LUẬN VĂN:

Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường

Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong

giai đoạn hiện nay

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sự nghiệp giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà

nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong hệ thống giáo dục và

đào tạo, giáo dục ở mỗi cấp học, bậc học có một vai trò nhất định, trong đó giáo dục đại

học là một khâu trọng yếu, đảm nhận sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, là

động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, nhất là trong giai đoạn công

nghiệp hoá hiện đại hoá.

Phát triển giáo dục và đào tạo phải đi trước một bước so với phát triển kinh tế. Đầu

tư cho giáo dục là đầu tư quan trọng có hiệu quả và tác động nhiều mặt và dài hạn. Để

nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng, bên cạnh

sự đổi mới về các mặt như tổ chức, cán bộ, chương trình, phương pháp đào tạo, việc đảm

bảo nguồn tài chính và xác lập cơ chế quản lý tài chính cho các trường đại học có vai trò

cực kỳ quan trọng. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, đối với các trường công lập, nhất là

các trường chuyên ngành đào tạo cán bộ cho lực lượng vũ trang, việc đa dạng hoá nguồn

tài chính và đổi mới quản lý tài chính sao cho tiết kiệm, có hiệu quả có vai trò góp phần

quyết định đến sự phát triển lâu dài của các trường.

Tuy nhiên, huy động nguồn tài chính và quản lý tài chính cho giáo dục và đào tạo là

một vấn đề khá phức tạp. Trước hết, trong giai đoạn đổi mới hiện nay, khi cơ chế quản lý

chuyển từ nhà nước bao cấp hoàn toàn sang nhà nước chỉ chịu một phần chi phí, đầu ra và

sản phẩm của hoạt động đào tạo đại học lại rất đa dạng. Hơn nữa, xét về mặt cấu trúc cơ

chế quản lý tài chính cho các trường đào tạo công lập, cả về đa dạng hoá nguồn thu tài

chính, cả về nâng cao quyền tự chủ trong quyết định chi tiêu đều không thể áp dụng một

kiểu mô hình giống nhau ở tất cả các trường.

Hiện nay, đối với các trường đào tạo ngành công an nhân dân nói chung và Trường

Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng, bên cạnh những đặc điểm chung của các

trường đại học công lập, còn có những đặc điểm riêng do tính chất đặc thù của lực lượng

vũ trang, mà nổi bật nhất đó là sự chỉ định về chỉ tiêu đào tạo và bao cấp về ngân sách còn

là chủ yếu. Tuy vậy, cùng với xu thế phát triển chung của sự nghiệp đổi mới thì cơ chế

quản lý, nguyên tắc hoạt động của Trường, trong đó có cơ chế, cũng đã, đang và có những

thay đổi theo hướng đa dạng hoá các nguồn tài chính, cơ chế chủ động, tự chủ về tài chính

tăng lên cho các trường.

Việc nghiên cứu làm rõ nguyên tắc và quy trình quản lý tài chính của các đơn vị sự

nghiệp nói chung và đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng, phân tích

thực trạng việc quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, từ đó đề xuất

các giải pháp đổi mới xây dựng được cơ chế quản lý tài chính của Trường theo hướng đa dạng

hoá các nguồn thu, chủ động, tự chủ cao trong quản lý, sử dụng tài chính là nhu cầu rất cần thiết

đối với thực tiễn hiện nay. Do vậy tôi chọn đề tài luận văn thạc sĩ là: “Hoàn thiện quản lý tài

chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Các vấn đề về chính sách giáo dục và đào tạo, trong đó có chính sách huy động và

sử dụng các nguồn tài chính, cơ chế quản lý tài chính ở các trường đại học đã được nghiên

cứu trong nhiều công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài nước. Hiện nay, vấn đề

tự chủ trong đó có tự chủ tài chính trong giáo dục và đào tạo đang được các giới khoa học

và quản lý quan tâm nghiên cứu giải quyết. Đối với Bộ Công an, vấn đề đổi mới giáo dục

và đào tạo, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý tài chính cũng được đề cập đến trong đề án

“Tăng cường, đổi mới giáo dục và đào tạo trong công an nhân dân giai đoạn 2006-2020”.

Đề án có năm nội dung, trong đó nội dung thứ năm là tăng mức đầu tư kinh phí, đảm bảo

cho công tác đào tạo trong ngành công an nhân dân. Tuy vậy những nội dung trong đề án

mới được triển khai nghiên cứu ở dạng chủ trương, nhiều vấn đề thực tế đặt ra chưa có

biện pháp cụ thể, các vấn đề rất cơ bản cũng chưa được tổng kết đánh giá và chưa có

hướng tháo gỡ. Nghị định 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự

nghiệp có thu nhằm giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp ra

đời cách đây bốn năm nhưng hiện nay các trường công an nhân dân vẫn chưa được áp

dụng, hiện tại chỉ có một số đơn vị thuộc các trường được gọi là các đơn vị sự nghiệp

có thu được áp dụng nghị định này. Gần đây Chính phủ lại ban hành tiếp Nghị định

43/2006/NĐ-CP là hoàn toàn mới, chưa được triển khai áp dụng ở các trường của ngành

công an nhân dân.

Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy hiện nay đang tồn tại song song

hai hình thức quản lý tài chính đó là đơn vị sự nghiệp không có thu và đơn vị sự nghiệp có

thu. Trên thực tế hiện nay, ngay trong quản lý tài chính sự nghiệp không có thu cũng đang

tồn tại nhiều hình thức hạch toán khác nhau như hạch toán đào tạo liên kết, đào tạo mở

rộng…nằm trong đơn vị sự nghiệp không có thu. Để làm rõ và phân định rõ ràng việc áp

dụng lọai hình đơn vị sự nghiệp nào, nhất là theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ-CP về

chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ về tổ chức bộ máy biên chế và

tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, thì việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện quản lý

tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay” là cần

thiết và cấp bách.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn có mục tiêu nghiên cứu làm rõ các vấn đề về quản lý tài chính của Trường

Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trên hai hình thức quản lý: là đơn vị sự nghiệp không có thu

và đơn vị sự nghiệp có thu. Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác quản lý tài chính của

Trường, đề tài luận chứng những giải pháp bảo đảm nguồn thu và hoàn thiện cơ chế quản lý

tài chính theo hướng tự chủ của đơn vị sự nghiệp có thu.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài chính ở Trường Đại học

Phòng cháy, Chữa cháy với tư cách vừa là đơn vị sự nghiệp có thu, vừa là đơn vị sự

nghiệp không có thu.

- Phân tích, đánh giá thực trạng việc quản lý tài chính của Trường Đại học Phòng

cháy, Chữa cháy.

- Luận chứng những giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại

học Phòng cháy, Chữa cháy.

3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ quản lý tài chính ở Trường Đại học

Phòng cháy, Chữa cháy. Nó bao gồm hai hình thức quản lý, đó là đơn vị sự nghiệp có thu

và đơn vị sự nghiệp không có thu. Quan hệ này gồm hai mảng rõ rệt: quan hệ giữa tài

chính nhà nước với nhà trường và quan hệ quản lý tài chính trong nội bộ trường.

Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung ở quan hệ quản lý tài chính của một đơn vị cụ thể,

đó là Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, những vấn đề khác có liên quan chỉ nghiên

cứu với hình thức bổ trợ làm rõ các quan hệ quản lý tài chính.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về kinh tế, các quan điểm đường lối về phát triển giáo dục, đào tạo, chính sách giáo

dục, đầu tư cho giáo dục của Nhà nước. Đề tài này mang tính ứng dụng, triển khai cơ chế

quản lý tài chính của Nhà nước đối với các ĐVSN, nên đề tài bám sát khung khổ pháp luật

về tài chính của Nhà nước trong đó đặc biệt quan trọng là các quy định của Chính phủ về

quản lý tài chính theo Nghị định 10/NĐ-CP và Nghị định 43/NĐ-CP.

Trong các nội dung cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp phổ biến như tổng

hợp và phân tích, lôgic và lịch sử. Trong phân tích đánh giá tài liệu thực tế, luận văn sử

dụng phương pháp so sánh, thống kê kinh tế…

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận

Một là, xác định việc tồn tại hai hình thức quản lý tài chính ở một đơn vị sự nghiệp,

đặc biệt đó là đơn vị sự nghiệp là một cơ sở đào tạo trong ngành công an, điều này phù

hợp với xu thế xã hội hoá giáo dục đào tạo, một đặc điểm riêng khác biệt với các trường

đào tạo khác trong ngành công an.

Hai là, các giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính nhằm mục đích tăng nguồn thu,

tăng tính tự chủ trong hoạt động quản lý tài chính, đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng về

nguồn tài chính cho đào tạo ngay tại chính Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chương, 11 tiết.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH VÀ YÊU CẦU HOÀN

THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC

PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY

1.1. ĐẶC ĐIỂM QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG

CHÁY, CHỮA CHÁY VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

1.1.1. Khái niệm, phân loại đơn vị sự nghiệp công lập

1.1.1.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam

Hoạt động sự nghiệp là những hoạt động do Nhà nước thực hiện nhằm cung cấp

những dịch vụ có lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Hoạt động sự nghiệp

không trực tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó tác động

đến lực lượng sản xuất và xã hội thông qua việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng lao

động cho nhân dân, cải thiện chất lượng cuộc sống của con người, duy trì, bảo tồn và phát

triển các giá trị văn hoá, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển khoa học…Kết quả

hoạt động sự nghiệp ảnh hưởng đến không chỉ phát triển kinh tế mà còn đến sự phát triển

xã hội và đất nước.

Hoạt động sự nghiệp có một số đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp có xu hướng cung cấp các loại hàng hoá, dịch vụ có tính

chất của hàng hoá công cộng hoặc hàng hoá khuyến dụng.

Thứ hai, hoạt động sự nghiệp không nhằm mục đích thu lợi nhuận trực tiếp.

Thứ ba, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương trình phát

triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà nước.

Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có tính ích lợi chung và lâu dài.

Hoạt động sự nghiệp trong xã hội rất đa dạng, phong phú như: Sự nghiệp theo từng

lĩnh vực như sự nghiệp kinh tế; sự nghiệp văn hoá xã hội, sự nghiệp theo đặc điểm nguồn

tài chính như hoạt động sự nghiệp có thu; sự nghiệp không có thu, sự nghiệp theo tính chất

hoạt động hoặc theo ngành nghề như sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sự nghiệp y tế, khoa học,

văn hoá…

Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò là động lực to lớn giúp dân tộc bảo tồn và phát

triển văn hoá, truyền thống, các giá trị đạo đức… Nghị quyết Đại hội toàn quốc Đảng

Công sản Việt Nam lần thứ X khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa

là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [17].

Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò động lực cải cách, đổi mới, phát triển giáo dục -

đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VII) và Nghị quyết Hội nghị Trung

ương khoá 2 (khoá VIII) của đảng ta đã khẳng định quan điểm khoa học công nghệ cùng

với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nước.

Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển khoa học xã

hội của đảng và Nhà nước ta nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, góp phần

tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm

phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội

và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá

VII) của Đảng ta khẳng định “Sức khoẻ là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội,

là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [15]. Hoạt động sự

nghiệp có vai trò quan trọng trong lĩnh vực này.

Trong nền kinh tế - xã hội, để thực hiện các hoạt động sự nghiệp cần có các tổ chức

tiến hành các hoạt động đó, các tổ chức này được gọi là đơn vị sự nghiệp (ĐVSN). Tuy

nhiên, theo ngôn ngữ quen dùng ở Việt Nam, ĐVSN thường phải là các cơ quan của Nhà

nước.

“Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà

nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004 - 2005”, ban hành theo Quyết định số

08/2004/QĐ-TTg ngày 15/01/2004 của Thủ tướng Chính phủ xác định: ĐVSN là một loại

hình đơn vị được Nhà nước ra quyết định thành lập, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất

định nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao trên lĩnh vực quản lý,

thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Đó là đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, hoạt động trong

các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hoá, thông tin, nghiên cứu khoa học, y tế,… không theo

nguyên tắc hạch toán kinh doanh [23].

ĐVSN thuộc khu vực phi lợi nhuận, sự chi tiêu của các đơn vị này, theo góc độ của

các nhà quản lý tài chính nhà nước, là chi tiêu một chiều, không thu hồi lại được vốn gốc,

mặc dù trong nghiệp vụ quản lý tài chính các đơn vị này vẫn tính khấu hao tài sản cố định.

Trong quá trình hoạt động, các ĐVSN được Nhà nước trang trải kinh phí đáp ứng nhu cầu

chi tiêu từ ngân sách nhà nước hoặc được bổ sung từ các nguồn khác.

Hoạt động của các ĐVSN là rất đa dạng, bắt nguồn từ nhu cầu phát triển kinh tế xã

hội và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế. Mục đích hoạt động của các ĐVSN là phục

vụ lợi ích cộng đồng, xã hội, đất nước. Trong quá trình cung cấp hàng hoá, dịch vụ công

cho xã hội, các ĐVSN được phép tạo lập nguồn thu nhập nhất định thông qua các khoản

thu phí và các khoản thu từ cung ứng dịch vụ do Nhà nước quy định để trang trải các

khoản chi tiêu. Quản lý tài chính ĐVSN phải tuân thủ theo những quy định pháp lý và quy

định về quản lý tài chính của Nhà nước. Tuỳ theo đặc điểm tạo lập nguồn thu của các

ĐVSN, Nhà nước áp dụng cơ chế tài chính thích hợp để các ĐVSN thực hiện tốt chức

năng, nhiệm vụ của mình. Phù hợp với xu hướng cải cách khu vực công trong bối cảnh

chuyển đổi nền kinh tế thị trường và hội nhập, Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới cơ

chế quản lý tài chính đối với các ĐVSN theo hướng nâng cao quyền tự chủ tài chính nhằm

nâng cao chất lượng dịch vụ công phục vụ xã hội.

ĐVSN có những đặc điểm khác với cơ quan hành chính. Cơ quan hành chính là

những tổ chức cung cấp trực tiếp các dịch vụ hành chính công cho người dân khi thực hiện

chức năng quản lý nhà nước của mình. Đó là các dịch vụ an ninh, quốc phòng, quản lý

hành chính nhà nước, bảo đảm pháp luật…Các dịch vụ hành chính công được cung cấp

theo luật định, với chất lượng đồng nhất cho mọi người tiêu dùng và được chi trả trực tiếp

bằng ngân sách nhà nước. Dịch vụ hành chính công là chức năng của cơ quan hành chính

nhà nước, là trách nhiệm và nghĩa vụ của bộ máy Nhà nước với nhân dân và chỉ có Nhà

nước có đủ thẩm quyền thực hiện chức năng đó. Nhà nước, với tư cách là một tổ chức

công quyền, phải có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ này cho nhân dân, còn người dân có

nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước dưới hình thức thuế để đảm bảo phần tài chính cho các

dịch vụ này. Như vậy, quan hệ trao đổi các dịch vụ hành chính công không phản ánh quan

hệ thị trường, mà phản ánh quan hệ nghĩa vụ của Nhà nước và phương tiện thực hiện nghĩa

vụ do xã hội công dân cung cấp. Người sử dụng dịch vụ có thể trả một phần hoặc không

phải trả tiền cho việc sử dụng dịch vụ đó, nhưng phải đóng thuế để chi trả cho chúng.

Chính vì vậy cơ quan hành chính chỉ được tự chủ tài chính trong phần kinh phí ngân sách

nhà nước bao cấp (cơ chế khoán chi), không được tự do mở rộng dịch vụ và nguồn thu.

Dịch vụ và nguồn thu là cố định theo luật. Trong khi đó, khác với dịch vụ hành chính, dịch

vụ của ĐVSN cung ứng có thể cạnh tranh với khu vực tư nhân và cung ứng theo nhu cầu

nên các đơn vị này được phép khai thác và mở rộng nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp

của mình. Đặc điểm khác biệt này cho phép ĐVSN có thể hoạt động tự chủ tài chính.

ĐVSN có những điểm khác với loại hình doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị

trường, các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán kinh doanh, hướng tới mục

tiêu tối đa hoá lợi nhuận bằng cách tự bù đắp chi phí và có lãi. Doanh nghiệp phải hoạt

động theo các quy luật thị trường. ĐVSN không hoàn toàn theo cơ chế thị trường và không

coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mình. Các ĐVSN được xếp vào khu vực phi lợi

nhuận.

ĐVSN tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang tính phục vụ chính trị - xã hội,

vừa mang tính hàng hoá đòi hỏi phải bù đắp chi phí. Với chức năng phục vụ xã hội, sản

phẩm của hoạt động sự nghiệp không thể đo bằng giá trị tiền tệ hữu hình. Những đơn vị

tạo ra sản phẩm đó không thể và càng không hạch toán được lỗ lãi đơn thuần bởi sản phẩm

của nó thuộc chức năng phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Mặt khác, mỗi sản phẩm này

đều mang trong nó giá trị đã hao phí để tạo ra nó. Để tái sản xuất giản đơn, các ĐVSN phải

thu lại từ ngân sách nhà nước và từ chi trả của người hưởng thụ.

Hiệu quả hoạt động của ĐVSN không đơn thuần đo đếm bằng tiền, mà thường được

tính bằng các giá trị phi tiền tệ. Chính vì thế, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các

ĐVSN thường khó khăn.

1.1.1.2. Phân loại các loại hình đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam

Có rất nhiều tiêu thức để phân loại ĐVSN.

Thứ nhất, căn cứ vào cấp độ quản lý hành chính, ĐVSN được phân loại thành:

- ĐVSN Trung ương là những ĐVSN gồm các lĩnh vực giáo dục công lập do Bộ

Giáo dục – Đào tạo, các Bộ, ngành ở trung ương quản lý, các đơn vị sự nghiệp trong các

lĩnh vực khác như y tế, văn hoá, thể dục - thể thao…

- ĐVSN địa phương gồm các ĐVSN do chính quyền địa phương thành lập và quản

lý.

Thứ hai, căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp cụ thể phân loại ĐVSN

gồm:

- ĐVSN giáo dục, đào tạo.

- ĐVSN văn hoá, thông tin.

- ĐVSN thể dục, thể thao

- ĐVSN phát thanh, truyền hình

- ĐVSN y tế

- ĐVSN khoa học công nghệ, môi trường.

- ĐVSN kinh tế (quản lý sửa chữa đê điều, trạm trại…)

- ĐVSN khác.

Thứ ba, căn cứ nguồn thu thì ĐVSN được chia thành hai loại:

- ĐVSN không có thu: là đơn vị được Nhà nước cấp toàn bộ kinh phí để đảm bảo

hoạt động của đơn vị và kinh phí được cấp không hoàn lại trực tiếp. Tiêu biểu cho ĐVSN

loại này là các học viện, trường học của ngành công an, quân đội.

- ĐVSN có thu, loại này gồm hai nhóm như sau:

+ ĐVSN có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên: Là các đơn vị

có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ổn định, bảo đảm được toàn bộ chi phí hoạt động

thường xuyên, ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên

của đơn vị.

+ ĐVSN có thu tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động thường xuyên: Là các đơn

vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp nhưng chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động

thường xuyên, ngân sách nhà nước phải cấp một phần chi phí cho hoạt động thường xuyên

của đơn vị.

1.1.2. Đặc điểm quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là một đơn vị đặc biệt. Trường là cơ sở đào

tạo chuyên ngành thuộc Bộ Công an thực hiện nhiệm vụ đào tạo theo chỉ tiêu phân bổ và

được bảo đảm nguồn tài chính theo chế độ bao cấp. Mặt khác, Trường có quyền thực hiện

một số dịch vụ đào tạo ngoài nhiệm vụ chỉ tiêu Nhà nước giao phục vụ nhu cầu xã hội. Do

vậy, xét theo các tiêu chí phân loại ĐVSN, Trường áp dụng đồng thời song song hai loại

hình quản lý, đó là: ĐVSN không có thu và ĐVSN có thu (tự đảm bảo toàn bộ kinh phí

hoạt động thường xuyên).

1.1.2.1. Đơn vị sự nghiệp không có thu

Với bộ máy tổ chức hiện nay của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy gồm 12

đơn vị, trong đó 11 đơn vị là ĐVSN không có thu. Đó là: các bộ môn, phòng quản lý.

Những đơn vị này thực hiện các chức năng của đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị này thực hiện

nhiệm vụ được giao theo chỉ tiêu hàng năm theo kế hoạch, bên cạnh đó thực hiện những

nhiệm vụ đột xuất cấp trên giao. Dưới góc độ quản lý tài chính thì những đơn vị này chủ

yếu là hoạt động chi tiêu tài chính, đó là sự chi tiêu một chiều, không thu hồi được vốn và

nguồn thu ở các đơn vị này chỉ có nguồn NSNN.

Đối với những đơn vị này, mọi hoạt động tài chính đều do Phòng Hậu cần của Trường

thực hiện, các đơn vị chỉ có nhiệm vụ phối hợp cùng với Phòng Hậu cần lập kế hoạch tài

chính ( dự toán), sau đó các thủ tục đều do Phòng Hậu cần thực hiện.

1.1.2.2. Đơn vị sự nghiệp có thu

Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy và Đào tạo lái xe là

một trong 12 đơn vị trực thuộc của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy. Theo Quyết

định của Bộ trưởng Bộ Công an số 559/2000/QĐ-BCA (X13) ngày 30 tháng 6 năm 2000

về chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa

cháy và Đào tạo lái xe, trong đó quy định nhiệm vụ của Trung tâm gồm:

Một là: Nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật thuộc lĩnh vực phòng

cháy, chữa cháy phục vụ công tác giảng dạy và đào tạo, bồi dưỡng cảnh sát phòng cháy,

chữa cháy.

Hai là: Tổ chức đào tạo lái xe cho lực lượng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy theo

kế hoạch của Bộ Công an và đào tạo lái xe cho các đối tượng khác ngoài xã hội.

Ba là: Phối hợp với các phòng, bộ môn của Trường tổ chức mở các lớp huấn luyện, bồi

dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy cho lực lượng phòng cháy, chữa cháy bán chuyên

nghiệp theo sự phân công của Hiệu trưởng Trường.

Bốn là: Nghiên cứu thiết kế, lắp đặt, chuyển giao công nghệ, bảo hành, bảo trì các

thiết bị phòng cháy, chữa cháy phục vụ công tác giảng dạy, học tập và phát triển kinh tế -

xã hội.

Về cơ chế tài chính, Trung tâm là một đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ

kinh phí hoạt động. Trong quá trình hoạt động, Trung tâm được phép ký kết hợp đồng kinh

tế theo các quy định của Nhà nước và của Bộ Công an.

Như vậy, quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy phải tuân theo

cơ chế song hành: đồng thời áp dụng cơ chế ĐVSN không có thu và cơ chế ĐVSN có thu (

tự đảm bảo toàn bộ kinh phí).

1.2. MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở

ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.2.1. Mục tiêu quản lý tài chính

Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các ĐVSN liên quan trực tiếp đến hiệu quả

kinh tế - xã hội của các hoạt động sự nghiệp, đến hiệu quả sử dụng các khoản đóng góp

của nhân dân. Nếu tài chính của các ĐVSN được quản lý, giám sát, kiểm tra tốt, sẽ góp

phần hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và sử dụng

nguồn lực tài chính công, đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính

của đất nước.

Quản lý tài chính các ĐVSN còn cung cấp thông tin để Nhà nước có các biện pháp

và chính sách phù hợp trong tái cơ cấu hoạt động cung cấp dịch vụ văn hoá, giáo dục, y tế,

thể dục thể thao…trong tương quan với sự cạnh tranh của khu vực tư nhân.

Các mục tiêu quản lý tài chính ĐVSN bao gồm bốn mục tiêu cơ bản.

Một là, làm cho ĐVSN hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đỏi hỏi ngày càng

cao của xã hội về các hoạt động dịch vụ công.

Hai là, tạo động lực khuyến khích các ĐVSN tích cực, chủ động tổ chức hoạt động

hợp lý, xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động khoa học,

nâng cao chất lượng công việc nhằm sử dụng kinh phí tiết kiệm.

Ba là, nêu cao ý thức trách nhiệm, tăng cường đấu tranh chống các hiện tượng tiêu

cực, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng tài chính.

Bốn là, tạo điều kiện để người lao động trong các ĐVSN phát huy khả năng, sáng

kiến nâng cao chất lượng công tác, tăng thu nhập cho cá nhân và tập thể.

Bốn mục tiêu trên có mối quan hệ gắn kết với nhau trong một hệ thống thống nhất.

Tuy nhiên, mục tiêu ưu tiên hàng đầu là mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của các

ĐVSN.

1.2.2. Nguyên tắc quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp

Các ĐVSN quản lý tài chính dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất, nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài

chính nói chung và trong quản lý các ĐVSN nói riêng. Hiệu quả trong quản lý tài chính thể

hiện ở sự so sánh giữa kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội

với chi phí bỏ ra. Tuân thủ nguyên tắc này, khi tiến hành quản lý tài chính các ĐVSN, Nhà

nước cần quan tâm cả hiệu quả về xã hội và hiệu quả kinh tế. Mặc dù rất khó định lượng

hiệu quả xã hội, song những lợi ích đem lại về xã hội luôn được đề cập, cân nhắc thận

trọng trong quá trình quản lý tài chính công. Nhà nước phải cân đối giữa việc thực hiện các

nhiệm vụ, mục tiêu trên cơ sở lợi ích của quốc gia, của cộng đồng, những mục tiêu chính

trị quan trọng cần phải đạt được trong từng giai đoạn nhất định với định mức chi hợp lý.

Hiệu quả kinh tế là tiêu thức quan trọng để các cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền cân

nhắc khi xem xét các phương án, dự án hoạt động sự nghiệp khác nhau. Hiệu quả xã hội và

hiệu quả kinh tế là hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành một

quyết định hay một chính sách chi tiêu liên quan đến hoạt động sự nghiệp.

Thứ hai, nguyên tắc thống nhất: Là thống nhất quản lý tài chính ĐVSN bằng những

văn bản luật pháp thống nhất trong cả nước. Thống nhất quản lý chính là việc tuân theo

một khuôn khổ chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, quyết toán, xử lý

những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quản lý thu, chi tài chính ở các

ĐVSN. Nguyên tắc thống nhất vẫn phải bảo đảm độ đa dạng, mềm dẻo về thể chế để phát

huy quyền tự chủ của các ĐVSN. Thực hiện nguyên tắc quản lý này sẽ đảm bảo tính công

bằng, bình đẳng trong đối xử với các ĐVSN khác nhau, hạn chế những tiêu cực và rủi ro

trong hoạt động tài chính, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các

khoản thu, chi.

Thứ ba, nguyên tắc phân cấp: Là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính đối

với các ĐVSN thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nguyên tắc phân cấp trong quản lý tài

chính ĐVSN đảm bảo cho các nguồn lực tài chính của từng ĐVSN được quản lý tập trung

trên cơ sở phát huy sáng kiến của các bộ phận. Trên giác độ toàn quốc, các nguồn tài chính

công cũng phải được quản lý tập trung, đồng thời có phân cấp cho các cấp quản lý thống

nhất hơn.

Thứ tư, nguyên tắc công khai, minh bạch: ĐVSN là tổ chức công nên việc quản lý

tài chính các đơn vị này phải đáp ứng yêu cầu chung trong quản lý tài chính công, đó là

công khai, minh bạch trong động viên, phân phối, sử dụng các nguồn lực xã hội, nhất là

nguồn lực tài chính. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho

cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài chính công, hạn chế

những thất thoát và đảm bảo tính hợp lý trong chi tiêu của các ĐVSN, kết quả sẽ làm tăng

hiệu quả hoạt động của các ĐVSN.

1.2.3. Nội dung quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp

Quản lý tài chính ở các ĐVSN được phân chia thành hai mảng rõ rệt: quản lý các

nguồn thu và quản lý sử dụng.

1.2.3.1. Quản lý các phần thu

Tài chính của các ĐVSN hình thành từ các nguồn sau:

- Nguồn thu từ ngân sách nhà nước: đây là nguồn thu của các ĐVSN do ngân sách

nhà nước cấp theo dự toán xác định cho những nhiệm vụ, chương trình mục tiêu đã được

duyệt. Để có nguồn kinh phí ngân sách cấp, các đơn vị phải thực hiện tốt công tác lập kế

hoạch, dự toán theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các văn bản đặc thù cho từng

ngành, từng lĩnh vực, quy chế được duyệt của đơn vị.

- Nguồn thu có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (được phép để lại đơn vị từ các

nguồn thu này theo chế độ): các khoản thu từ quyên góp, quà tặng không phải nộp ngân

sách nhà nước theo chế độ.

- Nguồn thu do dân cư chi trả: là nguồn thu của các ĐVSN do người nhận dịch vụ

đóng góp. Nguồn này gồm các khoản sau:

+ Các khoản phí: Phí thực chất là giá cả hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng phải

trả cho người cung cấp khi được hưởng các hàng hoá, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo

ra. Nói cách khác, đây là khoản tiền mà người tiêu dùng phải trả trực tiếp cho người cung

cấp. Tùy tính chất và mục đích sử dụng của từng loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể mà Nhà

nước quy định mức phí ĐVSN được phép thu.

Phí thường được thu trong các lĩnh vực như: văn hoá - thông tin, giáo dục - đào tạo,

khoa học - công nghệ, y tế, giao thông - vận tải, nông nghiệp, hải quan … các loại phí này

có tên gọi như học phí, viện phí, thuỷ lợi phí, lệ phí giao thông, cầu phà…

+ Các khoản thu sự nghiệp: Thông qua các hoạt động sự nghiệp, các đơn vị ứng

dụng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ văn hoá, thông tin, khoa học, thể thao, y tế…tạo ra

nguồn thu. Thu sự nghiệp gồm các khoản thu trong các lĩnh vực sau : [14]

i) Thu từ sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Thu từ hợp đồng giảng dạy chuyên môn khoa

học kỹ thuật, thu từ kết quả hoạt động sản xuất và ứng dụng khoa học của các đơn vị trong

ngành giáo dục, đào tạo.

ii) Thu từ sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình: Thu viện phí, dịch vụ khám

chữa bệnh, thu từ bán các sản phẩm phòng, chữa bệnh như các loại vắc xin phòng bệnh…

iii) Thu từ hoạt động sự nghiệp văn hoá - thông tin: Thu qua các dịch vụ quảng cáo,

thu bán các sản phẩm văn hoá như bản tin, tạp chí, thu từ các hoạt động biểu diễn nghệ

thuật.

iv) Thu từ hoạt động sự nghiệp thể dục - thể thao: Thu tiền bán vé từ hoạt động thi

đấu, biểu diễn, thu từ hợp đồng thuê sân bãi, dụng cụ, công trình thể dục thể thao…

v) Thu từ sự nghiệp nghiên cứu khoa học: Thu từ bán các sản phẩm kết quả hoạt

động sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm, dịch vụ khoa học, thu qua các hợp đồng nghiên

cứu khoa học trong và ngoài nước.

vi) Thu từ sự nghiệp kinh tế: Thu từ dịch vụ điều tra khảo sát, quy hoạch, dịch vụ

kiến trúc, quy hoạch đô thị…

Quản lý các nguồn thu của ĐVSN phải đáp ứng năm yêu cầu sau:

- Các nguồn thu phải được đảm bảo tính quản lý toàn diện cả về hình thức, quy mô

và các yếu tố quyết định số thu. Bởi vì tất cả các hình thức, quy mô và các yếu tố ảnh

hưởng đến số thu đều quyết định số thu tài chính làm cơ sở cho mọi hoạt động của ĐVSN.

Nếu không có tính toàn diện sẽ dẫn đến thất thoát nguồn thu, khoản thu làm ảnh hưởng

đến hiệu quả quản lý tài chính và cả đến hoạt động của ĐVSN.

- Các nguồn thu phải đảm bảo tính công bằng xã hội, có nghĩa là những người có

hoàn cảnh, mức thu nhập bằng nhau phải đóng góp như nhau. Đây là yếu tố thể hiện công

bằng chung cho mọi hoạt động của Nhà nước.

- Các nguồn thu phải đảm bảo yếu tố thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính

sách, chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. ĐVSN không được tự ý đặt ra các

khoản thu cũng như mức thu.

- Các nguồn thu phải đảm bảo tính kế hoạch, thu đúng, thu đủ, tổ chức hợp lý quá

trình thu.

- Các nguồn thu phải đảm bảo tính thống nhất trong từng ĐVSN và toàn hệ

thống, điều đó là yêu cầu thích hợp với các đơn vị có nhiều

nguồn thu.

Quy trình quản lý thu thực hiện qua ba bước sau:

Bước một, xây dựng dự toán thu phải dựa vào bốn căn cứ cơ bản :

i) Nhiệm vụ chính trị, xã hội được giao cho đơn vị cũng như các chỉ tiêu cụ thể,

từng mặt hoạt động do cơ quan có thẩm quyền thông báo.

ii) Các văn bản pháp quy hiện hành do Nhà nước quy định.

iii) Số kiểm tra do các cơ quan cấp trên thông báo.

iv) Kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán thu của các năm trước và

triển vọng của các năm tiếp theo.

Bước hai, thực hiện kế hoạch thu theo dự toán: Dự toán thu là căn cứ quan trọng

trong tổ chức thực hiện thu. Trong quá trình thu, đơn vị phải thực hiện thu đúng đối tượng,

thu đủ và tuân thủ các quy định của Nhà nước để đảm bảo đủ nguồn thu.

Bước ba, quyết toán các khoản thu: Đến cuối kỳ báo cáo hàng năm các đơn vị tổng

hợp, đánh giá chấp hành dự toán thu đã được giao về kết quả thực hiện, vướng mắc tồn

đọng, rút kinh nghiệm trong việc khai thác các nguồn thu, công tác xây dựng dự toán và tổ

chức thu nộp trong thời gian tới, nộp báo cáo cho cơ quan quản lý cấp trên.

1.2.3.2. Quản lý quá trình sử dụng tài chính

Các khoản chi của ĐVSN bao gồm các nội dung sau.

- Chi cho các hoạt động thường xuyên của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được

cấp trên phê duyệt, cụ thể gồm:

+ Chi trả trực tiếp cho người lao động: Tiền lương, tiền công; các khoản phụ cấp

lương; các khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn theo quy định…

+ Chi hành chính trong đơn vị: Dịch vụ công cộng, điện thoại, công tác phí, thuê

mướn, vật tư văn phòng …

+ Chi hoạt động nghiệp vụ.

+ Chi mua sắm tài sản, sửa chữa tài sản chống xuống cấp.

+ Chi khác: tiếp khách, mua bảo hiểm phương tiện, phí giao thông…

- Chi thực hiện các đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, ngành, chi thực hiện đơn

đặt hàng của Nhà nước, chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài theo quy

định.

- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ của Nhà nước quy định.

- Chi đầu tư phát triển: chi xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, chi sửa

chữa lớn, chi thực hiện dự án đầu tư theo quy định.

- Chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp trên giao cho.

- Các khoản chi khác: đối với các đơn vị sự nghiệp có thu còn có chi cho hoạt động

sản xuất, cung ứng dịch vụ, chi nộp thuế, khấu hao tài sản.

Quản lý chi của ĐVSN phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:

- Đảm bảo đủ nguồn tài chính cần thiết để các ĐVSN hoàn thành các nhiệm vụ

được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước. Để thực hiện yêu cầu

này, đòi hỏi các đơn vị cần xác lập được thứ tự ưu tiên cho các khoản chi để bố trí kinh phí

cho phù hợp. Đây chính là yêu cầu đảm bảo nguồn tài chính cho kế hoạch dự toán chi.

- Quản lý công tác chi phải đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả: Tiết kiệm được xác

định là nguyên tắc hàng đầu của quản lý tài chính. Nguồn lực luôn có giới hạn nhưng nhu

cầu thường không có giới hạn. Do vậy đòi hỏi trong quá trình phân bổ lập kế hoạch chi

phải tính toán sao cho chi phí là thấp nhất mà đạt được kết quả cao nhất.

Đối với các hoạt động sự nghiệp, trong khi nguồn thu hạn hẹp, nhu cầu sử dụng

kinh phí ngày một tăng nhanh, do vậy càng đòi hỏi tính tiết kiệm và hiệu quả trong sử

dụng nguồn kinh phí có hạn. Để đạt được tiết kiệm và hiệu quả trong công tác chi thì yêu

cầu phải xây dựng được kế hoạch, dự toán, xây dựng định mức, phân tích đánh giá tình

hình thực tế để có biện pháp tăng cường quản lý chi trong các ĐVSN.

- Chi đúng định mức, chế độ, tiêu chuẩn.

Nội dung quản lý chi

Trong thực tiễn, các ĐVSN có nhiều biện pháp quản lý chi khác nhau, nhưng chung

nhất có một số biện pháp sau:

- Xây dựng được các định mức chi chuẩn xác. Đây vừa là cơ sở để xây dựng kế

hoạch chi sát, vừa là căn cứ để kiểm soát chi cho các ĐVSN. Như vậy, yêu cầu định mức

chi phải được xây dựng một cách khoa học, đảm bảo theo quy trình từ phân loại đối tượng;

cách thức xây dựng phải là một quá trình chặt chẽ và có cơ sở khoa học. Các định mức chi

phải đảm bảo quy định và đảm bảo phù hợp với tính đặc thù hoạt động của từng đơn vị.

Các định mức xây dựng phải có tính thực tiễn cao, đó chính là phản ánh mức độ phù hợp

của các định mức với nhu cầu kinh phí của các hoạt động. Chỉ khi định mức đạt được yêu

cầu như vậy thì định mức mới trở thành chuẩn mực cho quản lý kinh phí.

- Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các hoạt động để đảm bảo với tổng số chi có hạn

nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn thành với chất lượng cao. Để đạt được điều này phải

có phương án phân phối và sử dụng kinh phí khác nhau. Trên cơ sở đó lựa chọn phương án

tối ưu cho cả quá trình lập dự toán, phân bổ và sử dụng kinh phí.

- Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa

những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm

soát chi của các cơ quan có thẩm quyền.

- Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu

hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước, đồng thời qua công tác này

phát hiện những bất hợp lý trong chế độ, chính sách nhằm bổ sung hoàn thiện chúng.

1.2.3.3. Quy trình quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp

Quy trình quản lý tài chính bao gồm 3 bước rõ rệt.

- Lập dự toán chi:

Lập dự toán chi là khâu khởi đầu và quan trọng trong quản lý chi ngân sách nhà

nước, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của khâu chấp hành, kế toán và

quyết toán chi ngân sách nhà nước. Khi lập dự toán phải dựa trên các căn cứ sau:

+ Chủ trương của Nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động sự nghiệp trong

từng giai đoạn nhất định. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp cho việc xây dựng dự toán chi tài

chính ở ĐVSN có cái nhìn tổng quát về những mục tiêu, nhiệm vụ mà đơn vị phải hướng

tới trong năm, từ đó xác lập được các hình thức, phương pháp phân phối nguồn vốn đảm

bảo tiết kiệm và đạt hiệu quả cao.

+ Các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các chỉ tiêu có liên

quan đến việc cấp phát kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch mà cấp trên giao cho

các ĐVSN. Đây chính là việc cụ thể hoá các chủ trương của Nhà nước trong từng giai

đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch. Khi dựa trên căn cứ này để xây dựng dự toán chi

phải thẩm tra, phân tích tính đúng đắn, hiện thực, tính hiệu quả của các chỉ tiêu thuộc kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó có kiến nghị điều chỉnh lại các chỉ tiêu kế

hoạch cho phù hợp.

+ Khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên theo kỳ

kế hoạch. Muốn dự đoán được khả năng này, ĐVSN phải dựa vào cơ cấu thu ngân sách

nhà nước kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu kỳ kế hoạch, từ đó thiết lập

mức cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu cầu chi ngân sách nhà nước.

+ Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi ngân sách

nhà nước kỳ báo cáo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập dự toán.

+ Quá trình lập dự toán chi ngân sách nhà nước được tiến hành theo ba bước cơ bản

sau:

Bước một, căn cứ vào dự toán sơ bộ về thu, chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch để

xác định các định mức chi tiêu tổng hợp dự kiến ngân sách sẽ phân bổ cho mỗi đối tượng.

Trên cơ sở đó hướng dẫn các đơn vị tiến hành lập dự toán kinh phí. Bước này còn được

gọi là xác định và giao số kiểm tra từ cơ quan tài chính hoặc cơ quan chủ quản cho ĐVSN

Bước hai, dựa vào số kiểm tra và văn bản hướng dẫn lập dự toán kinh phí, các đơn

vị dự toán tiến hành lập dự toán kinh phí của mình để gửi đơn vị dự toán cấp trên hoặc cơ

quan tài chính. Tuỳ theo mức độ phân cấp về tài chính, cơ quan tài chính ở mỗi cấp có

nhiệm vụ xét duyệt, tổng hợp dự toán kinh phí các đơn vị trực thuộc để hình thành dự toán

chi ngân sách trình cơ quan tài chính cấp trên thẩm duyệt.

Bước ba, cần căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước đã được cơ quan có thẩm

quyền thông qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ chính

thức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước cho mỗi đơn vị.

- Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước:

Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước là khâu thứ hai trong chu trình quản lý

ngân sách nhà nước. Trong quá trình sử dụng tài chính theo dự toán cần dựa trên ba căn cứ

sau:

+ Định mức chi được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự toán. Đây là căn cứ mang tính

quyết định nhất trong chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước.

+ Khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu ngân sách nhà nước trong mỗi

kỳ báo cáo. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước luôn bị giới hạn bởi khả năng huy

động của các nguồn thu. Mặc dù các khoản chi thường xuyên đã được ghi trong dự toán

nhưng khi số thu không đảm bảo vẫn phải cắt giảm một phần nhu cầu chi tiêu. Đây là một

trong những giải pháp thiết lập lại sự cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước trong quá

trình chấp hành dự toán.

+ Chế độ, chính sách chi ngân sách nhà nước hiện hành. Đây là căn cứ mang tính

pháp lý cho công tác tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước, bởi lẽ tính hợp lý

của các khoản chi sẽ được xem xét dựa trên cơ sở các chính sách, chế độ Nhà nước đang

có hiệu lực thi hành. Để làm được điều đó các chính sách, chế độ phải phù hợp với thực

tiễn.

Để đạt được mục tiêu cơ bản của việc tổ chức chấp hành dự toán chi, cần áp dụng

các biện pháp đảm bảo phân phối, cấp phát và sử dụng nguồn vốn hợp lý, tiết kiệm như

sau:

Thứ nhất, xây dựng hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho các đơn vị thi hành. Việc xây

dựng hướng dẫn phải dựa trên cơ sở dự toán chi ngân sách đã được duyệt và các chế độ,

chính sách hiện hành.

Thứ hai, đối với mỗi đơn vị, mỗi loại hình hoạt động và nguồn kinh phí hoạt động

cần tổ chức các hình thức cấp phát vốn thích hợp, trên cơ sở đó cần hướng dẫn trình tự cấp

phát thống nhất trong suốt quá trình thực hiện.

Thứ ba, hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán áp dụng cho

các đơn vị, sao cho sự hình thành nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí phải được hạch toán

đúng, đủ, chính xác và kịp thời. Trên cơ sở đó đảm bảo việc quyết toán kinh phí được

nhanh, chính xác, đồng thời cung cấp các tài liệu có tính chuẩn mực cao cho các cơ quan

thẩm quyền xét duyệt.

Thứ tư, trong quá trình chấp hành dự toán chi, cơ quan tài chính cần xem xét khả năng đảm

bảo tài chính cho nhu cầu chi ngân sách nhà nước để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm đảm

bảo cân đối trong quá trình chấp hành dự toán.

Thứ năm, tuân thủ chặt chẽ quá trình kiểm tra, giám sát việc nhận và sử dụng kinh

phí tại từng đơn vị để đảm bảo đúng dự toán, định mức tiêu chuẩn của Nhà nước, góp phần

nâng cao tính hiệu quả và tiết kiệm trong quản lý chi ngân sách.

- Quyết toán chi ngân sách nhà nước:

Quyết toán chi ngân sách nhà nước là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý tài

chính. Đó là quá trình kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một

kỳ chấp hành dự toán để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán, rút ra những kinh

nghiệm và bài học cần thiết cho kỳ chấp hành dự toán tiếp theo. Do vậy, trong quá trình

quyết toán các khoản chi ngân sách phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:

+ Lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và đúng thời gian cho các cơ quan có thẩm

quyền xét duyệt theo chế độ quy định.

+ Nội dung, số liệu trong báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Trình tự

nội dung các báo cáo tài chính phải theo đúng nội dung trong dự toán được duyệt và theo

đúng mục lục ngân sách nhà nước quy định.

+ Báo cáo quyết toán của các đơn vị không được để xảy ra tình trạng quyết toán chi

lớn hơn thu.

1.3. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI

CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY

1.3.1. Chủ trương, chính sách của Nhà nước về quản lý tài chính trong các đơn

vị sự nghiệp được đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động

Trong những năm trước đây, các ĐVSN được Nhà nước đảm bảo toàn bộ chi phí

hoạt động thực hiện theo cơ chế quản lý tài chính theo chế độ kế toán hành chính sự

nghiệp.

Từ sau năm 2002 đến nay đối với đơn vị sự nghiệp có thu được áp dụng Nghị định

10/2002/NĐ-CP, đối với ĐVSN không có thu vẫn chưa có sự thay đổi về cơ chế quản lý

tài chính.

Đến nay, đối với ĐVSN không có thu cũng được quy định rõ trong Nghị định số

43/2006/NĐ-CP. Chủ trương của Chính phủ về đổi mới cơ chế tài chính cho các ĐVSN đa

dạng, cả ĐVSN có thu và ĐVSN không có thu, cụ thể:

Về nguồn tài chính: gồm hai nguồn chính đó là

- Nguồn do nhà nước cấp, gồm:

+ Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng, nhiệm vụ được

giao, được cấp trên trực tiếp giao, trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao.

+ Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn vị không

phải là tổ chức khoa học và công nghệ)

+ Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức.

+ Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.

+ Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao.

+ Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy

định.

+ Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản

cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt

trong phạm vi dự toán hàng năm.

+ Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài được cấp có thẩm

quyền phê duyệt.

+ Kinh phí khác.

- Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp:

+ Thu từ phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy định của

Nhà nước.

+ Thu từ hoạt động dịch vụ.

+ Thu khác

- Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, quà tặng, cho theo quy định của pháp luật.

- Nguồn khác theo quy định của pháp luật.

Về nội dung chi bao gồm

- Chi thường xuyên.

+ Chi theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao.

+ Chi hoạt động phục vụ cho thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí.

+ Chi cho các hoạt động dịch vụ.

- Chi không thường xuyên:

+ Chi thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ.

+ Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ và viên chức.

+ Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia.

+ Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài.

+ Chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao.

+ Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định.

+ Chi đầu tư xây dựng cơ bản, sửa chữa lớn tài sản thực hiện các dự án đã được phê

duyệt.

+ Chi thực hiện các dự án từ nguồn viện trợ ngoài nước.

+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.

Về chế độ tự chủ về nguồn thu, mức thu:

- ĐVSN được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thu phí, lệ phí phải thực hiện

thu đúng, thu đủ theo mức thu, đối tượng thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy

định.

- Đối với những hoạt động dịch vụ theo hợp đồng với các tổ chức và cá nhân trong

và ngoài nước, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể, theo nguyên tắc bảo

đảm đủ bù đắp chi phí và có tích luỹ.

Về chế độ tự chủ về sử dụng nguồn tài chính

Căn cứ vào mức giao và khả năng tài chính, đối với các khoản chi không thường

xuyên ngoài quy định, Thủ trưởng đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi

hoạt động nghiệp vụ, nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm

quyền quy định.

- Căn cứ vào tính chất công việc, Thủ trưởng đơn vị được quyết định phương thức

khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc.

- Quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo

quy định của pháp luật.

Về tiền lương, tiền công và thu nhập

Ngoài tiền lương theo cấp bậc và chức vụ do Nhà nước quy định, căn cứ vào kết

quả tài chính, đơn vị được xác định mức chi trả thu nhập trong năm của đơn vị tối đa

không quá 2 lần quỹ lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định.

1.3.2. Chủ trương, chính sách của Nhà nước về quản lý tài chính trong các đơn

vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp có thu

tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động

Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế và thực hiện cải cách hành

chính, trong lĩnh vực tài chính cũng có nhiều giải pháp nhằm lành mạnh hoá nền tài chính

quốc gia, nâng cao chất lượng quản lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực của đất

nước, thực thi các biện pháp đảm bảo xã hội. Trong đó, phải kể đến Nghị định 10 với

những chuyển biến mạnh mẽ, từng bước tạo điều kiện cho các đơn vị nâng cao chất lượng

và hiệu quả hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ và cải thiện đời sống cho cán bộ, viên

chức trên cơ sở sử dụng kinh phí ngân sách một cách tiết kiệm, hiệu quả.

Nghị định 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài chính áp dụng cho ĐVSN có thu nhằm

giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ĐVSN là một bước quan trọng nhằm đổi

mới cơ chế quản lý, giao quyền tự chủ thực sự cho các ĐVSN trong việc tổ chức nhiệm vụ,

sử dụng lao động, tăng cường huy động và quản lý thống nhất tài chính nhằm mở rộng và

nâng cao chất lượng các hoạt động sự nghiệp, khuyến khích và tạo điều kiện cho các

ĐVSN đảm bảo trang trải chi phí hoạt động, nâng cao thu nhập và hiệu quả công tác cho

đội ngũ cán bộ, viên chức.

Về phạm vi, đối tượng áp dụng nghị định 10/2002/NĐ-CP chỉ áp dụng cho ĐVSN

có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên và ĐVSN có thu tự đảm bảo

một phần chi phí hoạt động thường xuyên.

Về quyền hạn, trách nhiệm của ĐVSN có thu:

Quyền hạn:

- Được tự chủ tài chính, đối với phần kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp

và nguồn thu sự nghiệp được để lại đơn vị sử dụng, đơn vị được chủ động bố trí kinh phí

để thực hiện nhiệm vụ, được điều chỉnh dự toán thu, chi trong phạm vi nguồn tài chính

được sử dụng cho phù hợp với tình hình thực tế, đối với ĐVSN có thu đảm bảo một phần

chi phí được ổn định kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp theo định kỳ 3 năm.

- Thủ trưởng đơn vị được quyết định định mức chi quản lý, chi nghiệp vụ cao hơn

mức chi do Nhà nước quy định tuỳ theo nội dung và hiệu quả công việc trong phạm vi

nguồn tài chính được sử dụng. Kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động và các

khoản thu sự nghiệp nếu chưa chi hết trong năm thì được chuyển sang năm sau để tiếp tục

sử dụng. Riêng vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt

động sự nghiệp vẫn thực hiện theo dự án và kế hoạch hàng năm.

- Được vay vốn tín dụng để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp,

tổ chức sản xuất cung ứng dịch vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ.

- Được chủ động sử dụng biên chế được giao, sắp xếp và quản lý lao động phù hợp

với khối lượng công việc và khả năng tài chính của đơn vị.

Trách nhiệm:

- Đơn vị sự nghiệp hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ có thu chịu trách nhiệm

thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.

- Tài sản cố định sử dụng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ phải thực hiện trích khấu

hao như các doanh nghiệp nhà nước, tiền khấu hao tài sản cố định và thu do thanh lý tài

sản thuộc nguồn ngân sách được để lại đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang

thiết bị.

- Mức thu lệ phí, phí và tỷ lệ nguồn thu được để lại đơn vị sử dụng phải thực hiện

theo quy định của Nhà nước. Riêng thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, Thủ

trưởng đơn vị được quyền quyết định mức thu theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và

có tích luỹ.

Về tiền lương và phân phối thu nhập:

- Đối với ĐVSN có thu tự đảm bảo chi phí: Hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương

tối thiểu không quá hai lần so với mức tiền lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định.

- Đối với ĐVSN bảo đảm một phần chi phí: Hệ số điều chỉnh tăng thêm mức lương

tối thiểu không quá hai lần so với mức tiền lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định.

Khi Nhà nước điều chỉnh các quy định về tiền lương, nâng mức lương tối thiểu hoặc

thay đổi định mức, chế độ, tiêu chuẩn chi ngân sách nhà nước, đơn vị sự nghiệp tự trang trải

các khoản chi tăng thêm theo chính sách chế độ mới.

- Hàng năm, sau khi trang trải toàn bộ chi phí hoạt động và thực hiện đầy đủ nghĩa

vụ với ngân sách nhà nước theo quy định, số chênh lệch giữa phần thu và phần chi tương

ứng, đơn vị được lập các quỹ: Khen thưởng, Phúc lợi và Phát triển hoạt động sự nghiệp.

Tuy mới triển khai thực hiện Nghị định 10 được 3 năm nhưng đã có tác động tích

cực, thể hiện ở các điểm sau:

Một là, các đơn vị đều tích cực khai thác, mở rộng nguồn thu. Tình hình tài chính

các ĐVSN có thu được cải thiện mà vẫn thực hiện đúng quy định chung về mức thu.

Hai là, thông tin về tài chính, nhân sự và tổ chức bộ máy của các đơn vị được cung

cấp đầy đủ và minh bạch hơn.

Ba là, chất lượng nguồn nhân lực của các đơn vị được nâng cao, thúc đẩy các đơn

vị sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả, yếu tố chất lượng trong việc

tuyển dụng cán bộ và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo được quan tâm.

Bốn là, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động sự nghiệp công, nâng

cao chất lượng và đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cho xã hội.

Năm là, việc giao quyền tự chủ cho ĐVSN có thu theo Nghị định 10 là bước quan

trọng nhằm phân biệt rõ chức năng nhiệm vụ của cơ quan, làm thay đổi phương thức quản

lý đối với ĐVSN có thu.

Tuy vậy, sau ba năm thực hiện Nghị định 10 đã bộc lộ những khó khăn bất cập cần

khắc phục:

- Mới có quy định tự chủ về tài chính đối với ĐVSN có thu trong khi phần lớn

ĐVSN không có nguồn thu chưa có cơ chế thực hiện quyền tự chủ.

- Cơ chế tự chủ này mới thu hút được các đơn vị có nguồn thu lớn, thực tế chỉ có

những đơn vị có nguồn thu lớn mới tích cực thực hiện cơ chế này.

- Mới quy định tự chủ về tài chính, còn tự chủ về nhiệm vụ, về tổ chức bộ máy chưa

được quy định nên chưa phát huy được quyền tự chủ thực sự của các đơn vị.

Nhằm khắc phục những hạn chế của Nghị định 10, ngày 25 tháng 4 năm 2006

Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ về tổ chức

bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, đó là Nghị định số

43/2006/NĐ-CP.

Nghị định số 43/2006/NĐ-CP có bốn mục tiêu, là:

- Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho ĐVSN trong việc tổ chức công việc,

sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được

giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội;

tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động.

- Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động

sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng bước giảm

dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.

- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với ĐVSN, Nhà nước vẫn quan

tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát triển; bảo đảm cho các đối tượng chính

sách xã hội; đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được

cung cấp dịch vụ theo quy định ngày càng tốt hơn.

- Phân biệt rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với ĐVSN với cơ chế quản lý nhà nước

đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Việc thực hiện quyền tự chủ theo Nghị định 43/CP dựa trên bốn nguyên tắc sau:

Một là, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với hoạt động sản xuất hàng hoá, cung

cấp dịch vụ phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, phù hợp với khả năng

chuyên môn và tài chính của đơn vị.

Hai là, thực hiện công khai, dân chủ theo quy định của pháp luật.

Ba là, thực hiện quyền tự chủ phải gắn với tự chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý

cấp trên trực tiếp và trước pháp luật về những quyết định của mình; đồng thời chịu sự kiểm

tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Bốn là, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo

quy định của pháp luật.

Điểm mới của Nghị định số 43 là quy định rõ, cụ thể tất cả các loại hình ĐVSN

gồm: ĐVSN có thu tự đảm bảo chi phí, ĐVSN đảm bảo một phần chi phí và ĐVSN không

có thu.

Việc thực hiện Nghị định 43 còn rất mới mẻ, đòi hỏi các ĐVSN phải năng động, sáng

tạo, tự chủ, trong đó có nội dung phải đổi mới quản lý tài chính.

1.3.3. Yêu cầu hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy,

Chữa cháy

Theo yêu cầu về đổi mới cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2010 giao quyền

tự chủ tài chính được coi là một nội dung quan trọng.

Thực hiện chủ trương đổi mới quản lý các cơ sở giáo dục, đào tạo, đối với Trường

Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, thực hiện quyết định số 203/1999/QĐ-TTg, Trường Đại

học Phòng cháy, Chữa cháy, quy định chức năng nhiệm vụ của Trường Đại học Phòng

cháy, Chữa cháy, xác định rõ chức năng nhiệm vụ của Trường là đào tạo cán bộ phòng

cháy, chữa cháy phục vụ cho nhu cầu của xã hội.

Lĩnh vực phòng cháy và chữa cháy là một lĩnh vực đặc biệt, về mặt quản lý nhà

nước là lĩnh vực có điều kiện. Ngoài ra, đây là lĩnh vực đòi hỏi phát triển khoa học, kỹ

thuật và phải nâng cao trình độ, tăng cường hợp tác quốc tế. Việc đổi mới đào tạo trong

giai đoạn hiện nay đòi hỏi quản lý trong lĩnh vực tài chính phải được đổi mới để đáp ứng

nhu cầu hợp tác cũng như yêu cầu quản lý và sử dụng tài chính.

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là ĐVSN có cơ cấu tổ chức gồm cả ĐVSN

có thu và ĐVSN không có thu, do vậy phải hoàn thiện cơ chế quản lý cho đúng quy định của

Nhà nước và đảm bảo tính tự chủ, phát huy được thế mạnh của đơn vị, mặt khác cung cấp các

dịch vụ đào tạo và dịch vụ khác theo chức năng, nhiệm vụ của Trường.

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC

PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY

2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY

2.1.1. Quá trình phát triển

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy ra đời và phát triển gắn liền với sự nghiệp

cách mạng vẻ vang của Đảng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự và phát triển kinh tế xã hội. Quá

trình đó được đánh dấu bởi mốc phát triển sau:

Bắt đầu trong những năm 1960 - 1963, Trường Công an Trung ương (nay là Học

viện An ninh) đã tổ chức đào tạo được 3 khoá cảnh sát phòng cháy, chữa cháy. Đây là

những khoá học đầu tiên về nghịêp vụ phòng cháy, chữa cháy sau ngày giải phóng ở nước

ta.

Tháng 9 năm 1963, Bộ Công an ra Quyết định số 1226/CA-QĐ thành lập “Tổ giáo dục

phòng cháy, chữa cháy” trực thuộc Khoa Cảnh sát, Trường Công an Trung ương. Ngày

30/12/1965 Bộ Công an ra Quyết định số 155A/CA-QĐ thành lập “Phân hiệu Cảnh sát nhân

dân”. Tổ chức, bộ máy của Phân hiệu có 4 khoa và 4 tổ, trong đó có “Khoa Cảnh sát Phòng

cháy, Chữa cháy”. Ngày 20/9/1971 Bộ Công an ra Quyết định số 1099/QĐ-CA thành lập

“Phân hiệu Cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy” trực thuộc Trường Cảnh sát nhân dân.

Ngày 2/9/1976 Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra Quyết định số 5062/NV-QĐ về việc tách

Phân hiệu Cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy ra khỏi Trường Cảnh sát nhân dân và thành lập

“ Trường Hạ sĩ quan cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy”. Sau khi thực hiện nhiệm vụ đào

tạo được 7 khoá trung cấp phòng cháy, chữa cháy, đến 19/6/1984 Hội đồng Bộ trưởng ra

Quyết định số 90/QĐ-HĐBT thành lập Trường Cao đẳng Phòng cháy, Chữa cháy. Thực

hiện nhiệm vụ đào tạo theo nhu cầu mới kể từ khi thành lập trường đến năm 1999, Trường

đã đào tạo 23 khoá trung học và 15 khoá cao đẳng. Đến ngày 14/10/1999 Thủ tướng Chính

phủ đã ký Quyết định số 203/1999/QĐ-TTg “ Về việc thành lập Trường Đại học Phòng

cháy, Chữa cháy” trực thuộc Bộ Công an. Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy có

nhiệm vụ: đào tạo cán bộ phòng cháy, chữa cháy có trình độ đại học và các trình độ thấp

hơn; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về phòng cháy, chữa cháy; nghiên cứu khoa học về

phòng cháy, chữa cháy phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Để hoàn thiện chức

năng nhiệm vụ của Trường, ngày 25/2/2000 Bộ trưởng Bộ Công an ký Quyết định số

171/2000/QĐ-BCA(X13) về “ Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Trường Đại

học Phòng cháy, Chữa cháy”. Quy mô đào tạo 1000 học viên. Tổ chức bộ máy của nhà

trường có 12 đơn vị (6 bộ môn, 5 phòng và 1 trung tâm).

Như vậy, lịch sử phát triển của Trường phải tình từ năm 1976. Trong 30 năm (1976

- 2006), nhà trường đã và đang đào tạo gồm: 30 khoá trung học (2510 học viên); 15 khoá

cao đẳng (975 học viên); 6 khoá đại học chính quy, 6 khoá đại học tại chức (1160 học

viên). Ngoài ra, Trường còn đào tạo cho hai nước Lào và Căm pu chia với tổng số 102

học viên. Trường còn tổ chức đào tạo các lớp nghiệp vụ ngắn hạn trình độ thấp hơn trung

học cho hàng nghìn học viên các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội trong cả nước.

Đến nay, đội ngũ cán bộ, giáo viên của trường đã lớn mạnh cả về số lượng và chất

lượng. Tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên là 182 đồng chí, trong đó có 9 tiến sĩ, 22

thạc sĩ, 103 đại học và cao đẳng. Trường đã thực hiện biên soạn đầy đủ giáo trình phục vụ

cho đào tạo đại học, thực hiện nghiên cứu thành công nhiều đề tài cấp bộ, cấp cơ sở. Cơ sở

vật chất của trường hiện nay đã được xây dựng vào loại hoàn thiện nhất trong khối các

trường công an nhân dân thuộc Bộ Công an.

Về cơ sở hạ tầng phục vụ cho dạy và học, Trường đã xây dựng được: 8.896m2 phòng học, 2.120 m2 phòng thí nghiệm, 840 m2 thư viện, 3.850 m2 hội trường, nhà hành chính, nhà hiệu bộ, 6.103 m2 nhà ở cho sinh viên, 1.243 m2 nhà ăn , 380 m2 bệnh xá, 1.988 m2 khu thể thao.

2.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục

và Đào tạo về giáo dục đào tạo, được hưởng các chính sách, chế độ do Nhà nước ban hành

áp dụng cho hệ thống các trường đại học.

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy có chức năng đào tạo cán bộ phòng cháy,

chữa cháy trình độ đại học và các trình độ thấp hơn; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về

phòng cháy, chữa cháy; nghiên cứu khoa học về phòng cháy, chữa cháy phục vụ cho yêu

cầu phát triển kinh tế xã hội.

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy có những nhiệm vụ:

Một là, căn cứ vào đường lối giáo dục của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những

quy định của Chính phủ, của Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổ chức đào tạo theo

chỉ tiêu, kế hoạch của Bộ Công an.

Hai là, đào tạo, đào tạo lại cán bộ có trình độ đại học và các trình độ thấp hơn về

phòng cháy, chữa cháy; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng làm công tác

phòng cháy, chữa cháy trong ngành Công an, các ngành, đoàn thể và tổ chức kinh tế xã hội

theo quy chế văn bằng của Nhà nước.

Ba là, nghiên cứu đề xuất hoặc phối hợp với cục Cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy

và các đơn vị liên quan đề xuất Bộ Trưởng Bộ Công an ban hành mục tiêu, chương trình

đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành phòng cháy, chữa cháy cho từng bậc học, hệ học và tổ

chức thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng đã được Bộ ban hành.

Bốn là, trực tiếp biên soạn và phối hợp với Cục Cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy,

các đơn vị có liên quan biên soạn, nghiệm thu và đưa vào sử dụng các loại giáo trình, tài

liệu phục vụ chuyên ngành đào tạo và huấn luyện.

Năm là, thực hiện nhiệm vụ tuyển sinh, chiêu sinh, đào tạo và cấp bằng, chứng chỉ,

điều động học viên ra trường theo chỉ tiêu, kế hoạch của Bộ Công an. Tổ chức thực hiện

các chế độ, quy định của Bộ Công an về chế độ chính sách đối với cán bộ, giáo viên, học

viên.

Sáu là, tổ chức thực hiện các chế độ, điều lệnh, điều lệ quy định của Bộ Công an,

quản lý và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học

viên theo phân cấp của Bộ trưởng.

Bẩy là, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội

ngũ cán bộ, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục theo tiêu chuẩn chức danh đã được Bộ quy

định. Nghiên cứu đề xuất Bộ trưởng quyết định công nhận giáo viên kiêm nhiệm của

trường, mời các chuyên gia, cán bộ khoa học ngoài ngành tham gia giảng dạy, nghiên cứu

khoa học theo nhiệm vụ của Trường; cử giáo viên của Trường tham gia giảng dạy các môn

học về phòng cháy chữa cháy cho các trường trong và ngoài ngành Công an.

Tám là, chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu các đề tài khoa

học giáo dục, khoa học kỹ thuật, nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật về

phòng cháy, chữa cháy vào công tác giảng dạy, học tập. Tham gia chữa cháy khi Bộ Công

an trưng dụng.

Chín là, quản lý tư liệu giáo khoa và tổ chức thông tin khoa học nghiệp vụ phòng

cháy, chữa cháy phục vụ công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học về phòng cháy,

chữa cháy.

Mười là, thực hiện các mặt công tác hậu cần, quản lý cơ sở vật chất, thiết bị kỹ

thuật, đồ dùng dạy học phục vụ công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và sinh

hoạt của cán bộ, giáo viên, học viên.

Mười một là, thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và

nghiên cứu khoa học công nghệ về phòng cháy, chữa cháy theo quy định của Bộ trưởng.

Mười hai là, thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục Xây dựng lực lượng Công

an nhân dân và Bộ trưởng Bộ Công an giao.

2.1.3. Mô hình, bộ máy quản lý tài chính của Trường Đại học Phòng cháy,

Chữa cháy

Mô hình, tổ chức bộ máy hiện nay của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy gồm

Ban Giám hiệu và 12 đơn vị Bộ môn, Phòng, Trung tâm cụ thể gồm:

1. Bộ môn Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh

2. Bộ Môn Khoa học cơ bản và ngoại ngữ

3. Bộ môn Pháp luật, nghiệp cụ công an, quân sự, võ thuật, thể dục, thể thao

4. Bộ môn Tự động và phương tiện kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy

5. Bộ môn Phòng cháy

6. Bộ môn Chữa cháy

7. Phòng Đào tạo

8. Phòng Quản lý nghiên cứu khoa học, tư liệu giáo khoa và thư viện

9. Phòng Quản lý học viên

10. Phòng Xây dựng lực lượng

11. Phòng Hậu cần

12. Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy và Đào tạo lái

xe chữa cháy

Mỗi bộ môn, phòng, trung tâm do Chủ nhiệm bộ môn, Trưởng phòng, Giám đốc

trung tâm phụ trách, có từ 1 đến 2 Phó chủ nhiệm bộ môn, Phó trưởng phòng, Phó giám

đốc trung tâm giúp việc.

Mô hình, bộ máy quản lý tài chính của trường Đại học phòng cháy, chữa cháy được

sắp xếp như sau:

Ban giám hiệu

Phó hiệu trưởng Phụ trách hậu cần

Phòng hậu cần

Trung tâm ứng dụng KHKT PCCC

Tổ kế toán

Tổ kế toán

Các bộ môn, phòng

Chú thích: Quan hệ theo bộ máy quản lý hành chính

Quan hệ theo chế độ quản lý tài chính

Bộ máy cán bộ làm công tác kế toán – tài chính hiện nay có 9 người, trong đó có 6

người trình độ đại học, 02 trung cấp và 1 sơ cấp.

2.2. THỰC TRẠNG NGUỒN TÀI CHÍNH CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC

PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY

2.2.1. Quản lý quá trình huy động các nguồn tài chính

2.2.2.1. Nguồn ngân sách nhà nước

Bộ Công an là đơn vị quản lý và cung cấp nguồn tài chính chủ yếu cho các trường

thuộc Bộ Công an. Theo thống kê tại bảng 2.1 cho thấy, nguồn tài chính do ngân sách nhà

nước cấp cho Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong ba năm ( 2003 - 2005) như

sau:

Bảng 2.1: Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho Trường Đại học Phòng cháy,

Chữa cháy 3 năm 2003-2005

Đơn vị tính: triệu đồng

Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005

TT Nội dung Số Số % % Số tiền % tiền tiền

Tổng các nguồn NSNN 24.327 100,00 20.780 100,00 21.619 100,00

1 NSNN cấp cho chi 11.696 48,07 11.505 55,40 15.378 71,1

lương, chi hành chính. 0

2 NSNN cấp cho đào tạo 2.272 9,33 2.471 11,90 2.009 9,30

3 NSNN cấp cho mua 859 3,53 654 3,15 940 4,35

sắm thiết bị dạy học

4 NSNN cấp cho XDCB 9.500 39,05 6.150 29,50 3.292 15,2

0

Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính năm 2003, 2004, 2005 của Trường Đại học

Phòng cháy, Chữa cháy

Nguồn thu chủ yếu của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là do nguồn NSNN cấp,

nguồn này bao gồm chi thường xuyên, chi không thường xuyên như: XDCB, chi cho mua sắm

trang thiết bị dạy học.

Qua nghiên cứu thực tế tại Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy và một số

trường trong Bộ Công an cho thấy việc phân bổ NSNN cho các trường còn chưa thống

nhất, bất hợp lý, cụ thế:

Thứ nhất, việc phân bổ NSNN cho các trường công an hiện nay chủ yếu dựa trên

phân bổ theo đầu học sinh. Như vậy trường nào có chỉ tiêu đào tạo hàng năm lớn hơn thì

được phân bổ kinh phí lớn hơn, trường nào có chỉ tiêu ít thì được phân bổ ít hơn, ngoài

khoản chi lương, học bổng, các khoản chi hành chính khác cũng phân chia theo tỷ lệ trên.

Cách phân chia như trên có ưu điểm là tạo sự công bằng tương đối để các trường có thể

hoàn thành được những nhiệm vụ hàng năm do Bộ Công an giao. Tuy vậy, việc phân chia

theo định mức có hạn chế là: trong khi chi phí đơn vị đối với mỗi trường không bằng nhau

thì việc phân bổ theo chỉ tiêu học sinh hàng năm là không công bằng. Lấy vị dụ, chi phí

đơn vị đối với các trường chuyên ngành kỹ thuật thường cao hơn nhiều so với trường

chuyên ngành xã hội. Trong thực tế, do tính chất đào tạo của một số trường mang tính đặc

thù riêng, nhất là trường khoa học kỹ thuật cần nhiều trang thiết bị chuyên môn nhiều hơn,

vật tư tiêu tốn trong thực hành, thí nghiệm nhiều hơn, số lượng học sinh trong một đơn vị

lớp không thể nhiều như các trường chuyên ngành xã hội… Do vậy, đối với các trường

khoa học kỹ thuật như Đại học Phòng cháy, Chữa cháy cần có định mức phân bổ kinh phí

cao hơn các trường chuyên ngành xã hội. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy,

với cơ sở vật chất phục vụ đào tạo hiện nay chỉ tính riêng các phòng thí nghiệm, thực

nghiệm đã có 10 phòng, ngoài ra còn có các phòng học chuyên ngành và khu tập luyện,

với 200 tiết học thực hành trên một khoá học cần phải tiêu tốn nhiên liệu, vật tư, hoá chất,

phương tiện…Mặt khác do nhiều giờ thực hành, thực nghiệm, tập luyện nên không thể

ghép lớp với quy mô lớn được như khi giảng lý thuyết. Do vậy với cách thức phân bổ kinh

phí theo định mức chung thì việc đảm bảo chi của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy

khó khăn hơn so với các trường khác trong Bộ Công an.

Thứ hai, NSNN cấp cho mua sắm các trang thiết bị phục vụ dạy học hàng năm do

Vụ Đào tạo của Bộ Công an phân bổ duyệt cấp cũng theo nguyên tắc bình quân, tính theo

quân số các trường. Do đó, với lượng kinh phí cấp bình quân như vậy, đối với Trường Đại

học Phòng cháy, Chữa cháy, rất khó triển khai mua sắm. Bởi vì, kinh phí này rất thấp, bình

quân hàng năm chưa được một tỷ đồng, trong khi giá trị thiết bị thí nghiệm phục vụ đào

tạo rất cao, chỉ cần một phòng học tin học, phòng học ngoại ngữ, hoặc một vài thiết bị thí

nghiệm về phòng cháy, chữa cháy, phải tập trung kinh phí của nhiều năm mới mua được.

Đó là còn chưa kể đến việc mua sắm phương tiện chuyên dùng : một xe ô tô chuyên dùng

của Nhật bản loại rẻ nhất cũng trên hai tỷ đồng. Trong khi đó, các trường đào tạo chuyên

ngành xã hội có nhu cầu thiết bị phục vụ đào tạo ít hơn, vật tư tiêu tốn trong quá trình đào

tạo ít hơn, giá trị thiết bị dạy học không cao, nhưng do số lượng học sinh lớn cho nên các

trường đó không gặp khó khăn nhiều.

Thứ ba, nguồn NSNN cấp cho đầu tư xây dựng cơ bản còn quá ít và phân bổ cũng theo

tính bình quân. Hàng năm, mỗi đơn vị được phê duyệt đầu tư một đến hai dự án. Do vậy, phải

hàng chục năm mới có điều kiện hoàn chỉnh về cơ sở vật chất. Trong khi đó, định mức đầu tư

cho thực hiện xây dựng cơ bản của Bộ Công an lại thấp so với mặt bằng xây dựng cơ bản

chung. Vì vậy, các công trình được duyệt thường kinh phí rất hạn hẹp, khó điều chỉnh trong

quá trình thi công, phần nào ảnh hưởng tới công năng và chất lượng sử dụng công trình. Mặt

khác, đầu tư thiết bị kỹ thuật theo dự án có quy trình xét duyệt kéo dài, trong khi đó trang thiết

bị thí nghiệm phòng cháy, chữa cháy hầu như chỉ có nguồn nhập ngoại, sản xuất đơn chiếc, do

vậy đến khi dự án được duyệt thì trang thiết bị đó đã thay đổi về công nghệ, rất khó thực hiện

nội dung mua sắm trang thiết bị của dự án.

Thứ tư, nguồn NSNN cấp cho sửa chữa lớn hầu như không có vì ngoài kinh phí cho

xây dựng cơ bản thì kinh phí cho sửa chữa rất nhỏ, không đủ đáp ứng nhu cầu sửa chữa cải

tạo cơ sở hạ tầng. Trong thực tế, các công trình cơ sở hạ tầng chỉ năm đến mười năm là

phải sửa chữa vừa và sửa chữa lớn. Đặc biệt đối với các trường, các công trình nhà ở, nhà

học tập của học sinh do công suất sử dụng cao, lưu lượng đào tạo lớn, khả năng xuống cấp

nhanh hơn các công trình dân dụng khác.

Thứ năm, trong thực tế nhu cầu sử dụng kinh phí theo định mức tăng lên hàng năm,

nhưng tổng kinh phí hàng năm tăng không đáng kể, do vậy trong việc cân đối sử dụng kinh

phí gặp nhiều khó khăn. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, giá mua các

trang thiết bị tiêu hao trong quá trình thực hành thực nghiệm tăng, tiền lương, tiền nuôi

quân tăng, lượng học sinh theo chiều hướng tăng, nhưng tổng kinh phí được cấp tăng

không đáng kể, do đó các khoản chi cần thiết khác ngày càng giảm như: công tác phí giảm

làm ảnh hưởng đến thực tế của giáo viên, học viên, kinh phí điện nước giảm: trong khi nhu

cầu sử dụng, tiêu chuẩn định mức sử dụng tăng trong thực tế điều kiện sinh hoạt của giáo

viên, học viên càng khó khăn hơn.

Thứ sáu, nguồn NSNN đầu tư cho xây dựng cơ bản, dự án mua sắm trang thiết bị

thí nghiệm của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy ba năm gần đây có tăng, nhưng

sau khi đầu tư ban đầu thì muốn sử dụng phải có vật tư, nhiên liệu…để thực hành, thực

nghiệm… trong khi thực tế kinh phí thường xuyên trong ba năm qua hầu như không

được điều chỉnh, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các trang thiết bị đã được đầu tư.

Như vậy có sự mất cân đối giữa chi đầu tư và chi thường xuyên, làm giảm hiệu quả

đầu tư.

2.2.2.2. Nguồn ngoài ngân sách nhà nước

Trong bối cảnh đổi mới tài chính công hiện nay, đặc biệt là ở các cơ sở giáo dục,

đào tạo, đa dạng hoá nguồn kinh phí là một hướng đi trung tâm của chiến lược đổi mới

chính sách tài chính, nhằm đảm bảo khả năng bền vững về mặt tài chính của các cơ sở đại

học. Việc Nhà nước cho phép thu học phí, mở rộng các loại hình đào tạo, thực hiện một số

chức năng ngoài đào tạo như ứng dụng khoa học kỹ thuật, tham gia cùng với các ngành

đào tạo nghề… đã tạo điều kiện cho các trường đại học tăng nguồn thu ngoài NSNN.

Nguồn tài chính từ bên ngoài đã và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp

phát triển của các trường đại học. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, được

phép của Chính phủ, các ngành Giao thông công chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học – Công

nghệ…, từ năm 2000 đến nay, Trường đã triển khai các hoạt động đào tạo ngoài chỉ tiêu

do Bộ Công an giao; thực hiện các hợp đồng ứng dụng khoa học kỹ thuật phòng cháy,

chữa cháy vào các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội; tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đào tạo lái

xe ô tô do Sở Giao thông công chính Hà Nội và Cục Đường bộ - Bộ Giao thông - Vận tải

cấp phép. Kết quả tài chính của các hoạt động thể hiện tại bảng 2.2 cho thấy nguồn thu

ngoài NSNN không ngừng tăng và chiến tỷ lệ khá lớn trong tổng nguồn thu của cả đơn vị,

cụ thể:

Bảng 2.2: Tổng hợp nguồn thu ngoài NSNN trong 3 năm 2003-2005

Đơn vị tính: triệu đồng

Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005

TT Tên nguồn thu Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Số thu Số thu Số thu % % %

Tổng số thu ngoài 8.693 100,00 8.653 100,00 7.895 100,00

NSNN

1 Ứng dụng KHKT 5.779 66,47 4.066 46,90 3.933 49,81

PCCC

2 Đào tạo lái xe 2.909 33,46 4.477 51,64 3.771 47,76

3 Khác 91 0,07 110 1,26 191 2,41

Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2003, 2004, 2005 - Trung tâm UDKHKT và đào tạo lái

xe chữa cháy - Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy

Sau đây là phân tích lần lượt các nguồn này.

* Nguồn học phí

Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy triển khai hợp đồng đào tạo, liên kết

đào tạo các cấp học, bậc học mới được thực hiện 10 năm từ 1996 đến nay, các năm trước đây

chủ yếu đào tạo cho Quân đội theo chỉ tiêu do Bộ Công an giao hàng năm. Bắt đầu từ năm

1996 trường đã thực hiện các hợp đồng đào tạo cho các ngành kinh tế như: xăng dầu, dầu khí,

khai thác than, hàng không…; cho các ngành cơ sở ngành dịch vụ du lịch như: khách sạn,

trung tâm văn hoá, giải trí, trung tâm triển lãm, thương mại...; các khu công nghiệp…Tuy vậy,

đến nay cấp đào tạo cũng mới chỉ dừng lại ở bậc trung học và thấp hơn, phục vụ trực tiếp cho

nhu cầu của các ngành và cơ sở. Nguồn thu học phí từ đào tạo, liên kết đào tạo tuy đã có, song

đến nay hầu như mới thu theo phương thức tính toán lấy thu bù chi, hầu như không có nguồn

tích lũy tái đầu tư phát triển.

Thực tế trong những năm gần đây cho thấy triển vọng nguồn thu này sẽ tăng cao do

nhu cầu ngày càng tăng về đào tạo phòng cháy, chữa cháy của các ngành kinh tế, văn hoá,

xã hội…Mặt khác, nếu các cơ quan chức năng cho phép Trường được chủ động đào tạo

các hệ đa dạng hơn thì phần thu học phí còn có thể tăng đáng kể.

* Nguồn thu do thực hiện các hợp đồng ứng dụng khoa học kỹ thuật phòng cháy,

chữa cháy vào thực tế các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội.

Thực tế, trong năm năm từ 2001-2005 cho thấy, nguồn thu từ thực hiện các hợp

đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy, chữa cháy cho các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã

hội đã được thực hiện và có số lượng tăng đáng kể và chiếm tỷ lệ 50% so với tổng nguồn

thu ngoài NSNN.

Thực tế quá trình thực hiện các hợp đồng thiết kế, lắp đặt thiết bị phòng cháy chữa

cháy trong thời gian qua cho thấy một số vấn đề như sau:

Một là, qua kết quả hoạt động và qua khảo sát thị trường trong lĩnh vực này cho

thấy nhu cầu thị trường này còn rất lớn và rất mới, nhất là trong giai đoạn phát triển kinh tế

hiện nay. Nếu mở rộng đầu tư cho hoạt động này thì nguồn thu sẽ ngày càng lớn hơn.

Hai là, ngoài đóng góp tăng nguồn thu thì các hoạt động này còn góp phần nâng

cao năng lực thực hành của cán bộ, giáo viên trong thực hiện ứng dụng kết quả lý thuyết

vào thực tiễn. Mặt khác, các công trình được nhà trường thi công lại chính là những cơ sở

cho học viên tham quan, khảo sát thực tế để nâng cao kiến thức thực tế cho học sinh.

Ba là, thực hiện các hoạt động này góp phần cùng lực lượng phòng cháy, chữa cháy

chuyên nghiệp làm tốt hơn chức năng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy và làm

hạn chế nạn cháy xảy ra trong thực tế, góp phần làm giảm bớt áp lực của nhu cầu tăng quá

nhanh hiện nay về thiết kế, thi công, bảo hành, bảo trì hệ thống thiết bị phòng cháy, chữa

cháy.

Bốn là, một số dịch vụ có thế mạnh về nhân lực và trang thiết bị của Trường Đại

học Phòng cháy, Chữa cháy chưa được khai thác vì nhiều lý do, trong đó có những dịch vụ

cần được cấp phép như: tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, kiểm định thiết bị an toàn phòng

cháy, chữa cháy. Nếu các dịch vụ này được thực hiện thì về mặt tài chính sẽ tăng nguồn

thu, vì đây là lợi thế tuyệt đối của nhà trường.

* Nguồn thu từ đào tạo lái xe

Nguồn thu từ dịch vụ đào tạo lái xe ô tô, mô tô chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng

nguồn thu ngoài NSNN. Nguồn thu này rất ổn định và có mức tăng đáng kể hàng năm.

Thực tế hoạt động đào tạo lái xe ô tô, mô tô cho thấy một số vấn đề sau:

Một là, cầu thị trường về đào tạo lái xe ô tô, mô tô hiện nay đang ở mức rất cao, đối

với Trung tâm đào tạo của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, trong ba năm 2003-

2005 chỉ đáp ứng được 50% số lượng người ghi danh học và sát hạch cấp giấy phép lái xe

ô tô, mô tô. Trong nhiều năm tới, nhu cầu này vẫn còn tăng và thị trường chưa thể đáp

ứng được cầu.

Hai là, với năng lực hiện nay của cơ sở, cần được tăng về chỉ tiêu đào tạo hiện nay

lên gấp đôi, vì về đội ngũ giáo viên, phương tiện ô tô, cơ sở vật chất khác, khả năng quản

lý, điều hành… đều có thể đáp ứng được với quy mô gấp đôi hiện nay. Nhưng trong nhiều

năm nay, chỉ tiêu cho phép vẫn chưa được tăng, trong khi đó nhu cầu người học ngày càng

tăng.

Ba là, để đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất của một cơ sở đào tạo lái xe chuyên

nghiệp, thì cơ sở cần phải chuẩn hóa một số nội dung sau:

- Đội ngũ giáo viên dạy lái phải thực sự được chuẩn hoá về tiêu chuẩn: số lượng,

chất lượng.

- Phương tiện ô tô dạy lái phải được đảm bảo đa dạng về chủng loại, nâng cao chất

lượng, nhất là những phương tiện mới phù hợp với thị trường ô tô hiện nay.

- Cần có kế hoạch xây dựng bãi tập, trường thi chuẩn theo quy định của Bộ Giao

thông - Vận tải.

Bốn là, với chức năng đào tạo lái xe chữa cháy hiện nay thì chỉ tiêu được giao rất

hạn chế, mỗi năm chỉ khoảng 50 học viên, trong khi đó lực lượng, phương tiện đào tạo lái

xe ô tô của trường khá đầy đủ, dẫn đến lãng phí không hiệu quả trong sử dụng phương

tiện. Trong khi đó, chỉ tiêu đào tạo lái xe tải, xe du lịch cho cảnh sát giao thông lại rất lớn

mà các cơ sở đào tạo của các trường trong ngành công an không thể đáp ứng. Điều đó cho

thấy sự điều tiết trong đào tạo lái xe ô tô trong lực lượng công an chưa thật hợp lý, cần có

điều chỉnh để tận dụng hết khả năng của trường cũng như tăng nguồn thu từ hoạt động này.

Năm là, chi phí đào tạo lái xe ô tô trong một số năm gần đây tăng lên do nhiều yếu

tố, nhất là về giá xăng dầu, giá chi phí cho phương tiện ô tô tăng lên, trong khi đó học phí do

Bộ Giao thông - Vận tải điều chỉnh không kịp thời và chưa phù hợp làm cho cơ sở đào tạo rất

khó khăn trong quá trình đào tạo.

* Các nguồn thu khác

Trong thực tế hiện nay Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy còn một số nguồn

thu khác như cho thuê mặt bằng kinh doanh, một số hoạt động dịch vụ trông giữ xe, căng

tin - dịch vụ…tuy vậy số thu này chiếm tỷ lệ rất nhỏ và có xu hướng ngày càng giảm đi.

2.2.2. Xu hướng thay đổi cơ cấu nguồn thu

Từ số liệu khảo sát tài chính tại Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, có thể

thấy rõ sự thay đổi của cơ cấu nguồn tài chính theo bảng sau:

Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy

giai đoạn 2003-2005

Đơn vị tính %

Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 TT Nội dung Số thu % Số thu % Số thu %

1 Tổng nguồn thu 33.038 100,00 29.449 100,00 29.514 100,00

2 Số thu từ NSNN 24.327 73,63 20.780 70,56 21.619 73,24

3 Số thu ngoài NSNN 8.711 26,36 8.669 29,43 7.895 26,75

Nguồn: Báo cáo tài chính 2003,2004,2005 của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa

cháy

Phân tích cơ cấu nguồn tài chính có một số vấn đề nhận xét sau:

Một là, nguồn ngoài NSNN chiếm tỷ trọng bình quân khoảng 27,5% so với nguồn

thu từ NSNN, mặt khác tỷ lệ này rất ổn định trong thời gian ba năm 2003-2005. Điều này

chứng tỏ khả năng tự chủ tài chính đối với một số hoạt động của Trường Đại học Phòng

cháy, Chữa cháy khả thi hơn các trường khác trong Bộ Công an. Kết quả huy động tối đa

các nguồn thu phục vụ công tác đào tạo nói riêng và các hoạt động của Trường Đại học

Phòng cháy, Chữa cháy nói chung là rất tốt và đã góp phần đảm bảo các hoạt động chi.

Hai là, nguồn thu ngoài NSNN ở mức đáng kể chứng tỏ nếu được tự chủ nhiều hơn

nữa trong các mặt công tác của Trường thì khả năng tăng thu là có thực và không chỉ dừng

ở mức lấy thu bù chi mà còn có tích luỹ, mở rộng và tăng thu nhập cho cán bộ, giáo viên

và học viên. Kết quả thu cũng chứng tỏ bên cạnh thực hiện chức năng đào tạo theo kế

hoạch được giao, Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy còn sử dụng được cả năng lực

đội ngũ cán bộ, giáo viên, trang thiết bị cơ sở vật chất hiện có để tăng nguồn thu. Ngoài

mục đích về lợi nhuận, đối với các hoạt động dịch vụ phòng cháy, chữa cháy còn góp phần

nâng cao trình độ, năng lực thực tiễn của cán bộ, giáo viên và học viên của Trường.

Ba là, trước mắt hai nguồn thu từ đào tạo lái xe và thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng

cháy, chữa cháy đều có xu hướng tăng, nhưng về lâu dài nguồn thu từ thiết kế, lắp đặt hệ

thống phòng cháy, chữa cháy sẽ tăng và chiếm tỷ lệ cao hơn nguồn thu từ đào tạo lái xe, vì

nó gắn với thế mạnh, năng lực hiện có của Trường và nhu cầu ngày càng tăng của thị

trường. Đối với nguồn thu từ đào tạo (học phí) cũng có xu hướng tăng lên trong thời gian

tới vì năng lực, quy mô đào tạo phải được nâng lên thì mới đáp ứng được nhu cầu đào tạo

không chỉ cho lực lượng phòng cháy, chữa cháy của Bộ Công an mà còn cả cho các ngành

kinh tế, văn hoá, xã hội.

2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI

HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY

2.3.1. Công tác lập dự toán thu chi

Lập dự toán ngân sách thu chi của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là quá

trình cân đối, phân tích, đánh giá giữa nhu cầu chi và khả năng nguồn tài chính huy động

được, từ đó xác định việc đáp ứng nhu cầu chi tiêu của đơn vị để làm căn cứ điều hành

việc thu chi trong năm của đơn vị.

Theo luật NSNN, dự toán thu chi ngân sách của các trường đại học công lập được

lập theo đúng chế độ hiện hành, gồm hai phần dự toán thu và dự toán chi. Dự toán chi

được lập theo đúng mục lục ngân sách cho từng nguồn. Dự toán chi phần NSNN được lập

chi tiết còn là căn cứ để cấp phát ngân sách sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê

duyệt. Dự toán thu căn cứ vào chỉ tiêu phân bổ của cơ quan có thẩm quyền, định mức phân

bổ để tính nguồn thu từ NSNN. Các nguồn thu khác ngoài NSNN được dự toán theo các

nguyên tắc thông thường.

Trình tự lập dự toán thu, chi của đơn vị như sau: căn cứ vào chỉ tiêu tuyển sinh

được giao, trong đó có chỉ tiêu được NSNN đảm bảo, hướng dẫn xây dựng kế hoạch của

cơ quan chủ quản, định mức kinh phí cho một sinh viên. Ngoài ra còn căn cứ vào các nhu

cầu khác như về chương trình mục tiêu, đầu tư XDCB, giáo trình…để làm căn cứ lập dự

toán. Đối với các khoản thu chi phát sinh ngoài nguồn NSNN, đơn vị dựa vào các tiêu

chuẩn, định mức của Nhà nước, của đơn vị quy định cho từng khoản chi.

Quá trình lập dự toán thu, chi hiện nay đã chặt chẽ hơn trước, về cơ bản đã phản

ánh được cả nguồn NSNN và nguồn ngoài NSNN. Thông qua công tác lập dự toán, các Bộ

môn, Phòng, Trung tâm trong trường đã có sự phối hợp để xây dựng kế hoạch thu chi, xây

dựng dự toán của đơn vị. Tuy vậy qua dự toán do đơn vị lập và dự toán được phê duyệt,

vẫn còn có các tồn tại sau:

Thứ nhất, đối với những khoản NSNN cấp theo định mức thì các đơn vị lập rất

chuẩn theo định mức. Những khoản cấp phát cho chương trình mục tiêu, XDCB, mua sắm

trang thiết bị dạy học… thuộc những kinh phí không thường xuyên thì trường lập dự toán

vượt so với dự toán được phê duyệt, vì tâm lý sợ bị cắt xén khi duyệt của các cơ quan có thẩm

quyền. Đây là vấn đề mang tính phổ biến trong dự toán và cấp phát NSNN nói chung cần khắc

phục.

Thứ hai, đối với các nguồn thu ngoài NSNN, đơn vị lập rất sơ sài, mang tính chiếu

lệ, không có chi tiết. Nếu so với số thực đạt được trong năm kế hoạch thường thấp hơn

nhiều.

Thứ ba, dự toán hiện nay lập vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa ở chỗ quá chi tiết theo “

mục”. Nhìn vào dự toán được lập có thể thấy được tổng quỹ lương của trường là bao nhiêu

nhưng lại không thấy được lương chi cho giảng viên, chi cho quản lý là bao nhiêu, nguồn

lương chi cho khoá đào tạo chính quy, tại chức khác là bao nhiêu để từ đó cấp chủ quản có

thể quản lý và phê duyệt, trên cơ sở đó giúp các đơn vị có định hướng quản lý tiết kiệm

ngay từ khi lập dự toán. Mặt khác, dự toán lập cho khoản tiền lương, tiền công, phụ cấp

hiện nay thiếu căn cứ khoa học vì chỉ dựa vào số cán bộ giảng dạy và số cán bộ quản lý

của trường. Trong khi đó quỹ lương không chỉ phụ thuộc vào đội ngũ giảng viên, cán bộ

hiện có mà còn phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ thỉnh giảng, hợp đồng…

Những tồn tại trên có nguyên nhân xuất phát từ chỗ, công tác dự toán tài chính

trong Trường thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, dự toán vẫn chủ yếu do Phòng

Hậu cần của Trường lập, do vậy không tính toán đầy đủ và phản ánh hết các công việc của

các bộ phận, do vậy thiếu chính xác.

2.3.2. Công tác chấp hành dự toán thu-chi

2.3.2.1. Công tác chấp hành dự toán thu

* Nguồn NSNN

Chấp hành dự toán chính là quá trình giải ngân. Căn cứ vào dự toán được duyệt, các

đơn vị lập dự toán theo quý, tháng, làm căn cứ để tiếp nhận kinh phí hàng tháng, hàng quý.

Nguồn NSNN hiện nay được cấp qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, các đơn vị phải gửi dự

toán được phê duyệt ra Kho bạc Nhà nước nơi mở tài khoản để theo dõi quản lý việc cấp

phát.

Thực hiện Luật NSNN, đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, lập dự

toán và được cấp phát theo 17 “ mục”. Việc tiếp nhận kinh phí và chi tiêu theo “ mục” là

quy định bắt buộc được Kho bạc Nhà nước giám sát. Điều này có thuận lợi cho các đơn vị

thực hiện đúng theo kế hoạch được lập, ít có tình trạng phát sinh. Tuy vậy, dự toán được

lập, cấp phát, chi trả theo nhiều “ mục” và các “ mục” có nội dung chưa thực sự rõ ràng

cũng gây khó khăn cho Trường trong việc giải ngân. Đối với Bộ Công an để khắc phục

tình trạng này, đến hết tháng 10 hàng năm, các đơn vị được quyền điều chỉnh “ mục” một

lần. Việc cho phép này cũng đã góp phần vào việc sử dụng kinh phí hợp lý hơn, hiệu quả

hơn trước đây.

Như vậy, có thể đi đến kết luận rằng việc xác định quá chi tiết các “ mục” trong

khoản cấp phát đã làm hạn chế khả năng vận dụng linh hoạt nguồn tài chính, vừa thừa lại

vừa thiếu nguồn, hiệu quả sử dụng kinh phí giảm sút. Các khoản ngân sách cấp vào cuối

năm cho các “ mục” không điều chuyển được thường được các trường tiếp nhận và sử

dụng một cách lãng phí vì không thể chuyển sang năm sau được.

* Nguồn ngoài NSNN

Nếu so với nguồn NSNN thì việc quản lý thu từ nguồn ngoài NSNN không bị ràng

buộc bởi hệ thống mục lục ngân sách và không bị kiểm soát chặt chẽ bởi hệ thống các cơ

quan nhà nước.

Các khoản thu học phí, lệ phí được cấp biên lai thu tiền theo mẫu do Bộ Tài chính

phát hành, chế độ quản lý được thực hiện theo Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002

của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu.

Đánh giá chung cho thấy, công tác quản lý đối với các nguồn tài chính ngoài NSNN

trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, việc nắm được nguồn thu ngoài

NSNN đã giúp cho trường chủ động hơn trong chi tiêu, góp phần tăng thu nhập, cải thiện

điều kiện làm việc cho cán bộ, giảng viên. Tuy vậy công tác quản lý các nguồn thu ngoài

NSNN còn những tồn tại. Có thể phân tích hai tồn tại chính sau:

Thứ nhất, đối với các khoản thu học phí của các lớp tại chức liên kết, ngành

ngoài… định mức thu học phí chưa nhất quán hàng năm. Thực tế, định mức này chưa sát,

nếu tính toán kỹ thì mức học phí đang thu chỉ đủ chi trả tiền giờ giảng còn các chi phí khác

rất hạn chế. Bên cạnh đó, nhiều lớp mở liên kết với các địa phương vẫn còn tình trạng trực

tiếp thu, sau đó chi ngay rồi mới làm thủ tục lấy thu bù chi về Tài vụ của trường. Việc làm

này là không phù hợp với chế độ hiện hành, làm giảm chức năng giám đốc, kiểm tra của

tài chính. Mặt khác việc thu học phí của một số lớp ngắn hạn thường thanh toán hợp đồng

bằng tiền mặt do vậy việc kiểm soát chặt chẽ thu - chi của kế toán rất hạn chế.

Thứ hai, các khoản thu của các hợp đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy chữa

cháy thường thực hiện rất chậm, kéo dài, làm cho tình trạng quyết toán không gọn theo năm.

Trong thực tế, có những hợp đồng thực hiện xong 3 năm vẫn chưa thanh toán xong. Đến khi

thanh toán thì giá trị thực của hợp đồng đã bị thay đổi do trượt giá… Có nhiều hợp đồng vi

phạm quy chế quản lý tài chính nhưng chưa thực hiện phạt được trường hợp nào.

2.3.2.1. Công tác chấp hành dự toán chi

* Chi lương, tiền công và các khoản có tính chất lương

Đối với bộ phận là đơn vị sự nghiệp không có thu:

Đây là phần chi trả lương cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên, sinh hoạt phí cho học

sinh. Khoản chi này thường chiếm tỷ trọng lớn trong khoản NSNN cấp. Trong 3 năm 2003-

2005, tỷ lệ này dao động trong khoảng 40% -50%.

Theo chế độ tài chính hiện hành, các khoản chi cho cán bộ, giáo viên được chi trả

theo cấp hàm của lực lượng công an. Một số khoản chi như trả tiền giảng dạy ngoài định

mức giờ chuẩn (vượt giờ định mức) được thực hiện theo từng học kỳ và theo quy định trả

vượt giờ của Bộ Công an, tuy vậy khoản chi này thường không lớn. Đối với các lớp mở

theo dạng liên kết thì giáo viên được trả trực tiếp theo giờ thực tế thực hiện cũng theo quy

định của Bộ Công an.

Trong khoản chi lương hiện nay của trường còn có khoản chi lương áp dụng cho

các đối tượng hợp đồng xác định thời gian: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng (ngắn hạn), nhưng

trên thực tế, những đối tượng này có thời hạn làm việc thực tế trên 1 năm (đúng ra phải

được hưởng mức lương cho đối tượng hợp đồng dài hạn). Đến nay, Bộ Công an vẫn chưa

có điều chỉnh về đối tượng hợp đồng này. Điều đó đã làm cho người lao động về hình thức

vẫn là hợp đồng xác định thời gian, nhưng trong thực tế đã hợp đồng với đơn vị liên tục

nhiều năm. Điều đó làm cho người lao động rất thiệt thòi. Bởi vì, những đối tượng này

không được nâng lương theo thời gian, không được tham gia đóng bảo hiểm theo quy định

của bảo hiểm xã hội. Theo các quy định của Luật Lao động và Bảo hiểm xã hội, sử dụng

người lao động và chi trả lương như vậy là không đúng, cần phải sửa đổi.

Đối với bộ phận là đơn vị sự nghiệp có thu: Việc chi trả lương và các khoản có

tính chất lương hiện nay chưa thực sự thống nhất, một phần do đối tượng, trình độ lao

động… khác nhau và chưa có sắp xếp theo công việc hợp lý mà chủ yếu làm công tác

hành chính, trừ một số vị trí yêu cầu có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ. Hiện

nay hệ thống quy định chi lương theo ngạch bậc đối với đơn vị sự nghiệp có thu chưa

có quy định cụ thể nên mức chi lương trong 3 năm 2003-2005 đối với ĐVSN có thu

trên thực tế cao hơn ĐVSN là 1,5 lần. Tuy vậy, một số trường hợp lương kỹ thuật, mức

chi lương cao hơn nhiều lần so với lương ở ĐVSN không có thu. Tình hình này đòi hỏi

phải có định mức, chế độ được quy định theo Nghị định 43/CP.

* Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định

Các khoản chi đầu tư XDCB và mua sắm tài sản cố định thuộc khoản chi không

thường xuyên nhưng lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi hàng năm. Có những khoản

chi cho một dự án XDCB cũng bằng hoặc lớn hơn khoản chi thường xuyên cả năm.

Để quản lý đầu tư XDCB , Nhà nước đã có nhiều chế độ, quy định về quản lý đầu

tư, từ khâu lập dự án đến thực hiện, kết thúc dự án. Tuy vậy trong quá trình áp dụng, dưới

góc độ quản lý tài chính, ở Truờng Đại học Phòng cháy, Chữa cháy vẫn còn có những hạn

chế sau:

Thứ nhất, các dự án XDCB tuy thực hiện đấu thầu theo quy định nhưng chủ yếu

vẫn là đấu thầu hạn chế. Tình trạng thiếu khách quan trong đấu thầu vẫn còn xảy ra. Trong

khâu theo dõi thi công, đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy và nhiều đơn vị

trong lực lượng Công an hiện rất thiếu cán bộ kỹ thuật, do vậy việc giám sát, theo dõi thi

công rất hạn chế, dẫn đến chất lượng công trình còn chưa cao. Trong quá trình thực hiện

các dự án, Bộ Công an đã cho phép thuê tư vấn giám sát để theo dõi thi công, nhưng trong

thực tế chất lượng giám sát chưa thực sự đạt yêu cầu, điều này cũng là nguyên nhân làm

cho chất lượng công trình bị ảnh hưởng.

Thứ hai, việc thực hiện hồ sơ hoàn công và quyết toán công trình XDCB thường rất

chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do nhà thầu trong quá trình thực hiện không tuân thủ đúng

quy định, hồ sơ thiếu, sai…dẫn đến quá trình hoàn thiện rất lâu. Bên cạnh đó, khi xong hồ

sơ nộp cho cơ quan duyệt quyết toán lại phải chờ đợi rất lâu. Từ hai nguyên nhân trên đã

làm ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân của nguồn vốn.

Thứ ba, đối với các dự án mua sắm thiết bị thường thực hiện rất khó khăn vì thủ tục

xét duyệt rất chậm. Nhiều dự án đến khi được duyệt danh mục thì hết hàng. Thiết bị

mua sắm thường chưa được quan tâm đúng mức, do vậy chất lượng thiết bị, hiệu quả sử

dụng còn thấp. Mặc khác, do kinh phí dành cho mua sắm thiết bị, tài sản cố định rất ít,

lại cấp theo năm, do vậy làm cho hệ thống thiết bị không đồng bộ, sự kết nối, tương tác

và hiệu quả sử dụng kém.

Thứ tư, kinh phí đầu tư cho chuyển giao công nghệ hiện nay còn rất ít và mang tính

hình thức. Đối với thiết bị nhập ngoại, khi chuyển giao công nghệ thì có thành lập bộ phận

tập huấn chuyển giao công nghệ nhưng nội dung đi khảo sát, tập huấn chủ yếu là tham

quan, đối tượng được chuyển giao cũng chưa đúng thành phần. Do vậy hiệu quả khai thác

sử dụng thiết bị là khâu yếu nhất sau khi dự án hoàn thành.

Thứ năm, sau khi dự án hoàn thành, đưa vào sử dụng thì kinh phí đầu tư để duy trì

hoạt động của trang thiết bị hầu như chưa được tính toán đến. Đối với Trường Đại học

Phòng cháy, Chữa cháy, có rất nhiều thiết bị được mua sắm nhưng nếu sử dụng thì chi phí

nhiên liệu, nguyên liệu… rất cao, do vậy ít khi sử dụng, nếu có sử dụng thì cũng chỉ phục

vụ tham quan là chính, còn mục đích dành cho đào tạo, thực nghiệm không đạt. Đây cũng

chính là phần yếu kém cần chấn chỉnh.

Thứ sáu, trong quá trình lập dự án đầu tư, có một số trang thiết bị nếu đưa vào sử

dụng cần một số giấy phép điều kiện như: các máy móc thiết bị kiểm định chất lượng thiết

bị, hàng hoá, thiết bị kiểm định độ an toàn của các thiết bị…nếu không được cấp giấy phép

thì các máy móc này không được hoạt động, hoạt động đầu tư cho thiết bị này không có

hiệu quả. Điều này cho thấy khi lập, thẩm duyệt dự án cần đánh giá khả năng khai thác sử

dụng của những thiết bị này để có thể cho phép thực hiện.

Thứ bẩy, chưa có thước đo để đánh giá hiệu quả sử dụng của các loại tài sản, thiết

bị máy móc đã được trang bị. Hiện nay mới chỉ xây dựng được nhật ký sử dụng phòng thí

nghiệm, còn chi tiết có thực hiện hay không, định mức, thời gian như thế nào vẫn chưa xây

dựng được, do vậy việc đánh giá thiếu chính xác, thiếu khách quan.

* Chi hành chính khác

Hiện nay công tác quản lý các khoản chi thường xuyên khác ngoài chi lương, học

phí thực hiện theo quy định của Bộ Công an, và các quy định khác của Bộ Tài chính. Các

khoản chi khác như chi công tác phí, thực tế của giáo viên, thực tập của học viên, chi tiếp

khách, hội nghị, đều thực hiện theo quy định, hướng dẫn.

- Đối với chi công tác phí: Thực hiện quy định hiện hành của Bộ Công an, đối với

đi công tác được thanh toán tiền vé tàu, vé xe, máy bay theo đúng tiêu chuẩn: cấp hàm

thượng tá trở lên được phép thanh toán vé máy bay, còn các đối tượng khác chỉ được thanh

toán vé tàu, xe hạng trung bình. Thanh toán tiền lưu trú chỉ thực hiện khi có xác nhận của

đơn vị đến công tác khi không sắp xếp nhà công vụ, nhưng thời gian công tác cũng phải

thực hiện theo đúng kế hoạch: công tác đột xuất thường thời gian dưới một tuần. Công tác

nghiên cứu thực tế của cán bộ, giáo viên đi theo kế hoạch nhưng chỉ thực hiện khi địa

phương sắp xếp được nhà công vụ.

- Chi tiêu hội nghị: Thực hiện theo chế độ, các hội nghị được chi là những hội nghị

nằm trong kế hoạch công tác năm của các đơn vị, ngoài ra có một vài hội nghị do yêu cầu của

cấp trên thì mới được thanh toán chi phí hội nghị. Mức chi phí cho các hội nghị chỉ được phép

chi theo quy định, nếu định mức chi cao hơn thì Ban giám hiệu mới duyệt chi từ quỹ phúc lợi

của cơ quan.

- Chi phí sử dụng điện thoại công vụ tại công sở, nhà riêng và di động: Hỉệu trưởng

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy quy định cụ thể đối tượng được trang bị điện thoại, số

lượng và định mức khoán kinh phí hàng tháng.

Đối tượng được trang bị điện thoại cố định tại nhà riêng và điện thoại di động là các

đồng chí trong Ban giám hiệu, mức khoán kinh phí đối với hai máy này 500.000đ/ tháng.

Đối với các đơn vị, lãnh đạo các bộ môn, phòng, trung tâm được trang bị điện thoại

cố định tại phòng làm việc với định mức khoán 200.000đ/ máy/ tháng. Mỗi đơn vị được

trang bị một máy điện thoại cố định dùng chung cho các đối tượng khác với mức khoán

200.000đ/máy/ tháng.

Nếu các đơn vị, cá nhân dùng vượt định mức khoán theo quy định thì phải thu nộp

phần phụ trội vào ngân sách.

- Đối với khoán chi tiền sử dụng điện tại các phòng làm việc của cán bộ, giáo viên,

phòng ở của học viên: Trường cũng đã có quy định các trang thiết bị điện được sử dụng cho

từng đối tượng, định mức sử dụng theo cơ chế khoán định mức. Cụ thể mức khoán hiện nay là

200.000đ/ phòng làm việc/ tháng. Mục đích chủ yếu là hạn chế sử dụng điện cho các máy điều

hoà nhiệt độ.

- Đối với sử dụng phương tiện ô tô và thanh toán chi phí xăng, dầu: Hiệu trưởng

nhà trường cũng có quy định cụ thể đối với việc sử dụng phương tiện ô tô, đối tượng và

định mức xăng dầu được cấp cụ thể:

Đối tượng: Chỉ giải quyết phương tiện ô tô phục vụ công tác đối với các đồng chí

trong Ban giám hiệu, đối với các đơn vị khi đi công tác chỉ giải quyết khi tổ chức đi theo

đoàn từ ba người trở lên.

Định mức xăng, dầu cấp cho từng loại phương tiện theo định mức kỹ thuật, có tính

đến tính chất từng loại địa hình và theo mùa. Những định mức này hiện nay đã được thống

nhất trong các trường công an nhân dân.

Trong một số năm gần đây một số khoản chi được Bộ Công an thực hiện khoán đối

với từng khoản chi như công tác phí, thực tế… Trong thực tế, các đơn vị tự điều chỉnh

trong khoản đã được ấn định, tự điều chỉnh số lượng, kế hoạch theo định mức qui định.

Tuy vậy, trong quá trình thực hiện, vẫn còn một số vướng mắc sau:

Một là, các khoản chi thực tế, thực tập của giáo viên và học sinh rất hạn chế, định

mức chi rất hạn hẹp, mặt khác định mức về chi trả tiền thuê phòng ở khi đi thực tế gần như

không có, vì theo quy định công an các địa phương phải có nhà công vụ bố trí cho cán bộ

công an khi đến công tác ở, nhưng do số chỗ ở nhà công vụ các địa phương rất ít, hầu hết

cán bộ, giáo viên đi thực tế không được bố trí, do vậy chi phí cho đi thực tế (chủ yếu là

thanh toán tiền thuê phòng ở) chiếm chủ yếu thanh toán công tác phí.

Hai là, các chế độ quản lý tài chính mới chỉ tập trung quản lý vào những việc cụ thể

như: số ngày, số chuyến công tác nhưng lại không kiểm soát về mục đính, kết quả hoạt

động, cơ cấu các khoản này trong tổng số chi tiêu. Hậu quả một số giáo viên đăng ký đi

thực tế cao, dài ngày được thanh toán nhiều nhưng vẫn đúng chế độ làm hiệu quả chi tài

chính giảm sút, tỷ lệ chi hành chính cao.

Ba là, một điều bất hợp lý xảy ra là: hàng năm các công trình nhà ở, nhà làm việc

tăng, trang thiết bị sử dụng điện năng tăng, kể cả phục vụ sinh hoạt và giảng dạy, thì

khoản NSNN cấp cho khoản chi này hầu như không tăng mà còn yêu cầu giảm đi để

đảm bảo tiết kiệm theo chỉ tiêu. Tương tự như vậy, các nhu cầu về sử dụng văn phòng

phẩm, điện thoại…cũng tăng cả về số lượng, chủng loại mà kinh phí dùng cho các

khoản này cũng bị giảm bớt hàng năm.

Bốn là, các định mức khoán chi tiêu theo các khoản mục, nhất là chi hành chính,

thiếu thống nhất trong các đơn vị của Bộ Công an, do vậy xảy ra tình trạng so bì, việc giải

quyết thiếu kiên quyết, nhất là việc sử dụng điện thoại, điện sinh hoạt, phương tiện ô tô.

2.3.3. Công tác hạch toán, kế toán, kiểm toán

Hạch toán, kế toán ở các đơn vị của Bộ Công an nói chung và ở Trường Đại học

Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng là hoạt động thu nhận và cung cấp thông tin về tài sản và

các hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị nhằm giám sát, phản ánh và kiểm tra toàn bộ

tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị đó.

Hạch toán kế toán là một phần không thể thiếu của quản lý tài chính. Để thu nhận,

xử lý và cung cấp thông tin đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của các nhà quản lý, đòi hỏi

công tác ghi chép, tính toán, phản ánh số hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản,

quá trình và kết quả hoạt động sử dụng kinh phí của Trường phải kịp thời, chính xác.

Thông qua công tác hạch toán, trường có thể kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch

thu chi tài chính, tình hình thu nộp và thanh toán, kiểm tra việc giữ gìn và sử dụng tài sản,

sử dụng kinh phí, phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những hành động tham ô, lãng phí, xâm

phạm tài sản, vi phạm các chế độ chính sách, thể lệ tài chính, kinh tế của Nhà nước và của

đơn vị.

Thông qua quá trình ghi chép tổng hợp số liệu, hạch toán kế toán, cung cấp các số

liệu, tài liệu phục vụ cho việc điều hành và quản lý các hoạt động trong các đơn vị, kiểm

tra phân tích hoạt động kinh tế tài chính, phục vụ công tác lập kế hoạch và theo dõi tình

hình thực hiện kế hoạch, phục vụ công tác thống kê và thông tin kinh tế.

Công tác hạch toán kế toán trong các trường đại học hiện nay được thực hiện theo

chế độ kế toán hành chính sự nghiệp ban hành kèm theo quyết định 999/TC/QĐ/CĐKT

ngày 2 tháng 11 năm 1996 của Bộ tài chính. Bắt đầu từ tháng 3 năm 2006 công tác hạch

toán kế toán được thực hiện theo Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC về việc ban hành Chế

độ kế toán hành chính sự nghiệp thay thế Quyết định 999/TC/QĐ/CĐKT.

Kiểm toán cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý

tài chính và ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết. Kiểm toán luôn đi kèm, tiếp nối với

hoạt động kế toán. Nếu kế toán làm nhiệm vụ tổ chức thu thập, xử lý và cung cấp những

thông tin, thì kiểm toán chính là sự xác nhận tính chuẩn xác của thông tin và quan trọng

hơn là qua đó hoàn thiện các quá trình quản lý, hoàn thiện quá trình tổ chức thông tin phục

vụ có hiệu quả cho các đối tượng sử lý thông tin kế toán.

Công tác kiểm toán trong các trường đại học công lập hiện nay do Kiểm toán Nhà

nước thực hiện là chủ yếu, hầu như không có hoạt động kiểm toán nội bộ. Hoạt động kiểm

toán bước đầu đã được thực hiện, nhưng kết quả đạt được còn chưa tương xứng với vai trò

của hoạt động kiểm toán. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân sau: một là, do công tác

kiểm toán đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp hiện nay do Kiểm toán Nhà nước thực

hiện không thường xuyên (thường 5 năm một lần). Hai là, các đơn vị sự nghiệp hầu như

không có kiểm toán độc lập.

Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy công tác kiểm toán được Kiểm

toán Nhà nước thực hiện không thường xuyên, chỉ mới thực hiện một lần vào năm 2002.

Còn cơ quan chủ quản là Bộ Công an và nhà Trường đều không có bộ phận kiểm toán nội

bộ.

Như vậy, để đáp ứng nhu cầu quản lý tài chính đối với Trường Đại học Phòng cháy,

Chữa cháy, nhất là trong giai đoạn hiện nay, để đa dạng nguồn thu, nâng cao hiệu quả sử dụng

nguồn ngân sách cũng như các nguồn thu khác thì công tác hạch toán, kiểm toán cũng phải có

những giải pháp hữu hiệu hơn.

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO NGUỒN TÀI CHÍNH

VÀ HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY,

CHỮA CHÁY

3.1. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN ĐẢM BẢO NGUỒN TÀI CHÍNH VÀ

HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY,

CHỮA CHÁY

3.1.1. Đa dạng hoá các nguồn tài chính, giải quyết hài hoà lợi ích người học và

xã hội

Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và

hội nhập quốc tế, tốc độ tăng trưởng nhanh, sự phát triển mau lẹ của khoa học công nghệ,

sự nâng cao thu nhập cá nhân và mức sống, nhu cầu về giáo dục đại học tăng lên nhanh

chóng. Giáo dục, trong đó có giáo dục đại học được coi là lĩnh vực ưu tiên và phải đổi mới

mạnh mẽ. Sự tăng trưởng nhanh chóng kinh tế - xã hội đòi hỏi ngày càng nhiều người tốt

nghiệp đại học và sau đại học với chất lượng đạt mức chuẩn mực và đòi hỏi của xã hội.

Hệ thống giáo dục đại học nước ta sẽ phát triển nhanh cả về số lượng, chất lượng.

Tốc độ tăng tuyển sinh vào đại học trong thời gian tới sẽ là 5% năm. Tuy nhiên, việc tăng

NSNN cho giáo dục không theo kịp tốc độ tăng của số lượng học sinh. Điều đó tất yếu dẫn

đến phải huy động các nguồn tài chính khác, đặc biệt là các nguồn đóng góp từ phía người

học và nguồn tài trợ khác để bù đắp các chi phí đào tạo.

Quan điểm đa dạng hoá các nguồn tài chính cho giáo dục nói chung và giáo dục đại

học nói riêng đã được quán triệt rõ trong Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) “đầu tư cho

giáo dục – đào tạo lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển trong

NSNN…Tích cực huy động các nguồn ngoài ngân sách như học phí, nghiên cứu ban hành

các chính sách đóng góp phí đào tạo từ các cơ sở lao động” [16]. Trong chiến lược phát

triển Giáo dục 2001-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 28 tháng 12 năm

2001 cũng chỉ rõ “ tăng đầu tư từ NSNN, huy động mọi nguồn lực để phát triển giáo

dục…khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn bộ xã hội tham gia phát triển giáo

dục. Tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học

suốt đời tiến tới một xã hội học tập”. Quan điểm tăng cường đa dạng hoá các nguồn lực

cho giáo dục đào tạo trong các trường Công an nhân dân cũng được thể hiện trong Đề án

Tăng cường, đổi mới giáo dục và đào tạo trong công an nhân dân giai đoạn 2006-2020

ngày 17 tháng 7 năm 2006: “Nghiên cứu đề xuất mức tăng tỷ trọng kinh phí đào tạo trong

tổng kinh phí Bộ cấp cho khối trường và đảm bảo mức đầu tư kinh phí cho công tác đào tạo,

bồi dưỡng của lực lượng công an tương xứng với mức đầu tư cho giáo dục và đào tạo hàng

năm của Nhà nước. Chủ động khai thác và phát huy hiệu quả tối đa các nguồn tài chính đầu tư

cho giáo dục, đào tạo” [3].

Tóm lại, trong thời gian tới, đa dạng hoá các nguồn tài chính cho giáo dục vẫn sẽ là

định hướng cơ bản, nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào công cuộc phát

triển sự nghiệp giáo dục đào tạo. Việc thực hiện chủ trương đa dạng hoá nguồn tài chính,

đặc biệt là theo hướng tăng học phí từ sinh viên cần tính đến các vấn đề xã hội và chính

sách xã hội của Nhà nước. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, tuy nằm trong

khối trường vẫn chủ yếu được bao cấp về NSNN, nhưng trong tương lai, mở rộng đào tạo

nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế - xã hội là rất có điều kiện thực hiện và khả năng

tăng nguồn lực tài chính xã hội cho hoạt động của Trường là có cơ sở. Điều này phù hợp

với Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Trường và Quyết định số 171

của Bộ trưởng Bộ Công an về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Trường: “Đào

tạo cán bộ có trình độ đại học và các trình độ thấp hơn về phòng cháy chữa cháy, bồi

dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng làm công tác phòng cháy, chữa cháy trong

Công an, các ngành, đoàn thể và các tổ chức kinh tế xã hội theo quy chế văn bằng của Nhà

nước…” [12]. Như vậy, khi triển khai đào tạo chuyên ngành phòng cháy, chữa cháy cho các

đoàn thể, tổ chức kinh tế …thì vấn đề tăng cường thêm nguồn thu học phí sẽ được chú ý hơn,

không chỉ đảm bảo cho chi phí đào tạo trước mắt mà nó còn phải đảm bảo đầu tư phát triển lâu

dài của Trường.

Bên cạnh nguồn thu học phí, với chức năng hiện nay Trường Đại học Phòng cháy,

Chữa cháy, việc thực hiện việc nghiên cứu khoa học về phòng cháy, chữa cháy phục vụ

cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội cũng là một thế mạnh sẵn có của Trường cần được

chú ý phát triển. Hiện nay, nguồn thu này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng thu ngoài

NSNN của Trường. Trong tương lai, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như dự báo thị

trường này ngày càng phát triển và tăng nguồn thu từ dịch vụ này là rất khả thi.

Ngoài nguồn thu từ các dịch vụ khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy thì

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy còn có thêm nguồn thu từ dịch vụ đào tạo lái xe ô

tô, mô tô cho người dân. Đây là dịch vụ rất có điều kiện phát triển vì nhu cầu người dân về

dịch vụ này ngày càng tăng, bên cạnh đó yêu cầu về điều kiện bắt buộc khi tham gia giao

thông của người dân ngày càng khắt khe hơn.

Nói tóm lại, đa dạng các nguồn thu phục vụ cho công tác đào tạo và phát triển của

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là một xu hướng có triển vọng hiện thực và mang

tính tất yếu. Đây là một cách nhìn mới về quản lý tài chính so với trước đây. Nếu trước đây

chủ yếu dựa vào nguồn thu từ NSNN, thì sau này, thì ngoài nguồn thu từ NSNN, còn có

các nguồn thu khác như: học phí thu của học sinh ngoài ngành công an, thu từ các hợp

đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy chữa cháy, học phí đào tạo lái xe ô tô… và

nhiều nguồn thu khác. Việc tăng nguồn thu sẽ tạo điều kiện để nâng cao chất lượng cũng

như quy mô đào tạo của Trường ngày càng tốt hơn.

3.1.2. Mục đích của tăng cường quản lý tài chính là chi tiêu hiệu quả, tiết kiệm

và nâng cao chất lượng đào tạo

Quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy có mục đích giống như

ở các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung (dưới góc độ vi mô). Do đó, phải đảm bảo thực

hiện nguyên tắc hiệu quả, tiết kiệm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Hoạt động tài chính

ở các nhà trường, khác với các đơn vị sản xuất kinh doanh là không nhằm mục đích tạo ra

lợi nhuận mà phục vụ cho yêu cầu đào tạo với mục đích tạo ra các sản phẩm giáo dục có

chất lượng và được xã hội chấp nhận. Quản lý tài chính trong các trường đại học công lập

yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo.

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy bao gồm hai loại đơn vị thành viên: đơn vị

sự nghiệp có thu và các đơn vị sự nghiệp không có thu. Xét trên hoạt động quản lý tài

chính thì mục tiêu sử dụng hiệu quả, tiết kiệm là mục tiêu chung, nhưng đối với hai hoạt

động sự nghiệp có thu và hoạt động sự nghiệp không có thu có những mục tiêu cụ thể khác

nhau. Đối với hoạt động sự nghiệp không có thu thì mục tiêu sử dụng hiệu quả, tiết kiệm

tài chính nhằm nâng cao chất lượng đào tạo là mục tiêu hàng đầu. Còn đối với hoạt động

sự nghiệp có thu thì mục tiêu hàng đầu là đảm bảo chênh lệch thu – chi được coi là cao

nhất. Xét cụ thể đối với từng hoạt động sự nghiệp không có thu và hoạt động sự nghiệp có

thu đều có chung một mục đích đó là hiệu quả, tiết kiệm và nâng cao chất lượng đào tạo.

Đối với hoạt động sự nghiệp không có thu: Tính hiệu quả đối với quản lý tài chính ở đây

thể hiện trên hai mặt: hiệu quả bên trong và hiệu quả bên ngoài.

Hiệu quả bên trong, xét về mặt tài chính là xem xét chi phí tính trên đầu sinh viên,

hay tính trên đầu các nghiên cứu, chi tiết hơn là xem xét trên đầu các đơn vị học trình.

Hoạt động của một trường rất đa dạng và khó đo lường, nhưng hoạt động chính của

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là đào tạo sinh viên và nghiên cứu khoa học, vì

vậy chi phí tính trên đầu sinh viên hay tính theo đầu các nghiên cứu khoa học rõ ràng là

phản ánh tính hiệu quả của hoạt động chính trong trường. Với chất lượng đầu ra là cố định

thì hiệu quả bên trong trong là chi phí tính trên đầu sinh viên hoặc các hoạt động nghiên

cứu khoa học.

Hiệu quả bên ngoài của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là cung cấp đủ

nguồn nhân lực có chất lượng cho công tác phòng cháy, chữa cháy phục vụ sự phát triển

của đất nước. Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là trường độc nhất chuyên ngành

trong toàn quốc do đó, hiệu quả bên ngoài có ý nghĩa to lớn. Hiệu quả bên ngoài đòi hỏi,

với chi phí nhất định, phải đạt tới sự ăn khớp giữa nội dung đào tạo (cái học sinh được đào

tạo) với cái xã hội cần. Như vậy, hoạt động của trường phải hướng tới nhu cầu xã hội, làm

sao để tăng khả năng và hiệu quả đóng góp của Trường cho xã hội.

Để nâng cao hiệu quả trong quản lý tài chính, Trường cần soạn thảo và hoàn thiện

hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật thuộc thẩm quyền của Trường. Cụ thể, đó là định mức

chi giờ giảng, công tác phí, thực tế, định mức sử dụng điện thoại, điện, nước sinh hoạt,

định mức văn phòng phẩm, định mức xăng dầu, phương tiện ô tô, định mức chi quỹ khen

thưởng, quỹ phúc lợi chi cho lễ tết, thăm hỏi các đối tượng theo chính sách.

Đối với hoạt động sự nghiệp có thu, tính hiệu quả phải được đánh giá như một đơn

vị sản xuất, kinh doanh. Hiệu quả tài chính ở đây là chi phí theo đầu học sinh, theo đầu

hạng mục công trình làm sao với chi phí thấp nhất mà vẫn đạt yêu cầu dịch vụ mà thị

trường cần. Chỉ trên hiệu quả tổng hợp ở đây là chênh lệch thu – chi để tạo nguồn phát

triển sự nghiệp. Hiệu quả còn được tính trên khả năng cạnh tranh trên thị trường với các cơ

sở hoạt động cùng ngành nghề. Tuy nhiên, bên cạnh mục tiêu chênh lệch thu - chi thì các

hoạt động cung cấp dịch vụ này còn mang tính kết hợp nghiên cứu khoa học với ứng dụng

thực tiễn, phục vụ lại chính mục đích nâng cao chất lượng đào tạo (khả năng thực tiễn của

học viên). Nhưng xét cho cùng thì mục tiêu tổng hợp và cuối cùng của các hoạt động dịch

vụ này chính là làm sao có chênh lệch thu - chi lớn nhất.

Để đạt hiệu quả trong quản lý tài chính của đơn vị hành chính sự nghiệp có thu,

Trường cần có quy chế quản lý chi tiêu nội bộ và cơ chế giám sát thực hiện những nội

dung cụ thể sau:

- Hệ thống quy định về tổ chức bộ máy, quy chế tuyển dụng, hệ thống thang bảng

lương cụ thể. Bởi vì, nếu không có quy định cụ thể thì sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động như

một công ty tư nhân từ khâu tuyển dụng, chi lương…do một mình ban giám đốc quyết

định, đơn vị có thu như một “ vương quốc” riêng, làm mất công bằng trong nhiều vấn đề,

nhất là vấn đề thu nhập giữa các đơn vị trong nội bộ nhà trường.

- Đối với từng đơn vị, cần xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật chi tiêu cụ thể, vì

càng ở đơn vị có thu sự tự chủ trong quản lý tài chính đôi khi lại là cơ hội sử dụng tài

chính thiếu kế hoạch, không thống nhất.

- Quy chế phối hợp và mức chi cho việc sử dụng cán bộ, giáo viên trong thực hiện

các hợp đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy, chữa cháy. Hiện nay, tình trạng không

thống nhất, không cụ thể trong thực hiện các hợp đồng này đã, đang xảy ra dẫn đến tình

trạng không thu hút được cán bộ, giáo viên tham gia trực tiếp vào các hợp đồng kinh tế

này. Để đạt được tính hiệu quả, tiết kiệm thì các chi phí phải được tính toán theo hướng

tinh giảm các khoản chi không cần thiết nhưng không làm ảnh hưởng tới chất lượng đào

tạo. Nhà trường cần xác định được cơ cấu chi một cách hợp lý. Cơ cấu chi hợp lý ở đây là

phần chi trực tiếp cho công tác giảng dạy, học tập sẽ chiếm tỷ trọng lớn, được thực hiện

theo một kế hoạch vạch sẵn nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo.

3.1.3. Quản lý tài chính gắn với hoàn thiện các chính sách, tăng cường tính tự

chủ của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy

Quản lý tài chính là một lĩnh vực rất nhạy cảm, đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt các

quy định về tài chính, đặc biệt là những định mức, tiêu chuẩn, chế độ tài chính, liên quan

đến thu - chi. Trong quá trình đổi mới hiện nay, các quy định, hướng dẫn về chế độ quản lý

tài chính càng đầy đủ, chi tiết làm cho công tác quản lý tài chính càng thuận lợi trong các

công việc nghiệp vụ. Tài chính vừa là một trong những công cụ quản lý của Nhà nước đối

với các trường học, vừa là công cụ quản lý của chính các trường đối với các đơn vị trực

thuộc mình nhằm thực hiện tốt các mục tiêu của đơn vị. Trong điều kiện hiện nay, sự

chuyển đổi của nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, hoạt động giáo dục đào tạo, trong đó có giáo dục đại học cũng phát triển đa dạng,

thích nghi với cơ chế mới, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, nghiên cứu khoa học và cung

ứng dịch vụ. Tài chính chỉ có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, khi không ngừng hoàn

thiện các chính sách, chế độ bao gồm cả trong nội bộ của các trường cũng như của Nhà

nước.

Theo tinh thần của Luật Giáo dục , việc hoàn thiện các chính sách chế độ tài chính

phải dựa trên cơ sở “đề cao trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ, Sở Giáo dục và Đào tạo,

đồng thời tăng quyền tự chủ của cơ sở, nhất là các trường đại học, mở rộng dân chủ trong

nhà trường” [21]. Trước đây, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tính độc lập, chủ động,

sáng tạo của nhà trường bị thu hẹp, trường hoàn toàn thụ động trong đào tạo. Cơ chế đó

làm cho hoạt động giáo dục trì trệ. Trong xu hướng đổi mới quản lý giáo dục sắp tới, các

trường đại học được tăng cường quyền tự chủ gắn liền với trách nhiệm. Các trường phải có

chính sách thích hợp phục vụ mục tiêu phát triển của mình. Trường Đại học Phòng cháy,

Chữa cháy có đội ngũ cán bộ khoa học rất mạnh trong lĩnh vực khoa học phòng cháy, chữa

cháy, nhưng lực lượng này đến nay vẫn không phát huy được khả năng của mình do cơ chế

quản lý vẫn theo nếp cũ. Nhưng nếu buông lỏng việc giám sát, quản lý và điều tiết thì dẫn

đến việc các đơn vị bung ra không kiểm soát được, các đơn vị sẽ có xu hướng bung ra theo

hướng tự phát, chạy theo lợi ích trước mắt, cục bộ, cá nhân. Vì vậy, cơ chế mới sẽ phải

theo nguyên tắc tập trung - dân chủ thay vì trực tiếp can thiệp vào công việc sự vụ của nhà

trường thì Bộ sẽ chuyển sang tư cách thực hiện chức năng quản lý nhà nước, tức là ban

hành các chính sách, chế độ, tạo môi trường cạnh tranh về chất lượng đào tạo, kiểm tra,

kiểm soát đầu vào, đầu ra…Phương châm quản lý nhà nước là thông qua chính sách, chế

độ ban hành, thực hiện các mục tiêu quản lý của mình là nâng cao chất lượng đào tạo, tăng

số lượng và công bằng trong đào tạo. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy,

sau khi giao quyền chủ động toàn diện, trong đó có tự chủ tài chính, Trường sẽ có

quyền chủ động trong việc sử dụng các nguồn kinh phí, trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện

các nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học tốt hơn so với cơ chế hiện nay. Tự chủ tài

chính chính là Nhà nước giao quyền chủ động cao trong quản lý về lao động và quản lý

tài chính cho nhà trường. Trách nhiệm của Trường trong tự chủ tài chính là chủ động

trong công tác tổ chức quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học đảm bảo sẽ sử dụng tốt

nhân lực và các nguồn lực khác có hiệu quả, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà

trường. Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định

chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, về tổ chức bộ máy biên chế

và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

3.2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ VỀ ĐẢM BẢO CÁC NGUỒN TÀI CHÍNH

3.2.1. Đối với nguồn ngân sách nhà nước

Như phần trên đã phân tích, nguồn NSNN cấp cho Trường Đại học Phòng cháy,

Chữa cháy gồm các khoản chi thường xuyên, các khoản chi không thường xuyên (gồm chi

đầu tư XDCB, chi nghiên cứu khoa học, chi cho các chương trình mục tiêu, chi mua sắm

trang thiết bị dạy học), chiếm tới 73% tổng các nguồn thu của Trường.

Đối với nguồn chi thường xuyên: NSNN cấp chi thường xuyên để đảm bảo các hoạt

động của nhà trường, không bao gồm các khoản chi có tính chất đầu tư phát triển. Nhà

nước sẽ không cấp và không quyết toán vào chi thường xuyên các khoản mang tính chất

đầu tư, XDCB, sửa chữa lớn tài sản cố định, mua sắm tài sản có giá trị lớn, thiết bị dạy

học.

Để đảm bảo sử dụng có hiệu quả chi thường xuyên, NSNN cấp cho chi thường

xuyên của Trường phải được xây dựng căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn, định mức, chế độ

rõ ràng, công khai. Cụ thể như sau:

- Căn cứ vào mức độ ưu tiên của ngành đào tạo, căn cứ vào ngành đào tạo mà

NSNN định mức nhiều hay ít cho các ngành nghề đào tạo mà Nhà nước thấy cần khuyến

khích hay không trong từng thời kỳ nhất định. Mức chi cho đào tạo học viên phòng cháy,

chữa cháy phải được nâng lên so với hiện nay do đây là ngành phục vụ an toàn xã hội.

- Mức cấp NSNN cần căn cứ vào chi phí đào tạo thực tế theo chỉ tiêu của nhà

trường. Việc cấp NSNN dựa vào chi phí đào tạo, Trường sẽ đảm bảo cho nhà trường có đủ

chi phí đào tạo mà không phải cắt giảm các khoản chi. So với các trường công an nhân dân

thì Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là một trường quy mô nhỏ, nhưng mang tính

đặc thù là trường khoa học kỹ thuật (các trường công an nhân dân khác chủ yếu là chuyên

ngành quản lý, xã hội), nên chi phí đào tạo đơn vị cao, mặt khác do là trường khoa học kỹ

thuật cho nên chí phí cho thực hành, thí nghiệm cao hơn, quy mô đầu học sinh trên lớp học

ít hơn, cho nên chi phí đơn vị càng cao hơn. Do vậy, NSNN cần nghiên cứu định mức cấp

cho Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy cao hơn các trường bình thường khác. Mức

cao hơn phải ở mức 30 - 50% mới đáp ứng đủ yêu cầu chi phí cho các nội dung đào tạo.

- Hàng năm, cần có nguồn NSNN thường xuyên bổ sung để duy trì hoạt động của

các trang thiết bị đã được mua sắm từ nguồn NSNN không thường xuyên. Một thực tế

nhiều năm qua cho thấy, trong khi các trang thiết bị ngày càng tăng cả về số lượng và tần suất

sử dụng, dẫn đến tiêu hao nhiên liệu, năng lượng điện…ngày càng tăng thì kinh phí thường

xuyên hầu như không tăng.

Đối với nguồn NSNN không thường xuyên như XDCB, sửa chữa lớn, đầu tư mua

sắm tài sản cố định có giá trị lớn theo các hướng, giải pháp đổi mới quản lý bao gồm:

- Áp dụng chặt chẽ các định mức của Nhà nước về XDCB, đảm bảo tốc độ đầu tư

tương ứng với tốc độ tăng đầu tư cho toàn ngành. Đối với đầu tư XDCB hiện nay định

mức áp dụng trong Bộ Công an là thấp so với các bộ khác, trong khi đó, định mức cho

XDCB đối với các trường công an nhân dân lại càng thấp hơn. Định mức áp dụng cho

XDCB của các trường công an nhân dân thấp làm cho các công trình có trang thiết bị

lạc hậu, kém chất lượng, nhanh xuống cấp, trong khi công suất sử dụng cao hơn càng

làm cho các công trình XDCB có tuổi thọ thấp và thường xuyên phải duy tu, bảo

dưỡng, nâng cấp.

- Nguồn kinh phí cấp cho mua sắm tài sản cố định có giá trị lớn hiện nay chủ yếu

thông qua thực hiện các dự án. Nguồn kinh phí này hiện nay rất hạn chế vì quy mô các dự

án đã được thực hiện cũng ở mức độ rất nhỏ, do vậy khó thực hiện được các nhu cầu tương

lai của công tác đào tạo chuyên ngành phòng cháy, chữa cháy. Ví dụ, mức đầu tư cho một

dự án lớn nhất của nhà trường từ trước tới nay là 11 tỷ đồng, thì nếu với nhu cầu đáp ứng

mua một số ô tô chuyên dụng trong thực hành huấn luyện phòng cháy, chữa cháy thôi cũng

phải cần tới 50 tỷ, như vậy với quy mô đầu tư theo dự án hiện nay thì không thể đáp ứng

được hoạt động đào tạo cho tương lai. Mặt khác, đối với NSNN cấp cho các dự án cũng

mang tính bình quân, mỗi đơn vị thường chỉ được thực hiện một đến hai dự án trong một

thời điểm (thường là một năm), cho nên khả năng nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo

đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là rất khó khăn. Như vậy trong tương lai,

Trường sẽ phải có kế hoạch đầu tư theo dự án theo hướng đầu tư đồng bộ và các cơ quan

quản lý NSNN cần ủng hộ hướng phát triển này.

- Nguồn NSNN mua sắm trang thiết bị dạy học hàng năm cho các trường thường rất

nhỏ. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, nguồn này chưa đạt 1 tỷ trong một

năm. Với mức độ cấp như vậy càng làm cho việc mua sắm thiết bị khó khăn. Việc tính

toán nguồn NSNN cho mua sắm thiết bị phải đươc chú ý đặc biệt.

3.2.2. Nguồn ngoài ngân sách nhà nước

Đối với nguồn thu học phí: Đối tượng thu học phí hiện nay ở Trường Đại học

Phòng cháy, Chữa cháy không nhiều. Tuy nhiên, nếu được phép đào tạo học sinh ngành

ngoài công an nhân dân thì nguồn thu này có tiềm năng khá lớn. Để tăng dần nguồn thu

này, Trường cần áp dựng thực hiện một số biện pháp

- Xây dựng mức đóng học phí hợp lý để đảm bảo các chi phí trong quá trình đào tạo

tại Trường. Hiện nay mức học phí này mới chỉ tính đủ cho các chi phí cơ bản, hầu như

không có tích luỹ để đầu tư phát triển. Trong tương lai, đối tượng sinh viên sẽ được mở

rộng nhằm đáp ứng nhu cầu của các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội thì việc xác định mức

thu học phí hợp lý càng đặt ra một cách cấp thiết hơn.

- Cần thực hiện thu học phí đối với đối tượng đào tạo hệ tại chức, liên kết, vừa học

vừa làm, vì các đối tượng này có thu nhập bằng lương, mặt khác đây là nhu cầu tự thân,

cần bớt gánh nặng bao cấp từ NSNN.

Đối với nguồn thu từ các hoạt động ứng dụng khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa

cháy: Đây là hoạt động cung cấp ứng dụng kết quả nghiên cứu và thực hiện các phần việc

như một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ phòng cháy, chữa cháy. Tuy

nhiên, nhân lực tham gia vào hoạt động này chủ yếu mang tính kiêm nhiệm. Hiện nay,

Trường thường khuyến khích cán bộ, giáo viên tham gia theo dạng đi thực tế theo kế

hoạch hàng năm. Để tăng nguồn thu này cần thực hiện một số giải pháp sau:

- Đề xuất mở rộng ngành nghề kinh doanh so với hiện nay. Ví dụ, cần đăng ký kinh

doanh các lĩnh vực kiểm định trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy, tư vấn thiết kế, giám

sát thi công các hệ thống phòng cháy, chữa cháy. Hiện nay, Trường Đại học Phòng cháy,

Chữa cháy đã được đầu tư trang thiết bị hiện đại, sử dụng rất tốt trong kiểm định độ an

toàn cho các thiết bị, nhưng đến nay chỉ mới phục vụ đào tạo, chưa được phép thực hiện

dịch vụ trên thị trường. Bên cạnh đó, dịch vụ tư vấn về thiết kế, giám sát hiện nay trong hoạt

động đầu tư là rất cần thiết, trong khi đó, Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy có thế

mạnh về đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ cao về lĩnh vực này.

- Tăng cường khâu quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để chính thức

tham gia thị trường cung cấp dịch vụ này. Trong những năm qua, hầu như Trường không có

quảng cáo, giới thiệu để thu hút hợp đồng kinh tế mà chủ yếu do các quan hệ quen biết cá

nhân và thông qua một số công ty hoạt động trong lĩnh vực này hợp tác. Nếu chú ý đến khâu

quảng cáo, chắc chắn sẽ đẩy mạnh số lượng hợp đồng và sẽ tạo được nguồn thu lớn cho

trường.

- Phải có lộ trình và giải pháp xây dựng thương hiệu cho Trung tâm Ứng dụng Khoa

học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy để nhằm khẳng định uy tín cung ứng, khả năng thực

hiện các hợp đồng kinh tế. Hiện nay Trung tâm hoạt động chủ yếu dựa vào uy tín của

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy chứ thực chất chưa có thương hiệu riêng của

mình. Có thể xây dựng Trung tâm thành Công ty trực thuộc Trường như mô hình công ty

của một số trường như : Đại học Bách khoa Hà nội, Đại học Xây dựng, Đại học Kiến

trúc…

- Cần mở rộng lĩnh vực hoạt động khoa học, công nghệ từ ba lĩnh vực: nghiên cứu

ứng dụng , nghiên cứu thiết kế, thi công, bảo hành, bảo trì, huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp

vụ phòng cháy, chữa cháy, lên nhiều lĩnh vực theo hướng bổ sung các lĩnh vực như: tư

vấn, giám sát; kiểm định trang thiết bị an toàn phòng cháy, chữa cháy. Đây là thế mạnh

của nhà trường cả về con người và trang thiết bị.

- Cần xây dựng thống nhất, công khai cơ chế sử dụng cán bộ, giáo viên tham gia

kiêm nhiệm tại Trung tâm. Vấn đề chủ yếu vẫn là đổi mới cơ chế tài chính trong việc sử

dụng nguồn nhân lực này.

Đối với nguồn thu từ đào tạo lái xe ô tô, mô tô: Đây là hoạt động có nguồn thu

tương đối ổn định và có xu hướng ngày càng tăng. Nguồn thu này chủ yếu thu từ các cá

nhân cho nên nguồn thu ổn định, tin cậy, đúng kế hoạch. Tuy vậy, để đảm bảo nguồn

thu này cũng cần thực hiện một số biện pháp sau:

- Cần có kế hoạch và tiến hành xây dựng cơ sở vật chất theo hướng chuẩn hoá và hiện

đại bao gồm: sân bãi, phương tiện, đội ngũ giáo viên dạy lái…Đây chính là điều kiện để phát

triển hoạt động này để có nguồn thu ổn định.

- Có kế hoạch và chính sách phát triển đội ngũ giáo viên dạy lái chất lượng cao, có

đạo đức nghề nghiệp, tay nghề, trình độ sư phạm cao. Đây là điều kiện để tạo ra thương

hiệu cho Trung tâm Đào tạo lái xe của trường. Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ giáo viên

thì cần có cơ chế sử dụng hợp lý số lao động này.

- Khi tuyển dụng, cần công khai hoá tiêu chuẩn, nhu cầu tuyển dụng, đối tượng cần

tuyển dụng để khắc phục tình trạng vừa thừa, vừa thiếu nhân lực: thừa nhân lực có trình độ

thấp, thiếu nhân lực có trình độ cao, nể nang tiếp nhận tuyển dụng người nhà, người quen

thiếu tiêu chuẩn.

Đối với nguồn tài trợ từ nước ngoài: Đây là nguồn thu được xác định có tiền năng

lớn trong tương lai vì khả năng hợp tác trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy là rất lớn.

Nguồn thu này không chỉ trong lĩnh vực đào tạo mà còn cả trong hợp tác nghiên cứu,

chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật… Hiện nay, Trường Đại học Phòng cháy, Chữa

cháy được phép hợp tác với tổ chức JICA của Nhật Bản với dự án: “Nâng cao năng lực

đào tạo chuyên ngành phòng cháy, chữa cháy”. Với từng giai đoạn thực hiện của dự án,

nếu được triển khai thì đây không chỉ là nguồn tài chính lớn mà còn là nguồn công nghệ kỹ

thuật, công nghệ đào tạo. Ngoài ra, cần có hợp tác, trao đổi với các nước khác, nhất là với

Trung quốc, Mỹ… Bởi vì, trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy hiện nay chủ yếu là nhập

khẩu từ Trung Quốc và Mỹ. Việc tăng cường hợp tác đào tạo và dịch vụ phòng cháy, chữa

cháy với Lào cũng là hướng đi đúng đắn và rất có tiềm năng. Trường cần có các biện pháp

cụ thể khai thác hướng hợp tác này.

Đối với việc sử dụng các nguồn thu, cần linh hoạt và hỗ trợ thu chi trong quá trình

hoạt động. Vì thực tế các hoạt động tạo ra nguồn thu có tính chất sử dụng vồn khác nhau.

Ví dụ như đào tạo lái xe thường tồn đọng tiền mặt lớn có thể khai thác thu nhập thêm bằng

cách gửi tiết kiệm tại ngân hàng; ngoài ra, cần đầu tư vào hoạt động thi công lắp đặt hệ

thống phòng cháy, chữa cháy, đối với hoạt động này, như vậy có thể hỗ trợ các hoạt động

hợp đồng về nguồn tài chính.

Đối với các nguồn thu dịch vụ khác: Với số lượng học viên trên 1000 như hiện nay,

việc tổ chức các dịch vụ phục vụ học sinh hầu như không có. Nguyên nhân dẫn đến tình

trạng trên là ngay từ nhận thức, cho rằng học sinh sinh hoạt nội trú thì mọi nhu cầu sinh

hoạt đã đáp ứng theo qui định của lực lượng vũ trang, tính chất quản lý ký túc xá theo hình

thức trại lính… Nhưng trong thực tế, đối tượng học viên tại Trường khác hẳn so với đối

tượng chiến sỹ nghĩa vụ, nhiều nhu cầu chính đáng khác của học viên chưa được đáp ứng,

điều đó làm ảnh hưởng tới cuộc sống, chất lượng sinh hoạt và kết quả học tập của học

viên. Với 1000 học viên, nhưng toàn bộ khu ký túc xá khép kín không có các dịch vụ cung

cấp văn phòng phẩm, dịch vụ giải khát, dịch vụ internet, điện thoại…thì thực sự không còn

phù hợp với tương lai. Do vậy, cần tổ chức các dịch vụ theo nhu cầu của học viên. Nếu tổ

chức tốt dịch vụ này thì không những có nguồn thu không nhỏ về mặt tài chính mà còn có

tác dụng rất lớn đối với công tác quản lý, giáo dục học viên trong Trường.

3.3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH

3.3.1. Công tác lập dự toán, xây dựng kế hoạch

Lập dự toán thu chi là nền tảng của kế hoạch tài chính trong nhà trường. Thời gian

trước đây, do nguồn NSNN là chủ yếu, việc lập kế hoạch chỉ tập trung vào các yêu cầu của

nguồn NSNN, chưa chú ý tới các nguồn thu, chi khác. Trong bối cảnh sắp tới, hoạt động

tài chính trong Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy không chỉ có nguồn NSNN, do

vậy yêu cầu lập kế hoạch tài chính là phải phản ánh đầy đủ các nguồn tài chính và chi tiêu

từ các nguồn này. Lập kế hoạch tài chính chi tiết giúp cho công tác tổ chức thực hiện được

thuận lợi, có căn cứ đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính. Công tác xây dựng kế

hoạch tài chính thời gian tới cần hoàn thiện theo bốn nội dung sau:

Một là, kế hoạch hoạt động tài chính hàng năm phải được thể hiện trong dự toán thu

chi của đơn vị. Dự toán thu chi của đơn vị cần lập có căn cứ và sát thực tế. Lập dự toán tài

chính không chỉ quan niệm đó là công việc của riêng Phòng Hậu cần, mà cần coi đó là

hoạt động quan trọng trong quản lý của tất cả các đơn vị, do vậy phải là công việc chung

đòi hỏi sự phối hợp, tham gia của nhiều bộ phận, phòng, bộ môn trong Trường. Như vậy,

phải đổi mới công tác lập kế hoạch tài chính theo hướng Phòng Hậu cần là đầu mối, các

phòng, bộ môn khác có nhiệm vụ phải tham gia, đặc biệt là Phòng Đào tạo có một vai trò

quan trọng. Nếu trong các doanh nghiệp, bộ phận kinh doanh đóng vai trò quan trọng

mang lại công ăn việc làm, thu nhập cho doanh nghiệp và có vai trò rất quan trọng trong

công tác lập kế hoạch sản xuất tài chính, thì vai trò của Phòng Đào tạo trong Trường cũng

tương tự như vậy.

Hai là, lập kế hoạch tài chính đối với các nguồn thu cần chi tiết cho từng nguồn thu,

trên cơ sở tính toán, phương pháp tính toán các nguồn thu để có căn cứ theo dõi và quản lý

các nguồn thu.

Ba là, đối với các khoản chi tiêu thường xuyên, lập chi tiết cho từng khoản chi tiêu,

trong đó tách bạch chi tiêu cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và các khoản chi hành

chính quản lý. Xây dựng kế hoạch tài chính đối với các khoản chi thường xuyên phải xác định

được cơ cấu chi tiêu trong nhà trường, có như vậy, kế hoạch mới thực sự là công cụ quản lý tài

chính.

Bốn là, riêng các khoản chi tiêu đầu tư XDCB, sửa chữa lớn, mua sắm tài sản cố

định có giá trị lớn, cần lập dưới dạng dự án trên cơ sở căn cứ vào nhu cầu phát triển của

Trường.

3.3.2. Tăng cường quản lý thu - chi

Tăng cường quản lý các nguồn thu cần thực hiện các giải pháp cả đối với nguồn

NSNN và nguồn ngoài NSNN.

Đối với nguồn NSNN, Trường cần lập dự toán theo tháng, quý, dựa vào nhu cầu chi

tiêu của đơn vị làm căn cứ để tiếp nhận ngân sách do cấp trên cấp. Kiến nghị với Nhà nước

chuyển việc cấp phát NSNN quá chi tiết theo nhiều “mục” hiện nay sang việc cấp phát

tổng hợp theo hướng ít “mục" hơn. Cụ thể trong dự toán cần giảm xuống còn 7 “mục”:

i) Chi tiền lương và các khoản chi cho cá nhân (tiền lương, tiền công, phụ cấp, học

bổng, tiền thưởng, phúc lợi tập thể, các khoản thanh toán cho

cá nhân).

ii) Chi về hàng hoá dịch vụ (thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư, văn phòng, thông

tin, tuyên truyền, liên lạc, công tác phí, chi thuê mướn, sửa chữa thường xuyên, bảo dưỡng

định kỳ tài sản cố định).

iii) Chi nghiệp vụ chuyên môn từng ngành (chi cho y tế, trang phục, văn hoá văn

nghệ, thể dục thể thao).

iv) Chi cho đào tạo (đào tạo tập trung, đào tạo tại chức)

v) Chi cho nghiên cứu khoa học (nghiên cứu khoa học theo các đề tài, hội thảo);.

vi) Chi hỗ trợ (công tác xã hôi, chi viện trợ).

vii) Chi đầu tư phát triển (mua sắm tài sản cố định dùng cho công tác chuyên môn,

trang thiết bị chuyên ngành).

Việc quản lý các khoản chi nguồn NSNN phải đảm bảo đúng định mức, chế độ, tiêu

chuẩn và theo quy định theo Luật NSNN.

Đối với nguồn ngoài NSNN: Thực hiện quản lý tập trung về Phòng Hậu cần đối với

tất cả các khoản thu liên quan đến hoạt động đào tạo, dịch vụ và các hoạt động khác thuộc

trách nhiệm quản lý Trường. Chấm dứt việc phân cấp chi tiêu cho cấp dưới theo hình thức

“tọa chi”.

Các giải pháp hoàn thiện công tác chi tiêu tài chính bao gồm:

- Hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý tiền lương, chế độ thanh toán cho đội ngũ

cán bộ, giảng viên gồm các nội dung sau:

Thứ nhất, thống nhất một hệ thống, chế độ thanh toán tiền lương cho cán bộ, giảng

viên không phân biệt nguồn thu, hay cụ thể không phân biệt là khoá chính quy hay khoá tại

chức. Xây dựng định mức chi hợp lý cho giảng viên và cán bộ quản lý, chấm dứt tình trạng

giảm tiền giờ giảng của giảng viên để chi thêm cho công tác quản lý.

Thứ hai, có chính sách chế độ quy định cụ thể đối với cán bộ giảng dạy làm công

tác kiêm nhiệm. Quy định về hệ số lương, phụ cấp, tỷ lệ đảm nhận các công việc giảng

dạy, quản lý để có thể thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ, tiến tới chuyên nghiệp hoá công tác

quản lý.

Thứ ba, tuyển dụng tăng thêm đội ngũ giáo viên để giảm việc chi trả tiền vượt giờ

quá lớn hiện nay (tăng biên chế cho các bộ môn giáo dục theo định mức chung nhưng phải

tính toán là đơn vị có tính đặc thù : là một trường đơn ngành, đa hệ, quy mô học sinh nhỏ),

mặt khác phải có chính sách, chế độ thù lao khuyến khích giảng viên tham gia công tác

nghiên cứu khoa học.

Thứ tư, đối với những đối tượng hợp đồng lao động ngắn hạn làm công tác nhà ăn,

phục vụ điện nước đã ổn định nhiều năm, đề nghị được chuyển sang hợp đồng không xác

định thời hạn để được hưởng chế độ thang bậc lương theo năm và được tham gia bảo hiểm

theo đúng quy định của Nhà nước, làm giảm thiệt thòi cho những đối tượng này.

- Các giải pháp hoàn thiện cơ chế chi trả học bổng cho sinh viên theo ba hướng nội

dung:

Thứ nhất, thực hiện chi trả học bổng cho học sinh theo tháng, việc trả như vậy giúp

cho học viên có một khoản thu nhập ổn định hơn để trang trải cho các chi tiêu hàng ngày.

Thứ hai, dành một phần quỹ phúc lợi để mở rộng tài trợ cho những học sinh

thuộc diện có hoàn cảnh khó khăn, gia đình nghèo, thực hiện tốt công bằng xã hội,

giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo do tác động của nền kinh tế thị trường.

Thứ ba, xây dựng cơ chế phân phối học bổng theo thời gian từng năm học cùng với

có chế độ khen thưởng thích hợp để khuyến khích học sinh khá giỏi tiếp tục phấn đấu để

có kết quả cao hơn.

- Giải pháp đối với khoản chi văn phòng phẩm, điện nước, điện thoại, công tác phí:

một mặt quản lý chi theo định mức của nhà nước, mặt khác cần quản lý theo cơ chế khoán

chi để đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. Kiến nghị với Bộ Công an thống nhất định mức khoán

chi trong Bộ Công an, kiến nghị với Nhà nước sửa đổi các chế độ, định mức đã không còn

phù hợp với tình hình hiện nay.

- Giải pháp đối với đầu tư XDCB, sửa chữa lớn có giá trị cao: quy định phải đấu

thầu thì cần thuê tư vấn trong lập dự án, tổ chức đấu thầu xét thầu, theo dõi, giám sát thi công

để bảo đảm tính hiệu quả của công tác đầu tư XDCB. Kiến nghị với cơ quan Bộ Công an tăng

mức đầu tư cho sửa chữa lớn, tài sản cố định có giá trị, trong thực tế nhiều năm gần đây

kinh phí này không có.

- Giải pháp trong công tác quản lý mua sắm tài sản cố định: cùng với việc chấp

hành các quy định hiện hành của Nhà nước về thủ tục, thì trong quá trình thực hiện cần

tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn, chuyên gia và xem đó như là thủ tục trong việc

mua sắm, đảm bảo cho đầu tư có hiệu quả. Thực hiện đầy đủ quy trình đấu thầu, trong đó

chú trọng đấu thầu rộng rãi để có nhiều cơ hội lựa chọn nhà thầu trong mua sắm tài sản cố

định.

- Giải pháp về quản lý trong quá trình khai thác sử dụng tài sản cố định: xây dựng

chế độ tiêu chuẩn về tài sản cố định cho từng bộ phận, trên cơ sở đó có kế hoạch trang bị

tài sản, đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ở từng bộ phận. Quá trình quản lý tài sản bắt đầu

từ khi mua sắm cho đến khi tài sản không còn sử dụng được phải thanh lý, trong đó quản

lý quá trình sử dụng tài sản là khâu quan trọng. Đầu tư trang thiết bị đúng, nhưng sử dụng

không hợp lý, không phát huy hết hiệu quả của tài sản đó chính là một sự lãng phí. Do vậy,

đi đôi với quản lý mua sắm tài sản cố định cần theo dõi, quản lý quá trình sử dụng của tài

sản cố định, đảm bảo phát huy hiệu suất cao nhất của tài sản cố định trong quá trình hoạt

động của đơn vị.

3.3.3. Tăng cường hạch toán kế toán, kiểm toán, thanh tra đi đôi với công khai

tài chính

Tăng cường quản lý tài chính không thể không tính đến công tác hạch toán kế toán.

Hạch toán kế toán thực hiện việc thu nhận và sử lý thông tin về các hoạt động kinh tế tài

chính một cách thường xuyên liên tục, toàn diện và có hệ thống. Trường cần xây dựng chế

độ định kỳ báo cáo kế toán, cung cấp những thông tin đã thu nhận và xử lý của đơn vị cho

lãnh đạo, cơ quan quản lý các cấp. Thu nhận, xử lý cung cấp thông tin phải đáp ứng yêu

cầu và chuẩn mực kế toán, nghĩa là công tác ghi chép, hạch toán, phản ánh hoạt động tài

chính phải chính xác, kịp thời. Theo hướng này, công tác hạch toán kế toán trong trường

cần hoàn thiện theo năm nội dung sau:

Thứ nhất, nghiên cứu và vận dụng loại hình tổ chức công tác kế toán phù hợp với

tình hình cụ thể của đơn vị. Trong công tác hạch toán kế toán, lựa chọn hình thức tổ chức

kế toán là công việc quan trọng. Lựa chọn hình thức tổ chức kế toán phù hợp sẽ phát huy

đầy đủ vai trò của công tác kế toán, thống kê trong quản lý các hoạt động kinh tế tài chính,

góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ của nhà trường đã đề ra.

Thứ hai, tổ chức xây dựng hệ thống chứng từ kế toán, tổ chức hạch toán ban đầu và

tổ chức luân chuyển chứng từ một cách khoa học.

Thứ ba, lựa chọn hình thức kế toán phù hợp, tổ chức thực hiện chế độ báo cáo kế

toán và kiểm tra kế toán. Số liệu trong báo cáo kế toán là số liệu mang tính tổng hợp về

tình hình hoạt động của đơn vị theo những chỉ tiêu kinh tế tài chính phục vụ cho công tác

quản lý của đơn vị và của các cơ quan quản lý cấp trên.

Thứ tư, tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, khoa học quản

lý cho đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán, tạo khả năng và điều kiện để đội ngũ cán bộ kế

toán học tập nâng cao trình độ.

Thứ năm, ngoài việc chấp hành các chế độ chính sách của nhà nước về kế toán

thống kê, nhà trường trong thẩm quyền cần ban hành các mẫu chứng từ, biểu mẫu liên

quan đến hoạt động quản lý tài chính. Cụ thể: đối với nguồn thu ngoài NSNN phải theo dõi

theo từng nguồn thu chi tiết theo từng đối tượng, từng lớp học, khoá học để có thể đánh giá

được hiệu quả của hoạt động tài chính. Phải có báo cáo thống kê chi phí theo từng lớp học,

khoá học giúp cho nhà trường xác định được chi phí đơn vị cho từng loại hình đào tạo, trên

cơ sở đó cân đối với nguồn thu, đề xuất phương án cân đối tài chính.

Đi đôi với tăng cường công tác hạch toán kế toán, cần chú trọng thực hiện tốt công

tác kiểm toán, trong đó có kiểm toán nội bộ, coi công tác kiểm toán là một hoạt động

không thể thiếu trong quản lý tài chính của đơn vị. Vì vậy, đối với Trường, cần có cán bộ

làm công tác kiểm toán nội bộ, hoặc thuê kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo tài chính

hàng năm, phục vụ quản lý tài chính của Trường. Thực hiện được như vậy, công tác hạch

toán kế toán, báo cáo tài chính và quản lý tài chính của trường sẽ có độ chính xác, tin cậy

cao, giúp công tác quản lý, điều hành trong nhà trường đạt hiệu quả hơn.

3.4. TĂNG CƯỜNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN

LÝ TÀI CHÍNH

Để đáp ứng yêu cầu quản lý trong điều kiện thực hiện đa dạng hoá loại hình đào tạo, đa

dạng hoá các nguồn tài chính khi công nghệ thông tin đã phát triển khá phổ biến trước hết phải

ưu tiên mua sắm trang thiết bị như máy vi tính, nối mạng quản lý từ kế toán chi tiết, kế toán tổng

hợp, kế toán tài sản, kế toán kho…

Quá trình thu nhận, xử lý, lưu trữ, phân phối thông tin trong quản lý tài chính ở các

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy cũng giống như quy trình chế biến sản phẩm, bao

gồm nhiều khâu, mỗi khâu đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau. Khối lượng thông tin

cần xử lý ngày càng lớn, việc tiếp nhận, xử lý thông tin ra quyết định quản lý tài chính

theo hình thức tập trung, hiện đại bằng các thiết bị điện tử và các phần mền ứng dụng sẽ

giúp cho công tác quản lý tài chính đạt hiệu quả tốt hơn. Áp dụng tin học vào công tác

quản lý tài chính theo hướng trang bị đồng bộ các thiết bị tin học nối mạng. Việc nối mạng

quản lý có tác dụng, một mặt giúp cho các bộ phận nghiệp vụ, quản lý tài chính trao đổi

thông tin, dữ liệu được dễ dàng, mặt khác lãnh đạo đơn vị dù ở xa vẫn có thể truy cập các

thông tin về tài chính của đơn vị, trên cơ sở đó có các quyết định quản lý.

Đối với ứng dụng tin học trong công tác kế toán cần đạt các yêu cầu:

- Dễ dàng trong thao tác, đảm bảo các yêu cầu hạch toán, cả giá trị lẫn số lượng.

- Biểu mẫu thống nhất đúng với quy định chung hiện hành.

- Nhiều phần hành kế toán cùng được thực hiện thuận lợi.

- Đảm bảo việc đối chiếu số liệu kế toán chi tiết với tổng hợp dễ dàng.

- Các số liệu kế toán cần thiết cho điều hành quản lý phải được khai thác kịp thời và

hiệu quả.

Đi đôi với trang bị máy móc thiết bị tin học, cần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý tài

chính thành thạo về tin học để khai thác có hiệu quả hệ thống máy móc thiết bị. Thực hiện

tốt công việc trên, sẽ giúp cho công tác quản lý tài chính ở Trường đạt hiệu quả hơn.

3.5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH KIẾN NGHỊ NHẰM HUY ĐỘNG

CÁC NGUỒN TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ CÓ HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH Ở

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY

Đối với Chính phủ:

- Cho phép Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy thực hiện nhiệm vụ đào tạo cho

các đối tượng ngoài ngành công an ở trình độ đại học và thấp hơn. Nội dung này đã được

ghi trong Quyết định 203/1999/QĐ-TTg. Sau sáu năm đào tạo đại học với hai khoá học

sinh tốt nghiệp ra trường, cùng với năng lực đội ngũ cán bộ, giáo viên, cơ sở vật chất, kỹ

thuật hiện có nhà trường đã có thể thực hiện việc mở rộng đối tượng đào tạo ngoài ngành

công an. Đây là một vấn đề tương đối mới với các trường công an nhân dân, nhưng với xu

thế mở rộng giáo dục nhất là giáo dục đại học hiện nay thì việc triển khai đào tạo đại học

phòng cháy, chữa cháy cho các đối tượng ngoài ngành công an trở nên cấp thiết. Trên thực

tế, Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy đã đào tạo đại học nhưng chỉ với hệ tại chức.

Đối với các trường thuộc lực lượng vũ trang cũng đã có trường đào tạo đối tượng ngoài xã

hội như Học viện Quân Y - Bộ Quốc phòng. Về phương diện tài chính, đây là hoạt động

tạo nguồn thu đáng kể nếu Trường được thực hiện nhiệm vụ này.

- Có chính sách cụ thể để tăng cường hợp tác quốc tế trên cả lĩnh vực an toàn phòng

cháy, chữa cháy nói chung và hoạt động đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực phòng cháy,

chữa cháy nói riêng. Trong thực tế, từ sau năm 1992 thì việc hợp tác đào tạo với Liên xô cũ

chấm dứt và từ đó đến nay công tác đào tạo ở nước ngoài hầu như không có. Đây là điều làm

cho thông tin kiến thức, công nghệ về lĩnh vực này ở Việt Nam hiện rất thiếu và lạc hậu. Việc

cử cán bộ, giáo viên đi đào tạo, tập huấn ở nước ngoài cần được xúc tiến ngay trong các năm

tới. Ngoài ra, có thể thông qua các dự án hợp tác, mời các chuyên gia nước ngoài đến hỗ trợ

giảng dạy, chuyển giao công nghệ. Nhà nước cần có chính sách để thu hút đầu tư trong lĩnh

vực phòng cháy, chữa cháy thông qua các tổ chức khoa học kỹ thuật, tổ chức ngành nghề. Qua

đó cho phép nhà trường được tham gia các chương trình hợp tác, tham quan tiếp nhận công

nghệ hiện đại trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy của các nước tiên tiến trên thế giới.

- Cho phép Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy được đào tạo ở trình độ sau đại

học, vì hiện nay trong nước chưa có trường nào đào tạo trình độ cao hơn đại học trong lĩnh

vực phòng cháy, chữa cháy, trong khi đó trong nền kinh tế phát triển cần có những chuyên

gia giỏi về lĩnh vực này.

Đối với Bộ Công an:

- Cho phép Trường nâng quy mô đào tạo từ 1000 học viên lên 1500 học viên, vì

hiện nay với quy hoạch về xây dựng lực lượng phòng cháy chữa cháy chuyên nghiệp, nếu

cứ đào tạo với quy mô đầu ra là 200 học sinh/ năm thì phải 30 năm nữa mới đáp ứng đủ

cho nhu cầu hiện tại.

- Cho phép Trường lập dự án mở rộng mặt bằng trường, cụ thể là xây dựng Trung

tâm Huấn luyện chữa cháy và đào tạo lái xe. Dự án này nhằm tranh thủ sự hợp tác của Tổ

chức JICA Nhật Bản về hỗ trợ năng lực đào tạo cho Trường Đại học Phòng cháy, Chữa

cháy.

- Cho phép Trường xây dựng lại cơ cấu đào tạo mở rộng từ một chuyên ngành sang

đào tạo thêm một số chuyên ngành mới như: cứu hộ, cứu nạn…

- Về lĩnh vực quản lý tài chính, đề nghị Bộ Công an cho phép Trường được áp dụng

Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về

thực hiện nhiệm vụ về tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với ĐVSN. Trước mắt, áp

dụng ngay đối với ĐVSN có thu đảm bảo toàn bộ kinh phí. Chỉ có như vậy cơ sở mới thực

sự chủ động trong các hoạt động để đạt hiệu quả kinh tế cao.

- Nâng mức đầu tư kinh phí cho Trường với mức đầu tư cao hơn để đáp ứng được

tính đặc thù riêng là trường khoa học kỹ thuật. Chỉ có nâng mức đầu tư cho Trường thì mới

có điều kiện đổi mới trang thiết bị và nâng cao khả năng đáp ứng cơ sở vật chất cần thiết

cho giảng dạy và học tập.

- Nghiên cứu ban hành các định mức chi cụ thể, phù hợp sát với thực tế của Trường,

làm cơ sở để khoán chi hành chính đối với Trường.

Trên đây là những giải pháp mang tính kiến nghị để hoàn thiện công tác quản lý tài

chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy để đáp ứng nhu cầu đổi mới về giáo dục

đào tạo hiện nay. Nếu được thực hiện thì hiệu quả tài chính đối với công tác giáo dục, đào

tạo của Trường sẽ được nâng cao, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Trường Đại

học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng và của cả lực lượng phòng cháy, chữa cháy nói

chung.

KẾT LUẬN

Vai trò to lớn của con người - nguồn nhân lực trong điều kiện phát triển kinh tế - xã

hội đã được lịch sử khẳng định. Để tạo nguồn lực đáp ứng yêu cầu của quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì giáo dục, đào tạo có vai trò trung tâm. Giáo dục đại

học có vai trò là khâu cơ bản phát triển nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao - một

trong những nền tảng và động lực quan trọng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước. Tăng cường quản lý tài chính ở các trường đại học theo hướng đa dạng hoá

các nguồn tài chính và nâng cao hiệu quả trong giáo dục đại học vừa là yêu cầu, vừa là

điều kiện để phát triển giáo dục đại học nước ta. Đối với lĩnh vực đào tạo nhân lực phòng

cháy, chữa cháy trong điều kiện nền kinh tế - xã hội phát triển, càng đòi hỏi phải đạt tới

những tiêu chuẩn cao. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đào tạo trong lĩnh

vực phòng cháy, chữa cháy đòi hỏi nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó không thể không kể

đến các giải pháp tăng cường quản lý tài chính của Trường với tư cách vừa là một cơ sở

đào tạo vừa là một ĐVSN công lập..

Với các phần nội dung được trình bày trong 3 chương, luận văn “ Hoàn thiện công

tác quản lý tài chỉnh ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện

nay” đã hướng đến các kết quả sau:

Một là, hệ thống hoá cơ sở lý luận về đặc điểm quản lý tài chính ở các ĐVSN

nói chung và Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng. Đáng chú ý là luận văn

đã phân tích các đặc điểm của ĐVSN theo tinh thần của Nghị định 10/2002/NĐ-CP và

Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Luận văn còn làm rõ nội dung, mục tiêu, nguyên tắc quản

lý tài chính và nêu được sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện quản lý tài chính ở

Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy.

Hai là, thông qua trình bày, phân tích thực trạng các nguồn tài chính và quản lý tài

chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong thời gian qua, luận văn đã làm rõ,

tài chính thực sự là công cụ hữu hiệu, là động lực quan trọng góp phần vào sự phát triển

của Trường. Trên cơ sở nhận thức thực tiễn, luận văn chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong

quá trình thực hiện đa dạng hoá các nguồn tài chính và quản lý tài chính. Những tồn tại đó

cần được sửa đổi, khắc phục cho phù hợp với đòi hỏi thực tiễn và triển vọng tương lai phát

triển của Trường.

Ba là, dựa trên những quan điểm định hướng phát triển kinh tế xã hội, định hướng

phát triển đào tạo nhân lực cho ngành phòng cháy, chữa cháy, luận văn đã trình bày những

giải pháp thiết thực, phù hợp nhằm huy động tối đa các nguồn lực và tăng cường quản lý tài

chính để đáp ứng công tác đào tạo đạt hiệu quả cao ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy

trong thời gian tới.

Với một số giải pháp và kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và

Đào tạo, nếu được quan tâm và giải quyết đúng mức, sẽ góp phần bảo đảm quá trình đa dạng

hoá các nguồn tài chính và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, đáp ứng và phục vụ tốt yêu

cầu của công tác đào tạo trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy ở Trường Đại học Phòng cháy,

Chữa cháy hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. "Bảy chính sách cải cách giáo dục đại học trên thế giới" (2006), Tạp chí Tia

sáng, (11).

2. Bộ Công an (1999), Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an về chức năng

nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của trường Đại học phòng cháy, chữa cháy.

3. Bộ Công an (2006), Đề án tăng cường, đổi mới giáo dục và đào tạo trong

Công an nhân dân giai đoạn 2006-2020.

4. Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21 tháng 3 năm

2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng

1 năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.

5. Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 81/2002/TT-BTC ngày 16 tháng 9 năm

2002 hướng dẫn kiểm soát chi đối với cơ quan hành chính Nhà nước

thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; đơn vị thực

hiện chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.

6. Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 50/2003/ TT-BTC ngày 22 tháng 5 năm

2003 hướng dẫn đơn vị sự nghiệp có thu xây dựng quy chế chi tiêu nội

bộ theo quy định tại Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của

Chính phủ.

7. Bộ Tài chính (2003), Hệ thống các văn bản pháp quy về cơ chế tài chính áp

dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp và đơn vị sự nghiệp có thu.

8. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 03/2004/TT-BTC ngày 13 tháng 1 năm

2004 hướng dẫn kế toán các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện luật

ngân sách nhà nước và khoán chi hành chính.

9. Bộ Tài chính (2006), Hệ thống văn bản quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, sử dụng biên chế và kinh

phí quản lý hành chính, tài chính đối với cơ quan nhà nước và đơn vị sự

nghiệp công lập.

10. Bộ Tài chính (2006), Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp, ban hành theo

quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Bộ

trưởng Bộ Tài chính.

11. Bộ Tài Chính (2006), Luật kế toán và hệ thống văn bản hướng dẫn thực

hiện.

12. Chính phủ (1999), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập

trường Đại học phòng cháy, chữa cháy.

13. Chính phủ (2002), Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 16

tháng 1 năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có

thu.

14. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006

quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ về tổ

chức bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung

ương lần thứ 4 khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung

ương lần thứ 2 khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Giáo trình Quản lý tài chính Nhà nước (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.

19. Giáo trình Tài chính học (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.

20. Học viện Hành chính quốc gia (2003), Quản lý tài chính công- Lý luận và

thực tiễn.

21. Luật Giáo dục (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Quản lý tài chính công (2003), Nxb Lao động.

23. Thủ tướng Chính phủ (2004), Chương trình đổi mới quản lý tài chính đối với

các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn

2004-2005 ban hành kèm theo Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg ngày

15.1.2004.

24. Thủ tướng Chính phủ (2004), Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính

đối với các cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai

đoạn 2001-2010.

25. Trung tâm Ứng dụg KHKT phòng cháy, chữa cháy và đào tạo lái xe -Trường

Đại học phòng cháy, chữa cháy (2003), Báo cáo quyết toán tài chính

năm 2003.

26. Trung tâm Ứng dụng KHKT phòng cháy, chữa cháy và đào tạo lái xe -

Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2004), Báo cáo quyết toán tài

chính năm 2004.

27. Trung tâm Ứng dụng KHKT phòng cháy, chữa cháy và đào tạo lái xe-

Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2005), Báo cáo quyết toán tài

chính năm 2005.

28. Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2003), Báo cáo quyết toán tài chính

năm 2003.

29. Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2004), Báo cáo quyết toán tài chính

năm 2004.

30. Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2005), Báo cáo quyết toán tài chính

năm 2005.

31. Trường Đại học phòng cháy, chữa cháy (2006), Lịch sử trường đại học

phòng cháy, chữa cháy.

32. www.vnn.vn, Hoàng Văn Châu, 24/10/2006, “Cần thực hiện này tự chủ tài

chính”

33. www.vnn.vn, Giáo sư Phạm Phụ, 26/10/2006, Tự chủ đại học “đánh đổi”

bằng trách nhiệm xã hội.

34. www.vnn.vn, PGS. Đào Công Tiến, 23/10/2006, Thiếu tự chủ, ĐH tự đánh

mất mình.