, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA XÃ HỘI HỌC

********

VŨ THỊ THÙY DUNG

SỰ HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA DÂN DI CƢ TỰ DO

Ở HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY

(Nghiên cứu trường hợp tại xã Tân Thanh, Lâm Hà, Lâm Đồng)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội, tháng 9 năm 2009

i

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA XÃ HỘI HỌC

********

VŨ THỊ THÙY DUNG

SỰ HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA DÂN DI CƢ TỰ DO

Ở HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY

(Nghiên cứu trường hợp tại xã Tân Thanh, Lâm Hà, Lâm Đồng)

Chuyên ngành : Xã hội học

Mã số : 603130

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH VĂN TÙNG

Hà Nội, tháng 9 năm 2009

ii

LỜI NÓI ĐẦU

Di dân và di dân tự do không phải là một vấn đề mới song nó lại là một

vấn đề khá bức xúc trong rất nhiều năm qua cả ở trong thực tiễn và các diễn

đàn khoa học. Hơn thế, vấn đề hội nhập cộng đồng lại là một khía cạnh mới,

chưa có một nghiên cứu chính thống nào cho vấn đề này. Nghiên cứu của tôi

lần đầu tiên đi vào vấn đề này với khía cạnh tương đối khó và nhạy cảm. Song

sau nhiều tháng ngày làm việc miệt mài, hết mình, say mê trên tinh thần khoa

học, nghiêm túc, luận văn đã hoàn thành đúng như dự kiến.

Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của

T.S Trịnh Văn Tùng – người hướng dẫn tôi. Xin chân thành cảm ơn sự cộng

tác hướng dẫn nhiệt tình của Thầy Phạm Văn Tài (Khoa Xã hội học và công

tác xã hội – Đại học Đà Lạt) – người đã cùng tôi có những ngày làm việc vất

vả tại địa phương. Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của các đồng nghiệp và

sinh viên của tôi ở Khoa Xã hội học và công tác xã hội trường Đại học Đà Lạt

đã giúp tôi hoàn thành báo cáo này. Và cuối cùng, xin chân thành cảm ơn Ban

chủ nhiệm Khoa xã hội học – Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn –

Đại học Quốc gia Hà Nội, đã tạo điều kiện để cho tôi bảo vệ sớm luận văn

này.

Đề tài của tôi lần đầu tiên đi vào một khía cạnh mới và tương đối khó,

cho nên không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong sự góp ý,

chia sẻ từ quý Thầy, Cô, các bạn đồng nghiệp, và những ai quan tâm để luận

văn của tôi có điều kiện hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn

Vũ Thị Thùy Dung

iii

MỤC LỤC

PHẦN 1 : MỞ ĐẦU ................................................................................................... v 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI......................................................................................... 1 2. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ....................................................................................... 2 2.1. Ý nghĩa thực tiễn .................................................................................................. 2

2.2. Ý nghĩa lý luận ..................................................................................................... 2

3. ĐỐI TƢỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................ 3 3.1. Đối tượng ............................................................................................................ 3

3.2. Khách thể ............................................................................................................ 3

4. MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .......................................................... 3 4.1. Mục tiêu, mục đích nghiên cứu : .......................................................................... 3

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu : ......................................................................................... 4

5. PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................... 4 5.1. Phương pháp luận : .............................................................................................. 4

5.2. Phương pháp nghiên cứu : ................................................................................... 4

6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU ............................................................................ 6 7. KHUNG LÝ THUYẾT ......................................................................................... 7

PHẦN 2. NỘI DUNG CHÍNH.................................................................................. 8

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ....................... 8

1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .............................................................................. 8 2. Hệ thống khái niệm ............................................................................................. 10 2.1. Hội nhập xã hội ................................................................................................. 10

2.2. Cộng đồng .......................................................................................................... 10

2.3. Khái niệm việc làm, nghề nghiệp ....................................................................... 11

2.4. Di dân và di dân tự do ........................................................................................ 12

iv

3. Lý thuyết tiếp cận ................................................................................................ 14 3.1. Lý thuyết sự chọn lựa hợp lý của Coleman, Friedman và Hechter ................... 14 3.2. Lý thuyết mạng lưới xã hội ................................................................................. 16 3.3. Lý thuyết vốn xã hội ........................................................................................... 18 3.4. Lý thuyết về di dân ............................................................................................. 22 4. Quan điểm, chính sách của Đảng về vấn đề di dânError! Bookmark not defined.

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA

NGƢỜI DÂN DI CƢ TỰ DO ..................................... Error! Bookmark not defined.

1. Tình hình di dân tự do ở Tây Nguyên trong những năm quaError! Bookmark not defined. 2. Thực trạng hội nhập nghề nghiệp, việc làm của ngƣời dân nhập cƣError! Bookmark not defined. 2.1. Sự thay đổi nghề nghiệp việc làm của người dân nhập cưError! Bookmark not defined.

2.2. Mức độ hài lòng về nghề nghiệp hiện tại của người dân nhập cưError! Bookmark not defined.

2.3. Mức độ ổn định nghề nghiệp, việc làm của người nhập cưError! Bookmark not defined.

3. Quá trình hội nhập vào các sinh hoạt văn hóa, tín ngƣỡng của ngƣời dân...Error! Bookmark not defined. 4.Quá trình hội nhập vào các quan hệ xã hội trong cộng đồngError! Bookmark not defined.

CHƢƠNG 3. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI TRONG HỘI NHẬP

CỘNG ĐỒNG CỦA NGƢỜI DÂN NHẬP CƢ ........ Error! Bookmark not defined.

1. Những thuận lợi ....................................................... Error! Bookmark not defined. 1.1. Từ phía người thân ở địa phương ...................... Error! Bookmark not defined.

1.2. Sự giúp đỡ từ phía chính quyền địa phương ...... Error! Bookmark not defined.

2. Khó khăn .................................................................. Error! Bookmark not defined. 2.1. Những khó khăn khách quan .............................. Error! Bookmark not defined.

2.2. Những khó khăn chủ quan ................................. Error! Bookmark not defined.

PHẦN 3 : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........... Error! Bookmark not defined.

1. Kết luận .................................................................... Error! Bookmark not defined. 2. Khuyến nghị ............................................................. Error! Bookmark not defined. TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

v

Trích phiếu phỏng vấn hộ gia đình Trích bảng tần số Trích bảng tƣơng quan Trích phỏng vấn sâu

PHẦN 1 : MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong nhiều năm qua, di dân thực sự đã và đang là vấn đề nóng bỏng của thực

tiễn xã hội nước ta. Như tác giả Đặng Nguyên Anh nhận xét, di dân ở Việt Nam là

một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính quy luật, một yếu tố tất yếu của sự phát

triển. Di dân là vấn đề có tính quy luật chung, cũng giống như quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các quốc gia. Di dân là một đòi hỏi khách quan trong nền

kinh tế thị trường, là biểu hiện rõ nét nhất của sự phát triển không đồng đều, giữa

các khu vực, vùng miền và lãnh thổ. Dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa,

những chênh lệch về mức sống, khác biệt trong thu nhập, cơ hội việc làm, nhu cầu

dịch vụ xã hội và sức ép sinh kế đang ngày càng trở thành những áp lực cơ bản tạo

nên các dòng di chuyển lao động trong và ngoài nước. Tuy có nhiều lý do khác

nhau, song tất cả đều mong muốn có được một cuộc sống tốt đẹp hơn cho gia đình

và bản thân.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ, việc di dân đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận

trong việc cải thiện đời sống của người dân ở chỗ góp phần làm giảm sức ép về việc

làm và đời sống khó khăn ở nơi xuất cư, góp phần vào việc bổ sung nhanh chóng

nguồn lao động đáp ứng nhu cầu cuộc sống, trên hết là nâng cao thu nhập, xóa đói

giảm nghèo tại nơi đi. Tuy nhiên, việc di dân đặc biệt là di dân tự phát cũng đem

đến một số tác động tiêu cực cho nơi định cư như khai thác tài nguyên bừa bãi, gây

ô nhiễm môi trường, tạo ra áp lực và xáo trộn về xã hội cho địa phương nơi đến.

Địa bàn Tây Nguyên trong nhiều năm gần đây được đánh giá là điểm nóng đón

nhận những dòng di cư tự do. Hình thành ở nơi này những khu kinh tế hay vùng

kinh tế mới. Cùng với những người Kinh có điều kiện thì phần đông là những người

dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa còn hạn chế, hơn nữa là sự bất đồng về ngôn ngữ.

Bên cạnh sự xoay xở và tự lo cho cuộc sống của mình thì trở ngại từ phía cộng đồng

đón tiếp đối với họ cũng là một bài toán đặt ra, đó là sự hoà nhập, hội nhập vào

1

cuộc sống cộng đồng của vùng đất mới.

Làm thế nào để những người nhập cư có thể sớm ổn định cuộc sống và thích

ứng với môi trường sống tại nơi đến? Liệu sự hoà nhập đó có mang lại những cơ hội

nghề nghiệp mới cho những người nhập cư? Mức độ ổn định công việc và nghề

nghiệp của họ có như mong đợi của họ hay không ? Có những thuận lợi và khó

khăn nào trong quá trình hội nhập của họ? Và sự ổn định đó có đem đến xu hướng

phát triển nào trong tương lai của những người nhập cư?

Các nghiên cứu trong nhiều năm qua chủ yếu đề cập nhiều đến dòng di cư từ

nông thôn ra thành thị kiếm sống, mà chủ yếu là di cư con lắc hay di cư theo mùa

vụ. Rất ít những nghiên cứu có quy mô về hướng di dân tự do nông thôn – nông

thôn. Vì thế, hầu hết các nghiên cứu thường phản ánh chưa đầy đủ được mọi mặt

của vấn đề di dân tự do, nhất là việc định cư, nhập cư của dòng người di cư này. Và

trên thực tế thì việc định cư, thiết lập những khu vực kinh tế mới hiện nay ở Tây

Nguyên nói chung và Lâm Đồng nói riêng có vai trò không nhỏ của lực lượng di cư

tự do đang được bàn đến ở đây.

Từ những lý do trên, đề tài của chúng tôi đi vào tìm hiểu « Sự hội nhập cộng

đồng của người dân di cư tự do ở Tây Nguyên hiện nay ». Do điều kiện và khả năng

cho phép, nên đề tài tập trung khảo sát ở 3 thôn của xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà,

tỉnh Lâm Đồng.

2. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI

2.1. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả của đề tài cung cấp cho chúng ta được phần nào bức tranh về sự hội

nhập trong đời sống cộng đồng của người dân di cư, những khó khăn, trở ngại họ

phải vựơt qua, cũng như những điều mà họ làm được để tạo dựng trong môi trường

cuộc sống mới. Đồng thời, kết quả của đề tài góp phần làm giàu cơ sở thực tiễn giúp

cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý kinh tế, xã hội có cái nhìn xác thực

hơn để từ đó có thể đưa ra những chính sách và biện pháp quản lí hữu hiệu hơn.

2.2. Ý nghĩa lý luận:

Kết quả của đề tài sẽ mang lại những thông tin hữu dụng bổ sung cho lý thuyết

2

mạng lưới xã hội, vốn xã hội, lý thuyết về di dân.

3. ĐỐI TƢỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng : Sự hội nhập cộng đồng của người dân di cư tự do

3.2. Khách thể :

- Người dân di cư tự do đến xã Tân Thanh - huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng

(trong vòng 20 năm trở lại đây).

- Người dân chính cư tại xã Tân Thanh (nhóm đối chứng).

3.3. Phạm vi nghiên cứu :

3.3.1. Phạm vi vấn đề nghiên cứu:

Việc hội nhập đời sống cộng đồng của người dân di cư tự do ở Tây Nguyên

được xem xét ở ba khía cạnh: 1/ sự hội nhập của người dân trong nghề nghiệp, việc

làm; 2/ sự hội nhập của người dân vào các sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng cộng đồng

và 3/ sự hội nhập vào các quan hệ xã hội trong cộng đồng.

3.3.2. Phạm vi không gian nghiên cứu:

Do điều kiện và trong khả năng có thể, đề tài tập trung nghiên cứu ở ba thôn

(thôn 1, thôn 6 và thôn 10) tại xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

3.3.3. Thời gian nghiên cứu:

Đề tài triển khai làm việc với cộng đồng từ 10/6/2008 (bắt đầu đi tiền trạm), và

sau đó triển khai điều tra đến tháng 9/2009.

4. MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

4.1. Mục đích nghiên cứu:

Đề tài đi sâu vào tìm hiểu sự hội nhập cộng đồng của người dân di cư tự do ở

huyện Lâm Hà – Lâm Đồng hiện nay.

4.2. Mục tiêu nghiên cứu

 Tìm hiểu thực trạng sự hội nhập cộng đồng của người dân di cư.

 Xem xét những khó khăn và thuận lợi trong quá trình hội nhập của người dân

3

trên địa bàn mới.

4.2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu :

* Tìm hiểu thực trạng sự hội nhập cộng đồng của người dân di cư tự do hiện nay ở

Lâm Hà, Lâm Đồng.

- Đi sâu tìm hiểu thực trạng hội nhập trong nghề nghiệp, việc làm của người

dân.

- Tìm hiểu sự hội nhập của người dân vào các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng

trong cộng đồng.

- Tập trung xem xét sự hội nhập của người dân vào các quan hệ xã hội trong

cộng đồng.

* Xem xét những khó khăn và thuận lợi trong quá trình hội nhập cộng đồng của

người dân di cư trên địa bàn mới.

5. PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

5.1. Phương pháp luận :

* Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở phương

pháp luận của đề tài.

* Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc làm của di cư tự do trong các vùng

kinh tế mới.

5.2. Phương pháp nghiên cứu :

Có hai phương pháp chính được sử dụng cho nghiên cứu này là phương pháp

nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.

5.2.1. Với phương pháp định lượng :

Đề tài dùng phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi với dung lượng mẫu

là 150. Cách chọn mẫu được tiến hành theo phương pháp ngẫu nhiên thuần túy theo

cơ cấu theo nhóm tuổi, giới tính, dân tộc và trình độ học vấn. Số phiếu được phát ra

4

là 150, chia đều cho 3 thôn: thôn 1 là 50 phiếu, thôn 6: 50 phiếu, thôn 10: 50 phiếu.

Tỷ lệ giới tính

Độ tuổi

Thành phần dân tộc

Học vấn

Số người cùng sống trong gia đình

Tôn giáo

5

Cơ cấu mẫu như sau :

5.2.2. Với phương pháp định tính:

Đề tài sử dụng các phỏng vấn sâu và phân tích tài liệu sẵn có, cụ thể như sau :

* Đề tài thực hiện 15 phỏng vấn sâu, để tìm hiểu sâu hơn về những thông tin

chưa thu thập được trong bảng hỏi, trong đó: 8 phỏng vấn sâu dành cho người

nhập cư và 7 phỏng vấn sâu dành cho nhóm chính cư.

* Phương pháp phân tích tài liệu từ các nguồn số liệu thống kê của tổng cục

thống kê và Ủy ban dân số và kế hoạch hóa gia đình.

* Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp quan sát, phương pháp phân tích

thông tin thứ cấp có được từ các báo cáo địa phương.

6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

6.1. Có nhiều thay đổi về nghề nghiệp và việc làm của người di cư trong quá

trình nhập cư mới. Trong đó, đa số người dân cho rằng cuộc sống của họ được cải

thiện hơn trước

6.2. Quá trình tham gia vào các sinh hoạt văn hóa, tin ngưỡng đã giúp người dân

hội nhập vào cộng đồng mới dễ dàng hơn.

6.3. Trong quá trình hội nhập vào cộng đồng, yếu tố dân tộc và trình độ học vấn

6

có ảnh hưởng lớn đến việc hội nhập thành công của người dân trong cộng đồng.

Đặc điểm kinh tế xh

Lực đẩy – lực hút của nơi đi và nơi đến

Nhu cầu cải thiện đời sống

Đặc điểm cá nhân – xã hội của người nhập cư - (giới tính, tuổi, dân tôn tộc, giáo, học vấn…)

Sự hội nhập cộng đồng của người di cư tự do

Sự hội nhập trong nghề nghiệp và việc làm

Sự hội nhập trong các quan hệ cộg đồng

Sự hội nhập vào các sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng

7

7. KHUNG LÝ THUYẾT

PHẦN 2. NỘI DUNG CHÍNH

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Khi nhận định về vai trò di dân nông thôn - đô thị, tác giả Đặng Nguyên Anh

cho rằng, di dân đang góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức

sống, cải thiện thu nhập cho các gia đình ở nông thôn hiện nay. Trong bài viết « Di

dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới : - một số suy nghĩ từ góc độ

nghiên cứu » - Tạp chí Xã hội học số 3 & 4, 1999, tác giả này còn đề cập đến các

chính sách quản lí di dân của Nhà nước, thường là “nhấn mạnh vào việc kiểm soát

di dân tự do, hạn chế các luồng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố lớn”

và khẳng định các chính sách này ít khả thi và không đem lại kết quả lâu bền; đề

xuất với Nhà Nước cần tạo điều kiện cho người lao động nhập cư ổn định cuộc sống,

bình đẳng, khuyến khích mặt tích cực của người lao động nhập cư nhằm phục vụ

cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

Hai tác giả Lê Ngọc Lân, Phùng Thị Kim Anh, khi phân tích về « Chính sách

việc làm cho lao động nữ nông thôn trong thời kì đổi mới » Tạp chí Xã hội học cho

rằng, tình trạng thiếu việc làm và thu nhập thấp cũng tạo nên dòng chảy lao động từ

nông thôn ra thành phố, trong đó có nhiều phụ nữ. Họ làm đủ các nghề từ giúp việc

nhà, buôn bán phế liệu đến bán hàng rong thậm chí có chị em còn tham gia những

hoạt động bị xã hội ngăn cấm…Tuy nhiên, việc di chuyển lao động tự do từ các

vùng nông thôn ra thành thị, đặc biệt là các đô thị lớn đang là vấn đề nổi cộm, nảy

sinh nhiều vấn đề phức tạp, nhất là các tệ nạn xã hội.

Trong bài viết « Di dân, phát triển và bất bình đẳng ở Việt Nam trên đường đổi

mới và hội nhập » tác giả Nguyễn Thanh Liêm đã chỉ ra mối quan hệ giữa di dân,

phát triển và bất bình đẳng có mối quan hệ tương hỗ, phức tạp và đa dạng với nhiều

chiều cạnh. Di dân lao động gắn với những dịch chuyển và phân phối lại lao động

có thể góp phần giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ cung cầu lao động. Vì

8

vậy, di dân lao động góp phần giải quyết thất nghiệp cho vùng đi và đồng thời đáp

ứng nhu cầu lao động cho vùng đến. Bài viết đề cập đến sự tác động qua lại, tính hai

mặt của đổi mới, phát triển và bất bình đẳng đến di dân.

Tác giả Douglas S. Massey (Giáo sư Xã hội hoc người Mỹ) trong bài viết « Các

nguồn gốc xã hội và kinh tế của nhập cư » 1994, đã chỉ ra rằng : di cư là một vấn đề

của mọi xã hội, mỗi quốc gia, di cư là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu để

có những chính sách phù hợp với yêu cầu nguồn nhân lực tại nơi xuất cư và nơi

nhập cư. Tác giả cho rằng, các mô hình nhập cư đương thời biểu thị cho một sự

đoạn tuyệt với quá khứ. Di cư có nguồn gốc là do những yêu cầu về mặt kinh tế, xã

hội và chính sách của mỗi cá nhân, gia đình hay quốc gia. Bài viết sử dụng lý thuyết

mạng lưới xã hội, lý thuyết kinh tế Macro, lý thuyết kinh tế vi mô, luật nhập cư để

phân tích nguồn gốc của nhập cư. Qua bài viết, chúng ta có thể có một cách vận

dụng lý thuyết trong phân tích các vấn đề di dân và nhập cư.

Phân tích các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về làn

sóng di dân lao động từ nông thôn ra thành thị cho thấy rằng, vấn đề này đã được

tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau: nguyên nhân di cư, đặc điểm, tính chất, thu

nhập từ công việc nơi đến, lứa tuổi, giới tính người lao động, những ảnh hưởng tích

cực và hậu quả của hiện tượng xã hội này. Tuy vậy, phân tích các công trình nghiên

cứu cũng cho thấy các khía cạnh tâm lí của những người lao động di cư này như:

nhận thức, động cơ kiếm việc, suy nghĩ, tâm trạng, khát vọng, mong muốn của

họ…còn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm, nếu không nói là còn khá trống

vắng. Đây là vấn đề quan trọng vì những khía cạnh tâm lí này có liên quan trực tiếp

tới thái độ, hành vi lao động của những người di cư ra thành thị, đến việc đề ra các

biện pháp quản lí họ ở đô thị một cách thích hợp.

Những bài viết và những tài liệu trên hầu như chỉ đề cập đến việc di cư từ nông

thôn ra thành phố kiếm sống, mà chưa đề cập đến mảng di dân nông thôn – nông

thôn, nhất là việc định cư, nhập cư của họ ở những vùng đất mới, những khó khăn

9

trở ngại của người di cư tự do đến cộng đồng mới như thế nào.

Chính vì thế đề tài của chúng tôi « Sự hội nhập cộng đồng của người di cư tự do

ở Tây Nguyên hiện nay » hy vọng sẽ bổ sung phần nào những hạn chế ở trên nhằm

đem đến một chiều cạnh khác về thực trạng dân di cư tự do hiện nay.

2. Hệ thống khái niệm

2.1. Hội nhập Theo nghĩa rộng, khái niệm hội nhập bao gồm tất cả các cách thức mà chủ thể

tham dự vào lao động xã hội. Hay nói cách khác, hội nhập là phức thể các hoạt động

hay biểu hiện kết nối việc làm và đào tạo, cả trong quá trình thất nghiệp cũng như thăng tiến việc làm, nghề nghiệp1.

Theo một nghĩa khác, hội nhập là tổng thể tất cả những phương thức tiếp cận và

tham gia vào thị trường lao động, nhằm đạt tới một vị trí xác định trong hệ thống

phân công lao động xã hội và đồng thời cùng với nó là một địa vị xác định trong hệ thống phân tầng xã hội2.

Người ta có thể xem xét hội nhập từ các giác độ khác nhau. Từ giác độ của chủ

thể, quá trình hội nhập có thể là quá trình cá nhân hội nhập vào nhóm, hoặc là nhóm,

tổ chức hội nhập vào cộng đồng hay phạm vi xã hội lớn hơn. Ở đây, đề tài nhìn

nhận hội nhập cộng đồng là quá trình cá nhân hội nhập vào nhóm, vào cộng đồng

dân cư, xã hội – nơi mà cá nhân đến sống và làm việc.

2.2. Cộng đồng

Cộng đồng là một khái niệm cơ bản của các khoa học xã hội và nhân văn, với

nhiều tuyến nghĩa khác nhau. Có hai cách hiểu về cộng đồng : cộng đồng tính và cộng

đồng thể. Cộng đồng tính là thuộc tính hay quan hệ xã hội như tình cảm cộng đồng,

tinh thần cộng đồng, ý thức cộng đồng. Cộng đồng thể là các nhóm người, nhóm xã hội

có tính cộng đồng với nhiều thể quy mô khác nhau.

Khái niệm cộng đồng bao gồm các thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ

cho đến các tổ chức có cấu trúc ít chặt chẽ, là một nhóm xã hội có lúc khá phân tán,

1 Nguồn: J.Rose: EnQuete d’emploi; Paris, 1982. 2 D.G Tremblay, L.F.Dagnas: Ruptures Segmentations et Mutation du Marche’ du Travail, Quebec,2000.

10

được liên kết bằng lợi ích chung trong một không gian tạm thời, ví dụ như phong

trào quần chúng, công chúng, khán giả, đám đông. Đây là một tuyến nghĩa rất hay

được sử dụng trong khoa học xã hội, gắn với các thực thể xã hội nhất định.

Jodov trong bài viết “Suy nghĩ về đối tượng xã hội học” đã xác định khái niệm

cộng đồng là một phạm trù cơ bản của xã hội học. Ở đó, tác giả dùng từ « cộng

đồng xã hội ». Ông xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học chính là các cộng

đồng xã hội. Chính cộng đồng xã hội có thể được xem xét như là phạm trù then chốt,

nền tảng trong phân tích xã hội học, để ông định nghĩa: “Xã hội học là khoa học về

sự hình thành, phát triển và vận hành của các cộng đồng xã hội, các tổ chức xã hội

và các quá trình xã hội với tư cách là các cơ chế liên hệ và tác động qua lại giữa

các cộng đồng xã hội đa dạng, giữa cá nhân và các cộng đồng, khoa học về các tính quy luật của các hành động xã hội và hành vi của chúng”1.

Cộng đồng trong quan niệm mác - xít là mối liên hệ qua lại giữa các cá nhân,

được quyết định bởi tính liên kết và các lợi ích của các thành viên có sự giống nhau

về các điều kiện tồn tại và hoạt động của con người hợp thành cộng đồng đó, bao

gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự gần gũi của

họ về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị và chuẩn mực, nền sản xuất, sự tương đồng về

điều kiện sống, cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt động.2

2.3. Khái niệm việc làm, nghề nghiệp

* Khái niệm việc làm:

Theo Thông tư hướng dẫn của liên Bộ Lao động Thương bình và Xã hội và

Tổng cục thống kê 1986, thì « việc làm là những dạng hoạt động có ích, không bị

pháp luật nghiêm cấm, nhằm đem lại thu nhập cho gia đình ».

Điều 13 Bộ luật lao động năm 1994 cũng ghi rõ : « Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu

1 Viện thông tin khoa học xã hội. Cái mới trong khoa học xã hội. Triết học và xã hội học. Số 13/1990. Xã hội học và thời đại. T1, Tr 21. 2 Tài liệu đã trích dẫn ở trên, Tr 19.

11

nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ». Vì thế, việc làm là

loại hình hoạt động sản xuất vật chất, tinh thần có mục đích tạo ra thu nhập bằng

tiền hoặc hiện vật và không bị pháp luật cấm.

Tổ chức lao động quốc tế ILO cũng cho rằng : Người có việc làm là những người

làm một việc gì đó được trả công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc

những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hoặc

vì thu nhập gia đình không nhận tiền công hoặc hiện vật.

Trong Xã hội học lao động, tác giả Lê Ngọc Hùng cho rằng : « Xã hội học kinh

tế xem xét việc làm với tư cách là vị trí tương ứng với nó là vị thế, vai trò trong cấu

trúc lao động xã hội”.

* Khái niệm nghề nghiệp

Trong từ điển Tiếng Việt, khái niệm nghề nghiệp có hai tuyến nghĩa: 1) công

việc chuyên môn làm hay công việc được thực hiện trong một thời gian dài, theo sự

phân công lao động xã hội; 2) đó là việc làm được thực hiện một cách thành thạo

với chất lượng và hiệu quả cao. Nghĩa này xuất hiện với cụm từ « thành nghề »,

« rất nghề »…

Như vậy, nghề trước hết là việc làm nó mang đầy đủ các đặc trưng của việc làm,

được thực hiện trong một thời gian dài với chất lượng và hiệu quả nhất định. Nó có

đặc trưng về thời gian và trình độ đào tạo, hành nghề.

2.4. Di dân và di dân tự do

Khái niệm di dân (migration):

Theo nghĩa rộng: Di dân là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong một

không gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh

viễn. Với khái niệm này, di dân đồng nhất với sự di động dân cư.

Theo nghĩa hẹp: Di dân là sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến

một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một không gian,

thời gian nhất định.

Khái niệm này khẳng định mối liên hệ giữa sự dịch chuyển với việc thiết lập nơi cư

12

trú mới.

Một số đặc điểm về di dân :

 Người di cư di chuyển ra khỏi một địa dư nào đó đến một nơi khác sinh

sống. Nơi đi và nơi đến phải được xác định là một vùng lãnh thổ hay một

đơn vị hành chính (khoảng cách giữa hai địa điểm là độ dài di chuyển).

 Người di chuyển bao giờ cũng có những mục đích, hoặc đến một nơi nào đó

và định cư tại đó trong một khoảng thời gian để thực hiện mục đích đó.

 Khoảng thời gian ở lại bao lâu là một trong những tiêu chí quan trọng để

xác định di dân.

 Một số đặc điểm khác nữa, khi xem xét di cư, như sự thay đổi các hoạt

động sống thường ngày, thay đổi các quan hệ xã hội. Di dân gắn với sự

thay đổi công việc, nơi làm việc, công việc nghề nghiệp…

Các loại hình di dân:

Theo địa bàn nơi đến, ta sẽ có di dân quốc tế và di dân nội địa ; 

Theo độ dài thời gian cư trú, ta sẽ có : di chuyển lâu dài, di chuyển tạm 

thời, di chuyển mùa vụ/con lắc…

 Theo đặc trưng di dân, chúng ta có thể sắp xếp:

Di dân có tổ chức: Hình thái di chuyển di chuyển dân cư được thực hiện theo kế

hoạch và các chương trình mục tiêu nhất định do Nhà nước, chính quyền các cấp

vạch ra và tổ chức, chỉ đạo thực hiện với sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã

hội.

Di dân tự phát (tự do): mang tính cá nhân do bản thân người di chuyển hoặc bộ

phận gia đình quyết định, không có và không phụ thuộc vào kế hoạch và sự hỗ trợ

của Nhà nước và các cấp chính quyền. Loại hình di dân này phản ánh tính năng

động và vai trò độc lập của cá nhân và gia đình trong việc giải quyết đời sống, tìm

công ăn việc làm. Đồng thời đặc trưng của loại hình này cũng thể hiện tính thiếu tổ

chức lao động theo nghĩa rộng của từ.

Liên quan đến vấn đề di dân là việc xuất cư và nhập cư.

Xuất cư là việc di chuyển nơi cư trú từ nơi này sang nơi khác, quốc gia này sang

13

quốc gia khác để sinh sống tạm thời hay vĩnh viễn, thời gian ngắn hoặc dài.

Nhập cư: là việc di chuyển đến một nơi khác, một quốc gia khác.

3. Lý thuyết tiếp cận

3.1. Lý thuyết sự chọn lựa hợp lý của Coleman, Friedman và Hechter

Lý thuyết này dù có ảnh hưởng tới sự phát triển của lý thuyết trao đổi, nhưng

thuyết chọn lựa hợp lý nói chung vẫn nằm ngoài lề dòng lý thuyết xã hội học chủ

đạo. Tuy nhiên, với nỗ lực của Coleman mà thuyết chọn lựa hợp lý đã trở nên một

trong các lý thuyết nóng của xã hội học đương thời.

Các nguyên tắc cơ bản của lý thuyết chọn lựa hợp lý phát sinh từ kinh tế học cổ

điển. Trong những năm 1950, nhà kinh tế học người Mỹ đạt giải Nobel về kinh tế

học, Herbert Simon, kết hợp với đồng sự có tên là James March, đã đưa ra lí thuyết

duy lí hạn chế (theory of limited rationality). Dựa vào một loạt các kiểu mẫu khác

nhau, Friedman và Hechter đã xếp chung cái mà họ diễn tả như là một “bộ xương”

của lý thuyết thường được dịch ra tiếng Việt là lí thuyết lựa chọn hợp lí. Cũng có

thể hiểu nó theo cách lí thuyết lựa chọn duy lí. Vậy lí thuyết lựa chọn hợp lí được

đơn giản như thế nào? Có ba ý cơ bản:

- Mọi hành vi và hành động của chủ thể đều có toan tính;

- Nhưng sự toan tính hành vi hay toan tính hành động không bao giờ đạt được

tối ưu vì nguồn lực và nguồn thông tin không bao giờ đầy đủ;

- Do vậy, chủ thể tự thoả mãn với việc lựa chọn giải pháp mang lại giá trị theo

đó chủ thể cho rằng, lượng giá trị có được từ hành vi hay hành động ấy tương

đương với thông tin, nguồn lực và bối cảnh của mình.

Như vậy, tiêu điểm của thuyết chọn lựa hợp lý là các chủ thể. Các chủ thể được

xem là có các mục đích hay mục tiêu về cái mà hành động họ hướng tới. Ở điểm

này, nó không khác nhiều với hành động duy lí – công cụ của Max Weber định

nghĩa. Nhưng điểm khác biệt chính là trong lí thuyết hành động của Max Weber, tác

giả cho rằng, hành động duy lí ấy đạt tính “tối đa” hay “tối ưu” trong toan tính quan

hệ phương tiện - mục đích. Các chủ thể được xem là có các sở thích (như các giá trị,

các tiện ích). Thuyết chọn lựa hợp lý không quan tâm đến tính chất các sở thích này

14

hay các nguồn của chúng. Cái quan trọng là hành động được thực hiện để đạt được

các đối tượng phù hợp với hệ thống sở thích và điều kiện bất ngờ mà chủ thể gặp

phải.

Các chủ thể khi hành động phải đối diện với hai sự kìm hãm. Đầu tiên, đó là sự

khan hiếm hay sự “không hoàn nguyên” của các tiềm năng và nguồn. Các chủ thể

có các tiềm năng khác nhau cũng như các cách thâm nhập khác nhau vào các tiềm

năng khác. Đối với những người có nhiều tiềm năng, thành quả cuối cùng có thể

tương đối dễ. Tuy nhiên, đối với những người có ít tiềm năng, sự đạt được mục đích

có thể khó khăn hơn hoặc là bất khả. Trong việc theo đuổi một mục đích đưa ra, các

chủ thể phải để mắt tới cái giá của hành động lôi cuốn nhất kế tiếp của họ. Một chủ

thể có thể chọn cách không theo đuổi mục đích có giá trị cao nhất nếu tiềm năng

của họ không đáng kể. Nếu kết quả là các cơ may để đạt được mục đích đó quá

mỏng manh và nếu trong việc cố gắng để đạt tới mục đích đó, họ hủy hoại các cơ

may đạt được mục đích giá trị nhất kế tiếp của mình. Các chủ thể được xem là cố

gắng tối đa hóa các điều lợi của họ và mục tiêu đó có thể bao gồm việc đánh giá

mối quan hệ giữa các cơ may đạt được một mục đích sơ khởi, và điều mà thành tựu

đó thực hiện đối với các cơ may để đạt được đối tượng giá trị nhất thứ hai.

Một nguồn kìm hãm thứ hai đối với hành động của cá thể là các thể chế xã hội.

Như Friedman và Hechter xác định, một cá thể hành động một cách khuôn sáo, tìm

ra các hành động của anh ta được kiểm lại từ đầu đến cuối bởi các nguyên tắc gia

đình và trường học; các luật lệ và các mệnh lệnh; các chính sách cứng rắn… Bằng

cách hạn chế tập hợp các hành động có sẵn cho các cá thể, các luật chơi có tính

cưỡng ép, bao gồm các tiêu chí, các quy luật, các lịch trình, các nguyên tắc bầu

chọn - ảnh hưởng một cách có hệ thống tới kết quả xã hội.

Friedman và Hechter liệt kê hai ý tưởng khác mà họ coi là cơ sở cho thuyết

chọn lựa hợp lý. Đầu tiên là một tập hợp cơ cấu hay quá trình qua đó, các hành vi cá

thể riêng biệt được kết hợp để tạo ra kết quả xã hội. Thứ hai là nhận thức đang lớn

dần về tầm quan trọng của thông tin trong việc thực hiện các chọn lựa hợp lý. Trên

tinh thần của lý thuyết này, khi tìm hiểu về sự hội nhập cộng đồng của người dân

15

nhập cư, đề tài xem xét việc người dân đã tận dụng được nguồn thông tin như thế

nào và liệu họ có tối đa hóa lợi ích với chi phí bỏ ra thấp nhất mà họ sẽ phải đạt

được khi quyết định chuyển cư và nhập cư hay không. Hơn nữa, người dân nhập cư

sẽ xử lí như thế nào với việc tăng dần thông tin ở nơi đến?

3.2. Lý thuyết mạng lưới xã hội

Các nhà phân tích mạng lưới muốn nghiên cứu tính quy tắc trong cách thức mọi

người và các tập thể cư xử hơn là các tính quy tắc trong những niềm tin về cách

thức mọi người nên cư xử. Thuyết mạng lưới xác định mối quan tâm chính yếu của

họ là các khuôn mẫu khách quan của các liên hệ nối kết các thành viên của xã hội.

Và nó đi đến việc nghiên cứu giá trị của “các liên hệ yếu” mà theo Granovetter đó

là sức mạnh của các liên hệ yếu. Các liên hệ yếu là những nối kết giữa mọi người

với những người quen biết bình thường. Trong khi các nhà xã hội học có xu hướng

tập trung vào các liên hệ vững trong các nhóm xã hội, thì Granovetter đã làm nổi

bật được giá trị của các liên hệ yếu là nó ngăn ngừa sự biệt lập và cho phép các cá

thể hòa hợp tốt hơn với xã hội lớn. Đây là một dạng tính hội nhập. Hay nói đúng

hơn, đây là một tiền đề quan trọng cho sự hội nhập.

Lý thuyết mạng lưới xã hội được hình thành trên cơ sở lý thuyết hệ thống và

tương tác xã hội. Khái niệm này ngày càng được sử dụng rộng rãi trong cách tiếp

cận xã hội học.

Khái niệm mạng lưới xã hội dùng để chỉ phức thể các quan hệ xã hội do con

người xây dựng, duy trì và phát triển trong cuộc sống thực của họ với tư cách là

thành viên của xã hội. Một hay nhiều quan hệ của hai chủ thể với nhau tạo thành

một liên kết. Mạng xã hội là tập hợp các liên kết bao gồm các quan hệ đan chéo,

chằng chịt từ quan hệ gia đình, thân tộc, bè bạn đến quan hệ trong tổ chức, đoàn thể,

hiệp hội, đảng phái, nghề nghiệp…

Đặc điểm của mạng lưới xã hội.

Các mạng lưới xã hội là một phần quan trọng của cơ cấu xã hội. Nó hữu ích cho

các cá nhân và quan trọng trong hầu hết các xã hội. Vì thông qua mạng lưới xã hội,

16

thông tin, kiến thức và các nguồn lực được chia sẻ giữa các cá nhân và các nhóm xã

hội. Từ đó sức mạnh cá nhân và xã hội được tăng lên, mặt khác nó làm cho xã hội

vận hành một cách gắn bó, hài hòa.

Mạng lưới xã hội không có ranh giới “vật chất” rõ ràng: các thành viên có thể

có hoặc không tương tác đều đặn. Hơn nữa, con người trong các mạng lưới xã hội

không thường xuyên có nhận thức rằng họ thuộc về mạng lưới đó, hoặc họ cần có

những mục tiêu, mục đích chung như là các thành viên của một nhóm. Vì trong một

mạng lưới xã hội con người phải xử lý phức hợp nhiều mối quan hệ xã hội mà nó

không bắt buộc phải thực hiện một cách cứng nhắc. Hơn nữa, cùng một lúc, một cá

nhân có thể tham gia nhiều mạng lưới xã hội. Như vậy, cảm nhận cá nhân thuộc về

mạng lưới xã hội nào mới có ý nghĩa. Hay nói cách khác, chúng ta chỉ có thể quan

sát xem một cá nhân đặt “dấu nhấn” hay quan tâm đến mạng lưới nào hơn qua

những hành vi cụ thể: hội họp, ăn uống, cúng tế... Như vậy, không một cá nhân nào

lại đứng ngoài mạng lưới xã hội.

Các mạng có quy mô, kích cỡ không đồng nhất. Mạng xã hội lớn có sự không

đồng nhất về tính chất của các thành viên và cấu trúc của mạng bao gồm nhiều

thành phần hơn. Các mạng xã hội nhỏ, đồng nhất điển hình cho các nhóm lao động

truyền thống và các cộng đồng làng xã, các dạng này thích hợp cho việc bảo tồn các

nguồn tài nguyên có sẵn. Các mạng lớn không đồng nhất thích hợp với việc tìm

kiếm nguồn tài nguyên mới.

Hình thức mạng xã hội giúp xác định tính hữu ích của mạng đối với các cá nhân

tham gia trong đó. Các mạng nhỏ và kín hơn thì ít hữu ích đối với các thành viên

hơn là các mạng có nhiều liên kết lỏng với những cá nhân ở bên ngoài mạng chính.

Những mạng mở với nhiều mối nối và liên kết xã hội lỏng lẻo (được xác định bằng

sự khác biệt giữa mật độ trong nội bộ nhóm và mật độ trong tổng thể mạng) có khả

năng giới thiệu những ý tưởng và cơ hội mới cho các thành viên của nó hơn là các

mạng khép kín với những dây liên kết rườm rà.

Trong nghiên cứu này, mạng lưới xã hội được nhìn nhận là những mối liên kết

xã hội mà thông qua đó, người di cư có được những thông tin cũng như những kỳ

17

vọng mà người di dân đặt vào nó như sự giúp đỡ, sự hỗ trợ…Thông qua đó, ngươi

di cư tìm kiếm cơ hội cuộc sống mới. Ở đây, mạng xã hội thường là các mạng nhỏ

và khép kín hơn là các mạng lỏng lẻo với những quan hệ xã hội phức tạp. Tuy nhiên,

đôi khi ảnh hưởng của các mối quan hệ lỏng lẻo lại có tầm ảnh hưởng đối với việc

thiết lập các mối quan hệ cộng đồng và cuộc sống của người dân.

3.3. Lý thuyết vốn xã hội

Khái niệm vốn xã hội được Lyda Judson Hanifen đưa ra lần đầu tiên năm 1916,

như những thứ “được tính nhiều nhất trong cuộc sống thường nhật của con người:

cụ thể là thiện ý, tình bằng hữu, sự đồng cảm và giao thiệp xã hội giữa cá nhân và

gia đình tạo thành một đơn vị xã hội… Nếu một cá nhân giao tiếp với các láng

giềng của mình, và họ với láng giềng của họ, thì sẽ có sự tích tụ vốn xã hội, cái có

thể thỏa mãn ngay các nhu cầu xã hội của anh ta và có thể có một tiềm năng xã hội

đủ để cải thiện đáng kể điều kiện sống của cả cộng đồng” [trích theo M. Woolcock,

D. Narayan].

Từ đó, vấn đề vốn xã hội được nhắc nhở, nghiên cứu, phát triển và áp dụng rộng

rãi trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, xã hội, tâm lý…tại Mỹ, các nước phương

Tây và các quốc gia kỹ nghệ trên toàn thế giới. Năm 1961, Jane Jacob phân tích và

thảo luận về vốn xã hội trong mối tương quan của đời sống ở thành phố. Năm 1983,

Pierre Bourdieu soạn hẳn ra một lý thuyết riêng về vốn xã hội. James S. Coleman

phát triển lý thuyết thành một nội dung giáo dục về nguồn vốn xã hội.

Coleman mô tả vốn xã hội là một cấu trúc, một khuôn khổ cho sự giao dịch

giữa những người hành động và trong họ với nhau; thúc đẩy các hoạt động sản

xuất và trở thành những gì có sẵn (tài nguyên) để cho một cá nhân sử dụng nhằm

thực hiện những lợi ích riêng tư của họ. Khi ấy người ta có thể sống với nhau mỗi

ngày mà không phải mất công dàn xếp đi, dàn xếp lại vừa mất thời giờ, vừa tốn kém.

Vốn xã hội tạo điều kiện cho các cá nhân hợp tác với nhau vì nó làm giảm khó khăn

1 Nguồn: http://www.tiasang,com.vn

18

khi cùng làm một việc chung. Người này bỏ sức ra vì biết người khác cũng làm như thế và họ sẽ không muốn làm chung với ai thích làm theo tuỳ hứng.”1

Vốn xã hội được kết tinh sau một quá trình gồm có: (1) sự tin tưởng lẫn nhau

(trust) hay niềm tin; (2) sự có đi có lại hay sự tương hỗ; (3) những quy tắc hay hành

vi mẫu mực chung và sự chế tài; (4) sự kết hợp lại với nhau thành một mạng lưới. Ở

góc độ này, vốn xã hội là những sự ràng buộc lẫn nhau do người ta đặt ra hay tuân

giữ khi giao dịch hay khi chung sức làm một việc gì đó, nó còn được gọi là những

ràng buộc xã hội (social bonds) hay các hành vi chuẩn mực (norms) hoặc các quy

tắc xã hội (social rules) và chúng là những yếu tố quan trọng cho sự bền vững của

cuộc sống.

Hành vi mẫu mực là một việc làm theo một cung cách nào đó phù hợp với sự

mong đợi, sự ưa thích. Quy tắc và hành vi mẫu mực là những điều được đồng

thuận hay được đưa từ trên xuống để lợi ích tập thể được đặt ra cao hơn lợi ích

cá nhân. Chúng giúp cho cá nhân tin tưởng và bỏ sức tham gia việc chung hay

hoạt động của nhóm, vì biết rằng những người khác cũng làm như thế.

Trong cuốn Trust: The Social Virtues and the creation of prosperity, xuất bản

năm 1995, giáo sư Fukuyama đã nghiên cứu niềm tin trong việc tạo nên vốn xã hội

và chú trọng đặc biệt đến sự phát triển kinh tế. Dùng niềm tin như là tiêu chí chính

yếu để so sánh cơ cấu kinh tế và xã hội của các nước, ông cho rằng vốn con người

và vốn xã hội ảnh hưởng lẫn nhau. Vốn con người có thể làm tăng vốn xã hội. Thí

dụ, người có học sẽ ý thức hơn tầm quan trọng của việc săn sóc con cái và sẽ tạo

điều kiện cho con cái học hành, trau dồi vốn con người của mình để đền đáp lại cha

mẹ. Ông định nghĩa: Vốn xã hội là hành vi mẫu mực không chính thức (informal)

phát sinh ngay lập tức và nó thúc đẩy sự hợp tác giữa hai người hay nhiều người.

Các hành vi mẫu mực tạo nên vốn xã hội có thể bắt đầu từ một sự tương tác tự

nhiên giữa hai người bạn lên cao cho đến tận các học thuyết phức tạp và tinh vi

như Cơ đốc giáo và Phật giáo. Hành vi mẫu mực phải bung ra ngay lập tức trong

các mối quan hệ cá nhân cụ thể. Hành vi mẫu mực có đi có lại nằm ẩn trong mọi

giao dịch của tôi với mọi người, và chỉ trở thành cụ thể trong sự giao dịch của tôi

đối với những người bạn của tôi”. Không phải mọi hành vi mẫu mực phát sinh tức

19

thời đều tạo nên vốn xã hội. Trái lại, chỉ có những cái nào giúp cho các nhóm xã hội

hợp tác với nhau, hay tạo nên sự hợp tác thì đó mới là hành vi mẫu mực. Đa phần

chúng lại là các đức tính truyền thống như lòng trung thực, sự giữ lời hứa, việc thi

hành bổn phận một cách đáng tin cậy, sự tương tác và tinh thần trách nhiệm.

Theo ông, vốn xã hội xuất phát từ ba nguồn. Thứ nhất, như các nhà kinh tế đã

nêu, là từ sự giao tiếp với nhau liên tục; hai người giao dịch với nhau lâu sẽ thấy

cần phải chứng tỏ mình là người trung thực và giữ lời hứa. Thứ hai, là từ các tôn

giáo hay hệ thống luân lý. Đó là nguồn gốc của một quyền uy, nó ấn định các hành

vi mẫu mục và trông đợi sự tuân thủ không cần suy nghĩ. Những mẫu mực đó

không chỉ diễn ra trong các cuộc thương thảo riêng lẻ mà còn được lưu truyền từ thế

hệ này sang thế hệ khác, qua các quy trình đã được xã hội hóa sử dụng tập quán và

thói quen nhiều hơn là lý lẽ. Thứ ba, sự chia sẻ kinh nghiệm lịch sử cũng tạo nên

những hành vi mẫu mực và do đó cũng tạo nên vốn xã hội. Thu gọn những điều trên,

ta thấy vốn xã hội xuất phát từ các đức tính của mỗi cá nhân (trung thực, trách

nhiệm, hợp tác…) khi họ tự nguyện kết hợp lại với nhau để làm một công việc

chung nào đó.

Khái niệm vốn xã hội thường gắn với sự tham gia xã hội và công dân, với các

mạng hợp tác và đoàn kết, gắn với sự cố kết xã hội, sự tin cậy, sự có đi có lại và

tính hiệu quả thể chế.

Ngân hàng thế giới định nghĩa: “Vốn xã hội là những gì liên quan đến các cơ sở,

các mối quan hệ và những giá trị truyền thống. Tất cả cùng hợp tác tạo nên số

lượng và chất lượng của thành phẩm làm nên bởi sự tương giao hợp tác trong xã

hội…Vốn xã hội không phải đơn thuần là sự tổng hợp những khối lượng vật chất của xã hội mà là chất keo làm dính chặt những khối lượng tài sản này lại.”1

Nói một cách cụ thể hơn về vốn xã hội, Cohen và Prusak (2001) định nghĩa:

“Vốn xã hội bao gồm phần lớn sự hợp tác, xây dựng giữa những con người với

1 Nguồn: www.khoa hoc.net

20

nhau: sự tin tưởng, sự hiểu biết lẫn nhau và sự chia sẻ những giá trị đạo đức,

phong cách nối kết những thành viên trong các tập đoàn, các cộng đồng lại với nhau làm cho việc phối hợp hành động có khả năng thực hiện được.”1

Hiện có ba cách tiếp cận về vốn xã hội:

Cách tiếp cận vi mô nhấn mạnh đến bản chất và các hình thức của ứng xử hợp

tác (giá trị của hành động tập thể), vốn xã hội được coi là 1) một sản phẩm của các

động cơ, của các tác nhân để tạo ra một hiệp hội; 2) ứng xử của họ; 3) cảm nhận của

họ về các vấn đề tập thể). Ngân hàng thế giới nhắc đến loại này như “vốn xã hội

nhận thức” (cognitive social capital).

Cách tiếp cập vĩ mô nhấn mạnh đến các điều kiện (thuận lợi và bất lợi) cho hợp

tác, đến giá trị của hội nhập và cố kết xã hội; nó nhấn mạnh đến môi trường xã hội,

các thể chế, cấu trúc xã hội và chính trị truyền đạt các giá trị và các chuẩn mực tạo

điều kiện cho người dân tham gia hoạt động xã hội và công dân; coi vốn xã hội như

sản phẩm của các cấu trúc đó. Kết quả là, các cấu trúc này càng củng cố sự tin cậy

và sự có đi có lại, thì càng nhiều người tham gia vào đời sống công dân và sẽ càng

có nhiều vốn xã hội.

Cách tiếp cận trung gian nhấn mạnh đến các kết cấu cho phép hợp tác xảy ra.

Nó nhấn mạnh đến giá trị phương tiện của vốn xã hội, gắn với tiềm năng của các

mạng xã hội. Ngân hàng thế giới nhắc đến nó như “vốn xã hội cấu trúc” (structrural

social capital).

Theo H. de Soto thì ta có thể hình dung vốn xã hội là khả năng của các tài sản

xã hội nằm trong các mối quan hệ, trong mạng lưới xã hội được cố định, được biểu

diễn trên một tầng thông tin, bất luận các tài sản xã hội đó là các tài sản hữu hình

hay vô hình. Các tài sản xã hội có thể là các định chế như gia đình, nhóm, câu lạc

bộ, hiệp hội, quân đội, công an, hệ thống an sinh xã hội hay các tài sản vô hình như

hệ thống pháp luật, các tập quán, tinh thần thượng tôn pháp luật… Khả năng đó

nằm trong mối quan hệ xã hội chứ không phải nằm trong bản thân các tài sản ấy. Có

thể phóng sự tưởng tượng của chúng ta lên nữa để hình dung: trên tầng thông tin lại

1 “Nhìn lại vốn xã hội Việt Nam”- TS. Trần Kiêm Đoàn- www.khoahoc.net

21

hình thành các tài sản, khả năng, tiềm năng của các tài sản. Trên tầng thông tin này

lại được biểu diễn, cố định trên một tầng thông tin nữa và cứ thế đến vô tận. Nói

cách khác, khả năng tạo vốn ngày càng tăng lên. Thực ra, nghĩ như trên là vẫn theo

cách tiếp cận thứ bậc: có tầng vật lý và tầng thông tin nằm trên nhau, mỗi tầng trên

biểu diễn, cố định năng lực của các tài sản thuộc tầng dưới nó. Có lẽ hữu hiệu hơn

là một mô hình phi thứ bậc hơn, các tầng đó thuộc về một mạng có quan hệ qua lại

với nhau chứ không chỉ từ dưới lên hay trên xuống theo kiểu thứ bậc. Nhìn từ cách

tiếp cận này có thể thấy H. de Soto đã đề cập đến phần rất quan trọng của vốn xã

hội gắn với định chế quyền sở hữu. Tuy nhiên, cách nhìn này cho ta cái nhìn bao

quát hơn.

3.1. Lý thuyết về di dân Lý thuyết của Ravestein là một trong những lý thuyết về di dân sớm nhất trong

trường phái cổ điển, được đưa ra vào cuối thế kỷ XIX. Theo ông, di cư xảy ra sớm

bởi tiến trình công nghiệp hóa và phát triển thương mại giữa các khu vực của một

quốc gia. Mặt khác, sự di cư bị chi phối bởi khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Những người sống ở khu vực kém phát triển hay nghèo khổ thường có xu hướng

chuyển đến những khu vực phát triển hơn. Theo Ravestein, tỉ lệ người tham gia di cư có mối quan hệ thuận với khoảng cách giữa hai khu vực nơi họ đến1. Lý thuyết

này của Ravestein đã bị một số học giả phê phán vì nó không tính đến yếu tố văn

hóa, lịch sử, tâm lý, những yếu tố con người có ảnh hưởng mạnh đến quá trình di cư

(Lagencrantz, Mah mound, 2000).

Lý thuyết của Lewis ra đời vào những năm 1950, trong bối cảnh các nước thế

giới thứ ba bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, dẫn đến sự bùng nổ của làn sóng di

cư từ nông thôn ra các thành phố công nghiệp và các đô thị. Lewis đã trình bày

quan điểm của di cư từ nông thôn ra thành thị trong cuốn: Sự phát triển kinh tế đối

với việc cung cấp không giới hạn về lao động (Economic Development with

Unlimited Suplies of Labour, 1954). Theo ông, những lí do sau đây làm cho người

1 Nguyễn Thị Thanh Tâm “Một số quan điểm lý thuyết về di dân và phụ nữ di cư” Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 6/2003.

22

ta di cư từ nông thôn lên đô thị: Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế và mở rộng của

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đặng Nguyên Anh. (1998): Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di

cư. Tạp chí Xã hội học số 2, 1998.

[2] Đặng Nguyên Anh, 2008. Chính sách di dân xây dựng vùng kinh tế mới Việt

Nam. Tạp chí Xã hội học, số 4 (104), 2008.

[3] Ngô Thị Ngọc Anh & Hoàng Thị Tây Ninh. Giải pháp và chính sách về di

dân, phát triển kinh tế xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Vụ Gia đình,

Ủy ban dân số gia đình và trẻ em.

[4] Đặng Nguyên Anh. (1997): Vai trò của nông thôn – đô thị trong sự phát

triển nông thôn hiện nay. Tạp chí Xã hội học số 4.

[5] Nguyễn Văn Chính. (1997): Biến đổi kinh tế xã hội và vấn đề di chuyển lao

động nông thôn – đô thị ở Miền Bắc Việt Nam. Tạp chí Xã hội học số 2.

[6] Tống Văn Chung, (2001). Xã hội học nông thôn. NXB Đại học Quốc gia Hà

Nội, 2001.

[7] Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, 2001. Xã hội học. NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội, 2001.

[8] Bùi Quang Dũng, 2009. Một số vấn đề phát triển nông thôn thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tạp chí Xã hội học số 1(105), 2009.

[9] Đỗ Thiên Kính. ( 2003). Phân hóa giàu nghèo và tác động của yếu tố học

vấn đến nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam (qua hai cuộc điều

tra mức sống dân cư Việt Nam năm 1993, 1998). NXB Khoa học xã hội.

[10] Vũ Quang Hà, 2001, Các lý thuyết xã hội học. NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội, 2001.

[11] Lê Hồng Hoanh (Chủ nhiệm đề tài). Di dân tự do tại thành phố Hồ Chí

Minh – thực trạng và giải pháp quản lý. Sở Nông nghiệp và phát triển

nông thôn Thành phố Hồ Chí Minh (chủ trì).

[12] Lê Ngọc Hùng, 2008, Lịch sử và lý thuyết xã hội học. NXB Khoa học xã

23

hội, 2008.

[13] Tương Lai. (1991). Mấy vấn đề cấp bách về chính sách xã hội và cơ cấu

xã hội. Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

[14] Tương Lai. (1995): Khảo sát xã hội về phân tầng xã hội. NXB Khoa học

xã hội, 1995.

[15] Nguyễn Thanh Liêm, 2007. Thu nhập của hộ gia đình và các đặc trưng

di cư của con cái từ nông thôn. Tạp chí Xã hội học số 3 (99), 2007.

[16] Nguyễn Trọng Liêm (1999) Hành trình hội nhập của người di dân tự do vào

Thành phố Hồ Chí Minh nhìn từ góc độ kinh tế và xã hội. Chi cục di dân

và phát triển vùng kinh tế mới Thành phố Hồ Chí Minh (chủ trì).

[17] Trịnh Duy Luân, (2004): Vấn đề phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay – Một

số khía cạnh và phương pháp tiếp cận và nghiên cứu. Tạp chí Lao động và

xã hội, số 2.

[18] Nguyễn Duy Thắng, (2004): Tác động của đô thị hóa đến nghèo khổ và phân

tầng xã hội: Nghiên cứu trường hợp vùng ven đô thị Hà Nội, Tạp chí Xã

hội học, số 4, 2004.

[19] Hoàng Bá Thịnh, 2009. Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những phí tổn. Tạp

chí Xã hội học, số 1(105), 2009.

[20] Nguyễn Quang Vinh. (1998): Giả thuyết về năng lực hội nhập của dân di cư

vào đời sống đô thị. Tạp chí Xã hội học, số 2, 1998.

[21] Catherine Quiminal. (2000): Construction des identíes en situation

migratoire: territoire des hommes, territoire des femmes, (Xây dựng tính

đồng nhất trong tình trạng nhập cư: lãnh thổ nam giới, lãnh thổ nữ giới).

[22] Jame T. Fawcett, Siew – Ean Khoo, Peter C.Smith. (1984): Women in

the cities of Asia: migration and Urban adaptation.

[23] John J.Macionis. Xã hội học. NXB Thống Kê.

[24] J.E.Goldthorpe (1999). An Introduction to Sociology. NXB University

Press, Cambridge.

[25] E.A.Capitonov. Xã hội học thế kỷ XX – Lịch sử và công nghệ, Nguyễn

24

Quý Thanh (biên dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.

[26] G.Endruweit & G.Trommsdorff. Từ điển Xã hội học. NXB Thế giới.

[27] H.Russel Bernard, Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học – Tiếp

cận và định hướng. NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2007.

[28] Taylor J.Edward. (2001): Migrations: nouvelles dimentions et

caracteristiques, causes, conséquences répercussions en termes de

pauvreté rurale.

[29] Roger Avery, Đặng Nguyên Anh. (1994): Di dân nội địa ở Việt Nam

giai đoạn 1984 – 1989. Tạp chí Xã hội học, số 3.

[30] T. Scarlett Epstein, (2001): Development – there is another way: a rural

– urban partnership development paradigm (Có một con đường khác:

25

mô hình phát triển quan hệ nông thôn – thành thị).