
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, tổng nguồn thu từ dịch vụ logistics bao gồm kho
vận, giao nhận, vận chuyển và phân phối… vào khoảng 15-20% GDP
mỗi năm của Việt Nam. Với dung lượng thị trường lớn như vậy là
điều kiện rất tốt để logistics trong nước phát triển.
Đồng thời, với xu hướng chuyên môn hóa sản xuất và phân
công lao động ngày càng cao như hiện nay, thì nhu cầu thuê ngoài
các dịch vụ logistics cũng ngày càng tăng cao.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, khi mà Việt Nam đã
mở cửa cho các ngành dịch vụ thì các doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ logistics Việt Nam phải cạnh tranh với các doanh nghiệp kinh
doanh logistics nước ngoài với những thế mạnh về tài chính, kinh
nghiệm cùng với mạng lưới kinh doanh chuyên nghiệp toàn cầu. Trên
thực tế khoảng 70% doanh thu hiện đang rơi vào túi các doanh
nghiệp nước ngoài. Tại Việt Nam có hàng nghìn doanh nghiệp trong
nước kinh doanh dịch vụ logistics nhưng hiện chỉ nắm được khoảng
5% thị trường. Vì vậy, giảm phụ thuộc nước ngoài và hướng tới xuất
khẩu dịch vụ logistics là mục tiêu phải đạt được đối với Việt Nam,
qua đó giúp nâng vị thế trong mạng lưới kinh doanh quốc tế. Để đạt
được mục tiêu đó, việc đầu tư phát triển để nâng cao năng lực cạnh
tranh đối với mỗi công ty Việt Nam là việc làm cần thiết nhằm đáp
ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng.
CaXng ĐaY NăZng laY mô[t trong nhưZng công ty kinh doanh đa
da[ng trong dịch vụ logistics nhưng vâZn chưa ma[nh so vơ\i ca\c CaXng
trong nươ\c vaY ca\c CaXng kha\c trên thê\ giơ\i. Với định hướng phát triển
trở thành một doanh nghiệp kinh doanh đầy đủ dịch vụ logistics vững