LUẬN VĂN:

Hoàn thiện pháp luật về giám sát

của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta

đều thống nhất về vai trò, vị trí của nhân dân, khẳng định quyền lực nhà nước thuộc

về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: “Nước ta là một nước dân

chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền

từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra” [29, tr.698]. Điều 2, Hiến pháp

1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi: “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà

nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực

nhà nước thuộc về nhân dân”.

Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của

mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là

hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể quyền lực về những vấn đề chính yếu,

cơ bản của một tập thể, một cộng đồng, một xã hội. Các cơ quan, tổ chức có trách

nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảo đảm đưa vào thực hiện trong cuộc sống. Dân chủ

đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ chủ thể quyền lực mà thông

qua đại diện do chủ thể bầu ra để thực hiện quyền do chủ thể uỷ thác. Nhân dân

(chủ thể quyền lực) có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, cá nhân

đại diện cho mình để thực hiện quyền lực nhà nước nhằm hạn chế sự tuỳ tiện, lạm

dụng ở đó.

Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua cơ quan nhà nước và là của

nhân dân, do đó cần phải được nhân dân giám sát. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc

khoá X nêu rõ: “Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, MTTQ, các tổ chức chính trị-

xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức cơ quan công quyền”

“Công khai các quy định về thủ tục hành chính để dân biết, thực hiện và giám sát”,

khẳng định: “Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân”

[18, tr.304]. Điều 8, Hiến pháp 1992 quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên

chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ

với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân”. Điều này xuất

phát từ thực tiễn của tiến trình dân chủ hoá xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền hành

chính trong sạch, vững mạnh, tinh gọn và thuận tiện; xuất phát từ thực trạng mất

dân chủ, cửa quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu nhân

dân của một số cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; xuất phát từ nguyên tắc các

cơ quan thực thi quyền lực nhà nước phải bị giám sát để quyền lực nhà nước thực

sự thuộc về nhân dân.

Mặc dù quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước được thể hiện

rõ ràng, song hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là rất phức tạp, đa dạng

nên bên cạnh những ưu điểm, thành tựu của chương trình cải cách hành chính giai

đoạn 2001-2010 đạt được, thì còn tồn tại những hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải tiếp

tục hoàn thiện, trong đó hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ

quan hành chính nhà nước là một nội dung hết sức quan trọng. Bởi chỉ có sự giám

sát chặt chẽ của nhân dân thì mới giải quyết triệt để được mọi hành vi sách nhiễu,

cửa quyền, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực của cơ quan hành chính nhà nước. Chỉ

khi những hành vi trên bị ngăn chặn, xử lý nghiêm minh, kịp thời thì nền dân chủ

XHCN, quyền làm chủ của nhân dân mới thực sự được thực hiện và phát huy trong

thực tế.

Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước có mục đích là

phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công dân của cơ

quan công quyền. Nhân dân có quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo đối với

cơ quan hành chính nhà nước. Đó không chỉ là phương tiện giám sát có hiệu quả

việc tuân thủ pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước mà còn là biện

pháp có tính pháp lý hữu hiệu bảo đảm các quyền tự do và lợi ích hợp pháp của

công dân, tổ chức khi bị vi phạm.

Nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền là cán bộ, công chức chỉ được

làm những gì pháp luật cho phép và mọi hoạt động của cơ quan nhà nước phải chịu

sự giám sát của nhân dân. Song, tình trạng một số cơ quan hành chính nhà nước và

cán bộ, công chức ở đó lạm quyền, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp

luật diễn ra có lúc, có nơi rất nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận xã hội. Thực

trạng đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do thiếu sự giám sát cần

thiết của nhân dân. Để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình với tư cách là

chủ thể của quyền lực nhà nước, chống lại nguy cơ cơ quan phục vụ dân chuyển

thành cơ quan đứng trên dân, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác về phương diện khoa học pháp

lý, hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước cũng phải

dựa trên cơ sở pháp luật. Trong khi đó pháp luật về giám sát của nhân dân đối với

cơ quan hành chính nhà nước còn có nhiều bất cập, hạn chế khiến việc thực hiện

còn thiếu hiệu lực, hiệu quả đòi hỏi phải được tiếp tục hoàn thiện. Từ những căn cứ

và lý do trên, học viên chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước” làm luận văn thạc sỹ Luật, chuyên

ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Giám sát và nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát đối với cơ quan nhà

nước được đề cập nhiều trong các công trình và diễn đàn khoa học, trên các sách,

báo, tạp chí và được phổ biến khá rộng rãi trong xã hội. Có thể nêu một số công

trình tiêu biểu sau đây:

- Sách chuyên khảo: Tiến sỹ Phạm Ngọc Kỳ (1996), “Về quyền giám sát tối

cao của Quốc hội”; Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số

nước trên thế giới, sách tham khảo (2001) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Giám

sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của Đào Trí úc và Võ

Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; PGS.TS

Nguyễn Đăng Dung (2005) “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước”, PGS.TS Nguyễn

Đăng Dung (2006), “Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước”...

- Đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở

nước ta hiện nay” của Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh.

- Luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ: “Nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát

của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ

Luật của Vũ Mạnh Thông, 1998; “Thực hiện chức năng giám sát của MTTQ Việt

Nam đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay”, Luận văn

Thạc sĩ Chính trị học của Nguyễn Văn Thanh, 2003; “Một số giải pháp đổi mới và

hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, giám sát hải quan ở nước ta hiện nay”, Luận văn

Thạc sĩ Luật của Hoàng Anh Công, 2003; “Hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt

động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương- Từ thực tiễn của

tỉnh Vĩnh Phúc", Luận văn Thạc sĩ Luật của Nguyễn Hoàng, 2006; “Nâng cao hiệu

quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ

Luật của Hồ Thị Hưng, 2006; “Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của

Toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật của Quản Văn Minh,

2006...

Bên cạnh đó có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như:

“Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các cơ chế thực hiện

giám sát” của GS.TSKH Đào Trí úc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Về

giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam vận động

nhân dân thực hiện giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần

Thanh Bình, Tạp chí Nhà nước số 9/2003; “Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam

trong việc thực hiện giám sát đối với cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư"

của Đỗ Huy Thường, Tạp chí MTTQ, số 22; “Thiếu một cơ chế giám sát hoàn

thiện” của Nguyễn Khanh, Báo Pháp luật số 222 ngày 16/9/2005; “Tăng cường

giám sát trong Đảng” của Nguyễn Thị Doan, Tạp chí cộng sản số 22, 2004; “Cần

tăng cường hơn nữa sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với việc phòng chống

quan liêu, tham nhũng hiện nay” của Bùi Thành Phần, Tạp chí Dân vận số 01/2005;

“Lênin nói về kiểm tra giám sát để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch”

của Lê Trọng Hanh, Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số 4/2005...

Nhìn chung các công trình, đề tài, bài viết nêu trên đều đề cập đến vấn đề

giám sát, hoạt động giám sát của các cơ quan trong hệ thống chính trị, giám sát của

cơ quan quyền lực đối với cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp; giám sát hành

chính ở trong cơ quan hành chính; giám sát của MTTQ và các đoàn thể nhân dân

đối với cơ quan dân cử, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp; giám sát của cơ quan

tư pháp với cơ quan hành chính... Nhưng chưa có công trình nào đề cập toàn diện,

có hệ thống về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước cũng

như hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát đó. Tiếp thu những kết quả nghiên

cứu trên, luận văn này tập trung nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về giám sát của

nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Mục đích: Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám

sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

- Nhiệm vụ: Từ mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:

+ Nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung, vai trò pháp luật về giám sát của

nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

+ Xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về giám sát của

nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

+ Phân tích quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

+ Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

- Phạm vi nghiên cứu: Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước vừa phản ánh bản chất nhà nước vừa là quyền của công dân, được ghi nhận trong

quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước từ 1945 đến nay. Hoạt động

của Nhà nước rất rộng, chủ thể giám sát, hình thức giám sát rất đa dạng, phong phú,

trong luận văn này chỉ đề cập vấn đề giám sát của nhân dân (trực tiếp và gián tiếp) đối

với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thông qua các chủ thể bao gồm: Tổ

chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao động, cơ quan báo chí và giám sát trực

tiếp của nhân dân. Trên cơ sở đó luận chứng các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp

luật để việc thực hiện chức năng giám sát của nhân dân thực sự hiệu lực, hiệu quả trong

thời gian tới.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Cơ sở lý luận: Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm,

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN,

phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng chính quyền nhân dân và các chính

sách, pháp luật do Nhà nước ban hành.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện

chứng của triết học Mác-Lênin kết hợp với phương pháp phân tích-tổng hợp, lôgíc-

lịch sử, xã hội học, so sánh...

5. Những đóng góp khoa học của luận văn

- Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về giám sát, giám sát của nhân dân đối

với cơ quan hành chính nhà nước.

- Phân tích quá trình phát triển và đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của

nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Qua đó, xác định được tính hoàn

thiện của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

- Luận chứng các quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về giám sát

của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

6. ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho

việc hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả giám sát của nhân dân; khắc phục những hạn

chế, bất cập trong hoạt động thực tiễn thời gian qua. Đồng thời là nguồn tài liệu

tham khảo, nghiên cứu cho các công trình khoa học, công tác nghiên cứu, giảng

dạy, tổng kết thực tiễn liên quan đến giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành

chính nhà nước.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

3 chương, 8 tiết.

Chương 1

Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật

về giám sát của nhân dân đối với cơ quan

hành chính nhà nước

1.1. Khái niệm, nội dung, vai trò pháp luật về giám sát của nhân dân đối

với cơ quan hành chính nhà nước

1.1.1 Khái niệm về giám sát, giám sát của nhân dân, pháp luật về giám

sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

1.1.1.1 Giám sát: Cùng với kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát là một loại

nhiệm vụ trong quá trình thực thi quyền lực chính trị nhằm làm cho các đối tượng

(của chủ thể giám sát) thực hiện đúng yêu cầu, mục đích, chức năng, nhiệm vụ đặt

ra.

Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng

đồng người này với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực kinh

tế-xã hội, trong thực hiện quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, Hiến pháp,

pháp luật, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, tổ chức,

cá nhân... để kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với tổ chức, cá nhân

có hành vi sai trái.

Về thuật ngữ giám sát, hiện nay được dùng rất phổ biến trong khoa học chính

trị, pháp lý và được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các tổ

chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội cũng như phổ biến ở đời sống xã hội.

Theo Từ điển Hán- Việt của Đào Duy Anh chủ biên thì “Giám sát là xem xét

và đàn hặc” [1, tr.324].

Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì “Giám sát là theo dõi và kiểm

tra có thực hiện đúng những điều quy định không” [55, tr.374].

Đại Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như ý chủ biên thì “Giám sát là theo dõi,

kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ” [65, tr.728].

Theo quan điểm của Học viện hành chính quốc gia thì “giám sát là sự tác

động quyền lực nhằm chấn chỉnh những lệch lạc, trái pháp luật, sai trái mục tiêu của

một hệ thống đối với một hệ thống khác nằm ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều

dọc” [23, tr.202].

Theo Từ điển Luật học thì giám sát là:

Sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động thường xuyên của cơ

quan, tổ chức hoặc nhân dân đối với hoạt động của các đối tượng chịu sự

giám sát và sự tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng

các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu

quả đã được xác định từ trước đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được

tuân thủ nghiêm chỉnh. [54, tr.292].

Từ các định nghĩa và cách hiểu như trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng của

giám sát đó là:

- Giám sát là hành vi của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, quan sát, xem xét,

nhận định về việc làm của đối tượng giám sát.

- Giám sát được tiến hành chủ động, thường xuyên, liên tục trong suốt quá

trình hoạt động của đối tượng giám sát.

- Thông qua hoạt động giám sát cho phép kịp thời nhắc nhở cơ quan tổ chức,

cá nhân chấn chỉnh những biểu hiện “lệch lạc”, “sai trái” trong quá trình thực hiện

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những biểu

hiện không lành mạnh trong sinh hoạt, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân, cán bộ

công chức, viên chức và đề xuất xử lý nhằm khắc phục sai sót, khuyết điểm.

- Giám sát bảo đảm cho cán bộ, công chức, đảng viên luôn kiên định về lập

trường chính trị, có trách nhiệm công vụ, phẩm chất cách mạng tốt đẹp, ngăn ngừa

những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống và trong thực thi nhiệm vụ

được giao.

- Giám sát là công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi chủ thể giám sát phải có

bản lĩnh chính trị vững vàng, có quyết tâm cao, có kiến thức chuyên môn và hiểu

biết về luật pháp nhất định.

- Giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có mối quan hệ pháp lý, gắn

quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Khách thể giám sát mà các bên trong quan hệ

giám sát cùng hướng tới là trạng thái hoạt động bình thường, thông suốt, đúng pháp

luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chủ thể giám sát phải là “khách quan, bên

ngoài” độc lập tương đối với đối tượng giám sát.

Để hiểu rõ về giám sát trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cần phân

biệt giám sát với kiểm tra, thanh tra, kiểm sát.

- Giám sát khác với kiểm tra. Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ

biên thì kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” do đó kiểm tra

là khái niệm bao hàm những thao tác có tính xác định, tính cụ thể rõ hơn. Kiểm tra

được thực hiện khi có dấu hiệu hoặc sự việc sai phạm xảy ra là “xem xét cụ thể

công việc”. Chủ thể và đối tượng kiểm tra có thể cùng hệ thống với nhau (tự kiểm

tra, cấp trên kiểm tra cấp dưới).

- Giám sát khác với thanh tra. Thanh tra theo Từ điển Tiếng Việt là “Kiểm

tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Theo Luật Thanh

tra (2004), đó là “việc xem xét đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với

việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự

quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định” [27, tr.8]. Như vậy, thanh

tra và giám sát có chỗ giống nhau là đều có hoạt động “xem xét, đánh giá” nhưng

khác nhau ở chỗ giám sát là sự “chủ động theo dõi” còn thanh tra thường chỉ xem

xét khi có dấu hiệu, sự việc vi phạm xảy ra. Hậu quả pháp lý của giám sát chủ yếu

thông qua hình thức “kiến nghị” còn thanh tra là áp dụng những biện pháp xử lý cụ

thể. Thanh tra được tiến hành bởi chủ thể xác định, có thẩm quyền, với trình tự, thủ

tục chặt chẽ theo luật định, là hoạt động đặc thù của hệ thống hành pháp. Còn giám

sát được tiến hành bởi nhiều chủ thể và mỗi chủ thể lại có quyền, trách nhiệm khác

nhau do địa vị chính trị pháp lý khác nhau.

- Giám sát khác với kiểm sát. Kiểm sát là thuật ngữ để chỉ hoạt động đặc thù

của Viện kiểm sát nhân dân với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực

hành quyền công tố nhằm “đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và

thống nhất”, “góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền

làm chủ của nhân dân”. [64, tr.405].

Tóm lại, giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát là những thuật ngữ có nội

dung gần nghĩa dùng để chỉ những hoạt động có phạm vi, tính chất gần nhau, thậm

chí có biểu hiện khách quan khá giống nhau (xem xét, đánh giá) nằm trong cơ chế

kiểm soát đối với quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau về quan

hệ pháp lý, chủ thể, đối tượng, phạm vi, phương pháp thực hiện và hậu quả pháp lý.

1.1.1.2. Giám sát của nhân dân

Khái niệm giám sát của nhân dân được sử dụng để phân biệt với giám sát

mang tính quyền lực nhà nước và được coi là một chủ thể quan trọng của giám sát

xã hội. Thực tế ở nước ta, trong khoa học chính trị, pháp lý và các tài liệu, sách,

báo, tạp chí có cách hiểu khác nhau về giám sát xã hội. Thông thường có sự phân

biệt loại hình giám sát theo tính chất tức là giám sát mang tính nhân dân, giám sát

mang tính quyền lực nhà nước. Ngoài ra, các loại giám sát nói trên được gọi chung

là giám sát xã hội, nhưng giám sát xã hội lại được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa

hẹp.

Theo nghĩa rộng, giám sát xã hội là giám sát của 3 lực lượng cơ bản đó là:

Giám sát của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân. Theo đó, giám sát xã hội bao

trùm lên các giám sát khác, bởi vì: Thứ nhất, giám sát đối với quyền lực nhà nước là

giám sát của tiểu hệ thống trong hệ thống rộng hơn là toàn xã hội, nhà nước là một

hiện tượng nảy sinh từ xã hội, thuộc về xã hội, quyền lực nhà nước là một dạng của

quyền lực xã hội; Thứ hai, hoạt động giám sát do chủ thể Đảng, Nhà nước, nhân

dân thực hiện đều có mục đích ngăn ngừa, khắc phục những sai lệch khỏi các quy

phạm mà xã hội đặt ra hoặc thừa nhận.

Theo nghĩa hẹp, giám sát xã hội được hiểu là giám sát của nhân dân bởi chủ thể

giám sát là các tổ chức, cá nhân bên ngoài nhà nước và nó là một loại giám sát trong

tổng thể cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà nước. Trong luận văn này đề cập đến

giám sát xã hội theo nghĩa hẹp, tức là giám sát của nhân dân.

Để hiểu rõ giám sát của nhân dân cần phân biệt với giám sát của Đảng và

giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.

- Giám sát của Đảng, là việc cấp uỷ, tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh

giá hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp hành

Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và đạo đức, lối

sống theo quy định của Ban Chấp hành TW. Tổ chức Đảng cấp trên được giám sát

tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; đảng viên được tham gia giám sát theo sự phân

công của tổ chức đảng có thẩm quyền. Như vậy, giám sát của Đảng là giám sát “bên

ngoài nhà nước” nhưng do bản chất chính trị và vị trí hạt nhân của Đảng trong hệ

thống chính trị nên giám sát của Đảng là giám sát của chủ thể lãnh đạo đối với Nhà

nước. Hoạt động này được thông qua cán bộ, đảng viên do đảng giới thiệu, cử lãnh

đạo bộ máy nhà nước; thông qua tổ chức cơ sở đảng được thành lập tương ứng với

cơ quan nhà nước. Giám sát của Đảng có vai trò quan trọng đối với đời sống chính

trị-xã hội của đất nước, góp phần đẩy lùi những biểu hiện thoái hoá, biến chất, tiêu

cực trong Đảng và bộ máy Nhà nước.

- Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, đó là hoạt động chủ yếu của

Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhằm giám sát quá trình tổ chức và thực

hiện quyền lực nhà nước. Đặc điểm của loại giám sát này là mang tính quyền lực

nhà nước rõ nét, là hệ thống các cơ quan hoạt động có tính chuyên nghiệp, được quy

định rất cụ thể, chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các luật về tổ

chức và hoạt động của cơ quan nhà nước (như: Luật Hoạt động giám sát Quốc hội,

Luật Tổ chức HĐND và UBND, quy chế giám sát...). Loại hình giám sát này có quy

định cụ thể trình tự, thủ tục, nội dung, thẩm quyền, trách nhiệm đối với các bên

tham gia quan hệ giám sát thể hiện sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau

giữa các cơ quan nhà nước. Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước hỗ trợ tích

cực cho công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của nhà nước, góp phần xây dựng và

củng cố chính quyền nhân dân ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu

lực, hiệu quả để quản lý tốt mọi mặt của đời sống xã hội theo pháp luật.

- Giám sát của nhân dân, đó là giám sát không mang tính quyền lực nhà

nước, do các tổ chức, cá nhân thực hiện nhằm theo dõi, quan sát, xem xét, đánh giá

hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước trong việc tổ chức

và thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước; làm cho các cơ quan, cán bộ,

công chức nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn được

giao. Chủ thể với đặc tính “nhân dân” có thể là những thành tố nhỏ nhất (cá nhân)

hoặc những nhóm xã hội (các cá nhân tập hợp lại), bên ngoài nhà nước.

Giám sát của nhân dân tuy không mang tính chuyên nghiệp và hậu quả pháp

lý bắt buộc như giám sát mang tính quyền lực nhà nước nhưng có tác dụng phòng

ngừa, góp phần ngăn chặn có hiệu quả vi phạm pháp luật và kỷ luật nhà nước từ

phía cơ quan hành chính. Do đó, có phạm vi rất rộng, thường xuyên, liên tục tác

động đến quyền lực nhà nước bằng “Dư luận xã hội”, “kiến nghị”, “yêu cầu” giúp

cho hoạt động của nhà nước được đúng hướng, đúng pháp luật.

Giám sát của nhân dân được thực hiện thông qua MTTQ, các đoàn thể nhân

dân, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, cơ quan báo chí... và trực tiếp của cá

nhân công dân.

1.1.1.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính

nhà nước

Thuật ngữ “Hành chính”, theo nghĩa Hán Việt là thi hành những chính sách

và mệnh lệnh của Chính phủ. Hành chính (Admi nistration) còn được giải thích là

những hành vi, biện pháp để thi hành chính sách do cơ quan chính trị thiết lập. Đó

là những hoạt động thường xuyên liên tục để đáp ứng nhu cầu chung của nhân dân.

Cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam là một bộ phận cấu thành của bộ

máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là cơ quan chấp

hành và điều hành của Quốc hội và HĐND các cấp, có hệ thống được tổ chức theo

thứ bậc từ trung ương đến cơ sở, có chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội

dựa trên pháp luật.

Pháp luật quy định quyền giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt

động của quyền lực nhà nước nói chung, của cơ quan hành chính nhà nước nói

riêng. Theo đó, nhân dân có quyền và trách nhiệm giám sát cơ quan, cán bộ, công

chức, viên chức nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để nhân dân và

các tổ chức xã hội giám sát hoạt động của mình. Điều 8, Hiến pháp 1992 (sửa đổi,

bổ sung năm 2001) quy định:

Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng

nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng

nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống

tham nhũng lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền

[53, tr.201].

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, phạm vi đối tượng chịu sự giám

sát là toàn thể các “cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước” trong đó có cơ

quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức hoạt động trong các cơ quan đó.

Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước, thực chất là

giám sát hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước trong việc chấp hành, thực hiện

pháp luật trong quản lý xã hội theo mục tiêu do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra,

đảm bảo được quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, xã

hội.

Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là

tổng thể các quy định của pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh và bảo

đảm thực hiện hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước.

1.1.2. Nội dung pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan

hành chính nhà nước

Đó là các quy phạm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành

chính nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp các thời kỳ 1946, 1959, 1980, 1992

và bổ sung, sửa đổi năm 2001; các luật như: Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Phòng chống

tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật

Thanh tra, Luật Báo chí,...; Pháp lệnh Cán bộ công chức, Pháp lệnh Thực hiện dân

chủ ở xã, phường, thị trấn,... và các nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết

định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; thông tư, thông tư liên tịch của các bộ, cơ

quan ngang bộ... trong đó, xác định rõ chủ thể giám sát, đối tượng giám sát; trình tự

thủ tục, hình thức giám sát và trách nhiệm pháp lý của mỗi bên trong tham gia hoạt

động giám sát... tuy nhiên, pháp luật nước ta chưa có quy định chặt chẽ, cụ thể về

giám sát của nhân dân như giám sát mang tính quyền lực nhà nước, mà chỉ dừng lại

ở việc quy định những giới hạn, phạm vi, nguyên tắc... giám sát. Có thể tập hợp

tổng thể các quy phạm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành

chính nhà nước gồm những vấn đề cơ bản sau:

1.1.2.1. Các quy định về chủ thể giám sát

Chủ thể pháp luật giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ

pháp luật, có được quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở sự ghi nhận của những quy

phạm pháp luật. Nhân dân với tư cách là chủ thể của quan hệ giám sát ở đây bao

gồm: mọi người dân thuộc các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo khác nhau sống

trên cùng lãnh thổ Việt Nam; đồng thời cũng là những cơ quan, tổ chức được pháp

luật quy định. Với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân thể hiện ý

chí của mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Với hình

thức trực tiếp nhân dân là các cá nhân, công dân; với hình thức đại diện, nhân dân là

các tổ chức do mình bầu nên như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân

còn thực hiện quyền của mình thông qua các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, tổ

chức xã hội, tập thể lao động... do mình thừa nhận hoặc tham gia. Chủ thể tham gia

quan hệ pháp luật giám sát của nhân dân rất đa dạng và có xu hướng mở rộng.

Trong đó có những cơ quan, tổ chức ở góc độ này thì là chủ thể nhưng ở góc độ

khác lại là đối tượng giám sát, đồng thời có thể trở thành hình thức trong quan hệ

giám sát, ví dụ như: cơ quan báo chí vừa là chủ thể giám sát của cơ quan hành chính

nhà nước đồng thời là đối tượng giám sát của nhân dân; khi nhân dân thực hiện

quyền giám sát của mình đối với cơ quan hành chính nhà nước thông qua cơ quan

báo chí thì cơ quan báo chí trở thành một trong các phương thức giám sát của nhân

dân. Cũng như vậy, Thanh tra nhân dân vừa là chủ thể vừa là hình thức giám sát đối

với cơ quan hành chính nhà nước.

Nhà nước là cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, nhận sự

uỷ quyền của nhân dân, thay mặt nhân dân quản lý xã hội. Do đó, nhà nước phải tạo

điều kiện để mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của

nhân dân. Trong luận văn này, chủ thể giám sát được đề cập đến bao gồm: các tổ

chức chính trị- xã hội (Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân), các tổ chức xã

hội, các tập thể lao động, các cơ quan báo chí và cá nhân công dân.

(1) Các tổ chức chính trị xã hội: (MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân

dân)

Điều 9, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định về địa vị

chính trị pháp lý và nhiệm vụ giám sát (chức năng) của MTTQ Việt Nam và các tổ

chức thành viên:

Là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính

trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu

trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người

Việt Nam định cư ở nước ngoài. MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành

viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy

truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh

thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân

dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân,

động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành

Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của chính quyền nhà nước,

đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước... [53, tr.202].

Điều 2, Luật MTTQ Việt Nam cũng quy định: “MTTQ Việt Nam... giám sát

hoạt động của cơ quan nhà nước đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước”.

Chức năng giám sát của Mặt trận, các tổ chức chính trị- xã hội còn được quy định trong

nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định... như trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật

Tố tụng Dân sự, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Hoạt động

giám sát của Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức HĐND và

UBND, Luật Bầu cử đại biểu HĐND, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Phòng, chống

tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành

chính, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Pháp lệnh cán bộ công

chức...

MTTQ Việt Nam hiện có trên 30 thành viên, trong đó Đảng Cộng sản Việt

Nam vừa là thành viên vừa là hạt nhân lãnh đạo Mặt trận, có 5 thành viên là tổ chức

chính trị-xã hội gồm: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Tổng LĐLĐ Việt Nam, Hội Liên

hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

Ngoài ra thành viên của Mặt trận là tổ chức còn có các thành viên là cá nhân tiêu

biểu.

Giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên là giám sát mang

tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của nhà

nước, góp phần xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân, làm cho bộ máy nhà nước

ngày càng trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ và phát huy quyền

làm chủ của nhân dân, lợi ích hợp pháp của công dân, quản lý tốt mọi mặt đời sống

xã hội theo pháp luật.

Các tổ chức chính trị-xã hội là thành viên của MTTQ có thể thực hiện quyền

giám sát của mình thông qua Mặt trận; hầu hết điều lệ các đoàn thể có quy định việc

tham gia quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời có quyền giám sát độc lập, như

Điều 10, Hiến pháp 1992 quy định:

Công đoàn... cùng cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội

chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những

người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm

tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế... [53,

tr.202].

MTTQ còn có chức năng tổ chức và chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra

nhân dân ở cơ sở. Pháp luật quy định đó là hình thức giám sát của nhân dân đối với

các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà

nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước. Tổ chức và hoạt động của Thanh

tra nhân dân được Chính phủ, sau khi trao đổi, thống nhất với Ban Thường trực Uỷ

ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt

Nam, quy định tại Nghị định số 99/2005/NĐ-CP.

Theo Nghị định số 99/2005NĐ-CP của Chính Phủ ngày 28/7/2005 thì việc

thành lập Ban Thanh tra nhân dân “để giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật,

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần

phát huy dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” [60, tr.29]. Như vậy, cùng với các chủ thể khác,

Ban Thanh tra nhân dân là chủ thể quan trọng, một phương thức thực hiện chức năng

giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hành chính, cán bộ

công chức nhà nước nói riêng.

(2) Các tổ chức xã hội: Tổ chức xã hội, là tên gọi chung để chỉ các tổ chức

tự nguyện của quần chúng nhưng không phải là 5 tổ chức chính trị-xã hội như nêu ở

trên. Các tổ chức xã hội có nhiều tên gọi khác nhau tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục

đích, điều lệ của tổ chức xã hội đó như: Hội, Liên Hiệp các hội, Hội liên hiệp, Tổng

hội, Liên đoàn, Hiệp hội... Đặc điểm chung của các tổ chức xã hội là tự nguyện, tự

chịu trách nhiệm về kinh phí, tập hợp kết nạp hội viên là người cùng ngành, nghề,

giới, lứa tuổi, sở thích... có điều lệ hoặc quy chế được thành lập hoạt động một cách

thường xuyên để đạt mục đích nào đó. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức đó

không được trái với lợi ích của nhân dân, dân tộc, tổ quốc, chế độ và được pháp luật

công nhận (đăng ký hoạt động, phê chuẩn điều lệ...), đa số các tổ chức xã hội có tư

cách pháp nhân.

Các tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động theo qui định của pháp luật

và điều lệ, quy chế của tổ chức đó. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với tổ

chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, các hội có trách nhiệm chấp hành sự quản

lý nhà nước theo quy định của pháp luật, đồng thời có quyền tham gia giám sát hoạt

động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước.

Quyền giám sát của tổ chức xã hội đối với cơ quan, cán bộ, công chức nhà

nước được quy định trong Hiến pháp và ngày càng được quy định nhiều và cụ thể

trong các văn bản pháp luật mới ban hành như: Luật Phòng, chống tham nhũng;

Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật về các lĩnh vực, ngành nghề đặc

thù... các quy định của pháp luật đều ghi nhận, khuyến khích tổ chức, cá nhân (Hội,

hội viên) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và giám sát việc thực hiện

chính sách, pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Kiến nghị với nhà

nước về những vấn đề bất cập trong quá trình quản lý nhà nước và xã hội.

(3) Các tập thể lao động: Các tập thể lao động ở nước ta hiện nay có số

lượng vô cùng lớn với hình thức hết sức đa dạng tập trung trong các doanh nghiệp,

nhà máy, hầm mỏ, đơn vị sự nghiệp, hợp tác xã... Tập thể lao động trong cơ quan

hành chính nhà nước tham gia giám sát với ý nghĩa là theo dõi, xem xét, đánh giá

hoạt động của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có tác dụng quan trọng

góp phần hạn chế vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, tham nhũng, lãng phí, lạm

quyền trong thực hiện công vụ.

(4) Các cơ quan báo chí- với tính chất vừa là chủ thể vừa là phương tiện

giám sát của nhân dân: Chức năng giám sát của báo chí và truyền thông đại chúng

lần đầu tiên được đề cập trong Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII của Đảng Cộng

sản Việt Nam với khẳng định: “Là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội”. Đó là

sự xác định, đề cao quyền dân chủ của nhân dân đồng thời trao cho nhân dân công

cụ sắc bén để thực hiện quyền giám sát của mình. Theo Luật báo chí thì có các loại

hình sau:

Báo in (Báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (Đài phát

thanh), báo hình (Đài truyền hình), báo điện tử (được thực hiện trên mạng vi tính)

bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài...

Với chức năng thông tin, chức năng tạo dư luận xã hội (phản biện) và chức

năng giáo dục, nâng cao dân trí, báo chí ngày càng có vai trò quan trọng đối với đời

sống chính trị-xã hội, hoạt động quản lý nhà nước và nhu cầu của nhân dân. Do đó,

báo chí được coi là chủ thể quan trọng, là công cụ, phương tiện đắc lực của nhân

dân để thực hiện chức năng giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Luật báo chí hiện hành và pháp luật nói chung đều quy định khuyến khích

báo chí đưa tin, phản ánh về những việc làm sai trái của cơ quan, cán bộ, công chức

nhà nước; lên án các hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu

cực xã hội khác; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tạo diễn đàn để các tầng

lớp nhân dân thực hiện quyền giám sát. Cơ quan báo chí, phóng viên có quyền yêu

cầu cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin, tài liệu liên quan

đến hành vi vi phạm pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu có trách

nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật... đồng thời pháp luật

cũng quy định cơ quan báo chí, phóng viên phải đưa thông tin trung thực, khách

quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đưa tin đó.

(5) Giám sát trực tiếp của công dân: Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định 9

quyền về chính trị của công dân, trong đó có 7 quyền trực tiếp hoặc gián tiếp thể

hiện quyền giám sát của công dân đối với nhà nước. Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật

Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Thanh tra

cụ thể là các quy định về thanh tra nhân dân, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn đã thể hiện nội dung giám sát của cá nhân công dân đối với hoạt

động của chính quyền; phẩm chất đạo đức của cá nhân, cán bộ công chức, việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo, dự toán và quyết toán ngân sách, việc sử dụng các khoản

kinh phí do nhân dân đóng góp, các công trình do nhà nước đầu tư, việc thực hiện

chính sách pháp luật... thông qua cuộc họp, hội nghị, tiếp xúc cử tri, trưng cầu ý

kiến, bỏ phiếu tín nhiệm....

Tóm lại, chủ thể của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với hoạt động

của cơ quan hành chính nhà nước gồm có các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức

xã hội, các tập thể lao động, ban thanh tra nhân dân, cơ quan báo chí và trực tiếp

của công dân. Các chủ thể trên đều có đặc điểm chung là bên ngoài nhà nước, độc

lập hoặc độc lập tương đối với nhà nước, không mang tính quyền lực nhà nước và

do tính chất là những cơ cấu, tổ chức thiết chế thuộc về xã hội mang tính nhân dân

nên gọi là giám sát của nhân dân.

1.1.2.2. Các quy định về đối tượng giám sát của nhân dân

Đối tượng pháp luật về giám sát của nhân dân đề cập trong luận văn này

chính là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.

Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước do nhà

nước lập ra để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Cũng như các cơ

quan khác của bộ máy nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu tổ chức

riêng để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định, đó là hoạt

động trên một đơn vị lãnh thổ hành chính hay trên một lĩnh vực nhất định.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước do Hiến

pháp, pháp luật quy định. Mặt khác, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan

hành chính nhà nước do vị trí, tính chất của nó trong hệ thống các cơ quan nhà nước

quyết định. Quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước là phương tiện pháp lý cần

thiết để thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao.

Cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống thống nhất từ TW đến địa

phương, đứng đầu hệ thống đó là Chính phủ. Các cơ quan hành chính nhà nước có

thẩm quyền chung (Chính phủ, UBND các cấp) do các cơ quan quyền lực nhà nước

(Quốc hội, HĐND các cấp) lập ra. Do vậy, các cơ quan đó phải chịu sự giám sát trực tiếp

và báo cáo công tác trước các cơ quan quyền lực nhà nước.

Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan nhà nước, một bộ phận

cấu thành của bộ máy nhà nước do đó cơ quan hành chính nhà nước có các đặc

điểm chung của cơ quan nhà nước. Ngoài ra, cơ quan hành chính nhà nước có

những đặc điểm riêng mà qua đó ta có thể phân biệt được cơ quan hành chính nhà

nước và cơ quan khác, đó là:

Thứ nhất, cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính

nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung do cơ quan quyền

lực cùng cấp lập ra. Các cơ quan khác trong bộ máy hành chính nhà nước không do

cơ quan hành chính lập ra nhưng về nguyên tắc vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan

quyền lực nhà nước, sự giám sát của nhân dân.

Hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan hành chính nhà nước là hình

thức hoạt động chủ yếu để đưa các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà

nước vào thực tiễn đời sống xã hội và quản lý nhà nước. Trong khi các cơ quan nhà

nước khác chỉ tham gia hoạt động quản lý hành chính trong phạm vi, lĩnh vực nhất

định nhằm tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.

Thứ hai, mỗi cơ quan hành chính nhà nước có một phạm vi thẩm quyền nhất

định được giới hạn trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước do pháp luật quy

định (Hiến pháp, Luật Tổ chức chính phủ, Luật Tổ chức HĐND và UBND, các nghị

định của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy

của các bộ, cơ quan ngang bộ...) và trong phạm vi thẩm quyền của mình độc lập

hành động.

Thứ ba, chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới có hệ thống các đơn vị trực

thuộc. Các đơn vị cơ sở này góp phần tích cực vào việc thực hiện chức năng cơ bản

của cơ quan hành chính nhà nước. Ví dụ như: các trường học, bệnh viện, doanh

nghiệp...

Phân loại cơ quan hành chính nhà nước dựa trên nhiều căn cứ khác nhau,

theo các tiêu chuẩn khác nhau. Đó là:

- Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ hoạt động (không gian) cơ quan hành chính

nhà nước được phân thành 2 loại: Cơ quan hành chính nhà nước ở TW và cơ quan

hành chính nhà nước ở địa phương. Cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương

gồm Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ quản lý về ngành hay lĩnh vực công

tác. Những cơ quan này có phạm vi hoạt động toàn quốc, các văn bản do các cơ

quan đó ban hành về nguyên tắc có hiệu lực trên phạm vi cả nước. Cơ quan hành

chính nhà nước ở địa phương là Uỷ ban nhân dân các cấp. Đây là những cơ quan

hành chính nhà nước được thành lập và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ nhất định.

Các văn bản do cơ quan này ban hành chỉ có hiệu lực trong phạm vi hoạt động của

các cơ quan, tổ chức, công dân ở địa phương đó. Trong một số trường hợp các văn

bản do cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương ban hành có hiệu lực đối với cả

cơ quan, đơn vị của Trung ương đóng tại địa phương.

- Căn cứ theo phạm vi thẩm quyền, cơ quan hành chính nhà nước được phân

loại thành cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và cơ quan hành

chính nhà nước có thẩm quyền riêng. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền

chung gồm Chính phủ và UBND các cấp. Các cơ quan này theo quy định của Hiến

pháp có thẩm quyền giải quyết vấn đề trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã

hội, đối với các đối tượng khác nhau như cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công

dân. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng bao gồm các bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, sở, phòng… có chức năng quản lý theo ngành

hay theo chức năng, các cơ quan này hoạt động trong một ngành hay một lĩnh vực,

một số ngành hay một số lĩnh vực nhất định và hoạt động không được vượt ngoài

giới hạn phạm vi thẩm quyền đã được pháp luật quy định.

- Căn cứ theo nguyên tắc tổ chức và giải quyết công việc (theo chế độ lãnh

đạo) cơ quan hành chính nhà nước được phân thành hai loại: Cơ quan tổ chức và

hoạt động theo chế độ lãnh đạo tập thể và cơ quan tổ chức và hoạt động theo chế độ

thủ trưởng một người.

+ Cơ quan hành chính nhà nước theo chế độ tập thể lãnh đạo là cơ quan hành

chính nhà nước có thẩm quyền chung (Chính phủ và UBND các cấp). Các cơ quan

này thường giải quyết các công việc và quyết định các vấn đề quan trọng có liên

quan đến nhiều lĩnh vực nên cần có sự đóng góp trí tuệ tập thể trong bàn bạc và

quyết định. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) các cơ quan như Chính phủ,

UBND các cấp hoạt động theo nguyên tắc kết hợp giữa chế độ tập thể với chế độ

thủ trưởng. Đó là cách làm việc của tập thể Chính phủ và UBND với việc tăng

cường quyền hạn, trách nhiệm của Thủ tướng và Chủ tịch UBND. Cách thức chủ

yếu là tập thể thảo luận, quyết định theo đa số đối với các vấn đề quan trọng thuộc

thẩm quyền của cơ quan, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ quyền hạn của mình Thủ

tướng, Chủ tịch UBND các cấp quyết định các vấn đề thuộc phạm vi, chức trách

của mình.

+ Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn tổ chức và

hoạt động theo chế độ thủ trưởng một người. Thủ trưởng cơ quan là người đại diện

cho cơ quan, ý chí của họ do sự uỷ nhiệm của pháp luật, là ý chí của cơ quan. Họ

được phép thay mặt cơ quan ra những quyết định nhằm thực hiện nhiệm vụ, công

việc mà pháp luật quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chế độ làm việc

này cho phép thủ trưởng cơ quan quyết định giải quyết nhanh chóng công việc,

nhiệm vụ thuộc thẩm quyền được giao. Tuy nhiên, trong những vấn đề lớn, quan

trọng trước khi quyết định vẫn phải được tập thể thảo luận, bàn bạc...

Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy

nhà nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp, trong phạm

vi thẩm quyền của mình thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành và tham gia vào

các quan hệ quản lý nhân danh quyền lực nhà nước.

Khách thể của quan hệ pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan

hành chính nhà nước là trạng thái hoạt động trật tự, bình thường, đúng pháp luật của

các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Đó cũng là khách thể của hoạt động quản

lý nhà nước, xã hội mà cơ quan hành chính nhà nước hướng tới.

1.1.2.3. Các quy định về nội dung, hình thức giám sát của nhân dân đối

với cơ quan hành chính nhà nước

Giám sát của nhân dân có nhiều chủ thể và mỗi chủ thể lại có vị trí, chức

năng khác nhau trong hệ thống chính trị, đời sống xã hội do đó có các nội dung,

hình thức giám sát tương ứng.

- Nội dung giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước, bao

gồm:

+ Giám sát quá trình thành lập các cơ quan của bộ máy nhà nước.

+ Giám sát đối với hoạt động của các cơ quan chấp hành, điều hành, hay còn

gọi là hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, nắm giữ quyền hành pháp trong nhà

nước, trực tiếp quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội.

+ Giám sát việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn thẩm

quyền của cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với cơ quan khác và với

nhân dân.

+ Giám sát đối với các quyết định, hành vi hành chính của cơ quan hành

chính nhà nước xem có hợp hiến, hợp pháp và có tính hợp lý hay không.

+ Giám sát việc tuân thủ và tổ chức thực hiện các văn bản của cơ quan quyền

lực nhà nước cùng cấp, cấp trên cũng như của cơ quan hành chính có thẩm quyền.

+ Giám sát đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền tự do và lợi ích chính

đáng của công dân được pháp luật bảo vệ.

+ Giám sát đối với đội ngũ cán bộ, công chức thực thi trách nhiệm công vụ

trong cơ quan hành chính nhà nước.

+ Giám sát hiệu quả thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, việc

sử dụng các nguồn lực vật chất, tài chính, lao động và các nguồn lực khác trong tổ

chức lao động, sử dụng các thành tựu, công nghệ mới...

Việc phân chia nội dung giám sát như trên chỉ có tính chất tương đối bởi mỗi

chủ thể trong giám sát của nhân dân có sự khác nhau về mục đích, nhiệm vụ, tính

chất và vị trí của mình. Mặt khác, cũng không phải chủ thể nào trong đó đều thực

hiện đầy đủ các nội dung giám sát nêu trên, nhưng về tổng thể, các chủ thể giám sát

bao quát toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.

- Hình thức giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Giám sát của nhân dân được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong

phú tuỳ thuộc vào vị trí, tính chất, đặc điểm của chủ thể giám sát. Mỗi loại chủ thể

có những hình thức giám sát phù hợp với vị trí, tính chất và đặc điểm của mình.

Mỗi hình thức giám sát lại có khả năng phù hợp với một hoặc nhiều chủ thể.

Đối với chủ thể giám sát là tổ chức hay tập thể người lao động có 3 hình thức

chủ yếu là: Vận động các thành viên (các cá nhân) tích cực thực hiện quyền giám

sát; tự mình (với tư cách tổ chức tập thể) thực hiện quyền giám sát; tham gia phối

hợp với cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác để thực hiện quyền giám sát. Đối

với cá nhân công dân hình thức giám sát chủ yếu thông qua thực hiện quy chế dân

chủ ở cơ sở, quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị hoặc thông qua tổ chức, hoạt động

của Ban Thanh tra nhân dân và cơ quan báo chí. Có thể nêu một số hình thức giám

sát của các chủ thể sau đây:

+ Hình thức giám sát của các tổ chức chính trị-xã hội. (MTTQ và các đoàn

thể nhân dân) gồm: Động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát; tham gia giám

sát cùng các cơ quan quyền lực nhà nước; thông qua hoạt động của mình tổng hợp ý

kiến của nhân dân, của các tổ chức thành viên kiến nghị với cơ quan nhà nước có

thẩm quyền tuyên dương khen thưởng đối với những cơ quan, cán bộ, công chức

thực hiện tốt nhiệm vụ và xem xét, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật [41].

Trong loại hình giám sát này chúng ta thấy có một chủ thể đồng thời là hình

thức giám sát rất quan trọng, đó là Ban Thanh tra nhân dân ở cơ sở. Thanh tra nhân

dân giám sát đối với việc thực hiện chính sách pháp luật, việc giải quyết khiếu nại

tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Khi thực hiện giám sát theo 3 nội

dung trên, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì kiến nghị người có thẩm quyền xử

lý theo quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó. Khi cần

thiết, Ban Thanh tra nhân dân được Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn (cơ quan

hành chính cấp cơ sở), người đứng đầu các cơ quan, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp

nhà nước giao kiểm tra, xác minh những vụ việc nhất định. Thanh tra nhân dân có

quyền kiến nghị với Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan

nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước khắc phục khuyết điểm, thiếu sót

qua giám sát phát hiện được; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và người

lao động.

Thẩm quyền, trách nhiệm và phạm vi giám sát của Ban Thanh tra nhân dân

được pháp luật quy định cụ thể đối với 3 loại hình: Thanh tra nhân dân xã, phường,

thị trấn; Thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp và Thanh tra

nhân dân ở doanh nghiệp nhà nước. Pháp luật cũng quy định trách nhiệm và thời

gian cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận được kiến nghị của Thanh tra nhân dân

phải xem xét giải quyết.

+ Hình thức giám sát của tổ chức xã hội. Địa vị pháp lý của các tổ chức xã

hội được quy định trong Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ.

Theo quy định của pháp luật hình thức giám sát của các tổ chức xã hội là tham gia ý

kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của

tổ chức đó; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi phát hiện thấy những

vấn đề bất cập của chính sách, pháp luật đối với tổ chức đó; bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của hội viên; đại diện cho hội viên trong hoạt động đối nội, đối ngoại có

liên quan đến chức năng nhiệm vụ của hội. Các tổ chức xã hội, hội viên có quyền

giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức nhà

nước và kiến nghị sửa đổi, khắc phục, hoàn thiện khi có bất cập, thiếu sót.

+ Hình thức giám sát của các tập thể lao động. Các văn bản quy phạm pháp

luật điều chỉnh trong các lĩnh vực cụ thể (đăng ký kinh doanh, quản lý thị trường,

quan hệ về thuế...) đều có những quy định quyền cho các tập thể thực hiện quyền

giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước về lĩnh vực quản lý hành chính như:

kiến nghị, khiếu nại, tố cáo, kiện ra toà án... đó là cơ sở pháp lý và hình thức cơ bản

nhất để các tập thể lao động thực hiện quyền giám sát của mình đối với cơ quan, cán

bộ, công chức nhà nước.

+ Hình thức giám sát của cơ quan báo chí bao gồm: Đưa tin về hoạt động

của cơ quan hành chính nhà nước đến công chúng một cách thường xuyên, liên tục,

trung thực, kịp thời; tạo điều kiện thuận tiện để nhân dân nói lên quan điểm, thái độ,

đánh giá của mình đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Là diễn đàn

của nhân dân, cơ quan báo chí đưa ra công luận, công khai để nhân dân bày tỏ ý

kiến của mình về những vấn đề của nhà nước và xã hội.

+ Hình thức giám sát trực tiếp của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền

giám sát của mình thông qua việc thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn, cụ thể

là qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng;

kiến nghị thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên

của Mặt trận cấp xã [59]; Quy chế dân chủ ở cơ quan (điều 20,21); Quy chế dân

chủ ở doanh nghiệp nhà nước (điều 14,15) với hình thức chủ yếu là thông qua

cuộc họp, hội nghị mà công dân, cán bộ được tham gia, góp ý kiến cho cán bộ

đảng viên, bỏ phiếu tín nhiệm. Ngoài ra, công dân tự mình thực hiện quyền giám

sát qua các hình thức sau:

* Giám sát dưới hình thức kiến nghị đối với cơ quan nhà nước, đây là việc

làm thể hiện tính tích cực, chủ động của công dân. Quyền kiến nghị lần đầu tiên

được ghi nhận trong Hiến pháp 1992. Đó là đề xuất ý kiến với cơ quan, tổ chức nhà

nước nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, kiến nghị không

liên quan trực tiếp tới vi phạm pháp luật.

* Giám sát dưới hình thức yêu cầu, đó là đòi hỏi của công dân để được thực

hiện quyền chủ thể của họ mà pháp luật quy định (yêu cầu được học tập, yêu cầu có

việc làm, yêu cầu được thông tin...), cũng có trường hợp liên quan tới vi phạm pháp

luật nhưng không trực tiếp tới người yêu cầu.

* Giám sát thông qua việc khiếu nại, đó là việc sử dụng quyền chủ thể của

công dân khiếu nại hoặc của người do họ bảo hộ bị vi phạm do quyết định hoặc

hành vi trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước

hoặc các công chức, viên chức.

* Giám sát thông qua việc tố cáo, là việc công dân phát hiện báo với cơ quan

nhà nước có thẩm quyền về việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc cá

nhân gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, tập thể quyền

và lợi ích hợp pháp của công dân. Tính giám sát thể hiện rõ khi công dân thực hiện

quyền tố cáo.

* Giám sát thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri, qua việc tiếp xúc cử tri của

các đại biểu dân cử (nhiều vị công tác ở cơ quan hành chính nhà nước báo cáo với

cử tri về hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước mà báo cáo đó sẽ hoặc đã

được trình tại Quốc hội, HĐND) công dân giám sát trực tiếp đại biểu (nghe báo cáo,

chất vấn, kiến nghị) đồng thời giám sát hoạt động các cơ quan, cán bộ, công chức

nhà nước thông qua các đại biểu đó.

* Giám sát thông qua quyền được thông tin và các quy định mà cơ quan

hành chính nhà nước phải thực hiện như: đăng công báo, báo chí, yết thị nơi công

cộng, phổ biến ở hội nghị nhân dân... để nhân dân biết về hoạt động của cơ quan,

cán bộ, công chức nhà nước.

1.1.2.4. Các quy định về quy trình, thủ tục giám sát của nhân dân đối với

cơ quan hành chính nhà nước

Pháp luật nước ta quy định khá chặt chẽ, cụ thể về chủ thể, đối tượng, nội

dung, hình thức giám sát nhưng thiếu cụ thể về quy trình, thủ tục và hậu quả pháp lý

giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

- Đối với các tổ chức chính trị- xã hội.

+ ở Trung ương, Chính phủ thường xuyên mời Chủ tịch Uỷ ban TW MTTQ

Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, người đứng đầu cơ quan

TW của các đoàn thể nhân dân dự phiên họp của Chính phủ khi bàn về vấn đề có

liên quan.

Thường xuyên thông báo cho Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam, Ban Chấp hành

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và các cơ quan TW của các đoàn thể nhân dân

về tình hình kinh tế- xã hội, các quy định, chủ trương, công tác lớn của Chính phủ.

Xây dựng cơ chế phối hợp bằng các quy chế hoạt động giữa Chính phủ với

MTTQ, các đoàn thể nhân dân, như: tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, động

viên tổ chức nhân dân tham gia xây dựng củng cố chính quyền, tổ chức thực hiện

các chính sách, pháp luật nhà nước... Định kỳ hàng năm có chương trình làm việc

trực tiếp với Thủ tướng, thông qua hoạt động đó MTTQ và các tổ chức thành viên

góp ý, kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ những vấn đề nhằm giúp cho

hoạt động (xây dựng, ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật...) của cơ

quan hành chính nhà nước cao nhất toàn diện và hiệu quả hơn.

Mặt khác, MTTQ, các đoàn thể nhân dân thông qua chương trình phối hợp

liên tịch với các bộ, cơ quan ngang bộ trong thực hiện các quan điểm đường lối của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, mục đích yêu cầu của Mặt trận, các đoàn

thể cũng như của bộ, ngành. Thông qua hoạt động phối hợp, hoạt động giám sát

được thực hiện để quy chế, nghị quyết, thông tư liên tịch được thực hiện nghiêm

chỉnh, có kết quả tốt.

Như vậy, hoạt động giám sát của MTTQ, các đoàn thể nhân dân đối với cơ

quan hành chính nhà nước cao nhất chủ yếu thông qua việc tham dự các cuộc họp,

qua việc lấy ý kiến vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, qua việc công khai

xem xét các báo cáo, chương trình, đề án công tác; qua việc xác lập quy chế phối

hợp hoạt động...

+ ở địa phương, giám sát của MTTQ, các tổ chức chính trị-xã hội đối với cơ

quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước thực hiện với quy trình, thủ

tục sau: người đứng đầu các tổ chức thành viên của MTTQ, Trưởng ban công tác

Mặt trận tiếp nhận đơn giám sát, ý kiến phản ánh của nhân dân, hội viên, đoàn viên

sau đó phân loại, lựa chọn các sự việc có nội dung, địa chỉ rõ ràng gửi Ban Thường

trực Uỷ ban MTTQ cấp xã; Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã tiếp nhận đơn

giám sát, ý kiến phản ánh trực tiếp của người dân, người đứng đầu tổ chức thành

viên, Trưởng ban công tác Mặt trận, Trưởng Ban Thanh tra nhân dân để phân loại

xử lý. Khi cần thiết Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã thành lập tổ giám sát. Nội

dung giám sát, thành phần tổ giám sát, kế hoạch giám sát do Ban Thường trực Uỷ

ban MTTQ cấp xã quyết định sau khi thống nhất với Thường trực HĐND cùng cấp.

Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã có trách nhiệm tổ chức đối thoại để làm rõ

nội dung giám sát khi có yêu cầu của đối tượng bị giám sát; sau khi có văn bản trả

lời, Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã thông báo để tổ chức, cá nhân đã gửi

kiến nghị, đơn giám sát biết.

Giám sát của Ban Thanh tra nhân dân đối với hoạt động của UBND xã,

phường, thị trấn được thực hiện với quy trình thủ tục: Ban Thanh tra nhân dân xã,

phường, thị trấn giám sát thông qua việc tiếp nhận các ý kiến phản ánh của nhân

dân hoặc trực tiếp thu thập thông tin, tài liệu để xem xét, theo dõi cơ quan, tổ chức,

cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn thực hiện những việc thuộc phạm vi

giám sát của thanh tra nhân dân. Để thực hiện quyền của mình, Ban Thanh tra nhân

dân, sử dụng 2 con đường trực tiếp hoặc thông qua Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ

xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiến nghị, xem xét, giải

quyết các vấn đề liên quan đến nội dung giám sát của Ban Thanh tra nhân dân và

giám sát việc giải quyết kiến nghị đó.

Ban Thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp

nhà nước thực hiện quy trình, thủ tục giám sát theo hướng dẫn, chỉ đạo của Ban

Chấp hành Công đoàn cơ sở ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đó. Ban Thanh tra

nhân dân

- Đối với các tổ chức xã hội: Một số tổ chức xã hội là thành viên của Mặt

trận thì giám sát theo trình tự, thủ tục của Mặt trận và các tổ chức thành viên.

Những tổ chức chưa tham gia hoặc tham gia nhưng thực hiện chức năng giám sát

của mình độc lập thì quy trình, thủ tục của chủ thể giám sát này bao gồm: Giám sát

thông qua việc nắm bắt theo dõi thông tin về hoạt động của cơ quan hay cá nhân có

chức vụ, quyền hạn của nhà nước và kiến nghị với cơ quan, cấp có thẩm quyền;

tham gia vào việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến những

lĩnh vực, ngành nghề mà các tổ chức xã hội có trách nhiệm bảo vệ; thông qua các

đơn vị có chức năng tư vấn chuyên môn về pháp luật và các lĩnh vực dịch vụ công

khác; tham gia các đoàn giám sát việc thi hành pháp luật do chính quyền và Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam thành lập.

- Đối với các tập thể lao động: Trình tự, thủ tục giám sát của các chủ thể này

chủ yếu là theo dõi, đánh giá những quy trình, thực hiện trách nhiệm công vụ của

cán bộ, viên chức nhà nước xem có đúng chính sách pháp luật hay không. Hoạt

động tiếp xúc đối thoại giữa các tập thể lao động nhất là các doanh nghiệp với cơ

quan quản lý nhà nước (từ cấp Trung ương đến cơ sở) để thực hiện quyền giám

sát...

- Đối với cơ quan báo chí: Luật báo chí quy định việc thu thập thông tin, tư

liệu, tài liệu của báo chí đòi hỏi phải có trình tự, thủ tục chặt chẽ trên cơ sở pháp

luật và quy tắc nghề nghiệp. Theo đó, việc đưa tin về hoạt động của cơ quan, cán

bộ, công chức nhà nước bao gồm đưa tin mặt tích cực hay tiêu cực của hoạt động bộ

máy nhà nước đòi hỏi phải trung thực, khách quan, kịp thời; các cơ quan, tổ chức,

cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu theo quy định của

pháp luật, trường hợp không cung cấp thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

- Đối với cá nhân công dân: giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước

được thực hiện với các trình tự, thủ tục quy định ở Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật

MTTQ Việt Nam, Luật Thanh tra, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị

trấn và các nghị định, thông tư của Chính phủ, các bộ,... trình tự, thủ tục giám sát

chính là việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được Hiến pháp,

pháp luật quy định.

1.1.2.5. Các quy định về hậu quả pháp lý giám sát của nhân dân đối với cơ

quan hành chính nhà nước

Hậu quả pháp lý của giám sát được hiểu là trách nhiệm pháp lý đặt ra sau

hoạt động giám sát của chủ thể với đối tượng giám sát. Trách nhiệm pháp lý được

đặt ra nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế và bản chất Nhà nước pháp quyền. Đó là

ngăn ngừa sự vi phạm, lạm dụng, lợi dụng quyền lực nhà nước, đảm bảo cho mỗi

bên tham gia quan hệ giám sát có trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ của

mình theo pháp luật.

Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát do MTTQ Việt Nam và các tổ chức

thành viên, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, cơ quan báo chí và trực tiếp của

công dân thực hiện gọi chung là giám sát của nhân dân được quy định bởi pháp luật,

nhưng không mang tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước. Để đảm bảo hiệu lực,

hiệu quả của giám sát và xử lý sau giám sát, các cơ quan nhà nước dựa vào quyền

lực trực tiếp mà nhà nước trao cho. Ngược lại, trong giám sát của nhân dân vai trò

“dư luận xã hội” và “kiến nghị” như là một ưu thế “vũ khí” tác động để cơ quan nhà

nước có thẩm quyền xem xét, xử lý nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả giám sát của

nhân dân đối với cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói

riêng. Như vậy, hậu quả pháp lý giám sát của nhân dân là gián tiếp.

1.1.3. Vai trò pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành

chính nhà nước

Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước không có mục

đích tự thân, không phải là việc bên ngoài áp đặt vào quyền lực nhà nước mà là

chức năng và nhu cầu phát sinh khách quan, tất yếu từ bản thân quyền lực nhà nước. Chính bản chất, mục đích và đặc điểm của cơ quan nhà nước là cái quy định về số lượng, tính chất, nội dung, hình thức các loại giám sát đối với cơ quan nhà nước trên thế giới. Trong thể chế chính trị mà “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, bản chất và mục đích của quyền lực nhà nước được xác định là “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” thì giám sát của nhân dân có vai trò rất quan trọng, điều đó thể hiện qua các nội dung sau đây.

Thứ nhất, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước là cơ sở pháp lý góp phần đảm bảo cho hoạt động của cơ quan hành chính nhà

nước hiệu lực, hiệu quả. Giám sát của nhân dân góp phần bảo đảm duy trì sự thống

nhất, kiên định về bản chất cũng như mục tiêu, định hướng của quyền lực nhà nước. Thực tế cho thấy quyền lực nhà nước là của nhân dân trao cho bộ máy nhà nước để thực hiện chức năng quản lý xã hội nhưng có xu hướng bị lạm dụng, tha hoá, dễ xa rời

bản chất nhân dân nếu không được chấn chỉnh kịp thời. Giám sát là phương tiện để làm

giảm nguy cơ chệch hướng về bản chất giai cấp nhà nước, trong đó giám sát của nhân

dân là giám sát của chủ thể quyền lực đối với bên được uỷ quyền thực thi quyền lực, đó cũng là phương tiện quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.

Thứ hai, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa nhà nước và công dân. Trong Nhà nước

pháp quyền XHCN, quá trình tổ chức và quản lý xã hội nhà nước luôn phải tiếp cận

và giải quyết các vấn đề của dân, với nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì

pháp luật không cấm; cán bộ, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật

cho phép, pháp luật về giám sát của nhân dân là bảo đảm pháp lý giúp cho quan hệ

giữa chủ thể và đối tượng giám sát đều phải tuân thủ, thực hiện theo pháp luật.

Giám sát của nhân dân tuy không mang tính quyền lực pháp lý, nhưng có tác dụng

giáo dục, phòng ngừa, góp phần ngăn chặn có hiệu quả vi phạm pháp luật và kỷ luật

nhà nước từ phía cơ quan hành chính. Trong quá trình giám sát các nhận xét, kiến

nghị xác đáng của nhân dân (các chủ thể) được các cơ quan nhà nước tiếp thu sẽ là

cơ sở quan trọng để hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân.

Thứ ba, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng đáp ứng yêu cầu

cải cách nền hành chính nhà nước, là một trong 4 yếu tố cấu thành nền hành chính,

nội dung cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Giám sát cơ quan

hành chính nhà nước, thực chất là giám sát hoạt động của cán bộ, công chức nhà

nước. Cán bộ, công chức có vai trò quan trọng và quyết định trong bộ máy nhà

nước và chất lượng cán bộ công chức quyết định chất lượng hoạt động của cơ quan

hành chính nhà nước.

Pháp luật về giám sát của nhân dân có vai trò bảo đảm hiệu lực, hiệu quả

hoạt động của cơ quan nhà nước, phát hiện, kiến nghị những hành vi, vi phạm pháp

luật của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ. Phát hiện, ngăn chặn, xử lý

những vi phạm quyền tự do cơ bản của công dân, đảm bảo thực thi các giá trị phổ

quát và nhân văn của dân tộc và thời đại như: công bằng, bình đẳng, dân chủ, nhân

quyền, pháp quyền... Mặt khác, phát hiện những hạn chế, bất cập trong quản lý hành

chính nhà nước để có giải pháp tích cực hoàn thiện, đẩy lùi tệ quan liêu, tham

nhũng, cửa quyền và các biểu hiện tiêu cực khác trong bộ máy hành chính nhà

nước.

Thứ tư, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Trong tình hình hiện nay giám sát của nhân dân có vai trò rất quan trọng trong đấu

tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy nhà nước, nhất là trong cơ quan

hành chính nhà nước. Thực tiễn cho thấy ở nơi nào năng lực giám sát và làm chủ

của người dân còn yếu thì ở đó hiện tượng tiêu cực càng có nhiều cơ hội, điều kiện

phát sinh, phát triển. Vì vậy, bên cạnh những biện pháp tự phòng chống của nhà

nước thì rất cần tăng cường giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để góp phần

làm trong sạch bộ máy nhà nước. Mặt khác, qua hoạt động giám sát cũng nâng cao

vai trò trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã

hội, ngăn ngừa, phòng chống các biểu hiện lạm dụng quyền lực nhà nước của các cơ

quan hành chính dẫn tới xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân. Thông qua giám sát của nhân dân giúp cho trật tự, kỷ cương của

cơ quan nhà nước được thiết lập và tuân thủ chặt chẽ theo pháp luật đồng thời càng

nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội... trong đời sống xã

hội và hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

Thứ năm, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hành

chính nói riêng. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước là bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, các quy phạm của nó có mối quan

hệ chặt chẽ với các bộ phận khác của hệ thống pháp luật. Để đạt được mục tiêu của cải

cách hành chính giai đoạn 2001-2010 và có một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống

nhất, khả thi, công khai, minh bạch đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, đòi hỏi

phải hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước. Và việc hoàn thiện đó cũng chính là góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam nói chung.

1.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

Tiêu chí- theo Từ điển Tiếng Việt là “tính chất, dấu hiệu dựa vào mà phân biệt

một vật, một khái niệm để phê phán nhằm đánh giá”. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn

thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là những tính chất, đặc điểm mà qua đó phân biệt được với pháp luật về các loại hình

giám sát khác. Đồng thời, tiêu chí cũng như vật chuẩn, hướng đích để theo đó mà xây

dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về giám sát của nhân dân nói

riêng. Pháp luật về giám sát của nhân dân là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật, bên cạnh tính đặc thù thì có những đặc điểm chung như các bộ phận khác của hệ

thống pháp luật. Thực tiễn xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật

hiện nay đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi khoa học lập pháp phải có sự đổi mới để phù hợp

với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của

Đảng, của tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, với mục tiêu xây dựng Nhà nước

pháp quyền và phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân...

Một hệ thống pháp luật được đánh giá mức độ hoàn thiện hay không phải

được dựa trên các tiêu chí, trên cơ sở các tiêu chí để đặt ra các yêu cầu xây dựng và

hoàn thiện. Thông thường người ta dựa vào các tiêu chí sau để xác định mức độ

hoàn thiện của pháp luật: tính đồng bộ, thống nhất; tính thuận lợi dễ thực hiện; tính

hiệu lực, hiệu quả; tính công khai minh bạch và bảo đảm chất lượng kỹ thuật lập

pháp. Thực ra bảo đảm chất lượng kỹ thuật lập pháp đã bao hàm cả các yếu tố trên.

Tuy nhiên, để đánh giá chi tiết, toàn diện cần thiết phải đi sâu vào 5 yếu tố trên.

Các tiêu chí có mối quan hệ tác động, bổ trợ lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể

giúp cho việc xác định tính hoàn thiện của pháp luật được khách quan, chính xác.

Xác định tính hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành

chính nhà nước cần thực hiện theo các tiêu chí sau:

1.2.1. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính

nhà nước phải có tính đồng bộ, thống nhất

Hệ thống pháp luật bao gồm quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, các

ngành luật... được thể hiện dưới hình thức văn bản do cơ quan nhà nước ban hành

theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Quy phạm theo tiếng La

tinh là quy tắc, khuôn mẫu, mệnh lệnh xác định. Quy phạm pháp luật cùng với quy

phạm đạo đức, quy phạm tập quán, quy phạm tôn giáo... đều có thuộc tính chung là

điều chỉnh các quan hệ xã hội, có tính giai cấp... Quy phạm pháp luật là một dạng

của quy phạm xã hội, vừa có những dấu hiệu chung của quy phạm xã hội vừa có

những đặc điểm riêng đó là, so với quy phạm xã hội khác nó có tính xác định chặt

chẽ về mặt hình thức. Hình thức của pháp luật do nội dung pháp luật quy định, do

đó pháp luật đòi hỏi phải có tính đồng bộ, thống nhất về cả nội dung lẫn hình thức.

Vì vậy, yêu cầu đặt ra pháp luật phải toàn diện, nhất quán, không mâu thuẫn, chồng

chéo.

Đối với pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước tính đồng bộ, thống nhất cần thể hiện ở các điểm sau:

- Các quy phạm về chủ thể giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước

được quy định trong nhiều văn bản pháp luật. Trong đó, giám sát mang tính quyền

lực nhà nước được ghi nhận trong các luật như Luật hoạt động giám sát của Quốc

hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức HĐND và UBND... nhưng pháp luật về

giám sát của nhân dân có đặc điểm là liên quan đến nhiều chủ thể, có nhiều nội

dung giám sát, đa dạng về hình thức giám sát vì thế các quy định của pháp luật về

loại hình giám sát này tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật và có nhiều hạn chế,

bất cập, đặc biệt là thiếu tính đồng bộ, thống nhất.

- Các quy phạm quy định về trình tự, thủ tục giám sát của các chủ thể mang

tính quyền lực nhà nước được xác định chặt chẽ, cụ thể; còn giám sát của nhân dân

quy định về trình tự, thủ tục lại rất thiếu và không cụ thể. Như thế là chưa đồng bộ,

thống nhất.

- Các quy phạm về hậu quả giám sát mang tính quyền lực nhà nước được xác

định chặt chẽ, với những chế tài và hướng xử lý cụ thể; các quy phạm quy định về

hậu quả giám sát của nhân dân rất chung chung “kiến nghị”, “đề xuất lên cấp

trên”.... Quy định như vậy, chưa đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu lực, hiệu quả

của giám sát do chủ thể là “nhân dân” thực hiện.

Đặt ra tiêu chí đồng bộ, thống nhất là yêu cầu quan trọng để hoàn thiện pháp

luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước nhằm đảm bảo

hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế.

1.2.2. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính

nhà nước đòi hỏi phải thuận lợi, đơn giản, dễ thực hiện

Tiêu chí trên quyết định tính khả thi của pháp luật, bởi pháp luật về giám sát

của nhân dân phải đảm bảo được “tính nhân dân” bằng sự phù hợp với trình độ, tính

chất, đặc điểm của quảng đại quần chúng. Điều đó đặt ra là phải đơn giản, dễ thực

hiện. Đơn giản không có nghĩa là sơ sài mà nó phải đáp ứng được yêu cầu đó là:

văn phong chính xác, đại chúng, một nghĩa, trong sáng... Mặt khác, pháp luật phải

thuận lợi, điều này nói lên vấn đề là pháp luật phải đi vào cuộc sống bởi chính nó

chứ không phải bằng quá nhiều các văn bản dưới luật làm cầu nối. Dễ thực hiện là

giá trị cơ bản của luật bởi nếu không thực hiện được hay khó thực hiện thì đó là luật

“treo”. Dễ thực hiện là cơ sở giúp người dân có niềm tin và thực sự dựa vào pháp luật

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời cũng ngăn ngừa những biểu

hiện vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hoàn thiện pháp luật về giám sát

của nhân dân đòi hỏi phải chú ý đến yếu tố thuận lợi, đơn giản, dễ thực hiện.

1.2.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân phải đảm bảo tính khả thi

trong thực tế

Thực trạng pháp luật nước ta hiện nay có một số luật được ban hành chưa có

tính khả thi. Tính khả thi phải được trù liệu trước khi xây dựng, ban hành chứ không

phải để ban hành rồi mới tính đến. Pháp luật thuộc về kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ

tầng chi phối, quy định (đời sống kinh tế-xã hội). Pháp luật là một phạm trù lịch sử có

tính giai cấp và xã hội, do đó xây dựng pháp luật phải phù hợp với trình độ phát triển

kinh tế, xã hội, dân trí, bản sắc văn hoá dân tộc... để tạo ra sự kết hợp đúng đắn với các

quan hệ xã hội khác. Có như vậy, pháp luật mới “tự nhiên” đi vào cuộc sống xã hội; là

phương tiện pháp lý của nhà nước, là phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân.

Tính khả thi của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành

chính nhà nước phải bảo đảm được tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm

tra” do đó cần phải được cụ thể hoá về chủ thể, quy trình, thủ tục, hậu quả pháp lý.

Thực hiện tiêu chí này, pháp luật mới bảo đảm được quyền giám sát của nhân dân

đối với cơ quan hành chính nhà nước và phát huy hiệu lực, hiệu quả trong thực tế.

1.2.5. Pháp luật về giám sát của nhân dân phải đảm bảo tính công khai,

minh bạch

Tính công khai, minh bạch của pháp luật cần xác định rõ những vấn đề,

những việc nhà nước phải công khai và trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo

đảm quyền giám sát của nhân dân, có những biện pháp hữu hiệu để xử lý vi phạm

quyền giám sát của nhân dân. Tính minh bạch của pháp luật về giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là một trong những biện pháp tăng cường

pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN của

dân, do dân, vì dân. Tính công khai, minh bạch của pháp luật tạo cơ sở phát huy cao

nhất sức mạnh, năng lực, tiềm năng của chính nó, đồng thời là cơ chế huy động

được đông đảo nhân dân tham gia vào hoạt động của nhà nước, bảo đảm thực hiện

được những giá trị có tính phổ biến (nhân loại) của mình: tự do, dân chủ, công

bằng, phát triển và tiến bộ. Ngoài ra, tính công khai, minh bạch của pháp luật còn có

ý nghĩa phản ánh tính dân chủ trị của nhà nước nhằm chống lại các luận điệu xuyên

tạc cho rằng pháp luật đơn thuần chỉ là ý chí của đảng cầm quyền.

1.2.5. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính

nhà nước phải đảm bảo kỹ thuật lập pháp

Chất lượng kỹ thuật lập pháp bao hàm các tiêu chí trên. Vấn đề đặt ra ở đây

kỹ thuật xây dựng, hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân được đặt ra ở góc

độ nào. Trước hết, đã là luật đòi hỏi phải chặt chẽ về hình thức, khoa học về mặt nội

dung để phân biệt với các loại văn bản khác do nhà nước ban hành. Thứ hai, tính

bền vững để vừa điều chỉnh các quan hệ xã hội hiện tại nhưng ít bị sửa đổi do lạc

hậu trong tương lai do đó phải có yếu tố tiên lượng, dự báo khoa học. Thứ ba, phản

ánh và bảo vệ hữu hiệu các quyền tự do dân chủ của nhân dân với tư cách là chủ thể

của quyền lực nhà nước. Thứ tư, tính khoa học được xây dựng trên những căn cứ

bền vững về lý luận và thực tiễn, phù hợp với ý chí nguyện vọng của nhân dân, có

sự vận dụng sáng tạo những thành tựu khoa học pháp lý trong nước và trên thế giới.

Thứ năm, tính thực tiễn đòi hỏi phải được xây dựng trên cơ sở thực tiễn chứ không

phải do ý chí chủ quan của cá nhân, tổ chức nào.

Để đạt được các yêu cầu của tiêu chí trên đòi hỏi hoạt động xây dựng pháp luật phải chuyên nghiệp, tính chuyên nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, trình độ của đại biểu Quốc hội và cơ quan có chức năng, thẩm quyền trình dự án luât. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước, đòi hỏi phải được lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân, tham khảo

pháp luật của các nước trên thế giới, đặc biệt phải trung thành với quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp Việt Nam. Mặt khác, cần làm tốt công tác hệ thống hoá pháp luật để thuận lợi cho việc thực thi pháp luật.

1.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính của

một số nước và bài học kinh nghiệm vận dụng ở Việt Nam

1.3.1. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính

một số nước

Giám sát của nhân dân hay giám sát xã hội là giám sát của người dân và các

thiết chế ngoài nhà nước đối với tổ chức, hoạt động của cơ quan công quyền. Trên

thế giới vấn đề này được thể hiện có tính phổ biến qua các quy phạm pháp luật và

phát huy hiệu quả trong thực tế. Tuỳ vào đặc điểm, điều kiện của mỗi nước mà nội

dung, phương thức giám sát của nhân dân ở đó có khác nhau.

- ở Trung Quốc: Biện pháp được coi là đột phá trong đấu tranh chống tham

nhũng tiêu cực của bộ máy nhà nước là hoạt động giám sát của nhân dân. Các cơ

quan chức năng có thẩm quyền của Trung Quốc tiến hành xem xét cả đơn, thư tố

cáo nặc danh, các cuộc điện thoại gọi đến tố cáo để phát hiện tham nhũng. Trung

Quốc cho rằng, hiện do pháp luật Trung Quốc chưa hoàn thiện, người tố cáo còn bị

đe doạ, trả thù, do đó cho phép họ được dấu tên và chấp nhận đơn, thư nặc danh. Số

đơn, thư tố cáo nặc danh ở Trung Quốc chiếm hơn 60% đơn, thư, trong đó có rất

nhiều thông tin chính xác. Uỷ ban kiểm tra và kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc

thống kê cho thấy 80% các vụ án lớn của nước này được phát hiện, xử lý là do nhân

dân tố cáo.

+ Để phát huy vai trò giám sát của nhân dân, đặc biệt là trong chính sách

kinh tế- xã hội, Trung Quốc tạo điều kiện để nhân dân giám sát bằng cách bán, giao

cổ phần cho người lao động, gắn với lợi ích của họ để họ quan tâm hơn đến chính

sách nhà nước, đến hoạt động của cơ quan công quyền và trực tiếp là trong doanh

nghiệp mà họ góp vốn.

+ Một số thành phố của Trung Quốc đã cho phép nhân dân được tới theo dõi

các cuộc họp của HĐND và UBND qua đó để thực hiện quyền giám sát của mình.

+ Trung Quốc còn cho thành lập hiệp hội giám sát. Đây là tổ chức xã hội-

nghề nghiệp nhằm nghiên cứu tuyên truyền, bồi dưỡng và giúp đỡ các tổ chức, cá

nhân về lý luận, kinh nghiệm giám sát đối với cơ quan nhà nước nhằm phát huy tác

dụng, hiệu quả hoạt động giám sát của nhân dân.

- ở ấn Độ: Năm 2005, Nhà nước ban hành luật về quyền thông tin, trong đó

quy định, công dân có quyền yêu cầu các cơ quan chức năng của nhà nước cung cấp

thông tin; quy định mọi cơ quan đều phải công khai niêm yết các thủ tục, đảm bảo

minh bạch trong hoạt động; quy định việc lập trang Website tố cáo, Website về thu

nhập cá nhân; quy định các biện pháp khuyến khích công dân thực hiện giám sát, tố

cáo và bảo vệ người tố cáo; pháp luật ấn Độ quy định rõ quyền tự do báo chí, đặc

biệt trong lĩnh vực chống tham nhũng. Đài truyền hình TW có trên 10 kênh khác

nhau nhận và phát tin về tham nhũng.

Là nước có nền văn minh tôn giáo lâu đời, Nhà nước và xã hội ấn Độ rất

chăm lo việc giáo dục đạo đức cho cộng đồng dân cư và công chức, tôn vinh đạo

đức và sự liêm khiết, lên án hành vi sai trái, sử dụng đạo đức, dư luận để góp phần

định hướng cái đúng, lên án những cái sai lệch, tha hoá trong bộ máy thực thi quyền

lực nhà nước.

- ở các nước Đan Mạch, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Cộng hoà Liên bang Đức... đề

cao việc thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan

nhà nước, trong việc xây dựng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và giải

quyết các việc của công dân, với những quy định cụ thể:

+ Sớm công bố các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để

nhân dân giám sát. Ví dụ, ở Thuỵ Sĩ pháp luật quy định, các văn bản pháp luật sau

khi được thông qua phải công bố công khai và sau 100 ngày nếu không có ý kiến

phản bác gì từ phía người dân thì mới được thực hiện.

+ Tất cả các tài liệu của Chính phủ và các cơ quan nhà nước từ TW đến địa

phương (trừ tài liệu thuộc bí mật quốc gia) đều phải được đăng tải công khai trên

báo chí và trên mạng Internet (kể cả thu nhập của nguyên thủ quốc gia và bộ

trưởng).

+ Mọi người dân đều có quyền tiếp cận với những thông tin, tài liệu chính

thức của các cơ quan nhà nước, có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp hoặc

cho xem bất cứ tài liệu nào có trong hồ sơ lưu trữ của cơ quan đó, bất kể tài liệu có

liên quan đến bản thân mình hay không (trừ tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia).

+ Mọi công chức nhà nước đều có quyền, trách nhiệm cung cấp các thông tin

về tổ chức và hoạt động của cơ quan mình cho phóng viên báo chí.

+ Công khai thủ tục hành chính.

+ Công khai việc mua sắm tài sản công.

+ Công khai ngân sách và thu chi tài chính ở tất cả các cơ quan nhà nước.

+ Công khai các trường hợp khiếu nại, tố cáo và quá trình giải quyết các

khiếu nại, tố cáo ấy.

- Các nước Thái Lan, Hàn Quốc, Xin-ga-po... đều có những quy định và việc

làm cụ thể tạo điều kiện cho người dân giám sát, hoạt động của cơ quan, công chức

nhà nước.

+ ở Xin-ga-po, nhà nước có nhiều biện pháp bảo vệ người tố giác; giữ bí mật

lời khai, chuyển chỗ ở để tránh bị phát hiện trả thù.

+ ở Hàn Quốc, Luật Chống tham nhũng quy định bất cứ ai phát hiện thấy vi

phạm cũng có thể trình báo, điều này là nghĩa vụ bắt buộc. Công dân từ 20 tuổi trở

lên có quyền yêu cầu thanh tra việc quản lý của một cơ quan nhà nước nào đó, kể cả

cơ quan đó là Quốc hội, Chính phủ, Toà án... khi lợi ích của họ bị ảnh hưởng do lỗi

của các cơ quan này gây ra hoặc liên quan đến tham nhũng.

+ ở Thái Lan thì quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông

tin điện tử qua mạng máy tính về các hoạt động của Chính Phủ và chính quyền địa

phương, qua đó, giúp cho người dân tiếp cận nhanh chóng với thông tin để phản

ánh, kiến nghị với nhà nước.

- Các nước tư bản phát triển đều nhấn mạnh đến vai trò của báo chí, các tổ

chức phi chính phủ (NGO), các nhóm lợi ích hoạt động giám sát đối với quyền lực

nhà nước. Ví dụ, Hiến pháp Mỹ quy định: “Quốc hội sẽ không đưa ra luật nào hạn

chế tự do ngôn luận hay tự do báo chí”. Trong đời sống chính trị pháp lý vấn đề vận

động hành lang (Lobby) của các tổ chức, nhóm lợi ích có tác động mạnh mẽ đến các

quyết định chính sách của chính quyền.

+ Quan niệm phổ biến ở các nước phương tây phát triển, đặc biệt là Mỹ thì

Chính phủ hoạt động theo hướng dịch vụ-khách hàng theo tinh thần tôn trọng và

chịu trách nhiệm với khách hàng, (người dân), tạo ra sự bình đẳng giữa nhà nước và

công dân.

- ở vương quốc Anh, ban hành và thực hiện hiến chương quyền lợi công dân

(Citizea’s Chrter). Văn bản này nêu rõ tiêu chuẩn hoạt động của các cơ quan Chính

phủ, quy định rất chi tiết những vấn đề như: thời gian xếp hàng chờ đợi ở cơ quan

dịch vụ công, những đòi hỏi chính xác của hệ thống giao thông công cộng... nhấn

mạnh, đề cao vai trò công dân như là khách hàng của nền hành chính; sẵn sàng cung

cấp đầy đủ thông tin, tiêu chuẩn dịch vụ và lắng nghe, sửa chữa những sai sót được

phát hiện.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm vận dụng cho giám sát của nhân dân đối với

cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

Qua tìm hiểu về pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan công

quyền ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, cho ta thấy xu hướng chung

trong xã hội hiện đại là các nhà nước mạnh, tiến bộ, luôn đề cao giám sát của nhân

dân (giám sát xã hội) bởi họ cho rằng tăng cường giám sát đối với quyền lực nhà

nước từ nhân dân là tất yếu và phù hợp với yêu cầu của đời sống xã hội hiện đại. Xu

thế xã hội càng phát triển thì yêu cầu dân chủ hoá thông qua hoạt động giám sát đặt

ra càng cao.

Giám sát của nhân dân, thường được gọi là giám sát xã hội, về bản chất, ở

chế độ dân chủ XHCN và TBCN có khác nhau. Tuy nhiên, trong hệ thống giám sát

nào cũng có mặt mạnh, mặt yếu mà khi đánh giá, vận dụng cần có sự chắt lọc. Điểm

chung các hệ thống về giám sát của nhân dân ở các nước là đều đứng ngoài nhà

nước, thực hiện quyền năng chủ thể đối với quyền lực nhà nước, là phương thức

kiểm soát, kiềm chế quyền lực nhà nước; nó phản ánh giá trị cơ bản quyền chính trị của

công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Điểm riêng của mỗi hệ thống phụ thuộc vào

thể chế chính trị, đặc điểm dân tộc, tôn giáo, văn hoá, lịch sử và điều kiện kinh tế xã

hội của mỗi nước...

Những nước có thể chế chính trị như Việt Nam (Trung Quốc, Lào) đều có hệ

thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước, đoàn thể và các tổ chức xã hội do Đảng

Cộng sản lãnh đạo thì xu hướng chung là tăng cường, giám sát và phản biện xã hội

của các đoàn thể, tổ chức xã hội ngoài nhà nước như: Mặt trận, Công đoàn, Thanh

niên...

Đối với các nước tư bản, đặc biệt là ở các nước tư bản phát triển, vai trò

giám sát của nhân dân được biểu hiện qua các tổ chức xã hội, hiệp hội ngành nghề

và trực tiếp của công dân chiếm vị trí rất quan trọng. Ngoài cơ chế giám sát thuận

lợi hiệu quả thì tính phản biện được thể hiện rất cao, tác động quan trọng đến quá

trình xây dựng và thực thi chính sách của các nhà nước. Có thể rút ra một số bài học

kinh nghiệm cho việc vận dụng ở Việt Nam.

Một là, xác định lại phạm vi hoạt động của quyền lực nhà nước nhất là quyền

lực hành chính. áp dụng nguyên tắc của thị trường trong cung cấp hàng hoá và dịch

vụ công cộng. Chịu trách nhiệm với khách hàng (công dân). Cam kết với công dân

thông qua hiến chương công dân- khách hàng.

Hai là, tập trung cắt giảm chi phí để đạt hiệu quả. Tức là chuyển một số công

việc do nhà nước thực hiện cho các tổ chức xã hội đảm nhận. Nhà nước có chính

sách, cơ chế tạo điều kiện để doanh nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân trực tiếp làm

dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ, kiểm tra của nhà

nước. Khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước; thực hiện cơ chế khoán một số loại

dịch vụ công cộng; thực hiện cơ chế hợp đồng một số dịch vụ công trong cơ quan

hành chính. Đảm bảo cho mọi người được công bằng khi tiếp cận các loại dịch vụ

công.

Ba là, thông tin công khai, đầy đủ cho công dân về hoạt động của nhà nước;

trao quyền trực tiếp nhiều hơn cho công chức, đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền

địa phương; xây dựng Chính phủ điện tử và áp dụng ISO, quản lý chất lượng toàn

bộ hoạt động hành chính nhà nước... Như vậy, tăng cường giám sát của nhân dân

chính là thước đo chính xác nhất đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đặc biệt

là cơ quan hành chính nhà nước.

Bốn là, mở rộng các hình thức phản ánh thông tin từ phía nhân dân, có cơ

chế thu thập, tổng hợp, xử lý thông tin từ nhân dân trong việc giám sát và đưa tin

những tiêu cực, tham nhũng của cán bộ công chức nhà nước. Xây dựng quy định tố

cáo tham nhũng và hành vi vi phạm pháp luật của công dân không cần phải nêu địa

chỉ, danh tính mà chỉ cần có địa chỉ, dấu hiệu, sự việc vi phạm pháp luật xảy ra, cơ

quan chức năng có trách nhiệm xác minh xử lý trên cơ sở cung cấp thông tin đó. Đa

dạng hoá các hình thức tin báo tội phạm để khuyến khích nhân dân tham gia như:

thiết lập đường dây nóng, hòm thư tố giác tội phạm, chấp nhận đơn tố cáo nặc danh,

tin báo qua điện thoại… có các biện pháp bảo đảm an toàn để khuyến khích công

dân tích cực thực hiện quyền giám sát của mình.

Năm là, xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thể chế dân chủ

nhằm mục tiêu công khai minh bạch hoá hoạt động của cơ quan nhà nước, đề cao

giáo dục đạo đức xã hội, đạo đức truyền thống, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ

công chức. Có chính sách khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh, hợp lý để khuyến

khích cán bộ, công chức thực hiện tốt chế độ công vụ, ngăn ngừa các biểu hiện tiêu

cực xảy ra. Đẩy mạnh vai trò giám sát của công luận, các phương tiện thông tin đại

chúng, các tổ chức chính trị xã hội, các hiệp hội, các hội đồng phản biện, các tổ

chức phi chính phủ…

Tóm lại, vận dụng kinh nghiệm của các nước nhưng không thể máy móc, dập

khuôn, mà phải đặt trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử, cụ thể ở Việt Nam.

Chương 2

Quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với

cơ quan

hành chính nhà nước

2.1. Quá trình phát triển pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ

quan hành chính nhà nước

2.1.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về giám sát của

nhân dân đối với cơ quan nhà nước, trong đó có cơ quan hành chính nhà nước

Giám sát của nhân dân được quy định trong các văn bản pháp luật Việt Nam.

Các quy phạm về giám sát của nhân dân tập hợp lại hình thành nên một chế định

pháp luật về giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, trong đó có quyền

lực nhà nước về hành chính. Tuy nhiên, thực tế các quy phạm đó nằm trong nhiều

văn bản khác nhau và có thể được trình bày theo hệ thống thứ tự về giá trị pháp lý

từ cao xuống thấp.

(1) Hiến pháp: Quy định những vấn đề cơ bản nhất về bản chất quyền lực

nhà nước và việc tổ chức thực thi quyền lực thông qua bộ máy các cơ quan nhà

nước; ghi nhận và bảo vệ những quyền cơ bản của công dân, các tổ chức chính trị-

xã hội, tổ chức xã hội... trong Nhà nước pháp quyền. Vì vậy, các quy định của Hiến

pháp đặt ra những nguyên tắc nền tảng cho giám sát của nhân dân đối với quyền lực

nhà nước trong đó có quyền lực hành chính nhà nước.

Bản chất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được ghi nhận xuyên suốt

trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và sửa đổi năm 2001. Do đó, giám

sát của nhân dân cũng được Hiến pháp thừa nhận và quy định tập trung ở các điều

của chương I về chế độ chính trị và một số điều trong chương V về quyền và nghĩa

vụ của công dân.

(2) Luật: Gồm các bộ luật và luật nhằm cụ thể hoá những nguyên tắc quy

định trong Hiến pháp thành các quy định về quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ

thể trong các lĩnh vực, nội dung giám sát của nhân dân. Trong hệ thống pháp luật

hiện hành, các quy định về giám sát của nhân dân được thể hiện nhiều trong các luật

về MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội; một bộ phận quy phạm có tính chất chung

nằm trong các luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước như: Luật bầu cử

đại biểu Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật bầu cử đại biểu HĐND, Luật tổ

chức Quốc hội..., một số quy định có tính nguyên tắc về giám sát của nhân dân đối

với hoạt động của cơ quan nhà nước về các lĩnh vực chuyên ngành như Bộ Luật Tố

tụng hình sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Thanh tra; Luật

Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí...

(3) Văn bản dưới luật: Văn bản dưới luật quy định các nội dung liên quan

đến giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước có phạm vi rất rộng với số

lượng lớn, bao gồm: pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; nghị

quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; thông

tư, quyết định, chỉ thị của các bộ, cơ quan ngang bộ; nghị quyết của HĐND các cấp;

quyết định, chỉ thị của UBND các cấp... đây là những văn bản quy phạm nhằm cụ

thể hoá, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định của Hiến pháp, luật

trong hoạt động giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Đó là, Pháp

lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; nghị

định của Chính phủ như: Nghị định số 50/2001/NĐ-CP ngày 16/8/2001 quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật MTTQ Việt Nam; Nghị định số 88/2003/NĐ-

CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội;

các nghị định: số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998, số 71/1998/NĐ-CP ngày

8/9/1998; số 07/1999/NĐ-CP ngày 13/2/1999; số 79/2003/NĐ- CP ngày 7/7/2003

về ban hành các quy chế thực hiện quy chế dân chủ ở xã, cơ quan nhà nước, doanh

nghiệp nhà nước; Nghị định số 99/2005/NĐ-CP ngày 28/7/2005 quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra về tổ chức và hoạt động của

Ban Thanh tra nhân dân; Thông tư số 12/2004/TT-BNV ngày 20/12/2004 của Bộ

Nội vụ về Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 79/2003/NĐ-CP của Chính phủ về

Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.

Trong hệ thống văn bản về giám sát của nhân dân điều đặc biệt là có một bộ

phận khá lớn các văn bản liên tịch giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức chính

trị- xã hội phối hợp ban hành, như: Nghị quyết liên tịch số 05/2006/NQLT-CP-

UBTW MTTQVN ngày 21/4/2006 giữa Chính phủ và Uỷ ban TW MTTQ Việt

Nam về việc ban hành Quy chế “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công

chức, đảng viên ở khu dân cư”; Thông tư liên tịch số

01/2005/TTLT/BTTUBTWMTTQVN-BNV ngày 12/5/2005 giữa Ban Thường trực

Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam và Bộ Nội vụ về hướng dẫn quy trình, bầu, miễn

nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố; các quy định về việc lấy phiếu

tín nhiệm đối với chức vụ do HĐND cấp xã bầu...

Tóm lại, khác với giám sát của cơ quan mang tính quyền lực nhà nước, giám

sát của nhân dân được quy định ở khá nhiều các văn bản dưới luật và trong các văn

bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị-xã

hội.

2.1.2. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về giám sát của nhân dân

đối với cơ quan hành chính nhà nước

Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng

hoà ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc Việt Nam. Với quan điểm

nhất quán, xuyên suốt cả 4 bản Hiến pháp của Việt Nam đều trang trọng ghi nhận

nguyên tắc nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước và tham gia quản lý nhà nước

trong lời nói đầu và các chương về chế độ chính trị, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước...

Là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân có quyền chủ thể, một trong

những quyền cơ bản đó là giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước trong

đó có các cơ quan hành chính nhà nước. Sự hình thành và phát triển của pháp luật

về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước xuất phát từ quan

điểm, đường lối nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện trong các văn

kiện của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Điều khẳng định, bản chất

nhà nước là yêu cầu khách quan đòi hỏi phải thiết lập cơ chế giám sát. Tính ưu việt

của cơ chế giám sát phụ thuộc vào việc tổ chức thiết chế có khoa học khả thi hay

không. Bởi giám sát hoạt động của cơ quan công quyền là khái niệm phức tạp, có

nhiều chủ thể khác nhau tham gia thực hiện. Để có cái nhìn tổng quan về quá trình

hình thành và phát triển theo từng giai đoạn lịch sử, xã hội cần phải có sự phân kỳ

theo từng giai đoạn cụ thể.

Hiến pháp là luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn

bản pháp luật. Nó quy định những vấn đề cơ bản của quốc gia như: hình thức, bản

chất nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, các vấn đề chủ yếu về nền văn hoá,

xã hội, khoa học, công nghệ, an ninh quốc phòng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân, hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan

nhà nước. Các quy định, của Hiến pháp là cơ sở để pháp luật giám sát của nhân dân

đối với cơ quan nhà nước hình thành và phát triển, giúp cho tổ chức và hoạt động

của cơ quan nhà nước đúng hướng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của mỗi giai

đoạn lịch sử của đất nước, đảm bảo quyền lực tối cao nhà nước thuộc về nhân dân.

Dựa vào các bản Hiến pháp, có thể phân kỳ quá trình phát triển pháp luật về giám

sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước như sau:

2.1.2.1. Giai đoạn 1946- 1959

Quyền giám sát bắt nguồn từ quyền chủ thể, quyền chủ thể do pháp luật quy

định như vậy, quyền giám sát cũng phải do pháp luật quy định. Pháp luật về giám

sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước nói chung, cơ quan hành chính nhà

nước nói riêng xuất phát từ bản chất chế độ dân chủ được thiết lập từ chính quyền

nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Pháp luật, cụ thể là Hiến pháp

1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới quy định về quyền của công

dân gồm 26 quyền trong 13 điều luật. Điều đó chứng tỏ rằng nhà nước mới thành

lập thực sự là nhà nước dân chủ. Nhà nước dân chủ là quyền lực nhà nước thuộc về

nhân dân. Hoạt động của bộ máy nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải chịu

giám sát của nhân dân.

Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

trong thời kỳ này có đặc điểm:

+ Hoạt động của Chính phủ, Uỷ ban hành chính các cấp được đặt trong hoàn

cảnh thời chiến với tính chất đòi hỏi phải tinh gọn, khẩn trương nên quy định giám

sát của cơ quan quyền lực đối với cơ quan hành chính chưa được thực hiện hiệu quả

trong thực tế mà chủ yếu là qua giám sát nội bộ (cấp trên kiểm tra, giám sát, xử lý

cấp dưới) có thể nói, thời kỳ này vai trò của Uỷ ban hành chính được đề cao hơn vai

trò của Hội đồng nhân dân.

+ Thuật ngữ và hoạt động giám sát chưa được pháp luật quy định cụ thể mà

chủ yếu được đề cập đến qua quyền tham gia chính quyền và kiến quốc (Điều 7-

Hiến pháp 1946); công dân có quyền tự do ngôn luận, quyền lập hội, quyền biểu

tình... những quy định trên của Hiến pháp, pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ

của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, mặt khác buộc cơ quan, cán bộ, nhân

viên nhà nước phải phụng sự nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Tuy nhiên,

trong các văn bản pháp luật thời kỳ này chưa có quy định riêng về quyền giám sát

của nhân dân đối với cơ quan, cán bộ, nhân viên nhà nước mà chủ yếu được đề cập

đến trong các văn bản pháp luật với tính chất quy định chức năng, thẩm quyền của

cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân

dân. Quy định như vậy mặc nhiên thừa nhận quyền giám sát của nhân dân đối với

cơ quan nhà nước đồng thời xác định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan, cán bộ nhân

viên nhà nước đối với nhân dân. Tham gia chính quyền của công dân ngoài ý nghĩa

là hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp còn thể hiện quyền năng làm chủ của

nhân dân đối với quyền lực nhà nước và trong các quyền làm chủ có quyền giám

sát.

Quyền giám sát của nhân dân giai đoạn này chủ yếu thông qua hoạt động

khiếu nại, tố cáo. Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký

về thành lập Ban thanh tra đặc biệt trong đó có quy định về... toàn quyền nhận đơn

khiếu nại của nhân dân; chức năng, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của

nhân dân bên cạnh việc giám sát tất cả công việc của nhân viên trong bộ máy Uỷ

ban hành chính các cấp là phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa nhà nước và nhân

dân. Những quy định đó là nền móng để phát triển các quy định về tổ chức và hoạt

động của thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân sau này.

Để thực hiện Sắc lệnh số 64/SL, Bộ trưởng Bộ nội vụ đã ra Thông tư số 203-

NV/VP về khiếu tố tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho hoạt động giải quyết khiếu nại,

tố cáo của công dân được kịp thời, hiệu quả. Mặt khác, Thông tư cũng quy định thủ

tục gửi đơn khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền của các cơ quan giải quyết khiếu nại, tố

cáo và thời hạn giải quyết.

Ngày 18/12/1949 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 138/SL thành

lập Ban thanh tra Chính Phủ; ngày 28/3/1956 ký Sắc lệnh số 261/SL thành lập Uỷ ban

Thanh tra Trung ương. Hai sắc lệnh này đều quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của

công dân và thẩm quyền của cơ quan thanh tra trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

của nhân dân. Ngày 13/9/1958 Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 436/TTg

quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết đơn thư khiếu

nại, tố cáo của nhân dân.

Như vậy, đối với hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về giám sát của

nhân dân nói riêng, do nguyên nhân khách quan là cả nước phải kháng chiến chống

thực dân Pháp cho nên số lượng luật được ban hành không nhiều mà chủ yếu là văn

bản dưới luật. Tuy nhiên có một số đạo luật liên quan trực tiếp đến việc đảm bảo

quyền hiến định về chính trị của công dân, trong đó có quyền tham gia giám sát

hoạt động của cơ quan nhà nước, như: Luật cải cách ruộng đất năm 1953, Luật về

chế độ báo chí năm 1957, Luật quy định quyền tự do hội họp năm 1957, Luật tổ

chức chính quyền địa phương năm 1958, Luật quy định chế độ phục vụ của sĩ quan

quân đội nhân dân Việt Nam năm 1958. Bên cạnh đó việc ban hành các sắc lệnh về

tổ chức và hoạt động của HĐND và Uỷ ban hành chính ở thị xã, thành phố và nông

thôn được xem là cơ sở pháp lý đầu tiên của hoạt động hành chính địa phương,

trong đó có giám sát hoạt động hành chính.

Tóm lại, mặc dù còn một số hạn chế nhất định do điều kiện, hoàn cảnh lịch

sử, song bản Hiến pháp 1946 đã đặt nền móng pháp lý vững chắc cho xây dựng và

phát triển pháp luật về giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà

nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng.

2.1.2.2. Giai đoạn 1959- 1979

Bối cảnh của giai đoạn 1959-1979 của nước ta là:

- 1959-1975 đất nước chia làm hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền

Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam nhằm thống nhất đất nước.

- 1975-1979 đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã

hội.

Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước giai

đoạn này thể hiện tập trung ở các quy định của Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức

HĐND và Uỷ ban hành chính các cấp năm 1962 cũng như ở một số văn bản dưới

luật khác.

Hiến pháp 1959 bổ sung 2 quyền chính trị mới là quyền khiếu nại và quyền

tố cáo của công dân (Điều 29). Trong đó, quy định đối tượng của khiếu nại, tố cáo

là “hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước”; nơi mà công dân gửi đơn

khiếu nại, tố cáo hoặc trực tiếp tới trình bày về những hành vi “phạm pháp của nhân

viên cơ quan nhà nước” là “bất cứ cơ quan nhà nước nào”, nhằm tạo điều kiện thuận

lợi cho công dân thực hiện các quyền này một cách dễ dàng, không vướng mắc hay

bị hạn chế nào từ phía cơ quan nhà nước. Mặt khác, quy định như vậy cũng nâng

cao được trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận đơn, thư hay trực

tiếp khiếu nại, tố cáo của công dân. Đặc biệt, lần đầu tiên, Hiến pháp 1959 quy

định: “Những việc khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh

chóng. Người bị thiệt hại về hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước có

quyền được bồi thường” (Điều 29). Quy định này có ý nghĩa chính trị-xã hội to lớn

và có mục đích rõ ràng: Một là, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước,

nhà chức trách trong việc xét và giải quyết kịp thời, nhanh chóng những khiếu nại,

tố cáo của dân; Hai là, nêu lên và thực hiện một trong những nguyên tắc cơ bản

trong quan hệ giữa Nhà nước (mà biểu hiện cụ thể là các cơ quan nhà nước, nhân

viên nhà nước) với công dân là cả 2 bên đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như

nhau khi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của nhau; Ba là, củng cố lòng tin của

nhân dân vào “Chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu Hiến

pháp 1946).

Điều 6, Hiến pháp 1959 lần đầu tiên xác định: “Tất cả các cơ quan Nhà nước

đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự

kiểm soát của nhân dân” [53, tr32]. Kiểm soát của người dân đồng nghĩa với người dân

thực hiện quyền giám sát của mình đối với nhà nước.

Thực hiện quy định của Hiến pháp, thời kỳ này có một số văn bản quy phạm

pháp luật quy định về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân qua công tác thanh

tra. Đó là Nghị quyết số 164/CP ngày 31/8/1970 và Nghị quyết số 165/CP ngày

31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ về tăng cường công tác thanh tra, chấn chỉnh hệ

thống thanh tra; quy định nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Uỷ ban Thanh tra Chính

phủ, việc giải quyết và thanh tra giải quyết các vụ khiếu nại, tố cáo của công dân. Nghị

quyết của Chính phủ ghi rõ: “Nhiệm vụ của công tác thanh tra là xét giải quyết và đôn

đốc việc xét giải quyết đúng đắn, kịp thời các vụ khiếu nại, tố cáo của công dân,

phương hướng tiến hành công tác thanh tra”.

Ngày 9/01/1976, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 25/TTg về việc tổ

chức các Ban Thanh tra nhân dân ở các chính quyền cơ sở đơn vị kinh tế, sự nghiệp.

Nội dung quy định rõ nhiệm vụ của Ban Thanh tra nhân dân là tham gia góp ý kiến

với chính quyền cơ sở... trong việc xét giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo hoặc

các kiến nghị thỉnh cầu của nhân dân thuộc phạm vi giải quyết. Hoạt động của Ban

Thanh tra nhân dân thời kỳ này là sự kết hợp chặt chẽ giữa giám sát của nhân dân

với thanh tra, kiểm tra của Chính phủ. Cơ quan hành chính nhà nước, đứng đầu là

Chính phủ sử dụng quyền năng của mình tạo điều kiện để nhân dân lao động phát

huy quyền làm chủ tập thể, bằng việc giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan

nhà nước một cách chủ động. Về tổ chức hoạt động, Ban thanh tra nhân dân được

thành lập và chịu sự chỉ đạo của chính quyền cơ sở, thủ trưởng cơ quan đơn vị và do

Uỷ ban Thanh tra Chính phủ hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện. Thông tư

số 02/TTCP của Uỷ ban Thanh tra Chính phủ ngày 15/4/1976 về hướng dẫn việc thi

hành Quyết định số25/TTg của Thủ tướng Chính phủ là cơ sở pháp lý quan trọng để

nhân dân trực tiếp thực hiện quyền giám sát của mình.

2.1.2.3. Giai đoạn 1980-1992

Đây là thời kỳ đất nước đã thống nhất, cả nước đi lên CNXH. Hiến pháp

1980 được ban hành làm cơ sở pháp lý quan trọng để pháp luật về giám sát của

nhân dân đối với cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói

riêng có bước phát triển mới.

Giám sát của nhân dân tiếp tục có sự thay đổi về chất. Điều 56, Hiến pháp

1980 quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và

của xã hội”, khẳng định vị trí, vai trò của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý

xã hội thể hiện tính chất dân chủ rộng rãi của nhà nước ta. Trên thực tế, Hiến pháp

1980 đã khôi phục lại quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân đã được quy

định trong Hiến pháp 1946. Tham gia quản lý có nghĩa là tham gia giám sát, chủ

động giám sát, có quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan nhà nước trong

quản lý mọi mặt của đời sống xã hội.

Về quyền khiếu nại và quyền tố cáo của công dân (Điều 73), Hiến pháp 1980

có một điểm sửa đổi bổ sung quan trọng. Đó là đối tượng của việc khiếu nại tố cáo

là “Những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ

trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó”.

Cụm từ “những hành vi phạm pháp” trong Điều 29 của Hiến pháp 1959 được Hiến

pháp 1980 thay đổi bằng cụm từ “những việc làm trái pháp luật” cho chuẩn xác. Bởi

vì phạm pháp (tức là vi phạm pháp luật) hẹp hơn trái pháp luật, không thể chỉ khiếu

nại, tố cáo hành vi, vi phạm pháp luật còn hành vi trái pháp luật lại bỏ qua được.

Trái pháp luật bao hàm cả vi phạm pháp luật. Đồng thời Hiến pháp 1980 cũng mở

rộng chủ thể của hành vi trái pháp luật bị khiếu nại, tố cáo từ phía nhân dân từ chỉ là

“nhân viên cơ quan nhà nước” thành là “cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị

vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị

đó”.

Hiến pháp 1980, tiếp tục quy định địa chỉ để công dân gửi đơn thư khiêu nại,

tố cáo hoặc đến trình bày trực tiếp ở bất cứ cơ quan nhà nước nào, tạo điều kiện

thuận lợi để nhân dân phát giác các hành vi trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức,

đơn vị hoặc bất cứ cá nhân nào trong bộ máy nhà nước.

Để đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, Điều 73 Hiến pháp 1980

quy định: “Các điều khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh

chóng” và “người bị thiệt hại có quyền được bồi thường”. Ngoài ra, còn bổ sung 2

điểm quan trọng: Một là, mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân

phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh; Hai là, “Nghiêm cấm việc trả thù

người khiếu nại, tố cáo”. Những quy định này nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của

pháp luật trong việc xử lý cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật đồng thời bảo vệ

quyền lợi và sự an toàn của người khiếu nại, tố cáo, khuyến khích nhân dân tích cực

thực hiện quyền khiếu nại và quyền tố cáo của mình nếu phát hiện những việc làm trái

pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội... hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc cơ

quan, tổ chức đó.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật về giám sát nói

chung, về giám sát của nhân dân nói riêng, tiếp tục có bước phát triển mới về chất

và lượng, đánh dấu sự phát triển đa dạng của các chủ thể giám sát đối với quyền lực

nhà nước. Đặc biệt là giám sát của Ban Thanh tra nhân dân. Ngày 15/2/1984, Hội

đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 26-HĐBT về tăng cường tổ chức thanh tra và

nâng cao hiệu lực thanh tra. Nghị quyết đã xác định: Tổ chức thanh tra nhân dân là

cấp cơ sở trong hệ thống thanh tra nhà nước và là tổ chức xã hội của quần chúng ở

cơ sở; thực hiện thống nhất hoạt động thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân.

Qua nội dung trên, cho thấy kết hợp giữa thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân

là thể hiện sự phát triển mới của pháp luật thanh tra nhưng thanh tra nhà nước và

thanh tra nhân dân kết hợp làm một thì lại là một khiếm khuyết cần phải được khắc

phục.

01/4/1990, Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

công bố ban hành Pháp lệnh thanh tra, trong đó có quy định về tổ chức, hoạt động

của thanh tra nhân dân. Nghị định 241/HĐBT ngày 5/8/1991 của Hội đồng Bộ

trưởng (nay là Chính phủ) quy định: Ban Thanh tra nhân dân được tổ chức ở các

đơn vị cơ sở: cơ quan chính quyền, xã, phường, thị trấn; cơ sở kinh tế, xí nghiệp,

hầm mỏ, công ty, công trường, nông trường, bến cảng; cơ quan sự nghiệp, trường

học, bệnh viện; cơ quan hành chính, văn phòng các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân từ

cấp huyện trở lên.

Điểm mới của Pháp lệnh thanh tra năm 1990 là tách Thanh tra nhân dân ra

khỏi Thanh tra nhà nước và chuyển sự chỉ đạo, quản lý, tổ chức cho Uỷ ban MTTQ

xã, phường, thị trấn. Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan hành chính, sự nghiệp, đơn

vị sản xuất, kinh doanh thì do Đại hội những người lao động bầu ra, Ban Chấp hành

Công đoàn cơ sở chỉ đạo hoạt động. Như vậy việc thành lập Ban Thanh tra nhân

dân là phù hợp và có cơ sở pháp lý, đúng với các quy định của nhà nước.

Để thực hiện pháp lệnh và nghị định về thanh tra nhân dân, Thanh tra nhà

nước và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam ban hành Thông tư liên tịch số 01/TT-

LT ngày 01/11/1991 về hướng dẫn thực hiện Nghị định 241/HĐBT ngày 5/8/1991

của Hội đồng Bộ trưởng đối với Ban Thanh tra nhân dân tại các cơ quan hành

chính, sự nghiệp, các đơn vị kinh tế quốc doanh. Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam

cũng ban hành Thông tư số 08/TT-MTTQVN ngày 25/11/1991 về hướng dẫn tổ

chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn. Trên cơ sở quy

định của pháp luật, Ban Thanh tra nhân dân đã thực hiện chức năng giám sát của

mình đối với cơ quan hành chính nhà nước, thể hiện bước đầu hình thức dân chủ

trực tiếp của nhân dân ở cấp cơ sở. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan pháp luật

thời kỳ này chưa có quy định cụ thể về địa vị pháp lý cũng như nhiệm vụ, quyền

hạn phạm vi hoạt động cụ thể của Ban Thanh tra nhân dân, mặt khác cũng không có

quy định cơ chế phối hợp giữa UBND và Uỷ ban MTTQ cấp trên với Ban Thanh tra

nhân dân nên thực tế hoạt động phối hợp rất lúng túng. Bên cạnh đó, hoạt động của

Ban Thanh tra nhân dân hoặc bị UBND chỉ đạo hoặc lại vượt quá chức năng, thẩm

quyền lấn sâu vào lĩnh vực thuộc hoạt động của UBND nên không thực sự phát huy

được vai trò, trách nhiệm của mình trong giám sát hoạt động của chính quyền và

cán bộ, công chức ở cơ sở.

Điểm khác của pháp luật thời kỳ này là địa vị pháp lý của Mặt trận Tổ quốc

và các tổ chức thành viên được ghi nhận trong Hiến pháp. Song, chức năng giám sát

và phản biện xã hội chưa được đề cập đến mà chủ yếu “tăng cường sự nhất trí về chính

trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân,

giáo dục và động viên nhân dân...” [53, tr 72].

Điểm nổi bật của Hiến pháp 1980 là khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội

theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Không ngừng tăng

cường pháp chế phải chăng một trong những nội dung đó là “chịu sự giám sát của

nhân dân, phát huy dân chủ XHCN”. Dân chủ XHCN là gì nếu quyền làm chủ của

nhân dân không phải là làm chủ quyền lực nhà nước và có năng lực kiểm soát, hạn

chế quyền lực nhà nước qua quyền năng giám sát của mình. Thuật ngữ giám sát

(Điều 8, Hiến pháp 1980) thay cho từ kiểm soát (Điều 6, Hiến pháp 1959) là cơ sở

để phát triển pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước trong

giai đoạn tới.

2.1.2.4 Giai đoạn 1992 đến nay

Hiến pháp 1992 ra đời sau 12 năm thực hiện Hiến pháp 1980 và ở thời điểm

sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ

năm 1986 đang đòi hỏi tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước, đáp ứng yêu cầu phát

triển của giai đoạn mới. Để đạt được mục đích đó, một trong những yêu cầu là phải

cải cách, đổi mới nền hành chính nhà nước, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động

của cơ quan hành chính là khâu quan trọng nhất. Xu thế dân chủ hoá xã hội đi liền

với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và tăng cường chế pháp chế đặt

ra hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước phải trong khuôn khổ pháp

luật và phải chịu sự giám sát của nhân dân ngoài giám sát của cơ quan quyền lực

nhà nước. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, hàng loạt các luật được sửa đổi, xây dựng

mới được ban hành như: Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân; Luật Tổ chức Toà án nhân dân; Luật Tổ chức HĐND

và UBND; Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; Luật Báo chí; Luật

Khiếu nại, tố cáo; Luật Thanh tra; Luật MTTQ Việt Nam; Luật Thanh niên...

Pháp luật của giai đoạn này chia làm hai thời kỳ. Đó là thời kỳ 1992- đến

2001 và từ 2001- nay (do Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung một số điều năm

2001).

Điều 9, Hiến pháp 1992 bổ sung chính thức chức năng giám sát của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với hoạt động của cơ quan nhà

nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất

quy định địa vị chính trị pháp lý của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính

trị. Địa vị chính trị pháp lý của Mặt trận còn do đặc điểm cấu trúc của hệ thống chính

trị Việt Nam quy định. Hệ thống đó không tổ chức và vận hành theo kiểu đa nguyên, đa

đảng mà Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo, cầm quyền. Như vậy,

hệ thống chính trị nước ta không có sự kiềm chế, đối trọng quyền lực của các lực lượng

chính trị đối lập. Để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng luôn đúng đắn, thể hiện đầy đủ

ý chí, nguyện vọng của nhân dân và đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của bộ máy

Nhà nước luôn trong sạch, thể hiện đúng bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân do đó cần có cơ chế để phản biện đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng, giám

sát được quyền lực nhà nước và sự giám sát, phản biện đó tất yếu thuộc về nhân dân

trong đó có vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên.

Điều 2, Luật MTTQ Việt Nam ghi nhận các chức năng, nhiệm vụ của Mặt

trận bao gồm: Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ

công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị

với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng

nhà nước chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân [41].

Theo quy định của Hiến pháp và Luật MTTQ Việt Nam thì MTTQ thực hiện

hoạt động giám sát thông qua hình thức hiệp thương phối hợp và thống nhất hành

động. Sự hiệp thương và phối hợp không làm mất đi tính độc lập trong hoạt động

giám sát của các tổ chức thành viên, trái lại càng làm cho giám sát của MTTQ và

các tổ chức thành viên thêm chặt chẽ, thống nhất hơn.

MTTQ và các tổ chức thành viên giám sát thông qua các hoạt động sau:

+ Thông qua việc tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận

động như: xoá đói giảm nghèo; đền ơn đáp nghĩa; toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hoá ở khu dân cư... qua đó phát hiện những vi phạm trong thực hiện pháp

luật để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.

+ Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ do pháp luật quy định như: tiếp

dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân mà phát hiện những vi phạm tiêu

cực trong việc thực hiện chính sách pháp luật của các cơ quan nhà nước nhằm bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

+ Thông qua các báo cáo của Chính phủ, UBND các cấp tại các kỳ họp của

Quốc hội, HĐND, các phiên họp thường lệ hoặc khi nhận được thông báo chủ động

từ phía cơ quan nhà nước, nhất là ở cơ sở theo quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn

thì Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ kiến nghị cơ quan nhà nước liên quan xem xét trả

lời những kiến nghị của nhân dân do MTTQ tổng hợp.

+ Tham gia với Chính phủ, Chủ tịch nước hoặc HĐND, UBND các cấp trong

các đoàn kiểm tra, giám sát theo chương trình hàng quý, hàng năm hoặc chuyên đề.

Tham gia đoàn đi giám sát, kiểm tra vụ việc nào đó theo quyết định của người đứng

đầu cơ quan nhà nước ở TW hoặc địa phương để đảm bảo tính khách quan, công

bằng của hoạt động giám sát, kiểm tra, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân.

+ ở TW, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên còn thông qua các ban

chuyên môn, hội đồng tư vấn... để đóng góp vào các dự thảo nghị định, nghị quyết

của Chính phủ, thông tư của các bộ...

Thông qua hoạt động giám sát của MTTQ, các tổ chức thành viên nhằm:

+ Đóng góp ý kiến cụ thể vào những hoạt động của cơ quan nhà nước để

thực hiện tốt chính sách, pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

+ Phát hiện những quy định pháp luật, văn bản pháp luật không còn phù hợp

với thực tế hoặc trái với Hiến pháp, pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, đình

chỉ thi hành hoặc bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản đó.

+ Phát hiện cán bộ, công chức, viên chức nhà nước vi phạm pháp luật để

kiến nghị xử lý.

+ Phát hiện những hiểu biết khác nhau về nội dung của văn bản pháp luật

nào đó hoặc quy định nào đó dẫn đến việc thực hiện khác nhau thì kiến nghị cơ

quan nhà nước có thẩm quyền giải thích văn bản đó để việc thực hiện được đúng

đắn, thống nhất...

- Về giám sát của Ban Thanh tra nhân dân. Hoạt động thanh tra nhân dân

theo pháp lệnh được thay thế bằng Luật Thanh tra năm 2004. Điều 59, Luật Thanh

tra quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Thanh tra nhân dân.

+ Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố

cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách

nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp

nhà nước.

+ Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì kiến nghị người có thẩm quyền

xử lý theo quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó.

+ Khi cần thiết, được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, người

đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước giao xác

minh những vụ việc nhất định.

+ Kiến nghị với Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ

quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước khắc phục sơ hở, thiếu sót

được phát hiện qua việc giám sát; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân

và người lao động, biểu dương những đơn vị, cá nhân có thành tích. Trường hợp

phát hiện người có hành vi vi phạm pháp luật thì kiến nghị cơ quan tổ chức có thẩm

quyền xem xét, xử lý. [27, tr43]

Luật Thanh tra cũng quy định rõ: “Hội nghị nhân dân hoặc hội nghị đại biểu

nhân dân” bầu ra Ban thanh tra ở xã, phường, thị trấn với số lượng từ 5-11 thành

viên, tuỳ theo địa bàn và số lượng dân cư. Người là thành viên Ban Thanh tra nhân

dân không phải là người đương nhiệm trong Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn

và có nhiệm kỳ hoạt động là 2 năm. Pháp luật cũng quy định cụ thể việc bãi nhiệm

và bầu người khác thay thế khi thành viên Ban Thanh tra nhân dân không hoàn

thành nhiệm vụ hoặc không còn được nhân dân tín nhiệm.

Ngày 27/8/2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 99/NĐ-CP quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra về tổ chức và hoạt động

của Ban Thanh tra nhân dân. Nghị định đã quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ,

phạm vi hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân trong đó bao gồm cả nội

dung, phương thức giám sát và hiệu lực pháp lý của giám sát. Luật thanh tra và các

nghị định của Chính phủ đặc biệt là Nghị định 99/2005/NĐ-CP đã quy định trách

nhiệm của các cơ quan nhà nước, của Uỷ ban MTTQ Việt Nam, của Ban Chấp hành

Công đoàn trong việc tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn và tạo điều kiện phối hợp hoạt

động giám sát với Ban Thanh tra nhân dân. Với những quy định trên, có thể thấy

rằng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước đã có

bước phát triển quan trọng so với pháp luật các giai đoạn trước.

Trước yêu cầu dân chủ hoá đối với đời sống xã hội và công khai, minh bạch

hoạt động của cơ quan, cán bộ công chức nhà nước, ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, lãng

phí, hách dịch cửa quyền trong bộ máy công quyền, Chính phủ ban hành Nghị định số

29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về thực hiện Quy chế dân chủ ở xã (phường, thị trấn),

nội dung của Quy chế này được tiếp tục bổ sung, sửa đổi trong Quy chế thực hiện dân

chủ ở xã ban hành kèm theo Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính

phủ. Tháng 7/2007, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thực hiện dân

chủ ở xã, phường, thị trấn, đánh dấu bước phát triển quan trọng về phát huy quyền làm

chủ của nhân dân trong việc thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động của

chính quyền cơ sở.

- Giám sát của cơ quan báo chí. Quyền tự do báo chí được Hiến pháp 1946,

1959, 1980 Hiến pháp 1992 ghi nhận. Điều 69, Hiến pháp 1992 quy định: “Công

dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin” [53, tr221].

Đây là hình thức giám sát thông qua quyền được thông tin và các quy định mà

chính quyền phải thực hiện như: đăng công báo, báo chí, thông cáo, yết thị nơi

công cộng... để nhân dân biết hoạt động của cơ quan, cán bộ công chức nhà nước.

Theo Điều 1, Luật Báo chí thì báo chí ngoài chức năng là “phương tiện thông tin

đại chúng thiết yếu của đời sống xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức

đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội” thì còn là “diễn đàn của nhân dân”. Qua

cơ quan báo chí công dân được quyền tham gia vào xây dựng đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đồng thời có quyền phản

ánh, đưa ra công luận, nêu kiến nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo những hành vi

trái pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Giám sát của nhân dân

đối với cơ quan hành chính nhà nước qua cơ quan báo chí, ngày càng có vai trò

quan trọng là yếu tố góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội và minh bạch hoá hoạt

động của cơ quan nhà nước, là công cụ giám sát hữu hiệu của nhân dân.

Có thể nói cùng với quy định của Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật Khiếu nại,

tố cáo, Luật Thanh tra, quy chế thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở... đã tạo ra

cơ sở pháp lý quan trọng giúp cho việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân qua

hoạt động giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước.

2.2. Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan

hành chính Nhà nước

2.2.1. ưu điểm và những kết quả thực hiện pháp luật về giám sát của

nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

2.2.1.1 Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính

trị-xã hội đối với cơ quan hành chính nhà nước

ở nước ta mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội, Hội đồng

nhân dân các cấp, đồng thời nhân dân còn thực hiện quyền làm chủ của mình thông

qua Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các tập thể lao

động... và thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình thông qua quy chế dân chủ ở

cơ sở, qua trưng cầu dân ý, qua quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo theo quy

định của pháp luật.

Bên cạnh giám sát của Đảng và giám sát của Nhà nước, giám sát của nhân

dân, trong đó giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên được coi là phương

thức cơ bản của giám sát nhân dân. Mặt trận đại diện cho ý chí, nguyện vọng của

các tầng lớp nhân dân tham gia giám sát, vận động nhân dân giám sát hoặc độc lập

giám sát theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định nhằm bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân với cơ chế là: theo dõi, phát

hiện, nhận xét, phản biện và kiến nghị.

Giám sát của nhân dân, qua MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội là thành

viên của Mặt trận cũng có tính chính trị pháp lý như giám sát mang tính nhà nước

nhưng khác ở các mặt: chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, cơ chế và hiệu quả

pháp lý của giám sát. Nó có ưu điểm là mang tính chủ động, rộng rãi, phổ biến,

thường xuyên nhưng cũng có hạn chế là mang tính phát hiện, tư vấn, phản biện,

không sử dụng biện pháp nhà nước để xử lý kết quả giám sát, vì thế thường ít mang

lại hiệu quả ngay.

Giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội đối với hoạt động của cơ

quan hành chính nhà nước bao gồm:

- Giám sát quá trình lập quy và nội dung văn bản lập quy

Quá trình đổi mới đất nước có nhiều quan hệ xã hội xuất hiện cần phải có hệ

thống các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh. Bên cạnh văn bản pháp luật

của cơ quan lập pháp ban hành như: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp

lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, cần phải có hàng loạt các văn bản

quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ để hướng dẫn thi hành.

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính ở

nước ta rất đồ sộ, có phạm vi điều chỉnh, tác động trực tiếp đến các quan hệ xã hội

và người dân. Vì vậy, tham gia giám sát quá trình lập quy và nội dung lập quy của

các cơ quan hành chính nhà nước không chỉ là quyền hạn của MTTQ, các tổ chức

chính trị- xã hội được Hiến pháp, pháp luật quy định mà còn là trách nhiệm đương

nhiên của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên. Hoạt động giám sát đó nhằm

theo dõi, xem xét, quy trình, thủ tục soạn thảo có đúng Hiến pháp, pháp luật hay

không; nội dung dự thảo các văn bản pháp luật có thể hiện đúng ý chí nguyện vọng

của nhân dân, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân hay

không; có đảm bảo tính thiết thực, khả thi và đúng xu hướng vận động, phát triển

của xã hội hay không.

MTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội ở Trung ương, thời gian qua đã thực

hiện tốt chức năng của mình trong việc trình các dự án Luật, Pháp lệnh như Uỷ ban

TW MTTQ Việt Nam soạn thảo Luật MTTQ Việt Nam; TW Đoàn TNCS Hồ Chí

Minh soạn thảo Luật Thanh niên; Tổng LĐLĐ Việt Nam soạn thảo Luật Công đoàn;

Hội Phụ nữ Việt Nam soạn thảo Luật Bình đẳng giới; Hội Cựu chiến binh Việt Nam

soạn thảo Pháp lệnh Cựu chiến binh... Để luật, pháp lệnh đi vào cuộc sống, các cơ

quan đó đã trực tiếp soạn thảo nhiều nghị định của Chính phủ về hướng dẫn thi hành

luật, pháp lệnh và tham gia soạn thảo các nghị định về các lĩnh vực chưa có luật điều

chỉnh như: nghị định về giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nghị định về quỹ đền ơn

đáp nghĩa... trong các trường hợp đó MTTQ và các tổ chức thành viên còn thực hiện

việc giám sát, đôn đốc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các khâu trong

quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho đến khi được ban hành chính

thức.

MTTQ và các tổ chức thành viên được cử đại diện tham gia Ban soạn thảo

các luật, pháp lệnh, nghị định... có nội dung liên quan như: quy định về tổ chức,

hoạt động và quản lý hội, nghị định về ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở các

loại hình cơ sở... Đại diện MTTQ hoặc tổ chức thành viên trong ban soạn thảo giám

sát toàn bộ quá trình soạn thảo từ khi ban soạn thảo được thành lập đến khi văn bản

được ban hành thực hiện.

MTTQ và các tổ chức thành viên tổ chức cho cán bộ đoàn viên, hội viên

đóng góp ý kiến vào các dự án luật, pháp lệnh, nghị định do Chính phủ soạn thảo và

gửi lấy ý kiến. Ngoài ra Mặt trận và các đoàn thể còn tham gia ý kiến đóng góp vào

một số chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và nhiều thông tư của các bộ, ngành như:

Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh tại

các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị về triển khai Pháp lệnh phòng chống mại

dâm; Chỉ thị về việc ban hành và thực hiện hương ước, quy ước làng, bản, thôn, ấp,

cụm dân cư... Thông tư của Bộ Công an hướng dẫn mẫu dấu, tổ chức khắc dấu cho

các cơ quan, tổ chức theo Nghị định 58/2001/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư của

Bộ lao động-thương binh và xã hội về xuất khẩu lao động... Việc tham gia quá trình

soạn thảo, ban soạn thảo, tham gia đóng góp ý kiến vào các văn bản lập quy của

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành của Mặt trận và các tổ chức thành

viên đã góp phần giám sát đối với quá trình lập quy và nội dung văn bản lập quy

của các cơ quan hành chính nhà nước, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong

tham gia quản lý nhà nước và xã hội.

Tuy nhiên, đánh giá tổng thể thì việc thực hiện chức năng giám sát của

Mặt trận và các tổ chức thành viên đối với quá trình và nội dung văn bản lập quy

chưa chủ động, thường xuyên, số lượng các văn bản được giám sát chưa nhiều so

với số lượng mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

quan trực thuộc Chính phủ và UBND các cấp đã ban hành trong thực tế.

- Giám sát tính hợp hiến, hợp pháp các văn bản quy phạm pháp luật của cơ

quan hành chính nhà nước

Giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật của cơ

quan hành chính nhà nước là một chức năng quan trọng của Mặt trận và các tổ chức

thành viên, nhằm đảm bảo cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân thể hiện trong Hiến

pháp, luật, pháp lệnh... được cụ thể hoá đầy đủ, đúng đắn trong các văn bản quy phạm

pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước.

Thực tế khi ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan

hành chính nhà nước ở cả TW và địa phương đều chủ động gửi văn bản đến Mặt

trận và các đoàn thể nhân dân để tham khảo ý kiến trước khi quyết định ban hành.

Đây là sự phối hợp rất quan trọng để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo dõi,

xem xét, phát hiện tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản đó. Ngoài ra, Mặt trận

và các đoàn thể còn theo dõi, giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ

quan hành chính nhà nước qua Công báo Chính phủ, qua các phương tiện thông

tin đại chúng, qua hoạt động tư vấn của các chuyên gia pháp luật, qua hoạt động

thực tế và các hình thức phản ánh của nhân dân.

Hiến pháp, pháp luật quy định trách nhiệm, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc

và các tổ chức thành viên trong quá trình giám sát nếu phát hiện văn bản không hợp

hiến, hợp pháp thì:

+ Đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn

bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp,

luật, nghị quyết của Quốc hội.

+ Đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định đình chỉ việc thi

hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng

Chính phủ trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

+ Đề nghị trực tiếp các cơ quan hành chính nhà nước xem xét, sửa đổi, bổ

sung, hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành

trái với Hiến pháp, luật... và văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền cấp trên.

Nội dung giám sát này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, bởi thực trạng hệ

thống văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà

nước các cấp thường có vi phạm trên các mặt như: Văn bản chồng chéo, mâu thuẫn

nhau; văn bản ban hành sai thẩm quyền, không hợp hiến, hợp pháp; không đảm bảo

tính thứ bậc (văn bản cấp dưới lấn át văn bản cấp trên, văn bản hướng dẫn lấn át văn

bản chính); sai về thể thức văn bản (phải điều chỉnh bằng loại văn bản này nhưng sử

dụng loại văn bản khác).

Qua hơn 20 năm đổi mới đất nước việc giám sát tính hợp hiến, hợp pháp

các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ,

cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức

thành viên chưa được nhiều, có những lĩnh vực còn bỏ trống. Trong khi đó, số

lượng văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, các bộ, chính quyền địa

phương cần huỷ bỏ, bổ sung, sửa đổi có số lượng rất lớn nhưng việc giám sát

phát hiện, kiến nghị của Mặt trận và các tổ chức thành viên còn rất ít. Thực tế đó

cần được quan tâm khắc phục, tích cực trong thời gian tới.

- Giám sát việc quản lý thực hiện chính sách pháp luật của các cơ quan hành

chính nhà nước.

Thực hiện nhiệm vụ giám sát này, MTTQ và các tổ chức thành viên tập trung

vào một số nội dung sau:

+ Giám sát các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền khi thi hành pháp luật có

đúng, đủ nội dung pháp luật quy định không;

+ Giám sát các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thi hành

pháp luật có vi phạm đến lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, của các giai

tầng xã hội hay không;

+ Giám sát các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thi hành

pháp luật có lạm dụng quyền lực, quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu vi phạm quyền

làm chủ của nhân dân hoặc thiếu trách nhiệm với dân, cố tình vi phạm pháp luật để

mưu lợi hay không.

Để thực hiện các nội dung giám sát trên, MTTQ và các tổ chức thành viên đã

thông qua các chương trình phối hợp giám sát với các cơ quan chức năng của Nhà

nước hoặc tự mình thực hiện để phát hiện kiến nghị, xử lý. Mặt khác, thông qua

việc tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân; thông qua việc chỉ đạo

hướng dẫn hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân; qua việc tổng hợp ý kiến tiếp

xúc cử tri, hội nghị nhân dân, phản ánh của các đoàn thể, tổ chức xã hội... qua việc

tổ chức các phong trào thi đua yêu nước và triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở

cơ sở... trên cơ sở đó nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, phát

hiện những sai phạm, vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước để kiến nghị cơ quan có thẩm

quyền xử lý.

Bảng 2.1: Khảo sát hoạt động giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên

Đơn vị tính: tỷ lệ %

Có tham gia

Đoàn Hội Hội Hội Hội Các lĩnh vực Mặt Công than cựu người nông phụ trận đoàn h chiến cao dân nữ niên binh tuổi

Hoạt động của chính quyền 95,7 95,2 95,7 92,5 100 95,1 84,6

Kết quả thực hiện Nghị quyết 95,7 95,2 93,5 92,5 97,1 92,7 92,0 HĐND

Phẩm chất cán bộ 95,3 95,2 91,1 94,9 91,2 87,8 92,3

Giải quyết khiếu nại, tố cáo 89,1 100 89,1 90,0 100 90,0 80,0

Dự toán, quyết toán ngân 93,2 76,2 84,8 82,1 75,0 85,0 64,0

sách

Quản lý đất đai 89,1 81,0 79,1 63,9 70,6 76,9 50,0

Công trình triển khai trên địa 83,3 66,7 79,1 78,9 84,8 75,7 65,4

bàn

Thực hiện quyết toán công 88,6 85,0 82,2 76,9 67,6 85,0 72,0

trình

Thu chi các quỹ 89,1 81,0 86,0 85,0 78,8 90,2 73,1

Giải quyết các tiêu cực 77,3 85,0 78,0 73,7 70,6 84,6 72,7

Thực hiện chế độ, chính sách 100 95,0 95,5 95,0 94,6 97,5 88,5

Nguồn: [21, tr.147].

Bằng các công cụ phương tiện thông tin đại chúng như kênh truyền hình, báo

chí của mình, MTTQ và các tổ chức thành viên đã kết hợp với các hình thức giám

sát khác phát hiện và đưa ra xử lý trước pháp luật nhiều cá nhân có thẩm quyền

trong bộ máy hành chính nhà nước vi phạm pháp luật như: vụ Thuỷ cung Thăng

Long, vụ Mường Tè (Lai Châu) vụ Năm Cam, Khánh trắng, Phúc bồ... Đặc biệt là

việc giám sát các dự án, chương trình phát triển kinh tế-xã hội có vốn đầu tư trong

và ngoài nước ở cả TW và địa phương, đã phát hiện nhiều sai phạm, kiến nghị xử lý

nhiều trường hợp và thu hồi được nhiều tỷ đồng cho ngân sách nhà nước...

Tuy nhiên, bên cạnh một số việc đã làm được, thì nội dung giám sát này thực

hiện còn chưa được toàn diện, thiếu thường xuyên và chưa nhiều. Trong thực hiện quy

chế phối hợp giữa MTTQ, các tổ chức thành viên với Chính phủ và UBND các cấp có

đề cập đến nhiều nội dung giám sát nhưng việc triển khai thực hiện, sơ kết, tổng kết rút

kinh nghiệm còn ít, chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả.

- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Trong lĩnh vực này, MTTQ đã giám sát thông qua việc tổ chức tiếp dân giải

quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo rồi chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải

quyết hoặc tham gia giải quyết đối với đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến đối

tượng do Mặt trận trực tiếp vận động, đến cán bộ của Mặt trận và những trường hợp

vi phạm nghiêm trọng quyền cơ bản của công dân. Theo báo cáo của TW MTTQ

Việt Nam, đến năm 2006 100% cơ quan MTTQ cấp tỉnh, thành phố đã có phòng

tiếp dân và thường xuyên bố trí 1-2 cán bộ tiếp dân có trình độ Trung cấp Luật trở

lên đảm nhiệm. Trên 70% cơ quan Uỷ ban MTTQ cấp huyện, cấp xã tiếp dân tại

phòng làm việc.

Giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng được thực hiện với tính chất là

một nội dung hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân. Trong 5 năm 1999-2004, Ban

Thanh tra nhân dân đã giám sát, kiến nghị được 95.694 đơn khiếu nại, 12.970 đơn

tố cáo. Kiến nghị chính quyền giải quyết được 76.766 đơn khiếu nại, đạt 80,22% và

8.290 đơn tố cáo, đạt 63,92% [4, tr48].

Hàng năm, Mặt trận Tổ quốc địa phương các cấp có hàng ngàn bản kiến nghị

yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp luật dứt

điểm đối với những vụ nghiêm trọng, kéo dài. Những năm gần đây, Mặt trận đã

tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và chủ động tập trung vào một

vài trọng điểm. Mặt trận đã góp phần tham gia giải quyết thành công những điểm

nóng như ở Giao Thuỷ (Nam Định) La phù-Thanh Thuỷ (Phú Thọ); Bắc Ninh, Bắc

Giang, Vĩnh Phúc, Hà Tây... được dư luận hoan nghênh.

- Giám sát đối với đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước.

Công tác giám sát hoạt động của đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước

được MTTQ nhiều nơi quan tâm, có cách làm thiết thực. Qua thống kê của Ban dân

chủ- pháp luật (thuộc TW MTTQ Việt Nam) thì hầu hết Uỷ ban MTTQ địa phương

các cấp đều tổ chức được các cuộc tiếp xúc cử tri trước và sau các kỳ họp của

HĐND. Tại các kỳ họp của HĐND các cấp MTTQ đều trình bày kết quả tham gia

xây dựng chính quyền và nêu lên những kiến nghị, đề xuất của Mặt trận và các tổ

chức thành viên đến chính quyền cùng cấp.

Đại biểu dân cử là đại biểu HĐND, trong số đại biểu HĐND có nhiều đại

biểu công tác và giữ vị trí ở cơ quan hành chính nhà nước như Chủ tịch, các Phó Chủ

tịch, các thành viên Uỷ ban nhân dân, thủ trưởng các cơ quan của UBND... việc giám sát

qua các cuộc tiếp xúc cử tri, cuộc họp nhân dân có ý nghĩa quan trọng trong việc phân

loại, đánh giá đại biểu dân cử và đó cũng là một trong những nội dung giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Trong nội dung giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên đối với đại

biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước thì chú trọng làm tốt khâu giám sát từ cơ

sở. Từ kết quả và kinh nghiệm giám sát chung ở cơ sở của Mặt trận, ngày

21/4/2006, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam đã phối hợp

xây dựng Nghị quyết liên tịch số 05/2006/NQLT-CP-UBTWMTTQVN về việc ban

hành Quy chế MTTQ Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân

cư. Quy chế này được áp dụng thí điểm tại 5 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Thành phố

Hồ Chí Minh, Ninh Bình, Quảng Bình, Tiền Giang) sau đó sẽ nhân rộng ra cả nước.

Đối với cá nhân công tác tại cấp xã, khu dân cư: Mặt trận và các tổ chức

thành viên giám sát, phát hiện kiến nghị xử lý cá nhân có hành vi vi phạm như: Lợi

dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định của Đảng, Nhà nước trong quản lý,

sử dụng đất đai; thu chi các loại quỹ, thuế, lệ phí; cấp các loại giấy phép chứng

thực, xác nhận hồ sơ, tài liệu, văn bằng, chứng chỉ; sử dụng ngân sách xã và các

khoản đóng góp của nhân dân. Làm trái quy ước, hương ước ở khu dân cư; nội quy,

quy chế làm việc, quy định về công khai thủ tục hành chính của tổ chức. Thiếu trách

nhiệm phục vụ nhân dân, sách nhiễu, gây phiền hà khi giải quyết các công việc của

dân, nhận tiền, lợi ích vật chất khác của dân liên quan đến công việc mà mình giải

quyết. Tổ chức bao che, tham gia đánh bạc, số đề, cá cược, môi giới, buôn bán, tàng

trữ, sử dụng các chất ma tuý; hoạt động mại dâm; gây ô nhiễm môi trường. Hoạt

động tín ngưỡng, tôn giáo. Vi phạm chính sách, pháp luật về dân số, kế hoạch hoá

gia đình, vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình.

Đối với cá nhân cư trú ở cấp xã, khu dân cư nhưng công tác ở nơi khác:

Thông qua giám sát, phát hiện những hành vi sai trái, thiếu trách nhiệm của cá nhân trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn; hương ước, quy ước

của khu dân cư và trong việc tham gia các hoạt động do cấp xã, khu tổ chức và vận

động; phát hiện, kiến nghị xử lý hành vi không trung thực kê khai nhà đất và tài sản,

có bất minh về nhà đất và các tài sản khác; phát hiện, kiến nghị xử lý hành vi vi

phạm quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, chính sách, pháp luật về dân số

kế hoạch hoá gia đình, hôn nhân gia đình...

Đối với cá nhân công tác tại tổ chức đóng trên địa bàn cấp xã: Thông qua giám

sát, phát hiện, kiến nghị xử lý các vi phạm như: lợi dụng chức vụ quyền hạn để làm trái

quy định của Đảng, Nhà nước trong việc quản lý đất đai; thu, chi các loại quỹ, thuế, lệ

phí; cấp các loại giấy phép, đăng ký, công chứng, chứng thực, xác nhận hồ sơ, tài liệu,

văn bằng, chứng chỉ; làm trái nội quy, quy chế làm việc, quy định và công khai các thủ

tục hành chính, vi phạm các quy định về trách nhiệm phục vụ nhân dân; bao che tội

phạm, tệ nạn xã hội, hoạt động mê tín dị đoan, vi phạm chính sách pháp luật về dân số,

hôn nhân gia đình...

Đối với cơ quan, tổ chức cấp xã và cơ quan, tổ chức đóng trên địa bàn cấp

xã: Giám sát, phát hiện, đề nghị khắc phục những hành vi sai trái thiếu ý thức chấp

hành và thực hiện nghị quyết, quyết định của chính quyền cấp xã, các quy ước,

hương ước của khu dân cư và tham gia các hoạt động do cấp xã, khu dân cư tổ

chức. Phát hiện kiến nghị với các cơ quan, tổ chức xử lý cá nhân thuộc diện quản lý

có các hành vi vi phạm.

Tuy nhiên, thực tế hoạt động giám sát của Mặt trận còn hình thức, hiệu quả

pháp lý chưa cao; nhiều đề xuất, kiến nghị của Mặt trận chưa được các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Ví dụ: năm 2004, cơ quan Trung ương

MTTQ Việt Nam nhận được 3.183 đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, đã xem

xét, chuyển đến cơ quan chức năng có thẩm quyền 2.450 đơn nhưng chỉ nhận được

55 ý kiến trả lời [4].

- Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân

Hoạt động của thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn đã được Uỷ ban

MTTQ các cấp chỉ đạo hoạt động và có những chuyển biến tốt. Năm 2001, Uỷ ban

MTTQ các cấp đã phối hợp với chính quyền tổng kết 10 năm hoạt động của Thanh

tra nhân dân, rút ra những bài học kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động, đồng thời

kiến nghị với nhà nước những nội dung cần sửa đổi, bổ sung nhằm kiện toàn, nâng

cao chất lượng hoạt động thanh tra nhân dân. Sau khi có Luật Thanh tra năm 2004,

Mặt trận và Công đoàn đã tham gia cùng Chính phủ xây dựng, ban hành Nghị định

99/2005/NĐ-CP ngày 28/7/2005 về tổ chức và của Thanh tra nhân dân tạo cơ sở

pháp lý quan trọng để tăng cường chỉ đạo hoạt động của Thanh tra nhân dân trong

thực tiễn cơ sở.

Từ khi có các quy định cụ thể về thanh tra nhân dân, hầu hết các cơ sở xã,

phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp đã lập ra Ban Thanh tra nhân dân theo đúng

thủ tục, cơ cấu, thành phần quy định; cán bộ Mặt trận, Công đoàn được tập huấn về

công tác thanh tra nhân dân ở các cấp. Tính đến 2005, sau 15 năm hoạt động số Ban

Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn của 64 tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương trong cả nước là 10.595 ban trên tổng số 10.742 xã, phường,

thị trấn, đạt 98,63%. Tính đến tháng 7 năm 2004, cả nước có khoảng 35% các sở,

74% đơn vị cấp huyện và 76,34% đơn vị cấp xã thực hiện cơ chế một cửa. Nhiều cơ

quan đã thiết lập mạng thông tin đến cơ sở, duy trì hòm thư góp ý, công khai đường

dây điện thoại nóng để cán bộ, công chức và nhân dân kịp thời phản ánh, kiến nghị

đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền [4, tr.35].

Ban Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn thực hiện đúng phạm vi giám sát

theo quy định đối với HĐND và UBND xã, phường, thị trấn; việc thực hiện Nghị quyết

của HĐND, Quyết định, Chỉ thị của Chủ tịch UBND; hoạt động và phẩm chất đạo đức

của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên UBND, cán bộ, công

chức làm việc tại xã, phường, thị trấn; việc tiếp dân của Chủ tịch UBND xã, phường,

thị trấn; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền Chủ tịch UBND xã,

phường, thị trấn; việc thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố

cáo có hiệu lực pháp luật tại xã, phường, thị trấn; việc thu, chi ngân sách, quyết toán

ngân sách, công khai tài chính tại xã, phường, thị trấn; việc thực hiện các dự án đầu tư,

công trình do nhân dân đóng góp xây dựng, do nhà nước, tổ chức, cá nhân đầu tư, tài

trợ cho xã, phường, thị trấn; các công trình triển khai trên địa bàn xã, phường, thị trấn

có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, an ninh trật tự, văn hoá xã hội, vệ sinh môi trường

và đời sống nhân dân; việc quản lý trật tự xây dựng, quản lý các khu tập thể, khu dân

cư; quản lý và sử dụng đất đai tại xã, phường, thị trấn; thu, chi các loại quỹ và phí theo

quy định của Nhà nước; các khoản đóng góp của nhân dân ở xã, phường, thị trấn; việc

thực hiện các kết luận, quyết định xử lý về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền, việc xử lý các vụ việc tham nhũng liên quan đến cán bộ xã, phường, thị

trấn; việc thực hiện chế độ chính sách ưu đãi, chăm sóc, giúp đỡ thương binh, bệnh

binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với nước; chính sách bảo hiểm, bảo trợ xã hội

trên địa bàn xã, phường, thị trấn và những việc khác theo quy định của pháp luật.

Trong thực tiễn, Ban Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn giám sát thông

qua việc tiếp nhận các ý kiến phản ánh của nhân dân hoặc trực tiếp thu thập thông

tin, tài liệu để xem xét, theo dõi cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã,

phường, thị trấn thực hiện những việc thuộc phạm vi giám sát của Ban Thanh tra

nhân dân. Trong thời gian từ 1998 đến 2004, Ban Thanh tra nhân dân, các tổ hoà

giải ở xã, phường, thị trấn đã phát hiện 293.477 vụ việc, kiến nghị chính quyền giải

quyết, trong đó đã giải quyết 224.119 vụ đạt 76,37%, trên 75% số vụ việc được hoà

giải [3, tr.6].

Bảng 2.2: Đánh giá của người dân về hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân qua khảo sát ở 8 tỉnh

Đơn vị tính: người

Ban thanh tra hoạt động Xây dựng hương ước, quy ước TT Tỉnh

Người được hỏi Tốt Không hoạt động Có Không

Chưa tốt 95 1 Bắc Giang 250 149 241 9

2 Đà Nẵng 3 Long An 4 Bình Thuận 5 Quảng Nam 39 65 90 139 12 23 28 67 27 38 60 60 3 và 3 phiếu không trả lời 24 0 47 4 2 phiếu không trả lời 79 10 và 2 phiếu không trả 137 15 18 11 2

6 Hậu Giang 102 40 49 90 12

lời 11 và 2 phiếu không trả lời

7 Lâm Đồng 43 19 23 1 không trả lời 42 1

8 Đồng Nai 257 188 62 253 4 1 và 6 phiếu không trả lời

Cộng 985 526 414 913 72

29/16 phiếu không trả lời

Nguồn: Theo kết quả điều tra của Vụ chính quyền địa phương, Bộ Nội Vụ,

tháng 11 năm 2004.

Ban Thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp

nhà nước do hội nghị công nhân viên chức hoặc hội nghị đại biểu công nhân viên

chức bầu ra và Ban chấp hành Công đoàn cơ sở ra quyết định công nhận; thành viên

tham gia là người làm việc thường xuyên nhưng không phải là người đứng đầu cơ

quan, đơn vị đó.

Giám sát của Ban Thanh tra nhân dân ở loại hình này tập trung vào việc thực

hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nhiệm vụ

công tác hàng năm của cơ quan, đơn vị; tình hình sử dụng các loại kinh phí hoạt

động từ nguồn ngân sách được cấp, sử dụng các loại quỹ, chấp hành chế độ quản lý

tài chính, tài sản và công tác tự kiểm tra tài chính của cơ quan, đơn vị; thực hiện nội

quy, quy chế của cơ quan đơn vị; thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công

nhân viên chức theo quy định của pháp luật. Việc tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn

thư, khiếu nại, tố cáo; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của người

đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp...; việc thi hành các quyết định giải

quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật tại cơ quan nhà

nước, đơn vị sự nghiệp; việc thực hiện các kết luận, quyết định xử lý về thanh tra,

kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; việc xử lý các vụ việc tham nhũng,

lãng phí và các hành vi tiêu cực khác trong cơ quan đơn vị theo quy định của pháp

luật.

Theo kết quả khảo sát, trong năm 2004 ở 83 doanh nghiệp nhà nước đã có

97,6% doanh nghiệp thành lập được Ban thanh tra; 81% doanh nghiệp bỏ phiếu tín

nhiệm cán bộ chủ chốt; 72,3% doanh nghiệp có lịch tiếp dân hàng tuần; 50,1%

doanh nghiệp có hòm thư góp ý. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ

phần hoá, qua khảo sát ở 43 công ty có 71,4% công ty có quy chế thực hiện dân

chủ; 48% công ty tổ chức Đại hội công nhân và người lao động; 47,6% công ty bỏ

phiếu tín nhiệm cán bộ..., [2, tr.8].

2.2.1.2 Về giám sát của các tổ chức xã hội đối với cơ quan hành chính

nhà nước

Hiện nước ta có trên 300 tổ chức hội hoạt động trên cả nước, trên 2.000 hội

có phạm vi hoạt động cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW và hàng vạn tổ chức hội

hoạt động trong phạm vi quận, huyện, thị xã đến cấp xã, phường, thị trấn. Mô hình

tổ chức và hoạt động của hội rất đa dạng, phong phú; Liên hiệp hội, Hội, Tổng hội,

Liên đoàn, chi hội, các tổ chức dịch vụ (với tên gọi khác nhau) hoạt động trên các

lĩnh vực rất rộng lớn. Trong các hội, có nhiều tổ chức là thành viên của MTTQ Việt

Nam ở các cấp. Một số lớn các hội liên kết trong 3 hiệp hội có tính chất liên hiệp,

có tính hệ thống cả nước là: Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (có

57 hội chuyên ngành ở TW, 45 liên hiệp hội tỉnh, thành phố với hơn 80 vạn người);

Liên hiệp các Hội văn học, nghệ thuật Việt Nam (có 10 hội chuyên ngành ở TW, 64

hội văn nghệ tỉnh, thành phố với hơn 1.000 người); Liên hiệp các tổ chức hữu nghị

Việt Nam (gồm 60 hội hữu nghị với các nước và 32 liên hiệp các hội hữu nghị tỉnh

là thành viên). Những hội này có tiếng nói đáng kể nhất trong việc giám sát đối với

hoạt động nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực chuyên môn. ở địa phương, tỉnh,

thành nào cũng có hội hoạt động, nơi nào kinh tế, văn hoá xã hội phát triển nơi đó

có nhiều hội ngược lại thì ít hơn [5].

+ Giám sát của các hội trong lĩnh vực xây dựng, pháp luật, chính sách thuộc

lĩnh vực liên quan. Với tính chất chuyên ngành, quy tụ các chuyên gia có nhiều kinh

nghiệm, chuyên môn nên chất lượng giám sát, tư vấn, phản biện rất rõ. Điều đó

được thể hiện qua các kiến nghị, góp ý đối với các dự thảo luật, pháp lệnh, nghị

định do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện như: Dự thảo Luật Đất đai,

Luật Tài nguyên- Môi trường, Luật BHXH...

+ Giám sát đối với việc thực hiện pháp luật, chính sách có liên quan. Đó là

các lĩnh vực có hoạt động thường xuyên của hội như: Xoá đói, giảm nghèo, bảo vệ

môi trường (Liên hiệp các hội khoa và kỹ thuật Việt Nam, Hội bảo vệ thiên nhiên

và môi trường, Hội địa chất...); nghiên cứu khoa học và áp dụng tiến bộ khoa học

công nghệ (hầu hết các hội trong liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam,

Hội các ngành sinh học, Hội tâm lý, Hội đúc luyện kim...); cứu trợ nhân đạo (Hội

chữ thập đỏ, Hiệp hội nạn nhân chất độc màu da cam, Hội tương trợ, hữu ái...); xã

hội hoá về văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao (các hội thuộc Liên hiệp các hội

văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội khuyến học, Hội cựu giáo chức, Hội tâm lý giáo

dục...)

Đa số lĩnh vực các tổ chức xã hội tham gia giám sát đều nằm trong phạm vi mà

tổ chức đó có thế mạnh. Việc hội tham gia giám sát được thực hiện qua việc nắm bắt

các thông tin về lĩnh vực chuyên ngành và nêu ra các ý kiến, kiên nghị, góp ý giúp cho

cơ quan nhà nước thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Mặt khác, các tổ chức

xã hội cũng tích cực thực hiện khiếu nại, tố cáo và giám sát thực hiện quyền khiếu nại,

tố cáo để bảo vệ quyền lợi hội viên thông qua các hình thức như: Mở các diễn đàn,

thông qua cơ quan truyền thông, báo chí, lập ra các trang Web để thu thập thông tin,

trao đổi thông tin...

Các tổ chức xã hội, hội, liên hiệp các hội lớn đều có tờ báo hoặc tạp chí

chuyên ngành. Hầu hết các hội có bản tin nội bộ, hệ thống thông tin, báo cáo. Thông

qua đó là diễn đàn trao đổi thông tin, đánh giá nhận xét đối với hoạt động của cơ

quan nhà nước

2.2.1.3 Về giám sát của các tập thể lao động đối với cơ quan hành chính

nhà nước

Các tập thể lao động ở Việt Nam hiện nay có số lượng rất lớn, với quy mô,

hình thức đa dạng, phong phú, diễn biến hàng ngày, chưa thể thống kê hết. Đó là

các tổ, nhóm công nhân lao động tại các công ty, nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã,

doanh nghiệp, hộ kinh doanh... trên danh nghĩa của mình thực hiện quyền giám sát

đối với cơ quan quản lý nhà nước.

Nội dung thực hiện giám sát của chủ thể này chủ yếu là: những thủ tục, quy

trình, thái độ cán bộ công chức nhà nước trong thực thi pháp luật, chính sách và giải

quyết những vấn đề cụ thể liên quan đến lĩnh vực hay công việc mà tập thể lao động

đó phải cần đến cơ quan nhà nước. Đó có thể là những ý kiến, kiến nghị của đối với

các cơ quan nhà nước như: cơ chế sản xuất, kinh doanh, chế độ tiền lương, chế độ

lao động và bảo hiểm các loại... hoặc những kiến nghị, phản ánh về những bất cập

của các chính sách, pháp luật có liên quan khi thực hiện trong thực tế.

Hoạt động tiếp xúc, đối thoại giữa các tập thể lao động, nhất là các doanh

nghiệp hiện nay với các cơ quan công quyền, đặc biệt là cơ quan hành chính nhà

nước rất phổ biến. Ngoài cuộc gặp thường kỳ giữa Thủ tướng với đại diện cộng

đồng các doanh nghiệp, hàng năm lãnh đạo, các bộ ngành, UBND tỉnh, thành phố...

đều tổ chức các cuộc gặp mặt đối thoại cùng doanh nghiệp hoạt động trên phạm vi

địa phương, ngành, lĩnh vực... nhằm thông báo cho doanh nghiệp biết kế hoạch phát

triển kinh tế- xã hội của đất nước, địa phương; chính sách pháp luật mới; giải pháp

tiếp tục thực hiện... đồng thời lắng nghe doanh nghiệp trình bày, đề xuất, kiến nghị

với nhà nước những vấn đề thuộc thẩm quyền. Ngoài ra, còn tổ chức nhiều cuộc gặp

chuyên đề bàn về giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong đầu tư, kinh

doanh như: chính sách đất đai, thuế, thủ tục hải quan, tín dụng ngân hàng... qua hoạt

động đó, các tập thể lao động thực hiện quyền giám sát của mình đối với cơ quan hành

chính nhà nước; nhiều thủ tục nhiêu khê, phiền hà tạo kẽ hở cho tham nhũng, tiêu cực

như: thủ tục cấp phép, đăng ký kinh doanh, xuất nhập khẩu được kiến nghị sửa đổi;

nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật bị phát hiện, xử lý như chạy cô ta xuất khẩu

hàng dệt may trong vụ Mai Văn Dâu và đồng bọn...

2.2.1.4. Về giám sát của cơ quan báo chí, dư luận xã hội đối với cơ quan

hành chính nhà nước

Những năm qua, hệ thống báo chí và hoạt động thông tin, truyền thông ở

Việt Nam phát triển mạnh cả về quy mô, tính chất, nội dung và loại hình.

Về báo viết, cả nước hiện có trên 550 cơ quan báo chí với trên 700 ấn phẩm,

phát hành hàng năm khoảng 600 triệu bản, bình quân có khoảng 7,5 báo/

người/năm. Hàng trăm tờ báo tăng kỳ phát hành từ 1-2 số/tuần thành báo ra hàng

ngày, chưa kể 47 nhà xuất bản ở TW và địa phương với số đầu sách ra hằng năm

đạt tỷ lệ 2,8 bản sách/người/ năm. Thông tấn xã Việt Nam có 61 phân xã trong cả

nước, cung cấp hơn 30 loại sản phẩm thông tin bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài

cho các đối tượng có nhu cầu.

Về báo nói, báo hình, sóng phát thanh và truyền hình đã phủ rộng cả nước

đạt hơn 90% diện tích sóng phát thanh và 85% diện tích phủ sóng truyền hình; 64

đài phát thanh và truyền hình của các tỉnh, thành phố, 606 đài phát thanh, trạm tiếp

sóng truyền hình, truyền hình cấp huyện, 288 đài phát sóng FM. Cả nước có trên 10

triệu máy thu hình với khoảng 85% số hộ gia đình được xem truyền hình.

Về thông tin trên mạng Internet, trong những năm qua Việt Nam là nước có

tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực. Hiện nay có 6 nhà cung cấp dịch vụ kết nối

(IXP); 20 nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP); 50 nhà cung cấp thông tin (ICP) và

báo điện tử Internet 2.500 trang thông tin điện tử. Số thuê bao Internet hiện nay gần

1.000.000, với số người vào mạng thường xuyên khoảng 14 triệu, chiếm khoảng

17,5% dân số. Số hội viên hội nhà báo Việt Nam có khoảng trên 13.000 hội viên,

không kể đội ngũ cộng tác viên không chuyên rất đông đảo.

Với sự phát triển mạnh mẽ như trên, báo chí và hệ thống thông tin, truyền

thông đã ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong giám sát hoạt động của cơ

quan hành chính nhà nước. Nhiều vụ án được phát hiện, triệt phá khởi đầu do báo

chí phát hiện. Nhiều vụ việc tiêu cực tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng ở các

cơ quan hành chính nhà nước không thể bị “chìm xuống” bởi có sự tham gia tích

cực của công dân và báo chí như vụ: lãnh đạo thị xã Đồ Sơn (Hải Phòng) chia chác

đất công. Những tập đoàn tội phạm xã hội đen được một số cán bộ cơ quan nhà

nước dung túng, bao che bị báo chí lôi ra ánh sáng, bị dư luận kịch liệt lên án đã bị

cơ quan chức năng xử lý nghiêm khắc trước pháp luật, như vụ Phúc bồ, Khánh

trắng (Hà Nội). Việc triệt phá tập đoàn tội ác Năm Cam, tức Trương Văn Cam và

đồng bọn, các cơ quan báo chí đã có vai trò quan trọng, nhất là trong việc phát hiện,

điều tra các cán bộ trong cơ quan công quyền, tạo ra dư luận lên án một số quan

chức đã che chở cho Năm Cam. Vụ án ở PMU18, báo chí là lực lượng đầu tiên phát

hiện và đặt nghi vấn về “con bạc triệu đô”, khởi nguồn cho sự vào cuộc quyết liệt

của các cơ quan chức năng điều tra làm rõ để xử lý theo pháp luật.

Mặt khác, các cơ quan báo chí mở nhiều chuyên mục, chuyên trang, chuyên

đề đưa tin về hoạt động của các cơ quan công quyền và tinh thần phục vụ nhân dân

của cán bộ, công chức nhà nước, thường xuyên biểu dương người tốt, việc tốt, lên

án, đưa tin về những hành vi, biểu hiện tiêu cực của cán bộ, công chức, cơ quan

hành chính nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội để xử lý. Đồng thời đã đẩy

mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao trình

độ hiểu biết của nhân dân, giúp nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đúng

pháp luật và hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, giám sát của cơ quan báo chí đối với cơ quan hành chính nhà

nước tính chuyên nghiệp chưa cao, đôi khi còn chưa khách quan, kịp thời. Mặt khác

có sự chênh lệch lớn về hưởng thụ thông tin giữa các thành phần dân cư trong nước

như: 75% báo chí được phát hành ở khu vực thành phố trong khi đa số người dân ở

nông thôn chỉ có 25%; thông tin dành cho lãnh đạo, quản lý rất nhiều và đa dạng

trong khi thông tin đến với người dân hoặc cán bộ thường rất hạn chế.

2.2.1.5. Về giám sát trực tiếp của công dân

Công dân, những người có năng lực hành vi và năng lực pháp luật, có quyền

giám sát hoạt động của tất cả cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước bất kể cơ quan

đó ở TW hay địa phương, cán bộ, công chức đó có chức vụ cao hay thấp mà không

có bất kỳ sự hạn chế nào. Tuy nhiên thực tế, công dân thường giám sát hoạt động

của các cơ quan nhà nước, những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan có

liên quan trực tiếp đến việc thực hiện và bảo vệ các quyền chủ thể của họ do pháp

luật quy định. Ví dụ: khi đi học, đi thi công dân có quyền giám sát đối với hoạt

động của cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục; khi thực hiện quyền kinh

doanh, công dân có quyền giám sát các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc cấp

giấy phép đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế, hải quan, quản lý thị trường...

- Về hoạt động giám sát thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của

công dân.

Luật Khiếu nại, tố cáo được ban hành năm 1998, có hiệu lực thi hành từ

01/01/1999 và tiếp tục được bổ sung, sửa đổi năm 2004. Theo đó, công dân có

quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính

nhà nước khi họ có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm

quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Cũng như có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức,

cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá

nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

Do tính chất, đặc điểm là trực tiếp, gần dân, động chạm đến quyền, lợi ích

hợp pháp, chính đáng của nhân dân bởi các quyết định, hành vi hành chính của cơ

quan hành chính nhà nước nên khiếu nại, tố cáo của công dân đối với cơ quan hành

chính nhà nước và cán bộ, công chức ở các cơ quan đó bao giờ cũng nhiều hơn rất

nhiều lần so với các cơ quan khác của hệ thống chính trị như: cơ quan Đảng, đoàn

thể, Quốc hội, Hội đồng nhân dân...

Theo báo cáo của Chính phủ: Tổng hợp từ năm 1999 đến hết quý I/2004, cơ

quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp nhận 878.053 đơn thư khiếu nại, tố cáo,

trong đó có 639.590 đơn đủ điều kiện để xem xét giải quyết (558.401 đơn khiếu nại và

81.189 đơn tố cáo). Số còn lại là đơn thư trùng lặp, gửi vượt cấp không thuộc thẩm

quyền của các cơ quan hành chính nhà nước [8, tr.2].

Về nội dung khiếu nại: Đơn khiếu nại liên quan đến đất đai, nhà cửa chiếm

trên 60%. Về nội dung tố cáo chủ yếu là tố cáo cán bộ cơ sở mất dân chủ, lợi dụng

chức quyền tham nhũng (trong việc cấp đất, bán đất, mua, bán nhà cửa ở các dự án

khu đô thị, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng); vi phạm thu, chi tài chính, trù

dập bao che cho cán bộ sai phạm (chiếm 60% trên tổng số đơn thư tố cáo).

Về công tác tiếp dân: Tổng hợp từ 1999 đến hết quý I năm 2004, các cơ quan

hành chính nhà nước các cấp đã tiếp 1.360.032 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo,

phản ánh, kiến nghị. Trụ sở TW Đảng, Chính phủ ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí

Minh cùng thời gian đó đã tiếp 94.890 lượt người. Kết quả công tác giải quyết khiếu

nại từ năm 1999 đến tháng 5/2004, cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã giải

quyết được 459.243/639.590 đơn khiếu nại và 55.301/81.189 đơn tố cáo, tỉ lệ giải

quyết trên 80%. [8, tr 5-6]

Sau khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

Khiếu nại, tố cáo, ngày 19/4/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 53/2005/NĐ-

CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo thay thế các nghị

định hướng dẫn trước đây cho phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật khiếu nại, tố cáo.

Ngày 27/10/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 26

CP/2004/CT-TTg chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan

hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm thực hiện tốt

Nghị quyết 30/2004/QH 11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội.

Từ quý II/2004 đến quý III/2005 trụ sở tiếp dân của TW Đảng và Nhà nước

đã tiếp 17.036 lượt công dân; cơ quan hành chính nhà nước các cấp, các ngành đã

tiếp 332.392 lượt công dân; tiếp nhận 204.879 đơn thư, trong đó có 109.627 đơn

khiếu nại, 45.748 đơn tố cáo và 49.504 là kiến nghị phản ánh. Kết quả đã giải quyết

77.561/90.221 đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Kiến nghị thu hồi cho

nhà nước, tập thể, công dân 45 tỷ 285 triệu đồng và 486,6 ha đất các loại; xử lý kỷ

luật hành chính 1.909 người và chuyển cơ quan điều tra 74 vụ việc với 114 đối

tượng [9, tr.4].

Từ tháng 10/2005 đến tháng 10/2006 trụ sở tiếp dân của Đảng và Nhà nước

tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã tiếp trên 24.000 lượt công dân, tiếp nhận

trên 34.000 đơn thư khiếu nại, tố cáo. Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa

phương đã tiếp 247.518 lượt người khiếu nại, tố cáo. Cơ quan hành chính nhà nước

các cấp, các ngành tiếp nhận 62.884 đơn khiếu nại, 13.331 đơn tố cáo, 32.488 kiến

nghị, phản ánh. Qua phân loại xử lý có 50.501 đơn khiếu nại và 8.385 đơn tố cáo

thuộc thẩm quyền giải quyết. Đã giải quyết được 32.477 đơn khiếu nại (64,3%) và

5.537 đơn tố cáo (66%); đã kiến nghị xử lý hành chính 660 người, chuyển cơ quan

xem xét trách nhiệm hình sự 16 vụ việc với 21 người; kiến nghị thu hồi cho nhà

nước, tập thể, công dân 52 tỷ 329 triệu đồng và 461,3 ha đất [10, tr.6].

Qua tổng hợp số liệu từ năm 1998 đến 2006 của Thanh tra Chính phủ cho

thấy số đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến cơ quan hành chính nhà

nước các cấp và bộ, ngành được giải quyết hàng năm đều đạt trên 80%. Tuy nhiên,

những năm gần đây vấn đề khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện

khi đã có quyết định cuối cùng... có diễn biến với tính chất, mức độ ngày càng

nhiều và phức tạp. Việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân là quyền hiến

định, được pháp luật quy định và bảo vệ. Nhân dân thực hiện quyền đó và cơ quan

nhà nước có trách nhiệm giải quyết đúng đắn theo pháp luật. Theo dữ liệu một số kỳ

họp Quốc hội những năm qua cho thấy, trong số đơn tố cáo của nhân dân thì 90% là

đúng sự thật, chỉ có 10% là không đúng hoàn toàn. Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí

Minh, số Chủ nhật ra ngày 20/5/2006, dẫn số liệu của Thanh tra Chính phủ khẳng

định 50% số đơn, thư tố cáo nặc danh có nội dung phản ánh đúng sự thật.

Bảng 2.3: Đánh giá về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Đơn vị tính: người

TT Tỉnh Người được Giải quyết khiếu nại, tố cáo

hỏi Chưa tốt Tốt

Không hoạt động 0 0 0 0 0 0 0 0 0 29 8 18 21 30 22 10 21 159 221 31 47 69 109 80 33 236 826 250 39 65 90 139 102 43 257 985 1 Bắc Giang 2 Đà Nẵng 3 Long An 4 Bình Thuận 5 Quảng Nam 6 Hậu Giang 7 Lâm Đồng 8 Đồng Nai Cộng

Nguồn: Theo kết quả điều tra của Vụ chính quyền địa phương, Bộ Nội Vụ,

tháng 11 năm 2004.

- Giám sát thông qua các hình thức quy định trong quy chế thực hiện dân

chủ ở các loại hình cơ sở.

Một nhóm nội dung giám sát trực tiếp của công dân rất quan trọng đó là việc

thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở lần đầu tiên

được Chính phủ ban hành kèm Nghị định 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998, được

sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 79/2003NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ và

được nâng lên thành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội số 34/2007/ PLUBTVQH 11 ngày 20/4/2007, có hiệu lực thi

hành từ 01/7/2007. Với tinh thần xuyên suốt là thể chế hoá quan điểm của Đảng về

dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã

hội, theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Kết quả thực hiện Quy chế dân chủ ở xã theo Nghị định 79/2003/NĐ- CP, đến

năm 2006, cả nước có trên 95% xã, phường, thị trấn thực hiện niêm yết công khai

các thủ tục hành chính, các khoản phí, lệ phí, đóng góp của công dân, công khai các

phương án sản xuất, việc giải quyết cấp phép xây dựng, đăng ký kinh doanh, địa

chính, hộ tịch, hộ khẩu, công chứng, chứng thực; chế độ cho các đối tượng chính

sách...

ở cơ sở xã, phường, thị trấn người dân đã kiểm tra, giám sát trực tiếp, chặt

chẽ việc thu chi sử dụng các loại quỹ, các công trình có sự đóng góp của mình. Để

làm việc này, nhân dân tự cử ra đại diện (phần lớn không phải là cán bộ) trực tiếp

thu tiền, chi tiêu, thanh quyết toán. Người dân cũng cử ra tổ kiểm tra, giám sát quá

trình thực hiện. Có những công trình đường làng, ngõ xóm thì ở khu vực gia đình

nào thì gia đình đó trực tiếp cử người giám sát chất lượng thực hiện.

Bảng 2.4: Tác dụng của quy chế dân chủ ở cơ sở từ sự đánh giá của người dân

(Theo kết quả điều tra của Vụ Chính quyền địa phương. Bộ Nội vụ,

tháng 11 năm 2004).

Đơn vị tính: người

QCDC có tác dụng Những nội dung chưa tốt

TT Tỉnh Tốt Rất tốt Chư a tốt Hình thức Ngườ i được hỏi Ban than h tra Dân bàn, quyết định

Dân bàn CQ quyết định 4 Dân giám sát kiểm tra 5 1 Bắc Giang 250 121 116 5 8 1 2

2 Đà Nẵng 39 15 19 1 4 1 2 5 1

3 Long An 65 37 23 3 2 5 5 14 1

4 Bình Thuận 90 51 31 4 4 1 2 7 0

5 Quảng Nam 139 68 57 2 12 6 5 13 12

6 Hậu Giang 102 59 37 1 5 2 1 9 8

7 Lâm Đồng 43 16 22 2 3 0 1 1 0

8 Đồng Nai 257 113 139 2 3 0 1 4 2

Cộng: 985 480 444 20 41 16 21 58 26

Qua khảo sát thực tế cho thấy khả năng giám sát của người dân được đánh

giá cao ở nhiều lĩnh vực như: hoạt động của chính quyền cơ sở, kết quả thực hiện

các nghị quyết của HĐND; hoạt động và tư cách đạo đức của cán bộ cơ sở; giải

quyết các đơn thư khiếu tố; thu, chi các loại quỹ cũng như thực hiện chính sách của

nhà nước (trên 80% số ý kiến đánh giá có khả năng). Ngược lại, một số hoạt động

khác, như: dự toán và quyết toán ngân sách địa phương; giám sát, nghiệm thu các

công trình do cấp trên triển khai trên địa bàn còn nhiều ý kiến cho rằng khả năng

giám sát của người dân không cao và khó thực hiện được.

Bảng 2.5: Bảng khảo sát sau cho thấy tỷ lệ cán bộ lãnh đạo Đảng,

chính quyền, người dân đánh giá những nội dung cần thông báo cho dân biết là thực sự cần thiết

Đơn vị tính: Tỷ lệ %

Nội dung cần thông báo để dân biết Người dân Lãnh đạo đoàn thể Lãnh đạo Đảng, chính quyền

100 98,6 95,76

100 99,5 96,2

99,3 97,6 92,11

95,5 92,2 85,43

96,2 94,3 88,7

92,3 86,7 84,99

99,6 96,7 90,30

93,1 83,9 83,93

100 97.6 96,15

84,8 78,3 68,78

98,4 93,3 90,25

99,3 98,1 96,70

97,0 89,2 85,6 1.a. Các quy đinh của Hội đồng nhân dân, quyết đinh của UBND xã và của các cấp trên liên quan đến địa phương 1.b. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính giải quyết các công việc liên quan đến dân 1.c. Quy định của nhà nước và chính quyền địa phương về đối tượng, mức thu các loại thuế, phí, lệ phí và các nghĩa vụ khác của nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành 2. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội dài hạn và hàng năm của xã, (phường) 3. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của xã (phường)... 4. Dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của xã (phường)... 5. Dự toán, quyết toán thu, chi các quỹ, chương trình dự án, các khoản huy động của nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng xã (phường)... 6. Các chương trình, dự án do nhà nước, các tổ chức và các cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho xã (phường)... 7. Chủ trương kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo... 8. Điều chỉnh địa giới hành chính xã (phường và các đơn vị hành chính liên quan đến xã) 9. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ tiêu cực, tham nhũng của cán bộ xã, thôn 10. Công tác văn hoá- xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn của xã (phường) 11. Sơ kết, tổng kết của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã (phường)

84,6 73,1 70,3

98,5 95,8 94,9

86,7 79,0 75,54

12. Phương án dồn điển đổi thửa phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, kinh tế trang trại, hợp tác xã 13. Bình xét các hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất và xây dựng nhà tình thương, thực hiện chính sách đối với các gia đình có công, nhà tình nghĩa, sổ tiết kiệm, thẻ bảo hiểm y tế 14. Kết quả lựa chọn, thứ tự ưu tiên và tổ chức thực hiện các công trình thuộc các chương trình, dự án của Nhà nước, của các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho xã

Nguồn: [21, tr.84].

Công dân có nhiều hình thức giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước.

ở mỗi hình thức lại có mức độ phù hợp khác nhau.

Bảng 2.6: Mức độ phù hợp của các hình thức giám sát theo đánh giá của cán bộ chính quyền, đoàn thể và nhân dân

Đơn vị tính: tỷ lệ %

Phù hợp

Hình thức giám sát Nhân dân

Cán bộ chính quyền 98,1 Cán bộ đoàn thể 97,7 91,2 Tham gia trực tiếp

87,1 90,2 87,8 Tham gia báo cáo tổng kết

83,7 87,2 83,1 Góp ý bản kiểm điểm

91,0 90,0 90,2 Bỏ phiếu tín nhiệm

97,6 97,2 81,2 Phát hiện các tham nhũng

Nguồn: [21, tr.135].

Năm 2005, đã có 40 tỉnh, thành phố triển khai ra diện rộng chủ trương lấy

phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân

cấp xã. Kết quả đã có 5.200 xã, phường, thị trấn (83,3%) thực hiện, với 10.300

người được lấy phiếu tín nhiệm, trong đó có trên 7.000 người (68,7%) đạt số phiếu

tín nhiệm từ 90- 100%; gần 300 người (2,7%) đạt số phiếu tín nhiệm từ 50% đến

dưới 70%; có 62 người (0,6%) đạt số phiếu tín nhiệm dưới 50%.

Đến cuối năm 2006, đã có 32 tỉnh, thành phố triển khai việc lấy ý kiến tín

nhiệm đối với trưởng thôn, tổ trưởng dân phố, với 32.900 thôn, tổ dân phố (73,5%)

tổ chức lấy phiếu tín nhiệm. Kết quả có 28.900 người/32.900 người (90%) đạt số

phiếu tín nhiệm từ 70-100%; có 2.500 người (7,4%) đạt số phiếu tín nhiệm từ 50%

đến dưới 70%; có 880 người (2,6%) đạt số phiếu dưới 50%. Những trường hợp có

phiếu tín nhiệm thấp dưới 50% được xử lý bằng 2 hình thức: đưa ra HĐND để xem

xét miễn nhiệm và không giới thiệu nhân sự tham gia khoá mới. Trường hợp trưởng

thôn, tổ trưởng dân phố có tín nhiệm thấp dưới 50% thì đưa ra hội nghị nhân dân ở

khu dân cư để xem xét miễn nhiệm và báo cáo lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã

quyết định.

Công dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với cơ quan hành chính nhà

nước theo Hiến pháp và pháp luật. Nhưng pháp luật chưa quy định đầy đủ các yếu

tố thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền giám sát, cũng như hậu quả giám sát trực

tiếp của công dân. Mặt khác, sự tạo điều kiện của chính quyền cũng là một yếu tố

quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng giám sát của người dân, không kể các biện

pháp bảo đảm an toàn cho người dân thực hành quyền giám sát còn hạn chế.

Bảng 2.7: Đánh giá của người dân về mức độ chính quyền

tạo điều kiện cho họ giám sát

Đơn vị tính: %

Các lĩnh vực Không trả lời Tổng cộng Tạo điều kiện tốt ít tạo điều kiện Chưa tạo điều kiện

74,2 17,5 4,4 3,9 100 Hoạt động của chính quyền xã, phường

76,6 15,6 5,0 100 2,8

Kết quả thực hiện nghị quyết hội đồng nhân dân Phẩm chất đạo đức cán bộ Giải quyết khiếu nại, tố cáo 71,1 69,6 17,3 17,7 5,8 6,6 100 100 5,9 6,0

Dự toán, quyết toán ngân sách Nghiệm thu, giám sát công trình Giám sát công trình cấp trên Quản lý sử dụng đất đai Thu chi các quỹ 60,8 62,7 60,6 64,4 74,0 20,1 19,0 17,9 18,3 13,5 8,4 8,0 11,9 9,1 6,1 100 100 100 100 100 10,7 10,3 9,6 8,2 6,5

100 100 Giải quyết các tiêu cực Thực hiện chế độ chính sách 54,6 83,5 20,7 9,3 13,6 2,5 11,1 4,7

Nguồn: [21, tr.134].

Nội dung giám sát của nhân dân theo quy chế dân chủ có nhiều nhưng mức

độ tham gia, giám sát vào các nội dung có khác nhau. Qua khảo sát thực tế cho thấy

việc nhân dân tham gia giám sát nhiều nhất là: thu, chi các loại quỹ; hoạt động của

Uỷ ban nhân dân. Trong khi đó, những việc như: thu, chi các loại phí, lệ phí; việc

giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vụ việc tiêu cực thì mức độ tham gia giám

sát ít hơn.

Bảng 2.8: Đánh giá khả năng giám sát của người dân Đơn vị tính: %

ý kiến cán bộ đoàn thể ý kiến lãnh đạo xã, phường

Các lĩnh vực

Có khả năng ít khả năng Có khả năng ít khả năng Không có khả năng Không có khả năng

81,6 15,4 3,0 82,8 16,3 1,0 Hoạt động của chính quyền xã, phường

84,6 14,2 1,1 82,9 16,1 0,9

Kết quả thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân

88,3 11,3 88,6 10,9 0,4 0,5 Phẩm chất đạo đức cán bộ

77,4 19,2 81,4 17,1 3,4 1,4 Giải quyết khiếu nại, tố cáo

59,9 34,4 66,0 30,1 5,7 3,9 Dự toán, quyết toán ngân sách

4,3 75,4 22,2 2,4 68,2 27,5

8,6 11,3 47,3 41,4 Nghiệm thu, giám sát công trình Giám sát công trình cấp trên 64,5 27,0

4,6 1,9 5,8 4,8 1,4 4,0 67,3 82,7 75,6 27,9 14,9 20,4 70,7 85,9 67,6 24,7 12,2 26,6

1,1 1,9 88,7 10,2 88,2 10,0 Quản lý sử dụng đất đai Thu chi các quỹ Kết quả thanh tra, kiểm tra Thực hiện chế độ chính sách

Nguồn: [21, tr.132].

Đánh giá ưu điểm và những kết quả thực hiện pháp luật về giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước cho thấy: Bản chất pháp luật về giám sát

của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước qua các thời kỳ của nước ta

không thay đổi. Đó là, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là

chủ và có quyền làm chủ thông qua quyền năng chủ thể của mình trong đó có quyền

giám sát và pháp luật đã ghi nhận ngày càng cụ thể và đồng bộ hơn. Chủ thể giám

sát ngày càng nhiều hơn, hình thức, phạm vi, phương pháp ngày càng đa dạng hơn,

trách nhiệm và hậu quả pháp lý ngày càng chặt chẽ hơn giúp cho hoạt động giám sát

của nhân dân ngày càng hiệu lực, hiệu quả hơn.

2.2.2. Những tồn tại, hạn chế của pháp luật về giám sát của nhân dân đối

với cơ quan hành chính nhà nước

Pháp luật quy định về giám sát của MTTQ, các tổ chức thành viên, các tổ

chức xã hội, các tập thể lao động… đối với cơ quan hành chính nhà nước phần

nhiều là các quy định có tính chất khung, thiếu một cơ chế xử lý sau giám sát hiệu

quả.

Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

thông qua quy chế thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở thời gian qua còn có

những bất cập, hạn chế đó là:

+ Nhiều nội dung của quy chế bị lạc hậu, thiếu cơ chế ràng buộc cụ thể về

trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân nên một số nội dung thiếu tính khả thi.

+ Phương thức giám sát đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cán bộ,

công chức, đảng viên chưa cụ thể nên khó thực hiện, ít hiệu quả trong thực tế.

+ Chưa có cơ chế hiệu quả để bảo vệ người trung thực, thẳng thắn cũng như

chế tài xử lý người lợi dụng chức vụ, quyền hạn trù úm người góp ý, phê bình hoặc

bao che cho các sai phạm.

+ Việc thực hiện chế độ tiếp dân ở các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà

nước chưa trở thành nền nếp, việc tiếp xúc lắng nghe ý kiến từ dân, giải quyết đơn

thư khiếu nại, tố cáo của công dân nhiều nơi còn làm chưa tốt... nhưng pháp luật

quy định về việc xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chưa đủ

mạnh, chưa rõ ràng, cụ thể nên hiệu quả chưa cao.

Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành còn có những bất cập, hạn chế đó là:

+ Vấn đề khiếu nại của công dân hiện nay chưa có điểm dừng. Mặc dù Luật

có quy định: “Quyết định giải quyết cuối cùng là quyết định có hiệu lực thi hành và

người khiếu nại không được quyền khiếu nại tiếp” (khoản 15, Điều 2, Luật Khiếu

nại, tố cáo) nhưng trong thực tế có rất nhiều vụ việc, tuy đã có quyết định cuối cùng

nhưng công dân vẫn tiếp tục khiếu nại, thậm chí gay gắt hơn. Trong khi đó, cơ chế

xem xét lại quyết định giải quyết cuối cùng có vi phạm pháp luật chưa rõ ràng, cụ

thể.

+ Cơ chế giải quyết, hiệu quả giải quyết khiếu nại hiện nay quy định trong

Luật Khiếu nại, tố cáo và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính còn có

nhiều hạn chế như có quá nhiều cơ quan có chức năng tiếp nhận khiếu nại, tố cáo

của công dân nhưng chưa có một cơ chế hữu hiệu để việc xử lý được thống nhất,

nhanh gọn.

+ Luật Khiếu nại, tố cáo nói riêng và các quy định pháp luật nói chung về

thẩm quyền và trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân có nhiều điểm chưa

thuận lợi. Mặt khác, pháp luật chưa có chế tài xử lý cụ thể đối với những hành vi vi

phạm của người có trách nhiệm trong quá trình xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo

cũng như việc xử lý các trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động,

lôi kéo, gây rối, làm mất trật tự công cộng. Pháp luật cũng chưa có những quy định

cụ thể xử lý các hành vi chây ỳ, cố tình không chấp hành quyết định giải quyết đúng

pháp luật dẫn đến làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Pháp luật quy định về quyền của công dân trong tố cáo hành vi tham nhũng

còn có những điểm bất hợp lý, như: người tố cáo phải nêu rõ họ tên, địa chỉ của

mình trong khi cơ chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng chưa được quy định cụ thể

và bảo đảm thực hiện trong thực tế.

Từ những tồn tại và hạn chế nêu trên có thể rút ra một số nhận xét cơ bản

sau:

Thứ nhất, các quy phạm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan

hành chính nhà nước được quy định trong các bản Hiến pháp, sắc lệnh, luật, nghị

quyết, nghị định, thông tư, quy chế... do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban

hành nên thiếu tập trung, thống nhất đặc biệt là thiếu cụ thể, chưa thuận lợi trong

thực hiện, phần nhiều các quy phạm quy định còn chung chung, ít khả thi, ràng

buộc pháp lý thấp và không chặt chẽ.

Thứ hai, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước qua các giai đoạn lịch sử xã hội, nên có nhiều sửa đổi, bổ sung và ban hành

mới để phù hợp với điều kiện thực tế. Tuy nhiên ngoài yếu tố khách quan, thì pháp

luật về giám sát của nhân dân còn tản mạn, chồng chéo, mâu thuẫn hoặc đã lỗi thời

và thiếu ổn định. Nhiều vấn đề về nội dung, hình thức, trình tự thủ tục và hậu quả

pháp lý giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước chưa được quy

định hoặc quy định chưa cụ thể, chặt chẽ, chưa có cơ chế pháp lý để thực hiện hiệu

quả trên thực tế.

Thứ ba, pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà

nước có chủ thể bao hàm là nhân dân, nhân dân thực hiện quyền của mình qua

nhiều chủ thể cá biệt khác tạo nên tổng thể cơ chế giám sát của nhân dân. Tuy nhiên

pháp luật chưa đặt ra cơ chế phối hợp giữa các chủ thể có quyền giám sát đối với cơ

quan hành chính nhà nước cũng như cơ chế phối hợp giữa giám sát của nhân dân

với giám sát của cơ quan mang tính quyền lực nhà nước. Do đó, các chủ thể trong

tiến hành giám sát còn rời rạc, thiếu đồng bộ, hiệu quả giám sát của nhân dân cũng

như của cả hệ thống cơ chế giám sát chưa cao.

Chương 3

Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với

cơ quan

hành chính nhà nước

3.1. Yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về giám sát của

nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

3.1.1. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở

nước ta đang đặt ra những yêu cầu có tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực hoạt của

động bộ máy nhà nước và đời sống xã hội. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa đặc điểm

Nhà nước pháp quyền hiện đại với đặc tính cơ bản của nền dân chủ XHCN. Cả hai

yếu tố trên đều liên quan chặt chẽ đến cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà nước,

trong đó có giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Nhà nước pháp quyền có những nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung,

trong đó quan trọng nhất là: Tính tối cao của luật pháp, sự minh bạch công khai và

hợp pháp về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các quyền tự do cơ bản của

con người được tôn trọng và bảo vệ... những nguyên tắc trên trực tiếp hay gián tiếp

đều liên quan đến việc giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, trong đó

có quyền lực về hành chính. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân làm cho

bản thân nhà nước dù muốn hay không cũng phải tôn trọng luật pháp; cán bộ công

chức và cơ quan nhà nước phải “dè chừng”, hạn chế những “khuất tất”, “vòng vo”

trong tiếp xúc, giải quyết những vấn đề liên quan đến nhân dân; gia tăng “tính có

bảo đảm” trong việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân trong mối

quan hệ với cơ quan nhà nước.

Các nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền thường nhấn mạnh vai trò giám

sát bên trong, do các cơ quan của bộ máy nhà nước tương ứng với ba quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp thực hiện, trên nguyên tắc kiểm soát, đối trọng và chế

ước lẫn nhau. Tuy nhiên, những hoạt động trên không phải toàn bộ cơ chế giám

sát quyền lực nhà nước, hơn nữa đó chỉ thiên về những cách thức, biện pháp

mang tính kỹ thuật trong thiết kế mô hình nhà nước. Trên thực tế, không một cơ

quan nào của Nhà nước pháp quyền trong hoạt động của mình lại không có mối liên

hệ với công dân hay các chủ thể xã hội khác và dù muốn hay không các cơ quan đó

cũng phải chịu sự giám sát từ phía công dân và các tổ chức xã hội hay gọi là chịu

sự giám sát của nhân dân.

Khác với Nhà nước pháp quyền tư sản, Nhà nước pháp quyền XHCN dựa

trên nền tảng phát huy cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ XHCN là một

hình thức thể hiện quyền tự do bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ

thể của quyền lực nhà nước. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là điều kiện cơ

bản để thực hiện dân chủ XHCN. Dân chủ XHCN ghi nhận toàn bộ những quyền tự

do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng, quyền

bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín, quyền nghỉ ngơi, học hành... Nhà

nước bảo đảm cho tất cả công dân được hưởng các quyền đó và tạo điều kiện để

công dân bày tỏ nguyện vọng, ý kiến của mình về những vấn đề của đời sống xã

hội. Dân chủ ở nước ta trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp

quyền XHCN do nhân dân làm chủ. Bài học lớn về dân chủ là phát huy tối đa nội

lực và ý thức tự cường của nhân dân; đề cao vai trò của nhân dân trong việc kiểm

tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước; dân chủ đi đôi với chấp hành pháp

luật, kỷ cương. Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi

mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, tăng cường giám sát của nhân dân chính

là biện pháp để thực hành dân chủ XHCN.

Nghị quyết Đại hội X của Đảng nhấn mạnh:

Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo

đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân... Hoàn

thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong

văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính

hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của cơ quan công

quyền [18, tr.126].

ở một phương diện khác, Nghị quyết nêu rõ: “Xây dựng một xã hội dân chủ,

trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân”

[18, tr.125].

Điều đó chứng tỏ trong đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta

không thể thiếu vai trò giám sát của nhân dân, với ý nghĩa là một tất yếu khách

quan, là điều kiện bảo đảm phát huy dân chủ XHCN, đồng thời là nội dung cơ chế

vận hành của nhà nước trong xã hội.

3.1.2. Yêu cầu kế thừa, phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, bất cập

trong thực tiễn thời gian qua

Trên thực tế, một thời gian dài chúng ta chưa chú trọng đến vai trò giám sát

của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Mặc dù, Hiến pháp 1946 đầu tiên của

Nhà nước dân chủ cộng hoà non trẻ đã có nhiều tư tưởng dân chủ được cụ thể hoá

thành những quy định khá độc đáo như Điều 30, chương III quy định: “Nghị viện

họp công khai, công chúng được vào nghe; các báo chí được phép thuật lại các cuộc

thảo luận và quyết nghị của Nghị viện”

[53, tr.17]. Tuy nhiên, liền sau đó đất nước gặp chiến tranh và nhiều khó khăn khác

nên tư tưởng dân chủ nêu trên chưa có điều kiện thực hiện. Quyền giám sát của

nhân dân đối với cơ quan nhà nước được ghi nhận về nguyên tắc trong Hiến pháp

1980, nhưng trên thực tế nhiều năm đầu của thập kỷ này chưa có cơ chế để hiện

thực hoá.

Đại hội VI của Đảng (năm 1986), đánh dấu bước mở đầu công cuộc đổi mới

gắn với tiến trình dân chủ hoá trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thổi một luồng

gió mới vào đời sống dân chủ với khẩu hiệu và phương châm thực hiện “dân biết,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “ lấy dân làm gốc”. Dân chủ hoá gắn liền với tăng

cường sự giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Yêu cầu dân chủ, công khai, minh bạch được đặt thành vấn đề thời sự của báo chí

và trong dư luận nhân dân đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước, đoàn thể và toàn

xã hội.

Qua các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và X, dân chủ trở

thành nội dung quan trọng trong chủ đề văn kiện của Đảng, nhiều nghị quyết của

Ban Chấp hành TW trong thời gian qua đã nêu vấn đề giám sát của nhân dân đối

với bộ máy nhà nước. Dấu ấn cụ thể giám sát nhân dân được hình thành là khi Nhà

nước ban hành Luật MTTQ Việt Nam (năm 1999), sửa đổi, bổ sung một số điều của

Hiến pháp 1992 (2001) và nhất là những năm gần đây giám sát của nhân dân đã

ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình trong tổng thể cơ chế giám sát đối với

quyền lực nhà nước. MTTQ và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội, tập thể

lao động, cơ quan báo chí đã chủ động nhiều hơn trong thực hiện quyền giám sát;

công dân qua quyền giám sát tham gia nhiều hơn vào công việc của nhà nước; trình

độ năng lực làm chủ của nhân dân ngày một cao hơn.

Đại hội X của Đảng nêu rõ vấn đề giám sát của nhân dân và những nguyên

tắc, phạm vi, cơ chế cơ bản nhất để nhân dân thực hành quyền giám sát, khẳng định:

“Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân”. Nhiều

đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước trong các bài viết, bài nói của

mình đã thường xuyên nhấn mạnh đến yêu cầu giám sát và phản biện xã hội từ nhân

dân, Mặt trận, các đoàn thể… coi đó là đòi hỏi bức thiết hiện nay. Ngay sau Đại hội

Đảng X, MTTQ Việt Nam đã tổ chức nhiều hội nghị, phối hợp với nhiều cơ quan

chức năng có thẩm quyền ban hành những văn bản quan trọng nhằm tăng cường vai

trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận, các đoàn thể cũng như giám sát trực

tiếp của công dân. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật thể chế hoá

quyền giám sát của các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí, và trực tiếp của công dân.

Đó là những tiền đề quan trọng để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giám sát của

nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Tăng cường giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính

nhà nước nhằm khắc phục những yếu kém của bộ máy quản lý và yêu cầu cải cách

hành chính nhà nước. Đặc biệt là khắc phục tình trạng:

Dân chủ ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm.

Quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng sách

nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm của bộ phận không nhỏ cán bộ, công

chức nhất là ở cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp” [18,

tr.175].

Việc tăng cường giám sát của nhân dân phải đi đôi với việc xây dựng và

hoàn thiện thể chế giám sát. Pháp luật của nước ta chưa đặt ra toàn diện, cụ thể vấn

đề trách nhiệm của nhà nước cũng như sự giới hạn của quyền lực nhà nước trước

công dân và xã hội; vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức

quản lý của Nhà nước, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị còn đang trong quá

trình hoàn thiện…do đó, còn những trở ngại, thách thức cần phải được tích cực khắc

phục trong thời gian tới.

Kiểm soát quyền lực và đảm bảo hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà

nước, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, xây

dựng nền hành chính trong sạch, thông suốt, có hiệu lực, hiệu quả đòi hỏi phải hoàn

thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Điều đó phản ánh quy luật quyền lực nhà nước phải bị giới hạn bởi luật pháp và

không cao hơn chủ quyền của nhân dân. Nhà nước phải là Nhà nước có trách nhiệm

với nhân dân và nhân dân có quyền giám sát hoạt động của nhà nước. Quyền lực

nhà nước phải bị kiểm soát chặt chẽ bởi toàn bộ cơ chế giám sát để quyền lực nhà

nước không bị tha hoá, sai lệnh và thực sự thuộc về nhân dân. Nhân dân ở đây là

đông đảo quần chúng nhân dân lao động.

3.1.3. Yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan trên thế

giới. Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để

phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững”. Theo số liệu của Thường trực Uỷ ban

quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế thuộc Bộ Thương mại, đến nay nước ta đã

thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, có quan hệ thương mại với 160 nước,

thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty và tập đoàn thuộc 70 nước và vùng lãnh

thổ, tranh thủ viện trợ của 45 nước và các định chế tài chính, thương mại quốc

tế; đã gia nhập ASEAN, gia nhập APEC và năm 2006 đã hoàn thành việc gia

nhập và là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều

đó, đã và đang dẫn đến những đổi thay lớn trong hệ thống chính sách, pháp luật

cũng như cách thức, phương pháp quản lý của Nhà nước ta.

Toàn cầu hoá và mở cửa nền kinh tế gắn liền với yêu cầu khắt khe là phải

hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường mà ở Việt Nam đó là nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN. Kinh tế thị trường đòi hỏi mang tính chuẩn mực chung của các

nước trong mối quan hệ giữa Nhà nước- chủ thể quản lý với doanh nghiệp và các bộ

phận cấu thành của nền kinh tế, nơi đó, tiếng nói của doanh nghiệp, quy luật của thị

trường được thể hiện đậm nét trong các chính sách, công cụ biện pháp quản lý của

nhà nước.

Kinh tế thị trường đi liền với các nguyên tắc về sự công khai minh bạch

trong chính sách, pháp luật và trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Đó

cũng là những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức khu vực và quốc tế mà Việt Nam

đã tham gia (APEC. WTO...). Trên thực tế, những thay đổi về luật lệ thương mại sẽ

ảnh hưởng kéo theo sự thay đổi của quan hệ hành chính, dân sự... nhất là vấn đề

trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong việc mở rộng quyền khiếu kiện

của dân đối với các quyết định và hành vi hành chính của cơ quan nhà nước.

Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế trước hết là hội nhập về pháp luật, pháp

luật là phương tiện, công cụ để đảm bảo cho quá trình hội nhập và phát triển kinh tế

được phù hợp với “Luật chơi chung” của quốc tế. Điều đó đặt ra là phải tiếp tục

hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế thị trường, đẩy mạnh cải cách nền

hành chính nhà nước hơn nữa mới đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới đề ra.

Hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện những cam kết đa phương, song

phương giữa nước ta với các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển luôn

bao hàm nội dung mở rộng và thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự, đặc biệt

là quyền tham gia các tổ chức hội, hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính

phủ (NGO) và tập đoàn xuyên quốc gia của tổ chức, cá nhân. Ví dụ: Nội dung

Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ có điều, khoản quy định: “Các bên cho phép

công dân và công ty của bên kia được tiếp cận các thông tin thương mại, sở hữu

trí tuệ, dịch vụ, đầu tư... không phải là bí mật của nền kinh tế quốc dân”; “ở mức

độ có thể, mỗi bên cho phép bên kia cơ hội góp ý kiến đối với việc xây dựng luật

và các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư, thương mại, sở hữu trí

tuệ...”. Đó là xu hướng khách quan mà nhà nước ta phải tính đến trong nội dung

tăng cường giám sát của các tổ chức xã hội, cá nhân công dân đối với quyền lực

nhà nước.

Trên một khía cạnh khác, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá nước

ta thông qua chiến lược “Diễn biến hoà bình” với các thủ đoạn thâm độc, lợi

dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tự do... Hoàn thiện hệ thống pháp luật về

giám sát nói chung, về giám sát của nhân dân nói riêng đối với quyền lực nhà

nước qua kênh chính thức, được thừa nhận và quy định bằng pháp luật, nhằm

tránh sự công kích cho rằng chúng ta bảo thủ, khép kín, hạn chế sự tham gia của

công dân và công việc nhà nước, độc tôn và áp đặt quyền lực nhà nước lên đời

sống xã hội...; đồng thời qua việc tham gia giám sát rộng rãi của nhân dân trên

cơ sở quy định của luật pháp giúp cho người dân thực hiện quyền làm chủ của

mình đúng pháp luật, không sa vào hành động thái quá, dân chủ cực đoan...

3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với

cơ quan hành chính nhà nước

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân phải dựa trên các

quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

Trong điều kiện đổi mới, phát triển, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay thì việc hoàn thiện

pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước nhằm bảo

đảm các quyền chính trị của công dân nói chung, quyền giám sát đối với hoạt động

của nhà nước nói riêng là cần thiết và cấp bách. Việc thực hiện cần dựa trên những

quan điểm cơ bản mang tính nguyên tắc sau đây:

Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân phải dựa trên quan điểm về một

nhà nước dân chủ thực sự, trong đó tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của

Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

CNXH (1991) của Đảng ta khẳng định: “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và

chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát

của nhân dân”. Muốn vậy, nhất định phải có cơ chế được pháp luật quy định nhằm

tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình. Bản chất dân chủ của

chế độ chính trị là tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Trong đó có quyền tham

gia quản lý nhà nước và quyền được giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công

chức nhà nước, hoạt động giám sát đó là một trong những biện pháp bảo đảm quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mặt khác, là biện pháp có tính pháp lý hữu hiệu

nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện lạm quyền, cửa quyền, sách nhiễu, hách dịch

và các hiện tượng tiêu cực khác nảy sinh từ các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công

chức nhà nước đối với dân. Giám sát ngoài nhằm tăng cường bản chất dân chủ của

nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân còn là vì lợi ích của nhân dân. Văn

kiện Đại hội X của Đảng xác định: “xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ,

đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của

nhân dân” [18, tr.44-45].

Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế. Nguyên tắc pháp chế

chi phối toàn bộ tổ chức và hoạt động của nhà nước đòi hỏi phải có cơ chế giám sát

thích hợp để thực hiện có hiệu quả. Đó là yêu cầu khách quan của cả chủ thể và đối

tượng giám sát nhằm giữ vững bản chất của mình trong xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Muốn vậy mục tiêu hướng tới phải là: “Hoàn

thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể khả thi của các quy định trong văn bản

pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp

trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” [17, tr.126].

Cơ chế giám sát cần hoàn thiện là “bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập

thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với lãnh đạo chủ

chốt và tổ chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Kết hợp

giám sát của Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân”

[18,tr.134].

Bên cạnh việc nâng cao, mở rộng vai trò, phạm vi giám sát của các tổ

chức, thiết chế xã hội việc hoàn thiện pháp luật về giám sát trực tiếp của công

dân đối với cơ quan hành chính, nhà nước cũng đặt ra yêu cầu cấp bách, bởi dân

chủ trực tiếp có quan hệ biện chứng với dân chủ đại diện và mối quan hệ với

quyền lực nhà nước là phải song hành. Điều này cần thiết phải hoàn thiện pháp

luật về giám sát của thanh tra nhân dân, pháp luật về thực hiện dân chủ ở các loại

hình cơ sở, hoạt động của cơ quan truyền thông, báo chí đồng thời cần tập trung

làm tốt công tác rà soát hệ thống pháp luật “Bổ sung, hoàn thiện Luật Khiếu nại

và tố cáo” và tiến hành đồng bộ với việc “Xây dựng chế độ công vụ rõ ràng,

minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực... Thực hiện

đầy đủ nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ và phục vụ dân đối với các cơ

quan và công chức nhà nước” [18, tr.254].

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân nhằm nâng cao vai

trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong tham gia quản lý nhà

nước và xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân

Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

XHCN đặt ra yêu cầu phải xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát. Bởi vì, nếu

không có một cơ chế giám sát hoàn chỉnh, trong đó có giám sát của nhân dân đối

với cơ quan hành chính nhà nước thì không thể phát huy được dân chủ XHCN và

Nhà nước pháp quyền. MTTQ và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của

chính quyền nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Tăng

cường vai trò của MTTQ và các tổ chức thành viên trong tham gia giám sát và

phản biện xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng X đòi hỏi “Nhà nước

phải bổ sung pháp luật” để mở rộng phạm vi, thẩm quyền giám sát của Mặt trận

và các tổ chức thành viên, trong đó cần quy định rõ về chủ thể, quyền chủ thể

giám sát; đối tượng, trách nhiệm của đối tượng chịu giám sát; nội dung, phương

thức, trình tự, thủ tục giám sát, hiệu quả pháp lý của giám sát... Có như vậy giám

sát của Mặt trận, các tổ chức thành viên đối với cơ quan hành chính nhà nước

mới không rơi vào hình thức, kém hiệu quả. Có như vậy, quyền làm chủ của

nhân dân thông qua hoạt động giám sát mới được phát huy hiệu quả trong thực

tế. Mặt khác, phải bổ sung pháp luật vì pháp luật hiện hành quy định về giám sát

của Mặt trận và các tổ chức thành viên còn rất chung chung, tản mạn, thiếu một

cơ chế thực hiện hiệu quả...

Trên cơ sở quan điểm đó đòi hỏi “Nhà nước ban hành và bổ sung pháp luật

để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã

hội”[18,tr43]. Điều này xuất phát từ thực trạng giám sát của Mặt trận, các tổ chức

chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động... đối với quyền lực nhà

nước nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Việc bổ sung pháp luật để

nâng cao, mở rộng vai trò, phạm vi giám sát của các chủ thể mang tính nhân dân là

điều kiện để làm trong sạch hoạt động của bộ máy nhà nước đồng thời cũng nâng

cao vai trò của Mặt trận, các tổ chức xã hội trong tham gia quản lý nhà nước, xây

dựng chính quyền nhân dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay

nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân dân tộc đồng thời cũng làm sáng tỏ

mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng- Nhà nước và nhân dân, trong đó nhà nước là đại

diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường

lối chính trị của Đảng. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhịêm tham

gia giám sát đối với quyền lực nhà nước.

Đẩy nhanh việc xây dựng và triển khai Quy chế MTTQ Việt Nam giám sát

cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư trên toàn quốc. Mặt khác cần mở rộng

phạm vi, thẩm quyền giám sát độc lập của các chủ thể là thành viên Mặt trận, các tổ

chức xã hội, tập thể lao động, cơ quan báo chí và giám sát trực tiếp của công dân.

Thừa nhận một chủ thể hay một loại chủ thể có thể tham gia vào nhiều hình thức

giám sát khác nhau.

3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan

hành chính nhà nước nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, thông suốt,

hiện đại và hiệu quả

Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về giám sát của

nhân dân nói riêng, đòi hỏi phải tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ nhằm mở rộng chủ thể

giám sát mang tính nhân dân đối với quyền lực nhà nước, nhất là quyền lực về hành

chính. Bởi giữa nhà nước và công dân trong Nhà nước pháp quyền có sự bình đẳng

về quyền và nghĩa vụ, chỉ khi ngang quyền được bảo đảm bằng cơ chế pháp lý thì

nghĩa vụ, trách nhiệm mới tương ứng và phát huy trong thực tế. Do vậy muốn phát

huy vai trò giám sát của nhân dân phải hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt quy

chế dân chủ ở cơ sở. Thực hiện theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra”, phát huy sáng kiến của nhân dân, sức mạnh của toàn dân, trong đấu tranh

với các biểu hiện thoái hoá, biến chất và các hành vi tiêu cực khác trong “cơ quan

công quyền” phải gắn liền với đổi mới và tăng cường vai trò giám sát của cả hệ

thống chính trị. Phải có cơ chế buộc “lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của

cấp dưới, của đảng viên và nhân dân”, đồng thời với xây dựng “cơ chế để nhân dân

bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn” [18, tr.135].

Hiệu quả hoạt động hành chính phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức nhà nước. Do đó, bên cạnh việc tăng cường chủ thể và hoạt động giám

sát của các tổ chức, thiết chế mang tính nhân dân đối với cơ quan, cán bộ, công

chức nhà nước thì cần thiết phải: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán

bộ và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu

cải cách hành chính nhà nước” [17, tr.4]. Theo mục tiêu là “xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức có số lượng cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ

phận cán bộ, công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực thực thi công vụ, tận tuỵ

phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân” [33, tr.371].

Xây dựng một cơ chế tổ chức thực thi quyền lực nhà nước theo phương

châm: Cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước chỉ được làm những gì mà “pháp luật

cho phép” còn công dân thì được làm “tất cả những gì pháp luật không cấm”.

Ngoài phạm vi giới hạn quyền hạn được pháp luật quy định, các cơ quan, cán bộ,

công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm về tất cả những gì gây thiệt hại cho xã

hội và công dân. Vấn đề đó đặt ra là phải sớm xây dựng và ban hành Luật về công

chức, công vụ trong thời gian tới. Luật đó, cần xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề

nghiệp cho từng loại cán bộ công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen

thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, đồng thời đề cao và thực hiện có hiệu

quả giám sát của nhân dân đối với cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước nhằm ngăn

chặn đẩy lùi những tiêu cực, hạn chế ở đó.

3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan

hành chính nhà nước phải bảo đảm tính khả thi và hiệu lực, hiệu quả hoạt

động giám sát của nhân dân

Quan điểm hoàn thiện pháp luật còn được thể hiện trong Nghị quyết 48

NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Bên cạnh mục

tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công

khai minh bạch... hướng xây dựng pháp luật nêu rõ: “Thể chế hoá nguyên tắc dân chủ

trong hoạt động của cơ quan dân cử, bảo đảm để nhân dân tham gia vào hoạt động

xây dựng pháp luật, giám sát bằng nhiều hình thức việc thi hành pháp luật của các cơ

quan, công chức nhà nước” [17, tr.4]. Mặt khác, nghị quyết cũng nêu cụ thể phải

“Hoàn thiện pháp luật về… quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với

các hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức; mở rộng các hình thức dân chủ trực

tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà nước; ban hành Luật về trưng cầu

ý dân” [17, tr.7].

Điều đó cho thấy quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật của Đảng ta nhằm

giữ vững bản chất dân chủ của Nhà nước, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; phát huy dân chủ

XHCN và hoàn thiện thể chế giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước.

Giám sát của nhân dân ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng đối với quyền

lực nhà nước nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói riêng trong tiến trình xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, việc xây dựng

và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, hệ thống các văn bản quy phạm pháp

luật quy định về giám sát của nhân dân đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao, đầy đủ

và hoàn thiện hơn.

3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ

quan hành chính nhà nước

3.3.1. Hoàn thiện cơ chế tổng thể về giám sát đối với quyền lực nhà

nước, trong đó tăng cường vai trò giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành

chính nhà nước

Cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà nước là hệ thống bao gồm tổng thể

các yếu tố, hình thức, mối quan hệ, các thiết chế và phương thức, điều kiện mà

thông qua đó các chủ thể thực hiện quyền giám sát đối với tổ chức và hoạt động của

bộ máy nhà nước. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính

nhà nước nằm trong hệ thống pháp luật giám sát đối với quyền lực nhà nước và là

một bộ phận trong hệ thống cơ chế giám sát của Việt Nam. Hoàn thiện pháp luật về

giám sát của nhân dân phải đặt trong cơ chế chung đó. Mặt khác, phải tính đến cơ

chế giám sát bên trong và cơ chế bên ngoài đối với quyền lực nhà nước. Cơ chế bên

trong gồm toàn bộ sự giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Cơ

chế giám sát bên ngoài gồm giám sát của Đảng và giám sát của nhân dân. Văn kiện Đại

hội Đảng X chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và

hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền” [17, tr.45]. Việc

hoàn thiện thể chế về tổng thể cơ chế giám sát đối với hoạt động của cơ quan, cán

bộ, công chức nhà nước đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa “giám sát trong Đảng với

giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân” [17, tr.134]. Như vậy, xây dựng

và hoàn thiện tổng thể cơ chế giám sát nói chung phải bao gồm toàn bộ các bộ phận,

nếu thiếu một trong ba bộ phận cấu thành đó thì không thể có một cơ chế giám sát

quyền lực nhà nước hữu hiệu trên thực tế.

Vị trí, vai trò giám sát của nhân dân rất quan trọng, vì vậy phương hướng

chung trong thời gian tới là cùng với hoàn thiện các cơ chế giám sát khác thì phải

thúc đẩy và tăng cường giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Dưới góc độ cơ chế giám sát cần chú ý đến các nhân tố sau:

+ Động lực của cơ chế: Muốn hoạt động được thì cơ chế nào cũng phải có

động lực. Trong chế độ chính trị nước ta, động lực cơ bản để xã hội phát triển là

những lợi ích, nhu cầu chính đáng của nhân dân, đó cũng được coi là động lực của

cơ chế giám sát nói chung, giám sát của nhân dân nói riêng. Nhìn nhận đúng động

lực của cơ chế để tránh áp đặt, chủ quan, duy ý chí. Bởi vì, trong hệ thống các lợi

ích của con người thì quan trọng nhất là lợi ích kinh tế, sự gắn bó về kinh tế với

hoạt động quyền lực nhà nước là động lực để người dân tăng cường giám sát đối với

cơ quan hành chính nhà nước, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

+ Mục tiêu của cơ chế: Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân trong

tổng thể cơ chế giám sát phải hướng đến mục tiêu xây dựng và phát huy cao độ nền

dân chủ XHCN; tạo ra phương tiện pháp lý bảo vệ hữu hiệu các quyền lực tự do,

dân chủ cơ bản của công dân góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của

dân, do dân, vì dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính nhà nước.

+ Nội dung của cơ chế: Hoàn thiện cơ chế, giám sát của nhân dân đối với cơ

quan hành chính nhà nước trong tổng thể cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà

nước cần chú trọng xây dựng và hoàn thiện từng bộ phận của cơ chế cũng như mối

quan hệ mang tính tổ chức giữa các bộ phận ấy. Trước hết, đó là tổ chức và hoạt

động của các chủ thể giám sát mang tính nhân dân; các điều kiện để người dân thực

hành quyền giám sát của mình; những hình thức phối hợp giữa các chủ thể giám sát

cùng hệ thống (tính chất) với ngoài hệ thống của hệ thống giám sát, điều quan trọng

nhất khi xây dựng và hoàn thiện nội dung cơ chế giám sát là xác lập những quy định

có tính pháp lý về thẩm quyền, nội dung, hệ quả hoạt động giám sát của nhân dân

trong thực tế đối với cơ quan hành chính nhà nước…

+ Các điều kiện về chính trị, xã hội, pháp lý, kinh tế... bảo đảm để cơ chế

giám sát được thiết lập vận hành có hiệu quả. Do đó, cần bổ sung, hoàn thiện cơ chế

trách nhiệm pháp lý trong các quan hệ cụ thể giữa chủ thể và đối tượng giám sát.

Hoạt động giám sát phải được bảo đảm các điều kiện nêu trên để tiến hành theo một

quy trình khép kín, có cơ sở pháp lý cho việc xử lý đối với những trường hợp vi

phạm pháp luật nhưng không làm cản trở hoạt động bình thường đúng pháp luật của

đối tượng chịu giám sát.

Trong bối cảnh có nhiều chủ thể với tính chất khác nhau có quyền tham gia

giám sát, cần phân định rõ thẩm quyền, phạm vi của các chủ thể giám sát nhằm bảo

đảm cho các chủ thể đó phát huy được tối đa quyền năng của mình đồng thời tránh

được sự trùng lặp hoặc bỏ sót nội dung, đối tượng trong hoạt động giám sát. Hậu

quả pháp lý của hoạt động giám sát phải được xác định trên cơ sở áp dụng các chế

tài cụ thể đối với đối tượng chịu sự giám sát, nhằm đảm bảo cho các đối tượng chịu

giám sát phải báo cáo, giải trình và có biện pháp tích cực khắc phục những vấn đề

mà thông qua hoạt động chủ thể giám sát yêu cầu.

Từng bước nghiên cứu, ban hành Luật về giám sát của nhân dân trên cơ sở

kế thừa và hợp nhất các luật, pháp lệnh, nghị định hiện hành như: Luật MTTQ, Luật

Thanh Tra, Luật Khiếu nại, tố cáo, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ... nghị định về

thanh tra nhân dân, quy chế thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở. (Vấn đề này đã

nằm trong Nghị quyết về xây dựng chương trình pháp luật, pháp lệnh của Quốc hội

từ năm 1998 nhưng đến nay chưa thực hiện được). Trong luật đó cần quy định cụ

thể về thẩm quyền, lĩnh vực, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục giám sát của Mặt

trận, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao động, cơ quan báo chí

và trực tiếp của công dân. Mặt khác, cần quy định cụ thể về giới hạn quyền lực

(thẩm quyền và trách nhiệm) của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan hành

chính nhà nước; sự phối hợp giữa các loại hình giám sát, cơ quan, tổ chức giám sát;

tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn cho người dân thực hành quyền giám

sát...

3.3.2. Hoàn thiện những quy định pháp luật về giám sát của Mặt trận Tổ

quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đối với cơ quan hành chính nhà nước

Hiện nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giám sát của MTTQ và

các tổ chức chính trị-xã hội đã khá nhiều và đa dạng. Tuy nhiên, các quy định đó

phần lớn mới chỉ dừng lại ở việc giám sát đối với hoạt động cơ quan nhà nước cấp

cơ sở. Đối với cấp huyện, tỉnh, Trung ương quyền giám sát mới chỉ được quy định

theo nguyên tắc chung (nêu lên) và thực hiện qua việc hướng dẫn cấp dưới thực

hành quyền giám sát và tổng hợp ý kiến từ dưới lên; chưa có văn bản hướng dẫn để

MTTQ, các đoàn thể nhân dân từ cấp huyện trở lên thực hành quyền giám sát các cơ

quan nhà nước cùng cấp và cấp dưới. Quy định giám sát đối với cấp cơ sở cũng mới

chỉ tập trung cho một loại hình là khu dân cư (xã, phường, thị trấn) và mới chỉ làm

điểm ở 5 tỉnh, thành phố. Vì vậy, cần hoàn thiện, bổ sung những văn bản pháp luật

quy định về giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên mà trước hết cần nghiên

cứu, tiếp tục bổ sung các quy chế, quy định, cụ thể hoá thẩm quyền, nội dung, biện

pháp, cách thức bảo đảm cho quyền giám sát của Mặt trận và các tổ chức thành viên có

cơ sở pháp lý để thực hiện trên toàn quốc và ở tất cả các cấp, tương ứng với bộ máy

nhà nước, không loại trừ cấp nào, tránh tình trạng “nhẹ trên, nặng dưới”. Để khắc phục

hạn chế đó, có thể nghiên cứu thực hiện theo các phương án sau:

Thứ nhất, tập trung rà soát các quy định pháp luật về giám sát của Mặt trận,

các đoàn thể nhân dân trong các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các quy

phạm chồng chéo, trùng lặp, mâu thuẫn hoặc chung chung không cụ thể và thiếu

khả thi nhất là trong các luật về tổ chức và hoạt động của Mặt trận, các tổ chức

chính trị-xã hội như: Luật MTTQ, Luật Công đoàn, Luật Bình đẳng giới, Luật

Thanh niên...; cần chi tiết hoá phạm vi, chức năng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và

hậu quả pháp lý mà giám sát Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội thực hiện đối với

hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước trong các luật như: Luật Phòng

chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại, tố

cáo...

Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung Luật MTTQ Việt Nam, Nghị định

50/2001/NĐ-CP theo hướng chi tiết hơn điều 12 của Luật, điều 13 của Nghị định

và các điều, khoản liên quan đến hoạt động giám sát của Mặt trận, các tổ chức thành

viên. Pháp luật cần quy định cơ chế phối hợp chung giữa Mặt trận với các chủ thể

giám sát khác về thông tin, nghiệp vụ, cần tăng cường phối hợp trong hoạt động

giám sát giữa, MTTQ, các tổ chức thành viên với những cơ quan có chức năng giám

sát, thanh tra, kiểm tra của Đảng và Nhà nước.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các văn bản luật, pháp lệnh trực tiếp liên quan đến

hoạt động giám sát của các tổ chức chính trị- xã hội ban hành đã lâu và có những

bất cập, hạn chế hoặc lạc hậu, như: Luật Công đoàn, Pháp lệnh Cựu chiến binh.

Trong xây dựng nghị định của Chính Phủ hướng dẫn thi hành Luật Thanh niên,

Luật Bình đẳng giới... cần chú ý đến phạm vi, thẩm quyền của các tổ chức chính trị-

xã hội trong hoạt động giám sát đối với cơ quan nhà nước; trách nhiệm cụ thể của

các cơ quan nhà nước đối với hoạt động giám sát của các tổ chức chính trị- xã hội.

Thứ tư, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc liên hiệp và phối hợp thống nhất

hành động, tuy nhiên mối quan hệ giữa Uỷ ban MTTQ với các tổ chức thành viên

và trong quan hệ giám sát chỉ do Điều lệ Mặt trận quy định chứ chưa được quy định

bởi pháp luật. Điều này khiến việc phát huy vai trò giám sát của các tổ chức chính

trị-xã hội là thành viên của Mặt trận còn mờ nhạt, thậm chí lẫn vào trong giám sát

của cơ quan Mặt trận (không phải là sức mạnh của hệ thống), do đó, các tổ chức

thành viên ít thể hiện được vai trò giám sát. Hoàn thiện pháp luật giám sát của nhân

dân không thể không tính đến vai trò giám sát của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân

trong một hệ thống, đồng thời cần phát huy giám sát độc lập của Mặt trận cũng như

của các tổ chức thành viên. Mặt khác, khi phối hợp giám sát lại tạo ra sức mạnh

tổng hợp, hiệu quả.

Thứ năm, ở nước ta hiện có hai loại hình thanh tra là Thanh tra Nhà nước và

Thanh tra nhân dân. Vai trò của MTTQ trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra

nhân dân rất quan trọng nhưng chưa có cơ chế pháp lý và biện pháp bảo đảm cho tổ

chức hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân ở cơ sở phát hiện hiệu quả giám sát với

cơ quan nhà nước, phạm vi giám sát hẹp, ở một góc độ nào đó Ban Thanh tra nhân

dân như là cấp dưới của chính quyền: "Khi được Chủ tịch UBND xã, phường, thị

trấn giao xác minh những vụ việc nhất định, Ban Thanh tra nhân dân có trách nhiệm

thực hiện đúng nội dung, thời gian, phạm vi, nhiệm vụ được giao” [59, tr41]. Như

vậy Ban thanh tra là “cấp dưới” “phương tiện” “công cụ”, “cánh tay nối dài” của

chính quyền chứ không có tính “độc lập”, “khách quan”, “bên ngoài” để giám sát

nữa. ở đây đối tượng giám sát lại là “cấp trên” của chủ thể giám sát, do đó cần phải

được sửa đổi cho hợp lý. Mặt khác, cần tách Luật thanh tra thành Luật Thanh tra

nhà nước và Luật Thanh tra nhân dân. Khi giám sát của nhân dân được luật hoá với

những quy định cụ thể về chức năng, phạm vi, thẩm quyền, nội dung, hình thức,

phương pháp... sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng giúp Ban Thanh tra nhân dân hoạt động

hiệu quả tránh rơi vào hình thức. Chủ thể giám sát của nhân dân cần mở rộng, đối

tượng giám sát của nhân dân cần xác định chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước và

cán bộ, công chức ở đó. Luật đó, cần có cơ chế pháp lý giám sát trực tiếp của cá nhân

công dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Đặc biệt hậu quả pháp lý giám sát của

nhân dân phải trực tiếp, tương ứng với vai trò, yêu cầu nhiệm vụ, giám sát đặt ra. Ngoài

ra pháp luật cần quy định cụ thể các điều kiện bảo đảm cho Ban Thanh tra nhân dân

hoạt động hợp lý để có hiệu quả.

3.3.3. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của các tổ chức xã hội, tập thể

lao động

Đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các văn bản Luật quan nhằm củng cố cơ sở pháp

lý cho tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, trong đó, tập trung hoàn thiện và

sớm ban hành Luật về hội thay thế cho việc hiện nay chỉ áp dụng, thực hiện Nghị

định 88/2003/NĐ-CP của Chính phủ. Các quy định về hội nên có nội dung khuyến

khích và phát huy sự tham gia, giám sát Nhà nước của các hội thay vì chỉ nặng về

quản lý nhà nước đối với hội như hiện nay.

3.3.4. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của cơ quan báo chí truyền

thông đối với cơ quan hành chính nhà nước

Hoàn thiện pháp luật về báo chí, xuất bản theo hướng bảo đảm quyền tự do

báo chí, xuất bản gắn liền với trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm xã hội và đạo đức

nghề nghiệp của người làm báo, xuất bản. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước

đối với báo chí và xuất bản. Tập trung rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định về hoạt

động trong lĩnh vực thông tin, báo chí như Luật Báo chí hiện hành (1999), các quy

định về quản lý Internet... cần có chế định cụ thể, rõ ràng về quyền được thông tin

của nhân dân và bảo đảm tính công khai minh bạch của cơ quan nhà nước. Xác định

rõ loại thông tin nào phải công bố công khai, theo kênh nào, ai có trách nhiệm cung

cấp thông tin và trả lời báo chí; cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước vi phạm quy

định về cung cấp thông tin cho dân thì bị chế tài xử lý như thế nào, người đưa tin sai

sự thật gây hại cho người khác thì bị xử lý ra sao... Việc Chính phủ, các bộ, UBND

các cấp phải giải trình trước Quốc hội, HĐND các cấp thực hiện qua họp báo, đăng

tải trên hệ thống báo chí, truyền thông... phải được quy định cụ thể để trở thành nền

nếp hoạt động thường xuyên của cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác, cần bổ

sung vào Luật Báo chí hiện hành ở các điều quy định về chức năng, nhiệm vụ của

báo chí trong Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng

phí…, các hình thức, chuyên mục cũng như những vấn đề bắt buộc phải có, đưa tin,

đăng tải, trả lời... của cơ quan báo chí; quy định cơ quan báo chí cũng là đối tượng

giám sát của nhân dân bên cạnh chức năng báo chí là chủ thể đồng thời là phương

thức giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước; các quy định về

tiêu chuẩn nhà báo, tập huấn cho cán bộ, phóng viên các cơ quan báo chí về kiến

thức luật pháp, những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công dân, chuyên

môn, nghiệp vụ nghề báo để tham gia giám sát nhà nước cũng như định hướng dư

luận được đúng đắn, hiệu qủa.

3.3.5. Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát trực tiếp của công dân đối

với cơ quan hành chính nhà nước

3.3.5.1. Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo của công dân

Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị khoá IX chỉ rõ:

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm mọi

quyết định và hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có

thể bị khởi kiện trước Toà án; đổi mới thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo

và thủ tục giải quyết các vụ án hành chính theo hướng công khai, đơn

giản thuận lợi cho dân, đồng thời bảo đảm tính thông suốt, hiệu quả của

quản lý hành chính [17, tr.4].

Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo cần phải tách Luật Khiếu nại, tố cáo

thành Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo, do có sự khác nhau của khiếu nại và tố cáo cả

về bản chất, trình tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết. Sửa đổi cơ chế giải quyết

khiếu nại theo hướng: gắn trách nhiệm giải quyết khiếu nại với người đã ban hành

quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính bị khiếu nại. Thủ trưởng cơ quan

hành chính cấp trên tập trung làm nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết của

cấp dưới và xử lý các vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo, không giải quyết thay

cho cấp dưới; bổ sung quy định về giải quyết khiếu nại đã có quyết định giải quyết

cuối cùng và quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa

đúng pháp luật; bổ sung các quy định về xử lý việc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo

để kích động, lôi kéo, gây rối làm mất trật tự công cộng, cản trở hoạt động bình

thường, đúng pháp luật của cơ quan nhà nước; bổ sung quy định về xử lý các trường

hợp chây ỳ cố tình không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại tố cáo cuối

cùng và khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật đúng pháp luật. Bổ sung khái

niệm khiếu nại, tố cáo đông người và các nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục

được khiếu nại tố cáo đông người và việc giải quyết khiếu nại tố cáo đông người...

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Để pháp luật khiếu nại, tố cáo tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của

nhân dân trong tham gia giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ công chức nhà

nước, cần hoàn thiện pháp luật về hoà giải ở cơ sở gắn việc giải quyết khiếu nại tố

cáo với thực hiện quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở. Tăng cường vai trò của

Mặt trận và các tổ chức thành viên trong hoạt động hoà giải, giải quyết khiếu nại, tố

cáo đối với cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác, cần hoàn thiện chế độ trách

nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xem xét, giải quyết, thực hiện

kiến nghị của Mặt trận, các tổ chức xã hội và công dân về công tác giải quyết khiếu

nại, tố cáo.

3.3.5.2. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, nâng cao năng

lực giám sát trực tiếp của nhân dân

Hiện nay, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được ban hành theo Nghị định số

79/2003/NĐ- CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ đã được thay thế bằng Pháp lệnh

Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Tuy mới

được ban hành và có hiệu lực thực hiện từ 1/7/2007, Pháp lệnh trong tương lai phải

tiếp tục được nâng lên thành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Luật đó, được xây

dựng cần có phạm vi bao hàm các loại hình cơ sở với các hình thức giám sát khác

nhau, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của loại hình cơ sở đó, đồng thời chú trọng

đến quy định hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát qua hình thức bỏ phiếu tín

nhiệm, phát phiếu lấy ý kiến của nhân dân đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý

ở cơ sở. Tuy nhiên, cần chú ý có những công việc mang tính chuyên môn thuần tuý

hoặc cụ thể ở một lĩnh vực nhưng lại rất dễ dẫn đến cửa quyền, sách nhiễu, tham

nhũng, hối lộ, làm trái... như phụ trách công an, địa chính, tài chính... do đó quy

định chỉ lấy phiếu tín nhiệm của nhân dân đối với các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ

tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã như Pháp lệnh quy định là chưa

giám sát hết được toàn bộ hoạt động của chính quyền cơ sở đặc biệt là ở lĩnh vực

nhạy cảm. Mặt khác, đối với chức danh trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố không

nên quy định nhiều thủ tục rườm rà như viết kiểm điểm, trình bày, bỏ phiếu tín

nhiệm, phát phiếu lấy ý kiến, nghe góp ý vì chức vụ đó ít người muốn nhận và rất

miễn cưỡng. Một thực tế hiện nay là chúng ta còn thiếu những văn bản luật cụ thể

hoá về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện quyền giám sát của người dân nên

nhiều vấn đề, sự việc nhân dân biết đoàn thể xã hội biết, nhưng chưa triển khai thực

hiện được trên thực tế.

3.3.5.3. Xây dựng và ban hành Luật trưng cầu ý dân

Trưng cầu ý dân là hình thức cao nhất của dân chủ trực tiếp, là hình thức để

nhân dân trực tiếp bày tỏ ý kiến của mình đối với những vấn đề quan trọng của đất

nước, qua đó để nhà nước có sự lựa chọn, quyết định đúng đắn hợp với lòng dân.

Xây dựng và ban hành Luật Trưng cầu ý dân được xác định trong Nghị quyết

48/NQ-BCT của Bộ Chính trị khoá IX.

Trong thực tiễn pháp lý, hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của nhân dân quyết

định vấn đề lớn của đất nước được coi là trưng cầu ý dân. Vấn đề trưng cầu ý dân

được quy định trong các văn bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và sửa đổi, bổ

sung năm 2001, tuy nhiên chưa một lần được thực hiện trên thực tế vì lý do chiến

tranh và điều kiện đất nước. Mặt khác, pháp luật cũng chưa cụ thể hoá quy định của

Hiến pháp về trưng cầu ý dân do đó muốn phát huy dân chủ XHCN, quyền làm chủ

của nhân dân, dân chủ trong quản lý nhà nước và đời sống xã hội cần thiết phải mở

rộng hình thức dân chủ trực tiếp và Luật trưng cầu ý dân phải đảm bảo được yêu

cầu đó.

Trong Luật trưng cầu ý dân cần quy định rõ ràng những vấn đề nào Nhà

nước phải đưa ra để nhân dân tham gia ý kiến và biểu quyết, mức độ tham gia đến

đâu, trình tự, thủ tục, điều kiện tiến hành trưng cầu ý dân; hệ quả pháp lý của kết

quả trưng cầu ý dân...

Việc xây dựng và ban hành Luật trưng cầu ý dân là cơ sở pháp lý để người

dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình đối với những vấn đề lớn quan

trọng của đất nước bên cạnh những vấn đề trực tiếp ở cơ sở, là sự kết hợp nhuần

nhuyễn giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Nó có ý nghĩa hoàn thiện nền

dân chủ XHCN theo mục tiêu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra ở nước ta.

3.3.5.4. Hoàn thiện các quy định về công tác tiếp dân, xử lý, trả lời đơn thư

dân nguyện

Trên cơ sở Nghị định 89/CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ về ban hành Quy

chế Tổ chức tiếp công dân, đòi hỏi công tác tiếp dân, xử lý, trả lời đơn thư dân

nguyện cần phải được luật hoá. Luật hoá nội dung này cần xác định tất cả các cơ

quan nhà nước (không phải riêng cơ quan hành chính) đều phải niêm yết quy chế

và lịch tiếp công dân. Pháp luật phải quy định cụ thể chức trách, nhiệm vụ, thẩm

quyền tiếp dân và giải quyết đơn thư dân nguyện của các cơ quan nhà nước. Hướng

hoàn thiện những quy định này là tạo mọi thuận lợi để nhân dân dễ dàng đến cơ

quan nhà nước phản ánh, trình bày ý kiến của họ; tất cả các ý kiến của những người

đến trực tiếp trình bày cũng như ý kiến trong đơn thư dân nguyện, góp ý cho những

vấn đề liên quan đến lợi ích chung và tổ chức, hoạt động của Đảng, Nhà nước... đều

phải được tiếp thu, nghiên cứu, xử lý, trả lời. ít nhất cũng phải trả lời cho dân biết là

ý kiến đó đã được tiếp thu đang nghiên cứu, xử lý và trên thực tế phải nghiêm túc

thực hiện công tác nghiên cứu, xử lý. Nếu họ phản ánh, kiến nghị không đúng cũng

phải làm rõ, còn đối với người lợi dụng để vu khống, bôi nhọ chính quyền, cán bộ

cũng phải xử lý công minh. Nếu pháp luật được hoàn thiện và trên thực tế làm được

như vậy thì thông qua kênh này nhân dân sẽ có cơ hội và điều kiện thực hiện tốt hơn

quyền giám sát của mình đối với nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà

nước nói riêng.

Kết luận

Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là một loại giám

sát có tính đặc thù trong tổng thể cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà nước. Đặc

thù bởi các chủ thể giám sát là các tổ chức, cá nhân hoặc thiết chế xã hội khác bên

ngoài nhà nước, không mang tính “cưỡng chế”, “bắt buộc” như giám sát mang tính

quyền lực nhà nước, nhưng có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công

chức nhà nước. Điều đó, bắt nguồn từ bản chất nhà nước, đặc điểm, cấu trúc của hệ

thống chính trị với đặc trưng cơ bản: Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước,

tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được quy định trong Hiến pháp và

pháp luật. Giám sát của nhân dân thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa dân chủ đại diện

và dân chủ trực tiếp, là một trong những biện pháp, có tính pháp lý hữu hiệu để

kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, hoạt động của cơ quan hành chính nhà

nước nói riêng.

Luận văn với đề tài Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với

cơ quan hành chính nhà nước được xây dựng với quan điểm cung cấp những khái

niệm cơ bản về giám sát, các loại hình giám sát trong cơ chế kiểm soát quyền lực

nhà nước; phân biệt giám sát với các khái niệm gần nghĩa. Trên cơ sở phân tích quá

trình phát triển và thực trạng thực hiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với

cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam cũng như pháp luật về giám sát của các

nước trên thế giới trong thời gian qua và hiện nay. Từ đó luận giải các yêu cầu

khách quan đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan

hành chính nhà nước dựa trên các tiêu chí làm cơ sở cho hoàn hiện pháp luật trong

thời gian tới.

Mặt khác, bản chất nhà nước và đặc điểm hệ thống chính trị nước ta cùng

với yêu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế, tiến trình dân chủ hoá, tiếp tục xây dựng

và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và thực trạng

hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đòi hỏi phải tăng cường giám sát và

phản biện của MTTQ, các đoàn thể nhân dân, các thiết chế xã hội khác và giám

sát trực tiếp của công dân cũng như phải hoàn thiện pháp luật để giám sát của

nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước thực sự có hiệu lực, hiệu quả

trong thời gian tới.

Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, các thiết chế xã hội và cả hệ

thống chính trị đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4,

Hiến pháp 1992). Hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về giám sát của nhân

dân đối với cơ quan hành chính nhà nước nói riêng phải được thực hiện dựa trên các

quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễn của đời sống xã hội. Đó là những tư

tưởng, quan điểm chi phối quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,

đồng thời đó cũng là những biện pháp, phương tiện bảo đảm để pháp luật phát huy

hiệu quả trên thực tế.

Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính

nhà nước đòi hỏi phải có giải pháp toàn diện, đồng bộ, với bước đi thích hợp. Đó

không chỉ là những giải pháp, cơ chế trên cơ sở pháp luật mà còn là những giải

pháp chi tiết, bao gồm các nội dung cần bổ sung, hoàn thiện theo các tiêu chí kỹ

thuật lập pháp. Như vậy, với việc đề xuất ban hành Luật giám sát của nhân dân,

Luật trưng cầu ý dân, Luật về công chức, công vụ; sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại,

tố cáo, Luật Báo chí…; bổ sung các quy định của Luật MTTQ Việt Nam, Luật

Công đoàn; hoàn thiện pháp luật về thanh tra nhân dân, ban hành Luật Thực hiện

dân chủ ở cơ sở... và các văn bản pháp luật có liên quan... chính là những giải pháp

cơ bản để hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính

nhà nước.

Trong tiến trình dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội và hoạt động của

nhà nước, giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là một trong

những yêu cầu cấp bách mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Việc đề cao và từng

bước hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân cần chú trọng vai trò giám sát

trực tiếp của công dân, đồng thời, cần mở rộng và cụ thể hoá hơn nữa vai trò giám

sát của các tổ chức xã hội, tập thể lao động và các thiết chế xã hội khác, từng bước

chuyển giao một số hoạt động giám sát của cơ quan nhà nước cho các tổ chức xã

hội đảm nhận. Tiếp tục đề cao vai trò của cơ quan báo chí- truyền thông trong tham

gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, coi đó là phương tiện giám sát hữu

hiệu của công dân.

Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính

nhà nước sẽ góp phần hoàn thiện thể chế dân chủ, thể chế kinh tế thị trường định

hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới

sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu hợp tác và hội nhập quốc tế; hỗ trợ cho việc

phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp; đảm bảo cho hoạt động nhà nước được đúng hướng

với nền hành chính trong sạch, thông suốt, hiện đại, hiệu quả và phục vụ nhân dân.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có chất lượng, liên hệ chặt chẽ với

nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Đó cũng là ý nghĩa và

mục đích đề ra của luận văn này./.

Danh mục Tài liệu tham khảo

1. Đào Duy Anh (2004), Từ điển Hán-Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ Trung ương (2005), Hướng dẫn thực hiện

Thông báo số 159 TB/TW ngày 15/11/2004 của Ban Bí thư TW Đảng về

tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.

3. Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ Trung ương (2006), Báo cáo tình hình

thực hiện quy chế dân chủ cơ sở năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ

năm 2006, Hà Nội.

4. Ban Dân chủ- Pháp luật thuộc Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

(2006), Báo cáo tổng quan đề tài: Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam

giám sát và tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm góp phần xây dựng

chính quyền cơ sở, Hà Nội.

5. Bộ Nội vụ-Vụ Tổ chức phi Chính phủ (2006), Báo cáo công tác Hội năm 2005-

Các Hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp- Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển

Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

7. Chính phủ (2003), Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (ban hành kèm theo NĐ số

79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ), Hà Nội.

8. Chính phủ (2004), Báo cáo tình hình và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ khi

thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo đến nay, Hà Nội.

9. Chính phủ (2005), Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo từ quý II/2004

đến quý III/2005, Hà Nội.

10. Chính phủ (2006), Báo cáo tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2006, Hà

Nội.

11. Chính phủ- Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam (2006), Nghị quyết liên tịch số

05/2006/NQLT-CP-UBTWMTTQVN về việc ban hành quy chế "MTTQ Việt

Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư", Hà Nội.

12. Chu Dương (2005), Thể chế nhà nước của các quốc gia trên thế giới, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

13. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học quốc

gia, Hà Nội.

14. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

15. Nguyễn Tuấn Dũng- Đỗ Minh Hợp (2002), Từ điển quản lý xã hội, Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của

Bộ Chính trị (khoá IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. PGS-TS Nguyễn Văn Động (2006) "Các quyền Hiến định về Chính trị của công

dân Việt Nam", Nxb Tư pháp, Hà Nội.

20. PGS-TS Hà Thị Mai Hiên (2003), Cơ chế kiểm tra, giám sát trong Nhà nước

pháp quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

21. PGS-TS Vũ Văn Hiền (2004), Phát huy dân chủ ở xã, phường, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

22. TS Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ Việt Nam

hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Học viện Hành chính quốc gia (2005), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính

nhà nước, (chương trình chuyên viên chính), phần II, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

24. Học viện Hành chính quốc gia (2002), Thuật ngữ hành chính, Hà Nội.

25. PGS.TS Trần Hậu Kiêm (2004), Hoạt động thanh tra nhân dân, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

26. Nguyễn Duy Lãm (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

27. Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành (2006), Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

28. J. Rútxô, (2005), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

32. Montesquieu (2005), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội

33. Những văn bản pháp luật về quản lý hành chính nhà nước (2004), Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

34. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò của MTTQ Việt Nam đối với việc thực

hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính

trị, Hà Nội.

35. Quốc Hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội, Hà Nội

36. Quốc hội(2001), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội

37. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Toà án Nhân dân, Hà Nội

38. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Hà Nội

39. Quốc hội (2004), Luật Tổ chức HĐND và UBND, Hà Nội

40. Quốc hội (2004), Luật Khiếu nại, tố cáo, Hà Nội

41. Quốc hội (1999), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội

42. Quốc hội (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng, Hà Nội

43. Quốc hội (1999), Luật Báo chí (sửa đổi), Hà Nội

44. Quốc hội (2002), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội

45. Quy định mới về quy chế giám sát của nhân dân đối với các hoạt động đầu tư và

cán bộ công chức tại cộng đồng (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

46. GS.TS Lê Văn Quang- PGS.TS Văn Đức Thanh (2006), Nhà nước pháp quyền

XHCN và các định chế xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

47. TS Nguyễn Tác (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì

dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

48. Đặng Đình Tân (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử Việt Nam trong

thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. TS. Chu Văn Thành- TS. Lê Thanh Bình (2004), Bàn về khoa học và nghệ thuật

lãnh đạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

50. PGS- TSKH. Nguyễn Văn Thâm (2004), Tiếp cận và giải quyết công việc cho

dân trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế

giới, (sách tham khảo) (2001), Hà Nội.

52. Trần Đăng Tuấn (2006), Phản biện xã hội, Nxb Đà Nẵng

53. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980,

1992), (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa- Nxb Tư pháp

55. Từ điển Tiếng Việt (2005), Nxb Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học

56. GS-TSKH Đào Trí úc (2003), “Quan niệm về giám sát thực hiện quyền lực nhà

nước và các cơ chế thực hiện giám sát”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,

(6).

57. Uỷ ban Kiểm tra TW (2007), Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật

trong Đảng, Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội.

58 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh cán bộ công chức (sửa đổi), Hà

Nội.

59. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,

phường, thị trấn, Hà Nội.

60. Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam (2006), Sổ tay công tác Mặt trận tham gia xây

dựng chính quyền, Hà Nội.

61. Văn kiện của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính (2005), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

62.Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học xã

hội và nhân văn quốc gia) (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện

quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay (đồng chủ biên GS.TS Đào Trí úc và

PGS.TS Võ Khánh Vinh), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

63. PGS.TS Võ Khánh Vinh (2003), “Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà

nước”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6).

64. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳCNH, HĐH đất

nước (2005), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

65. Nguyễn Như ý (chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông

tin, Hà Nội.