
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN CÔNG CỤ TÀI CHÍNH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
1.1 Sự cần thiết đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới biểu hiện qua dòng chảy mạnh mẽ về vốn, kỹ thuật và hàng hóa. Có nhiều doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và lập Báo cáo tài chính cho tập đoàn theo
thông lệ quốc tế. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam đang gia tăng xuất khẩu và
thiết lập các hoạt động ở nước ngoài và do đó, họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ
hơn và phải lập Báo cáo tài chính theo thông lệ quốc tế.
Hiện nay theo thông lệ quốc tế, kế toán công cụ tài chính phải tuân thủ theo
các chuẩn mực: IAS32 “Trình bày công cụ tài chính”; IAS 39 “Ghi nhận và đo
lường công cụ tài chính”; IFRS7 “Công bố thông tin về công cụ tài chính”
Về phía Việt Nam, hiện nay chưa có chuẩn mực riêng về kế toán công cụ tài
chính: Kế toán công cụ tài chính đã được quy định rải rác trong các chuẩn mực
VAS01, VAS10, VAS16... thực tế đó dẫn đến nhiều khó khăn cho việc quản lý, chuẩn
hóa thông tin cũng như việc thực hiện công tác kế toán trong các doanh nghiệp. Đặc
biệt hiện nay trong nền kinh tế có nhiều nghiệp vụ về công cụ tài chính phái sinh như:
Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng tương lai, Hợp đồng hoán đổi, Hợp đồng quyền chọn.
Trong khi đó Chế độ Kế toán doanh nghiệp phi tài chính chưa đề cập đến đã gây lúng
túng, thiếu nhất quán trong việc phản ánh, báo cáo tình hình tài chính, ảnh hưởng đến
độ tin cậy và tính so sánh của các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính.
Xuất phát từ thực tiễn của doanh nghiệp, yêu cầu cung cấp thông tin hữu ích
của nhà đầu tư, từ thực tế hội nhập nghề kế toán, sau một thời gian nghiên cứu tác
giả lựa chọn đề tài “ Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp
phi tài chính tại Việt Nam ” để làm luận án tiến sĩ của mình.
1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1 Tình hình nghiên cứu kế toán công cụ tài chính trên thế giới
1.2.1.1. Về nhận diện công cụ tài chính
Hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất với các đặc điểm của công cụ tài
chính: là một hợp đồng giữa các bên; công cụ tài chính bao gồm cả quyền (tài sản)
hoặc nghĩa vụ (nợ phải trả) theo hợp đồng; theo hợp đồng này có thể trao đổi trực
tiếp hoặc gián tiếp các công cụ thanh toán.
2
1.2.1.2. Về đo lường công cụ tài chính
Giới khoa học nhấn mạnh ưu điểm của phương pháp kế toán giá trị hợp lý- điều
này còn là mới mẻ nghiên cứu khoa học tại Việt Nam, đặc biệt là trong kế toán công
cụ tài chính. Chính vì vậy tác giả luận án muốn nghiên cứu kế toán giá trị hợp lý
nhằm tìm ra giải pháp để hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghệp
phi tài chính tại Việt Nam.
1.2.1.3. Về ghi nhận công cụ tài chính
Ghi nhận công cụ tài chính phụ thuộc vào việc phân nhóm công cụ tài chính.
L.EC.Wilson & Bryan(1997) cho rằng cần thiết xây dựng các quy định kế toán cho
công cụ tài chính theo mục đích sử dụng thay vì theo từng loại để có thể vận dụng
các công cụ mới để đảm bảo nguyên tắc tính hữu ích của thông tin đồng thời giảm
thiểu chi phí xây dựng nguyên tắc cho công cụ tài chính mới.
1.2.1.3. Về trình bày công cụ tài chính
Các công cụ tài chính ngày càng phức tạp bởi sự kết hợp của nhiều công cụ
tài chính khác nhau, điển hình như: trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi (vừa có
đặc điểm của nợ phải trả vừa có đặc điểm của vốn chủ sở hữu); công cụ tài chính
phái sinh mới (kết hợp từ các giao dịch phái sinh khác nhau), công cụ phức hợp có
công cụ phái sinh đi kèm... Vì vậy, việc nhận biết và trình bày công cụ tài chính ngày
càng trở nên khó khăn hơn.
1.2.1.4. Về công bố thông tin về công cụ tài chính
Công cụ tài chính ngày càng đa dạng và phức tạp do vậy đối tượng sử dụng
thông tin yêu cầu ngày càng khắt khe hơn việc công bố thông tin về công cụ tài
chính. Theo Caedo và Tirado (2004) thông tin về rủi ro mà doanh nghiệp đang gánh
chịu có thể gây ảnh hưởng đến lợi nhuận trong tương lai nên cần công bố cho người
sử dụng báo cáo tài chính.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu kế toán công cụ tài chính trong các doanh
nghiệp phi tài chính tại Việt Nam
Có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học tại Việt Nam tập trung khai
thác việc vận dụng thông lệ kế toán quốc tế về kế toán công cụ tài chính cho các
doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong ngành ngân hàng. Tuy nhiên chưa có công
trình nghiên cứu riêng cho các doanh nghiệp phi tài chính, chưa có công trình nào
nghiên cứu các nguyên tắc chung của kế toán công cụ tài chính một cách hoàn chỉnh
từ: nhận diện, đo lường, ghi nhận, trình bày, công bố thông tin về công cụ tài chính.
Đặc biệt, chưa có công trình nào đánh giá mức độ trình bày và công bố thông tin về
công cụ tài chính trên Báo cáo tài chính của doanh nghiệp và tìm ra mối liên hệ giữa