin được
trích dẫn các câu trả lời trong hộp 2.1 dưới đây:
Hộp 2.1. Đánh giá về tầm quan trọng của công bố quốc tế
trong trƣờng đại học định hƣớng nghiên cứu
Đại học nghiên cứu không chỉ là đích đến nữa mà tinh thần nghiên
cứu phải luôn thường trực trong mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ, của
trường đại học. Các trường đại học công lập nếu không cẩn thận sẽ đi
sau trong cuộc đua về công bố quốc tế. Chất xám đang chảy từ hệ thống
trường công sang hệ thống trường tư rất nhanh và các trường đại học tư
thục đang cho thấy nỗ lực và đầu tư rất lớn cho công bố quốc tế.
Nam, PGS.TS, 43 tuổi
Công bố quốc tế trong KHXH&NV là một xu thế tất yếu và một chủ
trương đang được đẩy mạnh tại Trường ĐH KHXH&NV và ĐHQGHN.
Nhất là bối cảnh giáo dục Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với khu
vực và thế giới dẫn đến nhu cầu quốc tế hóa trên các lĩnh vực, từ nghiên
cứu, đào tạo cho đến quản trị đại học ngày càng mạnh mẽ. Bối cảnh ấy
khiến các nhà khoa học Việt Nam phải năng động và chủ động để thích
ứng với xu thế trên.
Nam, GS.TS, 58 tuổi
Công bố quốc tế dễ hay khó, có triển vọng tích cực hay tiêu cực - là
những nội dung vẫn còn tranh cãi, song không thể phủ nhận rằng hoàn
toàn có thể đẩy mạnh được công bố quốc tế trên cơ sở tận dụng tốt các
cơ chế chính sách hiện rất cởi mở ở các cấp cho hoạt động này.
48
Nam, PGS.TS, 45 tuổi
Bảng 2.11. Thống kê kinh phí khen thƣởng công bố quốc tế
giai đoạn 2014-2018
Năm học Tổng kinh phí khen thƣởng
công bố quốc tế (triệu đồng)
2014-2015 246
2015-2016 221
2016-2017 307,5
2017-2018 481,75
(Nguồn phòng Kế hoạch-Tài chính, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Theo thống kê trên cho thấy kinh phí khen thưởng công bố quốc tế tăng
rõ rệt từ năm học 2016-2017 đến năm học 2017-2018, cụ thể năm học 2016-
2017 tăng 39,14% so với năm 2015-2016, đặc biệt là sau khi Nhà trường ban
hành Quyết định số 1121/QĐ-XHNV- KH về việc ban hành chương trình
thúc đẩy công bố quốc tế và chương trình đào tạo tiến sĩ giai đoạn 2018-2022,
thì năm học 2017-2018 tăng 56,67% so với năm học 2016-2017. Kết quả trên
cho thấy tác động của việc ban hành chính sách về thúc đẩy công bố quốc tế
thực sự có hiệu quả. Tuy nhiên, để thúc đẩy số lượng công bố quốc tế trong
các năm tới đòi hỏi Nhà trường phải thực sự quan tâm và ban hành thêm
nhiều chính sách hỗ trợ hoạt động này.
Số liệu về bồi dưỡng nghiệp vụ và đào tạo kỹ năng cho đội ngũ GV,
49
NCV được nêu trong bảng 2.12.
Bảng 2.12. Bồi dƣỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ KH&CN
TT Nội dung đào tạo 2015 2016 2017 2018
Học tập trao đổi (ngắn hạn) 1 122 185 tại nước ngoài (lượt)
Nâng cao trình độ tiếng Anh 2 48 123 trong nước (người)
Các khóa đào tạo ngắn hạn 3 204 156 trong nước (lượt)
Nghiệp vụ sư phạm cho đối 4 0 0 40 43 tượng Giảng viên (người)
Giảng viên chính cho đối 5 15 46 tượng giảng viên (người)
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả tổ chức các lớp bồi dưỡng, nghiệp vụ
cho cán bộ giảng viên của Trường, ban tổ chức cũng đã tiến hành khảo sát thu
thập phản hồi thông tin của đối tượng tham gia.
Cụ thể: theo số liệu phản hồi của một khóa học bồi dưỡng về lớp giảng
viên chính năm 2018, có 53,3% ý kiến trả lời hài lòng; 43,3% ý kiến trả lời rất
hài lòng về khóa học; và đa số ý kiến đề nghị Nhà trường mở thêm các lớp
bồi dưỡng kiến thức định kỳ cho giảng viên.
Ngoài ra, để khảo sát nhu cầu mở lớp đào tạo, bồi dưỡng cho giảng
viên, trong khảo sát gần đây nhất về năng lực tiếng Anh của phòng Tổ chức
Cán bộ, với 281 ý kiến phản hồi trong đó có 75,8% ý kiến trả lời sử dụng
tiếng Anh trong chuyên môn.
Tuy nhiên với câu hỏi Thầy/Cô sử dụng tiếng Anh trong những công
50
việc, tần suất như thế nào, thì có kết quả như sau:
Bảng 2.13. Tần suất sử dụng tiếng Anh của đội ngũ giảng viên
Không Chƣa Hiếm Thƣờng Nội dung thƣờng lần nào khi xuyên xuyên
Giao tiếp, trao đổi 7 54 137 83
Học tập chuyên môn 24 48 120 89
Nghiên cứu văn bản, tài liệu 19 32 86 144 chuyên môn
Trao đổi nội dung chuyên môn tại 60 69 112 40 hội nghị, hội thảo khoa học
Viết bài báo đăng tạp chí khoa học 115 60 78 28
Giảng dạy 157 38 60 26
Phiên dịch tại các hội nghị, hội thảo 203 38 33 7
(Nguồn phòng Tổ chức Cán bộ, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Theo kết quả khảo sát trên cho thấy tỷ lệ giảng viên thường xuyên sử
dụng tiếng Anh trong các công việc chuyên môn chỉ chiếm 31,6%; tỷ lệ
thường xuyên sử dụng tiếng Anh trong viết bài báo đăng tạp chí khoa học và
trong giảng dạy chỉ chiếm 9,96%, điều này chứng tỏ năng lực sử dụng ngoại
ngữ trong nghiên cứu và giảng dạy của đội ngũ giảng viên còn hạn chế. Do
vậy, Nhà trường đã mở thêm các lớp bồi dưỡng về ngoại ngữ tiếng Anh cho
đội ngũ này. Theo kế hoạch đã được phê duyệt, đề án ngoại ngữ đến năm
2020 với mục tiêu hoàn thành việc nâng cao trình độ, năng lực sử dụng tiếng
Anh của giảng viên toàn trường, nhằm đảm bảo giảng viên đủ năng lực
nghiên cứu và giảng dạy bằng tiếng Anh, tham gia trao đổi học thuật quốc tế,
nhanh chóng đạt chuẩn chức danh GS, PGS và góp phần nâng cao số lượng
51
công trình công bố quốc tế.
Chính sách đánh giá, khen thưởng, đãi ngộ
Công tác đánh giá, khen thưởng được Nhà trường triển khai hằng năm
theo năm học và năm tài chính. Việc đánh giá được thực hiện đúng quy trình,
đảm bảo tính khách quan, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện
công việc, giảm cơ bản những tồn đọng trong triển khai nhiệm vụ năm học
đối với từng cá nhân, tổ chức trong mọi mặt hoạt động của Nhà trường.
Hằng năm, Nhà trường đã xây dựng và ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ,
trong đó có các chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, viên chức cụ thể như sau:
- Hỗ trợ 1 lần 10 triệu đồng đối với Giáo sư (Nữ dưới 50 tuổi, Nam
dưới 55 tuổi) và 5 triệu đồng đối với Phó Giáo sư (Nữ dưới 45 tuổi, Nam dưới
50 tuổi), được tuyển dụng về Trường nếu năm đầu tiên công tác cho sản phẩm
khoa học được khen thưởng.
- Hỗ trợ tối đa 500USD/lần/người/năm cho cán bộ đi dự hội nghị, hội
thảo khoa học nước ngoài có báo cáo phù hợp với chuyên môn, có khả năng
sử dụng ngoại ngữ để trình bày báo cáo và trao đổi thảo luận tại hội nghị, hội
thảo khoa học nếu phải tự túc kinh phí.
- Hỗ trợ 100% kinh phí học phí trong thời gian đào tạo chuẩn theo
quy định.
- Hỗ trợ kinh phí thực hiện luận văn, luận án sau khi cán bộ bảo vệ luận
văn, luận án đạt yêu cầu trở lên và đúng hạn.
- Khen thưởng cán bộ khi bảo vệ luận văn, luận án trước hạn, đúng hạn
đạt loại xuất sắc.
- Khen thưởng các cán bộ có bài báo đăng trên tạp chí quốc tế:
- Khen thưởng đối với đề tài nghiên cứu khoa học nếu hoàn thành trước
hạn 01 tháng trở lên, đạt kết quả tốt.
Theo thống kê trên có thể thấy Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã thực hiện tốt các chính sách dành cho nhân lực KH&CN. Tuy
52
nhiên, để có thể trở thành một trường đại học ĐHNC đòi hỏi Nhà trường cần
phải có chiến lược tổng thể, lâu dài, trong đó việc hoàn thiện hơn nữa về
chính sách nhân lực KH&CN đóng vai trò hết sức quan trọng.
2.4. Nhận diện rào cản trong chính sách nhân lực KH&CN
2.4.1. Rào cản trong chính sách nhân lực KH&CN của Nhà nước
- Hệ thống chính sách chưa đồng bộ, còn nhiều điểm mâu thuẫn, vi
phạm tính mới, tính rủi ro trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Như đã nêu
ở mục 1.2, đặc điểm của nhân lực KH&CN có những đặc trưng riêng mà điển
hình đó là tính mới, tính rủi ro cao trong hoạt động khoa học, các chính sách
của Nhà nước dành cho đối tượng này phải được xem xét để không vi phạm
những đặc điểm đó.
PGS.TS. Vũ Cao Đàm, người luôn tâm huyết và luôn trăn trở với triết
lý giáo dục hiện nay, trong cuốn “Nghịch lý và lối thoát” ông đã chỉ ra rằng:
“Triết lý KH&GD ở nước ta mang trên mình những khuyết tật có tính hệ
thống; những khuyết tật đó không thể sửa chữa vặt mang tính chắp vá, mà
phải “tư duy lại” xuất phát từ một cách tiếp cận hệ thống; bản chất cốt lõi của
luồng tư duy đó là: Trả lại quyền tự trị cho KH&GD, và Nhà nước chỉ thực
hiện chức năng quản lý vĩ mô…”
Trên thế giới hiện nay, giáo sư, phó giáo sư là một chức vụ khoa học và
Hiệu trưởng đại học là người bổ nhiệm chức vụ giáo sư và phó giáo sư do nhu
cầu tổ chức khoa học của cơ sở giáo dục, chẳng hạn Nhà trường cần phát triển
một phương hướng đào tạo và nghiên cứu mới mẻ, chưa từng có của quốc gia.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, Nhà nước quy định điều kiện tiêu
chuẩn để công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư và sau đó
Hiệu trưởng bổ nhiệm chức danh đó ở các trường. Điều này chỉ nhằm “vinh
danh” những người có thành tích khoa học trong ngành đã có sẵn chứ không
phải bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư theo nhu cầu đào tạo. Minh chứng là có
một số ứng viên sau khi được Nhà nước công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh
giáo sư, phó giáo sư nhưng thời điểm nhận quyết định cũng là thời điểm
53
nghỉ hưu, ứng viên vẫn đăng ký bổ nhiệm và được bổ nhiệm tại một cơ sở
giáo dục nào đó, điều đáng nói ở đây là chỉ cần bổ nhiệm để vinh danh chứ
không đòi hỏi các quyền lợi khác vì quyền lợi chỉ dành cho người hiện đang
công tác trong ngành.
Nhà nước đưa ra quy định về tiêu chuẩn xét công nhận đạt chức danh
giáo sư, phó giáo sư, trong đó quy định về số giờ giảng dạy và số lượng
hướng dẫn luận văn, luận án. Tuy nhiên, nếu tính số giờ giảng dạy thì chỉ các
ngành cũ mới có giờ để giảng dạy và chỉ các ngành đang được đào tạo mới có
học viên và nghiên cứu viên để hướng dẫn. Số bài báo viết trên các tạp chí
chuyên ngành cũng phải là những ngành đã có tạp chí...và tất nhiên chỉ xét
chức danh giáo sư, phó giáo sư với những ngành, chuyên ngành theo quy
định. Điều này làm triệt tiêu sự sáng tạo trong khoa học, mà tính mới trong
khoa học xuất hiện mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt là những ý tưởng mới xuất hiện khi người nghiên cứu tìm tòi giữa những “miền giáp ranh”1 của khoa học.
Đây là một trong những rào cản lớn cản trở các trường đại học ở Việt Nam
trên con đường hình thành đại học định hướng nghiên cứu.
Quy định thì có thể thay đổi, nên chính sách ra ở thời điểm nào, sẽ có
nhóm đối tượng được hưởng lợi ở thời điểm đó. Cụ thể, năm 2017, tổng số
người đạt chức danh giáo sư và phó giáo sư là 1.226 người, tăng gần 60% so
với năm trước. Có hiện tượng này là do đứng trước sự thay đổi của chính
sách, các đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách đó tranh thủ thời gian này
để hoàn thành hồ sơ và được công nhận.
Ngày 31 tháng 8 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số
37/2018/QĐ-Ttg về tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ
nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; Thủ tục xét hủy bỏ công nhận chức
danh và miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư, trong đó có nhiều quy
định mới và chặt chẽ hơn, khắt khe hơn trong việc xét đạt tiêu chuẩn và bổ
54
nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư. Nhưng xét thấy vấn đề vẫn chỉ được 1 Trong sự phát triển của khoa học, luôn tồn tại những miền giáp ranh giữa các khoa học, chẳng hạn, giữa toán học và ngôn ngữ học, giữa toán học và logic học, giữa xã hội học và tâm lý học, giữa quản lý học và chính sách học,…
giải quyết ở phần ngọn. Nhà nước vẫn cầm tay Hiệu trưởng các cơ sở giáo
dục để bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư, chỉ khác ở chỗ không còn
chức danh cả đời, mà bây giờ bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư theo
nhiệm kỳ 5 năm. Kết thúc nhiệm kỳ, Hiệu trưởng sẽ tổ chức rà soát, đánh giá
theo các quy định về cơ cấu vị trí, số lượng, tiêu chuẩn và điều kiện bổ nhiệm
chức danh giáo sư, phó giáo sư để quyết định việc bổ nhiệm lại.
- Ngoài ra Luật GDĐH còn quy định việc mở ngành, chuyên ngành đào
tạo phải có đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học cơ hữu đảm bảo về chất
lượng, số lượng, trình độ và cơ cấu và mở ngành, chuyên ngành đào tạo trong
danh mục ngành, chuyên ngành đã được phê duyệt. Điều này có nghĩa các
Trường chỉ được mở ngành đào tạo cho các ngành cũ, vốn đã được đào tạo và
có sẵn biên chế cơ hữu, còn các ngành mới thì không thể mở được do không
đủ nhân lực cơ hữu. Thế giới đang đứng trước cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0, dẫn đến sự biến đổi xã hội rất mạnh mẽ, xã hội biến đổi làm nhu cầu biến
đổi, năm nay ngành đào tạo có thể có sinh viên đăng ký học, năm sau nhu cầu
đó không còn nữa thì số nhân lực cơ hữu sẽ làm thế nào để đủ số giờ giảng
dạy, để hoàn thành nhiệm vụ của một giảng viên?
- Nhà nước chưa có sự quan tâm đặc biệt dành cho đội ngũ KH&CN
trong ngành giáo dục, thể hiện trong chính sách tiền lương hiện nay còn nhiều
quy định bất cập đối với đội ngũ CBKH trong các Trường đại học, việc chế
độ tiền lương của đội ngũ này vẫn phải thực hiện theo thang bảng lương
chung trong hệ thống đơn vị hành chính sự nghiệp... Với mức lương và chính
sách chi trả lương như hiện nay hoàn toàn chưa phù hợp với việc bảo đảm duy
trì và phát triển đội ngũ, rất khó để thực hiện chế độ khuyến khích, thu hút
người có tài, có trình độ cao đến làm việc ở các cơ sở giáo dục. Sự cách biệt
về tiền lương giữa các bậc lương, hạng chức danh nghề nghiệp chưa phản ánh
thỏa đáng mức chênh lệch về trình độ cũng như đòi hỏi của công việc; việc
nâng lương chỉ phụ thuộc vào thâm niên mà không chú ý đến hiệu quả hay
55
thực chất công việc CBKH đảm nhận.
Hộp 2.2. Đánh giá thực trạng về chính sách tiền lƣơng
cho đội ngũ cán bộ KH&CN
Về vấn đề thu nhập của đội ngũ giảng viên trẻ hiện nay: hầu hết cán bộ
trẻ trong trường hiện nay có mức thu nhập rất thấp. Với mức lương hiện tại
không đủ cho họ trang trải cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, nhiều cán bộ trẻ
tham gia các công việc khác ở ngoài để tăng thêm thu nhập. Thời gian dành
cho nghiên cứu, nâng cao năng lực khoa học cũng vì thế bị thu hẹp gần như
tối thiểu. Những cán bộ trẻ buộc phải lựa chọn một bên là cuộc sống, một bên
là nhiệt huyết, đam mê khoa học, mong muốn khẳng định năng lực sáng tạo
và khả năng nghiên cứu của mình, trong khi nghiên cứu khoa học không đủ
trang trải cho mức sống của họ.
Nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu khoa học xã hội nói riêng
là một công việc đòi hỏi thời gian, mức độ tập trung khá lớn. Một khi không
đủ thời gian và điều kiện kinh tế để yên tâm nghiên cứu.
Nam, TS, giảng viên, 34 tuổi
Hoạt động nghề nghiệp của cán bộ KH&CN là một loại hình lao động đặc
thù và giá trị không thể định lượng hết được, nhưng cơ chế trả lương, xếp
lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ này hiện nay hầu như
không có gì ưu đãi, thậm chí thua thiệt so với các ngành khác (không có phụ
cấp ưu đãi nghề nghiệp...). Theo quy định hiện nay thì công chức cơ quan
hành chính được hưởng chế độ phụ cấp công vụ đến 25%, tuy nhiên công
chức là người đứng đầu và cấp phó của người đứng các đơn vị sự nghiệp
công lập vừa phải nghiên cứu khoa học, vừa phải tham gia công tác quản lý
lại không được hưởng chế độ đãi ngộ này. Vì vậy, Nhà nước cần ban hành
chính sách ưu đãi, mức thu nhập thỏa đáng, tương xứng với trình độ và đóng
góp của cán bộ KH&CN. Có chế độ động viên, tạo điều kiện đối với đội ngũ
cán bộKH&CN trẻ, tài năng về thu nhập, trang thiết bị, điều kiện làm việc,
vinh danh…
56
Nam, GS.TS, 62 tuổi
Dù còn nhiều bất cập, rào cản trong hệ thống chính sách nhân lực
KH&CN cho các cơ sở giáo dục đại học hiện nay, nhưng trong khuôn khổ
luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến một vài dẫn chứng nhằm nhấn mạnh về
việc Nhà nước chưa có hệ thống đồng bộ chính sách dành cho nhân lực
KH&CN, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các Trường đại học phát
triển theo định hướng trở thành trường đại học nghiên cứu thực sự.
2.4.2. Rào cản trong chính sách nhân lực KH&CN của ĐHQ HN và
Trường ĐH KHXH&NV
* Rào cản trong chính sách nhân lực KH&CN của ĐHQ HN
- Chính sách tuyển dụng của ĐHQGHN được ban hành theo Quyết
định số 3768/QĐ-ĐHQGHN ngày 22/10/2014, trong đó có quy định tiêu
chuẩn tuyển dụng giảng viên phải có học vị tiến sĩ chuyên ngành phù hợp với
yêu cầu tuyển dụng, điều kiện này gây khó khăn trong công tác tuyển dụng và
thu hút nguồn nhân lực cho một số ngành trong Trường ĐH KHXH&NV. Đó
là một số ngành đặc thù rất khó tuyển người có trình độ tiến sĩ.
- ĐHQGHN đã ban hành Hướng dẫn số 1206/HD-ĐBCLGD ngày
23/4/2013 về các tiêu chí trong ĐHNC. Nội dung của văn bản nêu rõ: Xác
định các tiêu chí xây dựng ĐHNC theo tiếp cận chuẩn hóa và hội nhập quốc
tế; định lượng hóa các tiêu chí, làm cơ sở để ĐHQGHN, các cơ sở giáo dục
đào tạo (trường đại học, viện nghiên cứu) thành viên và các đơn vị trực thuộc
phân tích đánh giá, định vị hiện trạng, xác định đúng kế hoạch phát triển và
các ưu tiên đầu tư; thúc đẩy các đơn vị từng bước phát triển đạt chuẩn ĐHNC
của khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu một chiến lược tổng thể để
xây dựng và phát triển các nguồn lực theo định hướng ĐHNC.
* Rào cản trong chính sách nhân lực KH&CN của Trường ĐH
KHXH&NV
- Rào cản về nguồn lực triển khai chính sách: Nguồn lực tài chính và cơ
57
sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động
nghiên cứu và giảng dạy theo tiêu chuẩn chất lượng của ĐH ĐHNC; nguồn tài
chính không dồi dào, chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy; thư
viện, tài nguyên số, hệ thống phòng học... còn thiếu, chưa thực sự đáp ứng
đầy đủ yêu cầu của đào tạo và NCKH.
Hoạt động tìm kiếm nguồn vốn xã hội cho các ngành nghiên cứu cơ
bản của Khoa học Xã hội còn thiếu cũng một phần do các ngành khoa học cơ
bản không thu hút được sự quan tâm của xã hội.
- Sự kết nối thông tin bị hạn chế, dẫn đến việc triển khai chính sách của
Nhà trường chưa thực sự đến từng cán bộ. Điều này do một số Khoa/Bộ môn
vẫn còn những hạn chế trong việc phổ biến, tuyên truyền chính sách, một số
cán bộ giảng dạy, nghiên cứu chưa nắm được hết thông tin dẫn đến hiệu quả
trong việc thực hiện chính sách chưa cao.
- Vẫn tồn tại tư tưởng biên chế ở một số nhân lực, đội ngũ này không
có nhu cầu nâng cao năng lực, trình độ hoặc thiếu sự chủ động, tự giác trong
việc thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường.
- Đội ngũ nhân lực KH&CN trẻ có xu hướng chảy chất xám, tham gia
nhiều công việc ở ngoài, điều này ảnh hưởng đến công việc giảng dạy và
nghiên cứu tại Trường.
2.5. Phân tích SWOT để đánh giá chính sách nhân lực KH&CN hiện nay
của Trƣờng ĐH KHXH&NV
2.5.1. Điểm mạnh
- Nhà trường đã thực hiện tốt các chính sách nhân lực KH&CN do Nhà
nước và ĐHQGHN ban hành, ngoài ra Nhà trường cũng ban hành và thực
hiện nhiều chính sách dành cho đội ngũ này. Kết quả đã mang lại lợi ích thiết
thực cho đội ngũ cán bộ từ việc vận dụng các chính sách đó.
- Chính sách tuyển dụng luôn đề cao về chất lượng. Do vậy đội ngũ
58
CBKH của Nhà trường có trình độ sau đại học ngày một tăng.
- Có những chính sách đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo và bồi
dưỡng chuyên môn, vì vậy đội ngũ cán bộ khoa học của Trường được thụ
hưởng chính sách đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao
kỹ năng làm việc.
- Chính sách khen thưởng, đãi ngộ có một số điểm mạnh như: khen
thưởng đúng người, đúng việc, công minh, minh bạch; có chính sách khen
thưởng đối với CBKH có bài báo khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế;
các CBKH có các công trình NCKH tiêu biểu...
- Ngoài ra, các chính sách nhân lực KH&CN hiện nay của Trường ngày
càng phù hợp hơn với nhu cầu và nguyện vọng của CBKH, trên cơ sở vận
dụng các chính sách của Nhà nước vào tình hình thực tế của Trường. Tất cả
các chính sách đều bám sát và hướng tới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
khoa học của một đại học ĐHNC.
2.5.2. Điểm yếu
- Tuy có rất nhiều chính sách cho đội ngũ nhân lực KH&CN nhưng các
chính sách chưa mang tính đồng bộ, chính sách quy hoạch, kế hoạch định
hướng phát triển nguồn nhân lực hiện nay vẫn còn đơn lẻ.
- Chưa triển khai chính sách thu hút nhà khoa học trình độ cao một
cách thường xuyên.
- Về đào tạo bồi dưỡng và chuyên môn nghiệp vụ chưa có chính sách
đào tạo, bồi dưỡng riêng và chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ khoa học.
- Chưa có các quy định về quy hoạch đội ngũ cán bộ khoa học. Đây là
lực lượng nòng cốt của hoạt động khoa học của Trường, là người định
hướng, chủ trì và tập hợp lực lượng nghiên cứu của các lĩnh vực chuyên môn
của Nhà trường.
- Một số đơn vị, một số giai đoạn chưa thực sự tạo được môi trường
59
thông thoáng nhằm khuyến khích hoạt động nghiên cứu sáng tạo; sự đãi ngộ,
tôn vinh đối với các nhà khoa học vẫn chưa xứng đáng với chất xám mà họ bỏ
ra cho các công trình nghiên cứu..
- Nguồn lực tài chính và cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu hỗ
trợ hiệu quả cho các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy theo tiêu chuẩn chất
lượng của ĐH ĐHNC; nguồn tài chính không dồi dào, chủ yếu dựa vào ngân
sách Nhà nước.
2.5.3. Cơ hội
Trong thời gian qua, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản để xây dựng, phát triển nhân lực khoa học và công nghệ, như Nghị quyết
số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ đã chỉ ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp
tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ. Hệ thống văn bản pháp luật
trong lĩnh vực khoa học và công nghệ đã được ban hành khá đầy đủ, với nhiều
nội dung mới đã tạo cơ sở pháp lý hiệu lực cao, đầy đủ, thống nhất và đồng
bộ cho việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ
chế hoạt động khoa học và công nghệ, xem đó là khâu đột phá để thúc đẩy
phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ. Đặc biệt
tác động tích cực từ các chủ trương, chính sách đối với sự phát triển giáo dục
đào tạo và khoa học công nghệ của Đảng và Nhà nước, nhất là đối với các
ngành Khoa học cơ bản.
Nhà nước tiếp tục có những “Đề án tăng cường năng lực đào tạo đội
ngũ trí thức trình độ tiến sĩ theo các chuẩn quốc tế đối với các cơ sở đào tạo
tiến sĩ trong nước” để tạo sự phát triển bền vững cho quốc gia (tương tự Đề án
322 và Đề án 911 gửi đi đào tạo ở nước ngoài). Đây là chính sách tạo cơ hội
cho đội ngũ nhân lực KH&CN ở các trường đại học đi học tập nâng cao trình
60
độ ở nước ngoài.
2.5.4. Thách thức
- Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình hội
nhập quốc tế sâu rộng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề đối với phát triển nhân
lực khoa học và công nghệ của nước ta. Trí tuệ ảo, kỷ nguyên số và sự phát
triển bùng nổ của các công nghệ liên ngành, đa ngành, xuyên ngành của cách
mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ không chỉ mang lại cơ hội mà còn đặt ra
những thách thức rất lớn đối với yêu cầu xây dựng và phát triển nhân lực khoa
học và công nghệ. Máy móc và trí tuệ nhân tạo thay thế cho sức người sẽ dẫn
đến hệ quả tất yếu là nhu cầu nhân công giá rẻ kỹ năng thấp sẽ nhường chỗ
cho nhu cầu đối với nhân lực trình độ cao; hơn lúc nào, yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực khoa học và công nghệ càng đặt ra yêu cầu cấp bách trong
mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Đội ngũ nhân lực
KH&CN trong các trường đại học ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ kỷ nguyên số. Sự thiếu hụt
các nhà khoa học, chuyên gia trình độ cao, trong nhiều lĩnh vực khoa học, đặc
biệt là trong lĩnh vực Khoa học Xã hội.
- Xu hướng "chảy máu chất xám" ngày càng diễn ra mạnh mẽ và gia
tăng trong nền giáo dục hiện đại, nhất là khi sự phân hóa thị trường lao động
diễn ra trên toàn cầu, sự cạnh tranh về nguồn lao động chất lượng cao diễn ra
trên phạm vi xuyên quốc gia đòi hỏi các Trường đại học phải có chính sách
thu hút, trọng dụng để giữ chân người tài. Các trường đại học nghiên cứu
đẳng cấp quốc tế yêu cầu nguồn lực tài chính dồi dào, chính sách quản trị phù
hợp và sự tập trung tài năng cao độ (sinh viên, giảng viên, các nhà nghiên
cứu). Để trường đi vào hoạt động và phát triển còn rất cần có những chính
sách thu hút tài năng và tạo điều kiện trong học tập, nghiên cứu. Tuy nhiên
nguồn nhân lực giảng dạy và nghiên cứu chất lượng cao lại được đón chào ở
rất nhiều nơi trên thế giới với mức lương và điều kiện làm việc vô cùng thuận
lợi. Việc thu hút được họ về đóng góp lâu dài tại các trường đại học ở các
61
nước đang phát triển là một việc không hề đơn giản.
- Xu hướng tự chủ đối với các trường đại học đang đến gần, đó là thách
thức lớn đối đặc biệt đối với các ngành khoa học cơ bản, trong đó các ngành
khoa học xã hội còn khó khăn hơn cả, nhất là trong việc duy trì nguồn tài
chính ổn định cung cấp cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ. Theo nguyên tắc, những nghiên cứu khoa học và công nghệ cao cần
nguồn đầu tư lớn và thường khó đem lại lợi nhuận về mặt tài chính trong ngắn
hạn. Vì vậy, đảm bảo nguồn tài chính là việc làm hết sức cần thiết trong các
dự án dài hơi.
- Ngoài ra, tạo ra môi trường làm việc tốt cho giảng viên cũng là một
thách thức thực sự. Việc cân đối thời gian giữa giảng dạy và nghiên cứu giúp
giảng viên có quỹ thời gian và năng lượng dành cho nghiên cứu là những yêu
cầu không thể thiếu. Đại đa số các giáo sư làm việc tại các trường đại học
hàng đầu đều chỉ phải dạy tương đối ít thường là một đến hai lớp trong một
học kỳ. Thời gian còn lại, họ chủ yếu dành cho nghiên cứu và tham gia các
hoạt động chuyên môn.
Trên cơ sở nhận diện những rào cản trong chính sách nhân lực
KH&CN và phân tích SWOT để đánh giá chính sách nhân lực KH&CN hiện
nay của Trường ĐH KHXH&NV với những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội,
thách thức đã nêu trên, tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách nhân
62
lực KH&CN trong chương 3.
Tiểu kết Chƣơng 2
Trong chương 2, tác giả đã phân tích và làm rõ một số vấn đề:
- Giới thiệu khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Trường
ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN.
- Tổng hợp, phân tích thực trạng nguồn nhân lực KH&CN, hiện trạng
các chính sách nhân lực KH&CN của Trường ĐH KHXH&NV. Qua phân
tích SWOT tác giả đưa ra những đánh giá khách quan đối với thực trạng
chính sách của Trường ĐH KHXH&NV hiện nay và nhận thấy: Nhìn chung
so với mặt bằng của cả nước và của ĐHQGHN, chất lượng nguồn nhân lực
KH&CN của Trường ĐH KHXH&NV là cao, tuy nhiên so với tiêu chuẩn về
nhân lực KH&CN của một ĐH ĐHNC thì còn những mặt chưa đáp ứng. Tuy
có nhiều chính sách cho đội ngũ nhân lực KH&CN nhưng các chính sách hiện
chưa mang tính đồng bộ, chưa thành một chiến lược tổng thể. Nguồn lực tài
chính và cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu hỗ trợ hiệu quả cho các
hoạt động nghiên cứu và giảng dạy theo tiêu chuẩn chất lượng của ĐH
ĐHNC; nguồn tài chính không dồi dào, chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước
Tác giả cũng đã nhận diện những rào cản trong chính sách nhân lực
KH&CN của ĐHQGHN và rào cản trong chính sách nhân lực KH&CN của
Trường ĐH KHXH&NV trên con đường hình thành ĐH ĐHNC. Từ cơ sở đó
đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN nhằm hình thành
63
ĐH ĐHNC ở chương 3.
CHƢƠNG 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
NHÂN LỰC KH&CN TRONG TRƢỜNG ĐH KHXH&NV
NHẰM HÌNH THÀNH ĐẠI HỌC ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
3.1. Kinh nghiệm về chính sách nhân lực KH&CN trong hệ thống giáo
dục một số nƣớc trên thế giới
Để học hỏi kinh nghiệm về chính sách nhân lực KH&CN trong hệ thống
giáo dục một số nước trên thế giới, tác giả lựa chọn một số nước có chính sách
nhân lực KH&CN có hiệu quả nổi bật như Singapore, Nhật Bản và Mỹ.
3.1.1. Kinh nghiệm về chính sách nhân lực KH&CN trong hệ thống giáo
dục ở Singapore
Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore được coi là hình mẫu về phát
triển nguồn nhân lực. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nhỏ bé này đã rất
thành công trong việc xây dựng một đất nước có trình độ dân trí cao và hệ
thống giáo dục phát triển hàng đầu châu Á.
Hệ thống giáo dục của nước này rất linh hoạt và luôn hướng đến khả
năng, sở thích cũng như năng khiếu của từng học sinh nhằm giúp các em phát
huy cao nhất tiềm năng của mình. Bên cạnh việc ứng dụng các tiến bộ của
khoa học - công nghệ mới vào giảng dạy, chương trình đào tạo của Singapore
luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách, truyền thống văn hóa dân tộc.
Chủ trương thu hút sinh viên quốc tế đến học tập, Chính phủ Singapore
miễn xét thị thực cho du học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài
chính, chi phí học tập vừa phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề
đào tạo đa dạng… Nhà nước Singapore chỉ đầu tư vào rất ít trường công lập
để có chất lượng mẫu mực, có chính sách tín dụng thích hợp để thu hút đào
tạo nhân tài. Đối với khối ngoài công lập, Chính phủ tạo điều kiện để phát
triển, khuyến khích việc liên thông, liên kết với nước ngoài, mời gọi các đại
64
học quốc tế đặt chi nhánh…
Chính phủ Singapore thực sự quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ các nhà
khoa học và kỹ sư làm việc trong các khu vực nghiên cứu triển khai và giáo
dục đại học. Ngân sách được sử dụng cho việc trang bị các thiết bị nghiên cứu
hiện đại ở các cơ quan nghiên cứu - triển khai nói chung, trong đó có các cơ
quan nghiên cứu - triển khai của các trường đại học. Nhiều học bổng được
cấp cho các cán bộ khoa học, bao gồm cả tham quan, khảo sát, tham dự các
hội nghị khoa học ở trong nước và quốc tế.
Chính phủ Singapore đã có một loạt những sáng kiến mới về cơ chế
quản lý nội bộ trong trường đại học và mối tương quan giữa chính phủ với các
trường đại học, nội dung bao gồm: sửa chữa pháp lệnh, xây dựng Hội đồng
trường, chính phủ thông qua Khung thỏa thuận trách nhiệm đảm bảo trách
nhiệm đối với các trường đại học. Ba trường đại học (Đại học Quốc gia
Singapore, Đại học Công nghệ Nanyang, Đại học Quản lý Singapore) thông
qua việc xây dựng cương lĩnh tổ chức và quy định hoạt động của mình, đăng
ký tự chủ với hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn phi lợi nhuận, hoạt động
theo khung pháp lý đối với công ty.
Sau khi tự chủ, Hội đồng trường trở thành bộ máy lãnh đạo cao nhất
trong nhà trường, quyết định mọi chiến lược phát triển của nhà trường, trường
có quyền quyết định sử dụng kinh phí, tuyển sinh, tự đưa ra tiêu chuẩn học
phí, toàn quyền quyết định vấn đề nhân sự và lương thưởng trong nhà trường.
Hàng năm nhà trường phải có trách nhiệm báo cáo, công khai công bố tình
hình phát triển của nhà trường, theo sự giám sát của Bộ giáo dục, các cơ quan
ban ngành liên quan của chính phủ và sự giám sát của xã hội. Năm năm lại
báo cáo chi tiết tình hình phát triển với Bộ giáo dục, để Bộ giáo dục đánh giá
chất lượng đào tạo.
Nhà trường có quyền tự quyết trong viêc tuyển dụng lao động, giáo
65
viên tuyển dụng ký hợp đồng ba năm một, sau 6 năm không đạt được chức
danh phó giáo sư thì nhà trường sẽ không tuyển dụng nữa, giáo viên thường
xuyên được đánh giá giờ giảng bởi Hội đồng khoa học khoa và sinh viên mới
được tiếp tục đứng lớp.
3.1.2. Kinh nghiệm về chính sách nhân lực KH&CN trong hệ thống giáo
dục ở Nhật Bản
Ở châu Á, Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong phát triển
nguồn nhân lực. Xuất phát từ việc xác định rằng, nước Nhật nghèo tài nguyên
thiên nhiên, để phát triển, chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật
Bản, Chính phủ nước này đã đặc biệt chú trọng tới giáo dục - đào tạo, thực sự
coi đây là quốc sách hàng đầu. Theo đó, chương trình giáo dục đối với cấp
tiểu học và trung học cơ sở là bắt buộc; tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6 đến
15 tuổi được học miễn phí. Kết quả là, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại
học, cao đẳng ở nước này ngày càng nhiều. Nhật Bản trở thành một trong
những cường quốc giáo dục của thế giới.
Ngày nay, Nhật Bản đã trở thành nước thu hút nhân lực KH&CN từ
khắp nơi trên thế giới nhờ các chính sách như thuê chuyên gia tư vấn nước
ngoài, đào tạo kỹ sư Nhật Bản ở ngoại quốc...
Cụ thể, các chuyên gia tư vấn nước ngoài làm việc tại Nhật Bản được
trả mức lương rất cao. Đã có thời điểm, lương cho các kỹ sư nước ngoài
chiếm đến 34% tổng ngân sách của Bộ Công nghiệp Nhật Bản. Phần lớn trong
số họ là cố vấn cấp cao, hiểu biết về các kỹ thuật tiên tiến. Bên cạnh đó,
Chính phủ Nhật cũng khuyến khích thay thế nhập khẩu nhân lực chất lượng
cao bằng kỹ sư nội địa thông qua việc cử sinh viên đi nước ngoài học tập,
đồng thời tăng cường đào tạo kỹ sư bậc trung trong nước. Các sinh viên ưu tú
- với danh nghĩa là người của chính phủ - được hỗ trợ tài chính để đi tu
nghiệp ở nước ngoài, cập nhật các tư tưởng và công nghệ tiên tiến nhất tại
66
những trường đại học hàng đầu ở Anh, Đức, Pháp, Hà Lan...
3.1.3. Kinh nghiệm về chính sách nhân lực KH&CN trong hệ thống giáo
dục ở Mỹ
Từ những thập niên cuối thế kỷ XX, Mỹ đã trở thành cường quốc hàng
đầu về tiềm lực kinh tế, quân sự và chính trị trên thế giới. Để thực hiện được
điều này, Mỹ đã xác định trọng tâm của mọi chiến lược là phát triển nguồn
nhân lực tài năng. Do đó, Chính phủ Mỹ đã triển khai đồng bộ các chính sách
phát hiện, đào tạo, đãi ngộ, sử dụng và thu hút nhân tài trên toàn thế giới về
làm việc cho nước Mỹ.
Với một chiến lược dài hạn, kinh phí cho giáo dục đại học của Mỹ
đến từ các nguồn khác nhau, như các công ty, tổ chức nhà nước, các tổ
chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo, nhà từ thiện… Nguồn kinh phí dồi
dào mang lại cho các trường khả năng xây dựng cơ sở vật chất hiện đại,
thuê giảng viên giỏi cũng như xây dựng quỹ hỗ trợ sinh viên. Trong giáo
dục đại học ở Mỹ, tính cạnh tranh giữa các trường rất khốc liệt. Nếu sinh
viên vào được các trường đại học tốt, nổi tiếng và học giỏi, cơ hội có việc
làm sẽ tăng lên rất nhiều.
Để phát triển nguồn nhân lực, Mỹ rất coi trọng môi trường sáng tạo và
khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều
lĩnh vực. Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho Mỹ - nước duy nhất
trên thế giới, cơ hội thu hút nguồn chất xám rất lớn, đó là rất nhiều các nhà
khoa học, bác học giỏi từ châu Âu và nhiều nước khác đã nhập cảnh vào Mỹ.
Thực tế này trả lời cho câu hỏi, tại sao hiện nay Mỹ là một trong những nước
có nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực.
Về phát hiện và tuyển chọn: Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX,
Mỹ đã quan tâm tới việc phát hiện trẻ em năng khiếu bằng cách sử dụng bộ
trắc nghiệm để đo chỉ số phát triển trí tuệ (IQ) của học sinh. Đến bậc học phổ
thông, việc phát hiện, tuyển chọn các học sinh năng khiếu thông qua các hình
67
thức: biểu diễn, thi đấu, thi viết, thi diễn thuyết… được tổ chức hàng năm,
qua đó lựa chọn những em có năng khiếu để có những hình thức giáo dục cho
phù hợp. Để có thêm các nguồn thông tin từ xã hội đối với việc phát hiện các
tài năng, Chính phủ Mỹ đã thành lập các trung tâm trưng cầu ý kiến để tuyển
dụng nguồn nhân lực trình độ cao và thực hiện tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt
và tuyệt đối loại trừ các hành vi gian lận. Đặc biệt, phương pháp tuyển chọn
quan chức của Mỹ là tuyển chọn thông qua các cuộc thi tuyển công khai, dân
chủ và tạo môi trường cạnh tranh để lựa chọn được người thật sự tài năng mà
không phân biệt thành phần xuất thân, giới tính, tín ngưỡng hay đảng phái
chính trị.
Về đào tạo và bồi dưỡng: Mỹ đặc biệt coi trọng giáo dục đại học trong
công tác đào tạo và bồi dưỡng phát triển nhân tài. Việc đào tạo và bồi dưỡng
nhân tài "ở Mỹ được thực hiện một cách có hệ thống và được luật hóa, đó
chính là một trong những nguyên nhân tạo cho nước Mỹ có nhiều nhân tài”.
Năm 1958, sau khi Liên Xô lần đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo,
Quốc hội Mỹ đã thông qua Luật Giáo dục Quốc phòng về hỗ trợ ngân sách
nhà nước nhằm đẩy mạnh đào tạo sinh viên các ngành nghiên cứu cơ bản,
phát hiện và phát triển nhân tài, trong đó có khẳng định: “Không một sinh
viên tài năng nào phải từ chối tiếp nhận học vấn đại học chỉ vì thiếu tiền cho
việc chi phí học tập”. Đến năm 1972, Mỹ thông qua Luật giáo dục đại học để
phát triển lực lượng lao động trình độ cao và phát triển nhân tài cho nước Mỹ.
Cùng với việc đầu tư từ ngân sách nhà nước cho đào tạo nhân lực thì
Mỹ còn huy động được nhiều nguồn lực khác từ trong xã hội. Chính nhờ
những chính sách phát triển giáo dục mà nước Mỹ ngày nay có một hệ thống
giáo dục đại học đạt trình độ tiên tiến bậc nhất thế giới và đào tạo được rất
nhiều nhân tài cho nước Mỹ và cho toàn thế giới. Phần lớn các nhà khoa học
đạt giải thưởng Nobel về khoa học trong những thập niên gần đây đều tập
68
trung ở Mỹ.
Về thu hút và trọng dụng nhân tài: Để giữ vị trí siêu cường về kinh tế,
khoa học và công nghệ, Chính phủ Mỹ luôn xác định rõ phương châm “nguồn
nhân lực là trung tâm của mọi sự phát triển” và tập trung vào đào tạo nguồn
nhân lực, thu hút nhân tài. Tính riêng tại Mỹ trong những năm 1960 đã thu hút
khoảng 15.000 bác sĩ, 13.000 kỹ sư, 5.500 nhà khoa học tự nhiên đến từ các
quốc gia Châu Á, Châu Phi, Mỹ Latinh. Năm 1998, với việc thông qua Luật về
sức cạnh tranh của Mỹ thực chất là chiếm đoạt nhân tài trên thế giới, nhất là
nhân tài ở các nước đang phát triển. Mỹ đã thực hiện chính sách cấp học bổng
cho lưu học sinh đến học và trả lương cộng với tiền thưởng cao để thu hút nhân
tài trên toàn thế giới đến Mỹ học tập và nghiên cứu. Trong 10 năm từ 1991-
2000, bình quân mỗi năm Mỹ cấp bằng Tiến sĩ cho khoảng 26.000 người, trong
đó người Mỹ chiếm 59%, còn 41% là đến từ các nước khác.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rõ, coi trọng và quyết tâm thực
thi chính sách giáo dục - đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển nhanh và bền vững. Cụ thể là chính
sách khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài, chính
sách này quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực KH&CN.
Bên cạnh đó, chính sách không kém phần quyết định để thúc đẩy sự
phát triển của nguồn nhân lực KH&CN tại các nước là chính sách đãi ngộ,
trọng dụng và tạo môi trường sáng tạo, học thuật tự do và cởi mở. Môi trường
học thuật luôn được đảm bảo là môi trường học thuật lành mạnh; tự do học
thuật. Ở các nước trên rất coi trọng môi trường sáng tạo và khuyến khích phát
triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh vực.
Ngoài ra, nguồn kinh phí dồi dào mang lại cho các trường khả năng xây
dựng cơ sở vật chất hiện đại, thuê giảng viên giỏi cũng như xây dựng quỹ hỗ
trợ sinh viên. Các trường đều có chính sách và cơ chế để CBKH tự tìm nguồn
lực tài chính đầu tư cho nghiên cứu. Có chính sách lương, thưởng thật sự
69
xứng đáng với năng lực và thành tích của mỗi cá nhân.
3.2. Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN nhằm
hình thành đại học định hƣớng nghiên cứu
3.2.1. Cơ sở đề xuất giải pháp
Luật giáo dục Đại học số 08/2012/QH2013, và Nghị định số
141/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật giáo dục đại học; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật giáo dục Đại học số 34/2018/QH14 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01
tháng 07 năm 2019.
Nghị định số 186/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Đại học Quốc gia và
Quyết định số 26/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành
Quy chế về Tổ chức và Hoạt động của Đại học Quốc gia và các cơ sở giáo
dục đại học thành viên làm tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho
ĐHQGHN và các trường đại học thành viên.
Nghị quyết 20-NQ/TW của Hội nghị BCH Trung ương Đảng khóa XI
(Nghị quyết TW6) về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế xác định: “Đến năm 2020, KH&CN Việt Nam đạt trình độ
phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh
vực đạt trình độ tiên tiến thế giới…”.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã chỉ ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ
yếu nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ.
Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 quy định việc sử dụng,
trọng dụng cá nhân hoạt động KH&CN.
Nghị định số 99/2014/NĐ-CP quy định việc đầu tư phát triển tiềm lực
70
và khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại học.
Trong các văn bản trên, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa XII có mục tiêu đề ra là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số
lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các
thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp
hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Để đạt được
mục tiêu như vậy, cần có các giải pháp đồng bộ, trong đó giải pháp có tính
chất quyết định là yếu tố con người. Giải pháp này cần tập trung vào việc
“xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ,
tôn vinh đội ngũ cán bộ KH&CN; tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất
để đội ngũ cán bộ KH&CN phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng
đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình”
3.2.2. iải pháp hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN
Với mục tiêu phát triển Trường trở thành trường đại học ĐHNC, Nhà
trường cần phải xây dựng chiến lược tổng thể và lâu dài, trong đó việc hoàn
thiện và thực thi chính sách nhân lực KH&CN đáp ứng yêu cầu đại học
ĐHNC là nhân tố quyết định. Trên cơ sở điều kiện và tình hình thực tế của
Trường hiện nay, tác giả đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện chính sách
nhân lực KH&CN của Nhà trường.
a. Giải pháp để hoàn thiện chính sách tuyển dụng, thu hút
Chính sách tuyển dụng của ĐHQGHN được ban hành theo Quyết định
số 3768/QĐ-ĐHQGHN ngày 22/10/2014 là chính sách tuy có điểm hạn chế
nhưng cũng tạo sự thuận lợi cho các Trường trong công tác tuyển dụng viên
71
chức, theo đó khi có nhu cầu tuyển dụng một vị trí giảng viên, ứng viên dự
tuyển đáp ứng đủ tiêu chuẩn chung của Nhà nước và của ĐHQGHN thì Hiệu
trưởng Nhà trường được quyết định việc xét tuyển đặc cách; tổ chức thẩm
định hồ sơ của ứng viên, tổ chức xét tuyển đặc cách. Hình thức tuyển dụng
đặc cách đã thực sự có hiệu quả trong thời gian qua, Nhà trường đã tuyển
chọn được đúng người và kịp thời đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm. Tuy
nhiên, hiện nay Nhà nước ban hành Nghị định số 161/2018/NĐ-CP ngày
29/11/2018 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 03/2019/TT-BNV ngày
14/5/2019 của Bộ Nội vụ về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển
dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh
nghề nghiệp viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc
trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, quy định việc
thi tuyển, xét tuyển công chức, viên chức sẽ diễn ra trong 02 vòng, không
thực hiện hình thức xét tuyển đặc cách, điểm này gây khó khăn cho Trường
trong việc tuyển dụng. Do đó, để có thể thu hút nguồn nhân lực KH&CN chất
lượng cao, Nhà trường có cần có chính sách đột phá về thu hút nhân tài trong
bối cảnh di động xã hội giữa các ngành đang mạnh mẽ như hiện nay, cần xây
dựng kế hoạch, tiêu chí để thu hút nhân tài một cách chủ động, tích cực.
Cần có chính sách đặc thù về tuyển dụng nhân lực KH&CN cho một
số ngành khó tuyển người có trình độ tiến sĩ.
Cần có chính sách thu hút, quản lý và sử dụng nguồn nhân lực ảo trong
thời đại trí tuệ ảo, kỷ nguyên số và sự phát triển bùng nổ của các công nghệ
liên ngành, đa ngành, xuyên ngành của cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Chính sách thu hút bằng vật chất, tạo môi trường làm việc thuận lợi
+ Tập trung vào hình thức thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc
biệt là những nhà khoa học trong nước hiện đang học tập và công tác tại các
nước tiên tiến, các trường ĐHNC trên thế giới về công tác thông qua việc ký
Hợp đồng lao động có mức lương phù hợp với năng lực, trình độ, tạo môi
72
trường làm việc thuận lợi nhất để các nhà khoa học làm việc và cống hiến.
+ Ngoài tiền lương theo hệ số thang bảng lương của Nhà nước, Trường
cần quy định hỗ trợ thu nhập tăng thêm riêng biệt dành cho nhóm đối tượng
nhân lực chất lượng cao thông qua việc giao công việc với trách nhiệm và
quyền lợi rõ ràng.
+ Tạo môi trường làm việc thuận lợi, hỗ trợ cơ sở vật chất để các nhà
khoa học được khẳng định mình, thỏa sức sáng tạo. Đặc biệt, các nhà khoa
học có chức danh giáo sư, phó giáo sư cần phải có một môi trường nghiên cứu
khoa học thật sự nhằm phát huy tối đa trí tuệ để đóng góp cho Nhà trường.
+ Tùy theo trình độ, khả năng của nhóm đối tượng nhân lực chất lượng
cao cần có sự phân công, bố trí công việc cho đúng người, đúng việc, bảo
đảm có sự dẫn dắt, kèm cặp và hỗ trợ, đặc biệt là lúc ban đầu sau khi thu hút..
Đây là công việc rất quan trọng và quyết định sự thành công, mức độ gắn bó
của nguồn nhân lực chất lượng cao; việc phân công hợp lý sẽ tạo động lực
cho họ làm việc hiệu quả hơn, chất lượng công việc tốt hơn và họ phát huy
được thế mạnh, niềm đam mê cá nhân.
Những giải pháp trên sẽ giúp thu hút được đội ngũ nhân lực KH&CN
chất lượng cao, có năng lực thực sự, khả năng làm việc thực tiễn cao, rút ngắn
thời gian để đạt được đội ngũ cán bộ KH&CN đạt chuẩn đáp ứng yêu cầu của
trường đại học ĐHNC.
b. Giải pháp nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học
Nhằm tạo ra những mô hình giảng viên mới, những giảng viên nghiên
cứu thì số giờ giảng dạy phải được giảm bớt để có thời gian cho nghiên cứu
và đăng tải các công trình khoa học trên các tạp chí quốc tế.
Trong những năm gần đây chính sách khen thưởng bằng vật chất nhằm
hỗ trợ thúc đẩy công bố quốc tế đã đưa lại hiệu quả tích cực. Trường ĐH
KHXH&NV ngay từ năm 2010 đã có chính sách khen thưởng công bố, hỗ trợ
từ 5 đến 10 triệu/bài viết được công bố quốc tế và trên 1.5 triệu/bài đăng trên
73
tạp chí có chỉ dẫn index cao thuộc nhóm ISI và Scopus. Năm 2018, Nhà
trường đã ra quyết định hỗ trợ từ 100 đến 200 triệu đồng cho các sách chuyên
khảo và kỷ yếu khoa học được công bố quốc tế. Nhờ có những chính sách kịp
thời, mạnh mẽ như vậy mà số lượng và chất lượng công bố của Nhà trường đã
tăng nhanh trong thời gian qua (xem bảng 2.8. Số lượng công trình khoa học
giai đoạn 2014-2018 và bảng 2.11. Thống kê kinh phí khen thưởng công bố
quốc tế giai đoạn 2014-2018). Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng giải pháp này
cần được hỗ trợ bằng một loạt các quy định khác như quy định ưu tiên tăng
bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ khoa học có công bố quốc tế, bổ
nhiệm chức danh khoa học GS và PGS, tài trợ các dự án nghiên cứu khoa học
và tham gia hội thảo quốc tế, tiếp xúc học thuật để duy trì tác động bền vững.
Nhiều trường đại học trong khu vực ASEAN và Đông Á cũng sử dụng đòn
bẩy kinh tế này để thúc đẩy công bố quốc tế.
Thay đổi căn bản phương pháp giáo dục ở đại học theo hướng nghiên
cứu thay vì vẫn duy trì hình thức giảng dạy kiểu truyền đạt tri thức một chiều
đã trở nên xưa cũ. Nhà trường nên tiếp tục mở các lớp tập huấn định kỳ hoặc
thường xuyên về phương pháp nghiên cứu và kỹ năng viết bài theo chuẩn
mực quốc tế cho cán bộ nghiên cứu. Mời các chuyên gia quôc tế có uy tín để
chia sẻ thông tin và hướng dẫn các kỹ năng cần thiết.
ĐHQGHN và Nhà trường giao nhiệm vụ cho các nhóm nghiên cứu
mạnh, kèm theo giao kinh phí và chỉ tiêu công bố quốc tế. Các nhóm nghiên
cứu được tự chủ về kinh phí và hoạt động để có hiệu quả cao nhất. Hoạt động
của các nhóm nghiên cứu cần được tính đến và đặt trong chiến lược phát triển
công bố quốc tế dài hơi của Nhà trường.
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Cụ
thể là, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, công nghệ thông tin,
phương tiện dạy học trong dạy học và quản lý đào tạo. Nâng cao chất lượng
nghiên cứu khoa học trong Nhà trường, gắn nghiên cứu với các hoạt động
74
chuyển giao tại cơ sở. Xác định xây dựng Trường thành trường đại học
ĐHNC nên công bố khoa học quốc tế là điều bắt buộc, Nhà trường cần tiếp
tục đẩy mạnh các chính sách phù hợp, như xây dựng Quỹ nghiên cứu hỗ trợ
cán bộ trong việc thực hiện đề tài...
Tăng cường trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm với các trường đại
học, giữa các viện nghiên cứu giáo dục, trường học trong nước với các viện,
trường nước ngoài, cần tăng cường chính sách hợp tác nghiên cứu giữa các
trường đại học trong nước và các trường đại học trên thế giới. Bên cạnh đó,
tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chủ động
trong cách tiếp cận để chuyển những hỗ trợ tiềm năng thành nguồn vốn.
Vấn đề ngoại ngữ thường được nêu lên như một rào cản chính của công
bố quốc tế. Đó là một thực tế không thể xem nhẹ. Phần đông cán bộ làm công
tác nghiên cứu ở các cơ quan khoa học và trường đại học hiện nay được đào
tạo trong nước. Họ ít có cơ hội tiếp cận các nguồn tài liệu nước ngoài, ít tham
gia hội thảo khoa học và hợp tác quốc tế nên mơ hồ về cộng đồng khoa học
thế giới và không cập nhật được những thảo luận hay phát hiện mới trong lĩnh
vực mình nghiên cứu. Do không thường xuyên tiếp xúc với không khí học
thuật quốc tế, cảm giác xa lạ và ngại ngần với công bố quốc tế là điều dễ hiểu.
Trong chính sách tuyển dụng cán bộ khoa học và NCS làm luận án tiến sỹ,
ngoại ngữ thường được đặt ra như một yêu cầu bắt buộc nhưng vẫn ở mức
thấp và có tính hình thức. Do đó, cần phải tiếp tục phát huy chính sách đào
tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ, tăng cường hỗ trợ và có chế tài để thúc đẩy đội
ngũ cán bộ KH&CN đạt chuẩn ngoại ngữ quốc tế góp phần tăng công bố quốc
tế trong lĩnh vực KHXH&NV.
Một số chính sách khuyến khích cụ thể như:
Tăng mức hỗ trợ cho các cán bộ đi tham dự hội thảo tại nước ngoài nếu
có bài báo cáo và trình bày báo cáo bằng ngoại ngữ và phải tự túc toàn bộ
75
kinh phí.
Tăng mức thưởng đối với các công bố quốc tế trên tạp chí có uy tín
trong danh mục ISI/SCOPUS.
Tạo điều kiện tối đa cho cán bộ khoa học tiếp cận nguồn tài liệu trên
thế giới thông qua việc Nhà trường mua tài khoản từ các nguồn cơ sở dữ liệu
khoa học cho cán bộ sử dụng như như Spinger, Sciencedirect....
Ngoài ra, để nâng cao số lượng và chất lượng công bố khoa học, cần
một loạt các giải pháp tương hỗ và những nỗ lực lâu dài, không chỉ từ phía
các Nhà trường mà còn cần sự hợp tác và nỗ lực vươn lên khẳng định mình
của chính các nhà nghiên cứu là giảng viên, nghiên cứu viên trong trường.
c. iải pháp hoàn thiện chính sách lương, đãi ngộ, tạo môi trường
làm việc thuận lợi cho đội ngũ nhân lực KH&CN
Thực tế hiện nay, hầu hết cán bộ trẻ trong trường có mức thu nhập rất
thấp. Với mức lương hiện tại không đủ cho họ trang trải cuộc sống hàng ngày.
Vì vậy, nhiều cán bộ trẻ tham gia các công việc khác ở ngoài để tăng thêm thu
nhập. Thời gian dành cho nghiên cứu, nâng cao năng lực khoa học cũng vì thế
bị thu hẹp gần như tối thiểu. Những cán bộ trẻ buộc phải lựa chọn một bên là
cuộc sống, một bên là nhiệt huyết, đam mê khoa học, mong muốn khẳng định
năng lực sáng tạo và khả năng nghiên cứu của mình, trong khi nghiên cứu
khoa học không đủ trang trải cho mức sống của họ. Do đó, cần có chính sách
đãi ngộ thỏa đáng đối với những cán bộ KH&CN. Cơ chế trả lương cần gắn
với kết quả, hiệu quả thực hiện công việc, nhiệm vụ được giao đối với cán bộ
KH&CN. Đây là điều rất quan trọng, bởi nếu thực hiện được thì không chỉ
thu hút, giữ chân được nhân tài, chuyên gia đầu ngành về KH&CN mà còn
giúp giữ gìn phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ KH&CN.
NCKH ở Trường chủ yếu là nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản thì
khó thương mại hóa, vì vậy phần lớn phải trông chờ vào kinh phí hỗ trợ từ
76
ngân sách. Do vậy, cần có chính sách đổi mới cơ chế xét duyệt cũng như
nghiệm thu, thanh quyết toán đề tài nghiên cứu. Việc xét duyệt và cấp kinh
phí cần nghiêm túc, minh bạch và được tiến hành bởi các hội đồng khoa học
thực sự đảm bảo về chất lượng chuyên môn cũng như tính khách quan trong
đánh giá. Việc nghiệm thu, thanh quyết toán nên theo cơ chế khoán sản phẩm
vì sản phẩm đầu ra là thước đo hiệu quả nhất cho việc thực hiện đề tài. Cơ chế
khoán cũng giúp CBKH lược bỏ bớt những khâu trung gian, những thủ tục
hành chính rườm rà, giúp CBKH tiết kiệm được thời gian và tâm sức để tập
trung cho công tác chuyên môn.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí từ quỹ phát triển hoạt động
sự nghiệp để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, tạo môi trường làm việc tốt
nhất cho đội ngũ nhân lực KH&CN.
d. iải pháp hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
Tiếp tục ban hành và thực thi chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
kiến thức về chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ: cử cán bộ đi học, tham gia
các hội nghị, hội thảo, mời các chuyên gia trong các lĩnh vực để chia sẻ
hướng dẫn hoặc hợp tác nghiên cứu, kết hợp đào tạo.
Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng tập trung theo
hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu; mỗi chức danh, mỗi vị trí việc làm được
bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng phù hợp, thiết thực với công việc đang
đảm nhận.
Về chuyên môn: Tiếp tục khảo sát nhu cầu đào tạo của cán bộ
KH&CN theo từng năm, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng bám
sát nhu cầu thực tiễn. Tiếp tục cử cán bộ đi đào tạo tại các cơ sở nước ngoài
bằng ngân sách Nhà nước” (theo Đề án 911). Với hình thức này các cán bộ
sẽ không chỉ học hỏi được trình độ các nước tiên tiến mà còn học tập phong
cách làm việc, kỹ năng làm việc, v.v.. để sau khi trở về áp dụng vào môi
77
trường làm việc của mình.
Cử cán bộ đi trao đổi khoa học ngắn hạn trong và ngoài nước theo các
hình thức khác nhau. Trao đổi khoa học sẽ mở ra tầm nhìn mới cho nhiều nhà
khoa học về định hướng nghiên cứu, về bức tranh khoa học hiện tại và tăng
cường cơ hội hợp tác quốc tế, giúp cán bộ học tập được nhiều kỹ năng, tự tin
trong NCKH và công bố bài báo quốc tế.
Tăng cường chất lượng đào tạo cán bộ trong nước, đặc biệt là việc phát
tận dụng tối đa nguồn nhân lực là vô cùng quan trọng. Trường sử dụng chính
nguồn nhân lực chất lượng cao để đào tạo cho những cán bộ không có cơ hội
xin được học bổng đi học ở nước ngoài.
Về kỹ năng: Tiếp tục đổi mới và áp dụng các phương pháp truyền đạt
kiến thức theo từng đối tượng đào tạo, bồi dưỡng như: thuyết trình, làm việc
theo nhóm, nghiên cứu tình huống, thảo luận. ..trong bồi dưỡng kỹ năng,
phương pháp trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Bồi dưỡng kỹ năng
hoạt động KH&CN, bao gồm kỹ năng xây dựng đề tài, dự án, kỹ năng quản lý
đề tài, dự án, kỹ năng hoạt động khoa học theo nhóm nghiên cứu, đào tạo, bồi
dưỡng theo ê-kíp để thúc đẩy việc hình thành và phát triển các nhóm nghiên
cứu, nhóm nghiên cứu mạnh.
Chú trọng hơn nữa việc bồi dưỡng ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh, nâng
cao khả năng hội nhập quốc tế trong giảng dạy và NCKH thông qua việc tiếp
tục hỗ trợ cán bộ đạt chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế, mở các khóa bồi dưỡng
ngoại ngữ ngắn và dài hạn. Khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng đầu vào
trước mỗi khóa bồi dưỡng để xây dựng chương trình bồi dưỡng phù hợp nhất
cho đối tượng tham gia để góp phần tăng chất lượng đầu ra cuối khóa.
Để thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng một cách hiệu quả, việc
đảm bảo trước tiên là kinh phí dành cho hoạt động này. Do đó, Nhà trường
cần lập dự toán, quản lý và sử dụng hợp lý nguồn kinh phí cho hoạt động đào
78
tạo, bồi dưỡng góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Nhà trường
e. Giải pháp hoàn thiện chính sách sử dụng, quy hoạch, phát triển
đội ngũ nhân lực KH&CN
Việc quy hoạch, phát triển đội ngũ cán bộ KH&CN phải hướng đến
việc quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ có chuyên môn giỏi, các
chuyên gia đầu ngành ở các lĩnh vực. Ưu tiên đào tạo các chuyên gia, cán bộ
KH&CN có trình độ cao, coi đây là những giải pháp có tính đột phá trong
chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ KH&CN. Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ KH&CN theo từng lĩnh vực, phù hợp với kế hoạch phát triển của
Nhà trường. Hàng năm, có tổng kết, đánh giá kết quả, tìm nguyên nhân và
đưa ra giải pháp thích hợp.
Việc bố trí, sử dụng, điều động, luân chuyển cán bộ KH&CN phải đảm
bảo đúng tiêu chuẩn, phù hợp với năng lực, sở trường. Phải căn cứ yêu cầu
nhiệm vụ, tiêu chuẩn của từng chức danh nghề nghiệp của cán bộ khoa học và
công nghệ để lựa chọn người phù hợp; bổ nhiệm khi họ đang có khả năng
cống hiến tốt nhất.
Việc bổ nhiệm chức danh khoa học cần dựa trên các thành tích đạt
được và đóng góp cho khoa học, không nên chỉ dựa vào các tiêu chuẩn để bổ
nhiệm chức danh, càng không nên chỉ dựa vào báo cáo thành tích của cá nhân
mà chưa qua kiểm chứng trên thực tế (phải qua đánh giá hiệu quả hoạt động
nghề nghiệp, với những sản phẩm cụ thể) để bổ nhiệm chức danh khoa học,
và thăng hạng chức danh nghề nghiệp.
Đội ngũ quản lý cũng cần được chuẩn hóa trên cơ sở chức danh nghề
nghiệp gắn với vị trí việc làm. Đội ngũ này phải có đủ năng lực làm việc
trong môi trường sáng tạo cao và tự chịu trách nhiệm. Do vậy, cần tổ chức các
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ quản lý để đáp ứng yêu cầu công
việc. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ và hiệu
79
quả công tác.
Đổi mới cơ chế quản trị: Bao gồm cách quản trị và quản lý nhà trường
hướng tới cơ chế tự chủ cao; có kế hoạch và chiến lược phát triển nhà trường
rõ ràng theo định hướng ĐHNC.
f. iải pháp tăng cường nguồn lực tài chính cho Nhà trường
Nhằm xây dựng trường ĐH ĐHNC thì nguồn lực tài chính và cơ sở hạ
tầng đóng vai trò vô cùng quan trọng và nhu cầu cần huy động nguồn lực tài
chính là rất lớn. Trong khi đó, nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước còn hạn
hẹp thì việc tăng cường huy động và huy động có hiệu quả các nguồn lực tài
chính cho Nhà trường trở thành một yêu cầu cấp thiết.
Đặc biệt là phải xây dựng được chiến lược tài chính hợp lý cho đầu tư
cơ sở vật chất trong ngắn hạn và dài hạn; Coi trọng và tích cực tìm kiếm, thu
hút nguồn lực tài chính từ các nguồn dự án, nguồn vốn viện trợ nước ngoài.
Ngoài ra, để huy động nguồn lực tài chính Nhà trường có thể huy động
từ các hoạt động gây quỹ để kêu gọi sự đóng góp từ cộng đồng các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp dưới hình thức quà tặng, quỹ từ thiện…
3.3. Điều kiện cần và đủ để hoàn thiện chính sách
3.3.1. Điều kiện cần
Trong mục 3.2 tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN trong trường đại học theo định
hướng trở thành đại học định hướng nghiên cứu, tuy nhiên để thực hiện được
điều đó cần nhiều điều kiện khác, trong đó quan trọng nhất là xây dựng cơ sở
pháp lý và cơ chế đảm bảo sự điều tiết vĩ mô về KH&CN của Nhà nước và
hình thành thiết chế tự chủ thực sự trong các trường đại học.
a. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế, chính
sách quản lý và phát triển hệ thống giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập
quốc tế. Trong đó có cơ chế tự chủ của các trường đại học. Theo quan điểm
giáo dục đại học của các nước phương Tây, tự chủ là một khái niệm rất quan
80
trọng và được xem là một giá trị căn bản của trường đại học, như đã được tái
khẳng định trong tuyên bố Magna Charta Universitatum tại Bologna năm
1988. Tự chủ là điều kiện tối cần thiết để một trường đại học có thể tồn tại và
hoàn thành sứ mạng đã đề ra. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015
về cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập đã xác định những cơ chế
tự chủ bao gồm: Tự chủ về quản trị; Tự chủ trong hoạt động chuyên môn; tự
chủ về tài chính. Trong đó tự chủ trong hoạt động chuyên môn như tự chủ về
chương trình đào tạo, tiêu chuẩn giảng viên, các hoạt động nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ... được xem là cốt yếu vì nó liên quan trực tiếp đến
các hoạt động hàng ngày của một trường đại học. Do đó, Nhà nước cần phải
xây dựng khuôn khổ pháp lý và cơ chế, chính sách cho các cơ sở giáo dục -
đào tạo đại học thực hiện cơ chế tự chủ.
Xây dựng cơ sở pháp lý và cơ chế đảm bảo sự điều tiết vĩ mô về
KH&CN của Nhà nước. Trả lại quyền tự trị về khoa học cho các trường đại
học, ví dụ như trả lại các chức danh khoa học cho các trường đại học,khi đó
không còn khái niệm GS/PGS của cả nước.Chức vụ GS/PGS mới thực sự gắn
với vị trí việc làm, các cơ sở đào tạo bổ nhiệm, sử dụng các vị trí việc làm
này, và các cơ sở giáo dục đại học miễn nhiệm các chức vụ này...Cố gắng
tránh tối đa lối tư duy hành chính hóa. Nhà nước chỉ thực hiện vai trò giám
sát, kiểm tra, đánh giá.
b. Cần sớm có chính sách xếp lương và trả lương dành riêng cho nhân
lực KH&CN làm việc trong lĩnh vực khoa học giáo dục. Có chính sách đãi
ngộ thỏa đáng đối với những cán bộ KH&CN. Cơ chế trả lương cần gắn với
kết quả, hiệu quả thực hiện công việc, nhiệm vụ được giao đối với cán bộ
KH&CN. Đây là điều rất quan trọng, bởi nếu thực hiện được thì không chỉ
thu hút, giữ chân được nhân tài, chuyên gia đầu ngành về KH&CN mà còn
giúp giữ gìn phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ KH&CN.
Cơ chế trả lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ của Nhà nước phù
81
hợp cũng sẽ góp phần quan trọng trong việc động viên cán bộ KH&CN (nhất
là nhóm cán bộ KH&CN trẻ mới bước vào nghề) thu hút được nhân tài và
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ KH&CN.
c. Phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục,
phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Để hiện thực
hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, cần xây dựng chiến lược phát triển
nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
3.3.2. Điều kiện đủ
Để thực hiện các giải pháp hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN
trong Trường ĐH KHXH&NV nhằm hình hành đại học định hướng nghiên
cứu thì cần hội tụ đủ các yếu tố sau:
Có kế hoạch và chiến lược phát triển Nhà trường rõ ràng theo định
hướng ĐHNC.
Có đủ nguồn lực như: nhân lực, tài lực (tài chính), vật lực (cơ sở vật
chất), tin lực (thông tin) phục vụ và thực thi chính sách nhân lực KH&CN.
Xây dựng môi trường học thuật lành mạnh, tự do học thuật, sáng tạo và
khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều
lĩnh vực để các cá nhân giảng dạy và NCKH phát huy tối đa năng lực và
82
hưởng lợi ích xứng đáng với kết quả công việc.
Tiểu kết Chƣơng 3
Chương 3 của luận văn tác giả đã tổng kết bài học kinh nghiệm từ các
chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN trong hệ thống giáo dục của
một số nước trên thế giới. Từ đó, cho thấy điều kiện tiên quyết để giải quyết
vấn đề là: Hình thành cơ chế tự chủ thực sự cho các trường đại học. Tự chủ
trong giáo dục đại học và tự do học thuật là nguyên tắc quan trọng chi phối
hoạt động, sự phát triển và tồn tại của các trường đại học.
Tuy nhiên, với tình hình của Việt Nam hiện nay, vẫn còn tư tưởng nặng
hành chính hóa, Nhà nước không chỉ có vai trò quản lý vĩ mô mà có vai trò
quyết định nhiều hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Do đó, Nhà nước
phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại và hội nhập quốc tế, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý. Xây dựng cơ sở pháp lý và cơ chế đảm bảo sự
điều tiết vĩ mô về KH&CN của Nhà nước.
Trên cơ sở lý thuyết trình bày ở chương 1, tác giả đã đánh giá thực
trạng nhân lực KH&CN và thực trạng chính sách nhân lực KH&CN tại
Trường ĐH KHXH&NV; phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức
để chỉ ra những điểm tồn tại trong chính sách nhân lực KH&CN. Từ đó, đưa
ra giải pháp để hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN nhằm hình thành ĐH
ĐHNC. Trong các giải pháp tác giả nhấn mạnh vào những vấn đề trọng tâm:
giải pháp để hoàn thiện chính sách tuyển dụng, thu hút; giải pháp nhằm nâng
cao năng lực nghiên cứu khoa học; giải pháp hoàn thiện chính sách lương, đãi
ngộ, tạo môi trường làm việc thuận lợi cho đội ngũ nhân lực KH&CN; Giải
pháp hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng; Giải pháp hoàn thiện chính
sách sử dụng, quy hoạch, phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN; Giải pháp
83
tăng cường nguồn lực tài chính cho Nhà trường.
KẾT LUẬN
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN là một trường
đại học hàng đầu của cả nước về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
Trường có sứ mệnh đi đầu trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình
độ cao, nghiên cứu, sáng tạo và truyền bá tri thức về Khoa học Xã hội và
Nhân văn. Trong đó, chất lượng đào tạo, thành tích nghiên cứu khoa học và
hội nhập quốc tế được xem là những tiêu chí quan trọng hàng đầu. Việc bảo
đảm chất lượng đào tạo cần phải coi trọng hoạt động nghiên cứu khoa học,
đặc biệt là định hướng trở thành trường đại học nghiên cứu trong tương lai.
Đề tài luận văn: Hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN trong trường đại
học nhằm hình thành đại học định hướng nghiên cứu (nghiên cứu trường hợp
Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN), đã đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện những chính sách nhân lực KH&CN hiện có của Trường đáp ứng mục
tiêu hình thành đại học định hướng nghiên cứu. Cụ thể, Tác giả nghiên cứu
cơ sở lý luận về chính sách nhân lực KH&CN trong trường đại học. Đưa ra
những khái niệm và quan điểm cơ bản về ĐHNC trên thế giới; Đã nghiên cứu
và đưa ra những khái niệm về nguồn nhân lực KH&CN, cơ cấu nguồn nhân
lực KH&CN trong trường ĐH ĐHNC.
Tác giả đã khảo sát, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực KH&CN, thực
trạng chính sách nhân lực KH&CN của Trường ĐH KHXH&NV trong giai
đoạn 2014-2018. Nhìn chung, nguồn nhân lực KH&CN của Trường ĐH
KHXH&NV có tiềm năng lớn, đáp ứng mục tiêu định hướng xây dựng
Trường thành ĐHĐHNC trong tương lai gần. Tuy nhiên, để đáp ứng sứ mạng
đó, Nhà trường cần phải có chính sách phù hợp để xây dựng và phát triển đội
ngũ, phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN.
Trên cơ sở phân tích để chỉ rõ những điểm tồn tại, và nhận diện các rào
84
cản cản trở Trường đại học hình thành ĐH ĐHNC, tác giả đưa ra đề xuất các
giải pháp để hoàn thiện chính sách nhân lực KH&CN trong trường đại học
nhằm hình thành ĐH ĐHNC (vận dụng vào Trường ĐH KHXH&NV,
ĐHQGHN). Trong các giải pháp tác giả tập trung vào vấn đề đào tạo, bồi
dưỡng; nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học nhằm hướng tới nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ khoa học của trường ĐH ĐHNC. Tạo điều kiện, môi
trường, đầu tư mọi nguồn lực để phát triển đội ngũ này với tiêu chí mỗi nhân
lực KH&CN mạnh, đáp ứng yêu cầu theo hướng ĐHNC là cốt lõi của sự hình
85
thành ĐH ĐHNC.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
an
1. B Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật
Giáo dục Đại học số 08/2012/QH13
2. Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật
Giáo dục Đại học sửa đổi số 34/2018/QH14
3. Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết số
20-NQ/TW ngày 01/11/2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
4. Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số
26-NQ/TW ngày 19/05/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ
ộ
5. B Bộ Khoa học và Công nghệ (2011), Quyết định số 4009/2011/QĐ-
BKHCN ngày 29/12/2011 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực
ngành khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020
6. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị
định số 99/2014/NĐ-CP quy định việc đầu tư phát triển tiềm lực và
khuyến khích hoạt động KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại học
7. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị
định 95/2014/NĐ-CP, ngày 17/10/2014 về việc Quy định về đầu tư và
quy chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ
8. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị
định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 quy định việc sử dụng, trọng
dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ
9. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Nghị
định số 73/2015/NĐ-CP ngày 8/9/2015, Quy định tiêu chuẩn phân tầng,
86
khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học
Hướng dẫn số 1206/HD-ĐBCLĐT, ngày 23/4/2013 của Đại học Quốc 10.
gia Hà Nội về các tiêu chí trường đại học nghiên cứu
Quyết định số 3768/QĐ-ĐHQGHN ngày 22/10/2014 của ĐHQGHN 11.
ban hành quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên
chức, người lao động trong ĐHQGHN
Nghị định số 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Thủ tướng Chính 12.
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức,
viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp
viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ
quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập
Thông tư số 03/2019/TT-BNV ngày 14/5/2019 của Bộ Nội vụ về việc 13.
sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên chức,
nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và
thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành
chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập
hí
Đào tạo, bồi dưỡng và quản lý cán bộ, viên chức trong Trường Đại học 14. C
nh
Khoa học Xã hội và Nhân văn (ban hành theo Quyết định số 539 QĐ-
XHNV-TC ngày 13/02/2007 của Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn).
Chương trình thúc đẩy công bố quốc tế và hỗ trợ đào tạo tiến sĩ giai 15.
đoạn 2018-2022 (ban hành theo Quyết định số 1121/QĐ-XHNV-KH
ngày 24/4/2018 của Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn).
16. K Nguyễn Đăng Khoa (2013), Quản lý phát triển nguồn nhân lực
h KH&CN tiếp cận chuẩn quốc tế tại Đại học Quốc gia Hà Nội giai đoạn
oa 2012-2020, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Giáo dục, Trường Đại học Giáo
87
dục, Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Trần Thị Huyền (2014), Chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN
trong trường đại học theo định hướng ĐHNC (nghiên cứu trường hợp
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên), Luận văn Thạc sĩ Quản lý Khoa
học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
18. L Phạm Thị Ly (2013), Mười đặc điểm của trường đại học nghiên cứu
y hiện đại.
19. L Phạm Thị Ly (2013), Về khái niệm trường đại học nghiên cứu và các
y tiêu chí nhận diện đại học nghiên cứu, Tạp chí Khoa học Giáo dục số
89 tháng 2/2013.
20. Nguyễn Kiều Oanh (2007), Các biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng
cán bộ, giảng viên của Đại học Quốc gia Hà Nội
21. Nguyễn Kiều Oanh (2010), Phát triển nguồn nhân lực giảng dạy và
nghiên cứu khoa học trong cơ sở giáo dục đại học - kinh nghiệm từ Đại
học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội
và Nhân văn, số 26/2010.
22. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Quân, ThS. Nguyễn Tấn Thịnh, Quản lý nguồn
nhân lực trong tổ chức, Nxb Giáo dục (2009)
23. Nguyễn Hữu Thanh, Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Khoa học xã hội (2005)
24. Nguyễn Thị Hạnh (2010), Chính sách phát triển nhân lực KH&CN để
xây dựng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Quản
lý Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Nguyễn Thị Kim Chi (2010), Đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới ở nước
88
ta hiện nay.
26. Ngô Bảo Châu và cộng sự (2011), Đại học Humboldt 200 năm (1810-
2010), kinh nghiệm thế giới và Việt Nam, Nxb Tri thức, Hà Nội.
27. Vũ Cao Đàm (2014), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa
học, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
28. Vũ Cao Đàm. (2011) Giáo trình khoa học chính sách. H.: NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
29. Bommel, Bas van (2015-12-14). "Between 'Bildung' and 'Wissenschaft':
The 19th-Century German Ideal of Scientific Education German
Education and Science"
30. Steven Sample (2 December 2002). "The Research University of the
21st Century: What Will it Look Like?"
31. Menand, L., Reitter, P., & Wellmon, C. (Eds.). (2017). The rise of the
research university: A sourcebook. University of Chicago Press.
32. Altbach, P. G. (2013). Advancing the national and global knowledge
economy: the role of research universities in developing countries.
Studies in higher education, 38(3), 316-330.
33. Q Philip G. Altbach, Jamil Salmi, ed. (2011). The Road to Academic
u Excellence: The Making of World-Class Research Universities. World
ốc Bank. p. 135.
34. Q Taylor, J. (2006). Managing the Unmanageable: the Management of
u Research in Researcher Universities. Higher Education Management
ốc and Policy. OECD, 8.
35. T Sample, S. B. (2002). The Research University of the 21st Century:
What will it Look Like?. In Keynote Address to the 23rd Army Science h
Conference, Orlando, Florida [December, 2]. u
36. T Andreatta, Britt (2011). Navigating the Research University: A Guide
for First-Year Students (3rd ed.). Boston: Wadsworth. p. 136. h
89
ISBN 9780495913788. Archived from the original on 2017-02-15. ủ
37. T Bommel, Bas van (2015-12-14). "Between 'Bildung' and 'Wissenschaft':
h The 19th-Century German Ideal of Scientific Education German
ủ Education and Science". Europäische Geschichte Online. Retrieved
2018-04-29.
38. Menand, Louis; Reitter, Paul; Wellmon, Chad (2017). "General
Introduction". The Rise of the Research University: A Sourcebook.
Chicago: University of Chicago Press. pp. 2-3. ISBN 9780226414850.
Archived from the original on 15 February 2017.
39. Crow, Michael M.; Dabars, William B. (2015). Designing the New
American University. Baltimore: Johns Hopkins University Press.
pp. 17-18. ISBN 9781421417233. Retrieved 28 May 2017. The quoted
sentence is Crow and Dabars' paraphrasing of Geiger's analysis.
40. Marginson, Simon (2016). The Dream Is Over: The Crisis of Clark
Kerr’s California Idea of Higher Education. Berkeley: University of
California Press. pp. 51-55. ISBN 978-0-520-29284-0. Retrieved 4
February 2019.
41. Philip G. Altbach (2013). "Advancing the national and global
knowledge economy". Studies in Higher Education. 38 (3): 316-330.
42. Research Universities and the Future of America. National Academies
Press. 2012. p. 40.
43. OECD (1995). Canberra Manual: The measurement of scientific and
technological activities-Manual on the measurement of human resource
devoted to S&T, OCDE/GD(95)77, Paris.
44. UNESCO (1980). Manual for Statistics on Scientific and Technological
Activities (Provisional), ST-80/WS/8, Paris.
45. UNESCO (1984). Manual for Statistics on Scientific and Technological
Activities, ST-84/WS/12, Paris.
90
46. James E. Anderson: Public Policymaking, Thomson Learning (Dec 1983