
vietnam medical journal n02 - APRIL - 2019
138
HOÀN THIỆN KỸ THUẬT SHORT-REALTIME-PCR ĐỂ XÁC ĐỊNH
ĐỘT BIẾN GEN MTHFR ỨNG DỤNG TRONG SÀNG LỌC CHẨN ĐOÁN
SỚM BỆNH TỰ KỶ Ở TRẺ EM VIỆT NAM
Nguyễn Thị Trang1, Triệu Tiến Sang2
TÓM TẮT39
Đặt vấn đề: Tự kỷ được định nghĩa là một hội
chứng thần kinh - hành vi sinh ra do bất thường chức
năng của hệ thần kinh gây nên các rối loạn phát triển,
ảnh hưởng đến nhiều mặt của sự phát triển nhưng
nhiều nhất đến khả năng giao tiếp và quan hệ xã hội.
Mục đích nghiên cứu: Hoàn thiện kỹ thuật Short-
realtime-PCR để xác định đột biến gen C677T và
A1298C gen MTHFR ở trẻ tự kỷ Việt Nam. Đối tượng
và phương pháp nghiên cứu: 30 trẻ tự kỷ và 30 trẻ
bình thường được sử dụng kỷ thuật Short-realtime-
PCR cải tiến để xác định đột biến gen MTHFR. Kết
quả: Giảm được thể tích mẫu máu và hóa chất xuống
còn 200µl. Tỷ lệ xuất hiện đa hình C677T và A1298C
gen MTHFR ở nhóm bệnh tương ứng là 46,7% và
73,3%, trong đó, kiểu gen dị hợp tử C677T chiếm
33,3% và đồng hợp tử chiếm 13,3%, kiểu gen dị hợp
tử A1298C chiếm 60,0% và đồng hợp tử chiếm
13,3%. Ở nhóm chứng chỉ gặp 13,3% dị hợp tử
C677T và 20% dị hợp A1928C, không gặp trường hợp
nào mang đồng hợp tử đa hình trong nhóm chứng.
Kiểu gen CT+TT của đa hình C677T và AC+CC của đa
hình gen A1298C có nguy cơ gây tự cao hơn kiểu gen
bình thưởng với tỷ lệ tương ứng là 5,69 và 11,0. Kết
luận: Cải tiến thành công kỹ thuật Short-realtime PCR
để xác định đột biến gen MTHFR ở trẻ em tự kỷ VN.
SUMMARY
IMPROVING SHORT-REALTIME-PCR TECHNIQUE
TO IDENTIFY MUTATIONS OF MTHFR GENE
USED IN SCREENING FOR EARLY DIAGNOSIS OF
AUTISM IN VIETNAMESE CHILDREN
Introduction: Autism is a complex
neurodevelopment disorder with numerous possible
genetic and environmental influences. Aim of our
study: To complete the short-realtime-PCR procedure
to identify C677T and A1298G gene mutations in
MTHFR in Việt Nam autistic children. Subjects and
Methods: 30 autistic children were diagnosed
according to the DSM-IV standard and 30 normal
childrent. Using improved- SHORT-ARMS-REATIME
PCR technique to analyze MTHFR gene from
peripheral blood DNA. Results: The polymorphism of
C677T and A1298C gene MTHFR was 46.7% and
73.3%, respectively, of which C677T heterozygous
33.3% and homozygous 13,3%, heterozygous A1298C
accounts for 60.0% and homozygous A1298C
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Học viện quân y
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Trang
Email: trangnguyen@hmu.edu.vn
Ngày nhận bài: 26.2.2019
Ngày phản biện khoa học: 5.4.2019
Ngày duyệt bài: 12.4.2019
accounts for 13.3%. In the control group, 13.3% of
heterozygous C677T and 20% of A1928C. Not found
any polymorphisms with homozygous genotype in the
control group. The CT+TT genotypes of C677T
polymorphism and AC+CC genotypes of A1298C
polymorphism were significantly higher than those of
the genotypes at 5.69 and 11.0, respectively.
Conclusion: Successfully completed the IMPROVED-
short-ARMS-realtime-PCR technique to identify in
C677T and A1298C polymorphism of MTHFR gene.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tự kỷ hay còn gọi với những tên khác nhau
như trẻ tự bế, tự tỏa, hội chứng Tự kỷ. Thuật
ngữ “Autism” tức trẻ tự kỷ, xuất phát từ tiếng Hy
Lạp với “autos” nghĩa là tự bản thân và “ismos”
là trạng thái, mô tả trường hợp trẻ xa rời các
quan hệ xã hội để thu mình vào thế giới riêng
của bản thân [1]. Thuật ngữ lần đầu tiên được
Eugen Bleuler, một nhà tâm thần học người
Thụy Sỹ sử dụng vào năm 1911, ông cho rằng tự
kỷ là hậu quả của bệnh lý tâm thần [2].
Tới năm 1943, Leo Kanner mô tả tự kỷ như
một chứng rối loạn tâm thần hiếm gặp ở trẻ em,
thường xuất hiện sau 2 tuổi rưỡi và coi đó như
đối tượng của điều trị y học. Năm 1944, Hans
Asperger - bác sỹ nhi khoa người Áo cũng mô tả
các triệu chứng tương tự gọi là “tâm bệnh tự kỷ”
mà về sau gọi là hội chứng Asperger (AS -
Asperger’s syndrome). Cuối những năm 50 đến
những năm 60 của thế kỷ 20, quan niệm về tự
kỷ đã có những thay đổi rõ rệt. Bernard Rimland
(1964) và một số nhà nghiên cứu khác (thời kỳ
1960 - 1970) đã đưa ra những luận thuyết về
bản chất sinh học của tự kỷ. Theo đó, quan điểm
tự kỷ là một bệnh lý thần kinh đi kèm với tổn
thương chức năng của não đã được sử dụng
[2],[3],[4].
Năm 2008, tổ chức Liên Hiệp Quốc (UN -
United Nations) đưa ra khái niệm tương đối đầy
đủ và được sử dụng phổ biến hiện nay về tự kỷ
như sau: Tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển
tồn tại suốt đời, thường được thể hiện ra ngoài
trong 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do một rối loạn
thần kinh ảnh hưởng đến chức năng hoạt động
của não bộ, chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em và
người lớn ở nhiều quốc gia không phân biệt giới
tính, chủng tộc hoặc điều kiện kinh tế - xã hội.
Đặc điểm của nó là sự khó khăn trong tương tác
xã hội, các vấn đề về giao tiếp bằng lời nói và