ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRẦN NGỌC MINH
HỢP TÁC PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
TIỂU VÙNG SÔNG MEKONG GIAI ĐOẠN 1990-2020
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: CHÂU Á HỌC
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
TRẦN NGỌC MINH
HỢP TÁC PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
TIỂU VÙNG SÔNG MEKONG GIAI ĐOẠN 1990-2020
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60 31 06 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS Lê Đình Chỉnh
Hà Nội - 2016
Lời cảm ơn
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lê Đình Chỉnh,
Nguyên Chủ nhiệm Khoa Đông Phương học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, người đã tận tình, chu đáo
hướng dẫn, và có sự chỉ đạo sát sao trong suốt thời gian tôi thực hiện luận
văn tốt nghiệp này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người bạn đồng hành, những người giúp đỡ
tôi tìm hiểu - thu thập tư liệu về vấn đề tôi đang quan tâm và nghiên cứu.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các quý thầy cô giáo,
cùng các cán bộ của Khoa Đông phương học, Trung tâm thư viện Đại học
Quốc gia Hà Nội đã cung cấp cho tôi những tư liệu quý báu và giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè, đồng
nghiệp, những người luôn động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian
thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Do nguồn tài liệu và thời gian nghiên cứu còn hạn chế, nên luận văn
không sao tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được đóng
góp của các quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để tôi có thể có những bước
nghiên cứu tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả
Trần Ngọc Minh
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu độc
lập của bản thân, không sao chép từ bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Các tài liệu tham khảo, trích dẫn nội dung được sử dụng trong luận văn đã
được chú thích rõ nguồn trích dẫn.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung luận văn tốt nghiệp và
lời cam đoan này.
Tác giả
Trần Ngọc Minh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 6
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài ............................................................... 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 8
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 9
Chƣơng 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CÁC
VÙNG LÃNH THỔ TRONG KHU VỰC TIỂU VÙNG SÔNG MEKONG
........................................................................................................................... 9
1.1. Khái quát về tiểu vùng sông Mekong .................................................... 9
1.1.1. Về điều kiện tự nhiên, xã hội .................................................................. 9
1.1.2 Nguồn lực của các nước trong tiểu vùng sông Mekong ........................ 21
1.1.3. Sự hình thành và phát triển hợp tác tiểu vùng Mekong ........................ 23
1.2. Hợp tác du lịch tiểu vùng sông Mekong và hợp tác du lịch đa phƣơng ... 29
1.2.1. Hợp tác du lịch tiểu vùng sông Mekong ............................................... 29
1.2.2. Hợp tác du lịch đa phương- chìa khóa thúc đẩy kinh tế, xóa đói giảm
nghèo ............................................................................................................... 33
Chƣơng 2 CÁC CHƢƠNG TRÌNH HỢP TÁC DU LỊCH TIỂU VÙNG
SÔNG MEKONG .......................................................................................... 37
2.1. Các tổ chức hợp tác du lịch tiểu vùng Mekong .................................. 37
2.1.1. Tổ chức du lịch thế giới ........................................................................ 37
2.1.2. Hiệp hội du lịch châu Á-Thái Bình Dương ........................................... 38
2.1.3. Diễn đàn du lịch ASEAN ...................................................................... 38
2.1.4. Văn phòng điều phối du lịch Mekong ................................................... 39
2.1.5. Diễn đàn du lịch Mekong ...................................................................... 40
2.2. Các nội dung hợp tác du lịch ở tiểu vùng Mekong ............................. 41
2.2.1. Phát triển nguồn nhân lực du lịch ......................................................... 41
2.2.2. Phát triển cơ sở vật chất phục vụ du lịch .............................................. 42
2.2.3. Phát triển sản phẩm du lịch, nối tour, trao đổi đoàn khách................... 45
2.2.4. Xúc tiến quảng bá du lịch ..................................................................... 47
2.2.5. Nâng cao chất lượng quản lý nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn . 50
2.3. Các hoạt động nổi bật trong hợp tác du lịch ở tiểu vùng Mekong .... 51
2.3.1. Chương trình “Ba quốc gia - một điểm đến” ........................................ 51
2.3.2. Hợp tác du lịch Việt Nam - Thái Lan ................................................... 53
2.3.3. Dự án “Phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mekong” .............. 54
2.3.4. Hợp tác du lịch giữa Việt Nam, Thái Lan với Trung Quốc .................. 56
Chƣơng 3. THÀNH TỰU, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HỢP TÁC
VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TIỂU VÙNG SÔNG MEKONG ............... 61
3.1. Một số thành tựu chủ yếu của hợp tác du lịch tiểu vùng sông Mekong 61
3.2. Một số định hƣớng phát triển ............................................................... 70
3.3. Triển vọng hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng ................................. 78
3.4. Cơ hội cho ngành du lịch tiểu vùng sông Mekong .............................. 85
3.5. Khó khăn, thách thức cho du lịch tiểu vùng Mekong và hàm ý cho du lịch
Việt Nam. ........................................................................................................ 88
3.6. Biện pháp khắc phục khó khăn, thách thức ....................................... 95
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106
BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ TIẾNG ANH VIẾT TẮT
TT Tên viết tắt Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt
1 ASEAN Association of Southeast Hiệp hội các Quốc gia
Asian Nations. Đông Nam Á.
2 AFTA ASEAN Free Trade Area. Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN.
3 ACFTA ASEAN– Chine Free Khu vực mậu dịch tự do
Trade Area. ASEAN- Trung Quốc.
4 APEC Asia- Pacific Economic Diễn đàn hợp tác kinh tế
Cooperation. khu vực châu Á- Thái Bình
Dương.
5 ADB The Asian Development Ngân hang phát triển châu
Á. Bank.
6 AINS Agriculture Information Dịch vụ mạng viễn thông
Network Services. Nông nghiệp.
7 CASP Core Agriculture Support Chương trình hỗ trợ nông
Program. nghiệp chủ chốt.
8 CEP Core Environment Chương trình môi trường
Program. chủ chốt tiểu vùng
sôngMekong mở rộng.
9 EU European Union. Liên minh châu Âu.
10 EWEC East West Economic Hành lang kinh tế Đông –
Corridoc. Tây.
11 GDP Gross Domestic Product. Tổng sản phẩm nội địa.
12 GMS Greater Mekong Tiểu vùng sông Mekong mở
Subregion. rộng.
13 IMF International Monetery Quỹ tiền tệ quốc tế.
System.
14 MTDP Mekong Tourism Dự án phát triển du lịch
Development Project. Mekong.
15 MRC Mekong River Ủy hội sông Mekong quốc
Commission. tế .
16 NAFTA North America Free Hiệp định thương mại tự do
Trade Agreenment. Bắc Mĩ.
17 NSEC North – South- Economic Hành lang kinh tế Bắc –
Corridor. Nam.
18 SEC South- Economic Hành lang kinh tế phía
Corridor. Nam.
19 UNESCO United Nations Tổ chức giáo dục, khoa học
Educational, Scientfic and và văn hóa thế giới.
Cultural Orgnization.
20 USD The United States Dolla. Đồng Đô la Mĩ.
21 TAD Transboundary Animal Bệnh dịch động vật xuyên
Disease. Quốc gia.
22 TFF Tuvalu Trust Fund. Hỗ trợ thương mại và giao
thông.
23 WGA Working Group on Tổ công tác về Nông
nghiệp. Agriculture.
24 WTO Tổ chức thương mại thế World Trade
giới. Organization.
25 FDI Foreign direct investment Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài
26 SEZ Special Economic Zone Khu kiểm dịch đặc biệt
27 SPS Sanitary and phyto- Vệ sinh và kiểm dịch
sanitary
28 SME Small and medium-sized Doanh nghiệp vừa và nhỏ
enterprise
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, hội nhập khu vực và quốc tế là xu thế chung diễn ra trên
toàn thế giới, trong đó sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày
càng gia tăng, nhất là những quốc gia trong cùng một khu vực địa lý, đã và
đang chia sẻ nhiều mục tiêu và lợi ích trong phát triển. Trong xu thế đó, các tổ
chức khu vực phát triển theo hướng không chỉ hướng nội mà còn hướng
ngoại. Chẳng hạn, như ở khu vực Đông Nam Á việc hợp tác phát triển đã có:
TTP, AEC, ASEAN+ 1, ASEAN + 3.... Kết quả là nhiều lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội đang được quan tâm phát triển trong nhiều tổ chức hợp
tác đa phương. Trong các lĩnh vực ấy, du lịch là lĩnh vực kinh tế mang tính
chất mở và khá năng động. Vì vậy, hợp tác phát triển du lịch là một trong
những xu hướng và nhu cầu tất yếu giữa các quốc gia hiện nay, bởi đây cũng
là một ngành kinh tế mũi nhọn có tầm quan trọng đối với nhiều nước.
Sông Mekong là dòng sông có vai trò quan trọng, chảy qua địa phận
của sáu quốc gia: Trung Quốc, Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt
Nam, đây là con sông Mẹ huyết mạch nuôi sống cư dân các nước dọc bờ sông
này. Dòng sông mang lại rất nhiều nguồn lợi về kinh tế, lợi ích từ dòng sông
không chỉ là lợi ích của một quốc gia mà còn là lợi ích của tất cả các nước
trong khu vực. Chính vì tầm quan trọng của dòng sông và sự tương đồng về
địa chính trị, địa kinh tế, địa văn hóa nên đã hình thành nên tiểu vùng sông
Mekong có quan hệ mật thiết với nhau về nhiều mặt. Việc phát triển kinh tế
tiểu vùng có liên quan đến quyền lợi kinh tế mỗi nước thành viên nên cần
xem xét, điều chỉnh lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc sao cho phù hợp với lợi
ích và xu thế phát triển chung của cả tiểu vùng, chính điều này đặt ra vấn đề
hợp tác phát triển bền vững ngay trong bản thân mỗi nước trong tiểu vùng.
Nhận thức rõ điều đó, năm 1992, sáu quốc gia thuộc khu vực sông
1
Mekong đã tham gia vào chương trình hợp tác tiểu vùng Mekong mở rộng
(Greater Mekong Subregion - GMS). Mục tiêu của chương trình này là góp
phần phát triển cơ sở hạ tầng, tận dụng nguồn tài nguyên chung, xúc tiến đẩy
mạnh việc trao đổi hàng hoá cũng như nguồn lao động giữa các nước trong
Tiểu vùng, tiến tới xây dựng tiểu vùng sông Mekong trở thành một trong
những khu vực phát triển thịnh vượng trên thế giới. Hoạt động của GMS rất
phong phú, đa dạng, có nhiều sáng kiến bao gồm nhiều chương trình, nhưng
tập trung chủ yếu vào 9 lĩnh vực khác nhau, trong đó du lịch được xem là lĩnh
vực có lợi thế và nằm trong số 11 chương trình ưu tiên của tiểu vùng Mekong.
Hợp tác về du lịch đang được triển khai có hiệu quả ở các nước thành viên.
Nhiều chương trình liên kết ra đời là minh chứng cho xu thế hội nhập và hợp
tác giữa các nước láng giềng trong tiểu vùng, tạo điều kiện cho xu thế hợp tác
ngày càng sâu sắc và đạt hiệu quả hơn.
Việc hợp tác phát triển du lịch trong các nước tiểu vùng sông Mekong
đang được đặt ra một cách cấp bách trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu
hóa : vừa khai thác, hợp tác phát triển lại vừa bảo vệ môi trường. Với việc
dòng sông trải dài trên 06 nước nên việc khai thác nguồn lợi tài nguyên
Mekong phục vụ du lịch không chỉ liên quan đến lợi ích của từng quốc gia mà
là của cả khu vực. Từ đó đòi hỏi các nước trong tiểu vùng phải tham gia
thương lượng và điều chỉnh lợi ích quốc gia, đảm bảo sự phát triển bền vững
và an sinh xã hội, từ vấn đề một dòng sông tiếp sau đó là vấn đề hợp tác
chung của cả tiểu vùng.
Tình hình thế giới: Năm 1990, tình hình thế giới có nhiều biến động,
với sự tan rã của Liên Xô và Đông Âu, chiến tranh lạnh kết thúc tạo điều kiện
cho hợp tác các nước trong khu vực với nhau. Trong giai đoạn này, ngân hàng
phát triển châu Á- ADB đã có những bước thu thập điều tra các nước liên
quan đến tiểu vùng Sông Mekong, số liệu ghi lại từ những năm 1990, tạo tiền
2
đề cho sáng kiến hợp tác tiểu vùng Sông Mekong năm 1992.
Từ những nội dung đề cập trên, tôi cho rằng đây là một đề tài chứa
đựng nhiều nội dung khoa học quan trọng, cần được nghiên cứu hệ thống và
toàn diện hơn. Từ nhận thức đó, tôi chọn đề tài „„ Hợp tác phát triển du lịch
tiểu vùng sông Mekong giai đoạn 1990-2020 ‟‟ làm đề tài luận văn tốt nghiệp
của mình.
Luận văn này trước hết đề cập đến hoạt động hợp tác du lịch của các
quốc gia trong tiểu vùng song Mekong, những thành tựu đã đạt được cũng
như các chương trình, hoạt động mà Hiệp hội này đang xúc tiến để quảng bá
cho du lịch của cả tiểu vùng. Thêm vào đó, luận văn cũng tập trung nêu và
phân tích cụ thể những cơ hội và thách thức đối với du lịch Việt Nam trong
quá trình hội nhập khu vực. Việt Nam có cơ hội gì và phải đối mặt với những
khó khăn thách thức nào trong hợp tác du lịch song phương và đa phương với
các quốc gia trong Tiểu vùng Mekong mở rộng, nhất là khi tuyến đường
xuyên Á và Hành lang kinh tế Đông Tây đã trở thành hiện thực, mở ra nhiều
cơ hội để hợp tác và phát triển với các quốc gia trong Tiểu vùng. Xác định rõ
vị trí của du lịch Việt Nam trong khu vực sẽ góp phần xây dựng chiến lược và
chính sách đúng đắn trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế nhằm phát
triển tài nguyên du lịch Việt Nam trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, có
tầm cỡ và thương hiệu ghi đậm dấu ấn trên bản đồ du lịch thế giới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chủ đề nghiên cứu về tiểu vùng sông Mekong là một lĩnh vực khoa học
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Hiện nay có nhiều nước trên thế giới có
sự quan tâm đặc biệt đến tiểu vùng sông Mekong, có thể kể đến là Nhật Bản,
Mỹ. Đây là 2 nước lớn đã đề ra những chiến lược, kế hoạch hoạch định tương
lai hợp tác và phát triển ở đây.
Hiện nay, các nước trong tiểu vùng cũng đã xây dựng cho mình những trung
tâm nghiên cứu về tiểu vùng sông Mekong: Bắc Kinh (Trung Quốc), Viên Chăn
3
(Lào), Băng Cốc (Thái Lan), Hà Nội (Việt Nam), Phnom Penh (Campuchia)….
hình thành nên những Học viện Mekong hay Ủy ban Mekong có tác dụng thiết thực
trong việc đào tạo cán bộ và nghiên cứu khá toàn diện về Mekong trên tất cả các
mặt. Trong số đó phải kể đến Thái Lan là quốc gia đi đầu về nghiên cứu Tiểu vùng
sông Mekong với trung tâm nghiên cứu Mekong của đại học Khon Kaen (Thái
Lan) cùng bộ sách về các nước tiểu vùng thông qua “Journal of Mekong Societies”.
Đặc biệt là tiến sĩ Thanyathip Sripana – một chuyên gia nghiên cứu của Viện
nghiên cứu châu Á, Trường Đại học Chulalongkorn (Thái Lan) cũng có khá nhiều
công trình nghiên cứu về tiểu vùng này.
Nghiên cứu về GMS đã có diễn đàn " Cơ hội đầu tư vào các dự án ưu
tiên Tiểu vùng Mekong mở rộng" đã được tổ chức ở nhiều nước châu Á và
châu Âu như Bangkok (Thái Lan); Tokyo (Nhật Bản); Seoul (Hàn Quốc),
Born (Đức), Bruxen (Bỉ), Paris (Pháp), London (Anh), v.v... Năm 1998, khi
Đông Nam Á bị tàn phá vì ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu
vực, hoạt động hợp tác Tiểu vùng sông Mekong bị chững lại. Trong khi đó, ở
châu Âu vẫn diễn ra các hội thảo lớn về GMS, thu hút cả khu vực tư nhân,
chứng tỏ việc quan tâm nghiên cứu GMS ở nước ngoài phát triển khá liên tục
và chiếm vị trí chiến lược.
Tại Việt Nam một số nhà nghiên cứu về tiểu vùng có thể kể đến là G.S
Phạm Đức Dương với công trình :“ Có một vùng văn hóa Mekong- Does a
Mekong cultural area exist?”. Tương tự, nhà nghiên cứu Nguyễn Trần Quế -
Kiều Văn Trung với công trình“ Sông và tiểu vùng sông Mekong – tiềm năng và
hợp tác phát triển quốc tế”. Các nhà nghiên cứu khác như Đào Việt Hưng,
Nguyễn Quốc Nga, Trần Khánh, Phạm Đức Thành, Trương Duy Hòa … đã cho
đăng tải nhiều bài viết trên các tạp chí nghiên cứu, các chuyên khảo về tiểu vùng
sông Mekong như : Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, Tạp chí kinh tế thế giới….
Các nghiên cứu chuyển biến dần từ văn hóa, xã hội song hành cùng nghiên cứu
về kinh tế, đặc biệt là sự hợp tác kinh tế, trong đó du lịch là một trong những
4
ngành được chú trọng quan tâm.
Hợp tác giữa các nước tiểu vùng Mekong mở rộng là sự kiện to lớn
trong khuôn khổ hợp tác đa phương của khu vực. Vì vậy, mối quan hệ hợp tác
này luôn nhận được sự hoan nghênh và kỳ vọng không những từ những nhà
lãnh đạo, từ các nhóm lợi ích mà cả sự quan tâm của báo chí, sự nghiên cứu
của các nhà khoa học, giới chuyên môn.
Rất nhiều kênh thông tin như truyền thanh, truyền hình, báo chí và
website thường đưa tin về các chương trình, dự án hợp tác song phương và đa
phương ở tiểu vùng Mekong, nhất là vấn đề hợp tác năng lượng, lương thực
và nguồn nước sông Mekong đang là vấn đề quan trọng thu hút được sự quan
tâm ở khu vực và trên thế giới. Gần đây, tháng 12/2011, Hội nghị thượng
đỉnh GMS lần thứ 4 diễn ra tại thủ đô của Mianma và đưa ra Tuyên bố chung
“ Sau năm 2012: Hướng tới một thập kỷ mới về quan hệ đối tác chiến lược
GMS” càng thu hút hơn sự quan tâm và bàn bạc về sự hợp tác trong GMS.
Năm 2005, tại đô thị cổ Hội An đã diễn ra hội thảo quốc tế “Hợp tác tiểu
vùng Mekong mở rộng: “ Các vấn đề nghiên cứu và mạng lưới hợp tác”. Trong
Hội thảo này, các tác giả đã tập trung thảo luận về các vấn đề như: cơ sở hợp
tác kinh tế của tiểu vùng Mekong, hợp tác về an ninh môi trường và khai thác
tài nguyên, cơ hội và thách thức của hợp tác tiểu vùng, tác động của hợp tác
đến kinh tế Việt Nam… Tuy nhiên, hợp tác về du lịch hầu như ít được nghiên
cứu chuyên sâu mà chỉ được đề cập đến như là một trong các nội dung của hợp
tác kinh tế.
Một trong những công trình có liên quan đến chủ đề nghiên cứu là luận
văn thạc sĩ có tiêu đề “Hợp tác du lịch tiểu vùng Mekong, nhưng cơ hội và
thách thức cho du lịch Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, ĐHKTQD, Hà Nội (2015).
Luận văn đã bước đầu đi vào khai thác những hoạt động du lịch tiểu vùng và
đặt ra những cơ hội và thách thức cho Việt Nam. Tiếp nối những thành tựu
nghiên cứu đó, luận văn này tiếp tục đi sâu vào những hoạt động hợp tác
5
trong hiện tại, những vấn đề chung của tiểu vùng dưới lợi ích chung trong
hoạt động du lịch các nước tiểu vùng. Ngoài ra, luận văn còn cập nhật thêm
những thành tựu mới trong hoạt động du lịch tiểu vùng Mekong.
Có thể thấy rằng ngoài sự hợp tác ASEAN thì các nước trong tiểu vùng
sông Mekong còn có sự hợp tác song phương, đa phương. Vì thế việc nghiên
cứu ngày càng quan trọng, tuy nhiên điều này lại chưa đáp ứng đủ những yêu
cầu về nghiên cứu toàn diện vì số lượng và chất lượng nghiên cứu chỉ dừng
lại ở mức hạn chế.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng
sông Mekong được xem như là một bộ phận quan trọng trong hợp tác kinh tế,
có ý nghĩa to lớn trong mục tiêu phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng
cao mức sống cho người dân trong tiểu vùng.
Tham gia hợp tác du lịch tiểu vùng, du lịch Việt Nam sẽ có nhiều điều
kiện thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức. Vì
vậy, luận văn thực hiện với mong muốn đánh giá những thuận lợi và khó khăn
trong hợp tác và phát triển, từ đó sẽ đưa ra biện pháp tháo gỡ những khó khăn
thách thức, tận dụng tốt những thuận lợi, giảm bớt khó khăn, đưa ngành du
lịch nước ta hội nhập khu vực và thế giới.
Luận văn còn giúp cho người đọc những nét đặc trưng về tiểu vùng
sông Mekong, phân tích những cơ sở để phát triển kinh tế du lịch, tìm hiểu rõ
hơn về GMS những tiềm năng và thực trạng, nêu ra phương hướng hợp tác
phát triển kinh tế du lịch bền vững.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Về mặt khoa học, luận văn trình bày các luận điểm khoa học về hợp tác
du lịch tiểu vùng, một bộ phận quan trọng trong nội dung của hợp tác kinh tế.
Xét trên lĩnh vực du lịch, luận văn đưa ra những phân tích về các nội dung,
chương trình hợp tác, những tác động của nó đến các nước thành viên, trong
6
đó Việt Nam là một thành viên tích cực trong nhiều dự án hợp tác. Đây chính
là sự đóng góp trong nghiên cứu về hợp tác du lịch ở tiểu vùng Mekong và
cũng là đóng góp trong nghiên cứu về các mối quan hệ khu vực và quốc tế.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích trong
học tập đối với sinh viên và cũng là tài liệu tham khảo bổ ích cho các quý
công ty, tổ chức du lịch nhằm hướng đến sự tăng cường hợp tác trong du lịch
giữa các quốc gia tiểu vùng Mekong.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hợp tác phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mekong giai
đoạn 1990-2020 .
5.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Gồm 6 nước trong tiểu vùng sông Mekong
- Về thời gian: Nghiên cứu hợp tác phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông
Mekong giai đoạn 1990-2020
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu khu vực học: Đây là phương pháp chủ đạo mà
luận văn sử dụng, theo đó luận văn tập trung nêu và phân tích về các điều kiện
tự nhiên và xã hội, văn hóa của khu vực tiểu vùng sông Mekong và coi đó là
tiền đề điều kiện quan trọng để nghiên cứu sự hợp tác và phát triển bền vững
về du lịch trong tiểu vùng.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử, logic: Vận dụng quan điểm lịch sử cụ
thể để nêu rõ thời đoạn phát triển của khu vực tiểu vùng Mekong, những
thành tựu, khó khăn, thuận lợi trong hợp tác và phát triển và những vấn đề dự
báo của tiểu vùng trong tương lai.
Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: trong đó chú trọng việc thu
thập, thống kê và hệ thống hóa thông tin về hợp tác du lịch tiểu vùng sông
Mekong, đưa ra những đánh giá về kết quả đã đạt được của các chương trình
7
hợp tác này.
Phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê: nhằm lựa chọn, sắp
xếp các dữ liệu,thông tin từ các nguồn, tổng hợp thành các nhận định, báo
cáo hoàn chỉnh nhằm đưa ra cái nhìn tổng thể về đối tượng nghiên cứu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn được chia
làm ba chương như sau:
Chƣơng 1: Hợp tác du lịch đa phương - một bộ phận quan trọng của hợp
tác kinh tế tiểu vùng sông Mekong;
Chƣơng 2: Các chương trình hợp tác xúc tiến du lịch tiểu vùng sông Mekong;
Chƣơng 3: Thành tựu, cơ hội và thách thức của hợp tác và phát triển du lịch tiểu
8
vùng sông Mekong.
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CÁC VÙNG LÃNH
THỔ TRONG KHU VỰC TIỂU VÙNG SÔNG MEKONG
1.1. Khái quát về tiểu vùng sông Mekong
1.1.1. Về điều kiện tự nhiên, xã hội
Sông Mekong là con sông dài thứ 12 trên thế giới, bắt nguồn từ độ cao
5000m trên cao nguyên Tây Tạng chảy qua lãnh thổ 6 quốc gia gồm Trung
Quốc, Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia và đổ ra biển trên lãnh thổ của
Việt Nam, với chiều dài trên 4800 km, với tổng lượng nước hàng năm khoảng 475 tỉ m3 nước. Từ bao đời nay, dòng sông mang trong mình trữ lượng tài
nguyên nước lớn trong khu vực phục vụ phát triển kinh tế trong các lĩnh vực
như tưới tiêu trong phát triển nông nghiệp, thủy điện, giao thông, và các mục
đích phi nông nghiệp và du lịch.
Sáng kiến Hợp tác kinh tế tiểu vùng Mê Công mở rộng được khởi
xướng năm 1992 bởi Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). “Tiểu vùng sông
Mekong” (Greater Mekong Subregion) viết tắt là GMS bao gồm các nước
thành viên Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc (với
2 tỉnh đại diện là Vân Nam và Quảng Tây), vốn là khu vực kinh tế tự nhiên
gắn kết với nhau bởi sông Mekong. Dòng sông Mekong vừa là biên giới tự
nhiên vừa là huyết mạch giao thông quan trọng nối các nước trong vùng với
9
nhau. GMS có diện tích 2,6 triệu km2 và có dân số hơn 325 triệu người.
Bản đồ tiều vùng sông Mekong mở rộng
Nguồn: http://vietbao.vn/The-gioi/Thu-tuong-6-nuoc-du-hoi-nghi-thuong-
dinh-GMS/20465029/159/
Nguồn thủy sinh sông Mekong là kho tài nguyên vô cùng phong phú,
10
chỉ đứng sau sông Amazon, với nhiều loài cá nước ngọt quý hiếm. Sông
Mekong còn là tuyến đường giao thông tự nhiên của Đông Nam Á, kết nối
sáu quốc gia trong vùng trên một mạch chảy liên hoàn từ thượng nguồn Tây
Tạng ra đến Biển Đông. Dọc theo dòng chảy sông Mekong, nhiều cảnh quan
núi đá, cao nguyên, trung du, đồng bằng, cửa biển…với sự đa dạng về văn
hóa, lịch sử, phong tục tập quán, tôn giáo của cư dân sống ven sông sẽ là nội
lực thúc đẩy du lịch-lĩnh vực tiềm năng của tiểu vùng. Có thể nói, nguồn tài
nguyên mà sông Mekong mang lại vô cùng to lớn, có ý nghĩa sống còn đối
với người dân trong khu vực, ở cả sáu quốc gia có chung một dòng sông.
Về mặt địa lí, địa chất và địa hình: Tài nguyên phân bố không đồng đều
giữa tả ngạn và hữu ngạn ở vùng thượng lưu sông Mekong, vùng Đông Bắc
Thái Lan đất rộng nhưng ít nước, trong khi đó ở Lào có nguồn nước phong
phú thì diện tích đất canh tác lại hạn chế. Có 5 vùng hình thái đất đai riêng
biệt gồm vùng núi phía Bắc, Cao nguyên Korat, vùng núi phía Đông, vùng
đồng bằng và vùng cao phía Nam.
Về khí hậu, là vùng khí hậu chịu sự chi phối của gió mùa, những đợt
gió có cường độ thấp đến trung bình, luôn phiên theo mùa.
Chế độ mưa, lượng mưa toàn khu vực nhiều nhưng phân bố không đều
khiến cho các vùng trong năm đều bị hạn hán theo mức độ và thời gian khác
nhau.
Về nhiệt độ, nhiệt độ không khí đồng đều là điều nổi bật trên toàn khu
vực, nhiệt độ có thể thay đổi do ảnh hưởng của độ cao, theo mùa hoặc tác
động của biển song nhiệt độ trung bình ít chịu ảnh hưởng của biển. Độ ẩm
trung bình không khí cao nhất vào tháng 9 trên 80% và thấp nhất vào tháng 3
xấp xỉ trên 60%. [2, tr. 45]
Thủy văn, tổng diện tích lưu vực sông Mekong là 795.00km2, hàng năm sông Mekong đổ ra biển khoảng 475 tỉ m3 nước, trong đó sự phân bố các
11
vùng khá chênh lệch [2, tr. 59]
Đất và thảm thực vật cũng phong phú đa dạng. Vùng hạ lưu sông
Mekong chủ yếu là vùng nông nghiệp với 80% dân số làm nghề nông, phạm
vi và địa bàn thay đổi do thói quen đốt nương làm rẫy của đồng bào miền núi.
Đất bao gồm nhiều nhóm như đất ở vùng đất thấp, đất phức hợp ven biển, đất
châu thổ, đồng bằng ngập lũ và các loại đất phức hợp có nước ngầm.
Thảm thực vật gồm 2 loại rừng chính là rừng thường xanh và rừng rụng
lá, trong đó nhóm rừng thường xanh gồm rừng mưa nhiệt đới, rừng đồi thường
xanh, rừng lá kim, rừng đầm lầy nước ngọt và rừng ngập mặn. Bên cạnh đó, các
loại rừng ngập lá là rừng rụng lá gió mưa hỗn giao và rừng khô dipterocap.
Ngoài ra có các rừng ngày nay trở thành xavan hoặc vùng mọc cỏ. [1, tr. 16]
Sông Mekong như một chiếc cầu nối gắn kết các quốc gia mà nó chảy
qua, tạo thành một khu vực kinh tế tự nhiên ở châu Á. Tiểu vùng Mekong
rộng 2,32 triệu km2, là khu vực rộng lớn với nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, đa dạng bao gồm cả tài nguyên đất, nước, khí hậu, khoáng sản,
thủy sản… trong đó nguồn nước cho nông nghiệp, nguồn thủy sản cho ngư
nghiệp, phục vụ cho một bộ phận lớn cư dân trong khu vực, nhất là dân cư ở
hạ lưu.
Về mặt xã hội, đây là khu vực đông dân, mật độ dân cư thấp, và mức
tăng dân số còn cao. Đặc điểm này sẽ là nhân tố quan trọng tạo tăng trưởng
kinh tế cao và liên tục của các nền kinh tế ở tiểu vùng, đồng thời cũng là yếu
tố quan trọng thu hút đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động ở các nước tiểu
vùng Mekong.
Tiểu vùng Mekong là khu vực đa dạng, phong phú về các tộc người và
phong tục tập quán, đồng thời còn là một khu vực địa lý in đậm dấu ấn văn
hóa tôn giáo đạo Phật. Có thể thấy, hầu hết các quốc gia trong Tiểu vùng
sông Mekong mang đậm nét dấu ấn của đạo Phật [2, tr. 17].Về phương diện
nào đó, dòng Mekong chính là huyết mạch, sự nối kết của tư tưởng Phật giáo
12
trong quá khứ và hiện tại.
Bảng 1. Tổng hợp diện tích dân số, bình quân GDP đầu ngƣời các
nƣớc tiểu vùng sông Mekong
Nƣớc Dân số GDP bình quân đầu
(Triệu ngƣời) ngƣời (USD) Diện tích(km2)
181.000 Campuchia 14,1 510
237.000 Lào 5,7 601
677.000 Mianma 54,8 255
513.000 Thái Lan 65,8 3533
332.000 Việt Nam 88,78 1024
Trung Quốc 633.000 97,3 1135
GMS 2.600.000 323,0 1453
Bảng 1: Số liệu về các nước trong khu vực Sông Mekong (năm 2011)
(Nguồn: Tổ chức lương thực của Liên Hiệp Quốc, AQUASTAT 2011, lưu vực
sông Mekong)
Theo bảng thống kê trên, có thể thấy bức tranh tổng quát về các nước
trong tiểu vùng sông Mekong rất đa dạng và phong phú về các yếu tố tự nhiên
và xã hội. Nhìn tổng quát, sự đa dạng và phong phú của các nước trong tiểu
vùng được thể hiện qua một số đặc trưng chủ yếu sau:
1. Nằm trong lưu vực sông Mekong, Campuchia là nước có sản phẩm
nông nghiệp chính là lúa gạo, chiếm tới 39% diện tích canh tác và đóng góp
tới 40% tổng sản phẩm nông nghiệp quốc gia [2, tr. 25]. Theo cơ cấu sản
phẩm năm 2013 nông nghiệp chiếm 44%, dịch vụ 43% và công nghiệp chiếm
13% tổng sản phẩm quốc gia [3, tr. 46] .Campuchia sản xuất và xuất khẩu lúa
gạo, cá, cao su, gỗ, đậu rau và thuốc lá. Với diện tích canh tác lớn và dân số
tương đối ít nên tiềm năng phát triển nông nghiệp ở đây khá tốt. Tuy vậy do
đất đai kém màu mỡ, thiếu đầu tư trong sản xuất nông nghiệp và quản lí tài
13
nguyên nước nên chỉ các diện tích nằm cạnh các vùng đất ngập nước là tương
đối màu mỡ do hàng năm sông Mekong cung cấp phù sa lớn. Các khu vực sản
xuất lúa gạo chính chạy dọc theo con sông Tonle Sap và các tỉnh Battambang,
Kampong Thum, Kompong Chàm, Prey Vieng và Sray Vieng.
Thủy sản đóng góp một phần quan trọng vào nền kinh tế Campuchia,
cá và các sản phẩm từ cá chiếm 40- 80% lượng tiêu thụ và có số lượng
khoảng 13kg cá/ người (2005), ngành thủy sản chủ yếu là khai thác tự nhiên
thong qua các hoạt động đánh bắt. Biển Hồ, Sông Tonlesap và Sông Mekong
là một trong những nguồn cá nước ngọt lớn nhất, sản lượng hàng năm đạt tới
80. 000 tấn. [6, tr. 39]
Bên cạnh lúa gạo và cá, sông Mekong và các vùng ngập nước của nó còn
cung cấp các vật dụng cần thiết cho Campuchia như giao thông đường thủy cho
các tour du lịch lên quần thể Ankor Wat- di sản thế giới ở tỉnh Siem Reap.
Campuchia có khoảng 14 triệu người (2008), với khoảng hơn 90%
người Khmer[2, tr. 46] Sự phát triển của nền kinh tế Campuchia bị chậm lại
một cách đáng kể trong thời kỳ 1997-1998, vì khủng hoảng kinh tế trong khu
vực, bạo lực và xung đột chính trị. Đầu tư nước ngoài vào du lịch giảm mạnh.
Trong năm 1999 năm đầu tiên có được hòa bình thực sự trong vòng 30 năm,
đã có những biến đổi trong cải cách kinh tế và tăng trưởng đạt được ở mức
5% [3, tr. 25] Mặc dù bị ngập lụt tràn lan, nhưng GDP vẫn tăng trưởng ở mức
5.0% trong năm 2000, 6.3% trong năm 2001 và 5.2% trong năm 2002 [1, tr.
16]. Du lịch là ngành công nghiệp tăng trưởng mạnh nhất của Campuchia, với
số du khách tăng 34% trong năm 2000 và 40% trong năm 2001 trước sự kiện
khủng bố 11/09 tại Mỹ [3, tr. 45]. Tuy đạt được những sự tăng trưởng như
vậy, nhưng sự phát triển dài hạn của nền kinh tế sau hàng chục năm chiến
tranh vẫn là một thách thức to lớn. Dân cư thất học và thiếu các kỹ năng nghề
nghiệp, đặc biệt là ở vùng nông thôn nghèo đói gần như chưa có các điều kiện
cần thiết của cơ sở hạ tầng. Sự lo ngại về không ổn định chính trị và tệ nạn
14
tham nhũng trong một bộ phận chính quyền làm chán nản các nhà đầu tư
nước ngoài và làm chậm trễ các khoản trợ giúp quốc tế. Chính quyền đang
phải giải quyết các vấn đề này với sự hỗ trợ của các tổ chức song phương và
đa phương. Campuchia đã gia nhập WTO ngày 13/10/2004.
2. Lào là nước có 88% diện tích nằm trong khu vực sông Mekong và
hơn 80% diện tích là đồi núi.[2, tr 14].Nền kinh tế Lào phiến diện và chủ yếu
phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản chiếm 60% tổng sản phẩm quốc gia và chiếm khoảng 85%
lực lượng lao động [2, tr. 16] Lào có một tiềm năng thủy điện khổng lồ, cho tới
nay Lào mới chỉ khai thác được 2% tiềm năng và tiềm năng này vượt quá yêu
cầu năng lượng quốc gia trong một thời gian dài. Lào có diện tích rừng được
che phủ lớn nhất châu Á và lượng tài nguyên nước tái tạo trên đầu người cao
nhất Châu Á, cũng như các nước khác trong tiểu vùng nước ngọt chiếm 82%
trong nông nghiệp [12, tr. 16] .Sông Mekong là nguồn sống của Lào: cung cấp
nước cho hầu hết lãnh thổ, là đường giao thông quan trọng và là nguồn lợi thủy
sản phong phú.
Lào thực hiện chính sách đổi mới, dỡ bỏ việc kiểm soát tập trung hóa
và tăng cường phát triển doanh nghiệp tư nhân vào năm 1986. Kết quả từ một
xuất phát điểm thấp đã đạt được những thành quả đáng kinh ngạc. Tỷ lệ tăng
trưởng trung bình hàng năm đạt 7% trong các năm 1988 - 2001 ngoại trừ một
khoảng thời gian tụt xuống do cuộc khủng hoảng tài chính châu Á bắt đầu
năm 1997 [4, tr. 14]. Mặc dù tốc độ tăng trưởng cao nhưng Lào vẫn còn là
một đất nước với cơ sở hạ tầng lạc hậu. Tại đây đã có tuyến đường sắt nối
thủ đô Vientiane (Lào) đến khu vực Noong Khai (Thái Lan), hệ thống
đường bộ tuy đã được cải tạo nhưng vẫn đi lại khó khăn, hệ thống liên lạc
viễn thông trong nước và quốc tế còn giới hạn, điện sinh hoạt chỉ mới có ở
một số khu vực đô thị.
Sản phẩm nông nghiệp chiếm khoảng hơn một nửa tổng sản phẩm quốc
15
nội (GDP) và sử dụng 85% lực lượng lao động. Nền kinh tế vẫn tiếp tục nhận
được sự trợ giúp của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các nguồn quốc tế khác
cũng như từ đầu tư nước ngoài trong chế biến sản phẩm nông nghiệp và khai
khoáng.
3. Lưu vực sông Mekong ở Thái Lan bao trùm toàn bộ vùng Đông Bắc (170.00km2) và một phần vùng phía Bắc chủ yếu là tỉnh Chiang Rai (11.678km2 [12, tr. 13]. Phát triển kinh tế trong vùng chủ yếu là nông nghiệp và
thủy sản. Cây trồng quan trọng nhất là lúa gạo và cây trồng khác như thuốc lá,
rau và đậu. Tuy sản xuất nông nghiệp bao trùm nhưng công nghiệp chế biến
nông – lâm sản vẫn còn yếu kém. Sản lượng thủy sản hàng năm đạt 50.000-
300.000 tấn.[5, tr. 17]
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống. Bắt đầu từ năm
1960 Thái Lan thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội lần thứ nhất và
đến nay là kế hoạch thứ 9 [6, tr. 27].Trong thập niên 1970 Thái Lan thực hiện
chính sách "hướng xuất khẩu". ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, châu Âu là những thị
trường xuất khẩu chính của Thái Lan. Ngành công nghiệp và dịch vụ đã dần
dần đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và vai trò của nông nghiệp cũng
theo đó mà giảm dần.
Hiện nay, Thái Lan là một nước công nghiệp mới. Sau khi đạt tốc độ
tăng trưởng thuộc loại cao nhất thế giới từ 1985 đến 1995, với tốc độ tăng
trưởng trung bình 9% mỗi năm [15, tr. 29],sức ép lên việc duy trì đồng baht
tại Thái Lan tăng lên, dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, lan rộng
ra toàn khu vực Đông Á, bắt buộc chính phủ phải thả nổi tiền tệ. Sau sự ổn
định lâu dài ở mức giá 25 baht đổi 1 đô la Mỹ, đồng baht chạm tới mức thấp
nhất với 56 baht đổi 1 đô la vào tháng 1 năm 1998, các hợp đồng kinh tế được
ký kết bằng 10,2% năm trước [7, tr. 16].
Năm 1998, Thái Lan bắt đầu có dấu hiệu phục hồi với tốc độ tăng
trưởng kinh tế là 4,2%, năm 2000 là 4,4%, phần lớn từ những mặt hàng xuất
16
khẩu chính (tăng 20%). Sự tăng trưởng bị rơi vào tình trạng trì trệ (tăng
trưởng 1,8%) do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2001, nhưng
phục hồi lại vào năm sau. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2002 đạt 5,2% ,
đến năm 2003 và 2004 đã cao hơn mức 6%. Dự trữ ngoại tệ ở mức cao 37-38
tỉ USD (tháng 8/1997 ở mức 800 triệu USD) [13, tr. 28].
Thái Lan xuất khẩu nhiều hơn 105 tỷ đô la hàng năm [6, tr. 51]. Các
sản phẩm xuất khẩu chính bao gồm gạo, hàng dệt may, giầy dép, hải sản, cao
su, nữ trang, ô tô, máy tính và thiết bị điện. Thái Lan đứng đầu thế giới về
xuất khẩu gạo, mỗi năm xuất khẩu 6,5 triệu tấn gạo tinh chế. Lúa là loại cây
lương thực chính được trồng tại Thái Lan, với 55% đất đai trồng trọt được
được sử dụng để trồng lúa. Đất có thể canh tác được của Thái Lan cũng chiếm
tỷ lệ lớn, 27,25% của toàn bộ khu vực sông Mekong [37].
Các ngành công nghiệp chủ yếu gồm có điện dân dụng, linh kiện điện
tử, linh kiện máy tính và ô tô, trong đó, cũng có đóng góp đáng kể từ du lịch
(khoảng 5% GDP Thái Lan). Những người nước ngoài ở lại đầu tư lâu dài
cũng góp phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân.
Các tài nguyên thiên nhiên chủ yếu của Thái Lan là thiếc, cao su, ga tự
nhiên, vonfram, tantalium, gỗ, chì, cá, thạch cao, than non, fluorite và đất
trồng.[2, tr. 18]
Thái Lan sử dụng hệ đo lường chuẩn quốc tế, nhưng các hệ đo truyền thống
của Anh (feet, inches) vẫn còn được sử dụng, đặc biệt là trong nông nghiệp và vật
liệu xây dựng. Vì dân số chiếm 95% là đạo Phật nên năm được đánh số B.E.
(Buddhist Era - Kỷ Phật giáo) trong giáo dục, dịch vụ dân dụng, chính quyền và
báo chí; tuy vậy lịch Gregory được sử dụng trong ngành ngân hàng và dần trở nên
thông dụng trong trong công nghiệp và thương mại.[6, tr. 19]
4. Vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam là phần hạ lưu cuối cùng của sông Mekong với diện tích 39.00km2 và dân số khoảng 15 triệu
17
người, mật độ dân số ở Đồng bắng sông Cửu Long khoảng 400 người/ km2,[20] dân cư chủ yếu là người Kinh, ngoài ra còn có ít tỉ lệ dân tộc Hoa,
Chàm. Đặc điểm lớn nhất của vùng này là địa hình bằng phẳng và trũng (độ
cao phổ biến 0,3- 3,0m) đặc điểm này cùng với một mạng lưới sông ngòi dày
đặc làm yếu tố môi trường trong vùng tương tác chặt chẽ với nhau và đặc biệt
nhạy cảm với các hoạt động khai thác của con người. Với phần nước ngọt chủ
yếu là do sông Mekong cung cấp và là hạ lưu nên ngoài các nguồn lợi như
phù sa, thủy sản, giao thông đường thủy....vùng này còn hứng chịu thiên tai lũ
lụt và tác động môi trường do thượng nguồn gây ra. Nguồn tài nguyên phong
phú do sông Mekong mang lại có ý nghĩa quan trọng với người dân Việt
Nam, sản xuất nông nghiệp trong vùng chủ yếu là trồng lúa, mặc dù chỉ chiếm
20% diện tích Việt Nam và khoảng 28% dân số nhưng đây là vùng mang lại
57% lượng nước hàng năm, đóng góp hơn 50% sản lượng lúa gạo và hầu hết
kim ngạch xuất khẩu lúa gạo[2, tr. 50].
Các ngành kinh tế khác là thủy sản và chế biến, mức tiêu thụ hàng năm
trên 21kg/ người, tổng sản lượng đánh bắt thủy sản trong vùng đạt khoảng 0,5
triệu tấn/ năm ( theo số liệu năm 2008) [12, tr. 13] vùng châu thổ này cũng có
khoảng 200.000 ha rừng trong đó 173.000 ha rừng là rừng sản xuất gồm rừng
tràm, ngập mặn, dừa nước…rừng phòng hộ khoảng 27.000ha… ước tính sản lượng khai thác hàng năm đạt 1,9 triệu m3 [37]
Giao thông vận tải đường thủy là hình thức thông dụng nhất do đặc
điểm kênh rạch của vùng, khối lượng vận chuyển hàng hóa hàng năm đạt 6
triệu tấn và hơn 13 triệu lượt khách[12]
Ngoài đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam còn có một số vùng khác
cũng thuộc lưu vực sông Mekong như vùng lòng chảo Điện Biên Phủ và phụ
cận thuộc tỉnh Lai Châu (lưu vực sông Nậm Rốn, nhánh Nậm U), lưu vực
sông nhánh Sabang Hieng thuộc Quảng Trị, lưu vực sông Sebang thược Thừa
Thiên Huế, vùng Tây Nguyên bao gồm 2 lưu vực sông nhánh : Sông Srepok,
18
tỉnh Đắc Lắc; sông Sesan tỉnh Gia Lai- Kon Tum.
Tây Nguyên là một vùng lớn của Việt Nam thuộc lưu vực sông
Mekong và là thượng nguồn của hai nhánh sông Srepok và Sesan, là vùng cao
nguyên chưa có các hoạt động phát triển. Tiềm năng chính cho vùng này là
thủy điện với khoảng 2 triệu KW và cây công nghiệp như cà phê, cao su…
Vùng lưu vực sông Nậm Rốn bao gồm lòng chảo Điện Biên và vùng
phụ cận là khu vực kinh tế phát triển nhất ở Tây Bắc với một loạt công trình
thủy lợi nước tưới cho nông nghiệp, đây là vựa lúa của Tây Bắc và một số
ngành kinh tế như lâm nghiệp, thủy sản.
Các vùng thuộc lưu vực Sekon và Sebang Hieng có diện tích nhỏ, dân
cư thưa thớt và hầu như chưa có sự phát triển.
5. Myanma là một trong những nước nghèo trên thế giới với hàng thập
kỷ ở trong tình trạng trì trệ, quản lý kém và bị cô lập. Sau khi chính phủ nghị
viện được thành lập năm 1948, Thủ tướng U Nu đã nỗ lực biến Miến Điện trở
thành một quốc gia thịnh vượng. Chính quyền của ông đã thông qua kế hoạch
kinh tế hai năm, nhưng tiếc thay đây là một kế hoạch sai lầm. Vụ đảo chính
năm 1962 tiếp sau là một kế hoạch phát triển kinh tế, một kế hoạch nhằm
quốc hữu hóa mọi ngành công nghiệp, ngoại trừ nông nghiệp, năm 1989,
chính phủ Myanma bắt đầu bãi bỏ kiểm soát tập trung hóa nền kinh tế và tự
do hóa một số lĩnh vực kinh tế.Các ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận như
khai thác ngọc, dầu khí và lâm nghiệp vẫn bị kiểm soát chặt chẽ.
Ngày nay, Myanma thiếu những cơ sở hạ tầng cần thiết.. Đường giao
thông thường không được trải nhựa, trừ các thành phố lớn. Bên cạnh đó, các
ngành công nghiệp khác gồm sản phẩm nông nghiệp, dệt may, sản phẩm gỗ,
vật liệu xây dựng, kim cương, kim loại, dầu mỏ và khí ga… sản lượng còn
thấp, và việc thiếu hụt nguồn nhân công trình độ cao cũng là một vấn đề ngày
càng bức xúc với nền kinh tế Myanma.
Nông nghiệp chiếm 59,5 % GDP và 65,9% lao động. Công nghiệp chế
19
biến chiếm 7,1% GDP và 9,1% lao động; khai khoáng 0,5% GDP và 0,7% lao
động; xây dựng 2,4% GDP và 2,2% lao động; thương mại 23,2% GDP và
9,7% lao động; tài chính, dịch vụ và công chính 1,5% GDP và 8,1% lao động
[11]. Nhìn chung kinh tế Myanma vẫn là nền kinh tế lạc hậu kém phát triển.
6. Trung Quốc là quốc gia ở vùng thượng nguồn của sông Mekong, chủ
yếu chảy qua tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Tỉnh Vân Nam có diện tích 384 nghìn km2 , dân số hơn 45 triệu người (2007) [36],thủ phủ là thành phố Côn
Minh, là tỉnh có đường biên giới tiếp giáp với Việt Nam, Lào, Mianma. Tỉnh
Vân Nam giàu tài nguyên, khoáng sản, tuy vậy công nghiệp chỉ dừng lại ở cấp
độ sơ chế. Thổ nhưỡng thích hợp với trồng cây thuốc lá, chiếm 70% sản
lượng cả nước, chiếm hơn 60% thu nhập trong toàn tỉnh. Nghề chế biến chè
và đường cũng chiếm vị trí quan trọng, sản lượng đường đạt 1 triệu tấn/ năm,
đưa Vân Nam thành tỉnh thứ 3 của cả nước về sản xuất đường, sản lượng chè
đạt 60 nghìn tấn, xuất khẩu ngoại tệ đạt 30 triệu USD [36]. Do chính sách
phát triển kinh tế nên công nghiệp nặng phát triển đã đưa đến sản lượng thép
đạt 2,5 triệu tấn năm[36].Các ngành cao su và chế biến, hóa chất, du lịch…
cũng phát triển nhanh, một số ngành mới như điện lực, thực phẩm, y dược,
hương liệu, hoa quả đã bắt đầu phát triển và một số ngành đạt quy mô lớn.
Về du lịch, Vân Nam là một trong 10 tỉnh phát triển du lịch hàng đầu
của Trung Quốc với lượng khách năm 1994 đạt 213 nghìn người và dự tính
mỗi năm tăng 27%, vượt xa mức trung bình cả nước [35].
Như vậy, với diện tích 2,6 triệu km2 và có dân số hơn 325 triệu người và mật độ dân số khoảng 125 người/ km2 hiện tại, Tiểu vùng sông Mêcong là
khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đó cũng là cơ sở quan trọng đặt ra
cho các nước trong tiểu vùng cần có sự hợp tác chặt chẽ trong việc xây dựng
và phát triển chiến lược du lịch nhằm triệt để khai thác những lợi ích kinh tế,
những nguồn lợi chung từ thiên nhiên mang lại cho mỗi nước và cho cả các
20
nước trong tiểu vùng hiện nay.
1.1.2 Nguồn lực của các nƣớc trong tiểu vùng sông Mekong
Về nguồn nhân lực trong tiểu vùng, qua thu thập và phân tích các
nguồn tài liệu có thể thấy, với lực lượng lao động chiếm 50% tổng số dân,
tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn còn khá nghiêm trọng ở nhiều nơi
trong tiểu vùng. Bảng thống kê sau đây sẽ phản ánh nguồn nhân lực trong tiểu
vùng như sau:
Bảng 2. Nguồn lực các nƣớc tiểu vùng sông Mekong
Đơn vị tính %
Nƣớc Chỉ số phát triển Tuổi thọ Tỉ lệ Tỉ lệ lao
con ngƣời (HDI) bìnhquân ngƣời lớn động/dân
(năm) biết chữ ( số (%) Mức độ Xếp thứ
%)
0,709 109 70,8 Việt Nam 90,3 51,0
0,784 74 70,3 Thái Lan 94,0 59,0
0,581 130 60,5 Mianma 83,0 43,0
129 56,5 Campuchia 0,583 73,6 47,0
0,553 133 55,1 Lào 68,7 56,0
0,768 81 71,9 Trung 90,9 58,0
Quốc
Bảng 2: Chỉ số phát triển và tỷ lệ lao động của các quốc gia trong Tiểu
vùng sông Mekong
Nguồn : Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc, năm 2010.
Dân số phân bố không đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư
phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn (khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ
21
học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh [25, tr. 20].
Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước
được nâng cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực khác (Nhật Bản,
châu Âu,...) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo
dai. Lao động khu vực được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy
nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế.
Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều
này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo
nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, ở Việt Nam số sinh viên đại
học và cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học
sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. [30]. Tuy nhiên,
chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,
miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử
dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong
toàn bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là
33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính
tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào
tạo trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày
càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9%
)[30].
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng
suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành
chia cho tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động
năm 2005 là 21, 4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm
2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
(Việt Nam ) [30].
Dân số, nguồn nhân lực là một trong những yếu tố ảnh hưởng và có tác
22
động mạnh đến kinh tế du lịch tiểu vùng GMS.
1.1.3. Sự hình thành và phát triển hợp tác tiểu vùng Mekong
Nhận ra mối quan hệ chặt chẽ về nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi
trường, các nước trong tiểu vùng sông Mekong đã tìm kiếm các cơ chế hợp
tác song phương và đa phương nhằm liên kết, phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, bảo vệ môi trường, tài nguyên. Trên cơ sở nỗ lực của các nước, từ đầu
thập kỷ 1990 đến nay, nhiều sáng kiến về hợp tác khai thác và bảo vệ nguồn
tài nguyên ở tiểu vùng sông Mekong đã ra đời.
Chương trình hợp tác sớm nhất là Ủy ban Mekong do Liên Hợp Quốc
thành lập năm 1957, bao gồm bốn nước hạ lưu là Lào, Thái Lan, Campuchia,
Việt Nam. Ủy ban có nhiệm vụ khuyến khích, phối hợp, kiểm tra và giám sát
việc quy hoạch và nghiên cứu các dự án khai thác nguồn nước khu vực hạ lưu
sông Mekong. Tuy nhiên, do chiến tranh và tình hình chính trị bất ổn, hoạt
động của Ủy ban Mekong bị gián đoạn. Đến năm 1995, Ủy ban Mekong được
tái thành lập với tên gọi là Ủy hội Mekong (Mekong River Commision -
MRC). Nhiệm vụ của Ủy ban này là thúc đẩy sự phát triển bền vững của
những nguồn tài nguyên trên sông Mekong. Đây là một bước phát triển vượt
bậc trong mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong tiểu vùng, đánh dấu sự
hình thành một tổ chức chung cho các nước thuộc tiểu vùng sông Mekong với
cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động, hợp tác khá rõ ràng. Tất cả vì sự
thịnh vượng của cả tiểu vùng và của mỗi quốc gia trong khu vực.
Nếu như Ủy hội Mekong ra đời với chức năng chủ yếu là khai thác, sử
dụng và quản lý nguồn nước cùng việc bảo đảm các vấn đề môi trường có liên
quan đến lưu vực sông Mekong thì một chương trình hợp tác khác ra đời -
Chương trình hợp tác tiểu vùng Mekong mở rộng (Greater Mekong Subregion
– GMS) được hình thành đã vượt ra ngoài các khuôn khổ hợp tác này để trở
thành một thực thể kinh tế cùng hợp tác, hội nhập và phát triển bền vững.
Chương trình hợp tác GMS được hình thành vào năm 1992 theo sáng
23
kiến của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). GMS bao gồm các nước nằm
trong lưu vực sông Mekong: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar
và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Đến năm 2004, thêm tỉnh Quảng Tây (Trung
Quốc) cũng tham gia vào hợp tác GMS.
Với sự hỗ trợ từ ngân hàng phát triển Châu Á - ADB, sáu nước trong
GMS đã khởi động lại chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng để đầy mạnh
quan hệ kinh tế cùng hội nhập và phát triển khu vực. Với sự hỗ trợ từ ADB
cùng các tổ chức khác, chương trình GMS giúp thực thi các dự án tiểu vùng
được ưu tiên trong các lĩnh vực: xã hội, kinh tế, du lịch, năng lượng, thủy
điện…với mục tiêu: “3C- Connectivity, Competitiveness, Community”- (Tính
kết nối, Tính cạnh tranh, Tính cộng đồng). Chương trình GMS xây dựng
chiến lược 03 mũi nhọn – 3C – để đạt được tầm nhìn về tiểu vùng thịnh
vượng, hội nhập và đoàn kết. Cụ thể là:
Tăng cường tính kết nối trong tiểu vùng thông qua phát triển bền vững
cơ sở hạ tầng và hành lang kinh tế xuyên quốc gia.
Nâng cao tính cạnh tranh thông qua giao thương hàng hóa và đi lại
biên giới của người dân, thị trường hội nhập và quy trình sản xuất, do đó tạo
điều kiện dễ dàng cho tiểu vùng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Xây dựng tính cộng đồng vững mạnh thông hơn thông qua các chương
trình giải quyết các vấn đề môi trường và xã hội chung.
Vấn đề hợp tác luôn được đặt ra một cách bức thiết, tại cuộc họp báo
nhằm thông qua những kết quả làm việc trong hai ngày 19-20/08/2010 của
Chương trình Hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mekong (GMS) và Hội nghị
Bộ trưởng các nước GMS lần thứ 16 tại Hà Nội, ông C.Lawrence Greewood,
phó chủ tịch ngân hàng phát triển châu Á (ADB) nhấn mạnh: “vấn đề then
chốt hiện nay là phải tăng cường hợp tác giữa các bên liên quan nhằm đạt
được toàn diện các lợi ích từ sự liên kết thực tại‟‟[4, tr.35]
Hợp tác và phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và là xu thế phát
24
triển tất yếu trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người, vì vậy các quốc
gia trên thế giới luôn xây dựng cho mình những chương trình nghị sự riêng.
Có thế thấy GMS cũng không nằm ngoài xu thế tất yếu của thời đại.
Năm 1992: Rio de Janeiro, Brasil là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị
thượng đỉnh về Trái Đất, tên chính thức là Hội nghị về Môi trường và Phát
triển của Liên hiệp quốc (UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống
nhất những nguyên tắc cơ bản và phát động một chương trình hành động vì sự
phát triển bền vững có tên Chương trình Nghị sự 21(Agenda 21). Với sự tham
gia của đại diện hơn 200 nước trên thế giới cùng một số lượng lớn các tổ chức
phi chính phủ, hội nghị đã đưa ra bản Tuyên ngôn Rio về môi trường và phát
triển cũng như thông qua một số văn kiện như hiệp định về sự đa dạng sinh
học, bộ khung của hiệp định về sự biến đổi khí hậu, tuyên bố về nguyên tắc
quản lý, bảo tồn rừng...
Năm 2002: Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững
nhóm họp tại Johannesburg, Nam Phi là dịp cho các bên tham gia nhìn lại
những việc đã làm 10 năm qua theo phương hướng mà Tuyên ngôn Rio và
Chương trình Nghị sự 21 đã vạch ra, tiếp tục tiến hành với một số mục tiêu
được ưu tiên. Những mục tiêu này bao gồm xóa nghèo đói, phát triển những
sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản phẩm
gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hội nghị
cũng đề cập tới chủ đề toàn cầu hóa gắn với các vấn đề liên quan tới sức khỏe
và phát triển. Các đại diện của các quốc gia tham gia hội nghị cũng cam kết
phát triển chiến lược về phát triển bền vững tại mỗi quốc gia trước năm 2005.
Việt Nam cũng đã cam kết và bắt tay vào hành động với Dự án
VIE/01/021 "Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 21 của Việt
Nam" bắt đầu vào tháng 11/2001 và kết thúc vào tháng 12/2005 nhằm tạo tiền
25
đề cho việc thực hiện Vietnam Agenda 21.
Như vậy chương trình nghị sự 21 đặt ra những vấn đề phát triển bền
vững ở thế kỉ XXI của tiểu vùng sông Mekong cũng đã được các nước trong
GMS xây dựng và thực hiện.
- “Phát triển bền vững”: khái niệm được Liên Hợp Quốc định nghĩa là
:“ sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu của hiện tại nhưng không gây
trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau.”
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển tổ chức tại
Rio de Janeiro ( Braxin) và Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về sự phát triển
bền vững tổ chức tại Johannesburg ( Cộng hòa Nam Phi) đã xác định : “phát
triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí hài hòa
giữa sự phát triển của ba mặt : phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ
môi trường”. Tiêu chí cơ bản để đánh giá sự phát triển bền vững là : sự tăng
trưởng kinh tế ổn định, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội , khai thác
hợp lí, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm và nâng cao chất
lượng môi trường sống.
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và là xu thế phát triển tất yếu
trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người, vì vậy các quốc gia trên thế
giới luôn xây dựng cho mình những chương trình nghị sự riêng, có thế thấy
GMS cũng không nằm ngoài xu thế tất yếu của thời đại. Chương trình nghị sự
21 là chương trình đặt ra những vấn đề phát triển bền vững ở thế kỉ XXI của
tiểu vùng sông Mekong cũng đã được các nước trong GMS xây dựng và thực
hiện.
Mục tiêu của GMS là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững,
xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân lưu vực sông Mekong. Do
vậy, các nước trong lưu vực đã thỏa thuận hợp tác phát triển hạ tầng giao
thông, nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, viễn thông tạo thuận lợi cho
thương mại, du lịch, đào tạo nguồn nhân lực. Các nước tham gia chương trình
26
đã và đang thực sự là đối tác bình đẳng trong quá trình hợp tác tiểu vùng, chia
sẻ trách nhiệm và đồng lòng thực hiện các nỗ lực chung, đảm bảo sự hợp tác
thực tế và hiệu quả nhằm xây dựng GMS thành một khu vực hướng ngoại,
hợp tác và phát triển hiệu quả, ổn định, dài hạn (GMS II Summit 2005) [29].
ASEAN luôn dành cho các nước tiểu vùng sông Mekong sự quan tâm
đặc biệt. Tại cuộc họp thượng đỉnh tháng 12 năm 1995, ASEAN đã chính
thức thông qua khái niệm về Sự hợp tác của ASEAN về tiểu vùng sông Mê
Công (AMBD), trong đó, Malaixia đã đóng một vai trò nổi bật. Sau đó, tháng
06 năm 1996, một khuôn khổ hợp tác cơ bản được thỏa thuận tập trung vào
các dự án phát triển nông nghiệp, du lịch, cơ sở hạ tầng, các dịch vụ sinh hoạt
cơ bản, năng lượng, viễn thông, thương mại và đầu tư. Mục tiêu của những dự
án này là tăng cường sự giúp đỡ hợp tác ASEAN và các nước thành viên của
ASEAN có dòng Mekong chảy qua, nhằm làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và phát triển ở tiểu vùng Mekong, nâng cao mức sống, giúp đỡ các nền kinh
tế chuyển sang định hướng thị trường hơn nữa, tiếp nhận sự giúp đỡ từ các
quốc gia tài trợ và những tổ chức đa phương.
Là quốc gia thành viên trong tiểu vùng, năm 1993, Thái Lan đã đề
xướng Chương trình hợp tác bốn bên (QED) nhằm phát triển tứ giác gồm
Miền Bắc Thái Lan với Lào, Myanma và tỉnh Vân Nam- Trung Quốc.
Chương trình hợp tác này đã nhận được sự đồng tình của cả các nước thượng
lưu Tiểu vùng sông Mekong. Tuy nhiên, từ cuối năm 1993, các hoạt động
triển khai chương trình đã giảm sút và bị thay thế bởi nhiều sáng kiến khác,
đặc biệt là sáng kiến về Tiểu vùng sông Mekong mở rộng.
Sự hợp tác cùng phát triển ở tiểu vùng Mekong không chỉ là nguyện
vọng của các quốc gia trong Tiểu vùng mà còn nhận được sự ủng hộ và khích
lệ to lớn từ các nước đối tác bên ngoài. Trong đó, Nhật Bản là đối tác tích cực
đã đề ra nhiều sáng kiến hợp tác và các chương trình tài trợ cho các nước Tiểu
vùng Mekong. Năm 1993, Nhật Bản đã đề xướng thành lập Diễn đàn phát
27
triển toàn diện Đông Dương (FCDI). Diễn đàn được chính thức thành lập năm
1995 tại Tokyo. Diễn đàn này phối hợp các hoạt động phát triển các quốc gia
và những tổ chức đa phương trong việc cung cấp viện trợ cho Việt Nam, Lào,
Campuchia để nâng cao tính công dụng và hiệu quả ở những nước này. Diễn
đàn này bao gồm các Ủy ban công tác về phát triển cơ sở hạ tầng và nhân lực
và một nhóm tư vấn khu vực tư nhân. Nó phối hợp với UNDP và ADB để tập
hợp tất cả những dự án viện trợ ở ba nước nhằm tránh sự trùng lặp và xác
định ra những khu vực đã dành được quá nhiều sự ưu tiên.
Tiếp đó, Nhật Bản lại đưa ra sáng kiến về Chương trình hợp tác tiểu
vùng tại cuộc họp của các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN với Bộ Ngoại giao và
Công nghiệp Nhật Bản (AEM-MITI) năm 1994 dành riêng cho Lào,
Campuchia và Mianma, trong đó tập trung vào chính sách chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đầu tư, thương mại
và công nghiệp. New Zealand và Thái Lan đã thành lập Viện Nghiên cứu
Mekong có trụ sở ở thành phố Khon Kaen, Đông bắc Thái Lan. Viện này là
địa chỉ cung cấp các chương trình đào tạo và thực hiện việc nghiên cứu chính
sách đối với tiểu vùng. Trung tâm luật Mekong cũng được lập ra với nhiều
mạng lưới nghiên cứu phát triển sông Mekong và cơ chế đối thoại sông
Mekong vì sự phát triển bền vững. Các tổ chức quốc tế và các tổ chức viện
trợ, bao gồm cả Chương trình viện trợ quốc tế Australia cũng đã lập ra những
chương trình về tiểu vùng trên từng lĩnh vực.
Như vậy, kể từ khi các chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mekong ra
đời, đến nay đã có nhiều dự án được đầu tư và thực hiện, nhất là trong hai
lĩnh vực giao thông và năng lượng. Tất cả các quốc gia đều hiểu rằng tăng
cường hợp tác kinh tế giữa các nước trong tiểu vùng là một yếu tố bổ sung
quan trọng trong chiến lược phát triển của từng quốc gia. Hình thức hợp tác
này cho phép các quốc gia nâng cao vị trí có tính cạnh tranh quốc tế của
mình, đồng thời cho phép họ đáp ứng một cách hiệu quả hơn - với tư cách
28
như một tập thể, cũng như với tư cách từng cá nhân – những cơ hội phát triển
kinh tế đang ngày càng mở rộng trong phạm vi khu vực cũng như trên phạm
vi toàn cầu.
Có thể nói, một số lượng lớn các sáng kiến, chương trình hợp tác ra đời
đã tạo cơ sở cho sự lạc quan rằng với sự nỗ lực của các quốc gia tiểu vùng
sông Mekong và sự trợ giúp tích cực của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế,
tiểu vùng Mekong sẽ trở thành khu vực phát triển năng động và tương lai sẽ
đạt được sự thịnh vượng về kinh tế.
Trong các sáng kiến, chương trình hợp tác trên, hợp tác kinh tế tiểu
vùng Mekong mở rộng nhận được sự quan tâm và đánh giá cao. Bởi đây là cơ
chế hợp tác thu hút được sự tham gia của tất cả các nước có sông Mekong
chảy qua, hoạt động hợp tác ngày càng sâu rộng cũng như nhận được sự hỗ
trợ tài chính từ nhiều tổ chức tài chính quốc tế và khu vực.
1.2. Hợp tác du lịch tiểu vùng sông Mekong và hợp tác du lịch đa phƣơng
1.2.1. Hợp tác du lịch tiểu vùng sông Mekong
Tại Hội nghị thượng đỉnh 6 nước tiểu vùng sông Mekong tháng 3-2008,
Phó Chủ tịch Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) Lawrence Greenwood đã
từng phát biểu: “Mười lăm năm trước, khi các quốc gia Mekong vẫn còn
những bất đồng và nghèo đói, một số người đã mạnh dạn dự đoán các quốc
gia này sẽ đạt được những tiến bộ vượt quá dự kiến trong việc giảm nghèo và
tăng nhanh các triển vọng kinh tế”[9]. Sau đó, tuyên bố chung được đưa ra
tháng 1-2009 của các bộ trưởng du lịch 6 nước Việt Nam, Lào, Campuchia,
Thái Lan, Myanma, Trung Quốc về việc phát triển du lịch GMS đã góp phần
hiện thực hóa dự đoán trên [ 28]. Các nhà làm du lịch đã ghi nhận những tiến
triển hợp tác du lịch của các nước GMS và thống nhất những định hướng
trong tương lai. Trong thời gian tới, các nước sẽ tập trung khai thác cơ sở hạ
tầng và sự kết nối trong tiểu vùng để thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, có
trách nhiệm với xã hội, tăng cường xúc tiến để du lịch GMS trở thành một
29
điểm đến chung.
Du lịch là một trong số 09 lĩnh vực ưu tiên của hợp tác GMS, được
xem là một lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh của tiểu vùng Mekong, tạo ra nhiều
việc làm và mang lại những lợi ích cụ thể cho người dân trong khu vực. Với
hệ thống sông ngòi phong phú, tập quán sinh hoạt trên sông đa dạng của
người dân bản địa như chợ nổi, làng bè..., du lịch dọc sông Mekong chắc chắn
sẽ tạo ra nhiều hứng thú cho du khách.
Nhìn trên bản đồ đường bộ của các nước thuộc khu vực sông Mekong,
có thể thấy hàng loạt tuyến đường xuyên quốc gia. Nếu ở phía Đông (điểm
cuối của hai tuyến đường tại Việt Nam) là những bãi biển dài từ Đà Nẵng tới
Nghệ An với những di sản thế giới tuyệt đẹp của miền Trung như Hội An,
Huế hay động Phong Nha – Kẻ Bàng, thì ở phía Tây là những chùa vàng rực
rỡ với những đặc trưng văn hóa của vùng Đông Bắc Thái Lan và Lào. Du
khách quốc tế khi đến vùng Đông Bắc Thái Lan có thể tiếp tục hành trình qua
30
Lào sang Việt Nam và ngược lại.
Bản đồ các nước tiểu vùng sông Mekong
31
(http://www.theworldmap.net/continent/big/mekong-region-map/)
Trong số sáu quốc gia thuộc tiểu vùng GMS, có đến 5 quốc gia có các
di sản văn hóa thế giới với nhiều điểm du lịch nổi tiếng, hấp dẫn. Từ đó, ý
tưởng về “Sáu quốc gia - một điểm đến” ra đời và được ủng hộ, minh chứng
cho một bước tiến quan trọng trong quá trình hợp tác du lịch của các nước
trong tiểu vùng. Những kiến nghị của Chương trình Nghiên cứu Chiến lược
Du lịch tiểu vùng GMS đưa ra hướng tiếp cận đối với phát triển du lịch, bao
gồm việc thực hiện các dự án ưu tiên và xúc tiến du lịch môi trường sinh thái
và chống đói nghèo được Chính phủ các nước rất hoan nghênh. Các quốc gia
trong tiểu vùng sông Mekong mở rộng đã tìm kiếm và nhận được sự trợ giúp
kỹ thuật từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhằm hoạch định chiến lược
phát triển du lịch và kế hoạch hành động. Điểm chính trong chiến lược là thúc
đẩy phát triển cả tiểu vùng sông Mekong như là một điểm đến du lịch. Điều
đó thực hiện bằng cách đảm bảo sự phát triển mở rộng hoạt động du lịch bền
vững, tăng tính hấp dẫn của cả tiểu vùng nhằm giảm đói nghèo và phân bổ
hợp lý lợi ích do du lịch mang lại, giảm thiểu mọi tác động tiêu cực đối với xã
hội và môi trường từ du lịch.
Việc liên kết các nước thuộc tiểu vùng nhằm tạo ra một sản phẩm du
lịch chung sẽ là một giải pháp góp phần làm phong phú hơn nguồn tài
nguyên du lịch, đồng thời có khả năng tạo ra những nét ấn tượng, độc đáo
mang bản sắc rất riêng của tiểu vùng.
Chiến lược nghiên cứu trên đây tập trung vào một số vấn đề thông qua
07 chương trình chính như sau:
- Xúc tiến quảng bá, marketing cả tiểu vùng như là một điểm đến du
lịch
- Phát triển nguồn nhân lực;
- Thúc đẩy quản lý các khu vực bảo tồn văn hóa thiên nhiên cũng như
các khu vực có di sản thiên nhiên quan trọng cho hoạt động du lịch và chú
32
trọng tới các tác động tiêu cực của du lịch;
- Phát triển du lịch xóa đói giảm nghèo và phân phối một cách bình
đẳng hơn các lợi ích thu được từ hoạt động du lịch;
- Thúc đẩy tham gia của khu vực tư nhân trong phát triển du lịch;
- Tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại của khách du lịch đến các
nước trong tiểu vùng và giữa các nước trong tiểu vùng;
- Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động du lịch nhằm thúc đẩy sáu
sáng kiến đầu tiên của chiến lược. [26]
1.2.2. Hợp tác du lịch đa phƣơng- chìa khóa thúc đẩy kinh tế, xóa đói
giảm nghèo
Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc đã xác định giảm nghèo là
một trong những thách thức mà thế giới đang phải đối mặt trong thế kỷ 21.
Du lịch là một trong các nguồn thu ngoại tệ quan trọng, tạo việc làm cho
nhiều người và phát triển quốc gia. Tổ chức Du lịch Thế giới tin rằng, sức
mạnh của du lịch - một trong những hoạt động kinh tế năng động của thời đại
- có thể được khai thác hiệu quả hơn, để giải quyết các vấn đề của đói nghèo
trực tiếp hơn.
Trong thông cáo báo chí của Hội nghị cấp cao lần thứ hai tiểu vùng
sông Mekong mở rộng, lãnh đạo các nước đã khẳng định: Du lịch là lĩnh vực
chủ yếu tạo ra nhiều việc làm trong tiểu vùng GMS và mang lại những lợi ích
cụ thể cho người dân trong khu vực. Du lịch được xem là một lĩnh vực có lợi
thế cạnh tranh của tiểu vùng [25]. Những kiến nghị của Nghiên cứu Chiến
lược Du lịch Tiểu vùng GMS đưa ra hướng tiếp cận có tính chất điều phối và
chính thống đối với phát triển du lịch, bao gồm việc thực hiện các dự án ưu
tiên cao và xúc tiến du lịch môi trường sinh thái và chống đói nghèo được
Chính phủ các nước rất hoan nghênh. Từ đó, các nước đang xúc tiến việc thúc
đẩy mạnh mẽ việc tiếp thị tiểu vùng GMS như một điểm đến du lịch duy nhất
và khuyến khích tiếp tục công việc xây dựng thị thực chung GMS. Sau 20
33
năm hợp tác, tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) đã thu hút hơn 30 triệu
lượt khách quốc tế mỗi năm [24] tạo ra lợi ích đáng kể về kinh tế và xã hội.
Ngành du lịch đóng góp hơn 30 tỷ USD vào GDP của các nước hàng năm và
trực tiếp tham gia vào mục tiêu giảm nghèo thông qua việc tạo ra công ăn việc
làm cho hơn 6 triệu lao động, phần lớn phụ nữ, thanh niên và đồng bào dân
tộc thiểu số [24].
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính xã hội sâu sắc. Chính vì vậy nó
không chỉ là một trong những công cụ nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển
mà còn là chìa khoá để phát triển xã hội, giảm đói nghèo và mang lại nhiều
lợi ích cho người dân địa phương. Du lịch bằng đường bộ và đường thuỷ nối
liền các nước trong tiểu vùng chủ yếu đi qua các tỉnh miền núi, địa bàn của
các dân tộc thiểu số, nơi kinh tế còn nghèo nàn và đời sống lạc hậu.
Một ví dụ điển hình như tour du lịch qua ba nước Việt Nam – Lào -
Thái Lan. Bắt đầu từ Huế - cố đô của Việt Nam xưa tới Vinh rồi qua quốc lộ 8
sang Lào, đến Xiêng Khoảng - Cánh đồng Chum nổi tiếng đầy bí ẩn rồi tới
Luông pha băng - một cụm di tích nổi tiếng được công nhận là di sản văn hoá
thế giới, từ đó tiếp tục đi bằng đường thuỷ trên dòng Mekong vượt qua biên
giới Lào - Thái để tới Chiang Rai, Chiang Mai (Thái Lan). Nếu phát triển
những tour du lịch như thế này, du khách không chỉ được trải nghiệm và tận
hưởng khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà còn đem đến cho người dân địa
phương những vùng mà họ đi qua cơ hội cải thiện đời sống. Phát triển du lịch
sẽ mang đến cho người dân địa phương, đặc biệt là phụ nữ những cơ hội về
nghề nghiệp và có thêm các nguồn thu nhập khác nhờ vào các dịch vụ về nhà
hàng khách sạn; người dân được sở hữu các quầy bán hàng nhỏ, lưu trú cho
du khách; hướng dẫn viên về du lịch và leo núi; sản xuất và bán đồ thủ công
mỹ nghệ; thu hút về mặt kỹ thuật trong thiết kế, sự tín nhiệm, việc thanh toán
và các kỹ năng quảng bá; những buổi trình diễn về văn hoá truyền thống cho
34
du khách.
Chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích mà du lịch đem lại cho địa
phương như việc làm, tái phân phối thu nhập xã hội, cải thiện và phát triển cơ
sở hạ tầng, giảm đói nghèo và nhiều lợi ích khác như bảo tồn và phát triển văn
hoá truyền thống… Nhất là đối với những vùng biên giới, vùng dân tộc thiểu
số thì phát triển du lịch cũng là một trong những giải pháp hữu hiệu để nâng
cao đời sống cho nhân dân.
Như vậy chúng ta đã hình dung được cơ bản những đặc điểm kinh tế, tự
nhiên và xã hội của tiểu vùng sông Mekong. Những đặc tính về tự nhiên bản
thân nó là một nguồn lực để giúp cho du lịch tiểu vùng có điều kiện phát triển
mạnh mẽ. Dựa vào nguồn lực tự nhiên để đưa du lịch đi theo hướng bền vũng
để duy trì và phát triển trong hiện tại và tương lai. Mỗi nước trong khu vực có
những ưu và nhược điểm riêng, chính vì vậy cần chỉ ra được hướng phát triển
của từng quốc gia, trong bản thân mỗi nước lại phân chia ra vùng miền để
thích ứng và phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách du lịch.
Bản thân các quốc gia trong tiểu vùng cũng nhìn nhận được sự hợp tác
giữa các nước để khai thác những tiềm năng của mỗi nước để thức đẩy thêm
sự phát triển và bảo tồn nguồn lực chung của tiểu vùng.
Tiểu kết.
Như vậy, sông Mekong không chỉ là kho tài nguyên vô cùng phong phú,
tuyến đường giao thông tự nhiên kết nối sáu quốc gia trong vùng, mà còn là
khu vực giàu tiềm năng về nhân lực và du lịch. Chương trình hợp tác sông
Mekong ra đời sớm nhất là Ủy ban Mekong do Liên Hợp Quốc thành lập năm
1957, bao gồm bốn nước hạ lưu là Lào, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam.
Năm 1995, Ủy ban Mekong được tái thành lập với tên gọi là Ủy hội Mekong
(Mekong River Commision - MRC). Sợ ra đời của Ủy ban Mekong là một
bước phát triển mới không chỉ đánh dấu sự hình thành một tổ chức chung cho
các nước thuộc tiểu vùng, mà còn khẳng định cơ cấu tổ chức và nguyên tắc
35
hoạt động, hợp tác rõ ràng của các nước trong tiểu vùng.
Các quốc gia trong tiểu vùng đều có các di sản văn hóa thế giới với nhiều
điểm du lịch nổi tiếng, hấp dẫn. Ý tưởng “Sáu quốc gia - một điểm đến” là
một vấn đề quan trọng góp phần giúp cho hợp tác du lịch của các nước trong
tiểu vùng phát triển. Việc hợp tác du lịch tiểu vùng nhằm tạo ra một sản phẩm
du lịch chung sẽ là một giải pháp góp phần làm phong phú hơn nguồn tài
nguyên du lịch, đồng thời có khả năng tạo ra những nét ấn tượng, độc đáo
mang bản sắc rất riêng của tiểu vùng.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, những đặc điểm kinh tế, tự nhiên và
xã hội của tiểu vùng sông Mekong, cùng với chiến lược phát triển du lịch bền
vững của tiểu vùng nói chung và mỗi nước nói riêng sẽ góp phần quan trọng
vào công cuộc phát triển kinh tế, xã hội trong khu vực, góp phần vào công
cuộc xóa đói giảm nghèo, tạo ra nhiều ngành, nghề mới góp phần tăng thu
nhập cho các tộc người trong tiểu vùng, nhất là những tộc người sống dọc hai
36
ven bờ sông hiện nay.
Chƣơng 2
CÁC CHƢƠNG TRÌNH HỢP TÁC DU LỊCH TIỂU VÙNG SÔNG
MEKONG
2.1. Các tổ chức hợp tác du lịch tiểu vùng Mekong
2.1.1. Tổ chức du lịch thế giới
Các nước tiểu vùng Mekong hiện nay đều là thành viên chính thức của
Tổ chức du lịch thế giới. Tổ chức Du lịch thế giới (tên tiếng Anh là World
Tourism Organization - UNWTO) là một cơ quan chuyên trách của Liên Hợp
Quốc được chính thức thành lập ngày 02/01/1975. Tôn chỉ, mục tiêu hoạt
động của Tổ chức là thông qua thúc đẩy phát triển du lịch, mang lại cơ hội du
lịch cho toàn thể nhân dân thế giới, phát triển du lịch có trách nhiệm, bền
vững; góp phần vào sự phát triển kinh tế, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa
các dân tộc, các quốc gia vì hoà bình, thịnh vượng, tôn trọng lẫn nhau, tôn
trọng nhân quyền và tự do cơ bản, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn
ngữ và tôn giáo.
Trụ sở chính thức của UNWTO đặt tại Madrid - Tây Ban Nha. Cơ quan
tối cao của UNWTO là Đại Hội đồng gồm các đại biểu đại diện cho các thành
viên chính thức của UNWTO. Giúp việc cho Đại hội đồng có các cơ quan, uỷ
ban chuyên môn. Các hoạt động của UNWTO được triển khai thông qua 6 Uỷ
ban khu vực của UNWTO (Ủy ban Trung Đông, châu Phi, Đông Á - Thái
Bình Dương, Nam Á, châu Âu và châu Mỹ).
Tổ chức Du lịch Thế giới có 03 loại thành viên: Thành viên chính thức
(tất cả các quốc gia có chủ quyền đều có thể làm thành viên chính thức),
thành viên liên kết (là các vùng lãnh thổ hoặc nhóm lãnh thổ được quốc gia
chủ quyền cho phép tham gia, các tổ chức quốc tế, tổ chức liên chính phủ
hoặc phi chính phủ chuyên ngành du lịch và các doanh nghiệp hoặc các hiệp
hội có hoạt động liên quan [24]. Hiện nay, UNWTO chính thức có 155 thành
37
viên chính thức và trên 400 thành viên liên kết.
UNWTO thực hiện nhiều hoạt động tích cực nhằm phát triển du lịch
phạm vi toàn cầu như đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch, nghiên cứu,
thống kê du lịch, tổ chức hội nghị và hội thảo, thu thập xử lý thông tin du lịch,
tổ chức quản lý du lịch, bảo vệ môi trường. UNWTO cũng đã thông qua nhiều
văn kiện quan trọng như Hiến chương du lịch, Quy tắc ứng xử toàn cầu trong
du lịch, các Tuyên bố du lịch..., khuyến cáo Liên Hợp Quốc và Chính phủ các
quốc gia có những giải pháp phù hợp trong phát triển du lịch.
2.1.2. Hiệp hội du lịch châu Á-Thái Bình Dƣơng
Hiệp hội du lịch Châu Á - Thái Bình Dương (Pacific Asian Tourism
Asociation - PATA) được thành lập từ năm 1951. Đây là tổ chức hợp tác du
lịch được hình thành sớm và lớn nhất trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. PATA có uy tín cao trên thế giới với sự tham gia của trên 2.100
thành viên và 82 Chi hội [21]. Chức năng chính của PATA là phát triển sản
phẩm và hỗ trợ xúc tiến du lịch vì mục tiêu phát triển lâu dài của ngành du
lịch và của các hội viên.
Hội nghị PATA được tổ chức hàng năm. Mục đích của PATA là tiếp
tục tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu du lịch, đặc biệt là trong khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương, chia sẻ những thành tựu nghiên cứu và trao đổi ý
tưởng giữa các học giả và các đối tác của họ.
2.1.3. Diễn đàn du lịch ASEAN
Diễn đàn du lịch ASEAN (ASEAN Tourism Forum- ATF) là một hoạt
động quan trọng và có quy mô lớn nhất trong hợp tác du lịch của các nước
ASEAN. ATF là sự kiện lớn có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội nhằm xây
dựng ASEAN thành một điểm du lịch chung, phát triển du lịch theo hướng
bền vững, góp phần thúc đẩy trao đổi, hợp tác hữu nghị, giao lưu văn hóa,
củng cố hòa bình và phát triển thịnh vượng trong khu vực. Kể từ khi thành lập
cùng với sự nỗ lực của mình, ATF đã luôn thu hút sự quan tâm của các nước
38
thành viên.
Năm 1981, ATF được tổ chức lần đầu tiên tại Malaysia, sau đó được tổ
chức thường niên, luân phiên trong các nước ASEAN. Do có nhiều ý nghĩa to
lớn nên các nước thành viên đều lấy ATF làm cơ hội để nâng cao hình ảnh du
lịch của đất nước mình. Tính đến thời điểm này, chủ yếu ATF được tổ chức
tại các nước thành viên cũ của ASEAN (05 lần tại Malaysia, Singapore,
Phillipines; 04 lần tại Thái Lan, Indonesia; 01 lần tại Brunei Darussalam,
Campuchia, Lào). Việc đăng cai ATF ở các nước đều mang lại nhiều hiệu quả
thiết thực, thể hiện qua việc tăng lượng khách tới, các hoạt động du lịch đều
trở nên sôi động hơn, các đối tác, các nhà đầu tư quan tâm hơn sau khi tổ chức
diễn đàn.
Thông thường diễn đàn ATF có sự tham dự của hơn 1.500 đại biểu đến
từ các nước trong khu vực, thời gian tổ chức khoảng 8 ngày với các hoạt động
chủ yếu gồm: Hội nghị Bộ trưởng du lịch ASEAN, Bộ trưởng du lịch ASEAN
với các nước đối thoại; Phiên họp lãnh đạo Cơ quan du lịch quốc gia, họp
Nhóm công tác hội nhập du lịch ASEAN, Hội chợ du lịch, Hội nghị du lịch
ASEAN, Họp ban điều hành hiệp hội du lịch ASEAN (ASEAN TA), Họp báo
và một số hoạt động liên quan khác…
2.1.4. Văn phòng điều phối du lịch Mekong
Năm 1997, đáp ứng nhu cầu cần phải có một tổ chức hành chính cho
hoạt động hợp tác du lịch giữa các nước thuộc tiểu vùng sông Mekong, Văn
phòng Điều phối Du lịch tiểu vùng Mekong đã ra đời, gọi tắt là MTCO
(Mekong Tourism Coordinating Office). Văn phòng Điều phối Du lịch tiểu
vùng Mekong đặt tại Bangkok (Thái Lan) được thành lập với sự giúp đỡ từ
các nhóm công tác du lịch đại diện cho chính phủ sáu quốc gia trong tiểu
vùng Mekong. MTCO có hai chức năng chính là:
- Phối hợp thực hiện dự án phát triển du lịch bền vững tiểu vùng
39
Mekong phù hợp với Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc.
- Marketing - Thúc đẩy quảng bá tiểu vùng sông Mekong như là một
điểm du lịch duy nhất[22].
Hoạt động chính của MTCO là Nhóm công tác du lịch tiểu vùng
(TWG) và Hội nghị Bộ trưởng Du lịch GMS. Nhiệm vụ chính của MTCO là
xây dựng các chương trình hành động chung về du lịch cho tiểu vùng GMS,
làm việc với các tổ chức quốc tế như ESCAP, ADB, PATA… và chuẩn bị cho
các cuộc nhóm họp thường niên về du lịch. Bên cạnh đó, MTCO cũng là tổ
chức chịu trách nhiệm tìm kiếm nguồn kinh phí cho các dự án về du lịch của
GMS.
Tổ chức MTCO được coi là một bước tiến quan trọng trong tiến trình
hợp tác du lịch các nước GMS. Với một cơ cấu tổ chức khoa học, nó đảm bảo
cho các chương trình hành động chung của cả sáu quốc gia được diễn ra một
cách thuận lợi và đảm bảo cho hoạt động hợp tác bền vững và hiệu quả.
MTCO nhận được tài trợ và ủng hộ từ Chính phủ các nước, các tổ chức quốc
tế nhằm xúc tiến du lịch tiểu vùng Mekong như một điểm đến duy nhất, đồng
thời xoá bỏ những rào cản về kinh tế, xã hội, tự nhiên ngăn cản sự phát triển
du lịch của tiểu vùng.
2.1.5. Diễn đàn du lịch Mekong
Một trong những hoạt động chính về du lịch của các nước tiểu vùng
sông Mekong là Diễn đàn Du lịch tiểu vùng Mekong (Mekong Tourism
Forum - MTF). Đây là sự kiện hàng năm có tác động lớn đến hoạt động du
lịch của các nước GMS. MTF lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1996 bởi
Hiệp hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dương (PATA) và liên tục được tổ chức
trong 10 năm tiếp theo. Từ năm 2006, MTF được tổ chức bởi khu vực tư nhân
tổ chức theo những mục tiêu chung của diễn đàn. Đến 2010, MTF được Văn
phòng Điều phối Du lịch Mekong (MTCO) tổ chức với chủ đề “Cung đường
mới, vận hội mới” (New Roads, New Opportunities) tại Siem Reap,
40
Campuchia. Năm 2011, MTF với chủ đề “Điểm đến Mekong: Sự hình thành
một ngôi sao” (Destination Mekong: The Making of a Star) được tổ chức tại
Pakse – thủ phủ tỉnh Chămpaxăc, CHDCND Lào. Chủ đề là “Tầm nhìn 20/20:
Hai thập kỷ xây dựng phát triển của hợp tác GMS” (20/20 Vision: Building on
the Two Decades of GMS Cooperation), diễn ra vào tháng 6/2012 tại Chiang
Rai, Thái Lan. Hoạt động của Diễn đàn Du lịch Mekong nhằm thực hiện ba
mục tiêu chung là:
- Xây dựng tiểu vùng Mekong mở rộng như một điểm đến du lịch duy
nhất.
- Cung cấp một nền tảng toàn diện cho các lĩnh vực nhà nước và tư nhân
để giải quyết các vấn đề du lịch tiểu vùng.
- Mở rộng mạng lưới và cơ hội tiếp thị cho việc thúc đẩy các nước tiểu
vùng GMS và các bên liên quan tạo ra sức mạnh tổng hợp về du
lịch.[23].
Diễn đàn MTF là nơi những nhà lãnh đạo cấp nhà nước về du lịch của
sáu nước GMS cùng bàn bạc và đưa ra các chương trình hành động cũng như
các chính sách chung, bàn về mối quan hệ hợp tác du lịch giữa các nước trong
tiểu vùng. Diễn đàn khuyến khích tất cả các thành phần từ nhà nước đến tư
nhân cùng hợp tác và nỗ lực cho việc tiếp thị và xúc tiến cho Chương trình “
Sáu đất nước - một điểm đến”, để tiểu vùng Mekong mở rộng trở thành một
trong những điểm đến phát triển nhanh nhất thế giới.
2.2. Các nội dung hợp tác du lịch ở tiểu vùng Mekong
2.2.1. Phát triển nguồn nhân lực du lịch
Du lịch là một ngành dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người.
Chính vì thế, thái độ cũng như cung cách phục vụ khách trong ngành du lịch
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dịch vụ và sản phẩm du lịch. Du lịch sẽ
không được gọi đúng tên khi không có đội ngũ hướng dẫn viên lành nghề,
nguồn lực du lịch chất lượng cao. Họ chính là “đại sứ” của một quốc gia khi
41
truyền đạt những thông điệp về xứ sở mà du khách đang đến. Đây cũng chính
là khởi nguồn cho những mối thiện cảm của khách du lịch đối với đất nước và
con người nơi họ đặt chân đến. Vì vậy, công tác đào tạo nguồn nhân lực du
lịch luôn được các nước quan tâm và đầu tư đúng mức.
Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN về du lịch, ASEAN đã tiến hành
Phiên họp Cơ quan du lịch quốc gia ASEAN lần thứ 34 (ASEAN NTOs 34)
từ ngày 20 - 25/6/2011 tại Luang Prabang – Lào. Đây là Phiên họp đầu tiên
nhằm triển khai Chiến lược du lịch ASEAN giai đoạn 2011 - 2015 đã được
Bộ trưởng Du lịch các nước ASEAN thông qua tại Diễn đàn Du lịch ASEAN
tháng 1/2011 tại Campuchia. Về phát triển nguồn nhân lực du lịch, Hội nghị
đã nhất trí sẽ chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề du
lịch, chương trình, giáo trình đào tạo du lịch, xem xét khả năng trao đổi
chuyên gia và trao học bổng dài hạn cho cán bộ của cơ quan du lịch quốc gia
của nhau. Hội nghị kêu gọi các tổ chức quốc tế dành hỗ trợ kỹ thuật cho các
nước về đào tạo du lịch, kỹ năng nghề và tổ chức các khoá đào tạo với các
chủ đề phù hợp.
Hội nghị cũng đã thông qua thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du
lịch (MRA). Thỏa thuận này sẽ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch
và tạo điều kiện dịch chuyển lao động du lịch lành nghề trong khu vực. Sau
khi thỏa thuận này ký kết, Cơ quan Du lịch quốc gia ASEAN sẽ xây dựng các
bước tiếp theo của MRA gồm nâng cao năng lực cho các tổ chức liên quan
trong khuôn khổ MRA ở cấp độ khu vực và quốc gia.
2.2.2. Phát triển cơ sở vật chất phục vụ du lịch
Du lịch gắn với việc di chuyển con người trên những phạm vi nhất
định. Vì vậy, nó phụ thuộc chặt chẽ vào sự phát triển của yếu tố giao thông
vận tải. Một điểm đến có sức hấp dẫn đối với du lịch nhưng vẫn không thể
khai thác được nếu thiếu yếu tố giao thông vận tải này. Thông qua mạng lưới
giao thông thuận tiện, nhanh chóng du lịch mới có thể trở thành một hoạt
42
động sôi động, tích cực trong phát triển kinh tế.
Chương trình phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch đã được thực
hiện tại những vùng trọng yếu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận với
những điểm đến kế tiếp. Chương trình này bao gồm 11 dự án nhỏ được thực
hiện ở 3 quốc gia là Việt Nam, Lào và Campuchia :
- Campuchia:
+ Cải thiện môi trường ở Siem Reap
+ Cải thiện chất lượng đường tới Khu tưởng niệm Genocide
+ Nâng cấp sân bay Rattana Kiri
+ Nâng cấp sân bay Stung Treng
- Lào:
+ Nâng cấp sân bay Luang Namtha
+ Cải thiện đường tới Động Konglor
+ Cải thiện đường tới thác nước Kwangsi
- Việt Nam:
+ Cải thiện môi trường ở tỉnh An Giang
+ Phát triển các bến tầu du lịch ở An Giang
+ Phát triển bến tầu du lịch Mỹ Tho ở Tiền Giang
+ Cải thiện môi trường ở Tiền Giang [23,tr. 25].
Hiện nay, tuyến đường bộ từ Việt Nam đi Campuchia tương đối tốt,
tuyến đường kết nối Việt Nam - Lào - Đông Bắc Thái Lan đã hình thành và
đang phát triển với loại hình du lịch caravan, chấp nhận xe tay lái nghịch lưu
hành qua các nước. Đường hàng không trong khu vực cũng đã phát triển tốt.
Trong tương lai, với những dự án đường bộ kết nối hành lang kinh tế Đông
Tây và hành lang kinh tế Bắc Nam nối liền 6 nước trong tiểu vùng, tuyến
đường sắt Việt Nam - Campuchia hoàn thành, sẽ tăng thêm cơ hội cho phát
triển du lịch toàn tiểu vùng.
Thông qua các chương trình hợp tác trong GMS, nhiều dự án xây dựng
43
các tuyến đường giao thông đã được triển khai và một số dự án đã hoàn thành,
không những phục vụ đắc lực cho giao thông đi lại và các hoạt động kinh tế
khác mà còn liên kết các tuyến điểm du lịch và đáp ứng nhu cầu di chuyển,
nối tour của du khách, đó là các dự án lớn như: dự án cải tạo đường Phnom
Penh - Thành phố Hồ Chí Minh, dự án cải tạo tuyến đường sắt tỉnh Vân Nam
(Trung Quốc) - Việt Nam, dự án tuyến đường sắt Thái Lan – Campuchia -
Việt Nam (là một trong những đoạn kết nối của tuyến đường sắt xuyên Á); dự
án tuyến đường giao thông Băng Cốc (Thái Lan) - Phnom Penh (Campuchia)
- Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam); tuyến hành lang Đông Tây nối thông
Thái Lan - Lào - Việt Nam….
Một sự kiện du lịch đáng chú ý khác là Diễn đàn Du lịch Mekong 2010
(Mekong Tourism Forum) diễn ra từ ngày 7 đến 9/5/2010 tại Xiêm Riệp -
Campuchia. Tham gia Diễn đàn có các tổ chức lớn như Hiệp hội Du lịch châu
Á - Thái Bình Dương (PATA), Tổng cục du lịch Campuchia, Tổng cục du
lịch Thái Lan, Công ty Asian Trails, Công ty Exotissimo Myanmar, Công ty
Green Discovery Lào, Công ty Buffalo Tours Việt Nam, và hơn 200 doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch và lữ hành của các nước thuộc tiểu vùng
sông Mê Công.
Với chủ đề “Cung đường mới, vận hội mới” (New Roads, New
Opportunities), diễn đàn trên đây đã cập nhật về những dự án phát triển và
đầu tư trong du lịch xuyên suốt các khu vực từ miền Nam Trung Quốc đến
Thái Lan, Myanmar, Lào, Việt Nam và Campuchia. Xuyên suốt các nước tiểu
vùng sông Mê Công, nhiều địa bàn mới đã được mở ra cho ngành du lịch nhờ sự
phát triển của hệ thống đường sá và giao thông vận tải, tập trung vào ba hành
lang chính: phía Bắc nối Côn Minh (Trung Quốc) đến Băng Cốc (Thái Lan) qua
Bắc Lào, miền Trung Lào nối với Đông Bắc Thái Lan, rồi đến Nam Lào và Huế
của Việt Nam; cuối cùng là miền Nam (Việt Nam) nối TP. Hồ Chí Minh với
Băng Cốc thông qua Campuchia. Trọng tâm của các cuộc thảo luận trong diễn
44
đàn du lịch sẽ xoay quanh các đề tài bàn về sản phẩm du lịch đặc trưng của tiểu
vùng, phát triển du lịch trong bối cảnh phát triển cộng đồng địa phương, xây
dựng một nền du lịch bền vững và những cơ hội mới.
2.2.3. Phát triển sản phẩm du lịch, nối tour, trao đổi đoàn khách
Có thể thấy, “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để
thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch” [21, tr. 2].
Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, sản phẩm du lịch là yếu tố quan
trọng quyết định khả năng thu hút khách đến với khu du lịch và điểm tham
quan.
Do đó, cần thiết hợp tác cùng nghiên cứu, lập kế hoạch xây dựng, tổ
chức các loại hình du lịch, các sản phẩm du lịch đa dạng và phong phú, đồng
thời phù hợp với thế mạnh về du lịch của các quốc gia. Cần hướng tới các du
khách nội khối và các thị trường trọng điểm trong và ngoài khu vực.
Hợp tác để nghiên cứu thúc đẩy phát triển các loại hình du lịch mới,
đặc biệt là loại hình du lịch đường bộ liên quốc gia, du lịch đường biển.
Nghiên cứu khảo sát xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo của các địa
phương, các vùng và sản phẩm liên quốc gia để thu hút khách nội khối và
quốc tế, đồng thời đẩy mạnh thu hút khách nội địa nhằm hình thành hệ thống
các sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách.
Các hoạt động nối tour, trao đổi khách giữa các bên đối tác rất cần được quan
tâm phát huy một cách hiệu quả nhất.
Giữa các nước tiểu vùng Mekong có điều kiện thuận lợi để hình thành
nhiều sản phẩm du lịch chung, cũng như nối tour, trao đổi đoàn khách, như:
các tuyến đường bộ xuyên quốc gia, đường thủy chung dòng Mekong, tập
quán sinh hoạt sông nước của người dân, nền văn hóa Phật giáo,cũng như sự
tương đồng và đa dạng về văn hóa trong khu vực…Nhờ đó, nhiều tour du lịch
đã được kết nối, nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn đã ra đời. Trong đó, du lịch
văn hóa di sản, du lịch dựa vào tự nhiên, du lịch dựa vào cộng đồng, du lịch
45
tàu biển và du lịch sông nước sẽ là 4 loại hình sản phẩm được tập trung quảng
bá trong giai đoạn marketing du lịch 2010-2015 của tiểu vùng Mekong và
ASEAN nói chung.
Trong khuôn khổ các nước tiểu vùng sông Mekong mở rộng,
Việt Nam phối hợp với Thái Lan xây dựng các dự án du lịch, trong đó nổi bật
là sản phẩm du lịch làng quê với sự trợ giúp của ESCAP và Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB). Việt Nam cùng Thái Lan đã phối hợp với Lào tiến hành
khảo sát tuyến du lịch đường bộ liên hoàn xuất phát từ Đông Bắc Thái Lan
qua Lào vào Việt Nam bằng của khẩu đường bộ Lao Bảo (đường 9) và Lạc
Sao (đường 8), theo quốc lộ 1 đến Quảng Trị - Huế - Đà Nẵng bằng đường bộ
và từ Đà Nẵng ra Hà Nội bằng đường hàng không [20, tr. 60].
Năm 2010, chính phủ Thái Lan và chính phủ Việt Nam ký một dự án
trao đổi 1 triệu du khách trong các năm tới [21].Tháng 3 năm 2010, Tổng cục
du lịch Thái Lan đã giúp đỡ đoàn roadshow của Việt Nam quảng bá hình ảnh
du lịch Việt Nam trong tháng 4/2010, trong đoàn có các doanh nghiệp từ vùng
Đông Bắc Thái Lan tham gia nhằm tăng cường hợp tác du lịch đường bộ qua
hành lang Đông - Tây.
Hợp tác du lịch Việt Nam - Lào cũng luôn được chú trọng. Hai bên đã
hợp tác phát triển du lịch sinh thái, quản lý khách sạn, cử chuyên gia hỗ trợ
lẫn nhau cùng phát triển nhiều loại hình du lịch mới. Năm 2006, đã có 33.980
lượt khách Lào đến Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam đón 31.728 lượt khách
Lào. Đồng thời trong năm đó, đã có 140.000 lượt khách Việt Nam đến Lào,
đưa Việt Nam trở thành thị trường gửi khách nguồn lớn thứ 6 của Lào [30].
Kết quả khả quan trên là do có sự phát triển không ngừng của mối quan hệ
Việt - Lào, quan hệ hợp tác giữa các thành phố của hai nước ngày càng sâu
rộng, giao thông đường bộ thuận tiện, thủ tục đi lại dễ dàng, hoạt động trao
đổi khách sôi động của các công ty du lịch hai nước [22, tr. 6]. Năm 2006,
tổng cục du lịch Việt Nam tổ chức đoàn doanh nghiệp và một số sở du lịch
46
miền Trung đi khảo sát tuyến điểm du lịch giữa hai nước qua cửa khẩu Nậm
Cắn (đường 7) nhằm kết nối cố đô hai nước (Huế và Luông Prabang) hình
thành tour du lịch liên hoàn [22, tr. 7].
Việt Nam và Campuchia đều có những điểm du lịch, di tích văn hóa
lịch sử, di sản thế giới tạo điều kiện thuận lợi cùng phối hợp nghiên cứu nối
tour, xúc tiến chung [20, tr. 61]. Năm 2007, Tổng cục du lịch Việt Nam tổ
chức đoàn khảo sát Phnom Penh, Xiêm Riệp và tuyến du lịch đường bộ,
đường thủy nối Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
và hai điểm du lịch chính này của Campuchia với sự tham gia của đông đảo
doanh nghiệp. Mục đích của chuyến khảo sát nhằm phát triển, đa dạng hóa
sản phẩm du lịch, tạo tour liên hoàn, tăng sức hấp dẫn của du lịch hai nước,
góp phần khôi phục thị trường du lịch Campuchia suy giảm thời gian qua.
Ông Thong Khon, Bộ trưởng Bộ Du lịch Campuchia cho biết, sự hợp tác này
đã mang lại thành công rõ rệt cho du lịch Campuchia. Ngoài lượng khách nội
địa tại Việt Nam sang Campuchia tăng mạnh hàng năm, Việt Nam cũng là
điểm trung chuyển đưa khách quốc tế sang Campuchia. Trong 3 năm gần đây,
khách từ Việt Nam sang Campuchia đã vượt lên dẫn đầu thị trường khách
quốc tế đến Campuchia với mức tăng trưởng rất cao. Trong khoảng 2,5 triệu
khách quốc tế đến Campuchia năm 2010, khách Việt Nam chiếm tới 470.000
khách và con số này tăng lên khoảng 550.000 khách trong năm 2011[20, tr.
03]
Ngoài ra, Du lịch Việt Nam, Thái Lan, Lào và Campuchia đã phối hợp
tổ chức nhiều tour du lịch caravan từ Thái Lan qua Lào vào Việt Nam, đi tới
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, rồi sang Campuchia, từng bước mở rộng
tuyến du lịch đường bộ nối thông các nước tiểu vùng [20, tr. 62].
2.2.4. Xúc tiến quảng bá du lịch
Mục tiêu của chương trình xúc tiến quảng bá du lịch là khuyến khích
việc phát triển du lịch đa quốc gia trong tiểu vùng GMS bằng cách kích thích
47
nhu cầu từ thị trường, bằng việc tham gia vào các hoạt động xúc tiến chung,
như tham gia vào chiến lược marketing du lịch ASEAN giai đoạn 2011-2015:
“Đông Nam Á: Cảm nhận sự ấm áp”; quảng cáo trên CNN, BBC, in ấn và
phát hành các tài liệu quảng bá chung, tái bản bản đồ du lịch GMS, tham gia
các hội chợ du lịch tại một số thị trường trọng điểm, nâng cấp website
GMS…
Các chương trình quảng bá nhằm giới thiệu về du lịch tiểu vùng Mê
Công trên nhiều loại hình như du lịch văn hoá, du lịch thiên nhiên, du lịch
sinh thái, du lịch mạo hiểm… Thêm vào đó là phát triển và bổ sung các
chương trình xúc tiến trên diện rộng hơn và kéo dài hơn nhằm tạo ra hình ảnh
về du lịch Tiểu vùng Mekong trong mắt du khách.
Hàng năm tại các Hội chợ Thương mại châu Á hay Hội chợ Thương
mại châu Âu, MTCO vẫn thường xuyên tổ chức các gian hàng giới thiệu về
du lịch tiểu vùng GMS. Các bản đồ, các cuốn sách giới thiệu (brochure) về du
lịch tiểu vùng GMS được xuất bản và cập nhật thông tin thường xuyên. Trang
web chính thức giới thiệu về du lịch tiểu vùng GMS vẫn được duy trì. Những
người quan tâm có thể ghé thăm trang web chính thức của GMS (www.visit-
mekong.com) được cập nhật thường xuyên bởi Asia Web Direct. Trang web
này gần đây cũng đã được cải thiện để có thể sử dụng thương mại điện tử
trong việc thu hút thêm nhiều khách du lịch bởi nó cho phép họ thực sự có thể
xây dựng, đặt tour và thanh toán trực tiếp trên mạng. Từ sau diễn đàn du lịch
ASEAN 2009, trang thông tin điện tử www.exploremekong.org ra đời là
website chuyên đề về các hoạt động xúc tiến du lịch của Văn phòng Điều phối
du lịch Mekong (MTCO). Đây sẽ là diễn đàn tương tác nhằm thực hiện chiến
lược xúc tiến du lịch Mê Công. Thông qua trang web này, các điểm đến của
du lịch tiểu vùng GMS được quảng bá một cách rộng rãi đến với du khách
trên toàn thế giới. Du khách sẽ tìm thấy thông tin chi tiết về các điểm đến của
Mekong, cách thức tham gia, chi phí và đăng ký trước (booking) các dịch
48
vụ…
Trong chiến lược quảng bá du lịch Mekong, Việt Nam cũng tham gia,
đóng góp nhiều việc quan trọng và có ý nghĩa. Chẳng hạn, đó là việc thực
hiện và công chiếu thành công bộ phim tài liệu quý giá “Mekong ký sự”. Đây
là bộ phim tài liệu của Việt Nam chỉ dành riêng để nói về dòng chảy của sông
Mekong. Bộ phim hoàn toàn không chứa đựng những phát hiện, những phân
tích sâu sắc, những lý giải khoa học mà đơn thuần chỉ là những thông tin,
những ghi chép tản mạn về những chuyến đi dọc theo bờ sông Mekong. Các
tác giả của bộ phim này đã cố gắng tiếp cận con sông vĩ đại của châu Á theo
cách riêng, đó là việc mô tả đời sống bình dị hàng ngày của dòng sông và cho
thấy nó đang ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và sự phát triển phồn vinh
của các nước ven bờ như thế nào. Hiện nay, “Mekong ký sự” đang là bộ phim
đạt nhiều kỷ lục. Đó là bộ phim tài liệu dài nhất Việt Nam với 90 tập, thời
gian thực hiện lâu nhất với 3 năm 4 tháng, bán được nhiều đĩa nhất: 30.000
đĩa với 6 lần tái bản liên tục trong vòng 1 năm[23, tr.45]. Đây cũng là bộ
phim tài liệu Việt Nam đầu tiên “bị” phát hành lậu tại Mỹ và tại Việt Nam,
đặc biệt là thị trường băng đĩa lậu TP. Hồ Chí Minh. Với những con số ấn
tượng đó, “Mekong ký sự” xứng đáng với Giải nhất phim tài liệu ASEAN. Bộ
phim là cách quảng bá chân thực nhất về vẻ đẹp hùng vĩ, bí ẩn ngàn đời của
dòng sông Mekong kỳ diệu, khơi dậy niềm đam mê khám phá đối với du
khách trong hành trình đến với du lịch tiểu vùng Mekong.
Du lịch tiểu vùng GMS được đánh giá là thị trường du lịch hấp dẫn, vì
có đến gần chục địa danh đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế
giới. Các dự án du lịch ở khu vực sông Mekong đã được triển khai như:
“Chiến dịch khám phá Mekong”, “Năm du lịch hạ lưu Mekong 2009-2010”,
“Diễn đàn Du lịch Mekong”, “Những ngày Văn hóa và Du lịch Mekong ở
Nhật Bản” (2009)…, là những sự kiện quan trọng quảng bá cho du lịch tiểu
49
vùng Mekong trên bản đồ du lịch thế giới.
2.2.5. Nâng cao chất lƣợng quản lý nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân
văn
Một trong những mục tiêu của Cơ quan hợp tác phát triển du lịch tiểu
vùng Mekong là nâng cao được chất lượng quản lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên và nhân văn nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn và phát triển du lịch.
Bên cạnh những di sản văn hóa thế giới trong các quốc gia thuộc tiểu
vùng sông Mekong, sông Mekong còn mang đến cho các quốc gia này rất
nhiều giá trị về tự nhiên. Vì thế công tác bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ môi
trường và bảo tồn các di sản văn hoá và tài nguyên nhân văn đóng vai trò
quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch của tiểu vùng. MTCO đã xây
dựng dự án đào tạo nâng cao chất lượng quản lý tài nguyên cho các nhà quản
lý du lịch của cả sáu quốc gia. Các chương trình đào tạo này tập trung vào các
lĩnh vực như lịch sử tự nhiên, sinh thái học, lịch sử nghệ thuật, khảo cổ học,
các kỹ năng để phát triển du lịch văn hoá, quản lý và bảo tồn các di sản…
Tháng 8 năm 2000, MTCO đã hợp tác với ngành châu Á học thuộc Hiệp
hội các trường Đại học Canada tổ chức một khoá học giới thiệu về quản lý di
sản và du lịch văn hoá cho 18 thành viên từ 6 quốc gia tiểu vùng GMS. Đến
tháng 8 năm 2004, Văn phòng phát triển du lịch, Bộ Du lịch và Thể thao Thái
Lan đã tổ chức một khóa đạo tạo về quản lý nguồn tài nguyên mang giá trị lịch
sử trong du lịch. Khóa học này được thiết kế bởi Khoa Quản lý lữ hành, trường
Đại học Hawaii nhằm đào tạo cho một số cán bộ thuộc các văn phòng chính
phủ của các nước trong tiểu vùng Mekong về kỹ năng quản lý nguồn tài
nguyên nhân văn và công tác bảo tồn. Vấn đề quản lý bền vững nguồn di sản
văn hoá được các nước trong tiểu vùng đặc biệt quan tâm bởi đây chính là
những điểm hấp dẫn khách du lịch nhất. Nếu không có kỹ năng và chiến lược
quản lý bền vững, số lượng khách du lịch càng đông, sự tổn thất và sự mất mát
50
càng lớn [5, tr. 22].
2.3. Các hoạt động nổi bật trong hợp tác du lịch ở tiểu vùng Mekong
2.3.1. Chƣơng trình “Ba quốc gia - một điểm đến”
Chương trình du lịch “ Ba quốc gia - một điểm đến” đề ra tại Phiên họp
lần thứ nhất của Hội nghị Bộ trưởng du lịch 3 nước Campuchia, Lào và Việt
Nam được tổ chức tại Việt Nam năm 2007, trong đó có sự tham dự của các
quan chức du lịch cấp cao của ba nước. Phiên họp này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, là phiên họp đầu tiên nhằm triển khai chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ ba nước về hợp tác du lịch, với mục đích đưa ba quốc gia thành
mộct điểm đến chung để hấp dẫn du khách.
Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, xu hướng du lịch trên thế giới hiện
nay là kết hợp một tour (chuyến) du lịch tới hai hoặc ba quốc gia. Tiềm năng
du lịch của ba nước nếu biết tổ chức khéo léo, kết hợp và phát triển thì sẽ rất
hấp dẫn đối với du khách quốc tế. Sản phẩm “ba quốc gia - một điểm đến” hết
sức độc đáo, có thể là sự kết hợp tiềm năng của du lịch ba nước Việt Nam,
Lào và Campuchia. Ba nước có những tiềm năng, ưu thế khác nhau, nếu kết
hợp những thế mạnh của từng nước lại với nhau, có thể tạo thành một điểm
đến chung rất lý tưởng.
Giải pháp kết nối “Ba quốc gia - một điểm đến” chủ yếu là dựa vào sự
gần gũi về mặt địa lý lẫn đặc trưng văn hóa giữa ba nước: Việt Nam, Lào,
Campuchia, đều là những nước có tiềm năng lớn về du lịch. Việt Nam có thế
mạnh về du lịch biển với những bãi biển dài, cát trắng mịn nổi tiếng thế giới,
vịnh Hạ Long, khu di tích Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, vườn quốc gia Phong Nha
- Kẻ Bàng. Campuchia là vùng đất của những ngôi đền cổ kính thuộc quần thể
Angkor, bên cạnh những điểm văn hóa hấp dẫn thuộc thủ đô Phnom Penh và
những bãi biển thuộc tỉnh Sihanoukville hoang sơ. Lào - xứ sở chùa tháp - với
hàng ngàn ngôi chùa, có quần thể hàng trăm bức tượng Phật. Ba nước cùng
phối hợp thực hiện xúc tiến, quảng bá du lịch, đào tạo nguồn nhân lực... nhằm
51
tạo sức mạnh chung, tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, chất lượng cao.
Ðồng thời còn là việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính để tiết kiệm thời
gian, chi phí và tạo tâm lý thoải mái cho du khách.
Trên thực tế, các hãng lữ hành hiện nay đã tiến hành các tour xuyên
Ðông Dương cho du khách. Công ty Dịch vụ Lữ hành Saigontourist thiết kế
sáu tour liên kết Việt Nam - Lào - Campuchia khá ấn tượng như: tour khám
phá các di sản văn hóa thế giới của ba nước, tour đường sông Việt Nam -
Campuchia... Công ty du lịch Vietravel đã giới thiệu đến du khách quốc tế
hàng loạt sản phẩm tour mới, mang nét đặc trưng như: “Con đường di sản
miền Trung”, “City Tour” ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, “Tour
Homestay” khám phá văn hóa miệt vườn, tour tìm hiểu đời sống thường nhật
của người dân tộc ở cực bắc Việt Nam, tour làng nghề... hoặc chương trình
cho khách trong nước đi du lịch Lào trong năm ngày, Campuchia trong bốn
ngày… Các tour du lịch biển, đảo, đặc biệt là tour Phú Quốc trong năm nay
của Công ty du lịch TST Tourist rất thu hút khách quốc tế. Các chương trình
du lịch Lào và Campuchia được khách Việt Nam đặt chỗ khá đông. Ông Lại
Minh Duy, Tổng Giám đốc TST Tourist phân tích: “ Nếu so với giá tour năm
ngoái, giá tour năm nay giảm nhiều nên vẫn thu hút khách, nhất là khách
quốc tế đến với Việt Nam. Ðây cũng là nỗ lực hợp tác, đồng hành cùng nhau,
của các công ty du lịch và cả các đơn vị hàng không, khách sạn, vận chuyển,
nhà hàng... để cùng nhau vượt qua giai đoạn khó khăn chung của nền kinh
tế”[23, tr. 7].
Ðể khai thác tiềm năng du lịch của ba nước Việt Nam, Lào và
Campchia, từ đầu năm 2008, Campuchia đã miễn visa nhập cảnh cho công
dân năm nước Ðông Nam Á, gồm Việt Nam, Lào, Malaysia, Philippines và
Singapore. Kết quả là trong bảy tháng đầu năm 2009, Campuchia đã đón hơn
1,1 triệu lượt du khách quốc tế và đạt mục tiêu đón 2,25 triệu lượt khách trong
52
năm 2009 (năm 2008 đã đón 2,2 triệu khách [26, tr. 45] . Ðất nước Triệu Voi
cũng đang ráo riết thực hiện “Ba quốc gia - một điểm đến” vì mục tiêu đạt
được cột mốc thu hút hơn một triệu du khách quốc tế vào năm 2010.
Tiếp nối thành công của chương trình “Ba quốc gia-một điểm đến”, từ
năm 2010, ý tưởng “Bốn quốc gia - Một điểm đến” (gồm Việt Nam,
Campuchia, Lào, Myanmar) được thống nhất đưa ra sau Hội nghị bốn bộ
trưởng du lịch lần thứ nhất tại TP.HCM ngày 29-9-2010 với sự tham gia của
thành viên Myanmar. Cả bốn bộ trưởng đều nhất trí tăng cường phối hợp
quảng bá Campuchia - Lào - Myanmar - Việt Nam thành một điểm đến du
lịch chung trong khu vực, đảm bảo phát triển du lịch bền vững và góp phần
xóa đói giảm nghèo ở bốn nước. Các nhà lãnh đạo du lịch bốn nước khuyến
khích cơ quan du lịch quốc gia bốn nước tăng cường trao đổi thông tin và chia
sẻ kinh nghiệm về quy hoạch du lịch, quảng bá, xúc tiến đầu tư du lịch, phát
triển sản phẩm du lịch.
2.3.2. Hợp tác du lịch Việt Nam-Thái Lan
Trong các nước thuộc tiểu vùng sông Mekong, có thể nói Thái Lan là
một đối tác quan trọng nhất của Việt Nam trên lĩnh vực du lịch. Thái Lan là
một nước phát triển du lịch mạnh, là một trong những điểm đến hấp dẫn
không chỉ đối với khách du lịch trong khu vực mà trên toàn thế giới bởi dịch
vụ và sản phẩm du lịch chuyên nghiệp. Chính bởi sự chuyên nghiệp và phát
triển này mà Thái Lan là một điểm đến có sức hút lớn đối với khách du lịch
Việt Nam, đồng thời Thái Lan cũng là nước tích cực nhất trong các chương
trình hợp tác phát triển du lịch vuơn ra thị trường các nước trong khu vực. Rất
nhiều các chương trình hợp tác ở tầm vi mô và vĩ mô đã được thực hiện.
Ngày 31/7/2004 tại Hà Nội, Đại sứ quán Thái Lan tại Việt Nam, Tổng
cục Du lịch và Hãng hàng không Thái Lan đã tổ chức cuộc họp báo giới thiệu,
quảng bá du lịch Thái Lan nhằm tăng cường hợp tác với ngành du lịch Việt
Nam để cùng phát triển, không chỉ tăng lượng khách mà còn thu hút được
53
nhiều khách từ các nước thứ ba vào khu vực.
Với mục tiêu tăng cường hợp tác, liên doanh để thu hút lượng khách du
lịch từ nước thứ ba đến các nước trong khu vực tiểu vùng sông Mekong mở
rộng, thời gian qua ngành du lịch Việt Nam và Thái Lan đã có sự hợp tác chặt
chẽ trong khuôn khổ song phương và đa phương. Việt Nam và Thái Lan đã có
sự trao đổi về hướng hợp tác, xúc tiến du lịch song phương và trong khu vực
như ký hiệp định tạo thuận lợi cho quá cảnh đường bộ; phối kết hợp giữa Nhà
nước và tư nhân về du lịch; hợp tác giữa các hãng hàng không hai bên. Đặc
biệt, việc thúc đẩy du lịch được đánh dấu bằng việc mở những tuyến đường
giao thông quan trọng, có ý nghĩa trong chiến lược phát triển du lịch ở phía
Bắc Việt Nam như: Sơn La, Điện Biên Phủ, Lai Châu. Đường quốc lộ số 09
của Việt Nam nằm trên Hành lang kinh tế Đông Tây nối thông bốn nước Việt
Nam, Lào, Thái Lan và Myanmar đóng vai trò rất quan trọng cho khuyến
khích và phát triển du lịch bằng đường bộ giữa các nước trong khu vực. Ngoài
ra, trong khuôn khổ hợp tác của tiểu vùng Mekong, con đường số 06 của Việt
Nam nối các tỉnh phía Bắc Thái Lan và Lào với địa danh Điện Biên Phủ nổi
tiếng của Việt Nam, tạo thành con đường du lịch từ Thái Lan và một nước thứ
ba khác đến vùng Tây Bắc Việt Nam, rồi từ đó đến miền Đông Bắc Việt Nam
để tham quan phong cảnh, khám phá vẻ đẹp văn hoá đa dạng. Tại Thái Lan,
Làng Hữu nghị Thái - Việt tại bản Na Choọc, tỉnh Nakhon Phanom, đã trở
thành một di tích lịch sử, nơi mà Bác Hồ đã từng sống và hoạt động Cách
mạng trong những năm 20 của thế kỷ trước, cũng là một điểm kết nối du lịch
Thái – Việt quan trọng. Đây là biểu tượng của tình hữu nghị và điểm đến du
lịch lịch sử, văn hoá thu hút mạnh mẽ khách du lịch của hai nước.
2.3.3. Dự án “Phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mekong”
Dự án “Phát triển bền vững du lịch tiểu vùng sông Mekong” nhằm thúc
đẩy phát triển bền vững du lịch của các nước thông qua việc nâng cấp cơ sở
hạ tầng du lịch, phát triển du lịch dựa vào cộng đồng, hỗ trợ người nghèo và
54
hợp tác tiểu vùng về du lịch.
Đây là dự án nằm trong khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mekong mở rộng
(GMS), trong đó Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã hỗ trợ cho Việt
Nam, Lào, Campuchia nhằm phát triển du lịch. Dự án được chia làm ba giai
đoạn:
Giai đoạn một: Phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mekong,
thời gian thực hiện: 2003-2009, với tổng vốn đầu tư là 12,2 triệu USD và
được thực hiện ở các địa điểm: An Giang, Tiền Giang, Hà Nội, Lào,
Campuchia [3, tr. 25] . Kết quả đạt được của dự án là: thực hiện một số mục
tiêu về xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp cơ sở vật chất cho một số địa
phương, như: xây dựng cầu tàu du lịch Mỹ Tho, cầu tàu du lịch Châu Đốc,
trạm kiểm soát liên hiệp Vĩnh Xương, khu xử lý rác thải núi Sam…. Ngoài ra,
còn thực hiện du lịch cộng đồng gắn với xóa đói giảm nghèo, trong đó hoàn
thành 135 hoạt động có hiệu quả. Cũng trong khuôn khổ của giai đoạn này, đã
hoàn thành 13 tiểu dự án với Lào, Camphuchia và 4 nước còn lại; triển khai
thành công 8 khóa đào tạo theo quy định trong dự án phát triển nguồn nhân
lực… Giai đoạn một của dự án đã được ADB kiểm tra và đánh giá cao về tính
hiệu quả, đạt được yêu cầu về tính bền vững trong phát triển, tạo công ăn việc
làm, góp phần xóa đói giảm nghèo tại một số địa phương.
Giai đoạn hai: Phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mekong mở
rộng, thời gian thực hiện từ 2009 - 2014 tại các địa điểm ở Việt Nam là: Cao
Bằng, Bắc Kạn, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Hà Nội và một số
địa phương của Lào với tổng vốn đầu tư 11,792 triệu USD [3, tr. 45]. Các
hoạt động được triển khai ở giai đoạn hai gồm: Thực hiện 250 hoạt động về
du lịch cộng đồng gắn xóa đói giảm nghèo; Hợp tác tiểu vùng Việt Nam -
Lào; Xây dựng biển quảng cáo du lịch dọc hành lang kinh tế Đông – Tây;
Quảng cáo các sản phẩm du lịch tiểu vùng GMS trên các tạp chí quốc tế; Phát
triển đào tạo nguồn nhân lực, tổ chức 26 khóa đào tạo trong nước và nước
55
ngoài cho các cán bộ quản lý du lịch…
Giai đoạn ba: Ngoài hai giai đoạn trên đây, dự án sẽ thực hiện tiếp giai
đoạn 3. Hiện nay, dự án giai đoạn ba đang được Ban quản lý Dự án và Cơ
quan chủ quản là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lên kế hoạch thực hiện, bắt
đầu khởi động vào năm 2013.
Dự án Phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mekong mở rộng
(GMS Sustainable Tourism Development Project - STDP) là dự án trực thuộc
chính phủ được kéo dài trong 03 năm với nguồn vốn vay của Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB), được bắt đầu thực hiện từ năm 2010.
Mục tiêu tổng thể của dự án là đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái, du
lịch cộng đồng theo hướng bền vững ở các khu vực tiểu vùng sông Mekong
mở rộng bằng cách đầu tư cả về trang thiết bị và phát triển nguồn nhân lực.
Dự án sẽ hướng tới việc phát triển du lịch bền vững và đóng góp vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của các nước, đặc biệt tập trung vào xoá đói giảm nghèo,
phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, bảo vệ di sản thiên nhiên và di sản
văn hóa...
2.3.4. Hợp tác du lịch giữa Việt Nam, Thái Lan với Trung Quốc
Trung Quốc là nước thành viên GMS nằm ở thượng nguồn sông Mekong.
Trong tiến trình hợp tác GMS, Trung Quốc tham gia vào hầu hết các hoạt
động, tiêu biểu là các lĩnh vực giao thông, thương mại, viễn thông… Trong lĩnh
vực du lịch, Trung Quốc đã hình thành những kết nối quan trọng với các thành
viên khác trong tiểu vùng, đặc biệt là với Việt Nam và Thái Lan.
Du lịch Việt Nam – Trung Quốc:
Hợp tác du lịch giữa Việt Nam và Trung Quốc đã hình thành những kết
nối quan trọng. Tháng 3 năm 2009, tại thành phố biên giới Lào Cai, lãnh đạo
ngành du lịch của 4 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lào
Cai (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) đã họp bàn thống nhất triển
khai một số giải pháp tăng cường hợp tác quản lý kinh doanh du lịch và tháo
56
gỡ các khó khăn, vướng mắc về cơ chế chính sách liên quan tới phát triển du
lịch của cả hai bên, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang bị khủng hoảng. Đây
là cuộc họp theo chương trình hợp tác du lịch giữa 5 tỉnh, thành phố nêu trên
ngày 19/11/2007 tại Hải Phòng. Theo đó, ngành du lịch tỉnh Vân Nam đã
đồng thuận với những đề xuất của đại diện Tổng cục Du lịch Việt Nam và
lãnh đạo ngành du lịch các tỉnh, thành phố của Việt Nam, vì đây là những địa
phương nằm trên tuyến hành lang kinh tế của tiểu vùng Mekong gồm: Côn
Minh (Vân Nam) – Lào Cai – Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh (Việt Nam).
Hai bên phấn đấu thực hiện tốt khẩu hiệu “Một điểm đến hai quốc gia”
để thu hút du khách tới địa danh biên giới Việt - Trung. Ví dụ như khách du
lịch đến thành phố Lào Cai hoặc Móng Cái (Việt Nam) đều có thể sang thăm
Trung Quốc (và ngược lại) một cách thuận lợi, dễ dàng.
Trước mắt, ngành du lịch Việt Nam và các tỉnh, thành phố: Hà Nội,
Hải Phòng, Quảng Ninh, Lào Cai đang làm tốt hơn công tác quảng bá các
điểm du lịch nổi tiếng của Vân Nam nói riêng và toàn Trung Quốc nói chung.
Các cơ quan báo chí của tỉnh Vân Nam cũng phối hợp chặt chẽ với
ngành du lịch tuyên truyền, quảng bá sâu rộng các điểm đến du lịch hấp dẫn
của Việt Nam như Thủ đô Hà Nội, vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), bãi biển Đồ
Sơn (Hải Phòng), khu du lịch sinh thái Sa Pa (Lào Cai)…
Tỉnh Vân Nam hợp tác với ngành du lịch của 4 tỉnh, thành phố kể trên
của Việt Nam để bồi dưỡng ngắn hạn, đào tạo dài hạn cán bộ làm công tác du
lịch, nhất là đội ngũ hướng dẫn viên và giám đốc các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ du lịch.
Hai bên cũng tích cực phối hợp việc biên tập, xuất bản và phát hành các
ấn phẩm quảng bá du lịch bằng các thứ tiếng Việt – Hoa – Anh cho khách du
lịch tới Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà
nước về hoạt động du lịch, thống nhất 1 loại giá thu lệ phí du lịch của cả 2
bên, đấu tranh kiên quyết với hiện tượng cạnh tranh dịch vụ du lịch không
57
lành mạnh… Bên cạnh đó, ngành du lịch của hai bên cũng đề nghị các cấp và
các cơ quan có thẩm quyền của 2 nước Việt Nam và Trung Quốc về đổi mới
công tác quản lý hoạt động du lịch, nhất là đối với du khách đến từ nước thứ
ba, nhưng vẫn đảm bảo tốt công tác an ninh trật tự theo quy định của pháp
luật mỗi nước.
Du lịch Thái Lan – Trung Quốc:
Hiện nay, Thái Lan và Trung Quốc đang hợp tác xây dựng “tuyến
đường du lịch vàng”. Đây là hành lang du lịch đường bộ lớn dựa trên tuyến
đường bộ Côn Minh – Băng Cốc với tổng chiều dài 1.863km.
Tuyến đường bộ Côn Minh - Băng Cốc chính thức thông xe vào tháng
12 năm 2008, bắt đầu từ thành phố Côn Minh tỉnh Vân Nam đến thành phố
Băng Cốc Thái Lan, xuyên qua ba nước Trung Quốc, Thái Lan và Lào, dọc
đường phong cảnh tươi đẹp, đậm đà phong tục tập quán của các dân tộc mỗi
nước. Theo số liệu thống kê của cơ quan đại diện tổng cục du lịch quốc gia
Thái Lan tại Côn Minh được biết: Năm 2011, số người xuất cảnh từ Vân Nam
sang Thái Lan du lịch vào khoảng 60 nghìn người, trong đó không bao gồm
số du khách xin thị thực ngay tại sân bay.[28, tr. 56].Tuyến đường bộ Côn
Minh - Băng Cốc đã trở thành một trong những tuyến đường quan trọng của
tour du lịch Trung Quốc - Thái Lan.
Mới đây, Sở Du lịch Băng Cốc và Côn Minh cam kết sớm thành lập
Hội Xúc tiến và Giao lưu du lịch, tập trung giải quyết các vấn đề, nhất là tạo
điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập cảnh của du khách hai nước. Thái Lan
và Trung Quốc nguyện cùng hoàn thiện cơ sở hạ tầng, cả phần cứng lẫn phần
mềm, trên tuyến đường Côn Minh - Băng Cốc, nhằm xây dựng nó trở thành
một “tuyến du lịch vàng", trong đó đặc biệt khuyến khích du khách lái xe đi
du lịch.
Tự lái xe đi du lịch dọc theo tuyến đường bộ Côn Minh - Băng Cốc có
thể dẫn du khách đi tới các thành phố ở miền bắc Thái Lan như Chiềng Mai,
58
Chiềng Rai, Lam Pang, Lam Phun, Phitsanulôk ... Theo Tổng cục Du lịch
quốc gia Thái Lan, các thành phố ở miền bắc Thái Lan không ồn ào huyên
náo như các thành phố lớn ở miền Nam Thái Lan, đây là một sự lựa chọn du
lịch tốt nhất để du khách cảm nhận phong tục tập quán dân tộc mộc mạc, cũng
như tiếp cận thiên nhiên tươi đẹp của Thái Lan. Trong khi đó, thói quen tự lái
xe đi du lịch cũng bắt đầu nở rộ tại Trung Quốc, và người ta tin tằng, du
khách Trung Quốc tự lái xe đi du lịch Thái Lan thông qua tuyến đường bộ
Côn Minh - Băng Cốc cũng sẽ ngày càng tăng lên.
Hai bên Trung Quốc và Thái Lan đang nỗ lực tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho việc quá cảnh du lịch, giảm thiểu thời gian và trình tự quá cảnh của du
khách, in bản đồ tuyến đường bộ Côn Minh - Băng Cốc bằng 3 thứ
tiếng Trung, Anh và Thái, khai thác thêm điểm du lịch mới, cải thiện tiêu chí
giao thông theo tiêu chuẩn quốc tế, khai thác thêm nhà nghỉ và khách sạn…
Để làm tốt những điều này, phía Côn Minh tích cực giới thiệu tour du lịch
đường bộ Côn Minh - Băng Cốc với du khách đến từ các tỉnh của Trung
Quốc; còn phía Thái Lan cũng thông qua các hình thức tuyên truyền cho việc
tổ chức đoàn tự lái xe từ Vân Nam đến miền bắc Thái Lan, cũng như vào các
dịp lễ hàng năm của Thái Lan sẽ cung cấp dịch vụ tư vấn cho du khách tự lái
xe đi du lịch trên tuyến đường bộ Côn Minh - Băng Cốc và ngược lại.
Hiện nay, nhiều công ty du lịch của Vân Nam đều đang tích cực thiết
kế tour du lịch tự lái xe đến Thái Lan, đồng thời căn cứ theo nhu cầu của du
khách để sửa đổi tour du lịch trước đây thành hình thức tổ hợp và bảng liệt kê
có thể lựa chọn. Trong thiết kế tour du lịch tự lái xe, hệ số an toàn của du
khách là điều quan trọng nhất, việc sắp xếp hành trình nhất định phải tránh
không để cho du khách quá mệt mỏi. Các công ty hai nước đang lên kế hoạch
đưa ra tour du lịch hành trình 8 ngày 7 đêm trên tuyến đường bộ Côn Minh -
Băng Cốc, các điểm du lịch đặc sắc của các thành phố Chiềng Mai, Chiềng
59
Rai, Lam Pang, Su-kho-thai...đều nằm trong chương trình này.
Tiểu kết.
Như đã nêu trên, trong chương 2, luận văn đã nêu và phân tích về các
chương trình hợp tác du lịch của tiểu vùng sông Mekong, trong đó đáng chú ý
là các hợp tác du lịch quan trọng như Tổ chức du lịch thế giới, Hiệp hội du
lịch châu Á- Thái Bình Dương; Diễn đàn du lịch ASEAN, Văn phòng điều
phối du lịch Mekong.... Có thể nói sự kết nối các tour du lịch trong tieur vùng
với du lịch trong khu vực và thế giới đã mở ra nhiều vận hội mới cho sự hợp
tác và phát triển du lịch bền vững của tiểu vùng trong điều kiện ngày nay.
Sự phát triển phong phú, đa dạng của các tour du lịch trong tiểu vùng như
“ Ba quốc gia - một điểm đến”; “Bốn quốc gia - Một điểm đến”;” Một điểm
đến- hai quốc gia” sẽ là những Tour du lịch quan trọng, hấp dẫn của tiểu
vùng tiếp nhận nhiều du khách trên thế giới.
Tuy nhiên, việc phát triển du lịch bền vững luôn luôn gắn liền với yếu tố
con người và môi trường. Vì vậy, thái độ cũng như cung cách phục vụ khách
trong ngành du lịch ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dịch vụ và sản phẩm du
lịch. Với tinh thần đó, công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch luôn được các
60
nước quan tâm và đầu tư đúng mức.
Chƣơng 3
THÀNH TỰU, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HỢP TÁC VÀ PHÁT
TRIỂN DU LỊCH TIỂU VÙNG SÔNG MEKONG
3.1. Một số thành tựu chủ yếu của hợp tác du lịch tiểu vùng sông Mekong
Các nước trong tiểu vùng đang đi sâu vào hợp tác trên tất cả các lĩnh
vực, đó có thể là những hợp tác song phương hoặc đa phương giữa các quốc
gia trong tiểu vùng nhằm khai thác tối đa lợi ích của dòng sông.
Chiến lược du lịch của GMS có mục tiêu nhằm phát triển và xúc tiến du
lịch tiểu vùng sông Mekong như một điểm đến duy nhất, chiến lược cũng
được xây dựng trên nguyên tắc phát triển bền vững nghĩa là khả thi về kinh tế,
công bằng, đảm bảo sinh thái và đem lại tác dụng tích cực tối thiểu về mặt xã
hội đối với cộng đồng địa phương. Theo chương trình hợp tác kinh tế tiểu
vùng sông Mekong mở rộng, các dự án du lịch sẽ thúc đẩy phát triển du lịch
đa quốc gia bao gồm kích cầu đối với những sản phẩm và thị trường phù hợp
đem lại lợi nhuận cao thông qua các hoạt động xúc tiến du lịch chung, điều
này có thể được thực hiện thông qua việc nâng cao kĩ năng của các nhà lãnh
đạo về du lịch, giảng viên về du lịch và nâng cao chuẩn mực quản lí các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa phục vụ bảo tồn và du lịch. Quan hệ
đối tác với khu vực tư nhân sẽ được khuyến khích trong lĩnh vực lập kế
hoạch, đầu tư và marketing trong lĩnh vực du lịch đồng thời với việc giải
quyết những trở ngại đối với các đoàn vào và đi lại trong khu vực. Các dự án
cũng bao hàm phát triển cơ sở hạ tầng du lịch nhằm đảm bảo chia sẻ rộng rãi
hơn nữa những lợi ích từ du lịch và hỗ trợ phát triển vì người nghèo tại những
vùng ưu tiên.
Tour du lịch Mekong luôn thu hút nhiều du khách quan tâm. Mới đây,
tờ nhật báo Telegraph của Anh đã lựa chọn tuyến du lịch trên sông Mekong
nằm trong top 5 tuyến du lịch trên sông hàng đầu Châu Á cho năm 2015 [29,
61
tr. 67]. Theo đó, Telegraph đề xuất cho du khách chương trình tour kéo dài
trong vòng 8 ngày đi theo tuyến đường sông từ Siem Reap (Campuchia) đến
TP. Hồ Chí Minh (Việt Nam). Tờ nhật báo cũng gợi ý du khách có thể lựa
chọn ở lại thêm Siem Reap hoặc TP. Hồ Chí Minh với chi phí cho cả tour ước
tính từ 1.436 bảng Anh/khách (tương đương khoảng 51 triệu đồng), chưa bao
gồm vé máy bay[30, tr. 24]
Cùng với tuyến du lịch trên sông Mekong còn có 4 tuyến khác được tờ
Telegraph lựa chọn gồm có: du lịch trên Sông Hằng (Ấn Độ); sông Dương Tử
(Trung Quốc); sông Irrawaddy (Myanmar) và tuyến du lịch đường sông từ
Delhi đến Kolkata (Ấn Độ).
Có thể thấy, Chương trình Hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng đã giúp các
nước trong tiểu vùng đạt được những thanh tựu to lớn về phat triển kinh tế,
góp phần cải thiện đời sống cho hàng triệu người nghèo. Năm 2000, Trung
Quốc, Lào, Mianma va Thái Lan ky Hiệp ước vận chuyển thương mại trên
song Mekong trong đó quy định làm sạch lòng sông đến đoạn chảy qua tỉnh
Luông Phabang của Lào. Năm 2004, việc dọn lòng sông đoạn miền nam tỉnh
Van Nam (Trung Quốc) đi bắc Thái Lan cũng được hoàn tất. Thang 11 năm
2007 Campuchia thông qua kế hoạch mở thêm đường sắt nối với Thai Lan và
Việt Nam để kết nối tuyến đường sắt nối liền ASEAN với Côn Minh (Trung
Quốc) dài 5.500 km. Cuối tháng 12 năm 2007 Campuchia va Thái Lan nhất trí
cho phep khách du lịch nước ngoài đến hai nước này bằng cùng một loại thị
thực; Việt Nam, Lào, Thái Lan ký Bản ghi nhớ về sử dụng có hiệu quả và
nâng cấp hạ tầng cơ sở tuyến giao thông vận tải nhằm thúc đẩy thương mại và
thu hút đầu tư phat triển Hanh lang Kinh tế Đông ‑ Tây. Tương tự, Lào và
Thái Lan thỏa thuận sử dụng cầu Hữu nghị qua sông Mekong nối tỉnh
Savannakhet (Lao) với tỉnh Mukdahan (Thai Lan). Việt Nam, Lào và
62
Campuchia đã đạt thỏa thuận về những biện pháp liên kết mở rộng quảng bá
tiềm năng, văn hóa, các loại hinh du lịch của mỗi nước để thực hiện các tour
du lịch “một điểm đến nhiều quốc gia”, “Tiểu vùng Mekong ‑ điểm đến”...
GMS được nhiều chuyên gia nhìn nhận là một trong những kênh hợp tác khu
vực phat triển nhanh nhất thế giới, chẳng hạn, kim ngạch mậu dịch tăng 11
lần từ 2,4 tỷ USD (1992) lên 27 tỷ USD (2004).
Về lượng khách đến du lịch tiểu vùng, cùng với sự phát triển chung về
kinh tế và xã hội trong tiểu vùng, hợp tác du lịch trong tiểu vùng cũng có
nhiều bước phát triển và đạt được nhiều thành tự quan trọng. Bảng thống kê
sau đây sẽ cho thấy lượng khách du lịch đến các nước trong tiểu vùng trong
Bảng 3. Số lượt khách quốc tế đến du lịch GMS năm 2002- 2009
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2009.
Tên nƣớc
786,524
701,014
1.055,202
1421,615
1,700,041
2.015,128
2.025,465
2.161,577
Cam
pu chia
735,662
636,631
894,886
1.109,883
1215,106
1.623,943
1.736,788
2.008,363
Lào
301,024
269,205
313,066
313,737
263, 514
248, 076
193,319
243,278
Myan
ma
10.862,976
10.872,109
11.737,413
11.516,936
13.838,488
14.464,228
14.323,221
14.149,841
Thái
Lan
2627,988
2.418,735
2.927,873
4.367,788
3.583,486
4.229,349
4.253,740
3.772,359
Việt Nam
1.303,550
1.000,101
1.101,000
1.502,817
1.810,017
2.219,030
2.502,170
2.844,902
Tỉnh Vân
Nam, TQ
1.363,400
650,200
1.175,800
1.461,600
1.707,729
1.245,056
1.200,138
2.098,000
Tỉnh
Quảng
Tây, TQ
Tổng cộng
17.991,124
15.767,725
19.205,160
20.794,296
24.118,381
26.044,810
26.334,841
24.433,418
Bảng 3: Thống kê lượt khách quốc tế đến du lịch GMS năm 2002- 2009
63
Nguồn: Ủy hội Mekong năm 2015
64
Tương tự, số lượt khách qua cảng Houayxay - Lao PDR cũng tăng
đáng kể trong các năm từ 2007-2014.
5,000,000
4,500,000
4,000,000
3,500,000
3,000,000
2,500,000
2,000,000
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
1,500,000
Total inbound tourists
1,623,900 1,736,800 2,008,400 2,513,000 2,723,600 3,330,100 3,779,000 4,335,900
Tourist arrivals via the Mekong River (in the Lao
49,299
53,448
51,477
45,712
47,112
39,583
49,682
47,824
1,000,000
PDR)
Biểu đồ 1. Thống kê lƣợng khách du lịch qua cảng Houayxay - Lao PDR
500,000
Thống kê lượng khách du lịch qua cảng Houayxay - Lao PDR
Nguồn: Ủy hội Mekong năm 2015.
0
Từ ngày 15-18/6/2015, trong khuôn khổ hợp tác Tiểu vùng Mekong mở
rộng (GMS), Việt Nam đăng cai tổ chức Diễn đàn Du lịch Mekong 2015 và
các phiên họp liên quan tại TP Đà Nẵng.
Với chủ đề: Khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch GMS thông qua quan
hệ đối tác mới là dịp để các nước trong khu vực GMS khẳng định vai trò, vị
thế của mình trong lĩnh vực du lịch, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm phát triển
du lịch, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ nổi bật tới bạn bè quốc tế. Tham dự
diễn đàn lần này có các cơ quan du lịch các nước Việt Nam, Campuchia, Lào,
65
Myanmar, Thái Lan và Trung Quốc.
(Nguồn: http://baodautu.vn/khai-thac-tiem-nang-du-lich-tieu-vung-me-
kong-mo-rong-d28462.html)
Tại hội nghị trong khuôn khổ Diễn đàn Du lịch Mekong, ông Lê Khánh
Hải, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch phát biểu: Việt Nam rất vui
mừng được đăng cai tổ chức Diễn đàn lần này tại Thành phố Đà Nẵng, thành
phố trọng điểm du lịch quốc gia và là điểm kết thúc của Hành lang kinh tế
Đông Tây.
Diễn đàn năm nay thực sự là dịp tốt để cơ quan du lịch quốc gia trong
khu vực, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp du lịch thảo luận đưa ra những đề
xuất đẩy mạnh hợp tác công - tư, tăng cường nguồn lực cho đầu tư phát triển
sản phẩm, xúc tiến quảng bá. Đó sẽ là những điều kiện quan trọng cho việc
66
triển khai Kế hoạch marketing du lịch Tiểu vùng giai đoạn 2015-2020, hướng
tới mục tiêu đưa Tiểu vùng Mekong trở thành một điểm đến hấp dẫn chung
đối với du khách”.
Thời gian qua, các quốc gia trong khu vực thu hút được sự quan tâm
của du khách, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Năm 2014, lượng khách du
lịch tới GMS đã đạt gần 54 triệu lượt, chiếm 20,5% tổng lượng khách du lịch
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Các hoạt động du lịch đã mang lại thu
nhập hơn 61 tỷ USD, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp đáng kể
vào GDP của các nước, góp phần tích cực cho xóa đói giảm nghèo. Theo
đánh giá của ông Hải : Đạt được kết quả trên, bên cạnh nỗ lực hợp tác của
các Chính phủ, đóng góp tích cực của các bên liên quan, phải nhắc đến vai
trò của các doanh nghiệp, hiệp hội, các nhà đầu tư trực tiếp tham gia vào quá
trình thúc đẩy phát triển du lịch khu vực”.
Theo số liệu của Tổ chức Du lịch Thế giới, từ năm 2002, lượng khách
quốc tế đến GMS đã tăng liên tục, với mức tăng trưởng trung bình khoảng
12%/năm. Năm 2014, Tiểu vùng đón gần 54 triệu lượt khách quốc tế, tăng
8,2% so với năm 2013, chiếm khoảng 20% tổng lượng khách đến châu Á -
Thái Bình Dương; doanh thu du lịch quốc tế đạt trên 61 tỷ đô-la Mỹ. Đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của du khách, các sản phẩm du lịch, hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật dịch vụ và nguồn nhân lực phục vụ du lịch đang từng bước được
đầu tư, tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng.
Dự báo trong năm 2016 và các năm tiếp theo, Du lịch Tiểu vùng
Mekong mở rộng sẽ phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức bởi tác
động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, bất ổn chính trị ở một số khu
vực và chịu sự cạnh tranh lớn hơn từ các quốc gia, khu vực khác đang đẩy
mạnh đầu tư, quảng bá cho phát triển du lịch. Nhằm vượt qua thử thách, đảm
bảo đà tăng trưởng bền vững của Du lịch Tiểu vùng, Ngành Du lịch 6 nước
GMS cần tiếp tục nỗ lực, đóng góp có trách nhiệm vào sự phát triển chung và
67
tranh thủ hỗ trợ, hợp tác từ các nhà đầu tư chiến lược, đối tác phát triển để
đưa ra các sản phẩm du lịch mới với chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh
với những khu vực khác trên thế giới, khẳng định được thương hiệu du lịch
Tiểu vùng trên cơ sở sức mạnh thương hiệu của dòng sông Mekong, thu hút
đông đảo và đáp ứng nhu cầu của các đối tượng khách du lịch trong và ngoài
khu vực.
Trên tinh thần đó, Diễn đàn Du lịch Mekong 2015 diễn ra trong 4 ngày
(từ 15-18/6/2015), Diễn đàn bao gồm nhiều sự kiện quan trọng như Hội nghị
Du lịch Mekong, phiên họp Nhóm công tác Du lịch Mekong lần thứ 35 và các
hội thảo chuyên đề về sản phẩm du lịch, marketing và đầu tư du lịch, được
chủ trì bởi Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Lãnh đạo Tổng cục Du
lịch và Lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Toàn bộ sự kiện của Diễn đàn sẽ thu hút trên 600 lượt đại biểu tham dự.
Các phiên họp kỹ thuật sẽ là dịp để Cơ quan Du lịch Quốc gia các nước trong
khu vực GMS và các đối tác phát triển thảo luận về dự thảo Chiến lược Du
lịch GMS, bao gồm Chiến lược Marketing GMS, Kế hoạch hành động GMS
và các Dự án ưu tiên giai đoạn 2015-2020, cũng như vị trí pháp lý của
Văn phòng Điều phối các hoạt động hợp tác du lịch Tiểu vùng Mê Kông mở
rộng (MTCO).
Ba hội thảo chuyên đề là các sự kiện dành cho tất cả các đại biểu quan
tâm đến du lịch khu vực GMS, thu hút sự tham gia trình bày, đóng góp ý
kiến của nhiều học giả và chuyên gia hàng đầu đến từ các tổ chức, doanh
nghiệp quốc tế uy tín như Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Hiệp hội Du
lịch châu Á - Thái Bình Dương (PATA), Hiệp hội Du lịch Mạo hiểm
(ATTA), Facebook, Tripadvisor,… Các hội thảo này không chỉ tạo cơ hội để
các cá nhân và tổ chức hoạt động trong lĩnh vực du lịch và liên quan gặp gỡ,
kết nối, chia sẻ kinh nghiệm mà còn hỗ trợ trong việc định hướng xây dựng
các sản phẩm đặc thù, quảng bá thương hiệu và thu hút đầu tư theo những xu
68
hướng nổi bật nhất hiện nay của du lịch thế giới.
Bảng 4: Thị trƣờng phân bố theo các nƣớc trong khu vực tiểu vùng
Sông Mekong năm 2014( đơn vị : USD)
(Nguồn : http://www.mekongtourism.org/about/tourism-performance/)
Key Indicators |
Lao PDR Myanmar Thailand
Vietnam
Total
Top Ten thị trƣờng các
Cambodia
Year 2014
4,636,298 2,613,418
1,947,236 332,994 246,874
422,440 24,312 2,043,761 1,108,332 96,085 44,877 13,340
560,335 144,437 279,457 905,801 424,424 215,788 108,601 460,191 191,366 134,167 133,306 65,855 141,052 84,143 28,529
97,528
61,460 44,964 39,061 9,621 52,146 29,800 4,547 15,342 5,478
125,609 46,532 198,229 - 58,472 83,434 4,835 - 62,631 29,175 40,921 47,692 41,453 32,265 32,306 - 32,664
559,415 1,122,566 1,267,886 1,606,430 1,053,983 763,520 831,854 907,877 844,133 635,073 715,240 932,603 550,339 394,149
847,958 647,956 364,873 136,636 443,776 321,089 202,256 202,436 213,745 142,345 - 404,159 388,998
Total 7,691,918 3,161,693 2,768,321 2,573,548 2,549,505 2,259,941 2,098,079 1,650,810 1,522,753 1,361,249 1,323,421 1,169,737 1,083,469 1,003,793 997,985 969,840 918,817
1 China (PRC) nƣớc 2 Malaysia 3 Thailand 4 Vietnam 5 Korea (ROK) 6 Japan 7 Russia 8 Lao PDR 9 USA 10 Australia 11 UK 12 Singapore 13 France 14 Germany 15 India 16 Cambodia 17 Taiwan
Nguồn : Các nước thành viên GMS, ADB, PATA, WTTC
Bảng 5 : Thống kê lƣợt khách GMS năm 2015
( đơn vị tính : ngƣời ,ngày , %)
(Nguồn : http://www.mekongtourism.org/about/tourism-performance/)
Chỉ
Cambodi
Lao PDR
Myanma
Thailan
Vietnam China |
China |
Khách du lịch số |
a
r
d
Yunnan
Guangxi
4,775,231
4,684,429
4,681,020
29,881,091 7,943,651
3,824,88
2,094,90
1 Số lượt khách quốc tế đến
Năm
2 Thời gian trung
6.80
4.75
9.00
9.69
9.70
quốc tế
0
2.13 0
3 Khu vực đến bình ở lại (
2015
3,558,728
4,328,017
938,487
21,275,750 4,951,494
2,580,98
1,505,70
3.1 Chấu Á – ngày)
719,134
217,307
224,733
5,629,122
1,208,365
3.2 Châu Âu TBD Bình
766,453 6
338,900 0
315,526
88,987
93,441
1,235,095
581,234
298,011
183,900
3.3 Châu Mỹ Dương
3.4 Châu Đại
157,960
39,463
35,566
921,355
335,681
120,066
55,700
9,238
10,65
3,829
161,640
507,09
6,847
5,700
3.5 Châu Phi Dương
3.6 Trung Đông 14,645
5,527
658,129
-
-
5
1
Chi tiết %
78.95
-
11.11
25.79
84.44
-
4 % khách tới
50.50
18.92
-
88.88
73.66
14.96
-
5 % khách tới
47.40
bằng máy bay
2.14
-
-
0.55
0.60
-
6 % khách tới
2.10
bằng đường bộ
bằng đường
sông
69
- Về dự án phát triển du lịch Mekong (MTDP): Dự án MTDP được ADB tài
trợ, giúp cải thiện cơ sở hạ tầng liên quan đến du lịch tại các quốc gia GMS (
Campuchia, Lào, Việt Nam), hỗ trợ các dự án du lịch dựa vào cộng đồng tại
khu vực nông thôn, hỗ trợ sự tham gia của khu vực tư nhân trong xúc tiến và
marketing du lịch, thiết lập cơ chế nhằm củng cố hợp tác khu vực, và hỗ trợ
lưu chuyển du khách xuyên biên giới. Sau đây là những kết quả chính của dự
án :
- Tại Lào:
+ Chợ đêm Luang Namtha :
Địa điểm này đã trở thành điểm tập trung của người dân Luang
Namtha, đây là một trong rất ít các địa điểm không gian công cộng của thị xã,
là nơi sinh tồn của 57 phụ nữ và 3 nam giới bán hàng ăn và đồ thủ công. Có
khoảng 200 nhà sản xuất các sản phẩm nông nghiệp và thủ công sống tại thôn
bản lân cận. Theo điều tra năm 2009, dự kiến chợ này tạo ra doanh thu hàng
năm tối thiểu 211,000 USD cho những người bán hàng so với 0 USD năm
2006 trước khi dự án MTDP hỗ trợ [4, tr.35]
+ Trung tâm Văn hóa Ban Vieng Neua:
Trung tâm này là một trong những điển hình về chương trình tái định
cư thành công, sáng kiến hỗ trợ di sản phi vật thể, với sự thành công vừa phải
về du lịch. Ban Vieng Neua được tái định cư (500- 800m so với vị trí hiện
tại), nhằm tái xây dựng đường băng của sân bay Luang Namtha. Dự án
MTDP đã phối hợp với thôn để lập ra nhóm biểu diễn nhạc Tai Kalorm (một
nhóm dân tộc sống tại khu vực), và xây dựng một bản sao ngôi nhà truyền
thống của dân tộc Tai Kalorm , là nơi thôn bản tổ chức các hoạt động chiêu
đãi bao gồm các đồ ăn truyền thống, biểu diễn nhạc, múa. Khoảng 16 thanh
niên nam nữ hiện nay đã trở thành những nghệ sĩ tài năng và thường xuyên
67
được mời biểu diễn nghệ thuật cho các phái đoàn chính thức[34]. Họ cũng
biểu diễn tại các lễ hội trong tỉnh, trong khu vực và biểu diễn trên sân khấu tại
các nhà hàng địa phương.
+ Thác Ban Nam Dee :
Ban Nam Dee là thôn bản đầu tiên bạn phải đi qua trên đường tới Ban
Sida. Ở đây, cộng đồng dân tộc Lanten đã được trao „Ủy thác cộng đồng‟ để
vận hành thác nước Nậm Dee gần đó. Dự án MTDP đã hỗ trợ để có cơ chế
này giữa các cấp có thẩm quyền của tỉnh và thôn bản vào năm 2007. Cộng
đồng đã vạch ra một cơ chế quản lí theo cộng đồng một cách hết sức ấn
tượng, trong đó họ phân phối 50% phí tham quan như “cổ tức” thường niên
cho từng hộ trong số 59 hộ gia đình sống ở nơi đó, ngoài ra còn có nhiều ki ốt
bán hàng tại điểm đó được xây dựng với sự hỗ trợ của dự án MTDP để người
thôn bản bán hàng thủ công, đồ ăn, đồ uống.
+ Dã ngoại tại Luang Namtha :
Với sự hỗ trợ của ADB và các đối tác phát triển khác như UNESCO và
cơ quan viện trợ New Zealand, Luang Namtha ngày nay được công nhận là
trung tâm dã ngoại và các hoạt động du lịch sinh thái tại Lào. Năm 1999, nơi
đây chưa có tuyến dã ngoại trong rừng, được cấp phép chính thức và không
có công ty điều hành du lịch nào của tư nhân tại tỉnh. Ngày nay có tới 13
công ty điều hành du lịch địa phương, trên 70 tuyến đường dã ngoại và
khoảng 130 thôn bản tham gia vào các hoạt động du lịch. Sự thay đổi về
lượng khách du lịch một phần là do ADB tài trợ cho sân bay tại Luang
Namtha.
- Tại Campuchia :
Hỗ trợ của dự án MTDP nhằm cải thiện tiếp cận đường bộ tới khu
tưởng niệm nạn diệt chủng tạo ra hàng chục việc làm và cơ hội cho người dân
địa phương bán hàng tại Khmer, làm tăng giá đất ít nhất lên 10 lần. Các điểm
này cũng được quản lí môi trường tốt hơn, đặc biệt là thoát nước. Nơi này
68
thường được gọi là cánh đồng chết, là một điểm nhấn minh họa đầy sinh động
về việc một dự án cơ sở hạ tầng giúp chuyển một nơi thương đau thành cơ hội
cho người nghèo.
- Tại Việt Nam :
Cầu cảng sông Mỹ Tho: là một trong những điểm nối đến các cù lao
trên đồng bằng sông Cửu Long, với cầu cảng này lượng khách thăm quan đến
các khu vườn của nông dân và các sáng kiến du lịch dựa vào cộng đồng khác
đang lên. Ví dụ: một hợp tác xã địa phương hiện đang sử dụng 100 lao động
nữ để chèo thuyền cho khách tham quan qua các con kênh và các vườn hoa
trái, họ hưởng mức lương trên 100.000 VND mỗi ngày [15,25]. Đây là điểm
đến được ghi nhận trong các chương trình du lịch về những việc cần làm
ngoài thành phố Hồ Chí Minh.
Tiếp đến có thể kể đến dự án Marketing và xúc tiến du lịch : tất cả các
nước GMS (chi phí ước tính 5 triệu USD), liệu tiểu vùng sông Mekong có đạt
60 triệu lượt khách du lịch vào năm 2020? Văn phòng điều phối Du lịch
Mekong (MTCO) đã xây dựng một chương trình marketing và xúc tiến nhằm
đạt được 60 triệu khách du lịch quốc tế đến tiểu vùng sông Mekong vào năm
2020. Chiến dịch khám phá dòng Mekong với khẩu hiệu: “ Sáu quốc gia….
Một dòng sông‟‟. [11, tr. 1]
Các nước tiểu vùng sông Mê Kông là điểm đến du lịch phát triển nhanh
nhất trên thế giới – mang lại nguồn ngoại hối cao, tạo việc làm, góp phần
đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Các nước GMS có một lợi thế cạnh tranh
trong du lịch - thể hiện bằng tỷ lệ tăng trưởng cao - nhưng cần phải khai thác
du lịch hiệu quả hơn là công cụ để giảm nghèo và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế trên diện rộng. Tăng trưởng trong tương lai trong lĩnh vực này là hạn chế,
tuy nhiên, do thiếu sự quảng bá du lịch và tiếp thị các nỗ lực phối hợp, khó
khăn trong việc tiếp cận, thiếu cơ sở hạ tầng du lịch và thiếu chính sách và
69
năng lực thể chế để thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân, và sự miễn
cưỡng nói chung để tạo điều kiện chuyển động của khách du lịch để và trong
tiểu vùng.
Du lịch trong GMS đã ngày càng trở nên đa quốc gia; trong bối cảnh
ngành công nghiệp du lịch thế giới cạnh tranh cao, GMS có thể tồn tại và phát
triển nếu chỉ nó thúc đẩy các tiểu vùng như một điểm đến du lịch duy nhất.
Các nước GMS đã nhận ra lợi thế của việc hợp tác để phát triển sản phẩm
mới, cải thiện môi trường chính sách và năng lực thể chế, tăng cường quảng
bá và tiếp thị, và thiết lập quan hệ đối tác giữa khu vực công và tư nhân. Hợp
tác tiểu vùng là do quan trọng cho sự tăng trưởng liên tục của du lịch trong
tiểu vùng.
3.2. Một số định hƣớng phát triển
Sau 16 năm hình thành và phát triển, chương trình hợp tác tiểu vùng
sông Mekong đã đạt thêm nhiều thành tựu, tổng xuất khẩu các nước GMS đã
tăng : 400% (riêng năm 2005 xuất khẩu nội tiểu vùng đã tăng 15 lần so với
năm 1992), đầu tư nước ngoài vào các nước GMS tăng 4 tỉ USD chỉ trong
vòng 4 năm (2002-2006), số lượng du khách hàng năm đến tiểu vùng tăng từ
10 triệu năm 1995 lên 22 triệu năm 2006 [11, tr. 35], những con số trên cho
thấy chặng đường đã qua của GMS đã tiến dần tới mục tiêu chung là thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo và nâng cao
đời sống nhân dân dọc lưu vực sông này. Hiện tại có thể chỉ ra một số điểm
cần quan tâm khi hợp tác phát triển kinh tế như sau :
Đặc trưng văn hóa các cộng đồng cư dân – tộc người ở tiểu vùng sông
Mekong:người San (Thái) các nhóm Yoang, Yung, Nòi, Lự, Karen…
(Mianmar); Thái, Sản… (Thái Lan); Lào (Lào), Khơme, Hoa… (Campuchia);
Khơme, Hoa, Việt, Chăm… (Việt Nam); v.v…Các sản phẩm du lịch của các
địa phương tiểu vùng sông Mekong, công tác quảng bá sản phẩm, nhân lực
cần thực hiện. Phát triển sản phẩm du lịch dựa trên giá trị văn hóa các tộc
70
người ở tiểu vùng sông Mekong. Cần xác định rõ thực trạng hoạt động du
lịch, nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch ở các nước
thuộc tiểu vùng sông Mekong.
- Hướng khai thác phát triển du lịch ở tiểu vùng sông Mekong dựa trên
tiềm năng du lịch của tiểu vùng: du lịch sinh thái, du lịch trị bệnh, du lịch tâm
linh, du lịch văn hóa, du lịch mice, du lịch mạo hiểm, du lịch làng nghề…
- Cần phải liên kết trong hoạt động du lịch giữa các địa phương của tiểu
vùng.Kết hợp kinh nghiệm của các địa phương trong xây dựng và khai thác
tài nguyên, thế mạnh du lịch của tiểu vùng.
- Định hướng giải pháp, cơ chế chính sách cho hợp tác giữa các quốc
gia trong tiểu vùng nhằm phát triển du lịch có trách nhiệm với môi trường và
xã hội, phát triển du lịch bền vững.
- Định hướng cho việc hợp tác, phối hợp của các doanh nghiệp trong
việc đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng sản phẩm, tour tuyến du lịch, quảng bá
xúc tiến du lịch, đầu tư du lịch...
- Sản phẩm du lịch của Tp.Hồ Chí Minh (ẩm thực, hàng lưu niệm, du
lịch đường sông, sự liên kết trong hoạt động du lịch giữa thành phố Hồ Chí
Minh với các địa phương….
Tiến dần đến thực tế, ngày 20/12/2014 tại Bangkok, Thái Lan, với chủ
đề “Đạt tới sự phát triển bền vững và toàn diện trong khu vực tiểu vùng”, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng các nhà lãnh đạo các nước thành viên GMS
thảo luận các ý kiến để hiện thực hóa tầm nhìn của GMS trong tương lai. Chú
trọng đến một số vấn đề như sau :
- Tài nguyên nước lưu vực sông Mekong là một thể thống nhất, không
thể chia cắt. Muốn đánh giá tài nguyên, dự báo sự biến động của tài nguyên
và môi trường sinh thái cần tiến hành các điều tra cơ bản, nghiên cứu chuyên
đề, thực nghiệm kĩ thuật trong toàn khu vực, từng quốc gia ven sông riêng lẻ
không thể làm được mà cần có sự phối hợp hoạt động trong Ủy ban sông
71
Mekong quốc tế.
- Các quốc gia ven sông đều có quyền lợi và nghĩa vụ trong việc khai
thác tài nguyên nước và các tài nguyên khác có liên quan trong khu vực
Mekong như đã nêu ở trên. Để đáp ứng được các quyền lợi chính đáng của
mình và của các nước khác trong khu vực, các nước ven sông cần phối hợp
nghiên cứu quy hoạch, khai thác tài nguyên nước có liên quan (đất, rừng, thủy
sản, thủy điện, môi trường sinh thái…) trong Ủy ban Mekong quốc tế.
Nguyên tắc chung là tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau và tìm mọi biện
pháp để đáp ứng. Trường hợp không thể đáp ứng được hoặc phát sinh mâu
thuẫn thì phải cùng nhau điều chỉnh lợi ích chung và riêng, trên cơ sở các biện
pháp công trình hợp lí và các nguyên tắc pháp lí quốc tế mà các bên có thể
chấp nhận, chính vì vậy mà Ủy ban Mekong quốc tế hợp tác theo nguyên tắc
nhất trí.
- Nhìn lại quá trình hợp tác Mekong thấy rõ quá trình này đang chuyển
từ hợp tác mang nặng màu sắc chính trị sang hợp tác kinh tế. Từ khi mới
thành lập năm 1957, đất nước ta bị chia cắt, miền Bắc là tiền đề của xã hội
chủ nghĩa. Các nước tư bản đứng đầu là Mĩ, không muốn thông qua việc
thành lập Ủy ban Mekong để tập hợp các nước ven sông chống lại sự ảnh
hưởng của chủ nghĩa xã hội đối với phía Nam. Hoạt động của Ủy ban từ
1957- 1975 mang màu sắc chính trị là chủ yếu. Một số quy hoạch phát triển
được lập trên cơ sở “ Quy hoạch chỉ đạo phát triển lưu vực” 1970 là để phục
vụ cho kế hoạch phát triển hậu chiến của Mĩ. Thời kì Ủy ban Mekong lâm
thời 1978-1995, lúc này nước Việt Nam đã thống nhất. Cuộc chiến tranh lạnh
đang diễn ra căng thẳng trên quy mô toàn cầu, sự hợp tác Mekong trong thời
gian này chủ yếu là để phục vụ cho việc ổn định khu vực và để các nước tìm
hiểu lẫn nhau.
- Hiệp định về hợp tác phát triển bền vững lưu vực Mekong được bốn
quốc gia kí kết vào tháng 4 năm 1995. Lần đầu tiên trong lịch sử hợp tác
72
Mekong đề cập đến khái niệm “phát triển bền vững”, các vấn đề về bảo vệ
môi trường và sự cân bằng sinh thái được nhấn mạnh. Hiệp định cũng đề cập
tới việc xây dựng quy hoạch phát triển lưu vực, việc giám sát tài nguyên nước
(cả số lượng và chất lượng), việc bồi thường thiệt hại, các quy định về bảo vệ
dòng chảy tối thiểu, tối đa của dòng sông… rõ ràng hiệp định đề cập nhiều tới
nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế. Ngoài ra, cánh cửa của Hiệp định cũng mở
cho các nước thương lưu gia nhập Ủy hội. Từ khi hiệp định được kí kết đến
nay các nước thành viên, đặc biệt là Thái Lan đấu tranh không mệt mỏi cho
việc tham gia của Trung Quốc và Mianma vào Ủy hội, có thể đưa ra hai lí do:
thứ nhất: Trung Quốc là nước thượng lưu của Thái Lan và Thái Lan cần thông
tin về hợp tác có liên quan đến nguồn nước ( số lượng và chất lượng nước) và
việc xây dựng các công trình của Trung Quốc có thể gây hại trực tiếp cho
Thái Lan. Nếu Trung Quốc là thành viên thì Thái Lan sẽ có thông tin và việc
đấu tranh dễ dàng hơn. Thứ 2, nếu Trung Quốc và Mianma là nước thành
viên thì sự đối trọng của các nước thượng lưu với các nước hạ lưu (Việt Nam,
Campuchia) sẽ tăng lên.
Rõ ràng qua những điều trên ta thấy: Xu hướng hợp tác Mekong về
kinh tế đang được đẩy mạnh, nhất là từ khi Việt Nam, Lào, Campuchia lần
lượt ra nhập ASEAN thì nhu cầu hợp tác vì sự phát triển kinh tế ngày càng
tăng. Tất cả các nước thành viên đều cần có Ủy hội sông Mekong (khác với
trước đây Thái Lan cho rằng bị ràng buộc) vì nước này là hạ lưu của nước
khác. Sự phát triển thiếu hợp tác của bất kì nước ven sông nào cũng có thể
gây hại cho các nước ven sông kia, vì vậy sự tồn tại của Ủy hội Mekong là
nhu cầu tất yếu.
- Hiện tại sự phát triển kinh tế của lưu vực Mekong được đánh giá là
năng động. Đa số các hoạt động kinh tế có liên quan đến sử dụng nguồn nước
của các nước nằm trong lưu vực chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: phát triển
nông nghiệp có tưới; phát triển thủy điện; phát triển giao thông thủy; tạo
73
nguồn nước cho sinh hoạt và phục vụ dân sinh. Tất cả các hoạt động này đều
cần lượng nước rất lớn. Nguồn nước Mekong ngày càng giảm. Mùa kiệt, mặn
từ biển xâm nhập vào đất liền, khả năng xây dựng các hồ chứa nước lớn để
điều tiết thêm nguồn nước vào mùa cạn kiệt và giảm lũ vào mùa mưa trước
mắt còn rất khó khăn vì không được ủng hộ do vấn đề môi trường và di dân.
Hiện tại vấn đề Trung Quốc xây dựng khoảng 8 đập thủy điện lớn tại thượng
nguồn Mekong ở Vân Nam [13] gây nên những khó khăn về nguồn nước cho
các quốc gia hạ lưu. Sông Mekong vùng hạ lưu có độ dốc nhỏ khó xây dựng
các hồ chứa lớn để điều tiết dòng chảy, hiệu ích kinh tế của các bậc thang
thấp nên không hấp dẫn đầu tư. Các hồ chứa nước xây dựng trên các nhánh
sông để phát điện ở Việt Nam (Yaly…) và ở Lào ( Nậm Ngừm, Nậm
Thom…) điều tiết dòng chảy nhỏ. Trong lúc nhu cầu phát triển các nước lại
rất lớn, nhất là Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam. Vì vậy tranh chấp nguồn
nước đã xảy ra và điều đó buộc các quốc gia phải suy tính chuyện chia sẻ
công bằng và hợp lí nguồn tài nguyên nước trên cơ sở hiệp định đã kí kết.
Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mekong (gọi tắt là
Hiệp định Mekong) ra đời trong bối cảnh có một xu thế toàn cầu về các mối
quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển đang được
các quốc gia trên toàn thế giới hưởng ứng. Khái niệm:“ phát triển bền vững”
lần đầu tiên được công nhận chính thức trong văn kiện hợp tác Mekong. Văn
kiện là tiền đề để thành lập Ủy hội sông Mekong quốc tế (Mekong River
Commission- MRC) và đồng thời tạo một khung phát triển tài nguyên nước
và các tài nguyên khác có liên quan của sông Mekong. Các chương trình hoạt
động tập trung ưu tiên đề cập đến các vấn đề quản lí tài nguyên và môi trường
xuyên biên giới và tạo điều kiện, hỗ trợ các dự án phát triển toàn khu vực và
quốc gia.
Các lĩnh vực hợp tác trong Ủy ban sông Mekong quốc tế được xác định
rõ trong lĩnh vực hợp tác (điều 1) của hiệp định, đề cập đến: “tài nguyên
74
nước và các tài nguyên có liên quan… bao gồm các lĩnh vực tưới tiêu, thủy
điện, giao thông thủy, phòng lũ, thủy sản, thả bè, giải trí, du lịch”[1]. Các
quốc gia ven sông luôn ý thức được sự phát triển kinh tế- xã hội liên tục và
ngày càng tăng nhanh trong từng quốc gia sẽ phụ thuộc rất nhiều vào các kế
hoạch phát triển tổng hợp thích hợp và kịp thời trong lưu vực, điều 2 trong
Hiệp định về dự án, chương trình và lập quy hoạch nhấn mạnh việc các quốc
gia ven sông thỏa thuận: “thúc đẩy, hỗ trợ, hợp tác và phối hợp trong việc
phát triển mọi tiềm năng vì lợi ích vững bền của tất cả các quốc gia ven sông
và ngăn ngừa sử dụng lãng phí nước khu vực sông Mekong, chú trọng phát
triển các dự án chung hoặc có quy mô lưu vực và các chương trình lưu vực
thông qua việc lập một quy hoạch phát triển lưu vực nhằm xác định, phân
loại và ưu tiên hóa cho các dự án, chương trình để tìm viện trợ và thực hiện ở
cấp khu vực”. [14] Quy hoạch phát triển lưu vực đó sẽ là kim chỉ nam cho tất
cả các dự án, chương trình hợp tác phát triển trong lưu vực thuộc các ngành
kinh tế nêu trên.
Song song với việc lập phương hướng khai thác và phát triển dòng
sông, Hiệp định Mekong cũng nhấn mạnh các nguyên tắc cơ bản phổ biến
quốc tế như bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái ( điều 3); bình đẳng chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ (điều 4). Một trong những nguyên tắc cơ bản đối
với phát triển bền vững tài nguyên nước nói chung và việc phân chia nước,
đặc biệt phân chia nguồn nước của một dòng sông quốc tế ( điều 5) quy định
khá cụ thể những hoạt động sử dụng nước trong mùa khô, mùa mưa; trên
dòng chính và các nhánh cùng với cơ chế thông tin, thông báo và trao đổi ý
kiến giữa các quốc gia thành viên về hoạt động sử dụng nước. Nhằm tạo lập
một cơ chế sử dụng nước cân bằng giữa các nhu cầu nước để thỏa mãn đồng
thời mục tiêu phát triển tổng hợp tài nguyên nước và các nguyên tắc về bảo vệ
môi trường và không gây hại, trên cơ sở đảm bảo nhu cầu khai thác, phát triển
các nguồn tài nguyên có liên quan trong khu vực, điều 26 của Hiệp định
75
Mekong nêu ra việc đảm bảo nhu cầu quyền lợi hiện tại một cách công bằng
hợp lí cho các quốc gia ven sông và duy trì hơn nữa khả năng khai thác tài
nguyên nước của sông Mekong cho các thế hệ sau ( tính bền vững).
Để hợp tác phát triển tiểu vùng ngày càng phát triển cần có những sáng
kiến nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác láng giềng thân thiện và hiểu biết
lẫn nhau trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh biên giới giữa
các nước trong tiểu vùng, giảm thiểu những mâu thuẫn trong nội bộ tiểu vùng,
triệt tiêu những cạnh tranh không đáng có; tham gia tích cực vào tiến trình
khu vực hóa trong đó có lộ trình thực hiện AFTA và quá trình cùng nhau giải
quyết những vấn đề đặt ra giữa Trung Quốc và ASEAN, có như vậy hợp tác
kinh tế GMS mới toàn diện, góp phần đem lại sự phồn vinh thịnh vượng trong
phát triển bền vững, đồng đều và hợp tác.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng du lịch cần khẩn trương, cần thiết, cũng như
các khoản đầu tư vào người nghèo, du lịch phải dựa vào cộng đồng trong khu
vực GMS. Người nghèo phải chia sẻ những lợi ích của du lịch, họ cũng cần
phải tham gia tích cực vào sự phát triển của nó. Ở cấp độ chính sách và thể
chế, các vấn đề liên quan đến quan hệ đối tác giữa khu vực công và tư nhân,
chất lượng sản phẩm và dịch vụ du lịch, và tăng cường tiếp cận với các tiểu
vùng cần được giải quyết khẩn trương.
Phần lớn các sáng kiến hàng đầu phát triển du lịch GMS đều nhằm mục
đích: thúc đẩy và tăng cường hợp tác tiểu vùng và phát triển du lịch ở các
nước GMS, và thúc đẩy du lịch tăng trong GMS để tăng thêm thu nhập, xóa
đói giảm nghèo, giảm thiểu suy thoái môi trường.
Sáu chương trình đại diện cho các vấn đề quan trọng cần được giải
quyết để duy trì sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành du lịch trong khu vực
tiểu vùng, đảm bảo sự phát triển bền vững như :
Thúc đẩy các tiểu vùng như một điểm đến du lịch duy nhất.
Phát triển cơ sở hạ tầng du lịch liên quan.
76
Cải thiện nguồn nhân lực trong ngành du lịch.
Thúc đẩy du lịch bền vững vì người nghèo dựa vào cộng đồng.
Khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong ngành du lịch
GMS.
Tạo thuận lợi cho sự di chuyển của du khách đến và đi trong GMS.
Hầu hết các chương trình này đã là một phần của chương trình hợp tác
của Nhóm công tác du lịch GMS.
Các nước tăng cường các nỗ lực xúc tiến du lịch chung, tiếp thị của các
nước GMS dưới sự điều phối của Cơ quan Điều phối Mekong Hoạt động Du
lịch (AMTA) dự kiến sẽ thúc đẩy các GMS như một điểm đến du lịch duy
nhất. Đối với các chương trình khác, các thành phần được xác định cho đến
nay là một phần của một dự án đầu tư hỗ trợ của ADB đề xuất sang
Campuchia, Lào, và Việt Nam phát triển du lịch trong năm 2002. Dự án đầu
tư này, với đề nghị vay vốn của Mỹ khoảng $ 35 triệu Usd, bao gồm các giai
đoạn: cải thiện cơ sở hạ tầng du lịch liên quan, hỗ trợ người nghèo, phát triển
du lịch dựa vào cộng đồng, hợp tác tiểu vùng du lịch bền vững và hỗ trợ thực
hiện và tăng cường thể chế.
Ngoài việc thúc đẩy GMS như một điểm đến du lịch duy nhất - một
hoạt động liên tục của Nhóm công tác du lịch GMS - các thành phần xác định
của năm chương trình khác cho du lịch được lên kế hoạch thực hiện trong giai
đoạn 2003-2008. Ước tính tổng chi phí của tất cả các dự án và sáng kiến du
lịch có liên quan, của sáu nước GMS tổ chức du lịch quốc gia vào quỹ
marketing GMS, khoảng 62.000.000 usd. [13, tr. 24].Các nước được sự hỗ trợ
của ngân hàng ADB về Dự án phát triển Du lịch Mekong ở Campuchia, Lào
và Việt Nam. Mỹ đầu tư 47 triệu đô cho dự án phát triển du lịch Mekong
trong đó: 35 triệu đô đến từ các khoản cho vay theo kế hoạch đến Campuchia,
Lào, và Việt Nam trong năm 2002 và 12 triệu đô đến từ ba chính phủ tham
gia [13, tr. 29]. Có một khoảng tài chính được xác định khoảng 15 triệu đô,
77
kinh phí được tìm kiếm được từ các dự án du lịch.
Một số nguồn tiềm năng lớn của quỹ tồn tại cho các đề xuất khác nhau:
Chính phủ, cơ quan phát triển đa phương và các cơ quan cho vay quốc tế, đầu
tư tư nhân trực tiếp nước ngoài và địa phương,các quỹ cổ phần tư nhân quốc
tế, và thị trường vốn quốc tế và trong nước.
3.3. Triển vọng hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng
Tiềm năng to lớn và nhiều mặt cho phép xây dựng tiểu vùng thành
vùng công nghiệp phát triển.
Về vị trí địa lí tiểu vùng : đây là bản lề, là ngã ba đường nối ba vùng
Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Nam Á (Ấn Độ, Bănglađét…) lại với nhau, là
những vùng năng động và phát triển mạnh nhất trong thế kỉ tới, do đó ngày
càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ.
Tình hình chính trị Campuchia và Mianma đang có xu hướng ổn định
và tốt dần lên, góp phần tạo môi trường quốc tế thuận lợi phát triển cho từng
nước và cả tiểu vùng.
Các quốc gia trong tiểu vùng GMS ngày càng nhận thức sâu sắc rằng
phải phối hợp hợp tác và tăng cường liên kết, hợp tác với nhau thì mới có thể
khai thác và sử dụng có lợi, có hiệu quả nhất các tiềm năng to lớn của tiểu
vùng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Chung nhau khai thác dòng sông và các nguồn tài nguyên đa dạng gắn
kết với nhau thành một khối, các nền kinh tế của GMS không hợp tác thì
không những không sử dụng có hiệu quả và lâu bền các nguồn lực của mình
mà còn có nguy cơ động chạm đến lợi ích của nhau, có lúc có nơi dẫn tới
căng thẳng và bùng nổ xung đột. Hợp tác tiểu vùng sẽ mở ra một thời kì mới
cho sự xây dựng cuộc sống phồn vinh cho tất cả các nước, các dân tộc trong
tiểu vùng.
Ngoài nguồn nhân lực dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa
dạng, tiểu vùng phải huy động các nguồn lực về vốn và công nghệ từ bên
78
trong và bên ngoài, kết hợp tổng hợp các năng lực nội sinh và ngoại sinh.
Xây dựng cơ sở hạ tầng trước hết là hệ thống đường giao thông xuyên
quốc gia: đường bộ, đường sắt, đường thủy và hệ thống sản xuất, phân phối,
truyền tải điện năng chung cho cả tiểu vùng sẽ là hướng phát triển chủ yếu
cho sự hợp tác trong giai đoạn đầu. Trên cơ sở này những ngành như nông
lâm ngư và công nghiệp chế tạo từng bước được hiện đại hóa và trở thành
những ngành xuất khẩu chủ lực và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới. Nhờ đó tiểu vùng sẽ trở thành vùng công nghiệp phát triển giàu có, thịnh
vượng.
Bảng 5. Triển vọng phát triển kinh tế tiểu vùng sông Mekong đến
năm 2020 :
Các chỉ số cơ bản 1990 1995 2000 2010 2020
Mức dân số (triệu người) 213 234 255 300 348
Tỉ lệ tăng dân số (%/ năm) 1,9 1,8 1,7 1,5 1,9
Mức độ thành thị hóa (%) 27 30 38 50 23
Lực lượng lao động (triệu người) 116 130 165 198 X
Tỷ lệ tăng lực lượng lao động 2,5 2,4 2,2 2,0 X
(%/năm)
GDP( tỉ USD- năm 1995) 135 202 295 636 1.250
Tỉ lệ tăng trưởng GDP (%/năm) X 8,0 8,0 8,0 7,0
Bình quân GDP/người 710 875 1.156 2.120 3.600
Bảng 6 : Triển vọng tiểu vùng sông Mekong tới năm 2020 (Xu hướng chính)
Nguồn: Ngân hàng phát triển châu Á – ADB
(https://www.adb.org/themes/regional-cooperation/results/data)
Trên đây có thể thấy dự báo GDP tiểu vùng 2020 đạt 1250 tỉ USD,
trong đó nông nghiệp 10%, dịch vụ 50%, tỉ lệ tăng dân số ở mức 1,9% giảm
79
còn 1,5% thì dân số khi đó có 350 triệu người với mức bình quân
3600USD/người, dân số thành thị chiếm 50% tổng số dân GMS, lực lượng lao
động tăng tới 200 triệu người [11, tr. 35], hơn nữa hợp tác tiểu vùng sẽ có khả
năng thúc đẩy việc thu hút đầu tư của quốc gia tiến hành đầu tư theo nhóm,
như vậy toàn bộ GMS sẽ là một tổng thể chứ không chỉ là tập hợp gồm các
thành phần riêng lẻ nữa.
Với Việt Nam: gần đây nhất, Hội nghị các quan chức cấp cao (SOM)
và tiếp đó là hội nghị Bộ trưởng các nước tiểu vùng sông Mekong lần thứ 16
họp tại Hà Nội, đề ra những phương hướng cho hợp tác Mekong giai đoạn
sau. Hội nghị SOM thảo luận các chiến lược và vấn đề ưu tiên cho chương
trình GMS cùng nhau xem xét các sáng kiến cho 6 chiến lược:
- Chương trình hành động để tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải và
thương mại (TTF), một điều kiện cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh
và tăng tốc GMS, chuyển hành lang giao thông thành hành lang kinh tế.
- Định hướng quan trọng kết nối đường sắt GMS, một bước quan trọng
tiến tới hệ thống tích hợp đường sắt GMS.
- Các hướng chiến lược và kế hoạch phát triển giai đoạn II của chương
trình Môi trường GMS (CEP), đa dạng sinh học sáng kiến hành lang bảo tồn
(BCI). Bốn hướng chiến lược là: Bảo tồn đa dạng sinh học và xóa đói giảm
nghèo; Thay đổi khí hậu; Quản lí môi trường nông thôn và xây dựng năng
lực.
- Các kĩ thuật mới hỗ trợ thúc đẩy năng lượng tái tạo (RE), nhiên liệu
sạch ( CF) và hiệu quả năng lượng (EE) trong GMS, sẽ phát triển mô hình
kinh doanh phù hợp để thúc đẩy RE, CF, EE là một phần của GMS năng
lượng.
- Các chương trình hỗ trợ Nông nghiệp giai đoạn II (CASP II) 2011-
80
2015 sẽ giúp GMS cạnh tranh hơn trong sản xuất thực phẩm an toàn.
- Chiến lược và Kế hoạch hành động cho Hành lang kinh tế phía Nam
(SEC). là môi trường để cải thiện, thực hiện các sáng kiến và huy động các
nguồn lực cho SEC phát triển [12, tr. 45].
Như vậy hợp tác GMS ngày càng hướng vào kinh tế và hướng vào phát
triển theo chiều sâu- phát triển bền vững, đây là hướng đi chiến lược cho tiểu
vùng. Mục tiêu của GMS vẫn luôn là thúc đẩy tăng trưởng, phát triển bền
vững, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Hợp tác kinh tế tiểu
vùng GMS dựa trên sự phát cân bằng và toàn diện chứ không phải chỉ quan
tâm đến nhu cầu phát triển ở mỗi quốc gia.
Việc hợp tác kinh tế GMS mở ra tương lai rộng mở cho Việt Nam, với
lưu vực sông trên lãnh thổ Việt Nam chiếm 25% diện tích đất và 35% dân số
có ý nghĩa chiến lược với sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh quốc
phòng, tăng cường giao lưu văn hóa và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Việc tham
gia các khuôn khổ hợp tác tiểu vùng sông Mekong tạo cơ hội cho Việt Nam
phát huy dược lợi thế và tiềm năng, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho sự
phát triển từ các nước trong khu vực và cộng đồng tài trợ quốc tế. Một trong
những dự án của một quốc gia ngoài luồng lớn là Nhật đầu tư 5,75 tỉ USD cho
dự án “ Thập kỉ Mekong xanh” trong thời gian khoảng 10 năm đến năm 2020
sẽ hoàn thành nhằm giúp Việt Nam và các nước lưu vực sông Mekong giữ
màu xanh cho con sông lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Dự án này sẽ thu hút
sự quan tâm và đầu tư của nhiều quốc gia phát triển khác trên thế giới , duy trì
“lực hút hấp dẫn” với các nhà tài trợ quốc tế cho Việt Nam và các nước
thuộc GMS trong thời gian không xa. Năm nay, với vai trò chủ tịch ASEAN,
Việt Nam cũng đang tích cực thúc đẩy mối quan hệ hợp tác tiểu vùng sông
Mekong qua việc tham gia tổ chức một loạt các hoạt động của hợp tác Tiểu
vùng như: Hội nghị bộ trưởng Mekong - Nhật Bản; Hội nghị các nước Hạ
nguồn Mekong- Mỹ bên lề các hội nghị cấp cao ASEAN, điều này cho thấy
81
quan hệ Mekong- ASEAN ngày càng có tầm quan trọng chiến lược trong phát
triển kinh tế dài hạn, cùng với đó là quan hệ hợp tác ASEAN- Trung Quốc
ngày càng mở rộng qua ACFTA thì mối quan hệ này ngày càng được chú ý
hơn nữa.
Mục tiêu chung của Việt Nam là tăng cường hợp tác và làm sâu sắc
thêm sự hội nhập kinh tế tiểu vùng, thúc đẩy hợp tác, phát triển bền vững tiểu
vùng cũng như phấn đấu từng bước cải thiện cơ sở kinh tế- xã hội ở các địa
phương dọc hành lang GMS góp phần củng cố quan hệ hợp tác hữu nghị và
láng giềng thân thiện với các nước trong khu vực. Việt Nam là quốc gia có vị
trí địa chính trị, địa kinh tế chiến lược của GMS. Việt Nam đang hưởng lợi
nhiều từ hợp tác GMS song đồng thời cũng đang gánh vác trách nhiệm nặng
nề trong việc hợp tác phát triển bền vững tiểu vùng, đặc biệt trong lĩnh vực
hợp tác phát triển kinh tế.
Trong khuôn khổ hợp tác, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế mà du
lịch Việt Nam đã và đang tham gia, việc nước ta gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) năm 2007 đã mở ra nhiều cơ hội phát triển mới, và cùng
đồng hành với nó, cũng kèm theo nhiều khó khăn, thách thức mà du lịch Việt
Nam phải đối mặt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói, các
cam kết trong lĩnh vực dịch vụ du lịch của Việt Nam khá thông thoáng, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp
các dịch vụ liên quan về du lịch và thực hiện những cam kết trong WTO. Việc
đưa ra chính sách mở cửa thị trường cho phù hợp cam kết, cho phép các đối
tác trên thế giới tham gia cung cấp dịch vụ du lịch ở Việt Nam, đã tạo sức ép
nhất định đối với các doanh nghiệp du lịch trong nước do phải tự mình vươn
lên, hoặc tìm đối tác để liên kết, liên doanh, nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp. Đây cũng là cơ sở để các doanh nghiệp du lịch lữ hành của
Việt Nam mở rộng quan hệ và thâm nhập sâu hơn vào thị trường cung cấp
82
dịch vụ du lịch cả trong nước và ngoài nước.
Trong khuôn khổ hợp tác du lịch của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), sau hơn mười năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã ký hiệp định
hợp tác du lịch cấp chính phủ với tất cả chín nước thành viên khác của khu
vực. Du lịch nước ta đã cùng các thành viên ASEAN ký kết Hiệp định hợp tác
du lịch ASEAN với mục tiêu xây dựng ASEAN thành một điểm du lịch
chung hấp dẫn, hướng tới xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Trên
cơ sở đó, Việt Nam và các nước ASEAN đã xây dựng một kế hoạch hành
động để triển khai hiệp định, tập trung vào tạo điều kiện thuận lợi cho khách
du lịch, phát triển sản phẩm, xúc tiến, quảng bá du lịch và phát triển nguồn
nhân lực. Một lộ trình hợp tác hướng tới xây dựng Cộng đồng ASEAN đã
được Việt Nam cùng với các thành viên xây dựng và triển khai với các
chương trình hợp tác cụ thể. Tại Diễn đàn ATF 2009, ASEAN đã ký một thỏa
thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch ASEAN (MRA), trong đó nói rõ các
nước sẽ từng bước hài hòa các tiêu chuẩn đào tạo và thừa nhận nghề nghiệp
lẫn nhau giữa các nước trong khu vực. Trong hợp tác dịch vụ ASEAN, du lịch
Việt Nam đã cam kết phân ngành dịch vụ lưu trú, cho phép đối tác ASEAN
tham gia liên doanh đầu tư trong lĩnh vực khách sạn, khu nghỉ mát tổng hợp.
Về lữ hành, cho phép đối tác nước ngoài liên doanh với đối tác nước ta, từng
bước tham gia kinh doanh du lịch lữ hành quốc tế tại Việt Nam.
Trong các khuôn khổ đa phương khác, bao gồm tiểu vùng Mê Công mở
rộng (GMS), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
ACMECS, CLMV... Việt Nam cũng là một trong những thành viên tích cực
trong việc đưa ra các sáng kiến và tham gia thực thi các chương trình hợp tác
cụ thể về xây dựng sản phẩm, kết nối tua du lịch, quảng bá, nâng cao năng lực
quản lý, tiêu chuẩn hóa về du lịch. Hợp tác đa phương trong các tổ chức du
lịch đa phương bao gồm Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Hiệp hội du
lịch châu Á - Thái Bình Dương (PATA) cũng được quan tâm; tranh thủ được
83
nhiều hỗ trợ kỹ thuật trong các lĩnh vực nâng cao năng lực, quy hoạch, phát
triển sản phẩm... Nhiều sự kiện quan trọng của các tổ chức đã được tổ chức tại
Việt Nam, tạo tiếng vang, củng cố vị thế du lịch Việt Nam.
Trong hợp tác song phương, Du lịch Việt Nam đã ký được 43 văn bản
hợp tác với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới; các doanh nghiệp du lịch
thiết lập quan hệ bạn hàng và đối tác với hơn một nghìn hãng của 60 quốc gia
và vùng lãnh thổ. Với các văn bản hợp tác du lịch song phương được ký kết,
du lịch Việt Nam đã xây dựng được cơ sở pháp lý để đẩy mạnh hợp tác du
lịch với các nước trong khu vực, các thị trường trọng điểm, tiềm năng trên
bản đồ thế giới. Điều này đã và đang tạo điều kiện để ngành du lịch có được
sự hỗ trợ của các nước trong đào tạo nguồn nhân lực, vốn đầu tư, công nghệ,
kinh nghiệm phát triển du lịch; hợp tác tăng cường xúc tiến quảng bá, khai
thác khách từ các thị trường trọng điểm... Trong những năm qua, ngành du
lịch Việt Nam đã có gần 30 triệu USD tài trợ từ bên ngoài để triển khai các dự
án phát triển nguồn nhân lực du lịch, phát triển sản phẩm, xây dựng hạ tầng
cho du lịch, cùng nhiều dự án hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực quy hoạch du
lịch, xây dựng và triển khai Luật Du lịch. Cả nước hiện có hơn 200 dự án đầu
tư nước ngoài vào ngành du lịch với hàng chục tỷ USD đăng ký vào các lĩnh
vực đang cần thu hút vốn đầu tư như xây dựng khách sạn, khu nghỉ dưỡng,
khu vui chơi giải trí, v.v... [2, tr. 27].
Sự tham gia của du lịch Việt Nam trong hoạt động của các tổ chức, cơ
chế khu vực và quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, Tổ chức Du lịch Thế
giới (UNWTO), Hiệp hội Lữ hành Du lịch châu Á - Thái Bình Dương
(PATA), Tiểu vùng sông Mê Công (GMS), Hành lang kinh tế Đông Tây...
ngày càng trở nên tích cực và hiệu quả hơn. Việt Nam cũng đã đăng cai và tổ
chức thành công nhiều hội nghị du lịch quan trọng của thế giới và khu vực;
tham gia vào hầu hết các hội chợ du lịch khu vực và quốc tế lớn, tổ chức
84
nhiều chương trình quảng bá, xúc tiến ở các thị trường trọng điểm, góp phần
đưa hình ảnh Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, thu hút khách quốc tế vào du
lịch nước ta.
3.4. Cơ hội cho ngành du lịch tiểu vùng sông Mekong
Như đã nói, GMS là một khu vực có nhiều tiềm năng du lịch phong
phú, đa dạng về sản phẩm du lịch và có thể kết hợp nhiều loại hình du lịch
trong một sản phẩm. Với các lợi thế đó, thị trường du lịch tiểu vùng sông
Mekong có một tiềm năng cạnh tranh khá tốt so với các thị trường du lịch lớn
khác trong khu vực và thế giới.
Thực tế cuộc sống cho thấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
đang ngày càng gia tăng. Xu thế quốc tế hoá đang ngày càng phát triển và sự
ổn định, hoà bình, cùng hợp tác đã trở thành một trong những xu thế tất yếu
của thời đại. Hợp tác du lịch giữa các quốc gia cũng không nằm ngoài xu thế
đó khi người ta đang phải đối mặt với những vấn đề như nguồn du khách,
nguồn tài nguyên, vốn, công nghệ, kinh nghiệm… Bên cạnh đó là việc đòi hỏi
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự phát triển của những ngành khác có
liên quan đã dẫn tới nhu cầu tất yếu cho một sự hợp tác liên quốc gia về du
lịch giữa các nước trong cùng khu vực. Chính sự liên kết sẽ hạn chế được
những nhược điểm trong du lịch của mỗi quốc gia, đồng thời khai thác được
những nét đặc trưng trong sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực với
nhau.
Bên cạnh đó, việc liên kết sẽ góp phần tạo ra các sản phẩm mới cho du
lịch tiểu vùng Mekong, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, giảm tối đa
các thủ tục và chi phí không cần thiết cho du khách, tăng sức hấp dẫn, hiệu
quả đầu tư, kinh doanh cho doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực du lịch. Liên
kết trong phát triển du lịch cũng góp phần khẳng định thương hiệu du lịch của
mỗi quốc gia, đồng thời trở thành một động lực làm đổi mới hình thức quảng
bá, xúc tiến, tăng khả năng cạnh tranh nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập của
85
du lịch tiểu vùng trên trường quốc tế.
Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị
trường hơn cùng với các chương trình xúc tiến và quảng bá chung của khu
vực. Thêm vào đó là sự học hỏi về kinh nghiệm quản lý và làm du lịch của
các nước trong khu vực, đặc biệt là kinh nghiệm của Thái Lan. Trong mảng
kinh doanh, việc mở rộng liên kết sẽ khắc phục được trở ngại của du lịch Việt
Nam trong hội nhập, khi các doanh nghiệp du lịch phần nhiều đang hoạt động
nhỏ lẻ, để hình thành các chuỗi liên kết hoặc các tập đoàn đủ mạnh có khả
năng cạnh tranh cao hơn. Điều này càng trở nên có ý nghĩa khi Việt Nam
đang thực hiện chính sách mở cửa thị trường, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp du lịch nước ngoài được vào Việt Nam hùn vốn kinh doanh, trực tiếp
cạnh tranh với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa.
Như đã trình bày ở trên, việc hợp tác du lịch giữa các nước trong khu
vực nhằm tạo ra một sản phẩm chung sẽ góp phần làm nâng cao tính hấp dẫn
và sức cạnh tranh đối với du khách khi kết hợp được nhiều điểm đến hấp dẫn
của các quốc gia trong cùng một tua du lịch, vì vậy, sẽ thu hút được nhiều du
khách quốc tế đến Việt Nam hơn.
Hành lang kinh tế Đông Tây (EWEC) với sự tham gia và hợp tác của
các nước trong Tiểu vùng sông Mekong cũng mở ra rất nhiều cơ hội phát triển
trên nhiều lĩnh vực trong đó có du lịch. Đoàn khảo sát tuyến Hành lang kinh
tế Đông Tây bằng đường bộ do Đại sứ Vương quốc Thái Lan tại Việt Nam
Krit Kraichitti làm trưởng đoàn và Đại sứ các nước Hà Lan, Hoa Kỳ, Tây Ban
Nha, Myanmar, Lào, Ấn Độ, Mexico, đại diện các Đại sứ Ucraina, Bungari,
Chile, Australia, trưởng đại diện Tổ chức quốc tế về di dân Liên hợp quốc
(IOM), Giám đốc chi nhánh Ngân hàng ADB tại Việt Nam và nhiều quan
chức thuộc các cơ quan hữu quan phía Việt Nam đã được thực hiện. Hành
trình bắt đầu từ Hà Nội đi thành phố Vinh, qua Quốc lộ số 8 đến thủ đô
Vientiane (Lào), tiếp tục qua các tỉnh Nongkhai, Ubon, Khon Kean (Đông bắc
86
Thái Lan), trở về Pakse, Savannakhet (Lào), qua cửa khẩu Lao Bảo, Huế và
dừng chân tại Cảng Tiên Sa, Đà Nẵng- điểm cuối của Hành lang kinh tế Đông
Tây. Chuyến đi này đã giới thiệu tiềm năng nhiều mặt của Hành lang kinh tế
Đông Tây, trong đó có du lịch, với đại diện các nước và các tổ chức quốc tế,
mở ra rất nhiều cơ hội cho đầu tư.
Hành lang kinh tế Đông Tây vận hành tạo cơ hội kéo các ngành công
nghiệp của các nước trên toàn tuyến hành lang gần lại với nhau, tạo nên chuỗi
điểm nhấn liên hoàn Đà Nẵng- Phú Bài- Lao Bảo- Savannnakhet- Mukdahan.
Thương mại đang mở đường cho công nghiệp phát triển bằng những dự án
đầu tư, tạo điều kiện cho cơ sở hạ tầng phát triển và từ đó cũng mở ra thời cơ
lớn cho ngành du lịch.
Hợp tác và hội nhập giữa các quốc gia trong tiểu vùng Mekong, nhất là
với nước láng giềng gần nhất, đã đem đến cơ hội mở ra nhiều con đường
thông thương nối liền nhiều nước, nhiều cửa khẩu quốc tế. Điều đó không
những tạo điều kiện cho phát triển thương mại, cải thiện cơ sở hạ tầng và
nâng cao mức sống của người dân tại những vùng biên giới mà còn góp phần
đáng kể vào việc rút ngắn khoảng thời gian đi lại cho du khách trên những
chuyến hành trình xuyên quốc gia. Chẳng hạn, Cửa khẩu Nam Giang nối quốc
lộ 14 phía Việt Nam và quốc lộ 16 phía Lào mới được khai trương cách đây
không lâu đã rút ngắn lộ trình từ Đông Bắc Thái Lan và Nam Lào đến Hội
An, Chu Lai và cả Dung Quất xuống chỉ còn khoảng 350 đến 400km. Trong
ngày khai trương, nhiều công ty du lịch lữ hành Việt Nam, Thái Lan và các
nhà đầu tư đã có mặt. Gần đây, nhiều cửa khẩu quốc tế giữa Việt Nam và
Campuchia mới được mở ra, cũng tạo những điều kiện thuận lợi cho ngành du
lịch phát triển, hứa hẹn nhiều cơ hội hợp tác quốc tế cho ngành du lịch Việt
87
Nam.
3.5. Khó khăn, thách thức cho du lịch tiểu vùng Mekong và hàm ý cho du
lịch Việt Nam.
Các quốc gia Mekong có ngành du lịch phát triển nhanh trong thập niên
qua. Các nước trong tiểu vùng có nước như Việt Nam được xếp vào danh
sách “Các điểm đến mới hàng đầu thế giới giai đoạn 1995-2004“(World's Top
Emerging Tourism Destinations for period 1995-2004 - UNWTO), và là một
trong số các nước có mức tăng trưởng cao của Châu Á - Thái Bình Dương,
vốn là khu vực có mức tăng trưởng ngành du lịch cao hơn hầu hết các khu
vực khác trên thế giới.
Năm 2011, du lịch Việt Nam đã thu hút trên 6 triệu lượt khách quốc tế,
phục vụ trên 30 triệu lượt khách nội địa. Thu nhập từ du lịch đạt 130 ngàn tỷ
đồng, tăng 30% so với năm 2010 [10, tr. 27] . Theo báo cáo đánh giá mức độ
cạnh tranh ngành du lịch năm 2011 (Travel & Tourism Competitiveness
Report 2011) của Diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 80/139 quốc
gia và xếp hạng thứ 14 trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tăng 9 bậc
so với bảng đánh giá gần đây nhất được thực hiện vào năm 2009 [36].
Đây quả thực là những kết quả đáng lưu ý. Nhưng nếu so sánh với các
nước trong khu vực thì số liệu trên vẫn còn ở mức khiêm tốn. Du lịch Việt
Nam vẫn còn phải đối mặt với rất nhiều thách thức trên con đường hội nhập
và phát triển.
Trong tiểu vùng Mekong, quốc gia phát triển du lịch tốt nhất là Thái
Lan. Đây cũng chính là quốc gia nỗ lực nhất trong tiến trình xúc tiến mối
quan hệ hợp tác về du lịch, tạo ra sản phẩm chung về du lịch. Thái Lan liên
tục xúc tiến và thực hiện một loạt các chương trình hợp tác song phương và
đa phương với tất cả các quốc gia trong tiểu vùng sông Mekong như chương
trình: “Ba quốc gia - một điểm đến” (Three Countries- One Destination) với
Lào và Việt Nam; “ Hai vương quốc - một điểm đến” (Two Kingdoms - One
88
Destination) với Campuchia; “ Hai quốc gia - một điểm đến” (Two
Countries- One Destination) với Myanmar; “ Thái Lan - Trung Quốc: Sự kết
hợp tuyệt vời” (Thailand – China: A Glorious Combination) hay “ Ngao du
trên dòng Mekong” với Lào (Cruising on the Mekong)… Đây cũng là một
điều dễ hiểu bởi Thái Lan là một Vương quốc du lịch thực sự chuyên nghiệp
và phát triển.
Trong xu thế phát triển nói chung, việc kết hợp với các quốc gia trong
khu vực đã giúp cho Thái Lan tận dụng được nguồn tài nguyên du lịch, khai
thác và làm tăng tính hấp dẫn cho các sản phẩm du lịch của mình. Đây là một
kinh nghiệm đáng lưu ý. Tất nhiên các quốc gia khác cũng thu được nhiều lợi
ích từ sự hợp tác này.
Các nước khác trong GMS có thể học hỏi được gì ở đây?
- Giá tour du lịch cao:
Thách thức về khả năng cạnh tranh du lịch trước hết xuất phát từ chính
sách giá. Ba yếu tố quan trọng nhất cấu thành nên giá tour du lịch là giá vận
chuyển đi lại, giá phòng và giá vé tham quan. Cả ba thứ giá này đều cao chính
là nguyên nhân khiến cho việc giá tour du lịch ở các nước thường cao hơn so
với các nước bên ngoài khu vực. Và đây chính là yếu điểm của du lịch Việt
Nam, Lào, Myanma, Campuchia trong cạnh tranh.
Giá Tour
Giá tham quan và chi phí tổ chức
Giá lưu trú
Giá vận chuyển
Các chuyến bay tới các nước này không nhiều, chính vì vậy giá vé
thường cao hơn so với các nước khác. Bên cạnh đó, sự liên kết giữa hàng
89
không và du lịch chưa cao nên chưa có những chính sách ưu đãi từ phía hàng
không cho du lịch. Thông thường, giá vé máy bay được các hãng hàng không
nước ngoài bán cho các công ty du lịch thường thấp hơn từ 20-50% giá vé bán
lẻ. Ngược lại, để nhận được sự ưu đãi này, các công ty du lịch phải đảm bảo
số lượng khách nhất định cho các chuyến bay. Thêm vào đó, các công ty du
lịch nước ngoài còn nhận được sự trợ giá lớn từ phía các công ty kinh doanh
trên lĩnh vực lưu trú và ăn uống. Giá phòng dành cho các công ty du lịch
thường được giảm giá 50% so với khách lẻ [5, tr. 35]. Một trong những lý do
giải thích cho điều này là các khách sạn của tiểu vùng Mekong hầu hết là mới
được đầu tư xây dựng nên phải chịu mức khấu hao nhiều hơn, khó có thể đưa
ra nhiều các chương trình khuyến mại, giảm giá như các khách sạn đã đi vào
hoạt động lâu năm trong khu vực. Thêm vào đó, số lượng các cơ sở lưu trú
chất lượng cao, quy mô lớn, có khả năng phục vụ du khách quốc tế ở tiểu
vùng Mekong lại không nhiều, vì thế không tạo được tính cạnh tranh cao. Giá
phòng khách sạn ở Việt Nam , Lào, Campuchia, Myanma trong thời gian tới
dự tính còn tiếp tục tăng, một phần do thiếu tính liên kết với các công ty du
lịch; mặt khác, cũng không đủ đáp ứng nhu cầu khi các cơ sở lưu trú chất
lượng cao còn quá ít. Vì thế, các công ty du lịch gặp rất nhiều khó khăn trong
việc thiết kế tour. Điều này khiến cho việc giảm giá tour để cạnh tranh là khó
có thể.
Các hãng hàng không giá rẻ bắt đầu tiếp cận và khai thác thị trường
Việt Nam và các nước GMS sẽ tạo cơ hội cho người dân được giao lưu, đi du
lịch ra nước ngoài nhiều hơn. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra nhiều thách thức cho
du lịch nội địa trong việc cạnh tranh và chính sách giá.
Chẳng hạn, một trong những nguyên tắc phát triển của Trung Quốc là
tập trung phát triển mạnh du lịch Inbound (trong nước), ưu tiên phát triển du
lịch nội địa và chỉ khuyến khích vừa đủ cho du lịch Outbound (ra nước
ngoài). Quay trở lại với vấn đề của du lịch Việt Nam, khi tham gia vào các
90
chương trình hợp tác du lịch trong khu vực và với sự xuất hiện của các hãng
hàng không giá rẻ vào Việt Nam sẽ kích thích nhu cầu du lịch Outbound gia
tăng, trong khi chúng ta chưa có chính sách đồng bộ và quy mô nhằm phát
triển du lịch nội địa. Lượng khách du lịch Việt Nam tới Trung Quốc, Thái
Lan vẫn tăng đều hàng năm và các tour du lịch phổ biến và được ưa thích nhất
là du lịch mua sắm. Vấn đề này đặt ra một thách thức lớn trong việc chia sẻ
lợi ích trong quá trình hội nhập và hợp tác du lịch.
- Vấn đề visa phức tạp:
Một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo sự tăng trưởng bền vững
số lượng khách du lịch quốc tế chính là vấn đề visa. Chính sách chưa thực sự
thông thoáng trong việc miễn visa, cấp visa tại sân bay hiện nay của Việt Nam
đã làm mất đi khá nhiều cơ hội cho sự phát triển du lịch quốc tế. Chế độ visa
thông thường, phí dịch vụ visa nhanh của Việt Nam ở nước ngoài đã góp
phần đáng kể đội giá tour du lịch vào Việt Nam, vì thế làm giảm sức cạnh
tranh của thị trường du lịch Việt Nam. Trong sự hội nhập và hợp tác du lịch
quốc tế, vấn đề về chính sách làm sao vừa đảm bảo những yêu cầu về chính
trị, vừa tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế và du lịch cũng là một vấn đề
thách thức đối với Việt Nam.
- Du lịch Việt Nam còn nhỏ lẻ, thiếu tầm nhìn chiến lược
Rất nhiều vấn đề đặt ra cho du lịch Việt Nam và một trong những vấn
đề đó là chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng cho tiến trình hội nhập này chưa. Bởi
lẽ thách thức đối với Du lịch Việt Nam không đơn giản chỉ là khả năng cạnh
tranh yếu trước các nước trong khu vực, mà sâu xa hơn, chính là những vấn
đề yếu kém và hạn chế đang tồn tại ngay trong bản thân ngành du lịch. Trước
hết phải nói đến tầm nhìn chiến lược. Đã rất nhiều lần những người làm du
lịch đặt ra vấn đề về tầm nhìn chiến lược tổng quát của ngành du lịch Việt
Nam.
Tại Thái Lan, người ta tiến hành quy hoạch xong một điểm du lịch, sau
91
khi điểm này thu hút một lượng khách nhất định thì bắt đầu tập trung sang
một điểm khác. Các quy hoạch được thực hiện rất bài bản và đồng bộ giữa du
lịch và các dịch vụ đi kèm phục vụ du lịch. Trong khi đó, các quy hoạch phát
triển du lịch ở Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức hoặc thực hiện nhưng
chưa đạt hiệu quả. Điều này ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của
ngành. Thêm vào đó là những hạn chế về trình độ quản lý, nhận thức chưa
đúng về du lịch ở chính quyền các cấp, chất lượng và quy mô du lịch còn
thấp, đặc biệt là trình độ và nhận thức của những người tham gia vào hoạt
động kinh doanh du lịch tại địa phương còn nhiều hạn chế. Chúng ta có rất
nhiều tài nguyên, nhiều bãi biển đẹp, nhưng những tài nguyên này chưa được
phát huy hết hiệu quả do đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng còn kém, thiếu những
khu du lịch đạt tiêu chuẩn quốc tế được đầu tư và quy hoạch thích đáng. Các
sản phẩm du lịch còn đơn điệu và nghèo nàn trong khi giá tour du lịch cao là
nguyên nhân chính dẫn đến việc làm giảm sức cạnh tranh về du lịch trong khu
vực. Thêm vào đó, đội ngũ nguồn nhân lực phục vụ trong ngành còn thiếu,
nhất là đội ngũ hướng dẫn viên lành nghề. Công tác xúc tiến và quảng bá du
lịch trong và ngoài nước còn nhiều bất cập, tình trạng lộn xộn trong kinh
doanh tại các điểm du lịch rất phổ biến.
- Thiếu hướng dẫn viên chuyên nghiệp trầm trọng:
Du lịch sẽ không được gọi đúng tên khi không có đội ngũ hướng dẫn
viên lành nghề. Họ chính là “đại sứ” của một quốc gia khi truyền đạt những
kiến thức, những đam mê, rung động về xứ sở mà du khách đang đến. Đây
cũng chính là khởi nguồn cho những mối thiện cảm của khách du lịch đối với
đất nước và con người Việt Nam. Thế nhưng cho đến nay, số hướng dẫn viên
du lịch của chúng ta đang thiếu trầm trọng. Nhất là khi Việt Nam miễn visa
cho khách du lịch Nhật Bản và Hàn Quốc, thì tình trạng thiếu hướng dẫn viên
sử dụng được tiếng Nhật Bản và tiếng Hàn Quốc càng bộc lộ rõ. Trước đây
một đoàn khách du lịch có số lượng từ 10 đến 20 người cần một hướng dẫn
92
viên. Nhưng hiện nay, khi chính sách mở rộng hợp tác về du lịch của các
nước với nước ta ngày càng gia tăng, các tuyến đường bay quốc tế đến Việt
Nam được tăng cường, việc đi lại trở nên dễ dàng hơn khiến trong nhiều
trường hợp chỉ có một khách du lịch nhưng họ vẫn có nhu cầu tự tìm riêng
cho mình một hướng dẫn viên. Khi những trường hợp này xẩy ra, mới thấy
chúng ta thiếu hướng dẫn viên du lịch trầm trọng. Trong tổng số hướng dẫn
viên du lịch của Việt Nam hiện nay, số người thông thạo tiếng Anh, Pháp
chiếm tỷ lệ rất cao trong khi đó các hướng dẫn viên tiếng Nhật, Hàn, Tây Ban
Nha, Italy và các ngôn ngữ của các nước trong tiểu vùng như Thái,
Campuchia, Mianma… lại rất hiếm. Thêm vào đó, việc đào tạo xây dựng đội
ngũ hướng dẫn viên du lịch của nước ta còn nhiều bất cập khi nhiều giảng
viên ngoại ngữ không có kiến thức về chuyên ngành du lịch. Vấn đề này đặt
ra mâu thuẫn lớn trong đào tạo con người mà ngành du lịch vẫn đang tìm
chiến lược giải quyết.
- Chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam còn thấp:
Một mặt hạn chế lớn khác của du lịch Việt Nam là chất lượng dịch vụ.
Du lịch là một ngành dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người. Chính
vì thế, thái độ cũng như cung cách phục vụ khách trong ngành du lịch ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng dịch vụ và sản phầm du lịch. Một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến số lượng khách du lịch quốc tế quay trở lại Việt
Nam lần thứ hai không vượt qua 20% là ở yếu tố con người và dịch vụ. Điều
đó còn ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc hơn cả yếu tố cơ sở vật chất hạ tầng
hay tài nguyên du lịch. “Khách hàng là thượng đế”, câu nói này đã trở nên rất
quen thuộc, nhưng không phải ở đâu cũng thực hiện được. Ở các nước phát
triển trên thế giới, câu nói này đã thấm nhuần trong văn hoá kinh doanh. Vì
vậy, khi những vị khách quốc tế đã quen với việc mình là “thượng đế”, khi đi
du lịch tới một nước khác, bị cư xử lạnh nhạt, bị đeo bám chèo kéo, phải mua
hàng giá cao và thậm chí còn bị chửi bới… sẽ không còn muốn quay trở lại
93
trong những chuyến du lịch tiếp theo của mình. Rất nhiều khách du lịch quốc
tế phàn nàn về thái độ phục vụ ở Việt Nam, đặc biệt là ở Hà Nội. Khi tới sân
bay Việt Nam, họ được chào đón bằng những bộ mặt lạnh lùng không một nụ
cười của nhân viên hải quan. Rất nhiều người vẫn còn nhắc đến hải quan Việt
Nam nhất là tại Thành phố Hồ Chí Minh khi họ phải kẹp thêm tiền vào hộ
chiếu hợp lệ mới được cho qua mà không bị gây phiền phức, khó dễ với
những câu hỏi đại loại như “phải điền cụ thể địa chỉ nơi cư trú tại Việt Nam
mới được qua”. Với những khách du lịch quốc tế lần đầu tiên đến Việt Nam,
không nhớ hoặc chưa liên hệ được với khách sạn sẽ vô cùng lúng túng. Thêm
vào đó, khi tới Việt Nam, rất nhiều khách du lịch tỏ ra khó chịu với cảnh bị
chèo kéo và đeo bám của những người bán hàng rong, xích lô, xe chở
khách… tại Việt Nam. Thái độ phục vụ khách tại các cửa hàng kinh doanh
như đồ lưu niệm, quần áo, tại những nơi tập trung nhiều khách du lịch rất
thiếu chuyên nghiệp. Khách hàng bị săn đón và sau đó là bị chửi bới khi họ
xem hàng hoặc hỏi giá nhưng không mua. Giá các loại hàng hoá bị đẩy lên
quá cao bởi tâm lý khách du lịch quốc tê đều là những người nhiều tiền… Tất
cả những điều này tác động rất lớn đến tâm lý của khách du lịch quốc tế, trở
thành ấn tượng xấu khiến họ cảm thấy không được thoải mái, thoả mãn và vì
thế không còn muốn quay trở lại Việt Nam cho dù tài nguyên du lịch có hấp
dẫn đến đâu. Với những nỗ lực không chỉ của ngành du lịch, chúng ta đang
dần cải thiện được những hạn chế này. Tuy nhiên, để thay đổi suy nghĩ và
định kiến của rất nhiều khách du lịch quốc tế, cần phải có thời gian, công sức
và sự cố gắng không ngừng.
- Sức hấp dẫn du khách kém do nhiều nguyên nhân:
Trình độ phát triển du lịch Việt Nam còn thấp, vị trí du lịch trong nền
kinh tế quốc dân của Việt Nam còn kém xa so với các trung tâm du lịch trong
khu vực. Tỷ lệ khách quốc tế đến Việt Nam lần thứ hai cũng chỉ chiếm chưa
đến 20%. Vì vậy, một thách thức nữa đặt ra là liệu với trình độ phát triển như
94
vậy, trong quá trình hợp tác và hội nhập, du lịch Việt Nam có nâng cao được
khả năng cạnh tranh hay không. Bởi trong chính sự hợp tác giữa các nước
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh du lịch của cả Tiểu vùng cũng vẫn tồn tại
sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các quốc gia về du lịch. Sau khi tham gia các tour
du lịch xuyên quốc gia như Việt Nam - Lào - Thái Lan, liệu du lịch Việt Nam
có đủ sức cạnh tranh trong việc hấp dẫn du khách quay trở lại lần thứ hai hay
không? Đó chính là thách thức đối với du lịch Việt Nam trong quá trình hội
nhập.
- Thách thức về trình độ quản lý:
Như đã nói, bên cạnh những lợi ích thu được từ hợp tác du lịch với một
nước nào đó, chẳng hạn với Thái Lan, cũng đặt ra cho chúng ta nhiều thách
thức to lớn, nhất là khi chúng ta không có những biện pháp để thu được nguồn
lợi trực tiếp từ khách du lịch nếu như việc quản lý và điều hành các chương
trình hợp tác du lịch kể trên không phải là các đơn vị du lịch của Việt Nam.
Thêm vào đó, nếu Việt Nam không tạo được sức hấp dẫn du khách và những
sản phẩm du lịch đặc sắc, cũng như những biện pháp và chính sách hợp tác,
sự quản lý có hiệu quả, thì Việt Nam sẽ chỉ là một điểm dừng chân làm phong
phú thêm cho các chương trình du lịch của Thái Lan mà thôi.
Trên đây là những phân tích và nhận định của về những khó khăn,
thách thức đang đặt ra cho ngành du lịch Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Nếu không giải quyết được những vấn đề này, các nước khác sẽ chớp lấy
những tiềm năng và cơ hội trong tay chúng ta để phát triển du lịch và thu lấy
nguồn lợi đáng kể từ chính những hợp tác tưởng chừng đem lại nhiều lợi ích
cho cả hai bên.
3.6. Biện pháp tháo gỡ khó khăn, thách thức
Với rất nhiều khó khăn thách thức trên đây, cùng với những mặt hạn
chế đang tồn tại trong bản thân ngành du lịch, thiết nghĩ cần có nhiều biện
pháp tích cực phải được thực hiện. Hội nhập là hợp tác và cạnh tranh, muốn
95
thắng trong cạnh tranh du lịch nước ta phải vươn lên trong việc nâng cao chất
lượng dịch vụ, giá cả cạnh tranh, linh hoạt thích ứng được với xu thế mở cửa,
chuẩn bị tốt các điều kiện để sẵn sàng tham gia liên kết, liên doanh với đối tác
nước ngoài.
Muốn tạo được thiện cảm đối với khách du lịch quốc tế và nâng cao
khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, biện pháp quan trọng nhất là
phải nâng cao chất lượng phục vụ và sản phẩm du lịch. Trong đó nâng cao
chất lượng hướng dẫn viên du lịch có ý nghĩa quan trọng, bởi hướng dẫn viên
là “đại sứ văn hóa” của đất nước mà du khách đặt chân đến. Họ không những
đòi hỏi phải có kiến thức sâu rộng, nghiệp vụ thành thạo mà còn phải có trình
độ ngoại ngữ tốt khi hướng dẫn khách nước ngoài. Ngoại ngữ là công cụ quan
trọng để người hướng dẫn truyền đạt ý nghĩa và nội dung của sản phẩm du
lịch. Vì vậy, ngành du lịch cần phải đào tạo, nâng cao chất lượng hướng dẫn
viên du lịch cả về kiến thức, chuyên môn và ngoại ngữ, nhất là ngôn ngữ của
các quốc gia trong tiểu vùng Mê Công, bởi vì đây là còn là chiếc cầu nối và
công cụ hợp tác giữa các thành viên trong tiểu vùng với nhau. Mặt khác, cũng
cần đầu tư đúng mức hoc ơ sở hạ tầng của ngành du lịch, hệ thống nhà
hàng, khách sạn, dịch vụ du lịch đạt tiêu chuẩn ASEAN và quốc tế để nâng
cao chất lượng dịch vụ du lịch.
Một trong những biện pháp cần thực hiện để nâng cao khả năng cạnh
tranh và thu hút khách du lịch nữa là cần nâng cao khả năng cạnh tranh về giá
tour du lịch và đa dạng hóa các sản phẩm. Biện pháp thực hiện, theo chúng
96
tôi, đó là tạo sức mạnh từ sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên quan.
Các cơ quan quản lý du lịch
Liên kết
Hàng không
Các đơn vị kinh doanh du lịch
Trước tiên là liên kết giữa các cơ quan quản lý du lịch với hàng không,
với các đơn vị kinh doanh du lịch. Tiếp đến là liên kết giữa các cơ quan quản
lý du lịch địa phương với nhau để tạo sản phẩm chung, nâng cao tính cạnh
tranh (sự liên kết giữa du lịch Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng hình thành “Con
đường di sản miền Trung” hay “Con đường xanh Tây Nguyên” là ví dụ điển
hình). Các đơn vị kinh doanh du lịch cũng đẩy mạnh liên kết hợp tác với nhau
là giải pháp để hạ giá thành tour mà vẫn đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ
chuyên nghiệp. Ngoài ra, cần liên kết các công ty du lịch với các cơ sở lưu
trú, các công ty du lịch với các đơn vị kinh doanh…). Tuy nhiên, sự liên kết
này nếu không có định hướng mang tầm chiến lược sẽ chỉ dừng lại ở những
liên kết nhỏ lẻ và không đem lại hiệu quả cao.
Du lịch và hàng không là hai ngành gắn bó mật thiết hữu cơ, tạo nên
mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau. Một trong những mục tiêu cụ thể của ngành
97
hàng không là phục vụ cho việc phát triển và khai thác tiềm năng to lớn về du
lịch Việt Nam. Phát triển thị trường du lịch là yếu tố quan trọng thúc đẩy thị
trường vận tải hàng không, tạo thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Du lịch
cần phải là một trong những nhân tố quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch
phát triển thị trường của hàng không Việt Nam. Ngược lại, các doanh nghiệp
du lịch cũng cần hướng sản phẩm của mình vào hàng không Việt Nam, không
chỉ coi sản phẩm vận chuyển hàng không là một dịch vụ được mua phục vụ
cho việc xây dựng sản phẩm của mình, mà phải thực sự cùng với hàng không
Việt Nam hoạch định chiến lược sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm
chung Hàng không – Du lịch Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thêm vào đó là tạo sức mạnh từ liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan quản lý với các công ty hoạt động trong ngành du lịch nhằm đưa ra được
những chính sách hợp lý và hiệu quả. So với các nước trong khu vực, Việt
Nam có lợi thế du lịch tự nhiên với nhiều danh lam thắng cảnh thiên nhiên
tuyệt đẹp và ấn tượng. Tuy nhiên, điểm yếu của chúng ta là kinh nghiệm tổ
chức và quản lý du lịch còn yếu kém do thiếu sức mạnh của liên kết. Rõ ràng.
Liên kết và kết hợp sức mạnh của các đơn vị liên quan để làm nên những điều
mà Việt Nam chưa làm được sẽ là một hướng đi đúng đắn. Du lịch Việt Nam
sẽ phát triển và đứng vững nếu khắc phục được những yếu kém trong việc bảo
vệ và phát triển cơ sở hạ tầng du lịch, sản phẩm du lịch đặc sắc, đa dạng, hiện
đại, đảm bảo văn minh và an toàn du lịch, phát triển hệ thống kinh doanh du
lịch lữ hành có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường.
Luật Du lịch Việt Nam chính thức có hiệu lực thực thi năm 2006. Tuy
nhiên, sau 6 năm triển khai thực hiện (từ năm 2006 – 2012), Luật Du lịch đã
bộc lộ nhiều bất cập và tồn tại nhiều vướng mắc đòi hỏi cần được bổ sung,
hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại và tương lai để thúc đẩy hoạt
động du lịch phát triển.
Bất cập cần thiết phải sửa đổi, theo chúng tôi, đó là việc phải bảo vệ
98
quyền lợi của du khách trong luật. Bởi trước vấn nạn “chặt chém”, chèo kéo,
đeo bám du khách… diễn ra ở nhiều điểm du lịch như hiện nay đã làm
phương hại đến uy tín của ngành du lịch và gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh
của đất nước Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Vì thế, nên có lực lượng
cảnh sát du lịch để bảo vệ quyền lợi của du khách và quy định rõ chế tài, hình
phạt nếu vi phạm. Ngoài ra, cần nghiên cứu đưa vào Luật vấn đề “Bảo vệ môi
trường du lịch”, trong đó gồm bảo vệ tài nguyên du lịch tự nhiên và xã hội.
Có thể nói, không một vấn đề nào là không có tính hai mặt. Sự hội
nhập và hợp tác cũng vậy. Đã không ít những bài báo, bài xã luận viết về
những khó khăn và thách thức cho Việt Nam khi gia nhập vào WTO. Chúng
ta sẽ được gì và sẽ mất gì? Cũng giống như vấn đề mà khóa luận này đặt ra.
Việt Nam sẽ có cơ hội gì và gặp phải thách thức như thế nào trong sự hội
nhập và hợp tác du lịch với các nước Tiểu vùng sông Mekong. Và thực tế đã
chứng minh, chúng ta vẫn phải hội nhập và chấp nhận đương đầu với khó
khăn thách thức, bởi đó là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển.
Tiểu kết.
Trong chương 3, luận văn đã nêu khái quát một số thành tựu hợp tác
phát trienr du lịch tiểu vùng sồng Mekong , Một số thành tựu chủ yếu của hợp
tác du lịch tiểu vùng sông Mekong; Một số định hướng phát triển; Triển vọng
hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng; Cơ hội cho ngành du lịch tiểu vùng sông
Mekong, Khó khăn, thách thức cho du lịch tiểu vùng Mekong và hàm ý cho
du lịch Việt Nam và một số biện pháp khắc phục khó khăn trong hợp tác và
phát triển về du lịch của tiểu vùng. Trong đó, luận văn đi sâu phân tích về một
số định hướng và những cơ hội cho hợp tác du lịch của các nước trong tiểu
vùng. Về định hướng phát triển hợp tác du lịch tiểu vùng, trên cơ sở của
những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, cũng như hợp tác đa
phương trong quan hệ quốc tế, luận văn tập trung phân tích về tiềm năng du
lịch như du lịch sinh thái, du lịch trị bệnh, du lịch tâm linh, du lịch văn hóa,
99
du lịch mice, du lịch mạo hiểm, du lịch làng nghề…
Bên cạnh đó, cũng cần phải liên kết trong hoạt động du lịch giữa các
địa phương của tiểu vùng. Kết hợp kinh nghiệm của các địa phương trong xây
dựng và khai thác tài nguyên, thế mạnh du lịch của tiểu vùng, hoặc cần tập
trung định hướng giải pháp, cơ chế chính sách cho hợp tác giữa các quốc gia
nhằm phát triển du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội, phát triển du
lịch bền vững.
Về cơ hội, luận văn nêu rõ xu thế quốc tế hoá đang ngày càng phát triển
và sự ổn định, hoà bình, cùng hợp tác đã trở thành một trong những xu thế tất
yếu của thời đại. Hợp tác du lịch giữa các quốc gia cũng không nằm ngoài xu
thế đó khi người ta đang phải đối mặt với những vấn đề như nguồn du khách,
nguồn tài nguyên, vốn, công nghệ, kinh nghiệm. Việc liên kết sẽ góp phần tạo
ra các sản phẩm mới cho du lịch tiểu vùng Mekong, nâng cao chất lượng sản
phẩm dịch vụ, giảm tối đa các thủ tục và chi phí không cần thiết cho du
khách, tăng sức hấp dẫn, hiệu quả đầu tư, kinh doanh cho doanh nghiệp tham
gia vào lĩnh vực du lịch.
Luận văn cũng tập trung nêu và phân tích về những khó khăn, thách
thức và một số biện pháp khắc phục khó khăn như cần nâng cao khả năng
cạnh tranh về giá tour du lịch và đa dạng hóa các sản phẩm… nhất là sự liên
100
kết chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên quan.
KẾT LUẬN
Hợp tác kinh tế du lịch tiểu vùng sông Mekong đã hình thành và vận
hành có hiệu quả thể chế hợp tác tiểu vùng GMS. Tuy nhiên để khắc phục
những khó khăn này sinh trong hợp tác GMS, các nước GMS đã, đang và tiếp
tục phối hợp và điều chỉnh chính sách hợp tác ở tầm vĩ mô và được thể hiện
qua các văn bản hoặc thảo luận giữa các nước GMS như các Tuyên bố chung
của các nguyên thủ quốc gia các nước GMS tại Hội nghị thượng đỉnh GMS,
các thỏa thuận đạt được tại các Hội nghị bộ trưởng GMS… và các điều ước
quốc tế khác mà các bên tham gia kí kết và triển khai thực hiện.
Việc mở rộng sự liên kết giữa các nền kinh tế tại các quốc gia Tiểu
vùng sông Mekong có thể nâng cao tốc độ tăng trưởng chung và cải thiện sự
ổn định trong khu vực, tạo ra lợi ích đáng kể cho các quốc gia cùng chia sẻ
dòng sông Mekong. Các cơ hội và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia được
nâng cao đáng kể và tỉ lệ nghèo đói đã giảm còn một nửa.
Với chủ đề: “Đáp ứng nhu cầu, đảm bảo cân bằng: Hướng phát triển
bền vững lưu vực sông Mekong”, có thể có 6 hướng giải pháp như sau:
- Cần đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược phát triển lưu vực dựa trên
nguyên tắc quản lí tổng hợp tài nguyên nước.
- Nghiên cứu xây dựng các kịch bản biến đổi khí hậu đối với toàn lưu
vực sông Mekong, từ đó đề ra kế hoạch hành động ứng phó chung.
- Hoàn thiện các khung pháp lí và thiết lập cơ chế để phối hợp thực
hiện các bộ thủ tục về sử dụng nguồn nước đã được Ủy hội thông qua và hoàn
tất bộ thủ tục về đảm bảo chất lượng nguồn nước.
- Tăng cường năng lực về mọi mặt cho Ủy hội sông Mekong cả về đội
101
ngũ cán bộ, tổ chức và cơ sở vật chất.
- Đi đôi với các nước là Trung Quốc , Mianma cần cung cấp số liệu về
thủy văn mùa khô, và đề nghị 2 nước này xem xét hợp tác sử dụng bền vững,
có trách nhiệm nguồn tài nguyên nước Mekong.
- Với các đối tác phát triển, các tổ chức, và các nhà tài trợ: mong muốn
tiếp tục nhận được hỗ trợ về tài chính và kĩ thuật để phát triển lưu vực sông
Mekong thịnh vượng về kinh tế, công bằng về xã hội, lành mạnh về môi trường.
GMS đẩy mạnh phát triển “khu vực mềm”, trong đó bao gồm các hiệp
định về thương mại và giao thông, đồng thời làm việc với các nước trong khu
vực tiểu vùng nhằm thúc đẩy các biện pháp bảo vệ môi trường, hỗ trợ các giải
pháp năng lượng sạch và ủng hộ nỗ lực giảm biến đổi khí hậu…Các nước
GMS đã tham gia một chương trình hợp tác kinh tế toàn diện về các lĩnh vực
giao thông, năng lượng, viễn thông, phát triển nguồn nhân lực, môi trường,
quản lí nguồn tài nguyên thiên nhiên,thuận lợi hóa thương mại, đầu tư tư
nhân, du lịch và nông nghiệp với sự hỗ trợ của ADB và các đối tác phát triển
khai thác. Tổng vụ trưởng vụ Đông Nam Á của ADB Kunio Senga cho rằng:
“ Với những nền tảng đã được xây dựng cho thập kỉ tới, chúng tôi dự kiến các
nước GMS sẽ đưa những hoạt động hợp tác khu vực của mình lên một mức độ
cao hơn nữa, trong đó có những sáng kiến thế hệ hai về hạ tầng mềm liên
quan đến kết nối cơ sở hạ tầng” [4, tr. 19]. Các nước GMS cần thiết lập các
biện pháp nhằm đẩy mạnh cơ sở hạ tầng vật chất, tổ chức tốt những giao dịch
xuyên biên giới và chi phí vận chuyển, cải thiện môi trường kinh doanh và
đảm bảo việc bảo vệ môi trường và xã hội của tiểu vùng.
Hợp tác du lịch Tiểu vùng sông Mekong có ý nghĩa quan trọng không
chỉ đối với phát triển của các nước ở Tiểu vùng, mà còn cần để góp phần khắc
phục tình trạng phát triển không đều trong ASEAN trước xu thế hội nhập và
toàn cầu hoá kinh tế. Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các thành viên
là trở lực lớn nhất trong tiến trình hội nhập quốc tế, liên kết khu vực của
102
ASEAN, nó chi phối nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp của Hiệp hội.
Lộ trình thực hiện AFTA với nhiều cung bậc là một minh chứng về những
thách thức trong hợp tác khu vực của Hiệp hội do sự phát triển không đều
giữa các thành viên.
Thúc đẩy hợp tác khu vực và tiểu khu vực, các nước ASEAN trong
tiểu vùng Mekong có thêm điều kiện phát huy nội lực và lợi thế so sánh của
từng thành viên, hạn chế tính khép kín do vị trí biệt lập của từng quốc gia;
nâng cao quốc lực và khả năng liên kết trong ASEAN; góp phần nỗ lực thu
hẹp khoảng cách không đều về phát triển ở Tiểu vùng và Hiệp hội. Do đó, sau
chiến tranh lạnh và trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, dù thể chế
chính trị không giống nhau, trình độ phát triển kinh tế xã hội, lợi ích tham gia
hợp tác, mức độ mở cửa cải cách kinh tế và nguồn lực phát triển có khác
nhau, các quốc gia ven sông Mekong đều ý thức tăng cường mở rộng quan hệ
hợp tác hữu nghị thân thiện, đã cùng các nước ASEAN khác, các nhà tài trợ
quốc tế quyết tâm xây dựng nền tảng hợp tác phát triển Tiểu vùng trên cơ sở
cùng có lợi, vì sự nghiệp phát triển nhanh chóng, đồng đều và bền vững.
Luận văn “Hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng sông Mekong giai đoạn
1990-2020 ” trước hết nghiên cứu về hoạt động hợp tác du lịch của các quốc
gia trong tiểu vùng sông Mekong, những thành tựu đã đạt được cũng như các
chương trình, hoạt động mà tổ chức này đang xúc tiến để quảng bá cho du
lịch của cả Tiểu vùng. Thêm vào đó, quan trọng hơn, khóa luận đã phân tích
cụ thể những cơ hội và thách thức cho du lịch tiểu vùng nói chung và của Việt
Nam ta nói riêng trong quá trình Hội nhập với khu vực. Việt Nam và GMS sẽ
có cơ hội gì và phải đối mặt với những khó khăn như thế nào trong những hợp
tác du lịch song phương và đa phương với các quốc gia trong tiểu vùng và thế
giới ?. Nhất là khi con đường xuyên Á và Hành lang kinh tế Đông Tây đã trở
thành hiện thực, mở ra rất nhiều cơ hội để hợp tác và phát triển giữa các quốc
gia trong tiểu vùng. Thấy rõ vị trí của du lịch Việt Nam trong khu vực sẽ góp
103
phần xây dựng những chiến lược và con đường đúng đắn trong tiến trình hội
nhập và phát triển, đưa tài nguyên du lịch của Việt Nam trở thành sản phẩm
du lịch quý giá, ghi dấu trên bản đồ du lịch Thế giới. Vì vậy, luận văn đã tập
trung vào các nội dung sau:
Nghiên cứu về tiến trình hợp tác đa phương ở tiểu vùng sông Mekong
mở rộng, trong đó hợp tác về du lịch được đánh giá là lĩnh vực có nhiều lợi
thế cạnh tranh của tiểu vùng. Luận văn đã nghiên cứu về hợp tác du lịch tiểu
vùng sông Mekong như một bộ phận quan trọng trong hợp tác kinh tế và
khẳng định vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo ở
tiểu vùng Mekong.
Luận văn cũng đã nghiên cứu một cách tổng quát nhất về các tổ chức
hợp tác, các nội dung hợp tác, các chương trình xúc tiến quảng bá và kết nối
tour du lịch xuyên biên giới giữa các quốc gia nhằm khái quát nên toàn cảnh
về hợp tác du lịch ở tiểu vùng Mekong.
Luận văn đã phân tích những tác động từ hội nhập đối với du lịch tiểu
vùng trên hai bình diện cơ hội và thách thức, liên hệ thực tế tại nước ta. Cơ
hội cho du lịch Việt Nam khi tham gia vào hội nhập khu vực, đó là việc liên
kết sẽ góp phần tạo ra các sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở
rộng thị trường, học hỏi về kinh nghiệm quản lý và làm du lịch từ các nước,
góp phần khẳng định thương hiệu du lịch Việt Nam, đẩy nhanh quá trình hội
nhập của du lịch Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, khó khăn thách
thức đặt ra, đó là sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nước trong tiến trình hợp tác,
trong khi du lịch Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt: cơ sở hạ tầng còn kém,
thiếu những khu du lịch đạt tiêu chuẩn quốc tế, các sản phẩm du lịch đơn
điệu, nghèo nàn trong khi giá tour du lịch cao, nguồn nhân lực phục vụ trong
ngành còn thiếu, nhất là đội ngũ hướng dẫn viên lành nghề, công tác xúc tiến
và quảng bá du lịch còn nhiều bất cập…
Vì vậy, muốn thành công trong tiến trình hội nhập, du lịch Việt Nam
104
nói riêng và tiểu vùng Mekong nói chung cần phải thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp: nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh về giá
tour du lịch, đa dạng hóa các sản phẩm, chính sách visa thuận lợi, sửa đổi luật
du lịch, tạo sức mạnh từ liên kết giữa hàng không - cơ quan quản lý - công ty
du lịch…
Hiểu rõ được vị trí, tiềm năng và thách thức đối với du lịch Việt Nam là
một vấn đề quan trọng và cấp thiết. Bởi có như vậy, chúng ta mới có thể tìm
ra được chiến lược đúng đắn, tận dụng được cơ hội để giải quyết những mặt
hạn chế, yếu kém nhằm tránh tổn thất và thiệt thòi trong quá trình hội nhập
105
khu vực và quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ngọc Anh (2009), “Hội nghị bộ trưởng du lịch Tiểu vùng sông Mekong
mở rộng thông qua tuyên bố chung về hợp tác du lịch”,
www.monre.gov.vn/MONRENET/default.aspx?tabid=213&ItemID=581
89
2. Nguyễn Mạnh Cầm (2000), “Hợp tác phát triển du lịch Tiểu vùng sông
Mekong: Cơ hội và thách thức”, Vòng quanh Đông Nam Á, số 3/2000.
3. Phạm Đức Dương (2004), “Mekong-sông Mẹ-Dòng sông khoan dung”,
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6/2004.
4. Phạm Đức Dương (2004), Hợp tác nghiên cứu lối sống-văn hóa trong
tiểu vùng Mekong mở rộng, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.
5. Đại học kinh tế quốc dân (2005), Hợp tác du lịch tiểu vùng Mekong,
nhưng cơ hội và thách thức cho du lịch Việt Nam, Luận văn thạc sĩ,
ĐHKTQD, Hà Nội.
6. Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2004), Giáo trình kinh tế du
lịch, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội.
8. Minh Hạnh (2008), “Hành lang kinh tế Đông Tây - Liên kết phát triển
du lịch”, Du lịch Việt Nam, số 9/2008, 44-46.
9. Phạm Đình Hùng (2008), “Hợp tác Tiểu vùng về an ninh môi trường
sinh thái và khai thác nguồn lợi từ sông Mekong”, Những vấn đề kinh tế
thế giới, số 4/2008, 16-22.
10. Bùi Thị Mai Ngân (2002), Hợp tác kinh tế tiểu vùng ở Đông Nam Á,
106
Khóa luận tốt nghiệp, ĐHQGHN, Hà Nội.
11. Nguyễn Hồng Nhung (2006), “Một số giải pháp trong lĩnh vực hợp tác
GMS nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các hành lang kinh tế cho phát triển
kinh tế”, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 11/2006, 32-38.
12. Nguyễn Hồng Nhung (2007), “Việt Nam trong hợp tác Tiểu vùng sông
Mekong mở rộng”, Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 5/2007.
13. Trần Cao Thành (1999), “Các chương trình hợp tác quốc tế phát triển
kinh tế Tiểu vùng sông Mekong”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/1999.
14. Trần Cao Thành, (2004), Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mekong mở
rộng và tác động đến hợp tác liên kết khu vực, Viên khoa học xã hội, Hà
Nội.
15. Trần Cao Thành (2004), Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mekong mở
rộng và tác động đến hội nhập phát triển, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á,
Hà Nội.
16. Trần Cao Thành (2008), “Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mekong mở
rộng và vai trò tác động xây dựng cộng đồng ASEAN”, Nghiên cứu Đông
Nam Á, số 6/2008.
17. Trần Điệp Thành (2003), Hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng và sự
tác động đối với phát triển kinh tế của Việt Nam, NXB ĐHQGHN, Hà
Nội.
18. Phạm Đức Thành (2005), “GMS: Hiện trạng và một số vấn đề hợp tác
nghiên cứu”, Viên Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Phạm Đức Thành, Trần Khánh (2006), Việt Nam trong ASEAN: Nhìn
lại và hướng tới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Hoài Thu (2006), Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế trong du lịch ở Việt Nam thời gian tới, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Thương Mại Hà Nội.
21. Tổng cục du lịch (2006), Luật Du lịch, NXB Chính trị quốc gia, Hà
107
Nội.
22. Tổng cục du lịch (2008), Báo cáo tình hình thực hiện Hiệp định hợp
tác du lịch song phương, Hà Nội.
23. Nguyễn Trần Quế, (1998), “ Một số vấn đề về hợp tác phát triển kinh
tế Tiểu vùng Mekong”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/1998.
24. Phạm Thái Quốc, Trần Văn Duy, (2007), “Hợp tác Tiểu vùng Mekong
mở rộng và quan hệ Việt Nam-Trung Quốc”, Những vấn đề kinh tế chính
trị thế giới, số 8/2007.
25. Hoàng Văn Việt, (2006), Việt nam tham gia hợp tác phát triển kinh tế
lưu vực sông Mekong, ĐHQG TP.HCM, TP.HCM.
Tiếng Anh
26. Zhu Zhen Ming, (2005), Some thinking and suggestions on
Development of the GMS, Viện KHXH, Hà Nội.
27. Phạm Đức Thành, (2005), GMS: Stuation and issues of Reseach
Cooperation, Viện KHXH, Hà Nội.
28. C. Hart Schaaf , (2009) The lower Mekong : Challenge to Cooperation
in Southeast Asia /, Russell H. Fifield. - Printon (N.J).
29. A.F.Poulsen, K.G.Hortle, J. Valbo-Jorgensen (2002) Istribution and
ecology of some important river fish species of the Mekong River Basin
(NK).
Tiếng Thái
30. Journal of Mekong Soccieties (วารสารสังคมกลุ ่มแม่น ้าโขง ) (2008) (Vol.1-
Vol 18) (Khon Kaen university ).
Website
31. www.exploremekong.org
32. mekongtourism.org/
33. http://mekongtourismforum.org/
108
34. http://www.visit-mekong.com/
35. http://clv-triangle.vn/
36. http://vnmc.gov.vn/home.aspx
37. http://bvhttdl.gov.vn/vn/index.html
38. www.vietnamtourism.gov.vn/
39. http://www.sapalaocai.com/./
40. https://vi.wikipedia.org
41. http://www.adb.org/
42. http://www.mekongchula.com
43. www.mekonginstitute.org
44. www.mrcmekong.org/news-and-events/news/?start=90
109
45. www.worldbank.org