LẠI THỊ HUỆ

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ

TƯ PHÁP HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Ở VIỆT NAM

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số:

9 38 01 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Ngọc Anh Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Ở VIỆT NAM

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số:

9 38 01 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn

liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách

nhiệm về tất cả những dẫn liệu, kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

LẠI THỊ HUỆ

Trang

1

MỤC LỤC

9

Mở đầu

9

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

14

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

30

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

35

Chương 2: Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm, hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

2.1. Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế phòng, chống tội 35

phạm

2.2. Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp 48

hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

71

Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng hoạt động hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

3.1. Khái quát tình hình có liên quan đến hợp tác quốc tế về tương 71

trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

3.2. Thực trạng quy định của pháp luật về hợp tác quốc tế về 83

tương trợ tư pháp hình sự

3.3. Thực trạng hoạt động hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp 89

hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

3.4. Nhận xét, đánh giá

106 122

Chương 4: Dự báo tình hình và các giải pháp nâng cao hiệu hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra ở Việt Nam trong phòng, chống tội phạm thời gian tới

4.1. Dự báo các yếu tố tác động đến hợp tác quốc tế về tương trợ 122

tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

131

4.2. Các giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra ở Việt Nam trong phòng, chống tội phạm thời gian tới

148 151 152 Kết luận Danh mục công trình công bố của tác giả Danh mục tài liệu tham khảo

163 Phụ lục

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ANTT : An ninh trật tự

BCA : Bộ Công an

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

CAND : Công an nhân dân

CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CSĐT : Cảnh sát điều tra

CSND : Cảnh sát nhân dân

HTQT : Hợp tác quốc tế

NXB : Nhà xuất bản

TAND : Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

TTHS : Tố tụng hình sự

TTTP : Tương trợ tư pháp

TTTPHS : Tương trợ tư pháp hình sự

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việc nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện, có hệ thống các vấn đề

lí luận và thực tiễn về hợp tác quốc tế (HTQT) trong hoạt động tương trợ tư

pháp hình sự (TTTPHS) của Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) ở Việt Nam

để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này là rất cần thiết bởi

các lý do sau:

Thứ nhất, xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của thế giới, và

ngày càng được xúc tiến nhanh, ngoại giao đa phương và song phương ngày

càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên thế

giới. Cho đến nay, Việt Nam là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế và

khu vực; có quan hệ ngoại giao với 189 nước, quan hệ kinh tế với trên 230

nước và vùng lãnh thổ, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 3

nước, quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước, đối tác toàn diện với 13 nước.

Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Việt Nam đã mở rộng và củng cố quan

hệ với trên 80 nước và nhiều tổ chức quốc tế, từng bước nâng cao hiệu quả

hợp tác với các nước láng giềng và các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nga,

Ấn Độ, Nhật Bản. Ngày 7/1/2016, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký

Quyết định số 40/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế

đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Thứ hai, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm

Quá trình hội nhập quốc tế đã mang lại những thuận lợi để cộng đồng

quốc tế phát triển bền vững, nhưng đồng thời không ít những nguy cơ, thách

thức đang đe dọa an ninh toàn cầu, trong đó đặc biệt là vấn đề tội phạm. Đối

với Việt Nam, tình hình tội phạm, trong đó tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội

phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm phi truyền thống, tội

1

phạm sử dụng công nghệ cao gia tăng đáng kể về số vụ và mở rộng phạm vi

hoạt động, tính chất thủ đoạn hoạt động mới, tinh vi xảo quyệt, hậu quả xảy ra

nghiêm trọng và tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp khó lường, …

Trước yêu cầu đó, HTQT về TTTPHS là một biện pháp phòng ngừa,

đấu tranh chống tội phạm trở thành yêu cầu cấp thiết của các cơ quan tiến

hành tố tụng Việt Nam nói chung, Cơ quan CSĐT nói riêng trong đấu tranh

phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh - trật tự của đất nước.

Thứ ba, thực trạng HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT

Thời gian qua, Cơ quan CSĐT đã coi trọng và thực hiện bước đầu có

hiệu quả HTQT về TTTPHS giữa Việt Nam với các quốc gia theo quy định

của pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia

nhập. Mỗi năm tiếp nhận thực hiện và đề nghị phía nước ngoài thực hiện

khoảng 300 yêu cầu TTTPHS. Kết quả hoạt động này đã góp phần giải quyết

nhiều vụ án hình sự, nhất là các vụ án thuộc tội phạm xuyên quốc gia. Tuy

nhiên, hoạt động này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc hạn chế đến hiệu

quả phòng chống tội phạm như: hệ thống điều ước quốc tế cũng như pháp luật

trong nước chưa đầy đủ, đồng bộ; sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia;

cơ chế phối hợp, ràng buộc giữa các quốc gia; nội dung yêu cầu tương trợ có

những trường hợp còn chung chung, thiếu cụ thể, thiếu chính xác về địa danh,

tên, thông tin khác; chất lượng dịch thuật tài liệu có trường hợp chưa chính

xác; thực hiện yêu cầu tương trợ thường mất nhiều thời gian trong khi việc

giải quyết các vụ án hình sự phải tuân thủ thời hạn luật định …

Thứ tư, hệ thống điều ước quốc tế và pháp luật trong nước

Việt Nam đã tích cực kí kết, tham gia nhiều điều ước quốc tế thuộc lĩnh

vực HTQT về TTTPHS. Tuy nhiên, các hiệp định song phương về TTTPHS

còn ít. Có những hiệp định ký đã lâu, từ những năm 1980 nên đến nay có

những quy định không còn phù hợp. Có các hiệp định chung gồm nhiều lĩnh

2

vực (hình sự, dân sự, lao động, gia đình) đã ký trước năm 2000 không còn

phù hợp với thực tiễn cần tách ra thành hiệp định riêng.

Luật TTTP năm 2007 đã thi hành được 12 năm, quá trình thực tiễn thực

hiện thấy còn những vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu, tổng kết. Cụ

thể: Luật điều chỉnh cả 04 lĩnh vực TTTP về dân sự, hình sự, dẫn độ và

chuyển giao là chưa phù hợp; phạm vi tương trợ về hình sự còn hạn chế, chưa

phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, chưa đáp ứng được yêu cầu

thực tiễn; chưa quy định về trình tự, thủ tục cam kết không áp dụng hình phạt

tử hình và một số nội dung yêu cầu cụ thể thường gặp. Hiện nay, Bộ Tư pháp

đang dự thảo đề xuất Chính phủ về định hướng sửa đổi Luật TTTP.

Hệ thống văn bản trong nước hướng dẫn thực hiện hoạt động TTTP

chưa đầy đủ, cụ thể dẫn đến việc thực hiện của các cơ quan chức năng còn

gặp lúng túng, khó khăn.

Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Hợp tác quốc tế về tương

trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra ở Việt Nam” làm đề tài

luận án Tiến sỹ, chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, mã số

9 38 01 05.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài này, luận án tập trung vào việc làm rõ các vấn đề lý luận

HTQT phòng, chống tội phạm, HTQT về TTTPHS; quy định của pháp luật,

điều ước quốc tế về HTQT về TTTPHS; đánh giá thực trạng hoạt động HTQT

về TTTPHS của Cơ quan CSĐT trong CAND từ 1/7/2008 đến 31/12/2019; từ

đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động này

trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

3

Thứ nhất, thu thập, hệ thống hoá các công trình khoa học về HTQT

phòng, chống tội phạm, TTTPHS có tính tiêu biểu, chọn lọc; phân tích, đánh

giá các tài liệu này theo những nội dung cụ thể và đưa ra các bình luận về xu

hướng nghiên cứu trong thời gian qua;

Thứ hai, luận giải những vấn đề lý luận chung về hoạt động HTQT

phòng, chống tội phạm, HTQT về TTTPHS: khái niệm, nguyên tắc, đặc điểm,

nội dung, chủ thể...;

Thứ ba, phân tích làm rõ thực trạng quy định của pháp luật và thực

trạng hoạt động TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam từ năm 2008 đến

31/12/2019, làm rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế;

Thứ tư, dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt

Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là lý luận về HTQT về TTTPHS và

thực trạng hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án xác lập phạm vi nghiên cứu gồm:

Thứ nhất, trong phạm vi lý luận, luận án tiếp cận hoạt động HTQT về

TTTPHS dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

Thứ hai, trong phạm vi thực tiễn, luận án tiếp cận hoạt động HTQT về

TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam trong giai đoạn 12 năm, từ 1/7/2008

(khi Luật TTTP năm 2007 có hiệu lực) đến 31/12/2019.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

4

Luận án nghiên cứu HTQT về TTTPHS theo cách tiếp cận đa ngành,

liên ngành khoa học xã hội và đa ngành, liên ngành tội phạm học, luật học.

Cụ thể:

Thứ nhất, luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của

Chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp hài hoà với các học thuyết, quan điểm, tư

tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam trong toàn bộ cấu trúc nghiên cứu của

luận án.

Thứ hai, luận án kết hợp sử dụng các phương pháp luận, phương pháp

nghiên cứu và lý luận về tội phạm học để phân tích các mối quan hệ: tình hình

tội phạm tác động đến HTQT về TTTPHS; HTQT về TTTPHS là biện pháp

phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Kết hợp sử dụng các phương pháp

luận, phương pháp nghiên cứu và lý luận về luật học trong việc nghiên cứu

mối quan hệ giữa các quy phạm pháp luật của Việt Nam, điều ước quốc tế và

thực tiễn thực hiện hoạt động TTTPHS.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sẽ sử dụng cách tiếp

cận nghiên cứu thực định, tội phạm học, luật học, xã hội học để tiếp cận

nghiên cứu và chứng minh các vấn đề đặt ra đối với luận án. Nghiên cứu sinh

dự kiến sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp thống kê: phương pháp dùng để thu thập, xử lý và phân

tích các số liệu (mặt lượng) về tội phạm xuyên quốc gia trên thế giới và ở Việt

Nam; về hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam giai

đoạn 2008 đến 31/12/2019 để tìm hiểu được bản chất (mặt chất) của tình hình

tội phạm và công tác này.

Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: tổng kết thực tiễn hoạt động HTQT

về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam. Thông qua các báo cáo tổng kết,

báo cáo chuyên đề để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này.

5

Phương pháp phân tích, tổng hợp: từ các thông tin, tài liệu thu thập

được, tiến hành phân tích làm rõ tình hình tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm

có yếu tố nước ngoài, thực trạng hoạt động HTQT về TTTPHS. Thông qua

việc phân tích để tổng hợp lại kết quả đạt được, những hạn chế.

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu, đánh giá các tài liệu có

liên quan đến luận án phục vụ cho việc xây dựng luận cứ lý thuyết và luận cứ

thực tiễn cho đề tài luận án.

Phương pháp chuyên gia: tổ chức lấy ý kiến một số nhà khoa học có

chuyên môn sâu về lĩnh vực nghiên cứu để bổ sung, hoàn chỉnh kết quả

nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu điển hình: ngoài việc nghiên cứu chung, luận

án còn tập trung nghiên cứu những yêu cầu TTTPHS điển hình và cách giải

quyết để rút ra những đặc điểm đặc trưng và xu hướng của hoạt động này.

Phương pháp trao đổi, tọa đàm: tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi để

thu thập thông tin từ cán bộ của các cơ quan chức năng có nhiều kinh nghiệm

trong HTQT về TTTPHS.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn được luận giải, phân tích, tổng

hợp, đánh giá là đóng góp chính của luận án. Cụ thể những đóng góp mới bao

gồm: Thứ nhất, phân tích sâu sắc hơn về khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, nội

dung, mục đích của HTQT phòng, chống tội phạm. Thứ hai, phân tích sâu sắc

hơn về khái niệm, chủ thể, nguyên tắc, nội dung, nhiệm vụ, kênh thực hiện,

thủ tục áp dụng,... của HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT. Thứ ba, đánh

giá rõ hơn thực trạng quy định của pháp luật, thực trạng kết quả, ưu điểm, hạn

chế và nguyên nhân của hạn chế của HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT

trong 12 năm qua. Đây là phạm vi nghiên cứu mới về thời gian, không gian,

chủ thể. Thứ tư, dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần

6

nâng cao hiệu quả hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt

Nam trong thời gian tới, trong đó kiến nghị xây dựng Luật TTTPHS là một

ngành luật riêng.

Trên cơ sở nghiên cứu các điều ước quốc tế, văn bản pháp luật và công

trình nghiên cứu có liên quan, Luận án đưa ra nhận thức về khái niệm HTQT

về TTTPHS của Cơ quan CSĐT; nguyên tắc, nội dung, chủ thể, nhiệm vụ,

kênh thực hiện, thủ tục áp dụng một số hoạt động cụ thể... trong thực hiện

HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT với tính chất là nội dung, biện pháp

phòng, chống tội phạm.

Với những kết quả nghiên cứu này, tác giả mong muốn góp phần hình

thành xu hướng nghiên cứu HTQT về TTTPHS là một lĩnh vực cần thiết,

quan trọng trong khoa học tội phạm học ở nước ta hiện nay, nhất là trong thời

kỳ hội nhập quốc tế. Các vấn đề mà luận án đề cập đến và giải quyết mang

tính tổng quát, cô đọng về mặt lý luận và cụ thể về mặt thực tiễn, do đó, nếu

đạt được sự ủng hộ của các nhà khoa học, những kết quả này sẽ có khả năng

làm cơ sở cho việc triển khai các nghiên cứu chuyên sâu hơn các vấn đề về

HTQT về TTTPHS thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận

Các kết quả nghiên cứu sẽ làm giàu có và phong phú hơn hệ thống tri

thức, hiểu biết về lĩnh vực HTQT phòng, chống tội phạm, HTQT về

TTTPHS; góp phần hoàn thiện lý luận về các hoạt động này.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Các kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng để tổng hợp, phân tích,

đánh giá thực tiễn hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở nước

ta hiện nay; dự báo tình hình tác động và xu hướng hoạt động này thời gian

7

tới; từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở nước ta…

7. Cơ cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác

giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án

bố cục gồm có 4 chương, 11 mục và các tiểu mục. Bốn chương gồm:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Chương 2: Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm,

hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát

điều tra

Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng hợp tác quốc tế

về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

Chương 4: Dự báo tình hình và các giải pháp nâng cao hiệu hợp tác quốc tế

về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong

phòng, chống tội phạm

8

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Trong xu thế hội nhập quốc tế, hợp tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm thì vấn đề HTQT về TTTPHS được hầu hết các quốc gia quan tâm thúc

đẩy, đều có những nghiên cứu cũng như quy định của pháp luật về vấn đề

này. Tuy nhiên, do sự khác biệt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và nhất

là hệ thống pháp luật, chính sách hình sự và vấn đề chủ quyền quốc gia, nên

mỗi quốc gia có những quy định pháp luật cũng như quan niệm, cách tiếp cận

nghiên cứu về hoạt động này không giống nhau. Hoạt động HTQT về

TTTPHS không đơn giản chỉ là một nội dung của nghĩa vụ HTQT mà chính là

hoạt động đối ngoại của của nhà nước thể hiện chủ quyền quốc gia. Việc chấp

thuận hay từ chối thực hiện và nội dung, mức độ, thủ tục thực hiện HTQT về

TTTPHS phụ thuộc phần lớn vào ý chí chủ quyền của quốc gia được yêu cầu.

Vấn đề HTQT trong lĩnh vực TTTPHS rất rộng, được nhiều nhà khoa

học và các học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ và

khía cạnh khác nhau. Trong luận án này, nghiên cứu sinh đề cập đến các khía

cạnh nghiên cứu thông qua các tác phẩm mà cá nhân tiếp cận được. Theo đó,

tập trung nghiên cứu các công trình mang tính chất phổ biến rộng rãi của Văn

phòng Liên hợp quốc về chống ma túy và tội phạm (UNODC) và một số tác

giả trên thế giới. Có thể kể đến các công trình sau:

Sách: “The theory and practice of international criminal law” (Lý luận

và thực tiễn về pháp luật hình sự quốc tế), các tác giả Leila Nadya Sadat và

Michael P. Schart, của NXB Martinus Nijhoff, Hoa Kỳ, năm 2008. Cuốn sách

gồm tập hợp các bản luận văn về pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật

quốc tế trên các lĩnh vực như: các hoạt động chống chủ nghĩa khủng bố,

9

chống tra tấn và các tội phạm tàn bạo khác; bí mật giam giữ, bí mật sự đầu

hàng và cưỡng bức mất tích trong “chiến tranh” chống khủng bố thời kỳ Tổng

thống Bush; đường tới kỷ nguyên của trách nhiệm; ICC và sự thay đổi của

pháp luật quốc tế; ICC và Công-gô: từ lý luận đến thực tiễn; tội phạm chống

loài người: kế hoạch quốc gia hay yếu tố chính sách; sử dụng pháp luật quốc

tế về bảo vệ quyền con người trong bảo vệ nạn nhân bị buôn bán, cưỡng bức

nô lệ, cưỡng bức tình dục, cưỡng bức lao động và sự tù tội...

Sách: “Fighting Terrorism and Drugs - Europe and International

Police cooperation” (Đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố và ma túy - Sự

hợp tác của Cảnh sát quốc tế và châu Âu), tác giả Jorg Friedrichs, của NXB

Routledge, Vương quốc Anh, năm 2008. Cuốn sách đã nghiên cứu việc áp

dụng điều ước thông qua sự hợp tác quốc tế của cảnh sát, vấn đề mà các chính

phủ mong muốn thông qua sự hợp tác quốc tế của cảnh sát, khi mà việc đó có

thể ảnh hưởng đến sự độc quyền của họ trong việc sử dụng vũ lực một cách

hợp pháp và khi mà các các yếu tố liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh

thổ lại đóng vai trò thứ hai.

Bài viết: “International cooperation against transnational organized

crime: Extradition and mutual legal assistance in criminal matters” (Hợp tác

quốc tế chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia: Dẫn độ và tương trợ tư

pháp về hình sự”, tác giả Matti Joutsen, Trưởng phòng Đối ngoại Bộ Tư pháp

Phần Lan: bài viết phân tích về hoạt động dẫn độ và TTTP về hình sự là hai

công cụ cơ bản của hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề về hình sự. Việc

điều tra và truy tố các vụ án chống lại người bị tình nghi tham gia tội phạm có

tổ chức xuyên quốc gia luôn gặp nhiều khó khăn. Đó là những khó khăn khi

xử lý vụ việc mà nghi can, nạn nhân, chứng cứ, nhân chứng, vấn đề mấu chốt

hoặc hồ sơ tội phạm nằm ngoài thẩm quyền xét xử. Điều này dẫn đến việc các

vụ án này có thể bị gạt sang một bên và “quên lãng”, với hi vọng rằng các cơ

10

quan thẩm quyền của quốc gia khác có thể sẽ giải quyết được vụ việc. Từ đó

cho thấy việc HTQT giữa các quốc gia trong việc điều tra, truy tố tội phạm có

tổ chức xuyên quốc gia đã trở thành hết sức cần thiết, trong đó dẫn độ và

TTTPHS trở thành hai công cụ chính để giải quyết vấn đề này.

Manual on Mutual Legal Assistance and Extradition (2012): Nguồn

UNODC “Sổ tay về Tương trợ tư pháp và dẫn độ năm 2012”: Sổ tay này

nhằm đưa ra trong yêu cầu của Nghị quyết 5/8 tại Hội nghị các quốc gia thành

viên có tiêu đề “Thực hiện các quy định về HTQT của Công ước Liên hợp

quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia”. Trong nghị quyết này,

UNODC đã trực tiếp phát triển một hướng dẫn để tạo thuận lợi trong việc

soạn thảo, truyền tải và thực hiện các yêu cầu dẫn độ và TTTP. Sổ tay này

hướng tới các cơ quan trung ương hoặc các cơ quan có thẩm quyền của các

quốc gia, các nhà hoạch định chính sách và những người thực thi pháp luật

hình sự bao gồm các luật sư, điều tra viên, thẩm phán và quan tòa, những

người có liên quan đến việc TTTP quốc tế.

Manual on International Cooperation in Criminal Matters related to

Terrorism (2009): Nguồn UNODC “Sổ tay về Hợp tác quốc tế trong giải

quyết các vấn đề hình sự liên quan đến khủng bố năm 2009”: Mục tiêu của

cuốn sổ tay này nhằm hướng dẫn những chuyên gia pháp lý trong đấu tranh

chống khủng bố có được hành động hiệu quả và nhanh chóng hơn. Bên cạnh

đó, cuốn sổ tay cung cấp cho người đọc những câu trả lời liên quan tới các

công cụ mà họ có thể sử dụng hoặc các hình thức liên quan để HTQT về vấn

đề dẫn độ và TTTP, cũng như đưa ra những bài học thực tế về những khó

khăn và trở ngại mà họ có thể phải đối mặt. Cuốn sổ tay cũng dự kiến được sử

dụng như một công cụ trong việc đào tạo những chuyên gia pháp lý trong đấu

tranh chống khủng bố.

11

Counter-Terrorism Legal Training Curriculum: Module 3:

International Cooperation in Criminal Matters: Nguồn UNODC “Chương

trình đào tạo pháp lý về chống khủng bố. Bài giảng số 3: Hợp tác quốc tế

trong các vấn đề hình sự”:Chương trình đào tạo là nền tảng để đưa ra những

kiến thức và chuyên môn cần thiết để tăng cường năng lực cho những cán bộ

trong nước làm việc trong lĩnh vực tư pháp hình sự nhằm thực hiện khung

pháp lý phổ quát về chống khủng bố. Bài giảng số 3 của chương trình đào tạo

tập trung vào vấn đề HTQT trong các vấn đề hình sự, đặc biệt là TTTP và dẫn

độ trong các vụ việc khủng bố.

Model Law on Mutual Assistance in Criminal Matters (2007): Nguồn

UNODC: “Luật mẫu về tương trợ tư pháp về hình sự năm 2007”: Luật mẫu

về TTTP về hình sự được phát triển bởi UNODC để hỗ trợ các quốc gia thành

viên thực thi các quy định của các hiệp định mẫu đã được Đại hội đồng thông

qua để tăng cường có hiệu quả việc HTQT. Luật mẫu được xây dựng sau khi

các hiệp định mẫu được thông qua, đặc biệt là sự ra đời của Công ước Liên

hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Công ước Liên hợp

quốc về chống tham nhũng.

Bài viết “Evaluating mlats in the era of online criminal conduct”

(Đánh giá các hiệp định tương trợ tư pháp trong kỷ nguyên tội phạm mạng),

tác giả Shalini S thuộc Trung tâm quản lý Viễn thông Ấn Độ, Nhóm nghiên

cứu loạt bài viết CCG (năm 2015 – 2016). Bài viết nhấn mạnh vai trò quan

trọng của các hiệp định TTTP trong quá trình điều tra, truy tố các vụ án hình

sự có yếu tố nước ngoài. Tác giả chỉ ra những khó khăn trong việc sử dụng

các hiệp định TTTP để thu thập thông tin, chứng cứ, dữ liệu điện tử: nguyên

tắc tội phạm kép; tính kịp thời trong việc cung cấp kết quả tương trợ. Từ đó,

tác giả đề xuất các hiệp định TTTP trong kỷ nguyên tội phạm mạng cần đáp

ứng đòi hỏi sau: Đơn giản hóa, giải quyết trực tiếp và kịp thời các yêu cầu

12

tương trợ; các cơ quan thực thi pháp luật mỗi nước cần chủ động xác định,

lưu giữ hay quả lý kho dữ liệu thông tin điện tử mà các quốc gia khác có thể

cần thu thập; cần phải có thiện chí chính trị giữa các quốc gia trong việc dành

cho nhau sự tương trợ.

Bài viết “The mutual legal assistance problem explained” (Giải thích

những vấn đề tồn tại của hoạt động tương trợ tư pháp), tác giả Gail Kent,

nguồn trang web của Trung tâm về Xã hội và Internet Hoa Kỳ ngày

23/02/2015. Tác giả cho rằng để giải quyết các vụ tội phạm mạng, chỉ riêng

hệ thống pháp luật Hoa Kỳ là chưa đủ mà cần sự hỗ trợ của các hệ thống pháp

luật quốc gia khác thông qua hoạt động TTTP. Tuy nhiên, kênh TTTP còn

nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thu thập chứng cứ ở nước ngoài:

Việc thực hiện tương trợ phải áp dụng đồng thời nhiều hệ thống pháp luật;

quá trình thực hiện tương trợ kéo dài; yêu cầu tương trợ đòi hỏi thỏa mãn

nguyên tắc tội phạm kép; việc thực hiện tương trợ có thể phải tiếp cận dữ liệu

cá nhân, bí mật đời tư của công dân, do đó sẽ vi phạm các quyền công dân

được pháp luật bảo vệ.

Các công trình nghiên cứu trên chưa thể khái quát được tình hình

nghiên cứu nước ngoài về HTQT trong lĩnh vực TTTPHS nhưng bước đầu đã

gợi mở những luận điểm mang tính phương pháp luận, đã đóng góp giá trị

khoa học không nhỏ như sau:

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu chỉ ra sự cần thiết thúc đẩy hoạt

động HTQT nói chung, hoạt động TTTPHS nói riêng trong bối cảnh toàn cầu

hóa. Đây là công cụ, biện pháp quan trọng để các nước cùng hợp tác đấu tranh

chống tội phạm.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã làm rõ khung pháp lý của HTQT

về TTTPHS: điều ước quốc tế, nội luật của các nước và một số định hướng

hoàn thiện khung pháp lý này.

13

Thứ ba, một số công trình nghiên cứu đã đánh giá, phân tích những khó

khăn, vướng mắc trong thực tiễn hoạt động TTTPHS, qua đó đưa ra một số

giải pháp khắc phục.

Thứ tư, các công trình nghiên cứu cho thấy giá trị của nghiên cứu

HTQT về TTTPHS trong việc phân tích, định hướng các xu hướng phát triển

của hoạt động này trong bối cảnh toàn cầu hóa của thế giới.

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

1.2.1. Tình hình nghiên cứu về hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm

Hiện nay, các nghiên cứu về HTQT phòng, chống tội phạm trên cả

phương diện lý luận và thực tiễn chưa nhiều. Chúng ta chủ yếu trao đổi trên

nguyên tắc hợp tác chung trong khuôn khổ các công ước quốc tế, nghị định

thư, nghị quyết của Liên Hợp quốc, các thoả thuận khu vực, đa phương, song

phương, trong các văn kiện của Liên Hợp quốc, Cảnh sát Hình sự quốc tế

(Interpol), các hội nghị, hội thảo phòng chống tội phạm quốc tế, khu vực mới

chỉ đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm chung chung,

chưa chú trọng đến các biện pháp cụ thể nên hiệu quả chưa cao. Việc ký kết,

tham gia các công ước quốc tế, hiệp định TTTP, nghị định thư... như là các

công ước quốc tế về kiểm soát ma tuý, về phòng chống tội phạm có tổ chức

xuyên quốc gia, phòng chống tham nhũng, chống khủng bố của Việt Nam mới

chỉ là những cơ sở pháp lý cơ bản, chưa được cụ thể hoá và tính khả thi chưa

cao. Mặt khác, sự khác biệt về điều kiện chính trị, kinh tế, địa lý cũng như tổ

chức hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp, khác biệt trong tổ chức, nhiệm

vụ quyền hạn của lực lượng chức năng Việt Nam với các nước trong phòng

chống tội phạm nói chung, HTQT phòng, chống tội phạm nói riêng và để giải

quyết hài hoà giữa yêu cầu tăng cường HTQT phòng, chống tội phạm với việc

giữ gìn bí mật an ninh quốc gia và bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện

14

gia nhập WTO đang là những vấn đề cần phải làm rõ trong HTQT phòng,

chống tội phạm.

Một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như:

PGS.TS Nguyễn Phong Hòa có hai tác phẩm: Tương trợ tư pháp và

hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân

trong quá trình hội nhập quốc tế, sách chuyên khảo, nxb CAND, 2011; và

“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế phòng chống tội

phạm của lực lượng CSND trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đề tài

khoa học cấp Bộ trọng điểm, 2015. Hai công trình nghiên cứu trên nghiên cứu

một số vấn đề lý luận cơ bản của hoạt động HTQT trong đấu tranh phòng,

chống tội phạm của lực lượng CSND gồm: tính tất yếu khách quan, khái

niệm, cơ sở pháp lý, đặc trưng, nguyên tắc cơ bản, nội dung, hình thức, biện

pháp. Hai công trình đã đưa ra khái niệm “HTQT đấu tranh phòng, chống tội

phạm của lực lượng CSND Việt Nam là quá trình hợp tác, thoả thuận, trao

đổi, thống nhất hành động trong những chương trình chung theo các điều ước

quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia (với tư cách Chính phủ hay Bộ, Ngành -

Bộ Công an hoặc Tư pháp, Nội vụ…) được đảm bảo bằng pháp luật quốc tế;

góp phần hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các bên tham gia hợp tác nhằm thực

hiện và giải quyết mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch có tính pháp lý được đặt ra

trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.” [24; tr.36], [52; tr.42]. Về cơ bản,

khái niệm trên đã phản ánh những dấu hiệu bản chất HTQT trong đấu tranh

phòng, chống tội phạm của lực lượng CSND Việt Nam; xác định được chủ

thể của quan hệ hợp tác là hai hoặc nhiều quốc gia; xác định được thuộc tính

của quan hệ hợp tác; nội dung và mục đích của quan hệ hợp tác phòng, chống

tội phạm. Đã xác định 5 đặc trưng cơ bản của HTQT phòng, chống tội phạm

của lực lượng CSND Việt Nam gồm: (1) Là mối quan hệ trực tiếp thông qua

các hiệp định, biên bản ghi nhớ giữa Bộ Công an, Nội vụ, Cảnh sát các nước,

15

Cảnh sát quốc tế và quan hệ “phát sinh” qua con đường ngoại giao; qua

TTTPHS, dẫn độ tội phạm; qua Bộ Tư pháp, VKSNDTC. (2) Vì mục đích của

từng quốc gia và của các quốc gia có quan hệ hợp tác. (3) Mang tính đa dạng

với nhiều hình thức, luôn gắn với quản lý nhà nước về ANTT, trong các lĩnh

vực: trao đổi thông tin, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, hoạt động tố tụng

hình sự, hợp tác TTTP, dẫn độ tội phạm, chuyển giao phạm nhân... (4) Cần có

kế hoạch hoặc đề án chung thống nhất để đảm bảo có hiệu quả trong đấu tranh

phòng, chống tội phạm. (5) Góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,

chống tội phạm, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế - xã hội, kiên trì giữ vững

nguyên tắc mềm dẻo trong sách lược, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, bảo vệ chủ

quyền quốc gia, quyền, lợi ích của đất nước, của công dân Việt Nam.

Học viện CSND, Trung tâm nghiên cứu tội phạm học, Giáo trình “Hợp

tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm”, nxb CAND, 2014. Giáo trình đã

nghiên cứu lý luận về HTQT phòng, chống tội phạm ở các khía cạnh: khái

niệm, lịch sử hình thành phát triển, mục đích, vai trò, cơ sở pháp lý, chủ thể,

phạm vi, nguyên tắc, trình tự thủ tục thực hiện. Về khái niệm, giáo trình đã

nhận định ở góc độ phản ánh những dấu hiệu bản chất của HTQT trong

phòng, chống tội phạm, xác định chủ thể, các thuộc tính, nội dung và mục

đích của hợp tác. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, quan điểm, đường lối của

Đảng, Nhà nước và quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký

kết, gia nhập, giáo trình đã đưa ra 4 nguyên tắc mà HTQT phòng, chống tội

phạm phải tuân thủ: phù hợp với chính sách đối ngoại của nhà nước; tôn trọng

độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia không can thiệp vào

công việc nội bộ của nhau; tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các

nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế; phù hợp với điều ước quốc tế mà

Việt Nam là thành viên.

16

ThS. Chử Văn Dũng (2010), Hoạt động Interpol trong thực hiện tương

trợ tư pháp hình sự và dẫn độ tội phạm ở Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội.

Công trình nghiên cứu đã đưa ra một số nhận thức lý luận chung về: HTQT là

yêu cầu bức thiết trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay; TTTPHS

và dẫn độ tội phạm trong HTQT phòng, chống tội phạm; hoạt động Interpol

trong thực hiện TTTPHS và dẫn độ. Tác giả đánh giá "Hoạt động Interpol là

một thực tiễn HTQT trong phòng, chống tội phạm hiệu quả không chỉ đối với

Việt Nam mà còn phổ biến đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Vai trò của

Interpol ngày càng tăng và có tác dụng to lớn trong quá trình hỗ trợ, giải

quyết và thực hiện TTTPHS và dẫn độ tội phạm, cũng như là biện pháp để

tăng cường nâng cao hiệu quả của HTQT trong phòng, chống tội phạm ở Việt

Nam." [18; tr.203-204]. Tác giả nhận định một số tồn tại, hạn chế của hoạt

động này ở các vấn đề: giá trị pháp lý không phải lúc nào cũng được thừa

nhận, một số trường hợp sử dụng hoạt động Interpol chỉ như là thủ tục kín hồ

sơ, như là biện pháp trung gian nên chưa được coi trọng. Từ đó, tác giả đề ra

các nhóm giải pháp: hoàn thiện cơ sở pháp lý; tăng cường tổ chức, bộ máy,

nguồn nhân lực và đào tạo cán bộ; xây dựng và hoàn thiệt quy chế phối hợp

giữa Văn phòng Interpol Việt Nam và các đơn vị liên quan; tăng cường hoạt

động Interpol; tăng cường quan hệ quốc tế giữa Văn phòng Interpol Việt Nam

với Tổng hành dinh Interpol và Văn phòng Interpol các quốc gia.

Bùi Anh Dũng (2005), Hợp tác quốc tế của lực lượng Cảnh sát nhân

dân Việt Nam với Cảnh sát nước ngoài trong đấu tranh phòng, chống tội

phạm, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội. Nội

dung của đề tài luận án này có một số nội dung mà đề tài có thể tham khảo

được như các khái niệm, nguyên tắc, nội dung, hình thức, cơ sở pháp lý về

HTQT phòng, chống tội phạm của lực lượng CSND. Tuy nhiên nghiên cứu

trước đây chưa làm rõ được vị trí, vai trò, tác động của HTQT góp phần đảm

17

bảo ANTT, phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế chưa được

đánh giá đầy đủ, đặc trưng của từng loại văn bản liên quan trong HTQT

phòng, chống tội phạm và các vướng mắc trong hợp tác với các nước trong

phòng, chống tội phạm.

Nguyễn Thành Long (2015), Phòng, chống tội phạm trên tuyến biên

giới Tây Nam Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa

học xã hội. Luận án đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về phòng, chống tội

phạm nói chung, lý luận về phòng, chống tội phạm buôn lậu nói riêng. Luận

án đã khảo sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá trình hình tội phạm và tình hình

hoạt động phòng, chống loại tội phạm này trên tuyến biên giới Tây Nam,

trong đó đã khẳng định những thành công, kết quả đạt được của hoạt động

phòng, chống tội phạm này đã góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên

toàn tuyến và các địa phương lân cận mặc dù vẫn còn một số hạn chế, tồn tại.

Từ đó, luận án đề ra các giải pháp phòng, chống tội buôn lậu trên tuyến biên

giới Tây Nam trong thời gian tới gồm 2 nhóm: nhóm biện pháp loại trừ và

nhóm biện pháp ngăn chặn. Trong đó, luận án đề cập đến biện pháp "Tăng

cường HTQT phòng, chống tội buôn lậu trên nguyên tắc phù hợp với pháp

luật hiện hành của nước ta và pháp luật quốc tế, phù hợp với chương trình

chống buôn lậu của Liên hợp quốc, của tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế

(Interpol) và tổ chức Cảnh sát các nước ASEAN (Aseanpol)" [33; tr.43].

Nguyễn Mai Trâm, (2017), Phòng, chống tội phạm mua bán người tại

Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội. Luận án đã

nghiên cứu về tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam hiện hành. Luận án đi sâu phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình tội

phạm mua bán người ở Việt Nam, nhận định về nguyên nhân và điều kiện của

tình hình đó. Từ đó, luận án đưa ra các giải pháp phòng, chống tội phạm mua

bán người, trong đó có giải pháp về HTQT gồm: tăng cường ký kết các hiệp

18

định đa phương, song phương; xây dựng các văn bản nội luật hóa; xây dựng

cơ chế hợp tác về phòng, chống tội phạm mua bán người giữa Việt Nam với

các nước; đào tạo cán bộ; xây dựng và mở rộng mạng lưới sỹ quan liên lạc ở

nước ngoài.

Lê Quang Thành, (2016), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản do người nước ngoài thực hiện ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật

học, Học viện Khoa học xã hội. Luận án đã đánh giá tình hình, nguyên nhân

và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do người nước ngoài thực hiện

ở Việt Nam và thực tiễn hoạt động phòng, chống tội phạm này. Qua đó, luận

án đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này. Trong đó có giải

pháp củng cố và tăng cường HTQT phòng, chống tội phạm trong tình hình

mới gồm các nội dung: thực hiện tốt các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế

đã ký kết, gia nhập; tăng cường đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế với các

nước lãng giềng, các nước có động người Việt sinh sống; tranh thủ sự giúp đỡ

về khoa học kỹ thuật của các nước.

Trần Phương Đạt (2000), Hoạt động của Công an nhân dân trong

phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài gây ra ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ

luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội. Đề tài này chủ yếu đề cập đến

phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài gây ra ở Việt Nam, trong đó có đề

cập đến một số đề xuất tăng cường HTQT của lực lượng Cảnh sát Việt Nam

trong phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài gây ra.

Cục Đối ngoại – Bộ Công an, “Interpol - những điều cần biết”, Nxb

CAND, 2017. Sách chuyên khảo giới thiệu tổng quan về Interpol (lịch sử, cơ

cấu, nhiệm vụ, điều lệ,…), Đại hội đồng Interpol. Sách đề cập đến công tác

phòng, chống tội phạm của Interpol ở các khía cạnh: vai trò của Interpol,

mạng lưới I-24/7, các lĩnh vực tội phạm ưu tiên, hệ thống cơ sở dữ liệu, các

19

chiến dịch, dự án, chương trình của Interpol; cơ chế hợp tác của Interpol và

các đối tác; Interpol Việt Nam và hướng dẫn xử lý thông tin tội phạm.

Phạm Quý Ngọ, “Công tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia

trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, 2010. Bài viết nhận diện tội phạm

xuyên quốc gia và thực trạng tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở Việt nam;

đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm xuyên quốc

gia ở Việt Nam.

Nguyễn Khắc Hải, “Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống

mua bán người tại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia

Hà Nội, tập 29, số 1 (2013), tr.20-26. Bài viết đi sâu vào thực trạng pháp luật

Việt Nam liên quan đến hợp tác khu vực và HTQT phòng, chống mua bán

người, đề ra những giải pháp đối với hoạt động này tại Việt Nam.

Nguyễn Thị Mai Nga, “Hợp tác quốc tế phòng, chống ma túy và tình

hình phòng, chống tội phạm ma túy ở một số quốc gia”, Tạp chí Kiểm sát, số

11/2006. Bài viết đánh giá tình hình ma túy ở một số quốc gia: Trung Quốc,

Lào, Campuchia, Thái Lan, Singapore, Myanma và vấn đề hợp tác của Chính

phủ Việt Nam với tổ chức quốc tế, các quốc gia này trong phòng, chống ma túy.

Việt Hưng, “Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên

quốc gia”, báo CAND, 23/8/2015. Trước những biến động phức tạp của tình

hình thế giới và khu vực, lực lượng CAND Việt Nam tiếp tục triển khai hiệu

quả hoạt động đối ngoại, HTQT, tạo dựng thế trận an ninh nhân dân phòng

tuyến bảo vệ an ninh trật tự từ xa, góp phần quan trọng vào những thành tựu

đối ngoại của đất nước.

Ngoài ra, có một số tác phẩm, bài viết về các vấn đề liên quan đến

HTQT phòng, chống tội phạm như: Phạm Hỗ (2003), Tội phạm xuyên quốc

gia liên quan đến Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu

khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Tổng cục Cảnh sát (1999), Dẫn độ tội phạm và

20

TTTPHS trong phòng, chống tội phạm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp,

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Nguyễn Xuân Yêm (1994), Tội

phạm quốc tế - những bàn tay bạch tuộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

Nguyễn Đình Đường, “HTQT trong đấu tranh phòng chống tội phạm”, Báo

Nhân dân điện tử, 12/8/2005; “Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống

tội phạm”, Trang điện tử ANTV, 23/2/2015; Nguyễn Thị Nga, “HTQT trong

phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường biển”, Trang điện

tử Cảnh sát nhân dân, 23/4/2017; Đặng Xuân Khang, “HTQT trong phòng,

chống tội phạm giữa Việt Nam và Ấn Độ trong bối cảnh hội nhập quốc tế”,

Trang điện tử Ho Chi Minh national academy of politics, 23/12/2016. Một số

bài viết của PGS.TS Trần Hữu Ứng gồm: Vấn đề tội phạm có tổ chức trong

cộng đồng người Việt Nam ở Cộng hoà Liên bang Đức, Tạp chí trật tự an toàn

xã hội số 4, 1997, tr.14-16; Ý tưởng về mạng lưới sỹ quan liên lạc của Cảnh

sát Việt Nam trong tương lai, Tạp chí Trật tự an toàn xã hội, số 8-9, 1997,

tr.47-50; Về phòng, chống tội phạm do người Việt Nam gây ra ở Cộng hoà

Liên bang Đức, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 3, 1997, tr.24-26; Hợp tác

quốc tế đấu tranh chống tội phạm, một yêu cầu bức xúc, Tạp chí Cộng sản, số

4, 1998; Vài suy nghĩ về HTQT đấu tranh chống tội phạm có tổ chức do người

Việt Nam thực hiện ở nước ngoài, Tạp chí Luật học, số 12, 1998, tr.30-34.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu về hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp

hình sự

Đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận, thực trạng và

giải pháp nâng cao hiệu quả HTQT về TTTPHS. Các công trình nghiên cứu

làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quan niệm, khái niệm, đặc điểm,

nguyên tắc, phạm vi, chủ thể, cơ sở pháp lý của HTQT về TTTPHS chủ yếu

là các sách giáo trình, sách chuyên khảo, bài báo về hoạt động HTQT. Nghiên

cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả HTQT về TTTPHS thì

21

ngoài các báo cáo tổng kết công tác của các đơn vị chức năng, thì chủ yếu là

một số sách chuyên khảo, luận văn Thạc sĩ. Trong các công trình nghiên cứu

trước đây đã đề cập đến những vấn đề này ở những mức độ, khía cạnh khác

nhau. Cụ thể như:

Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp “Pháp luật tương trợ tư pháp quốc

tế”, nxb Tư pháp, 2006; với mục đích là tài liệu tham khảo xây dựng dự án

Luật tương trợ tư pháp, công trình nghiên cứu đã phân tích về các vấn đề về

TTTP nói chung ở nhiều lĩnh vực (dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao

động, hình sự, dẫn độ) gồm: tổng quan, các quan niệm, phạm vi điều chỉnh

của pháp luật, các điều ước quốc tế quan trọng về vấn đề này. Công trình đã

khẳng định sự cần thiết của các hoạt động TTTP ở Việt Nam: "TTTP đang

ngày càng trở thành hoạt động không thể thiếu được của cơ quan tư pháp bất

kỳ quốc gia nào" [90; tr.31]; "TTTP trong các vụ việc có yếu tố nước ngoài là

một hoạt động không thể thiếu được của bất kỳ Tòa án và cơ quan tư pháp

nào của nước ta" [90; tr.32]. Công trình đã đánh giá sơ lược thực tiễn TTTP ở

một số nước: các nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô, Đông Âu) nửa cuối thế kỉ

20, các nước tư bản công nghiệp phát triển (một số nước Bắc Âu) ở những

thập kỉ cuối của thế kỉ 20. Tác phẩm nêu quá trình hình thành và phát triển

của hoạt động TTTP ở Việt Nam từ khi thành lập nước đến những năm 2000;

đã đi vào đánh giá một số lính vực TTTP về: dân sự, hôn nhân gia đình,

thương mại, lao động, hình sự, dẫn độ.

Nguyễn Ngọc Anh, sách chuyên khảo Tương trợ tư pháp về hình sự -

Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CAND, 2009, đã nghiên cứu những

vấn đề lý luận cơ bản về TTTPHS, phân tích, đánh giá những yếu tố tác động

đến TTTPHS ở Việt Nam, thực trạng cơ sở pháp lý, tổ chức thực hiện

TTTPHS ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2008; dự báo các yếu tố tác

động đến thực hiện TTTPHS giữa Việt Nam với các nước đến năm 2020; đề

22

ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả TTTPHS ở Việt Nam như: hoàn thiện

cơ sở pháp lý, tổ chức thực hiện có hiệu quả điều ước quốc tế về TTTPHS,

xây dựng và hoàn thiện các quy chế phối hợp và quy trình công tác, đẩy mạnh

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật.

Bộ Tổng chưởng lý Australia, Bộ Tư pháp Việt Nam, Cẩm nang hướng

dẫn Luật tương trợ tư pháp, nxb Bộ Tư pháp, 2010, tại phần nêu sự cần thiết

ban hành Luật TTTP đưa ra nhận định TTTP là một đòi hỏi khách quan trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, là hoạt động không thể thiếu của Tòa án và

các cơ quan tư pháp Việt Nam. Trong đó, tác phẩm đã sơ lược về tình hình

HTQT, các vụ việc pháp lý phát sinh cần có sự hỗ trợ, hợp tác của các cơ

quan pháp luật và tư pháp các nước liên quan từ những năm 1970 đến những

năm đầu của thế kỉ 21.

PGS.TS Nguyễn Phong Hòa (chủ biên), sách chuyên khảo Tương trợ tư

pháp và hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát

nhân dân trong quá trình hội nhập quốc tế, nxb CAND, 2011; tác phẩm

nghiên cứu về lý luận của hoạt động HTQT nói chung trong đấu tranh phòng,

chống tội phạm. Trong đó nghiên cứu TTTP ở khía cạnh là một nội dung của

HTQT phòng, chống tội phạm với các bản chất: thực chất hoạt động TTTP là

sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong việc giải quyết thỏa đáng các vấn

đề tư pháp mà các bên liên quan; cơ sở pháp lý, nguyên tắc thực hiện là các

điều ước quốc tế và pháp luật các nước liên quan; nội dung gồm cả TTTP dân

sự và TTTPHS, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù; cơ quan thực

hiện do pháp luật mỗi quốc gia quy định và thường là cơ quan tư pháp; mục

đích hoạt động là bảo vệ tối đa Nhà nước, cơ quan, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân của nước này trên lãnh thổ của nước kia. Tác phẩm đã

phân tích đánh giá thực trạng HTQT của lực lượng CSND Việt Nam trong

giai đoạn 2006 – 2010 ở các lĩnh vực: tuyên truyền phổ biến pháp luật, điều

23

ước, trao đổi thông tin tội phạm; sỹ quan liên lạc; đàm phán, ký kết, tổ chức

thực hiện các điều ước quốc tế; điều tra, truy nã, dẫn độ tội phạm. Đồng thời

đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả HTQT đấu tranh phòng, chống tội

phạm của lực lượng CSND ở các khía cạnh: tổng kết, rút kinh nghiệm; hoàn

thiện cơ sở pháp lý; hoàn thiện các quy chế phối hợp, quy trình công tác; nâng

cao chất lượng hợp tác quốc tế của các tỉnh giáp biên; thiết lập mạng lưới sỹ

quan liên lạc Cảnh sát ở một số nước; công tác đào tạo cán bộ.

GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) “Sổ tay về công tác tương trợ tư

pháp về hình sự”, nxb Lao động, 2013; trên cơ sở các quy định của Luật

TTTP và các điều ước quốc tế, tác phẩm đã phân tích về các vấn đề của

TTTPHS gồm: khái niệm, phạm vi tương trợ, nguyên tắc, các trường hợp từ

chối tương trợ, hồ sơ ủy thác, chi phí thực hiện, ngôn ngữ sử dụng, cơ quan

thực hiện, quy trình thực hiện và cơ sở pháp lý thực hiện.

TS. Trần Công Phàn (chủ biên) “Sổ tay công tác tương trợ tư pháp

hình sự”, nxb Lao động, 2015; trên cơ sở các quy định của Luật TTTP và các

điều ước quốc tế, tác phẩm đã phân tích về các vấn đề của TTTPHS gồm:

khái niệm, nguyên tắc, phạm vi tương trợ, áp dụng pháp luật, từ chối hoặc

hoãn thực hiện tương trợ, cơ quan thực hiện, ngôn ngữ sử dụng, chi phí thực

hiện và quy trình thực hiện.

GS.TS Nguyễn Xuân Yêm (2013), Khoa học hình sự Việt Nam, tập 3,

“Chiến thuật hình sự”, nxb CAND. Công trình đã nghiên cứu, phân tích về

TTTPHS ở các khía cạnh: khái niệm, các nguyên tắc cơ bản, cơ sở từ chối,

các hình thức tương trợ, nội dung quy định trong các hiệp định về TTTP.

Công trình đã cho rằng "hiện nay TTTPHS được thực hiện dưới hai hình thức:

Thứ nhất là kênh tương trợ chính giữa các nước theo các điều ước quốc tế

hoặc quan hệ thân thiện giữa hai nước. Thứ hai là theo kênh không chính

thức như kênh Cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL – ICPO." [95; tr.290].

24

Nghiên cứu sinh chưa thống nhất với nhận định này. Quan điểm của nghiên

cứu sinh cho rằng kênh Interpol không phải là kênh thực hiện hoạt động

TTTPHS, mà chỉ là kênh trao đổi thông tin phòng, chống tội phạm. Hoạt động

TTTPHS là hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện trên cơ sở điều ước

quốc tế đã kí kết thông qua cơ quan trung ương (đối với Việt Nam là

VKSNDTC), hoặc trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại thông qua kênh ngoại

giao (đối với Việt Nam là Bộ Ngoại giao xác định nguyên tắc này trước khi

chuyển yêu cầu TTTPHS của nước ngoài cho VKSNDTC).

Nguyễn Huy Hùng, luận văn Thạc sĩ “Hoạt động tương trợ tư pháp

hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an”, 2011, đã nghiên cứu

những vấn đề lý luận chung về TTTPHS của Cơ quan CSĐT BCA ở các khía

cạnh: khái niệm, nguyên tắc, phạm vi, cơ sở pháp lý, đặc điểm, nhiệm vụ.

Luận văn đã phân tích đánh giá thực tiễn hoạt động TTTPHS của Cơ quan

CSĐT BCA trong 5 năm (2006 – 2010). Đồng thời tác giả đã đưa ra các giải

pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TTTPHS của Cơ quan CSĐT BCA gồm:

Hoàn thiện lý luận và pháp luật; bổ sung và đào tạo cán bộ; tăng cường cơ sở

vật chất; đẩy mạnh các hoạt động HTQT.

Nguyễn Xuân Quyển, 2016, “TTTP về hình sự trong phòng, chống tội

phạm của Cơ quan CSĐT BCA”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa

học xã hội. Luận văn đã đánh giá tình hình tội phạm có yếu tố nước ngoài có

liên quan đến hoạt động TTTPHS, đánh giá tình hình thực hiện hoạt động

TTTPHS của Cơ quan CSĐT BCA trong 5 năm (2011 đến 2015), phân tích

theo 6 nhóm nội dung tương trợ quy định tại Điều 17 Luật TTTP năm 2007,

đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế chủ yếu của hoạt động này. Từ

đó, luận văn đưa ra cá giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thời

gian tới: hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao năng lực cán bộ và tăng cường cơ

sở vật chất, hoàn thiện cơ chế thực hiện, tăng cường quan hệ hợp tác.

25

Lại Thị Huệ, 2017,“Nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp về

hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an trong quá trình hội nhập

quốc tế”, luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát. Luận văn đã nghiên

cứu những vấn đề lý luận chung về TTTPHS về: các quan niệm, khái niệm,

nguyên tắc, phạm vi, cơ sở pháp lý; nghiên cứu những vấn đề lí luận chung về

TTTPHS của Cơ quan CSĐT BCA ở các khía cạnh: khái niệm, đặc điểm,

nhiệm vụ. Luận văn đã phân tích đánh giá tình hình tội phạm xuyên quốc gia,

đánh giá thực tiễn hoạt động TTTPHS của Cơ quan CSĐT BCA trong 6 năm

(2011-2016) theo từng nhóm phạm vi tương trợ quy định tại Điều 17 Luật

TTTP năm 2007 gồm: tống đạt các loại giấy tờ, hồ sơ, tài liệu có liên quan;

triệu tập người làm chứng, người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ

phục vụ công tác điều tra, giải quyết vụ án hình sự; truy cứu trách nhiệm hình

sự; trao đổi thông tin có liên quan đến điều tra vụ án hình sự; thực hiện các

yêu cầu TTTP khác về hình sự. Đồng thời, tác giả đã đưa ra các giải pháp

nâng cao hiệu quả hoạt động TTTPHS của Cơ quan CSĐT BCA ở các khía

cạnh: Hoàn thiện pháp luật, trong đó có việc đàm phán ký kết các điều ước

quốc tế, sửa đổi Luật TTTP 2007, ban hành các văn bản hướng dẫn; nâng cao

năng lực cán bộ; khắc phục những tồn tại, nâng cao chất lượng trong thực

hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp; tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa

các đơn vị chức năng; đẩy mạnh các hoạt động HTQT.

Hoàng Thị Thúy Hòa, 2013, "Hoàn thiện pháp luật về TTTP về hình sự

ở Việt Nam", Luận văn Thạc sỹ Luật học; Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã đánh giá quá trình hình thành và phát

triển pháp luật về TTTPHS Việt Nam theo các giai đoạn: từ 1984 đến trước

khi ban hành Luật TTTP năm 2007, từ khi ban hành Luật tương trợ tư pháp

năm 2007 đến 2013. Đã đánh giá thực trạng pháp luật về TTTPHS ở Việt

Nam ở các nội dung: quản lý Nhà nước, tổ chức bộ máy làm công tác

26

TTTPHS, kết quả thực hiện các yêu cầu, đàm phán, ký kết các hiệp định,

công tác phối hợp với các cơ quan chức năng trong nước và nước ngoài trong

hoạt TTTPHS. Đã đánh giá hoạt động TTTPHS nói chung trong 5 năm từ

1/7/2008 đến 2012.

Nguyễn Ngọc Chi, “Hợp tác quốc tế và những vấn đề đặt ra khi thi

hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015”, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà

Nội, tập 34, số 1(2018), trang 1-12. Bài viết nêu sự cần thiết và cơ sở của việc

sửa đổi quy định về HTQT trong TTHS của Bộ luật TTHS năm 2015; những

nội dung chính của Bộ luật này về HTQT; một số vấn đề đặt ra khi thi hành

quy định của Bộ luật về HTQT.

Ngoài ra, có một số bài viết nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến

HTQT về TTTPHS như: Nguyễn Ngọc Anh, “Hoàn thiện chế định hợp tác

quốc tế trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Trang điện

tử Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội; Phan Vũ, “Hướng dẫn công tác hợp tác

quốc tế và tương trợ tư pháp hình sự năm 2017”, Trang điện tử Kiemsat,

06/2/2017; Nguyễn Văn Thắng, “Một số vấn đề về tương trợ tư pháp trong

trao đối thông tin lý lịch tư pháp trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Trang điện

tử Bộ Tư pháp, 06/5/2017; Ngô Quỳnh Anh, “Giới thiệu khái quát về tương

trợ tư pháp về hình sự của Ô-xtrây-lia”, Trang điện tử Trường Đại học kiểm

sát Hà Nội; Vụ Hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp hình sự - VKSNDTC,

“Kết quả thực hiện chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực

hoạt động tư pháp”, Trang điện tử VKSNDTC, 01/8/2013; Nguyễn Hương,

“Nâng cao hiệu quả công tác tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển

giao người bị kết án phạt tù”, Trang điện tử CAND, 18/12/2017.

Tổng quan tình hình nghiên cứu về HTQT trong hoạt động TTTPHS

cho thấy các tác phẩm nghiên cứu tuy không nhiều nhưng đã đóng góp không

nhỏ trong việc làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.

27

* Về lý luận HTQT về TTTPHS:

Đối với khái niệm hợp HTQT về TTTPHS, hiện chưa có định nghĩa

chính thống và thống nhất, chưa được quy định trong luật. Các nhà nghiên

cứu đã có sự tương đồng trong khái niệm hướng đến bản chất của vấn đề, trên

cơ sở các quy phạm pháp luật.

Các kết quả nghiên cứu cũng đã làm sáng tỏ một cách cơ bản về khái

niệm, nguyên tắc, phạm vi, chủ thể, cơ sở pháp lý của vấn đề. Những lập luận

trong các công trình khoa học này, dù được diễn giải theo cách này hay cách

khác, đều xuất phát từ những luận điểm được đồng thuận cao trong giới khoa

học pháp lý hình sự, đều xuất phát từ các quy phạm pháp luật.

Qua nghiên cứu các tác phẩm trên có thể đưa đến một số kết luận mang

tính khái quát như sau:

Thứ nhất, các nghiên cứu trong phần lớn các công trình khoa học nêu

trên được xuất phát trên nền tảng lý luận quy phạm thực định của Luật TTTP,

BLTTHS, các điều ước quốc tế về TTTPHS.

Thứ hai, các nội dung nghiên cứu được triển khai trên cơ sở phân tích,

bình luận các quy phạm thực định để làm sáng tỏ nội hàm về khái niệm, đặc

điểm, nguyên tắc, phạm vi, chủ thể, cơ sở pháp lý của HTQT về TTTPHS.

* Về thực trạng HTQT về TTTPHS:

Thứ nhất, các nghiên cứu phân tích, đánh giá thực tiễn trên nền tảng

chủ yếu là tình hình, kết quả HTQT về TTTPHS được phản ánh tại các báo

cáo tổng kết của các đơn vị chức năng.

Thứ hai, thực tiễn được nhìn nhận, đánh giá thông qua quan điểm chủ

quan của tác giả. Qua đó, các tác giả đã rút ra những nhận định về kết quả

thực hiện trên các mặt ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc khi áp dụng

pháp luật.

28

Thứ ba, các công trình nghiên cứu tiếp cận thực tiễn HTQT về

TTTPHS ở các góc độ, phạm vi khác nhau: TTTP chung gồm nhiều lĩnh vực

dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự, dẫn độ,...; HTQT đấu tranh phòng, chống

tội phạm (phạm vi rộng, hợp tác bao gồm cả hoạt động TTHS và hoạt động

trao đổi thông tin tội phạm); hoạt động TTTPHS của Cơ quan CSĐT BCA

(phạm vi hẹp, hợp tác trong tố tụng hình sự về TTTP, của một cơ quan điều

tra). Các công trình nghiên cứu đánh giá thực tiễn ở các giai đoạn khác nhau,

thường là 5 năm: 2006 – 2010, 2006 – 2010, 2011 – 2015, 2011 – 2016; một

số công trình nghiên cứu cả quá trình, giai đoạn lớn gồm nhiều thập kỉ để

phục vụ xây dựng Luật TTTP.

Thứ tư, chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực

tiễn ở góc độ, phạm vi HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam.

Đây là vấn đề vừa có phạm vi rộng, vừa có tính chuyên sâu: hợp tác về tố

tụng hình sự trong lĩnh vực TTTPHS của toàn bộ 64 Cơ quan CSĐT trên toàn

quốc. Chưa có nghiên cứu nào tổng hợp, phân tích, đánh giá thực tiễn HTQT

về TTTPHS trong phạm vi 12 năm từ khi Luật TTTP năm 2007 có hiệu lực

(1/7/2008) đến 31/12/2019.

* Về giải pháp nâng cao hiệu quả HTQT về TTTPHS:

Thứ nhất, cơ sở mà các công trình nghiên cứu đưa ra giải pháp gồm:

thực tiễn thực hiện hoạt động HTQT về TTTPHS, nhất là các vấn đề còn tồn

tại, vướng mắc; dự báo tình hình thời gian tới, mỗi tác giả, công trình nghiên

cứu có những dự báo riêng tại các thời điểm, giai đoạn khác nhau.

Thứ hai, các nghiên cứu trên đã đề ra các giải pháp cơ bản để nâng cao

hiệu quả hoạt động TTTPHS theo từng phạm vi nghiên cứu của công trình.

Các giải pháp chủ yếu về các vấn đề: hoàn thiện pháp luật; xây dựng cơ chế

hợp tác, phối hợp; xây dựng củng cố hệ thống cơ quan thực thi hợp tác; nguồn

lực cán bộ thực thi.

29

1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

1.3.1. Những vấn đề đã nghiên cứu

Những công trình khoa học mà tác giả tiếp cận được nêu trên không

phải là toàn bộ hệ thống các nghiên cứu về HTQT phòng, chống tội phạm nói

chung, HTQT về TTTPHS nói riêng ở nước ta trong thời gian qua, nhưng

chúng đã phần nào phản ánh được trạng thái, xu hướng và quy mô của các

nghiên cứu. Có thể đưa ra một số kết luận chung đánh giá như sau:

* Về tình hình nghiên cứu HTQT phòng, chống tội phạm ở nước ta

trong thời gian qua:

Những năm gần đây, có nhiều tác giả quan tâm hơn đến nghiên cứu

HTQT trong phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên không nhiều công trình

nghiên cứu hoạt động này ở diện rộng bao quát, mà chủ yếu đi vào từng nội

dung, khía cạnh cụ thể của HTQT phòng, chống tội phạm như: hoạt động của

chủ thể là lực lượng Cảnh sát; hoạt động TTTP; hoạt động Interpol; phòng,

chống tội phạm xuyên quốc gia; phòng chống mua bán người; phòng chống

tội phạm ma túy;... Các tác phẩm chủ yếu nghiên cứu về thực tiễn hoạt động

và đưa ra các giải pháp, yêu cầu đối với các hoạt động cụ thể trên. Một số ít

tác phẩm nghiên cứu về lý luận HTQT phòng, chống tội phạm trên các khía

cạnh: khái niệm, lịch sử hình thành phát triển, mục đích, vai trò, cơ sở pháp lí,

chủ thể, phạm vi, nguyên tắc, trình tự thủ tục thực hiện. Có thể nói các kết quả

nghiên cứu trên đã góp phần bổ sung tri thức lý luận và thực tiễn về HTQT

phòng, chống tội phạm trong khoa học tội phạm học nước ta.

Thời gian tới, cần nghiên cứu, luận giải làm sâu sắc hơn các vấn đề lý

luận: khái niệm, nguyên tắc, đặc điểm, nội dung, cơ sở pháp lý... của HTQT

trong phòng, chống tội phạm.

* Về tình hình nghiên cứu HTQT về TTTPHS ở nước ta thời gian qua:

30

Thứ nhất, phần lớn xu hướng nghiên cứu HTQT về TTTPHS ở nước ta

thời gian qua là cách tiếp cận nghiên cứu thực định. Do đó, các nghiên cứu lý

luận HTQT về TTTPHS được triển khai trên nền tảng lý luận quy phạm về

HTQT, về TTTHS trong BLTTHS, Luật TTTP và các điều ước quốc tế mà

Việt Nam đã ký kết, gia nhập. Cách tiếp cận này đã đem đến nhiều thành tựu

quan trọng trong các nghiên cứu về HTQT về TTTPHS. Với cách tiếp cận

này, các công trình khoa học đã phân tích làm rõ lý luận về: khái niệm,

nguyên tắc, đặc điểm, chủ thể, nội dung... của HTQT về TTTPHS. Đồng thời

nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình hình thực hiện HTQT về TTTPHS ở các

khía cạnh: kết quả đạt được; những tồn tại, vước mắc khi áp dụng pháp luật

vào thực tiễn; đánh giá ở những góc độ, phạm vi khác nhau của từng công

trình nghiên cứu. Qua đó, một số công trình đã đưa ra các giải pháp, kiến nghị

hoàn thiện về lý luận, pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động này. Kết quả

nghiên cứu đã cung cấp các luận cứ, cơ sở cho việc thiết kế các phương

hướng, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện HTQT về TTTPHS ở các khía cạnh lý

luận, quy phạm pháp luật, thực tiễn... Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu trên

là sự bổ sung, đáp ứng tri thức lý luận và thực tiễn về HTQT về TTTPHS

trong khoa học tội phạm học nước ta.

Thời gian gần đây, các nhà khoa học đã dần cởi mở hơn trong việc mở

rộng các định hướng, phương pháp, cách tiếp cận mới đa ngành và liên ngành

trong các nghiên cứu về HTQT về TTTPHS. Bên cạnh cách tiếp cận quy

phạm thực định về HTQT về TTTPHS, một số tác giả đã tiếp cận vấn đề này

qua các phương diện khác như: tội phạm học, xã hội học.

Tới đây, cần thiết luận giải sâu sắc hơn về các vấn đề lý luận: khái

niệm, nguyên tắc, đặc điểm, chủ thể, nội dung... của HTQT về TTTPHS.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu thực tiễn HTQT về TTTPHS còn ít,

nhưng cơ bản đã đánh giá được tình hình chung về hoạt động HTQT, một số

31

Luận văn Thạc sỹ đánh giá tình hình hoạt động TTTPHS của Cơ quan CSĐT

BCA trong phạm vi 5 năm. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu,

đánh giá, phân tích thực tiễn hoạt động này trong phạm vi 12 năm từ khi Luật

TTTP năm 2007 có hiệu lực (1/7/2008) đến 31/12/2019. Chưa có công trình

nào nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực tiễn ở góc độ, phạm vi HTQT về

TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam, đây là một trong những chủ thể

quan trọng của hoạt động TTTPHS.

Thứ ba, một số ít tác phẩm đã đưa ra các quan điểm, giải pháp cơ bản

để nâng cao hiệu quả hoạt động TTTPHS về các vấn đề: hoàn thiện pháp luật;

xây dựng cơ chế hợp tác, phối hợp; xây dựng củng cố hệ thống cơ quan thực

thi hợp tác; nguồn lực cán bộ thực thi. Tuy nhiên, cần làm rõ hơn các giải

pháp này, nhất là đặt trong bối cảnh Cơ quan CSĐT thực thi nhiệm vụ trong

quá trình hội nhập quốc tế.

1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Trước nhu cầu phát triển của khoa học tội phạm học, yêu cầu thực tiễn

hoạt động HTQT về TTTPHS, tác giả cho rằng cần triển khai nghiên cứu

HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam.

Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tri thức đã được tổng kết

của các công trình khoa học trong và ngoài nước để bổ sung, hoàn thiện

những vấn đề lý luận và nâng cao hiệu quả trong thực tiễn hoạt động HTQT

về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ở Việt Nam, luận án sẽ đi sâu nghiên cứu các

vấn đề sau:

Thứ nhất, luận án tiếp tục nghiên cứu lý luận HTQT phòng, chống tội

phạm, tập trung làm sâu sắc thêm về khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, nội

dung, mục đích của hoạt động này.

32

Thứ hai, luận án tiếp tục nghiên cứu lý luận HTQT về TTTPHS của Cơ

quan CSĐT, tập trung làm sâu sắc thêm về khái niệm, chủ thể, nguyên tắc,

nội dung, thủ tục áp dụng, nhiệm vụ, kênh thực hiện của hoạt động này.

Thứ ba, tổng hợp, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng quy định

của pháp luật và đánh giá thực trạng HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT

ở Việt Nam từ khi Luật TTTP năm 2007 có hiệu lực (1/7/2008) đến

31/12/2019. Đây là phạm vi nghiên cứu mới về thời gian, không gian, chủ thể.

Luận án phân tích, đánh giá tình hình tội phạm xuyên quốc gia, tình hình tội

phạm có yếu tố nước ngoài; tình hình thực hiện các yêu cầu TTTPHS do nước

ngoài đề nghị của Cơ quan CSĐT; tình hình yêu cầu TTTPHS do Cơ quan

CSĐT Việt Nam đề nghị nước ngoài; đánh giá kết quả đạt được, những hạn

chế và nguyên nhân của hạn chế.

Thứ tư, luận án dự báo tình hình tác động đến hoạt động HTQT về

TTTPHS, cùng với kết quả nghiên cứu từ thực tiễn để đưa ra những quan

điểm về giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này của Cơ quan CSĐT. Vấn

đề này tập trung vào việc định hướng hoàn thiện pháp luật, cơ chế hợp tác và

nguồn lực cán bộ.

33

Kết luận Chương 1

Chương 1 của Luận án đã thống kê, phân tích, tổng hợp các công trình

nghiên cứu của các tác giả ngoài nước, các tác giả trong nước mà Nghiên cứu

sinh tiếp cận được về lĩnh vực HTQT phòng, chống tội phạm và HTQT về

TTTPHS. Chương 1 đã đi sâu phân tích một số công trình nghiên cứu về các

nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu của Luận án. Qua đó đánh giá

những vấn đề đã được nghiên cứu, những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, luận

giải trong Luận án.

Như vậy hệ thống các công trình khoa học được luận án thống kê, phân

tích trên đây cơ bản đã phản ánh được xu hướng nghiên cứu về HTQT về

TTTPHS ở nước ta trong thời gian qua. Những thành tựu, kết quả nghiên cứu

đó đã đóng góp cho kho tàng tri thức lý luận và thực tiễn về lĩnh vực HTQT

về TTTPHS là không thể phủ nhận. Trong điều kiện hiện nay với sự phát triển

của khoa học và cách nhìn nhận đa chiều cho phép các công trình nghiên cứu

HTQT về TTTPHS được triển khai trong cách tiếp cận mang tính đa ngành và

liên ngành. Do đó, vai trò của việc tổng quan tình hình nghiên cứu lĩnh vực

HTQT về TTTPHS đưa đến những cơ sở, căn cứ cụ thể cho việc nhận diện

các vấn đề đặt ra mang tính cấp bách cần được triển khai nghiên cứu trong

thời gian tới.

Trong phạm vi, khả năng và mục đích nghiên cứu của mình, tác giả cho

rằng xu hướng nghiên cứu HTQT về TTTPHS sẽ sớm trở thành một chủ đề

được triển khai bởi nhiều công trình khoa học khác trong thời gian tới. Vì

vậy, việc nghiên cứu để thiết lập các khung lý thuyết, lý luận chung, nhiên

cứu về thực tiễn để đưa ra các giải pháp nâng cao hoạt động HTQT về

TTTPHS (điều sẽ được tiến hành trong các chương sau đây) là rất cần thiết.

34

CHƯƠNG II

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ PHÒNG,

CHỐNG TỘI PHẠM, HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ

PHÁP HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA

2.1. Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm

2.1.1. Khái niệm hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm

Cùng với sự phát triển giao thoa về kinh tế, văn hóa, xã hội, tội phạm

cũng đã mở rộng địa bàn hoạt động và mang tính “toàn cầu” xuyên quốc gia,

rất linh hoạt và rất nhạy bén trong việc lợi dụng các thành tựu của khoa học

và công nghệ hiện đại để hoạt động phạm tội. Hậu quả do tội phạm gây ra là

không thể tính hết được ở trong từng quốc gia cũng như trên phạm vi quốc

tế… đòi hỏi phải kịp thời ngăn chặn. Vì thế, cuộc đấu tranh phòng, chống tội

phạm không dừng lại ở phạm vi một quốc gia, không phải là trách nhiệm của

một quốc gia, mà có tính toàn cầu, cần có sự HTQT. Để thực hiện nhiệm vụ

đó, lực lượng Cảnh sát ở mỗi quốc gia riêng biệt không thể có khả năng độc

lập tự giải quyết toàn bộ vấn đề, mà cần phải hợp tác, liên kết chặt chẽ với

nhau, hỗ trợ nhau đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với các loại tội phạm

mang tính quốc tế trong tình hình mới. HTQT phòng, chống tội phạm cũng

được đặt trong tổng thể của tính toàn cầu đó, phù hợp với quy luật phát triển

khách quan của nó.

Giáo trình Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, nxb CAND,

2014, của Học viện CSND đưa ra khái niệm: “Hợp tác quốc tế trong phòng,

chống tội phạm là hoạt động hợp tác, phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với các cơ quan có thẩm quyền của

nước ngoài, với các tổ chức quốc tế khác nhằm thực hiện các hoạt động ký

kết điều ước quốc tế trong phòng, chống tội phạm, tương trợ tư pháp về hình

sự, dẫn độ, chuyển giao người có án phạt tù cũng như các hoạt động khác có

35

liên quan đến phòng, chống tội phạm trên cơ sở các quy định của pháp luật

quốc gia và pháp luật quốc tế” [21; tr.8-9]. Khái niệm trên đã phản ánh

những dấu hiệu bản chất của HTQT trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Về cơ bản, khái niệm đã xác định được chủ thể của quan hệ hợp tác là hai

hoặc nhiều quốc gia (với tư cách chính phủ hoặc các cơ quan chuyên môn đại

diện chính phủ); xác định được thuộc tính của quan hệ hợp tác; nội dung và

mục đích của quan hệ hợp tác. Tuy nhiên, khái niệm dùng từ “hợp tác” để giải

nghĩa cho khái niệm “hợp tác quốc tế...” là chưa phù hợp (bị trùng động từ).

“Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm bao gồm toàn

bộ các hoạt động cần thiết của thành viên cộng đồng quốc tế, nhằm ngăn

ngừa trừng trị, loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống quốc tế cũng như đời sống

quốc gia”. Khái niệm đã xác định chủ thể của hợp tác là thành viên cộng

đồng quốc tế, xác định nội dung hợp tác là các hoạt động cần thiết, xác định

mục đích hợp tác, tuy nhiên chưa xác định cơ sở pháp lý thực hiện.

Tác giả Nguyễn Phong Hòa trong sách chuyên khảo “TTTP và HTQT

về phòng, chống tội phạm của lực lượng CSND trong quá trình hội nhập quốc

tế”, nxb CAND, 2011 và “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động HTQT

phòng chống tội phạm của lực lượng CSND trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế”, Đề tài khoa học cấp Bộ trọng điểm, 2015 đã đưa ra khái niệm: “Hợp

tác quốc tế đấu tranh phòng, chống tội phạm của lực lượng CSND Việt Nam

là quá trình hợp tác, thoả thuận, trao đổi, thống nhất hành động trong những

chương trình chung theo các điều ước quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia

(với tư cách Chính phủ hay bộ, ngành - Bộ Công an hoặc Tư pháp, Nội vụ…)

được đảm bảo bằng pháp luật quốc tế; góp phần hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau

giữa các bên tham gia hợp tác nhằm thực hiện và giải quyết mục đích, nhiệm

vụ và kế hoạch có tính pháp lý được đặt ra trong đấu tranh phòng, chống tội

phạm.” [24; tr. 36], [52; tr.42]. Về cơ bản, khái niệm trên đã phản ánh những

36

dấu hiệu bản chất HTQT đấu tranh phòng, chống tội phạm của lực lượng

CSND Việt Nam; xác định được chủ thể của quan hệ hợp tác là hai hoặc

nhiều quốc gia; xác định được thuộc tính của quan hệ hợp tác; nội dung và

mục đích của quan hệ hợp tác phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, khái niệm

lại giới hạn nội dung hợp tác “trong những chương trình chung theo các điều

ước quốc tế”, vì thực tế có những hoạt động hợp tác phát sinh trong các vụ

việc cụ thể mà chưa được quy định trong các điều ước quốc tế, khi đó các

quốc gia có thể hỗ trợ nhau trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.

Nghiên cứu sinh cho rằng, từ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống

tội phạm trong bối cảnh toàn cầu, các cơ quan có thẩm quyền mỗi quốc gia và

một số tổ chức quốc tế phải hợp tác, phối hợp với nhau vì lợi ích quốc gia và

vì lợi ích chung. Theo Từ điển Tiếng Việt do NXB Đà Nẵng phát hành năm

2007 thì "hợp tác" là bố trí cùng nhau làm theo một kế hoạch chung để đạt

được một mục đích chung. Hay nói cách khác, hợp tác là cùng hành động hay

hoạt động hỗ trợ nhau, là cùng chung ý chí và cùng chung hành động để thực

hiện một công việc nào đó nhằm mục đích chung đã được xác định trước.

Trên cơ sở tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu và từ

những phân tích nêu trên, Nghiên cứu sinh cho rằng khái niệm về HTQT

phòng, chống tội phạm có thể hiểu như sau:

“Hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm là hoạt động hỗ trợ, thỏa

thuận, trao đổi giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với các cơ

quan có thẩm quyền của nước ngoài, với các tổ chức quốc tế trên cơ sở quy

định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia nhằm thực hiện các hoạt

động ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, tương trợ tư pháp về hình

sự, dẫn độ, chuyển giao người có án phạt tù, trao đổi thông tin tội phạm cũng

như các hoạt động khác có liên quan đến phòng, chống tội phạm”.

37

HTQT phòng, chống tội phạm là một nội dung của chính sách hình sự

của Nhà nước ta. Đây là hoạt động hỗ trợ, thỏa thuận, trao đổi giữa các cơ

quan của các quốc gia với nhau hoặc với các tổ chức quốc tế trong hoạt động

phòng, chống tội phạm. Hoạt động này được thực hiện dựa trên cơ sở quy

định của các điều ước quốc tế đa phương, song phương mà quốc gia đó đã ký

kết, gia nhập, dựa trên thỏa thuận giữa các quốc gia hoặc được thực hiện theo

nguyên tắc có đi có lại (đối với trường hợp chưa có điều ước quốc tế điều

chỉnh). Hoạt động này nhằm mục đích phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm,

bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có

liên quan, để xây dựng môi trường an ninh trật tự chung trong khu vực, bảo

vệ hòa bình trên toàn cầu.

2.1.2. Đặc điểm của hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm

Trước tình hình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế thì HTQT

phòng, chống tội phạm là vấn đề được cộng đồng quốc tế quan tâm. Theo đó

hình thành nhiều khuôn khổ HTQT phòng, chống tội phạm mở rộng, không

chỉ giới hạn ở mỗi quốc gia, khu vực. Hoạt động này mang một số đặc trưng:

Thứ nhất, đối tượng đấu tranh của HTQT phòng, chống tội phạm là tội

phạm quốc tế, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm xuyên quốc gia hoặc

các vụ án hình sự cần phải có HTQT để giải quyết. Để hiểu rõ hơn đối tượng

đấu tranh này, ta có thể hiểu một số thuật ngữ có liên quan như sau:

Tội phạm quốc tế là hành vi được quy định trong các điều ước, thỏa

thuận quốc tế, xâm hại đến loài người, các quan hệ bình thường giữa các quốc

gia, gây tốn hại đến các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội, tài sản... của các

quốc gia, các tổ chức và công dân. Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình

sự theo chuẩn mực pháp luật quốc tế hoặc theo pháp luật hình sự của quốc gia

tương ứng với các chuẩn mực này. Tội phạm quốc tế là tội phạm có địa bàn

38

và khách thể bị xâm hại từ hai quốc gia trở lên, phổ biến là: khủng bố, không

tặc, hải tặc, buôn lậu ma túy, rửa tiền, gây ô nhiễm môi trường,...

Tội phạm có yếu tố nước ngoài là tội phạm mà có một hay nhiều yếu tố

sau liên quan đến một hay nhiều quốc gia khác: chủ thể (người có quốc tịch

nước ngoài, pháp nhân nước ngoài), khách thể bị xâm hại (các lợi ích ở quốc

gia khác), hiệu lực pháp lý (bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các chế định

luật pháp quốc tế hoặc pháp luật hình sự tương ứng của quốc gia khác)...

Tội phạm có tính chất xuyên quốc gia là tội phạm do một chủ thể thực

hiện không chỉ giới hạn về mặt lãnh thổ của một quốc gia và có sự liên kết

giữa các khâu thực hiện tội phạm: chuẩn bị, tổ chức lực lượng, chỉ đạo. Tính

quốc tế của tội phạm này thể hiện ở hành vi (bắt đầu ở một quốc gia này, kết

thúc ở một quốc gia khác), ở chủ thể thực hiện hành vi và mức độ ảnh hưởng

của hành vi đối với lợi ích nhiều quốc gia.

Thứ hai, chủ thể và đối tác của HTQT phòng, chống tội phạm là các cơ

quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền của các quốc gia, vùng lãnh thổ hay

tổ chức quốc tế. Các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam thực hiện HTQT

phòng, chống tội phạm với một hay nhiều đối tác nước ngoài. Đó có thể là các

cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, cơ quan an ninh, cảnh

sát của các nước, cơ quan ngoại giao... tùy thuộc vào lĩnh vực hợp tác cụ thể.

Thực tế tên gọi của các đối tác rất đa dạng: Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Viện

Công tố, Bộ Tổng trưởng lý, Bộ Pháp luật và nhân quyền,... Chủ thể thực hiện

HTQT phòng chống tội phạm ở Việt Nam rất rộng, theo từng nội dung và quy

định khác nhau mà chủ thể được xác định. Ví dụ chủ thể quản lý và thực hiện

TTTPHS gồm: VKSNCTC, BCA, Cơ quan điều tra, TAND, Bộ Ngoại giao,...

Thứ ba, mọi hoạt động HTQT phòng, chống tội phạm đều dựa trên cơ

sở pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia. Lĩnh vực HTQT phòng, chống tội

phạm chứa đựng một phần nội dung của công pháp quốc tế và tư pháp quốc

39

tế, với nội dung tương đối phong phú. Các quy định trong phòng, chống tội

phạm là tổng thể các quy phạm pháp luật (các điều ước quốc tế, thỏa thuận

quốc tế, hệ thống pháp luật trong nước) điều chỉnh các quan hệ xã hội trong

hoạt động phòng ngừa, điều tra, truy tố, xét xử, dẫn độ tội phạm, chuyển giao

phạm nhân giữa Nhà nước Việt Nam, các cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam

với các nhà nước khác, các cơ quan bảo vệ pháp luật của các quốc gia.

Thứ tư, các nội dung, biện pháp HTQT phòng, chống tội phạm đa dạng,

gồm hai mảng cơ bản là phòng ngừa và điều tra tội phạm, trong đó có các

hoạt động hợp tác cụ thể như: ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế;

trao đổi thông tin tội phạm; TTTP về hình sự; dẫn độ; chuyển giao người

đang chấp hành án phạt tù; đào tạo cán bộ thực thi pháp luật, giúp đỡ lẫn nhau

về trang thiết bị kỹ thuật;...

Thứ năm, phương thức HTQT phòng, chống tội phạm luôn dựa trên

phương thức, thỏa thuận và bình đẳng giữa các chủ thể trong các quan hệ hợp

tác. Khi tham gia quan hệ hợp tác, các chủ thể chỉ có thể dựa trên phương

thức thỏa thuận với nhau, chứ không thể sử dụng phương thức mệnh lệnh hay

quyền uy áp đặt ý chí với chủ thể khác; đồng thời dựa trên quy định của pháp

luật quốc tế, pháp luật quốc gia về sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng

đạt mục đích chung là phòng, chống tội phạm để bảo vệ lợi ích các bên.

2.1.3. Các nguyên tắc hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm

Việc xác định các nguyên tắc cơ bản trong HTQT phòng, chống tội

phạm có ý nghĩa quan trọng, giúp cho việc định hướng nội dung, hình thức và

mục đích hợp tác. HTQT phòng, chống tội phạm là một bộ phận của quan hệ

đối ngoại của Nhà nước ta. Dưới góc độ lý luận, nguyên tắc quan hệ quốc tế

được hình thành từ nhu cầu, mục đích hợp tác và do chính sách đối ngoại nhất

quán với nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào

công việc nội bộ của nước khác; theo phương châm “Việt Nam sẵn sàng làm

40

bạn với tất cả các nước”. Với tính chất là một bộ phận của chính sách đối

ngoại, HTQT phòng, chống tội phạm luôn tuân thủ các nguyên tắc quan hệ

quốc tế của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế.

Là thành viên của Liên Hợp quốc, Nhà nước ta bảo đảm thực hiện các

nguyên tắc cơ bản nêu trong Tuyên bố của Liên Hợp quốc về các nguyên tắc

cơ bản của công pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các

quốc gia, đó là các nguyên tắc: Cấm dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực

trong quan hệ quốc tế; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình;

không can thiệp vào công việc nội bộ quốc gia khác; các quốc gia có nghĩa vụ

hợp tác với nhau; bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia; các dân tộc có

quyền bình đẳng và tự quyết; tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế.

Điều 12 Hiến pháp năm 2013 của nước CHXHCN Việt Nam đã khẳng

định: “Nước CHXHCN Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại

độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa

dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở

độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ

của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và

điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy

và thành viên có trách nhiệm trong cộng động quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân

tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã

hội trên thế giới” [45].

Nhà nước ta đã thể chế hoá quan điểm trên bằng các quy định của pháp

luật: Điều 492 BLTTHS năm 2015 quy định nguyên tắc HTQT trong TTHS;

Điều 4 Luật TTTP năm 2007 quy định nguyên tắc TTTP; Điều 3 Luật Điều

ước quốc tế năm 2016 quy định nguyên tắc ký kết và thực hiện điều ước quốc

tế; Điều 4 Pháp lệnh Ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế năm 2007 quy

định nguyên tắc ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế.

41

Trên cơ sở tổng hợp các quy định về nguyên tắc hợp tác nêu trên thì

HTQT phòng, chống tội phạm phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất, nguyên tắc phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nước

Việt Nam. Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng

sản Việt Nam đã khẳng định: "Nhà nước ta luôn thể hiện nhất quán đường lối

đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại

rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đồng thời mở rộng

hợp tác trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước

trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hòa bình quốc tế và

khu vực..." [16]. Nhà nước ta kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối và

thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại nói chung và HTQT phòng, chống tội

phạm nói riêng. Do đó, hoạt động HTQT phòng, chống tội phạm cũng phải

tuân thủ chính sách đối ngoại trên của Nhà nước Việt Nam.

Thứ hai, nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ

quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có

lợi. Trong HTQT, nguyên tắc độc lập, chủ quyền quốc gia là tối cao và bất

khả xâm phạm. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc

tế được Hiến chương liên hợp quốc ghi nhận như là một nguyên tắc nền tảng

cho mọi mối quan hệ quốc tế. Độc lập quốc gia thể hiện việc quốc gia có

quyền tự quyết về mọi vấn đề đối nội, đối ngoại của mình, không nước nào có

quyền can thiệp, áp đặt. Chủ quyền quốc gia bao gồm quyền tối cao của Nhà

nước ta trên phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của Nhà nước ta

trong quan hệ quốc tế. Khi HTQT phòng, chống tội phạm, Nhà nước ta chủ

động trong việc gia nhập, ký kết các điều ước quốc tế; chủ động nội luật hóa

các điều ước đó vào pháp luật quốc gia. Khi tiếp nhận yêu cầu hợp tác của

nước ngoài, ta có thể chấp nhận hoặc từ chối thực hiện nếu xem xét thấy việc

hợp tác đó ảnh hưởng đến chủ quyền, lợi ích hợp pháp của quốc gia.

42

Thứ ba, nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các

nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế. Khi ký kết, gia nhập các điều ước

quốc tế về HTQT phòng, chống tội phạm, chúng ta phải xem xét, cân nhắc kỹ

các điều khoản trong điều ước không trái với quy định của Hiến pháp Việt

Nam, nếu có mâu thuẫn thì không ký kết, gia nhập hoặc bảo lưu điều khoản

có mâu thuẫn đó. Các văn bản quy phạm pháp luật trong nước về lĩnh vực này

phải tuân thủ quy định của Hiến pháp. Các cơ quan có thẩm quyền khi HTQT

phòng, chống tội phạm phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp, pháp luật

về quyền, nghĩa vụ, trình tự thủ tục thực hiện,... Đồng thời, HTQT phòng,

chống tội phạm phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế

gồm: tôn trọng chủ quyền quốc gia; bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia;

quyền dân tộc tự quyết; không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia

khác; cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; hòa bình giải quyết các tranh

chấp quốc tế; tôn trọng các quyền cơ bản của con người; các quốc gia có trách

nhiệm hợp tác với nhau; tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế;...

Thứ tư, nguyên tắc phù hợp với điều ước quốc tế mà nước CHXHCN

Việt Nam là thành viên. Trong xu hướng hội nhập quốc tế thì các điều ước

quốc tế được ký kết ngày càng nhiều nhằm điều chỉnh các lĩnh vực của đời

sống quốc tế, trong đó có lĩnh vực HTQT phòng, chống tội phạm. Điều ước

quốc tế về phòng, chống tội phạm không chỉ là hình thức chứa đựng các quy

phạm pháp luật quốc tế mà còn là phương tiện, công cụ chủ yếu để thực hiện

chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia. Việt Nam khi ký kết, gia nhập điều

ước quốc tế về phòng, chống tội phạm phải cam kết tuân thủ điều ước đó,

đồng thời có quyền đòi hỏi quốc gia thành viên khác cũng phải tuân thủ các

quy định của điều ước.

Thứ năm, nguyên tắc có đi có lại giữa Việt Nam và các quốc gia trong

phòng, chống tội phạm. Trong quan hệ quốc tế, nguyên tắc này được hiểu là

43

nước này sẽ đối xử với nước kia tương xứng với sự đối xử của nước đó đối

với mình, nhằm đảm bảo sự cân bằng và lợi ích mỗi bên. Nguyên tắc này

được xem xét áp dụng trong giải quyết trong các vụ việc cụ thể khi nước ta và

đối tác chưa ký điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế có liên quan đến vấn đề

cần hợp tác. Nguyên tắc này không đồng nghĩa với trao đổi ngang bằng và

ngay lập tức. Tùy trường hợp cụ thể, trên cơ sở cân nhắc tính chất vụ việc,

quan hệ ngoại giao giữa hai nước, yêu cầu chính trị và chính sách đối ngoại

của nước ta, khả năng hợp tác trong tương lai, Nhà nước ta có thể chấp nhận

hoặc từ chối thực hiện yêu cầu đó hoặc thực hiện ở mức độ nào.

2.1.4. Nội dung hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm

Phòng, chống tội phạm được hiểu là các hoạt động phòng ngừa, điều tra

và xử lý tội phạm.

Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức

xã hội, công dân bằng nhiều biện pháp hướng đến việc thủ tiêu các nguyên

nhân, điều kiện của tội phạm nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm và từng

bước loại trừ tội phạm ra khỏi xã hội [22; tr.148].

Điều tra tội phạm là hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu, thu thập thông tin,

tài liệu, chứng cứ để làm rõ, chứng minh các hành vi phạm tội, người phạm

tội. Hoạt động điều tra tội phạm được tiến hành dưới 2 hình thức: công khai

bằng các biện pháp TTHS; bí mật bằng những biện pháp trinh sát theo quy

định của pháp luật, của mỗi ngành. Cơ quan CSĐT giữ vai trò nòng cốt, chủ

đạo trong việc tiến hành các hoạt động điều tra.

Xử lý tội phạm là hoạt động nghiên cứu, xét xử tội phạm theo quy định

của pháp luật TTHS. Thông qua bản án hình sự, Tòa án nhân danh Nhà nước

tuyên bố người nào đó phạm tội gì và phải chịu hình phạt tương ứng với tội

phạm đã gây ra [55, tr.628].

44

Các luận giải trên đã tổng hợp rõ nội dung hoạt động phòng, chống tội

phạm. Tuy nhiên, nếu áp dụng nguyên mẫu các nội dung trên trong HTQT

phòng, chống tội phạm là không thể, bởi các quan hệ quốc tế có tính đặc thù

riêng, chịu sự tác động của pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam và pháp luật

quốc gia hợp tác, trong đó đòi hỏi sự tương thích về pháp luật, đặc thù chính

trị, xã hội và xuất phát từ nhu cầu, mục đích hợp tác. Do đó, nội dung HTQT

phòng, chống tội phạm chỉ có thể giới hạn trong từng nội dung cụ thể, trong

đó chứa đựng một số nội dung hoạt động nhất định về phòng, chống tội phạm.

Theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện, HTQT

phòng, chống tội phạm gồm các nội dung:

Thứ nhất, HTQT về đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế

phòng, chống tội phạm. Đây là nội dung đầu tiên tạo tiền đề cho các nội dung

hợp tác tiếp theo giữa Việt Nam với các quốc gia trong phòng, chống tội

phạm. Đối với các điều ước quốc tế đa phương về phòng, chống tội phạm, đòi

hỏi các nước thành viên trước khi kí kết phải trải qua quá trình hội thảo, tranh

luận, đặt ra các điều kiện rất rõ ràng thì mới công nhận, kí kết hay đồng ý gia

nhập. Đối với Việt Nam, nội dung này được thực hiện kín kẽ, phù hợp hoàn

cảnh kinh tế - xã hội, pháp luật của nước ta, sau khi ký kết, gia nhập công ước

quốc tế nào đó trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm sẽ tạo điều

kiện tốt nhất để các chủ thể thực hiện các nội dung đã cam kết hiệu quả nhất.

Thứ hai, HTQT về việc trao đổi thông tin liên quan về tình hình tội

phạm hình sự như các thông tin về diễn biến, xu thế, phương thức, thủ đoạn

của các loại tội phạm hình sự xuyên quốc gia có thể gây ra ở mỗi quốc gia, tội

phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm quốc tế,… để phục vụ yêu cầu đấu

tranh phòng, chống của mỗi quốc gia thành viên tham gia các điều ước quốc

tế; hoặc trong các thỏa thuận, bản ghi nhớ giữa cơ quan có thẩm quyền hai

quốc gia với nhau về HTQT phòng, chống tội phạm.

45

Thứ ba, HTQT trong lĩnh vực TTTPHS bao gồm các nội dung: Tống

đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến TTTPHS; triệu tập người làm chứng,

người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ; truy cứu trách nhiệm hình sự;

trao đổi thông tin trong phạm vi TTTPHS và các yêu cầu TTTP khác về hình

sự mà các chủ thể TTTP có yêu cầu trong khuôn khổ pháp luật quốc tế, pháp

luật quốc gia của mỗi nước.

Thứ tư, HTQT trong lĩnh vực dẫn độ, bao gồm các nội dung: Dẫn độ để

truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án; dẫn độ cho nước thứ ba; từ

chối dẫn độ cho nước ngoài; áp dụng biện pháp ngăn chặn để dẫn độ; áp giải

người bị dẫn độ; dẫn độ lại; quá cảnh…

Thứ năm, HTQT trong lĩnh vực chuyển giao người đang chấp hành án

phạt tù, bao gồm các nội dung: Tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành

án phạt tù; từ chối chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; quyết định

và thi hành quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, áp giải

người được chuyển giao;…

Thứ sáu, HTQT khác phát sinh trong thực tiễn hoạt động HTQT phòng,

chống tội phạm như hoạt động truy nã tội phạm thông qua vai trò của tổ chức

Interpol, hoạt động đẩy trả, trục xuất, hồi hương, hoạt động cụ thể của Công

an các tỉnh biên giới HTQT phòng, chống tội phạm với lực lượng Cảnh sát

cũng như cơ quan tương ứng phòng, chống tội phạm các tỉnh biên giới của

các nước láng giềng (Campuchia, Lào, Trung Hoa).

2.1.5. Mục đích hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm

Xuất phát từ bản chất của HTQT phòng, chống tội phạm, thì mục đích

chính là nhằm thúc đẩy nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc hợp

tác trao đổi thông tin, phối hợp phòng ngừa, điều tra các loại tội phạm quốc

tế, tội phạm xuyên quốc gia. Mong muốn của Việt Nam là thiết lập, tăng

cường quan hệ hợp tác với cơ quan thực thi pháp luật của tất cả các quốc gia

46

và hy vọng sẽ nhận được sự hợp tác tương ứng từ các nước trong phòng,

chống tội phạm. Mục đích chung, cơ bản là: Tiếp nhận, thu thập, xác minh

thông tin, thống kê về tội phạm quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có

yếu tố nước ngoài; Hoàn thiện và mở rộng hoạt động TTTP, dẫn độ, chuyển

giao người đang chấp hành án phạt tù đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; Tăng

cường sự tin cậy của các đối tác với Việt Nam trong HTQT phòng, chống tội

phạm; Nâng cao tính hiệu quả của thực thi pháp luật quốc tế về phòng, chống

tội phạm của cơ quan, người có thẩm quyền của Việt Nam; Đưa hoạt động

đấu tranh phòng, chống tội phạm của cơ quan chức năng, người có thẩm

quyền của Việt Nam lên vị thế cao hơn trong cộng đồng quốc tế, khu vực;

Ngăn chặn sự hình thành, xâm nhập của các băng, nhóm tội phạm có tổ chức

hoặc đối tượng phạm tội từ nước ngoài vào Việt Nam, ngược lại tăng cường

năng lực truy nã quốc tế đối với người Việt Nam phạm tội trốn ra nước ngoài.

Bên cạnh những mục đích chung cơ bản trên, mỗi quốc gia khi hợp tác

với Việt Nam trong phòng, chống tội phạm còn có những mục đích cụ thể.

Mục đích cụ thể của từng quốc gia phải phù hợp và thống nhất với mục đích

chung đã xác định giữa các chủ thể trong quan hệ.

Mục đích chung và mục đích cụ thể cần có sự thống nhất cơ bản, đó là

phòng, chống tội phạm. Việc xác định thống nhất giữa mục đích chung và

mục đích riêng là cơ sở nền tảng để thống nhất về mặt ý hành động trong từng

nội dung HTQT phòng, chống tội phạm, như: Ký kết điều ước quốc tế phòng,

chống tội phạm, TTTP, dẫn độ tội phạm và các hoạt động hợp tác khác. Để

đạt mục đích của HTQT phòng, chống tội phạm, các chủ thể cần tạo mọi điều

kiện thuận lợi để mỗi bên nhanh chóng thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ đã

cam kết trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Mục đích của quan hệ hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm phải

được thống nhất quán triệt ngay trong các điều ước quốc tế về phòng, chống

47

tội phạm mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập. Mục đích này cần được đặt ra

trong từng hoạt động cụ thể, trong từng lĩnh vực và thời gian. Trong tất cả các

hoạt động cụ thể của quan hệ hợp tác phải nằm trong khuôn khổ những mục

đích đã thỏa thuận cùng nhau và tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ quyền

hạn ở mỗi bên theo quy định của các văn bản ký kết.

Các hình thức, nội dung quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các bên

tham gia đều phải hướng tới lợi ích, mục đích chung của cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm và góp phần xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị

giữa Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế khác.

2.2. Những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp

hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

Như đã luận giải ở mục 2.1.4 thì HTQT về TTTPHS là một nội dung

của HTQT phòng, chống tội phạm. Đây là hoạt động điều tra công khai, được

thực hiện theo quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia

nhập, quy định của Luật TTTP, BLTTHS và các luật khác có liên quan.

Hoạt động HTQT về TTTPHS được thực hiện bởi nhiều chủ thể theo

thẩm quyền quy định, trong đó Cơ quan CSĐT là lực lượng quan trọng, trực

tiếp thực hiện hoặc ra yêu cầu TTTPHS chiếm khoảng 85% tổng số yêu cầu

TTTPHS mà các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam nhận hoặc yêu cầu.

Hoạt động HTQT về TTTPHS của cơ quan CSĐT vừa là một nội dung

của HTQT phòng, chống tội phạm, đồng thời có ý nghĩa, giá trị như một biện

pháp phòng ngừa tội phạm. Cơ quan CSĐT thông qua hoạt động này, bằng

các biện pháp điều tra để chứng minh tội phạm, người phạm tội, trong đó làm

rõ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, từ đó có giải pháp phòng ngừa loại

tội phạm này. Đồng thời hoạt động điều tra, xử lý tội phạm cũng có tác động

răn đe các đối tượng có ý định phạm tội. Việc điều tra xử lý các tụ điểm tệ

nạn xã hội (nghiện hút, cờ bạc, mại dâm...), các đường dây buôn bán ma

48

túy,... cũng nhằm góp phần xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Hoạt

động phòng ngừa tội phạm luôn gắn liền với hoạt động điều tra xử lý tội

phạm, trong đó có hoạt động TTTPHS.

Trong phần này, luận án sẽ luận giải về một số vấn đề lý luận về HTQT

về TTTPHS của Cơ quan CSĐT như: khái niệm, chủ thể thực hiện, nội dung,

từ chối hoặc hoãn thực hiện, thủ tục áp dụng, nhiệm vụ, kênh thực hiện.

2.2.1. Khái niệm hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ

quan Cảnh sát điều tra

Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia là bất khả xâm phạm,

trong quan hệ pháp luật hình sự quốc tế, một quốc gia không thể tự mình trực

tiếp tiến hành các hoạt động pháp lý như thu thập, xác minh chứng cứ, bổ

sung hồ sơ, tìm kiếm và bắt giữ tội phạm... trên lãnh thổ một quốc gia khác,

nhằm phục vụ cho các hoạt động TTHS của một vụ án hình sự có yếu tố nước

ngoài. Biện pháp lựa chọn tối ưu của các quốc gia đó là tìm kiếm sự giúp đỡ,

hỗ trợ của các nước khác. Sự giúp đỡ, hỗ trợ đó được gọi là TTTPHS.

Xét về mặt lịch sử, TTTPHS là một khái niệm hiện đại trong luật quốc

tế. Việc thực hiện nó gặp không ít khó khăn. Nguyên nhân do quan niệm khác

nhau về bản chất và hình thức của thủ tục TTHS của các hệ thống pháp luật

khác nhau. Đối với các nước áp dụng hệ thống pháp luật Anh – Mỹ thì quá

trình TTHS chỉ bắt đầu khi một người bị buộc tội trước tòa án. Đối với các

nước áp dụng hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì quá trình TTHS bắt đầu

ngay khi khởi tố vụ án hình sự.

Hiện nay, Việt Nam chưa có một định nghĩa chính thống và thống nhất

về TTTPHS. Qua nghiên cứu thấy trong khoa học pháp lý Việt Nam, một số

công trình, giáo trình và từ điển đã đề cập đến khái niệm TTTPHS như:

Theo Từ điển Bách khoa CAND Việt Nam năm 2005: TTTPHS là một

thủ tục tư pháp quốc tế trong lĩnh vực hình sự, trong đó các quốc gia có liên

49

quan hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thu thập chứng cứ, lời khai, cung

cấp thông tin, vật chứng và các tài liệu khác có liên quan; tiến hành hoạt

động dẫn độ tội phạm” [55; tr.1261]. Theo cách hiểu này, phạm vi TTTPHS

được đề cập tương đối rộng đó là những biện pháp mà các quốc gia hữu quan

có thể hỗ trợ cho nhau trong lĩnh vực hình sự bao gồm cả dẫn độ tội phạm.

Tuy nhiên, khái niệm chưa nêu căn cứ pháp lý của hoạt động này.

Theo Khoa học hình sự Việt Nam, tập 3, Chiến thuật hình sự (2013),

NXB CAND [95; tr.290] thì: “TTTP về hình sự là một thủ tục pháp luật hình

sự quốc tế, trong đó các quốc gia có liên quan hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong

việc thu thập chứng cứ, lời khai; cung cấp thông tin và các vật chứng; tìm

hiểu hồ sơ vụ án; tạo điều kiện cho việc thực hiện tiến hành khám xét bắt giữ,

cung cấp các bản gốc hoặc bản sao đã công chứng của những tài liệu có liên

quan đến vụ án, kể cả những chứng từ ngân hàng tài chính hoặc hồ sơ kinh

doanh; xác minh hoặc làm rõ những thu nhập, tài sản, công cụ hoặc đồ vật

khác có liên quan đến vụ án... nhằm thực hiện các hoạt động TTHS như điều

tra, truy tố, xét xử và thi hành án”. Khái niệm này nhận định khá đầy đủ về

chủ thể, bản chất, nội dung, mục đích của hoạt động TTTPHS, tuy nhiên chưa

xác định cơ sở pháp lý, việc xác định nội dung TTTPHS chưa khái quát, còn

nêu vấn đề cụ thể (vd: chứng từ ngân hàng tài chính hoặc hồ sơ kinh doanh).

Giáo trình Luật TTHS Việt Nam (2008), Trường đại học Luật Hà Nội,

NXB Tư pháp, Hà Nội nêu: “TTTP trong lĩnh vực TTHS là việc các cơ quan

có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước này thực hiện hành vi tố tụng hay

hoạt động tố tụng theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

nước khác trên cơ sở thỏa thuận của các quốc gia tương ứng” [15; tr.575-

576]. Khái niệm này xác định cơ sở thực hiện TTTP trong TTHS là thỏa

thuận giữa các quốc gia là chưa chính xác vì hoạt động này được điều chỉnh

bởi điều ước quốc tế, chứ không phải thỏa thuận quốc tế.

50

GS. TS. Nguyễn Ngọc Anh đưa ra khái niệm như sau: TTTPHS là thủ

tục pháp lý quốc tế, trong đó các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

của quốc gia có liên quan hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc thu thập, cung

cấp thông tin, chứng cứ, lời khai và các tài liệu khác có liên quan trên cơ sở

điều ước quốc tế, pháp luật trong nước để điều tra xử lý vụ án hình sự có yếu

tố nước ngoài” [2; tr. 16]. Về cơ bản khái niệm này đề cập khá đầy đủ các nội

dung của lĩnh vực TTTPHS.

TS. Trần Công Phàn, Phó Viện trưởng VKSNDTC đưa ra khái niệm:

“TTTP về hình sự là việc các quốc gia giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong việc điều

tra, truy tố hoặc các thủ tục tố tụng khác trong các vấn đề hình sự thông qua

cơ quan trung ương của mỗi quốc gia trên cơ sở điều ước quốc tế song

phương hoặc đa phương mà các quốc gia ký kết hoặc tham gia hoặc nguyên

tắc có đi có lại” [68; tr.11]. Khái niệm xác định TTTPHS thực chất là việc

giúp đỡ, hỗ trợ nhau, xác định nội dung tương trợ, kênh thực hiện là cơ quan

trung ương, cơ sở thực hiện là điều ước quốc tế hoặc nguyên tắc có đi có lại.

HTQT về TTTPHS là một nội dung, biện pháp trong phòng, chống tội

phạm. Đây là hoạt động TTHS được quy định chặt chẽ bởi điều ước quốc tế

và pháp luật trong nước. Hoạt động này được phát sinh và yêu cầu trong quá

trình điều tra, xử lý tội phạm cần quốc gia có liên quan hỗ trợ, giúp đỡ, hợp

tác. Hoạt động này được thực hiện bởi chủ thể là cơ quan có thẩm quyền được

quy định trong điều ước quốc tế, pháp luật TTTP và TTHS.

Cơ quan CSĐT là một trong những chủ thể của hoạt động HTQT về

TTTPHS, có trách nhiệm tiếp nhận giải quyết hồ sơ TTTPHS từ cơ quan có

thẩm quyền chuyển đến, tiến hành các hoạt động TTTPHS theo quy định của

Luật TTTP và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Từ những phân tích, luận giải trên, khái niệm HTQT về TTTPHS của

Cơ quan CSĐT có thể hiểu như sau:

51

HTQT về TTTP hình sự của Cơ quan CSĐT là thủ tục pháp lý hình sự

quốc tế, trong đó Cơ quan CSĐT phối hợp với các cơ quan tư pháp hình sự

có thẩm quyền trong nước và của các quốc gia có liên quan, trên cơ sở điều

ước quốc tế và pháp luật trong nước, tiến hành hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong

hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ; trao đổi thông tin; tìm hiểu hồ sơ vụ

án; triệu tập người làm chứng, người giám định; truy cứu trách nhiệm hình

sự; thực hiện các yêu cầu hỗ trợ khác về hình sự phục vụ hoạt động điều tra,

xử lý tội phạm.

Khái niệm trên cho thấy HTQT về TTTPHS về thực chất là quá trình

hỗ trợ, giúp đỡ nhau giữa Cơ quan CSĐT ở Việt Nam và các cơ quan tư pháp

hình sự của các quốc gia có liên quan trong quá trình điều tra, xử lý tội phạm.

Việc tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự của nhau

thuộc về phạm vi quyền tài phán của các quốc gia. Hoạt động này được thực

hiện dựa trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các quốc gia hoặc quy định của các

điều ước quốc tế mà các quốc gia đó là thành viên hoặc được thực hiện theo

nguyên tắc có đi có lại.

Yêu cầu TTTPHS đặt ra khi việc điều tra, xử lý tội phạm đòi hỏi sự

phối hợp của hai hay nhiều quốc gia. TTTPHS chỉ được thực hiện khi có yêu

cầu từ một nước. Cơ sở của nó trước hết là sự quan hệ thân thiện quốc tế, là

thiện chí quốc tế về TTTPHS gồm các điều ước quốc tế, buộc các nước thành

viên phải thi hành theo những quy định của nó. Xuất phát từ những cơ sở này,

hiện nay TTTPHS được thực hiện qua kênh tương trợ giữa các nước theo điều

ước quốc tế đã ký kết, gia nhập hoặc quan hệ thân thiện giữ hai nước.

2.2.2. Chủ thể thực hiện hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự

Chủ thể thực hiện HTQT về TTTPHS là các cơ quan có thẩm quyền

tiếp nhận, giải quyết yêu cầu TTTPHS và những cá nhân công tác tại các cơ

quan đó được giao nhiệm vụ tiến hành HTQT về TTTPHS. Trong phạm vi

52

Luận án này, nghiên cứu sinh đi sâu nghiên cứu, phân tích nhiệm vụ của chủ

thể là các cơ quan có thẩm quyền.

Trong mỗi điều ước quốc tế thường quy định rõ cơ quan trung ương là

đầu mối thực hiện HTQT về TTTPHS (đối với Việt Nam là VKSNDTC, tuy

nhiên trong Hiệp định TTTPHS giữa các nước thành viên ASEAN quy định là

BCA). Pháp luật mỗi quốc gia có quy định cụ thể, khác nhau về những cơ

quan nào có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết và thực hiện HTQT về

TTTPHS, quy định thực hiện ở nội dung nào, khâu nào trong hoạt động này.

Theo quy định của Luật TTTP, BLTTHS của Việt Nam thì thẩm quyền

tiếp nhận, giải quyết yêu cầu TTTPHS thuộc về các cơ quan:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao: là cơ quan trung ương, có trách nhiệm

tiếp nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện ủy thác tư pháp về

hình sự; xem xét, quyết định việc thực hiện và yêu cầu VKSND hoặc cơ quan

điều tra có thẩm quyền thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự; từ chối hoặc

hoãn thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự theo thẩm quyền. Hướng dẫn

VKSND các cấp thực hiện TTTPHS. Đề xuất việc ký kết, gia nhập và thực

hiện điều ước quốc tế về TTTP, kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp

luật Việt Nam về TTTP.

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh: có trách nhiệm thực hiện ủy thác tư

pháp của nước ngoài theo quy định; tiến hành các hoạt động TTTP khác theo

thẩm quyền. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động TTTP theo thẩm

quyền và báo cáo kết quả thực hiện TTTP cho VKSNDTC theo quy định.

Bộ Công an: có trách nhiệm xem xét và chuyển giao hồ sơ cho

VKSND, TAND và thực hiện hoạt động TTTP theo thẩm quyền; kiến nghị

sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về TTTP.

Cơ quan điều tra: có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ TTTPHS từ cơ quan

có thẩm quyền chuyển đến; tiến hành các hoạt động TTTPHS theo quy định

53

của Luật TTTP và các quy định khác của pháp luật có liên quan; báo cáo kết

quả thực hiện TTTPHS cho cơ quan có thẩm quyền. Thực tiễn hoạt động

TTHS ở Việt Nam thì các vụ án hình sự, tố giác, tin báo về tội phạm thuộc

thẩm quyền giải quyết của Cơ quan CSĐT chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vụ án

hình sự, tố giác, tin báo về tội phạm trên cả nước. Do đó, yêu cầu nước ngoài

thực hiện TTTPHS phần lớn phát sinh từ yêu cầu điều tra của Cơ quan CSĐT.

Đồng thời, các yêu cầu TTTPHS của nước ngoài chuyển giao liên quan đến

vụ án hình sự chủ yếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan CSĐT. Thực

tế những năm qua cho thấy hoạt động yêu cầu và tiếp nhận, giải quyết yêu cầu

TTTPHS của Cơ quan CSĐT chiếm khoảng 85% tổng số yêu cầu TTTPHS

của các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam yêu cầu hoặc tiếp nhận giải quyết.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh: có trách nhiệm thực hiện ủy thác tư pháp của

nước ngoài theo quy định; tiến hành hoạt động TTTP khác theo thẩm quyền.

Bộ Ngoại giao: có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có

liên quan xem xét, quyết định áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ

TTTP với nước hữu quan.

Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài: có trách nhiệm thực hiện

các ủy thác tư pháp có liên quan đến công dân Việt Nam ở nước sở tại theo

yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trong nước; tiếp nhận và

chuyển giao các yêu cầu ủy thác tư pháp giữa nước sở tại và các cơ quan có

thẩm quyền trong nước.

2.2.3. Nguyên tắc hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự

Nguyên tắc HTQT về TTTPHS là hệ thống các quan điểm, tư tưởng

xuyên suốt toàn bộ hoạt động HTQT về TTTPHS hoặc trong giải quyết, thực

hiện các yêu cầu TTTPHS cụ thể đòi hỏi Cơ quan CSĐT phải tuân thủ. Việc

xác định và thực hiện đúng, đủ các nguyên tắc sẽ giúp cho hoạt động này đạt

được mục đích hợp tác, đảm bảo các yếu tố đối ngoại, chính trị và pháp luật.

54

Căn cứ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập và pháp

luật trong nước thì HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT phải tuân thủ các

nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất, tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can

thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi: đây là

một trong các nguyên tắc cơ bản được xác định trong Hiến chương Liên hợp

quốc. Độc lập chủ quyền là điều kiện tiên quyết cho mọi mối quan hệ hợp tác

quốc tế, các quốc gia phải tôn trọng chủ quyền quốc gia, theo đó quốc gia này

không được ép buộc hoặc áp đặt để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc

gia khác. “Bình đẳng và cùng có lợi” là điều kiện thiết yếu để giữ cho mối

quan hệ hợp tác bền vững và phát triển.

Thứ hai, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam: HTQT là

một hoạt động đối ngoại và hoạt động này phải giữ vững độc lập, chủ quyền,

thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần phục vụ cho sự phát triển kinh tế,

xã hội của đất nước. Do đó, nguyên tắc này định hướng đối với phạm vi hợp

tác trong TTTP, mọi hoạt động HTQT về TTTP đều không được trái với Hiến

pháp và các quy định của pháp luật của Việt Nam, bảo đảm phù hợp với điều

kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam.

Trên thực tế, để đảm bảo yêu cầu chính trị, đối ngoại và phòng, chống

tội phạm; hài hòa hóa pháp luật Việt Nam với pháp luật nước ngoài mà Việt

Nam đã ký kết, tham gia các điều ước quốc tế, ký kết các hiệp định TTTPHS

có một số quy định chưa được quy định trong pháp luật Việt Nam. Điều 6

Luật điều ước quốc tế năm 2016 quy định trong trường hợp này thì điều ước

quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng, trừ trường hợp trái với Hiến pháp.

Thứ ba, phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: khi

tham gia một điều ước quốc tế, Việt Nam phải tuân thủ nghĩa vụ pháp lý quốc

tế được quy định tại điều ước đó với tư cách là thành viên. Mọi hoạt động

55

HTQT về TTTPHS của Việt Nam không được trái với các nghĩa vụ của Việt

Nam theo các điều ước này. Theo đó, Việt Nam phải nghiêm chỉnh tuân thủ

các nghĩa vụ quốc tế đã cam kết, việc hợp tác của Việt Nam với quốc gia, tổ

chức, khu vực này không được làm phương hại đến quan hệ HTQT đã được

thiết lập trước đó của Việt Nam với các quốc gia, tổ chức, khu vực khác. Đây

chính là sự nhất quán trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đảm bảo uy

tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ tư, nguyên tắc “có đi có lại”: là một thực tiễn pháp lý quốc tế nảy

sinh trong quan hệ giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ khi giữa các chủ thể này

chưa ký kết điều ước quốc tế song phương hoặc không cùng tham gia điều

ước quốc tế đa phương nhưng có yêu cầu hợp tác trong lĩnh vực nào đó. Đây

là một thông lệ quốc tế được thực hiện trên cơ sở mối quan hệ thân thiện, đôi

bên cùng hỗ trợ nhau, cùng có lợi nhưng không trái với pháp luật quốc gia

cũng như pháp luật và tập quán quốc tế và không gây phương hại đến ANTT

của đất nước. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ được áp dụng để giải quyết từng

vụ việc cụ thể trên cơ sở cân nhắc rất thận trọng các yếu tố như: tính chất vụ

việc, yêu cầu chính trị, quan hệ ngoại giao…

Bên cạnh đó, thực tiễn HTQT về TTTPHS còn phải tuân thủ các

nguyên tắc sau:

Một là, bảo đảm tính mục đích: HTQT về TTTPHS nhằm tạo điều kiện

thuận lợi để mỗi bên thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ đã cam kết trong phòng,

chống tội phạm và giải quyết nhiệm vụ cụ thể của từng vụ án hình sự. Các

hoạt động hợp tác cụ thể phải trong khuôn khổ mục đích, phạm vi hợp tác đã

thỏa thuận và tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan

chuyên trách ở mỗi bên theo quy định của các điều ước, thỏa thuận đã ký kết.

Hai là, nguyên tắc tội phạm kép: là một trong những nguyên tắc cơ bản

của pháp luật hình sự quốc tế, theo đó các quốc gia sẽ từ chối TTTPHS nếu

56

đó là yêu cầu TTTP nhằm phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử một

hành vi mà pháp luật hình sự nước mình không coi đó là hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, tội phạm kép không có nghĩa là pháp luật của quốc gia yêu cầu

tương trợ và quốc gia được yêu cầu tương trợ phải quy định hành vi phạm tội

đó trong cùng một nhóm tội hoặc cùng tội danh và điều quan trọng là hành vi

phạm tội đó có những yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản tương đương theo

quy định của pháp luật hai Bên.

2.2.4. Nội dung hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự

Nội dung HTQT về TTTPHS bao gồm những vấn đề thuộc phạm vi

TTTPHS được quy định trong Luật TTTP và các điều ước quốc tế có liên

quan. Đây là những vấn đề về hình sự mà cơ quan có thẩm quyền yêu cầu

được giúp đỡ, hỗ trợ giải quyết nhằm phục vụ điều tra, xử lý tội phạm.

* Theo quy định của Luật TTTP, phạm vi HTQT về TTTPHS của Cơ

quan CSĐT bao gồm:

Thứ nhất, tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến TTTPHS. Cơ quan

CSĐT có thể tống đạt giấy triệu tập người làm chứng, người giám định, thông

báo các quyết định tố tụng... cho đối tượng được nêu trong yêu cầu tương trợ.

Thứ hai, triệu tập người làm chứng, người giám định. Trong quá trình

điều tra, giải quyết vụ án hình sự, Cơ quan CSĐT có thể triệu tập người làm

chứng, người giám định để lấy lời khai thu thập thông tin, cung cấp chứng cứ

hoặc hỗ trợ điều tra. Giấy triệu tập phải ghi rõ điều kiện làm chứng, giám định

và cam kết bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, điều kiện đi lại, ăn ở cho

người đó. Người giám định, người làm chứng khi được triệu tập đến nước yêu

cầu sẽ không bị bắt, tạm giam, tạm giữ hoặc bị điều tra, truy tố, xét xử vì

những hành vi như: cung cấp lời khai làm chứng, bản kết luận chuyên môn

đối với vụ án, phạm tội ở nước yêu cầu… trước khi đến nước yêu cầu. Quyền

không bị bắt, tạm giam, tạm giữ hoặc bị điều tra, truy tố, xét xử này sẽ chấm

57

dứt nếu người đó không rời khỏi nước yêu cầu sau thời hạn 15 ngày, kể từ

ngày nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền nước yêu

cầu về việc không cần sự có mặt của họ tại nước yêu cầu.

Người được triệu tập để cung cấp chứng cứ hoặc hỗ trợ điều tra có thể

từ chối cung cấp chứng cứ nếu pháp luật của nước được yêu cầu cho phép

hoặc bắt buộc người đó từ chối cung cấp chứng cứ trong các trường hợp

tương tự khi thủ tục TTHS được tiến hành trên lãnh thổ của nước được yêu

cầu; hoặc pháp luật của nước yêu cầu cho phép hoặc bắt buộc người đó từ

chối cung cấp chứng cứ trong các trường hợp tương tự khi thủ tục TTHS

được tiến hành trên lãnh thổ của nước yêu cầu. Người được triệu tập để cung

cấp chứng cứ hoặc hỗ trợ điều tra chỉ hỗ trợ trong phạm vi yêu cầu. Người

đồng ý cung cấp chứng cứ hay hỗ trợ điều tra sẽ không bị truy cứu trách

nhiệm hình sự căn cứ vào lời khai của họ, trừ việc họ khai báo gian dối.

Thứ ba, dẫn giải người đang chấp hành hình phạt tù để cung cấp

chứng cứ. Cơ quan CSĐT có thể yêu cầu nước ngoài dẫn giải người đang

chấp hành hình phạt tù đến Việt Nam để cung cấp chứng cứ; hoặc người đang

chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam có thể được dẫn giải đến nước yêu cầu để

cung cấp chứng cứ trong vụ án hình sự. Thời gian bị dẫn giải, lưu lại ở nước

yêu cầu được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù của người đó.

Việc này đối với phía Việt Nam được thực hiện khi có đủ điều kiện

sau: (1) Người đó đồng ý với việc dẫn giải và cung cấp chứng cứ tại nước yêu

cầu. (2) Cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu phải cam kết bằng văn bản

về việc bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, điều kiện ăn ở, đi lại, thời hạn,

phương thức tiếp nhận, trao trả và các điều kiện cụ thể khác liên quan đến

việc dẫn giải do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam đề

nghị. Việc trao trả lại người bị dẫn giải cho cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm

quyền của Việt Nam phải được thực hiện theo đúng thời hạn đã cam kết.

58

Khi thực hiện theo yêu cầu tương trợ, người đang chấp hành hình phạt

tù đang ở trên lãnh thổ của nước yêu cầu sẽ không bị giam giữ, truy tố, xét xử

hay bị hạn chế tự do cá nhân hoặc là đương sự trong bất cứ vụ án dân sự nào

mà người đó không liên quan nếu người đó không ở lại nước yêu cầu đối với

bất kỳ hành vi nào xảy ra trước khi người này rời khỏi lãnh thổ nước được

yêu cầu. Người đó sẽ không bị yêu cầu phải cung cấp chứng cứ trong bất kỳ

thủ tục tố tụng hoặc hỗ trợ cho bất kỳ hoạt động điều tra nào ngoài phạm vi đã

nêu trong yêu cầu tương trợ nếu không được sự đồng ý của người đó.

Người đang chấp hành hình phạt tù đồng ý cung cấp chứng cứ hoặc hỗ

trợ điều tra sẽ không bị truy tố căn cứ vào lời khai của họ, trừ việc khai báo

gian dối. Người này sẽ không phải chịu bất kỳ hình phạt hay biện pháp hạn

chế tự do cá nhân nào vì từ chối cung cấp chứng cứ hoặc hỗ trợ điều tra.

Người được chuyển giao sẽ được trả tự do và được đối xử như đối với

người làm chứng khác khi nước được yêu cầu thông báo với nước yêu cầu

rằng việc giam giữ người đó không còn cần thiết nữa.

Thứ tư, thu thập, cung cấp chứng cứ như lấy lời khai của người bị hại,

người làm chứng, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, xác minh

lý lịch, thu thập và cung cấp tài liệu…

Thứ năm, truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với vụ án có người nước

ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam mà người đó đã trốn ra nước ngoài,

Việt Nam đã yêu cầu dẫn độ nhưng cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài từ

chối việc dẫn độ thì cơ quan thụ lý vụ án chuyển hồ sơ vụ án đến VKSNDTC

để yêu cầu nước nơi người phạm tội đang có mặt tiếp tục truy cứu trách

nhiệm hình sự. VKSNDTC có thể chuyển giao cả vật chứng của vụ án khi

quyết định chuyển giao hồ sơ vụ án.

Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-

BNG ngày 16/8/2013 hướng dẫn thực hiện quy định về tiếp nhận, chuyển giao

59

hồ sơ, vật chứng của vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật TTTP.

Theo đó, việc tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ, vật chứng để yêu cầu nước ngoài

tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự phải có đủ các điều kiện sau: Người bị

yêu cầu tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự là người nước ngoài phạm tội

trên lãnh thổ Việt Nam, đang bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của

Việt Nam điều tra, truy tố hoặc xét xử nhưng đã trốn khỏi Việt Nam đến nước

khác; Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã yêu cầu nước ngoài dẫn độ về

Việt Nam, nhưng cơ quan có thẩm quyền của nước đó từ chối việc dẫn độ.

Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cũng có thể yêu

cầu Việt Nam tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với công dân Việt

Nam về hành vi phạm tội ở nước ngoài, hiện đang có mặt tại Việt Nam. Trình

tự, thủ tục như sau: Trường hợp vụ án trong giai đoạn điều tra và thuộc thẩm

quyền của cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì

chuyển cho VKSND cấp tỉnh nơi công dân Việt Nam cư trú cuối cùng trước

khi ra nước ngoài để yêu cầu cơ quan điều tra cùng cấp tiến hành điều tra; đối

với vụ án thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra BCA thì chuyển cho Cơ

quan điều tra BCA để tiến hành điều tra. Trường hợp vụ án trong giai đoạn

truy tố và thuộc thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh thì chuyển cho VKSND

cấp tỉnh nơi công dân Việt Nam cư trú cuối cùng trước khi ra nước ngoài để

tiến hành truy tố. Việc điều tra, truy tố, xét xử đối với vụ án được thực hiện

theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam.

Thứ sáu, trao đổi thông tin. Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc

nước ngoài có thể cung cấp thông tin liên quan đến yêu cầu TTTPHS hoặc bản

sao bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối với công

dân của nước yêu cầu.

* Theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập, ký kết thì phạm

vi HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT ngoài các hoạt động theo Luật

60

TTTP nêu trên còn được mở rộng thêm bao gồm một số hoạt động khác tùy

theo các quy định của từng điều ước, cụ thể:

Xác định hoặc nhận dạng nơi ở của một người hoặc nơi có đồ vật (Hiệp

định giữa Việt Nam và Australia, Hàn Quốc, Ấn Độ…).

Tiến hành việc khám xét địa điểm hoặc khám người nhằm tìm kiếm và

thu giữ tài liệu, dữ liệu, giấy tờ hoặc đồ vật được sử dụng làm chứng cứ (Hiệp

định giữa Việt Nam và Ấn Độ, Australia, Hàn Quốc…).

Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và của nước ngoài có thể yêu

cầu nhau thực hiện các biện pháp nhằm truy tìm, kê biên, phong tỏa, thu giữ

hoặc tịch thu tài sản do thực hiện tội phạm mà có và công cụ, phương tiện

được sử dụng để thực hiện tội phạm (Hiệp định giữa Việt Nam và Hàn Quốc,

Ấn Độ, Anh…). Quyền lợi chính đáng của bên thứ ba ngay tình có liên quan

sẽ được tôn trọng và bảo vệ theo pháp luật khi áp dụng các biện pháp này.

Trả lại tài sản hoặc phân chia tài sản do phạm tội mà có (Hiệp định giữa

Việt Nam và Angieri, Anh…). Nếu việc thực hiện yêu cầu tương trợ của nước

yêu cầu đem lại hoặc hứa hẹn sẽ đem lại thành công trong việc tịch thu tài sản

thì nước được yêu cầu có thể yêu cầu phân chia tài sản từ nước yêu cầu. Việc

trao trả tài sản chỉ được thực hiện khi đã có phán quyết cuối cùng được tuyên

trên lãnh thổ của nước yêu cầu. Các quyền chính đáng của bên thứ ba ngay

tình được tôn trọng trong trường hợp này.

Cho phép người có thẩm quyền của nước yêu cầu có mặt khi thực hiện

yêu cầu (Hiệp định giữa Việt Nam và Anh, Ấn Độ, Australia…). Trong quá

trình thực hiện yêu cầu tương trợ, người có thẩm quyền của nước yêu cầu có

thể có mặt và có thể được hỏi người cung cấp lời khai hoặc chứng cứ. Trường

hợp không được phép hỏi trực tiếp thì người đó có thể gửi các câu hỏi dự kiến

cho người cung cấp lời khai hoặc chứng cứ.

61

2.2.5. Từ chối hoặc hoãn thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về

tương trợ tư pháp hình sự

* Từ chối tương trợ:

Thứ nhất, từ chối tương trợ theo quy định của Luật TTTP: Cơ quan

CSĐT từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ khi thuộc một trong các trường hợp

sau: (1) Yêu cầu không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành

viên, quy định của pháp luật Việt Nam; yêu cầu gây phương hại đến chủ

quyền, an ninh quốc gia; (2) yêu cầu liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm

hình sự một người về hành vi phạm tội mà người đó đã bị kết án, được tuyên

không có tội hoặc được đại xá, đặc xá tại Việt Nam; (3) yêu cầu liên quan đến

hành vi phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định

của BLHS Việt Nam; (4) yêu cầu liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật

nhưng không cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS Việt Nam.

Thứ hai, từ chối tương trợ theo quy định tại các Hiệp định giữa Việt

Nam và nước ngoài: Ngoài các trường hợp trên thì Hiệp định mà Việt Nam đã

ký với nước ngoài còn quy định một số điều kiện từ chối khác như: (1) Yêu

cầu liên quan đến tội phạm mà nước được yêu cầu cho rằng đó là tội phạm

quân sự (Hiệp định giữa Việt Nam và Anh, Hàn Quốc, Australia…); (2) yêu

cầu liên quan đến tội phạm mà nước được yêu cầu cho rằng đó là tội phạm có

tính chất chính trị (Hiệp định giữa Việt Nam và Anh, Angieri, Australia …);

(3) khi nước được yêu cầu có đủ căn cứ cho rằng yêu cầu tương trợ được đưa

ra nhằm truy tố hoặc trừng phạt một người vì lý do chủng tộc, giới tính, tôn

giáo, quốc tịch hoặc chính kiến hay việc thực hiện yêu cầu tương trợ sẽ làm

cho người đó bị thành kiến vì các lý do như vậy (Hiệp định giữa Việt Nam và

Hàn Quốc, Australia…); (4) khi nước yêu cầu không đảm bảo chắc chắn rằng

án tử hình sẽ không được áp dụng hoặc có tuyên nhưng không thi hành đối

với đối tượng của yêu cầu tương trợ (Hiệp định giữa Việt Nam và Australia).

62

Thứ ba, bên cạnh đó, Hiệp định Việt Nam đã ký với các nước còn quy

định một số điều kiện có thể từ chối như: (1) Yêu cầu tương trợ liên quan đến

việc phong tỏa, thu giữ hoặc tịch thu tài sản do phạm tội mà có hoặc tịch thu

tài sản liên quan đến hành vi, hoạt động mà không thể làm căn cứ cho việc

phong tỏa, thu giữ hoặc tịch thu tài sản đó ở nước được yêu cầu (Hiệp định

giữa Việt Nam và Ấn Độ); (2) Việc tương trợ sẽ hoặc chắc chắn ảnh hưởng

đến sự an toàn của mọi người, bất kể người đó đang ở trong hay ngoài lãnh

thổ của nước được yêu cầu (Hiệp định TTTPHS giữa các nước ASEAN); (3)

Việc thực hiện tương trợ sẽ tạo ra gánh nặng tài chính quá mức đối với nguồn

lực của nước được yêu cầu (Hiệp định TTTPHS giữa các nước ASEAN).

* Hoãn thực hiện tương trợ tư pháp: Cơ quan CSĐT có thể hoãn thực

hiện yêu cầu tương trợ của nước ngoài nếu việc thực hiện ủy thác tư pháp cản

trở quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án tại Việt Nam.

Trước khi từ chối hoặc hoãn tương trợ, Cơ quan CSĐT phải thông báo

cho nước yêu cầu (thông qua VKSNDTC) về lý do từ chối hoặc hoãn; trao đổi

với nước yêu cầu để xác nhận khả năng thực hiện tương trợ với các điều kiện

mà nước được yêu cầu cho là cần thiết. Nếu nước yêu cầu chấp nhận việc

tương trợ với những điều kiện quy định này thì phải tuân thủ các điều kiện đó.

2.2.6. Thủ tục áp dụng các hoạt động hợp tác quốc tế về tương trợ tư

pháp hình sự

HTQT về TTTPHS là hoạt động TTHS liên quan trực tiếp đến quyền, lợi

ích của quốc gia, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Kết quả hoạt động này

có giá trị pháp lý là nguồn chứng cứ để điều tra, giải quyết vụ án hình sự. Với

tính chất quan trọng đó, mỗi nội dung HTQT về TTTPHS đều được quy định

trình tự, thủ tục thực hiện cụ thể đòi hỏi Cơ quan CSĐT phải tuân thủ.

Thứ nhất, thủ tục yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự: Đây là trường

hợp Cơ quan CSĐT yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện

63

TTTPHS. Cơ quan CSĐT phải lập hồ sơ ủy thác tư pháp và gửi cho

VKSNDTC. Trong thời hạn mười ngày kể từ khi nhận hồ sơ, VKSNDTC tiến

hành kiểm tra tính hợp pháp, vào sổ ủy thác tư pháp và chuyển cho cơ quan

có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định. Khi nhận được văn bản thông

báo kết quả của phía nước ngoài, trong thời hạn năm ngày VKSNDTC sẽ có

trách nhiệm chuyển văn bản đó cho cơ quan đã gửi hồ sơ ủy thác.

Theo quy định, Cơ quan CSĐT có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền

của nước ngoài thực hiện TTTP trong các trường hợp sau: Tống đạt giấy tờ,

hồ sơ, tài liệu cho người đang cư trú ở nước được yêu cầu; triệu tập người làm

chứng, người giám định đang ở nước được yêu cầu; thu thập, cung cấp chứng

cứ ở nước được yêu cầu để giải quyết vụ án hình sự tại Việt Nam; truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với người đang ở nước mà người đó mang quốc tịch;

các trường hợp tương trợ khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Thứ hai, thủ tục tiếp nhận, xử lý ủy thác tư pháp về hình sự của nước

ngoài: Đây là trường hợp Cơ quan CSĐT thực hiện ủy thác tư pháp về hình

sự theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. Sau khi đã tiếp nhận

hồ sơ do VKSNDTC chuyển đến, Cơ quan CSĐT có trách nhiệm thực hiện ủy

thác tư pháp về hình sự của phía nước ngoài và thông báo kết quả cho

VKSNDTC biết. Sau khi nhận được kết quả, trong thời hạn năm ngày

VKSNDTC sẽ chuyển kết quả đó cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

Trong trường hợp ủy thác tư pháp về hình sự không thực hiện được hoặc quá

thời hạn hoặc cần bổ sung thông tin, tài liệu thì Cơ quan CSĐT đã tiếp nhận

hồ sơ phải thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do để VKSNDTC thông báo cho

phía nước ngoài đã có yêu cầu.

Thứ ba, thủ tục tống đạt giấy triệu tập đối với người làm chứng, người

giám định: Nước yêu cầu muốn triệu tập người làm chứng, người giám định

đang cư trú tại Việt Nam thì phải gửi giấy triệu tập cho VKSNDTC chậm nhất

64

là chín mươi ngày, trước ngày dự định người đó phải có mặt tại nước yêu cầu.

Cơ quan CSĐT đã thực hiện việc tống đạt giấy triệu tập theo yêu cầu của

VKSNDTC, phải gửi ngay văn bản xác nhận đã tống đạt để VKSNDTC

chuyển cho nước yêu cầu, trong trường hợp không tống đạt được thì phải

thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Thứ tư, thủ tục dẫn giải người đang chấp hành hình phạt tù để cung

cấp chứng cứ: Cơ quan CSĐT có thể thực hiện việc dẫn giải người đang chấp

hành hình phạt tù tại Việt Nam đến nước yêu cầu để cung cấp chứng cứ trong

vụ án hình sự khi xét thấy đồng thời thỏa mãn các điều kiện: Người đang chấp

hành hình phạt tù tại Việt Nam đồng ý với việc dẫn giải và cung cấp chứng cứ

tại nước yêu cầu; cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu phải cam kết bằng

văn bản về việc bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, điều kiện đi lại, ăn ở,

phương thức tiếp nhận, trao trả, thời hạn và các điều kiện cụ thể khác liên

quan đến việc dẫn giải do Cơ quan CSĐT đề nghị.

Thứ năm, thủ tục cung cấp thông tin và việc sử dụng thông tin chứng

cứ trong TTTP hình sự: Theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam

hoặc của nước ngoài, VKSNDTC yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài

hoặc cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền Việt Nam cung cấp thông tin

liên quan đến yêu cầu TTTPHS hoặc bản sao bản án, quyết định hình sự của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối vơi công dân của nước yêu cầu.

Trong hoạt động cung cấp thông tin và việc sử dụng thông tin, chứng

cứ trong TTTPHS, Cơ quan CSĐT phải áp dụng các biện pháp thích hợp để

giữ bí mật ủy thác tư pháp về hình sự. Đồng thời yêu cầu phía nước ngoài áp

dụng các biện pháp để giữ bí mật thông tin, chứng cứ đã cung cấp và sử dụng

thông tin, chứng cứ trong phạm vi cần thiết cho mục đích nêu trong yêu cầu

TTTPHS và phải bảo đảm thông tin, chứng cứ không bị sai lệch, thay đổi, tiết

lộ trái phép hoặc các hành vi lạm dụng khác.

65

Thứ sáu, thủ tục thực hiện yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự, giao

hồ sơ, vật chứng của vụ án cho nước ngoài: Đối với vụ án có người nước

ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ

quan CSĐT mà người đó đã trốn ra nước ngoài và đã yêu cầu dẫn độ, nhưng

phía nước ngoài từ chối việc dẫn độ thì cơ quan đang thụ lý vụ án chuyển hồ

sơ vụ án đến VKSNDTC để yêu cầu nước nơi người phạm tội đang có mặt

truy cứu trách nhiệm hình sự.

Thứ bảy, thủ tục xử lý yêu cầu của nước ngoài về việc truy cứu trách

nhiệm hình sự công dân Việt Nam tại Việt Nam: Theo yêu cầu của

VKSNDTC về việc tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với công dân

Việt Nam phạm tội ở nước ngoài đang có mặt tại Việt Nam của phía nước

ngoài. Trong trường hợp vụ án đang trong giai đoạn điều tra thì Cơ quan điều

tra Công an cấp tỉnh (nơi công dân Việt Nam cư trú cuối cùng trước khi ra

nước ngoài) tiến hành điều tra nếu vụ án thuộc thẩm quyền của cơ quan tiến

hành tố tụng cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc Cơ quan điều tra

tiến hành điều tra nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra này.

Thứ tám, thủ tục thực hiện ủy thác tư pháp của nước ngoài về điều tra

đối với công dân nước ngoài tại Việt Nam: Theo yêu cầu của VKSNDTC, Cơ

quan CSĐT có thẩm quyền tiến hành điều tra đối với công dân nước ngoài đã

phạm tội ở nước đó hiện đang cư trú tại Việt Nam, kết quả điều tra được gửi

đến VKSNDTC để chuyển cho nước yêu cầu.

2.2.7. Nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự

Trên cơ sở những đặc điểm đặc thù của hoạt động HTQT về TTTPHS

được trình bày trên đây và khái quát từ các quy định của pháp luật, các thỏa

thuận quốc tế được ghi nhận trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký

kết hoặc gia nhập, các quy định của ngành Công an… thì Cơ quan CSĐT có

các nhiệm vụ chính sau đây trong thực hiện HTQT về TTTPHS:

66

Thứ nhất, đưa ra yêu cầu và thực hiện các yêu cầu TTTPHS bằng việc

sử dụng kênh hợp tác chính thức thông qua VKSNDTC là cơ quan trung

ương. Ngoài ra, trong thực tế thực hiện có thể trao đổi thông tin thông qua các

kênh hợp tác khác: Ngoại giao, Tổ chức Interpol, Aseanapol... để hỗ trợ việc

thực hiện HTQT về TTTPHS

Thứ hai, tổ chức tiến hành các hoạt động điều tra theo yêu cầu của phía

nước bạn để thu thập tài liệu, chứng cứ, thu giữ bảo quản vật chứng, lấy lời

khai của nhân chứng, trao đổi các thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ án…

Thứ ba, tổ chức, chỉ đạo thực hiện các yêu cầu HTQT về TTTPHS

gồm: công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức phân công lực lượng trực tiếp thực

hiện yêu cầu TTTP của phía nước ngoài; tổ chức phối hợp với các cơ quan, tổ

chức trong và ngoài ngành Công an (Cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh, Cơ

quan ngoại giao, VKSND, TAND...) thực hiện các yêu cầu TTTPHS.

Thứ tư, thông qua hoạt động này, giải quyết các vụ án để tìm ra nguyên

nhân, điều kiện phạm tội, từ đó yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng

các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa tội phạm có yếu tố nước ngoài.

Thứ năm, thông qua thực hiện hoạt động HTQT về TTTPHS để đưa ra

kiến nghị, đề xuất với Nhà nước, lãnh đạo BCA triển khai hoạt động ký kết,

gia nhập các điều ước quốc tế, chương trình hợp tác nâng cao hiệu quả hoạt

động HTQT phòng, chống tội phạm.

2.2.8. Kênh thực hiện hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự

Căn cứ quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam thì VKSNDTC (Vụ

HTQT và TTTPHS) là cơ quan trung ương của Việt Nam về TTTPHS, thực

hiện các hoạt động trao đổi, yêu cầu tương trợ với cơ quan trung ương của

nước ngoài về TTTPHS. Cơ quan CSĐT tiếp nhận thực hiện ủy thác tư pháp

do VKSNDTC chuyển giao, hoặc yêu cầu TTTP với nước ngoài thông qua

VKSNDTC. Kênh này được sử dụng chính thống, thường xuyên, phổ biến và

67

có giá trị pháp lý cao, đã và đang mang lại hiệu quả trong hoạt động TTTPHS

nói riêng, hoạt động HTQT phòng, chống tội phạm nói chung.

Trong thực tiễn thực hiện hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm

xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài thời gian qua cho thấy việc

thực hiện HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT còn được hỗ trợ thực hiện

bởi các hoạt động trao đổi, cung cấp thông tin giữa Cơ quan CSĐT với các

cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thông qua các kênh sau:

Kênh hợp tác của Tổ chức Interpol để phối hợp thực hiện các hoạt động

trao đổi thông tin, xác minh thông tin, chuyển giao giấy tờ, hồ sơ liên quan

đến vụ án hình sự. Đây là kênh thông tin đã được lực lượng CSĐT thường

xuyên sử dụng thông qua Văn phòng Interpol Việt Nam hoặc thông qua mạng

lưới Sỹ quan liên lạc của Cảnh sát Việt Nam ở nước ngoài, Sỹ quan liên lạc

của Cảnh sát nước ngoài tại Việt Nam, Văn phòng liên lạc qua biên giới.

Kênh hợp tác này được đánh giá là nhanh nhạy, kịp thời, mang lại hiệu quả,

không phải trải qua các thủ tục phức tạp. Tuy nhiên, hoạt động hợp tác này

chỉ được coi là hoạt động hỗ trợ cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực

hiện hoạt động TTTPHS. Theo quy định của pháp luật Việt Nam kết quả hoạt

động này chưa có giá trị pháp lý làm nguồn chứng cứ để truy tố, xét xử.

Phối hợp với lực lượng CSĐT Công an địa phương và Cảnh sát các

nước láng giềng có chung đường biên giới trên đất liền (Trung Quốc, Lào,

Campuchia). Kênh hợp tác này được triển khai dựa trên cơ sở mối quan hệ

thân thiện giữa lực lượng Cảnh sát hai bên hoặc thông qua các chương trình

hợp tác đảm bảo ANTT, quy chế phối hợp đã được ký kết giữa Công an các

tỉnh biên giới của Việt Nam với các địa phương giáp ranh của các quốc gia

láng giềng này.

68

Kết luận Chương 2

Chương 2 của Luận án đã tập trung giải quyết một số vấn đề lý luận cơ

bản về HTQT phòng chống tội phạm nói chung, HTQT về TTTPHS của Cơ

quan CSĐT nói riêng.

Đối với nhận thức chung về HTQT phòng, chống tội phạm: trên cơ sở

phân tích bản chất, nội hàm của hoạt động này cũng như nghiên cứu, tham

khảo quan điểm của một số nhà khoa học, Luận án đã đưa ra khái niệm “Hợp

tác quốc tế phòng, chống tội phạm là hoạt động hỗ trợ, thỏa thuận, trao đổi

giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với các cơ quan có thẩm

quyền của nước ngoài, với các tổ chức quốc tế trên cơ sở quy định của pháp

luật quốc tế và pháp luật quốc gia nhằm thực hiện các hoạt động ký kết điều

ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển

giao người có án phạt tù, trao đổi thông tin tội phạm cũng như các hoạt động

khác có liên quan đến phòng, chống tội phạm”. Đồng thời Luận án phân tích,

luận giải về đặc điểm, nguyên tắc, nội dung, mục đích của HTQT phòng,

chống tội phạm.

Đối với nhận thức chung về HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT:

Luận án đã luận giải bản chất hoạt động này là một nội dung của HTQT

phòng, chống tội phạm, là thủ tục pháp lý hình sự quốc tế và đưa ra khái niệm

"HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT là thủ tục pháp lý hình sự quốc tế,

trong đó Cơ quan CSĐT phối hợp với các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm

quyền trong nước và của các quốc gia có liên quan, trên cơ sở điều ước quốc

tế và pháp luật trong nước, tiến hành hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt

động thu thập, cung cấp chứng cứ; trao đổi thông tin; tìm hiểu hồ sơ vụ án;

triệu tập người làm chứng, người giám định; truy cứu trách nhiệm hình sự;

thực hiện các yêu cầu hỗ trợ khác về hình sự phục vụ hoạt động điều tra, xử

69

lý tội phạm.". Đồng thời, Luận án đã phân tích hoạt động này ở các khía cạnh:

nguyên tắc, nội dung, chủ thể, nhiệm vụ, kênh thực hiện, thủ tục áp dụng...

Việc phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận về HTQT phòng, chống tội

phạm, HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT sẽ giúp nắm vững hơn các quy

định pháp luật, điều ước quốc tế về công tác này, đồng thời làm cơ sở và tiêu

chí để phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và thực trạng

hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT được đề cập tại Chương III.

70

CHƯƠNG III

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG

HOẠT ĐỘNG HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP

HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA

3.1. Khái quát tình hình có liên quan đến hợp tác quốc tế về tương

trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

3.1.1. Khái quát tình hình tội phạm có liên quan đến hợp tác quốc tế

về tương trợ tư pháp hình sự

3.1.1.1. Tình hình tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có tính chất quốc

tế trên thế giới và khu vực

Thời gian gần đây, tình hình tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có tính

quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp. Khi xu hướng toàn cầu hóa hình thành,

các loại tội phạm xuyên quốc gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là các loại tội

phạm mang lại lợi nhuận kinh tế cao như: buôn bán ma túy, buôn bán vũ khí,

buôn người, rửa tiền và tội phạm công nghệ cao... Ngoài ra, nhiều hoạt động

phi pháp khác cũng xuất hiện, gia tăng như: buôn bán động vật quý hiếm, các

tác phẩm nghệ thuật, cổ vật bị đánh cắp và tội phạm liên quan đến thẻ tín

dụng... Những dòng người, dòng tiền và dòng hàng hóa chuyển từ nước này

sang nước khác trong bối cảnh hội nhập là điều kiện thuận lợi để tội phạm mở

rộng các hoạt động như: buôn bán phụ nữ, trẻ em; buôn lậu; đưa người ra

nước ngoài cư trú, lao động bất hợp pháp...

Khi thương mại toàn cầu tăng nhanh, luồng hàng hóa phi pháp cũng

tăng lên bên cạnh các luồng hàng hóa hợp pháp được lưu chuyển toàn cầu.

Tội phạm xuyên quốc gia mở rộng địa bàn hoạt động kinh doanh phi pháp,

tận dụng ưu thế của các thị trường, mang tính toàn cầu hóa. Trong khi hoạt

động thương mại hợp pháp phải tuân thủ sự điều chỉnh của chính sách kiểm

soát tại biên giới và các hệ thống quản lý tập trung thì các nhóm tội phạm

71

xuyên quốc gia tự do hoạt động, tận dụng những "lỗ hổng" của luật pháp và

sử dụng những tiến bộ công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin làm thủ

đoạn, phương thức hoạt động. Đồng thời xuất hiện những dịch vụ phi pháp

cho hoạt động tội phạm xuyên quốc gia như: cung cấp dịch vụ tài chính, kế

toán và pháp luật, cung cấp giấy tờ giả mạo.

Chúng khai thác triệt để việc giảm bớt các quy định quốc tế, kiểm soát

biên giới và việc khuyến khích tự do để mở rộng địa bàn, phạm vi hoạt động

ở nhiều quốc gia; liên kết với nhau thường xuyên, chặt chẽ hơn để tận dụng

điểm mạnh, khắc phục điểm yếu của mỗi tổ chức tội phạm, phân chia các hoạt

động phạm tội, giảm thiểu nguy cơ bị phát hiện.

Hoạt động phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia đang gia tăng và tiếp tục

đem lại khoản lợi nhuận khổng lồ cho các tổ chức tội phạm. Theo ước tính

của Liên hợp quốc, hoạt động tội phạm toàn cầu trung bình một năm mang về

cho chúng khoảng trên 1.000 tỷ USD, lớn hơn rất nhiều tổng sản phẩm quốc

nội của nhiều quốc gia cộng lại. Trong đó, lợi nhuận phi pháp có được từ

buôn lậu ma tuý là gần 700 tỷ USD một năm, sau đó là buôn lậu vũ khí

(khoảng 300 tỷ USD một năm); từ buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em

khoảng vài chục tỷ USD. Hiện nay, thế giới có trên 200 triệu người nghiện

ma tuý, 2,7 triệu phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của tội phạm buôn người... và

hàng năm được bổ sung thêm hàng triệu, trong đó khoảng 1/4 số đó là người

từ các nước Đông Nam Á. Tội phạm buôn lậu ma tuý, vũ khí, đạn dược, buôn

bán người, nhất là phụ nữ và trẻ em hoạt động rất táo bạo ở nhiều nước khác

nhau. Mặc dù cộng đồng quốc tế đã có nhiều công ước, thoả thuận giữa các

quốc gia để thống nhất hành động phòng, chống tội phạm nhưng xem ra kết

quả còn rất hạn chế. Các nước trong khu vực Châu Á cũng phải đối mặt với

tình trạng tội phạm ngày càng gia tăng; nhiều băng, ổ nhóm phạm tội có tổ

chức với số lượng rất lớn hoạt động xuyên quốc gia, lưu động, cơ động nhanh

72

rất khó phát hiện và triệt phá. Ngay ở các nước láng giềng với Việt Nam (Lào,

Campuchia, Trung Quốc), tình hình tội phạm cũng diễn biến rất phức tạp.

Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam đã cho thấy, nhiều

loại tội phạm hoạt động có liên quan đến Lào, Campuchia, Trung Quốc, các

nước Liên Xô (cũ), Đông Âu (cũ) và các nước có nhiều người Việt Nam định

cư, học tập, lao động như Australia, Anh, Canada, Hàn Quốc... nhưng do

nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiệu quả hợp tác giữa lực lượng CSND

Việt Nam với Cảnh sát các nước nêu trên còn chưa cao. Diễn biến của tình

hình tội phạm trên thế giới, trong khu vực luôn tác động trực tiếp đến tình

hình tội phạm ở Việt Nam.

3.1.1.2. Tình hình tội phạm có yếu tố nước ngoài xảy ra ở Việt Nam

Quá trình hội nhập quốc tế đã giúp Việt Nam có nhiều thuận lợi và cơ

hội trong phát triển kinh tế, xã hội, cũng như trong công tác bảo đảm an ninh

quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Đồng thời quá trình hội nhập cũng có

mặt trái, đã tác động tiêu cực không nhỏ đến tình hình ANTT. Tội phạm lợi

dụng xu thế hội nhập của Việt Nam để tiến hành các hoạt động phạm tội ngay

trên lãnh thổ Việt Nam hoặc lợi dụng lãnh thổ Việt Nam làm địa bàn trung

gian. Tội phạm trong nước cũng tăng cường móc nối với tội phạm ở nước

ngoài để tiến hành các hoạt động phạm tội. Thời gian qua, tình hình tội phạm

xuyên quốc gia liên quan đến Việt Nam có xu hướng tăng về số vụ, phức tạp

về tính chất, mức độ nghiêm trọng, đặc biệt là hoạt động của các băng nhóm

tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Tình hình đó đã tạo ra những khó khăn,

thách thức lớn cho các cơ quan thực thi pháp luật, nhất là Cơ quan CSĐT.

Theo Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, cho đến cuối năm 2018,

tổng số lao động nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam có khoảng 90.000

người. Đáng chú ý là chỉ từ tháng 1-5/2011, bình quân mỗi tháng có thêm gần

2.000 lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam. Lao động nước ngoài

73

làm việc tại Việt Nam đến từ 74 quốc gia, trong đó quốc tịch châu Á (Trung

Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia...) chiếm 58%; quốc tịch

châu Âu chiếm 28,5% và các nước khác chiếm 13,5%. Tập trung chủ yếu ở tp

Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số tỉnh phát triển công nghiệp: Đồng Nai, Bình

Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Dương,...

Ngoài ra, theo Tổng cục Thống kê: khách du lịch quốc tế đến Việt Nam

hàng năm đều tăng. Năm 2018, lượng khách du lịch quốc tế ước đạt 15,5 triệu

lượt, tăng 19,9% so với năm 2017. 9 tháng đầu năm 2019, lượng khách du

lịch quốc tế ước đạt 12,9 triệu lượt, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2018.

Trong số người nước ngoài đến lao động, sinh sống và du lịch tại Việt

Nam, có nhiều trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam. Theo số liệu thống kê

của Văn phòng Bộ Công an, trung bình hàng năm xảy ra khoảng 200 vụ, việc

vi phạm pháp luật có yếu tố nước ngoài liên quan đến khoảng 350 đối tượng,

trong đó tội phạm về trật tự xã hội chiếm tỷ lệ cao (khoảng 62% về số vụ và

64% về số đối tượng); tiếp đó là tội phạm về kinh tế chiếm khoảng 25% về số

vụ và 20% về số đối tượng; tội phạm về ma túy chiếm khoảng 11% về số vụ

và 12% về số đối tượng.

Tình hình tội phạm có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam thể hiện ở một số

nhóm tội phạm sau đây:

Thứ nhất, tội phạm về trật tự xã hội: Thủ đoạn hoạt động phạm tội

ngày càng tinh vi với sự câu kết với các băng, nhóm, đối tượng người địa

phương. Hoạt động phạm tội chủ yếu là tổ chức đánh bạc, cá độ bóng đá quốc

tế qua mạng internet, tổ chức mại dâm, bảo kê... Đáng chú ý là tình trạng

đánh bạc, cá độ ngày càng phổ biến, nhất là vào dịp diễn ra World-cup, Euro,

gây thất thoát số lượng lớn ngoại tệ ra nước ngoài, có vụ thiệt hại lên đến

hàng chục nghìn tỷ đồng. Tội phạm mua bán người diễn biến phức tạp, trong

đó trên 90% số vụ là mua bán người ra nước ngoài (70% là mua bán sang

74

Trung Quốc); phạm vi địa bàn xảy ra trên khắp 63 tỉnh, thành phố; nạn nhân

có trên 85% là phụ nữ, trẻ em (năm 2014 có khoảng 5.000 phụ nữ, trẻ em bị

mua bán sang Malaysia và Singapore), 6,63% là học sinh, sinh viên; ngoài ra

phát hiện cả việc mua bán trẻ sơ sinh, bào thai, nam giới, mua bán nội tạng,

đẻ thuê,... Loại tội phạm này diễn biến ngày càng phức tạp, gia tăng với nhiều

thủ đoạn mới tinh vi, xảo quyệt như kết hôn giả, lợi dụng miễn thị thực nhập

cảnh, sử dụng hộ chiếu giả để đưa phụ nữ, trẻ em Việt Nam ra nước ngoài bán

làm vợ người nước ngoài, hoạt động mại dâm, bóc lột sức lao động... tập

trung ở một số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Malayxia, Campuchia,

Singapore... Xuất hiện nhiều vụ án giết người, cố ý gây thương tích liên quan

đến người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài do mâu thuẫn trong làm

ăn, kinh doanh ở Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Campuchia...

Thứ hai, tội phạm về kinh tế: Xuất hiện ngày càng nhiều các vụ lừa đảo

chiếm đoạt tài sản do các đối tượng người nước ngoài gây ra dưới các thủ

đoạn lừa đảo ký kết hợp đồng kinh tế nhưng không thanh toán theo thỏa thuận

nhằm chiếm đoạt hàng hóa; cho vay vốn kinh doanh sau đó chiếm đoạt tiền

đặt cọc mà không cung cấp vốn vay theo thỏa thuận; báo trúng xổ số, giả thừa

kế... Xuất hiện các vụ lừa đảo hoặc buôn lậu do các công ty của Việt Nam cấu

kết với các công ty nước ngoài (Trung Quốc, Hàn Quốc, Italia...) thực hiện

nhằm trốn thuế xuất khẩu. Tình trạng một số tổ chức, cá nhân nước ngoài,

Việt kiều đầu tư chui chứng khoán, bất động sản, kinh doanh đa cấp, dịch vụ

giải trí để rửa tiền, trốn thuế, lừa đảo, tham gia vào các đường dây vận

chuyển, mua bán tiền giả, hàng giả. Hoạt động buôn lậu ở khu vực biên giới,

gian lận thương mại diễn biến phức tạp. Chúng chủ yếu vận chuyển hàng hóa,

nhất là hàng tiêu dùng của nước ngoài vào Việt Nam tiêu thụ và vận chuyển

lâm thổ sản quý, hiếm, xăng dầu từ Việt Nam ra nước ngoài; lợi dụng kẽ hở

của pháp luật và hạn chế trong công tác quản lý, kiểm soát để trốn thuế.

75

Tội phạm sử dụng công nghệ cao: Loại tội phạm này phát triển mạnh

trong những năm gần đây với hàng chục vụ liên quan đến việc trục lợi bằng

các thẻ tín dụng lấy trộm của người nước ngoài qua mạng internet (ATM

Cash-out); mang tính phức tạp với các yếu tố công nghệ vô cùng tinh vi như

tấn công vào trang điện tử của các doanh nghiệp, cơ sở tài chính, ăn cắp thông

tin bảo mật, tin tặc, trộm cắp tiền qua ngân hàng bằng thiết bị công nghệ cao,

trộm cắp cước viễn thông... Đã phát hiện nhiều vụ đối tượng là người nước

ngoài trộm cắp thông tin thẻ ngân hàng, làm giả thẻ tín dụng để chiếm đoạt tài

sản; Tội phạm lừa đảo thông qua hoạt động kinh doanh trái phép trên mạng

như bán hàng đa cấp, kinh doanh sàn vàng ảo, game online và mở tài khoản

ảo để huy động tiền diễn ra phức tạp, số tiền bị chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng

của hàng nghìn nhà đầu tư; Giả mạo hộp thư điện tử của các công ty, doanh

nghiệp có uy tín, lừa đảo mua hàng qua mạng (điển hình là vụ việc công ty

Khas Global Service có hành vi lừa đảo chiếm đoạt 11.702,50 USD thông qua

hành vi giả mạo địa chỉ email của công ty Prince Electronics Compny để tiến

hành giao dịch hợp đồng mua bán với công ty cổ phần Tràng An); Tình trạng

sử dụng công nghệ VoiP (cuộc gọi thoại trên mạng internet) mạo danh tổng

đài nhà mạng, Công an, Viện kiểm sát để lừa nạn nhân chuyển tiền vào tài

khoản để chiếm đoạt;...

Thứ ba, tội phạm về ma túy: Hoạt động tội phạm này cũng diến biến hết

sức phức tạp, đã hình thành nhiều tổ chức, đường dây buôn bán ma túy xuyên

quốc gia, tiếp tục gia tăng về quy mô và mức độ nguy hiểm. Ma túy được vận

chuyển qua tuyến hàng không, tuyến biển vẫn diễn ra phức tạp với phương

thức, thủ đoạn tinh vi hơn, số lượng ngày càng nhiều hơn (vd: năm 2014 phát

hiện vụ vận chuyển 4,22 kg heroin dạng lỏng được bơm giấu vào trong 140

tuýp dầu nóng từ tp Hồ Chí Minh đi Australia; Công an Hà Nội bắt đối tượng

người Indonesia ép heroin vào bên trong bìa truyện tranh bọc nilon đen và

76

giấy bạc, thu 4,9kg heroin). Phát hiện một số đường dây tội phạm quốc tế sử

dụng Việt Nam là địa bàn trung chuyển ma túy đi các nước tiêu thụ, nhất là

qua biên giới các tỉnh Tây Bắc, Đông Bắc giáp với Trung Quốc; một số

đường dây vận chuyển trái phép cocain xuyên quốc gia được ngụy trang dưới

dạng hàng hóa xuất nhập khẩu qua đường hàng không và đường biển. Đặc

biệt nghiêm trọng là trên tuyến biên giới Việt – Lào, nhiều nhóm đối tượng

người Mông Lào có vũ trang xâm nhập trái phép biên giới vận chuyển ma túy

số lượng lớn vào nước ta, tổ chức thành nhiều đoàn đông người vận chuyển

ma túy vào sâu trong nội địa cung cấp cho các đối tượng đầu nậu ở Mộc

Châu, Vân Hồ - Sơn La.

Thứ tư, hoạt động khủng bố liên quan đến Việt Nam: thời gian qua, ở

Việt Nam tuy chưa xảy ra hoạt động khủng bố, nhưng các mục tiêu của hoạt

động khủng bố quốc tế đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều tại Việt Nam

như: khách du lịch, đại diện công ty nước ngoài, tổ chức quốc tế vào Việt

Nam... Trong bối cảnh đi lại thông thương giữa các nước trong khu vực, việc

một số nước lân cận Việt Nam gia tăng các hoạt động phòng, chống khủng bố

sẽ khiến cho các đối tượng khủng bố có thể dạt vào ẩn náu tại Việt Nam chờ

cơ hội hoạt động.

3.1.1.3. Tình hình tội phạm do người Việt Nam gây ra ở nước ngoài

Do những biến đổi lịch sử của nền kinh tế, chính trị Việt Nam trong vài

chục năm gần đây nên người Việt Nam bằng nhiều đường, với nhiều lý do

khác nhau đã đến nhiều nước trên thế giới để làm ăn, sinh sống, học tập. Theo

tài liệu của Ủy ban nhà nước về người nước ngoài (Bộ Ngoại giao) người gốc

Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài có khoảng trên 4,5 triệu người và phân bố

không đồng đều tại 103 nước và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới, 98% trong

số đó tập trung ở 21 nước tại Bắc Mỹ, Châu Âu, Đông Nam Á, Đông Bắc Á

và châu Đại Dương. Trong đó, ước tính số người gốc Việt ở các nước là: Mỹ

77

2,2 triệu, Pháp 300.000, Úc 300.000, Canada 250.000, Đài Loan 200.000,

Campuchia 156.000, Thái Lan 100.000, Malaysia 100.000, Hàn Quốc

100.000, Nhật 80.000, Nga 60.000, Séc 60.000, Anh 40.000,... Hầu hết người

Việt Nam ra nước ngoài đều chăm chỉ làm ăn, sinh sống bình thường. Song,

trong số đó không ít người lười biếng đã kiếm sống bằng con đường phạm tội.

Ở hầu hết các nước có nhiều người Việt Nam sinh sống thì đều có tội phạm là

người Việt Nam, trở thành vấn đề cần quan tâm của quốc gia đó. Tuy vậy,

phức tạp nhất là ở Nga, Đức, Séc, Hoa Kỳ.

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm trong cộng đồng người

Việt Nam hoặc liên quan đến người Việt trên thế giới ngày càng diễn biến

phức tạp. Theo thống kê, hàng năm Văn phòng Interpol Việt Nam tiếp nhận,

xử lý khoảng 1.500 lượt thông tin từ Cảnh sát nước ngoài liên quan đến hoạt

động phạm tội ở nước ngoài của các đối tượng người Việt Nam. Nổi lên là

hoạt động buôn lậu ma túy, trồng cây cần sa của các băng nhóm, các đối

tượng người Việt Nam tại Anh, Séc, Canada... Những đối tượng này chủ yếu

đã có tiền án, tiền sự hoặc đang bị truy nã tại Việt Nam, bỏ trốn ra nước

ngoài, câu kết với các đối tượng người Việt khác hoặc các băng nhóm người

bản địa để trồng cây cần sa tại những nhà máy, những trang trại bí mật tại các

khu ngoại ô ở Vancuvơ, Toronto (của Canada), London, Manchester (của

Anh), ... hoặc trồng ngay trong các khu nhà kính với sự hỗ trợ của các phương

tiện kỹ thuật. Theo thống kê của Cảnh sát Anh thời điểm năm 2017 tại Vương

quốc Anh có khoảng 1.000 cơ sở trồng cây cần sa của người Việt Nam. Từ

hoạt động trồng, buôn bán cần sa của các đối tượng này làm xuất hiện nhiều

loại tội phạm nghiêm trọng khác trong cộng đồng người Việt như: giết người,

bắt cóc tống tiền, chuyển tiền bất hợp pháp, rửa tiền...

Tại các nước châu Âu như: Đức, Séc, Ba Lan, Nga... các đối tượng

người Việt chủ yếu liên kết thành các băng, ổ nhóm và tham gia vào các hoạt

78

động phạm tội như: buôn lậu, buôn bán hàng cấm, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,

trộm cắp (tập trung ở Séc, Nga). Đối tượng này hầu hết là nam giới, độ tuổi từ

30 đến 50, không có công ăn, việc làm tại Việt Nam, xuất cảnh sang Séc, Nga

để lao động, làm ăn buôn bán tại các khu chợ người Việt như: chợ Vòm tại

Matxcơva, khu chợ tại thủ đô Praha... Theo đánh giá của tổ chức Interpol, tội

phạm gốc Việt Nam đặc biệt là các băng nhóm tội phạm tại nước ngoài đang

ngày hoạt động phức tạp, được coi là một trong những nhóm tội phạm gốc

Châu Á nguy hiểm trên thế giới (cùng với các băng nhóm tội phạm gốc Hoa).

Tại những địa bàn có nhiều người lao động Việt Nam làm việc như:

Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Đài Loan xuất hiện ngày càng nhiều hoạt

động tội phạm như: giết người do mâu thuẫn cá nhân, trộm cắp, cướp tài sản...

Xuất hiện nhiều băng, nhóm tội phạm người Việt đột nhập vào những khu nhà

trọ của công nhân người Việt để cướp tài sản với thủ đoạn tinh vi, dã man.

Thậm chí khi không lấy được tài sản, chúng đánh đập nạn nhân gây thương

tích nặng hoặc chết người.

Tiếp tục tái diễn, gia tăng số vụ việc các đối tượng người Việt giết

người, cố ý gây thương tích, trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, trộm cắp, nhập

cư, cư trú trái phép tại các nước có nhiều người Việt đang sinh sống như: Séc,

Đức, Anh, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Tình trạng người Việt sang Campuchia

đánh bạc, tổ chức đánh bạc vẫn diễn ra nhưng không nhiều như trước. Mâu

thuẫn trong đánh bạc đã gây ra rất nhiều vụ án giết người, cướp tài sản, bắt

cóc tống tiền, cố ý gây thương tích. Riêng năm 2013 gần 20 đối tượng người

Việt Nam đã bị trục xuất; các đối tượng này chủ yếu có hành vi phạm tội về

trộm cắp tài sản, giết người, sản xuất văn hóa đồi trụy tại các nước như

Iceland, Canada, Slovakia, Sec, Na Uy, Phần Lan.

Bên cạnh đó, Văn phòng Interpol Việt Nam thường xuyên nhận được

thông tin liên quan đến tình trạng các đối tượng người Việt Nam phạm tội tại

79

những địa bàn tập trung số lượng lớn người Việt Nam sinh sống như Séc,

Đức, Anh, Singapore... Hành vi phạm tội chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn

trong quá trình lao động, buôn bán... tại nước sở tại với các tội danh phổ biến

là cướp, cố ý gây thương tích, trộm cắp, bắt cóc tống tiền... Trong nhiều năm

trở lại đây, Séc luôn là địa bàn có số lượng các vụ phạm tội nhiều nhất.

Tại các nước có chung đường biên giới với Việt Nam (Trung Quốc,

Lào, Campuchia), tình hình người Việt Nam di cư tự do, nhập cảnh cư trú trái

phép, nhập cảnh trái phép từ các tỉnh giáp biên vẫn diễn biến phức tạp, có

những đối tượng đã bị lôi kéo tham gia vào các hoạt động buôn bán, vận

chuyển ma túy, khai thác trộm tài nguyên... Quá trình sinh sống, lao động,

buôn bán, cư trú, có những người Việt Nam đã thực hiện các hoạt động tội

phạm về ma túy, buôn lậu, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gây rối trật tự công

cộng, cố ý gây thương tích, giết người,...

Hoạt động chống phá nhà nước Việt Nam của các tổ chức, nhóm người

Việt lưu vong ở Mỹ, Australia, Pháp, Đức... (như: tổ chức Chính phủ lâm thời

Việt Nam tự do của Nguyễn Hữu Chánh, tổ chức đảng Việt Tân của Hoàng

Cơ Minh...) đã và đang là mối quan tâm, lo lắng của các cơ quan thi hành

pháp luật Việt Nam. Bọn này tiến hành các hoạt động về chính trị, kích động

biểu tình gây rối trong nước, câu kết với tội phạm hình sự hoặc trực tiếp thực

hiện các hoạt động phạm tội như: buôn bán ma túy, lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, cướp tài sản, tổ chức đưa người nhập cư bất hợp pháp để gây quỹ bất hợp

pháp. Do có sự phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời của các lực lượng chức năng

nên đến nay chưa xảy ra một vụ việc nào lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng đối

với Nhà nước Việt Nam.

Tóm lại: Tình hình tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có tính chất

quốc tế trên thế giới và khu vực, tình hình tội phạm có yếu tố nước ngoài tại

Việt Nam và tình hình tội phạm do người Việt Nam gây ra ở nước ngoài thời

80

gian qua diễn biến phức tạp, gây khó khăn không nhỏ đối với các lực lượng

chức năng của BCA trong công tác quản lý, theo dõi, phòng ngừa và đặc biệt

là công tác điều tra, xử lý. Đồng thời đã tác động đến hoạt động HTQT

phòng, chống tội phạm, mà trực tiếp là hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ

quan CSĐT ngày một nhiều hơn, phức tạp, đa dạng hơn.

3.1.2. Tổ chức lực lượng của Cơ quan Cảnh sát điều tra

Theo quy định của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì

hệ thống tổ chức cơ quan điều tra gồm: Cơ quan điều tra của CAND; Cơ quan

điều tra trong Quân đội nhân dân; Cơ quan điều tra của VKSNDTC.

Trong CAND có: Cơ quan An ninh điều tra BCA; Cơ quan An ninh

điều tra Công an cấp tỉnh; Cơ quan CSĐT BCA; Cơ quan CSĐT Công an cấp

tỉnh; Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện.

Tổ chức bộ máy của Cơ quan CSĐT BCA gồm có: Văn phòng Cơ quan

CSĐT; Cục CSĐT tội phạm về trật tự xã hội; Cục CSĐT tội phạm về tham

nhũng, kinh tế và chức vụ; Cục CSĐT tội phạm về ma túy; Cục CSĐT tội

phạm về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, sản xuất,

buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở hữu trí tuệ (trên thực tế Cục này

đã sáp nhập vào Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ).

Tổ chức bộ máy của Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh gồm có: Văn

phòng Cơ quan CSĐT; Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội; Phòng CSĐT

tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ; Phòng CSĐT tội phạm về ma

túy; Phòng CSĐT tội phạm về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua

biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở hữu trí tuệ

(trên thực tế không thành lập phòng này).

Tổ chức bộ máy của Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện gồm có: Đội

Điều tra tổng hợp; Đội CSĐT tội phạm về trật tự xã hội; Đội CSĐT tội phạm

về kinh tế và chức vụ; Đội CSĐT tội phạm về ma túy.

81

Cơ quan CSĐT các cấp hiện có khoảng 13.000 điều tra viên. Số lượng

điều tra viên này chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Nhiều điều tra viên

phải làm việc quá tải nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng công tác.

Từng đơn vị thuộc Cơ quan CSĐT các cấp trong quá trình thực hiện

hoạt động điều tra tội phạm đều có chức năng, nhiệm vụ HTQT về TTTPHS

theo từng lĩnh vực được phân công để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Các đơn vị

này đồng thời có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo các hoạt

động này được thực thi một cách có hiệu quả, góp phần vào hoạt động phòng

ngừa, đấu tranh tội phạm, thúc đẩy hoạt động HTQT phòng, chống tội phạm.

Căn cứ chức năng nhiệm vụ và yêu cầu thực tiễn thì cần thiết có đơn vị

theo dõi, thực hiện hoạt động TTTPHS của Cơ quan CSĐT. BCA đã giao Văn

phòng Cơ quan CSĐT BCA giúp Thủ trưởng Cơ quan CSĐT BCA thực hiện

nhiệm vụ theo dõi, đề xuất, trực tiếp thực hiện yêu cầu TTTPHS, dẫn độ

thuộc chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan CSĐT BCA; phối hợp với các đơn vị

có liên quan thuộc Cơ quan CSĐT BCA thực hiện HTQT trong TTHS.

Ngày 08/5/2012, Bộ trưởng BCA đã ban hành quyết định thành lập

Phòng TTTP về hình sự và HTQT trong TTHS thuộc Văn phòng Cơ quan

CSĐT BCA. Ngày 2/10/2012 Phòng đã chính thức triển khai hoạt động với

chức năng, nhiệm vụ theo dõi, đề xuất, trực tiếp thực hiện yêu cầu TTTPHS,

dẫn độ thuộc chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan CSĐT BCA do VKSNDTC

chuyển giao hoặc những yêu cầu khác có liên quan; phối hợp với các đơn vị

thuộc Cơ quan CSĐT BCA thực hiện HTQT trong TTHS; hướng dẫn công an

các đơn vị, địa phương về công tác TTTP về hình sự và HTQT trong TTHS.

3.2. Thực trạng quy định của pháp luật về hợp tác quốc tế về tương

trợ tư pháp hình sự

HTQT về TTTPHS là hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc

gia trong điều tra, xử lý tội phạm. Thực chất hoạt động này là thủ tục TTHS

82

xuất phát từ yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, các nội dung yêu cầu là

các nội dung của hoạt động TTHS; hồ sơ yêu cầu quy trình, thủ tục chặt chẽ;

việc thực hiện yêu cầu liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của bị can, bị

cáo, người có liên quan đến vụ án hình sự; kết quả thực hiện TTTPHS được

xem xét là nguồn chứng cứ... Với những đặc điểm, tính chất này, HTQT về

TTTPHS là một hoạt động quan trọng, phổ biến, là xu hướng của quốc tế và

của mỗi quốc gia trong phòng ngừa, điều tra và xử lý tội phạm, nhất là trong

bối cảnh hội nhập quốc tế. Do đó, hoạt động này cần thiết được điều chỉnh bởi

pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.

Ở Việt Nam, hoạt động HTQT về TTTPHS được điều chỉnh bởi quy

định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập và pháp luật

trong nước liên quan đến TTTPHS gồm: Luật TTTP, BLTTHS, BLHS và các

quy định của một số luật khác như: Luật Phòng chống rửa tiền, Luật Phòng

chống tham nhũng, Luật Phòng chống khủng bố…, các văn bản hướng dẫn thi

hành có các quy định về HTQT trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc

áp dụng pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài chỉ được thực hiện theo quy

định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

3.2.1. Ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế

Trong xu hướng hội nhập quốc tế, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống

tội phạm bảo vệ ANTT của quốc gia cũng như thực hiện trách nhiệm, nghĩa

vụ đối với quốc tế trong đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm

có tính quốc tế, Việt Nam đã nỗ lực gia nhập các điều ước quốc tế đa phương,

xây dựng ký kết các điều ước song phương liên quan đến lĩnh vực HTQT về

TTTPHS. Nhà nước đã giao cho VKSNDTC là cơ quan tham mưu, đề xuất

xây dựng và ký kết điều ước quốc tế. Cơ quan CSĐT Bộ Công an là đơn vị

phối hợp tham gia ý kiến xây dựng điều ước, là thành viên Đoàn công tác liên

ngành của Chính phủ Việt Nam đàm phán, ký kết các điều ước này.

83

Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của 22 điều ước quốc tế đa phương

(Phụ lục 1) và 25 điều ước quốc tế song phương (Phụ lục 2) có quy định về

TTTPHS. Trong đó, tính riêng từ tháng 1/7/2008 đến nay, Việt Nam đã gia

nhập 8 công ước (Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm

2003, Công ước ASEAN về chống khủng bố năm 2007, Công ước của Liên

hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000, Công ước

về bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân năm 1980 (Sửa đổi năm 2005), Công ước

quốc tế về chống bắt cóc con tin năm 1979, Công ước quốc tế về chống khủng

bố bằng bom năm 1997, Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các

hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con

người năm 1984, Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc

biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2015). Bên cạnh đó, trong 12 năm qua, Việt

Nam tiếp tục ký kết, phê chuẩn 13 điều ước quốc tế song phương về TTTPHS

với các quốc gia (Anh và Bắc Ai-len, An-giê-ri, In-đô-nê-xi-a, Cam-pu-chia,

Pháp, Ô-xtơ-rây-li-a, Ca-dắc-xtan, Hung-ga-ri, Tây Ban Nha, Pháp, Cuba,

Lào, Mô-dăm-bích). Các công ước, hiệp định trên là cơ sở pháp lý quốc tế

quan trọng để Việt Nam và các quốc gia trên thế giới thực hiện HTQT về

TTTPHS nhằm phòng, chống hiệu quả các loại tội phạm.

Việc gia nhập các công ước và đàm phán, ký kết hiệp định TTTPHS

với các nước đã góp phần hoàn thiện khung pháp lý để nâng cao hiệu quả

hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm với các nước; bảo vệ quyền lợi

chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài; góp phần làm phong phú thêm

nội hàm quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới.

3.2.2. Xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong nước

Cùng với đàm phán, ký kết, thực hiện các điều ước quốc tế, đồng thời

Việt Nam đã chủ động xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong nước nhằm tạo

nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, cơ chế hợp tác hiệu quả giữa các các cơ quan

84

chức năng của Việt Nam với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài trong

HTQT về TTTPHS. Cụ thể:

Thứ nhất, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007

Luật được Quốc hội khóa 12 thông qua ngày 21/11/2007 và có hiệu lực

thi hành kể từ ngày 01/7/2008 đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong

hoạt động lập pháp của Nhà nước ta, tạo cơ sở quan trọng để tổ chức triển

khai thực hiện các hoạt động TTTPHS, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp

hành hình phạt tù, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập

quốc tế với thế giới và khu vực; hoàn thiện thể chế, pháp luật trong nước; cải

cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Luật gồm 7 chương 72 điều. Trong đó, Chương 1 quy định phạm vi

điều chỉnh, đối tượng áp dụng, áp dụng pháp luật, ngôn ngữ, nguyên tắc, uỷ

thác tư pháp, hình thức thực hiện TTTP, hợp pháp hoá lãnh sự và việc công

nhận giấy tờ, tài liệu uỷ thác tư pháp. Chương III (từ điều 17 đến 31) quy

định: phạm vi tương trợ; từ chối hoặc hoãn tương trợ; trình tự, thủ tục giải

quyết các yêu cầu tương trợ của nước ngoài và của các cơ quan tiến hành tố

tụng Việt Nam; trình tự, thủ tục giải quyết một số yêu cầu cụ thể: tống đạt

giấy triệu tập người làm chứng, người giám định; dẫn giải người đang chấp

hành hình phạt tù ra nước ngoài để cung cấp chứng cứ; cung cấp thông tin,

chuyển giao vụ án, đồ vật tài liệu cho nước ngoài để tiếp tục truy cứu trách

nhiệm hình sự; giải quyết yêu cầu chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự

của nước ngoài đối với công dân Việt Nam đang sống tại Việt Nam; cung cấp

thông tin và thực hiện yêu cầu tương trợ của nước ngoài liên quan đến việc

điều tra người nước ngoài đang sống tại Việt Nam; chi phí thực hiện TTTHS.

Thứ hai, Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHS năm 2003 dành riêng Phần thứ tám với 2 chương 7 điều (từ

điều 340 đến 346) quy định về HTQT trong TTHS bao gồm các quy định về

85

các nguyên tắc hợp tác; thực hiện TTTP; từ chối thực hiện yêu cầu TTTP;

việc chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án; việc giao nhận, chuyển giao tài

liệu, đồ vật, tiền liên quan đến vụ án.

BLTTHS năm 2015 dành riêng Phần thứ tám với 2 chương 18 điều

(Điều 491-508) quy định về HTQT trong TTHS. Luật đã bổ sung một số quy

định liên quan đến TTTPHS như: công nhận kết quả thực hiện ủy thác tư pháp

là một nguồn chứng cứ (khoản 1 Điều 87); quy định VKSNDTC là Cơ quan

trung ương của nước CHXHCN Việt Nam trong hoạt động TTTPHS (khoản 1

Điều 493); quy định về giá trị pháp lý của tài liệu, đồ vật thu thập được qua

HTQT trong TTHS (Điều 494); sự có mặt của người làm chứng, người giảm

định, người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam ở nước ngoài; người làm

chứng, người giám định, người đang chấp hành án phạt tù tại nước ngoài ở

Việt Nam (Điều 496); xử lý tài sản do phạm tội mà có (Điều 507); phối hợp

điều tra, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 508).

Thứ ba, Bộ luật hình sự

BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, có

hiệu lực thi hành từ 1/1/2018) quy định về tội phạm và hình phạt, làm cơ sở

xem xét các yêu cầu TTTPHS. Dựa vào các quy định của Bộ luật này, các cơ

quan có thẩm quyền xác định hành vi phạm tội được thực hiện ở nước ngoài

có cấu thành tội phạm theo quy định trong BLHS của Việt Nam hay không

(vấn đề bảo đảm nguyên tắc tội phạm kép) để tiến hành truy cứu trách nhiệm

hình sự tại Việt Nam khi phía nước ngoài có yêu cầu.

Thứ tư, Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012

Chương IV (từ Điều 46 đến 48) quy định về HTQT về phòng, chống

rửa tiền bao gồm: nguyên tắc chung về HTQT; nội dung HTQT về phòng,

chống rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong HTQT về phòng,

chống rửa tiền.

86

Thứ năm, Luật Phòng, chống tham nhũng

Luật Phòng, chống tham những năm 2005 dành Chương VII với 2 điều

quy định về HTQT về phòng, chống tham nhũng bao gồm: nguyên tắc chung

về HTQT (Điều 89); trách nhiệm thực hiện HTQT (Điều 90).

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2019 dành Chương VIII với 3 điều

quy định về HTQT về phòng, chống tham nhũng bao gồm: nguyên tắc chung

về HTQT (Điều 89); trách nhiệm thực hiện HTQT (Điều 90); HTQT về thu

hồi tài sản tham nhũng (Điều 91). Điều 91 là điều mới so với Luật năm 2005

vì thu hồi tài sản đang là vấn đề được quốc tế quan tâm, cũng là vấn đề rất

khó thực hiện trong thời gian qua, do đó cần được luật hóa để có căn cứ pháp

lý thực hiện.

Thứ sáu, Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013

Chương VI (từ điều 36 đến 38) quy định HTQT về phòng, chống khủng

bố gồm: nguyên tắc HTQT; nội dung, trách nhiệm HTQT; HTQT giải quyết

vụ khủng bố.

Thứ bảy, Luật điều ước quốc tế

Luật quy định về việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế,

trong đó có các điều ước về TTTPHS.

Luật Ký kết, gia nhập điều ước quốc tế năm 2005 quy định “trường hợp

văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên

có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước

quốc tế đó” (khoản 1, Điều 6).

Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định quy định “trường hợp văn

bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có

quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước

quốc tế đó, trừ Hiến pháp” (khoản 1, Điều 6). Luật này bổ sung “trừ Hiến

pháp” so với Luật năm 2005 để khẳng định ưu tiên chủ quyền quốc gia.

87

Thứ tám, các văn bản hướng dẫn:

Nghị định 92/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTP về chế độ báo cáo,

thông báo hoạt động TTTP.

Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-

BTP-BNG ngày 16/8/2013 hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ, vật

chứng của vụ án để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, các ngành, các đơn vị đã

ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện như:

VKSNDTC đã ban hành 04 văn bản: Hướng dẫn số 943/VKSTC-

HTQT ngày 05/4/2012 về thông báo và tiếp xúc lãnh sự; Hướng dẫn số

1918/VKSTC-HTQT ngày 15/6/2012 về yêu cầu ban hành quyết định pháp lý

cuối cùng trong việc giải quyết các vụ án do phía nước ngoài chuyển giao truy

cứu trách nhiệm hình sự; Hướng dẫn số 19/HD-VKSTC-HTQT ngày

24/7/2012 về thực hiện Điều 4 Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự và hình

sự giữa Việt Nam và Lào; Công văn số 3892/VKSTC-V13 ngày 03/10/2017

hướng dẫn các Viện kiểm sát địa phương quán triệt thực hiện Bản ghi nhớ về

tăng cường hợp tác trực tiếp giữa VKSND các tỉnh có chung đường biên giới

Việt Nam – Trung Quốc ngày 17/9/2017.

Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 144/2012/TT-BTC ngày 04/9/2012

quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm

cho công tác TTTP.

Văn phòng Cơ quan CSĐT BCA ban hành Hướng dẫn số 2576/C44-P6

ngày 20/9/2013 hướng dẫn thực hiện các vụ việc TTTP về hình sự.

Vụ Hợp tác quốc tế và TTTP hình sự - VKSNDTC và Văn phòng Cơ

quan CSĐT BCA đã ký Quy chế về quan hệ phối hợp giữa 2 đơn vị trong

thực hiện yêu cầu TTTP về hình sự (ký ngày 11/10/2011).

88

3.3. Thực trạng hoạt động hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp

hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

3.3.1. Khái quát tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về tương tợ tư

pháp hình sự

3.3.1.1. Tình hình thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự do

phía nước ngoài đề nghị

Quy trình thực hiện: VKSNDTC (trực tiếp là Vụ HTQT về TTTPHS)

với vai trò cơ quan trung ương là đơn vị tiếp nhận ủy thác tư pháp về hình sự

của nước ngoài gửi đến, tổ chức dịch thuật, nghiên cứu, phân loại và chuyển

yêu cầu đó đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết gồm: Cơ quan CSĐT, Cơ

quan An ninh điều tra, VKSND cấp tỉnh, Tòa án,... Kết quả thực hiện các yêu

cầu TTTPHS của các đơn vị này được gửi trực tiếp đến VKSNDTC để làm

thủ tục chuyển cho phía nước ngoài.

Cơ quan yêu cầu TTTPHS của nước ngoài là các cơ quan có thẩm

quyền được quy định theo pháp luật của mỗi quốc gia. Các yêu cầu này khi

gửi đến Việt Nam đề phải thông qua cơ quan trung ương của nước đó (vd:

VKSNDTC Trung Hoa, Tổng Viện kiểm sát Liên bang Nga, VKSNDTC Lào,

Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, Bộ Tư pháp Cộng hòa Séc, Cơ quan Tổng trưởng lý

Xinh-ga-po, Bộ Công an Pa-ra-goay....)

Theo số liệu thống kê từ 1/7/2008 đến 31/12/2019 thì Vụ HTQT về

TTTPHS - VKSNDTC của Việt Nam đã tiếp nhận 882 yêu cầu TTTPHS của

các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, trong đó khoảng 90% yêu cầu là của

các nước đã ký Hiệp định với Việt Nam. Các nước có nhiều yêu cầu là Séc,

Ba Lan, Trung Hoa, Nga, Hàn Quốc, Anh, Ô-xtơ-rây-li-a, Hoa Kỳ…. Yêu cầu

TTTPHS do phía nước ngoài đề nghị tăng dần hàng năm.

Trong tổng số 882 yêu cầu thì đã chuyển giao cho Cơ quan CSĐT thực

hiện 731 yêu cầu (chiếm 82,9%); chuyển các cơ quan có thẩm quyền khác

89

(Tòa án, Viện kiểm sát, Bộ Tư pháp, Cục lãnh sự - Bộ Ngoại giao...) thực

hiện 151 yêu cầu (chiếm 17,1%).

(Nguồn: Vụ HTQT và TTTPHS - VKSNDTC)

Nội dung yêu cầu TTTPHS đa dạng, trong đó liên quan đến thu thập,

cung cấp chứng cứ, lấy lời khai, xác minh lí lịch tư pháp chiếm 46,7%; tống đạt

tài liệu, giấy tờ chiếm 29,8%; chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự chiếm

10,9% và các yêu cầu khác (triệu tập người làm chứng, người giám định, cử

cán bộ có thẩm quyền sang tham gia thực hiện tương trợ,...) chiếm 12,6%.

Thời gian gần đây, đã có một số yêu cầu của nước ngoài liên quan đến

thu hồi tài sản nghi ngờ do phạm tội mà có tại Việt Nam (yêu cầu của Tây

Ban Nha); yêu cầu cho phép người tiến hành tố tụng của nước ngoài vào Việt

Nam tham dự quá trình thực hiện yêu cầu tương trợ (yêu cầu của Pháp, Anh,

Đài Loan) hoặc mời người làm chứng ở Việt Nam ra nước ngoài tham gia

phiên tòa (yêu cầu của Ma-lai-xi-a, Ô-xtơ-rây-li-a).

Các yêu cầu TTTPHS liên quan đến nhiều loại tội phạm như tội trốn

tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, tội giả mạo giấy tờ nhằm chiếm đoạt tài sản, tội sản

xuất, buôn bán hàng giả; tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; giết người;

mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy; tham nhũng; lừa đảo chiếm đoạt tài

sản; rửa tiền; đưa hối lộ;... Đặc biệt, gần đây nổi lên loại tội phạm sử dụng

công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản.

90

Đáng chú ý, hoạt động TTTPHS đã góp phần bảo hộ công dân Việt

Nam bị bắt, điều tra, truy tố, xét xử ở nước ngoài. Điển hình là hoạt động

TTTPHS liên quan đến công dân Nguyễn Thanh Ngọc Tuyết bị tòa án sở

thẩm Ma-lay-xi-a tuyên hình phạt tử hình về tội vận chuyển, mua bán trái

phép chất ma túy (nêu cụ thể ở 3.3.2.2).

3.3.1.2. Tình hình cơ quan có thẩm quyền Việt Nam yêu cầu tương trợ

tư pháp về hình sự cho phía nước ngoài

Quy trình thực hiện: Cơ quan có thẩm quyền Việt Nam trong quá trình

thực thi nhiệm vụ xét thấy cần thiết yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài

thực hiện TTTPHS thì lập hồ sơ ủy thác theo quy định tại Điều 18, 19 Luật

TTTP gửi đến VKSNDTC để chuyển cho nước ngoài thực hiện. Kết quả thực

hiện của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài được chuyển cho cơ quan có thẩm

quyền Việt Nam đã yêu cầu thông qua cơ quan trung ương của 2 quốc gia.

Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam (Cơ quan CSĐT các cấp, Cơ

quan An ninh điều tra các cấp trong CAND, Cơ quan điều tra của VKSND...)

đã yêu cầu phía nước ngoài thực hiện tổng số 1.166 yêu cầu TTTP, riêng năm

2019 có 322 yêu cầu, tăng 75% so với năm 2018. Trong đó, Cơ quan CSĐT

trong CAND đã yêu cầu 1.039 trường hợp (chiếm tỷ lệ 89%). Riêng năm

2018, Cơ quan CSĐT có 179 yêu cầu chiếm 97,3% so với tổng số 184 yêu

cầu của Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam gửi nước ngoài; năm 2019, Cơ

quan CSĐT có 306 yêu cầu chiếm 95% so với tổng số 322 yêu cầu của Cơ

quan có thẩm quyền của Việt Nam gửi nước ngoài. Đơn vị có nhiều yêu cầu

TTTP là: Cơ quan CSĐT BCA, Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng

Ninh,... Cơ quan khác có thẩm quyền đã yêu cầu 106 trường hợp (chiếm tỷ lệ

11%). Trong đó khoảng 70% yêu cầu liên quan đến các nước đã ký Hiệp định

với Việt Nam, các nước nhận nhiều yêu cầu là: Lào, Trung Hoa, Cam-pu-

chia, Ô-xtơ-rây-li-a, Hàn Quốc, Nga, Anh…

91

Nguồn: Vụ HTQT và TTTPHS - VKSNDTC)

Nội dung yêu cầu tương trợ khá đa dạng, trong đó yêu cầu về thu thập,

cung cấp chứng cứ, lấy lời khai, xác minh lí lịch tư pháp chiếm 78,6%, yêu

cầu tống đạt tài liệu, giấy tờ chiếm 9,1%, yêu cầu chuyển giao truy cứu trách

nhiệm hình sự chiếm 0,7% và các yêu cầu khác (triệu tập người làm chứng,

người giám định…) chiếm 11,6%.

Thời gian gần đây xuất hiện một số yêu cầu TTTP đề nghị nước ngoài

thu hồi tài sản do phạm tội mà có, thu thập chứng cứ dữ liệu điện tử, để cán

bộ có thẩm quyền Việt Nam sang tham gia thực hiện tương trợ, tổ chức cho

người làm chứng sang nước yêu cầu để hồ trợ điều tra, cung cấp chứng cứ,...

Nội dung yêu cầu TTTPHS ngày càng đa dạng, phức tạp, liên quan đến

nhiều lĩnh vực và tội phạm, trong đó có những tội phạm nghiêm trọng như: tội

xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người (giết người,

hiếp dâm, mua bán người…), tội xâm phạm sở hữu (lừa đảo chiếm đoạt tài

sản, tội phạm sử dụng công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản), tội phạm về chức

vụ (tham ô tài sản, cố ý làm trái…), các tội phạm về kinh tế, ma túy,...

Kết quả hoạt động TTTPHS góp phần giải quyết triệt để các vụ án có

yếu tố nước ngoài, trong đó có nhiều vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức

tạp, các vụ án về tham nhũng, chức vụ, kinh tế, được dư luận quan tâm, thu

92

hồi tài sản về cho Nhà nước. Ví dụ: vụ án tham ô và cố ý làm trái quy định

của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Tổng

Công ty hàng hải Việt Nam năm 2012 (vụ Vinalines); vụ án cố ý làm trái quy

định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Tập

đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam năm 2014 (vụ Vinashin); vụ án lợi dụng

chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Tổng Công ty đường

sắt Việt Nam năm 2015 (vụ JTC).

3.3.2. Kết quả hoạt động hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự

của Cơ quan Cảnh sát điều tra

Trong thời gian qua, hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT

đã đạt được những kết quả chủ yếu sau đây góp phần quan trọng vào công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước

ngoài (Phụ lục 2):

3.3.2.1. Hoạt động tống đạt các loại giấy tờ, hồ sơ, tài liệu có liên quan

Hoạt động này diễn ra giữa Việt Nam với các quốc gia khác khi một

bên có yêu cầu TTTP về việc tống đạt, chuyển giao các loại giấy tờ, hồ sơ, tài

liệu có liên quan đến vụ án hình sự để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố và

xét xử vụ án hình sự xảy ra theo quy định của pháp luật quốc gia đó. Trong

thực tế, hoạt động này chủ yếu là tống đạt quyết định khởi tố hình sự, bản cáo

trạng, các loại quyết định, giấy triệu tập bị can, bản án, lệnh trừng phạt, trong

đó việc tống đạt bản cáo trạng chiếm tỷ lệ đa số.

Trong 12 năm qua, Cơ quan CSĐT đã yêu cầu và tiếp nhận, xử lý

khoảng 18% trong tổng số các yêu cầu TTTPHS về việc tống đạt giấy tờ, hồ

sơ, tài liệu pháp lý có liên quan đến hoạt động điều tra, xử lý các vụ án hình

sự ở Việt Nam và nước ngoài. Các yêu cầu liên quan đến nội dung này chủ

yếu là yêu cầu của Séc, Ba Lan... đề nghị tống đạt đến các đối tượng là người

93

Việt Nam bị khởi tố về các tội vi phạm nhãn mác, bản quyền hàng hóa, trốn

tránh nghĩa vụ cấp dưỡng... theo pháp luật của nước sở tại. Ví dụ:

Ngày 03/6/2013, Cơ quan CSĐT BCA đã tiếp nhận yêu cầu TTTP của

Cộng hòa Ba Lan đề nghị triệu tập và tống đạt các quyết định của Tòa án đối

với 2 công dân Việt Nam là Cao Xuân Sao và Dương Thu Hà vi phạm nguyên

tắc “không nộp báo cáo tài chính cho Tòa án đăng ký theo thẩm quyền địa lý”

của Luật kế toán Cộng hoà Ba Lan. Tuy nhiên phía Ba Lan không xác định

được nơi cư trú hiện nay của Cao Xuân Sao và Dương Thu Hà (đã về Việt

Nam hay vẫn ở Ba Lan), không có thông tin nhân thân cụ thể nên Cơ quan

CSĐT BCA không xác định được đối tượng, không thực hiện được việc triệu

tập và tống đạt.

Tháng 9/2015, Cơ quan CSĐT đã tiếp nhận yêu cầu TTTP của Cộng

hòa Séc đề nghị tống đạt quyết định khởi tố hình sự đối với công dân Việt

Nam là Trần Tùng Lâm, sinh ngày 14/3/1969, hiện ở Liễu Giai, Ba Đình, Hà

Nội có hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng theo khoản 3, Điều 196 BLHS

Cộng hòa Séc. Cơ quan CSĐT BCA đã thực hiện yêu cầu tương trợ và

chuyển kết quả cùng hồ sơ cho Cộng hòa Séc.

Tháng 3/2017, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Tĩnh đề nghị phía Đài

Loan tống đạt Quyết định khởi tố bị can đối với Lee Yi Chung, Ho Hsin Yu

về tội Vi phạm quy định về điều khiển giao thông. Phía Đài Loan đã thực hiện

và gửi kết quả.

Hoạt động HTQT về TTTPHS liên quan đến nội dung tống đạt các loại

tài liệu pháp lý, giấy tờ, hồ sơ giữa Việt Nam và nước ngoài được thực hiện

tương đối thuận lợi. Nhìn chung đây là hoạt động có tính chất đơn thuần,

không phức tạp như những hoạt động điều tra khác, đa số các hồ sơ yêu cầu

có nhân thân, địa chỉ rõ ràng nên đều được Cơ quan CSĐT thực thi với đầy đủ

trách nhiệm.

94

3.3.2.2. Hoạt động triệu tập người làm chứng, người giám định

Hoạt động tương trợ này được thực hiện khi có các yêu cầu phục vụ

điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự liên quan đến việc triệu tập người

làm chứng, người giám định từ nước ngoài về nước. Đối với hoạt động này,

nước yêu cầu muốn triệu tập người làm chứng, người giám định đang cư trú

tại nước ngoài thì phải gửi giấy triệu tập cho cơ quan có thẩm quyền của nước

đó tại thời điểm nhất định theo quy định của pháp luật nước đó (thông thường

khoảng 60 ngày hoặc 90 ngày trước ngày dự định người làm chứng, người

giám định phải có mặt tại nước yêu cầu). Theo quy định của pháp luật Việt

Nam, thời hạn phải gửi giấy triệu tập cho VKSNDTC chậm nhất là 90 ngày

trước ngày dự định người đó phải có mặt tại nước yêu cầu. Cơ quan thực hiện

việc tống đạt giấy triệu tập phải gửi kết quả thực hiện bằng văn bản xác nhận

đã tống đạt hoặc không tống đạt được (nêu rõ lý do) đến VKSNDTC để thông

báo cho nước yêu cầu.

Thời gian qua, Cơ quan CSĐT đã yêu cầu và tiếp nhận, xử lý khoảng

12% trong tổng số các yêu cầu TTTPHS liên quan đến việc triệu tập người

làm chứng, người giám định. Ví dụ:

Tháng 10/2014, Tòa án Malaysia đã đề nghị ta triệu tập người làm

chứng đối với 2 công dân Việt Nam hiện là Điều tra viên thuộc Cơ quan

CSĐT BCA tham gia phiên tòa phúc thẩm xét xử Nguyễn Thanh Ngọc Tuyết

(bị cáo này trước đó đã bị Tòa án cấp sơ thẩm Malaysia xét xử tuyên phạt tử

hình về tội vận chuyển trái phép chất ma túy). Hai Điều tra viên được triệu tập

là những người đã trực tiếp lấy lời khai của đối tượng Trần Thanh Vân là

người có liên quan đến vụ án. Sự có mặt của 2 Điều tra viên có ý nghĩa quan

trọng trong việc chứng minh tình tiết bị cáo Tuyết biết hoặc không biết đã vận

chuyển ma túy vào Malaysia khi mang giúp người khác chiếc vali khi nhập

cảnh Malaysia. Tuy chưa có tiền lệ, nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

95

pháp của công dân, sau khi có ý kiến của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, ta đã

thành lập Đoàn công tác liên ngành (gồm: VKSNDTC, Cơ quan CSĐT BCA

và 2 người làm chứng nêu trên) sang trao đổi với cơ quan chức năng cũng như

đồng ý để 2 Điều tra viên tham dự phiên tòa phúc thẩm tại Malaysia với tư

cách là người làm chứng. Đến cuối năm 2015, Tòa án Malaysia đã xét xử,

tuyên án đối với Nguyễn Thanh Ngọc Tuyết từ tử hình xuống tù 20 năm.

Ngày 02/8/2015, Cơ quan CSĐT nhận được yêu cầu TTTP của Đài

Loan đề nghị tống đạt các giấy triệu tập tham dự phiên tòa vào ngày

28/7/2015 đối với 03 nhân chứng: ông Trần Đăng Thành - Giám đốc; ông

Nguyễn Dương Anh Tuấn - Phó trưởng phòng, Công ty TNHH Giám định

Vinacontrol TP. Hồ Chí Minh và bà Lữ Thị Hạnh - Giám đốc Công ty TNHH

Đại Hạnh Phúc. Phiên tòa diễn ra ngày 28/7/2015 do Chi nhánh Đài Trung -

Tòa án cấp cao Đài Loan xét xử vụ án Lừa đảo xảy ra tại Công ty Chế tạo dầu

mỡ Ding-Xin, đối tượng liên quan là Yang Zhen Yi bị buộc tội nhập khẩu

"dầu, mỡ bẩn" từ Công ty Đại Hạnh Phúc ở Việt Nam, đơn vị kiểm định chất

lượng là công ty Vinacontrol. Do yêu cầu gửi muộn, đã qua thời gian phiên

tòa xét xử, do đó Cơ quan CSĐT không thực hiện việc tống đạt và 03 nhân

chứng không tham dự phiên tòa.

Tháng 10/2018, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đề nghị phía

Trung Quốc hỗ trợ mời Yao Qing và Zheng Ai Xi sang Việt Nam để lấy lời

khai với vai trò nhân chứng liên quan đến vụ án Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài

sản. Tuy nhiên 2 công dân này đã từ chối thực hiện.

3.3.2.3. Hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ phục vụ công tác điều

tra, giải quyết vụ án hình sự

Hoạt động tương trợ này phát sinh khi có yêu cầu điều tra thu thập tài

liệu, chứng cứ ở nước ngoài để phục vụ công tác điều tra vụ án hình sự ở Việt

Nam, hoặc để hỗ trợ thực hiện các yêu cầu TTTPHS của nước ngoài. Nội

96

dung của lĩnh vực hợp tác TTTPHS này có liên quan đến nhiều hoạt động tác

nghiệp điều tra, nhằm hỗ trợ cho cả hai phía Việt Nam và nước ngoài trong

việc điều tra, giải quyết vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài đã xảy ra.

Hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội

của các đối tượng và các vấn đề liên quan đến vụ án có vai trò quan trọng

trong điều tra, giải quyết vụ án hình sự đó. Đây là hoạt động truy tìm, thu thập

theo quy định của pháp luật TTHS mỗi quốc gia, do cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện. Trong thực tế, đối với các vụ án hình

sự có liên quan đến các quốc gia khác nhau (đối tượng, phương tiện phạm tội,

bị hại, tài sản có liên quan,…) thì hoạt động thu thập chứng cứ lại càng khó

khăn do sự ngăn cách địa lý, vấn đề chủ quyền lãnh thổ và sự khác biệt của

pháp luật mỗi quốc gia. Vì vậy cần hoạt động hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ nhau để

thực hiện các yêu cầu của quốc gia khác trong thu thập tài liệu, chứng cứ.

Thời gian qua, hoạt động tương trợ này diễn ra nhiều và phổ biến, phát

sinh từ nhu cầu của cả hai phía Việt Nam và nước ngoài trong khuôn khổ của

luật pháp và các điều ước quốc tế có liên quan. Tuy nhiên, trên thực tế ngoài

những mặt đạt được thì việc thực hiện các yêu cầu TTTPHS này cũng gặp

không ít khó khăn, nhất là các yêu cầu liên quan đến việc thu thập tài liệu,

chứng cứ đối với các lĩnh vực có tính chất bảo mật, hoặc thu thập tài liệu,

chứng cứ liên quan đến các lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

Kết quả khảo sát cho thấy Cơ quan CSĐT đã yêu cầu và đã tiếp nhận

thực hiện hoặc phối hợp thực hiện khoảng 40% trong tổng số các yêu cầu

TTTPHS liên quan đến việc thu thập, cung cấp chứng cứ, chủ yếu tập trung

vào các hoạt động sau đây:

Thứ nhất, cử đoàn công tác ra nước ngoài phối hợp với Cảnh sát nước

ngoài tiến hành các hoạt động tác nghiệp điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ

hỗ trợ việc giải quyết các vụ án hình sự xảy ra ở Việt Nam. Trong thời gian

97

qua, hoạt động này chủ yếu liên quan đến các vụ án mua bán phụ nữ, trẻ em,

mua bán trái phép các chất ma túy, lừa đảo chiếm đoạt tài sản... và liên quan

đến địa bàn các nước Trung Quốc, Malaysia, Campuchia, Nga. Ví dụ: được

sự đồng ý của Cảnh sát nước bạn; Năm 2013, Cơ quan CSĐT BCA đã có

đoàn công tác sang Nga để phối hợp điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản

xảy liên quan đến cộng động người Việt tại Nga. Năm 2014, Cơ quan CSĐT

BCA có đoàn công tác sang Trung Quốc để phối hợp điều tra đường dây mua

bán ma túy xuyên quốc gia...

Được sự đồng ý của lãnh đạo BCA Việt Nam, Cơ quan CSĐT đã phối

hợp với CQĐT của nước ngoài vào tiến hành hoạt động điều tra trên lãnh thổ

Việt Nam phục vụ việc điều tra xử lý các vụ án của nước ngoài như:

Năm 2012, Văn phòng Cơ quan CSĐT BCA đã phối hợp với Cục Cảnh

sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xác lập chuyên án đấu

tranh với tội phạm trộm cắp tài sản qua mạng internet, chúng dùng thủ đoạn

lấy cắp thông tin thẻ tín dụng, sử dụng để mua hàng từ nước ngoài gửi về Việt

Nam để tiêu thụ. Kết quả đã phá án, bắt giữ Vương Huy Long cùng đồng bọn.

Chúng đồng thời là những đối tượng cầm đầu của một đường dây nằm trong

chuyên án Emule do Cơ quan điều tra của Bộ An ninh nội địa Hòa Kỳ đang

đấu tranh. Nhận được thông tin, Bộ An ninh nội địa Hoa Kỳ đã đề nghị và

được lãnh đạo BCA Việt Nam đồng ý cho người vào Trại tạm giam T16 để

tham gia hỏi cung bị can làm rõ các hành vi phạm tội liên quan đến chuyên án

mà Bộ An ninh nội địa Hoa Kỳ đang điều tra.

Cuối năm 2015, Cơ quan CSĐT BCA đã phối hợp với đoàn cán bộ

thực thi pháp luật của Hoa Kỳ lấy lời khai của 9 nhân chứng là người Việt

Nam đang sinh sống ở Việt Nam trong vụ án Nguyễn Văn Long âm mưu giết

người tại Hoa Kỳ.

98

Thứ hai, phối hợp thực hiện các hoạt động điều tra nhằm thu thập,

cung cấp chứng cứ theo ủy thác tư pháp. Điển hình:

Tháng 6/2014, FBI Hoa kỳ có yêu cầu TTTP đề nghị BCA Việt Nam

xác minh số đối tượng người Việt Nam dùng tài khoản giả trên mạng để lừa

đảo chiếm đoạt 1,5 triệu USD của Công ty IPSI ở Hoa Kỳ. Văn phòng Cơ

quan CSĐT BCA đã phối hợp với Công an tỉnh Lâm Đồng tiến hành xác

minh, điều tra về vụ việc. Đồng thời, Văn phòng Cơ quan CSĐT BCA đã

phối hợp với Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xác

lập chuyên án để đấu tranh. Tháng 10/2014, đã phá án, khởi tố vụ án, bắt khẩn

cấp và khởi tố bị can đối với Vũ Trường Giang đã có hành vi sử dụng mạng

internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Cơ quan điều tra đã kê biên thu

giữ được tài sản tổng trị giá gần 20 tỷ đồng. Vụ án đã được TAND tỉnh Lâm

Đồng xét xử ngày 26/9/2016 tuyên án Vũ Trường Giang với mức hình phạt

16 năm tù.

Tháng 5/2018, Cơ quan CSĐT BCA đã tiếp nhận, thực hiện yêu cầu

của Cộng hòa Pháp liên quan đến quá trình điều tra hành vi tàng trữ, vận

chuyển, xuất nhập khẩu trái phép các mẫu động thực vật hoang dã. Theo đó,

phía Pháp đề nghị phía Việt Nam mở cuộc điều tra về TA VI Dan (người

Pháp gốc Việt) và 4 công ty tại Hà nội liên quan đến hoạt động xuất nhập

khẩu, xác minh tài sản, tài khoản và đề nghị khám xét, thu hồi tài sản.

Tháng 3/2019, Bộ tư pháp Cộng hòa Ban Lan đề nghị xác minh 5 công

ty ở Việt Nam (về: việc thành lập, kết quả tài chính, nội dung giao dịch và

hợp tác với phía Ba Lan, lấy lời khai nhân chứng,...) có liên quan đến Công ty

Presting Warsaw ở Ba Lan bị tình nghi thực hiện hành vi rửa tiền và trốn

thuế. Cơ quan CSĐT đã tiến hành các hoạt động xác minh theo yêu cầu, kết

quả đã trả lời phía Ba Lan.

99

Tháng 8/2018, Cơ quan CSĐT Công an Hải Phòng đã yêu cầu phía

Thụy Sỹ, Đài Loan xác minh thu thập tài liệu liên quan đến 2 công ty, tập

đoàn của nước sở tại liên quan đến vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Như vậy, hoạt động HTQT về TTTPHS trong việc thu thập, cung cấp

chứng cứ giữa Cơ quan CSĐT với các cơ quan tư pháp của nước ngoài đã đạt

được những kết quả tốt. Quá trình thực hiện đã có sự phối hợp đúng mức, chủ

động và đã giải quyết, tháo gỡ được nhiều vụ án hình sự có liên quan giữa các

quốc gia với Việt Nam. Kết quả đó đã giúp cho quá trình HTQT về TTTPHS

diễn ra nhanh chóng, rút ngắn thời gian cho việc giải quyết vụ án hình sự.

3.3.2.4. Hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự

Hoạt động HTQT về TTTPHS này thông thường được thực hiện đối

với các vụ án hình sự mà trong vụ án đó có người nước ngoài thực hiện tội

phạm trên lãnh thổ của nước yêu cầu, sau đó bỏ trốn ra nước ngoài; nước yêu

cầu đề nghị bắt dẫn độ phục vụ cho hoạt động điều tra, nhưng phía cơ quan có

thẩm quyền của nước được yêu cầu đã từ chối việc dẫn độ đó. Trong trường

hợp này, cơ quan chức năng của nước yêu cầu sẽ lập hồ sơ ủy thác tư pháp

chính thức yêu cầu quốc gia nơi người phạm tội đang có mặt tiếp tục việc truy

cứu trách nhiệm hình sự.

Trong 12 năm qua, hoạt động tương trợ này được thực hiện không

nhiều, chiếm khoảng 5% tổng số yêu cầu TTTPHS. Đối với các yêu cầu của

nước ngoài đề nghị phía Việt Nam truy cứu trách nhiệm hình sự, Vụ HTQT

và TTTPHS – Viện KSNDTC tiếp nhận và chuyển VKSND cấp tỉnh để

chuyển Cơ quan CSĐT cấp tỉnh thực hiện. Điển hình:

Năm 2014, Vương quốc Anh có ủy thác tư pháp đề nghị truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với Vũ Minh Đức về hành vi giết người tại số 221 Mare

Street, Hackney E9, London vào ngày 17/8/2006. Sau đó Đức trốn về Việt

Nam, cư trú tại Hải Phòng. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Phòng đã

100

tiếp nhận giải quyết và khởi tố vụ án vào tháng 5/2016. Quá trình điều tra, xác

minh, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Phòng đã tổ chức họp liên

ngành tư pháp Trung ương và thành phố Hải Phòng có sự tham gia của Điều

tra viên và Công tố viên Anh Quốc để đánh giá tài liệu chứng cứ thu thập

được trong hồ sơ vụ án. Kết luận tại cuộc họp chưa đủ căn cứ để khởi tố bị

can đối với Vũ Minh Đức, đề nghị phía Anh tiếp tục cung cấp thêm tài liệu.

Sau đó, do chưa nhận được thêm tài liệu phía Anh cung cấp nên đến 5/2017

Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Phòng ra Quyết định tạm đình chỉ

điều tra vụ án.

Năm 2015, Vương quốc Anh có ủy thác tư pháp đề nghị truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với Lê Minh Tú, sinh năm 1973, về hành vi phạm tội giết

người tại Anh sau đó trốn về Việt Nam, cư trú tại Hưng Yên. Yêu cầu này đã

được chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hưng Yên giải quyết theo

thẩm quyền. Sau quá trình tiếp nhận giải quyết theo quy trình giải quyết tin

báo về tội phạm, xác minh điều tra, thu thập các tài liệu chứng cứ, hiện Cơ

quan CSĐT Công an tỉnh Hưng Yên đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và đang

tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.

3.3.2.5. Hoạt động trao đổi thông tin liên quan đến điều tra vụ án hình sự

Hoạt động trao đổi các thông tin có liên quan giữa Cơ quan CSĐT với

các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của nước ngoài tập trung vào một

số hoạt động sau đây:

Thứ nhất, hợp tác trao đổi đề nghị cung cấp bản gốc, bản sao có xác

nhận của các loại tài liệu, hồ sơ có liên quan đến hoạt động điều tra: Hoạt

động tương trợ này diễn ra khi cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu

đáp ứng việc trao đổi thông tin có liên quan đến vụ án hình sự đang điều tra.

Đó là các thông tin liên quan đến việc cung cấp các loại giấy tờ, tài liệu hồ sơ

về việc xác định nhân thân của đối tượng bị tình nghi, của bị can, để giúp cho

101

hoạt động điều tra tại nước yêu cầu. Trong đó chủ yếu tập trung vào các loại

tài liệu, hồ sơ có xác nhận. Chẳng hạn như cung cấp về bản sao các bản án và

quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối với công dân của

nước yêu cầu, trích lục về tài liệu lý lịch tư pháp của đối tượng.

Thời gian qua, Cơ quan CSĐT đã yêu cầu và tiếp nhận, xử lý 9% trong

tổng số các yêu cầu TTTPHS liên quan đến hoạt động này. Thực tiễn cho

thấy, đây là hoạt động tương trợ được tiến hành thực hiện tương đối thuận lợi

(trừ trường hợp bị từ chối tương trợ). Ví dụ:

Ngày 20/8/2013, Cơ quan CSĐT BCA tiếp nhận và thực hiện yêu cầu

TTTP của Hàn Quốc đối với vụ án Lee Hi Sang vi phạm Luật quản lý ngoại

hối của Hàn Quốc. Phía Hàn Quốc đề nghị phía Việt Nam xác minh, thu thập

toàn bộ tài liệu liên quan đến việc đầu tư, chuyển tiền từ Việt Nam sang Hàn

Quốc của Công ty Vinahancook để phía Hàn Quốc có căn cứ xử lý theo theo

quy định của pháp luật.

Tháng 12/2014, Cơ quan CSĐT BCA nhận được yêu cầu TTTP của

Campuchia liên quan đến vụ án số 003 về “Tội chống loài người”. Phía

Campuchia đề nghị phía Việt Nam tổ chức nghiên cứu và chuyển giao các hồ

sơ gốc hoặc các bản sao có chứng thực của tài liệu theo danh mục yêu cầu,

cùng báo cáo xác định nguồn gốc của hồ sơ. Qua xác minh và làm việc với cơ

quan lưu trữ tài liệu của Bộ Quốc phòng thì: đơn vị hiện đang quản lý 53/73

tài liệu mà phía Campuchia đề nghị, thuộc tài liệu mật, tài liệu lưu hành nội

bộ, phục vụ hạn chế, có nội dung nhạy cảm, có thể ảnh hưởng đến vấn đề

chính trị ngoại giao nếu cung cấp cho phía Campuchia. Do đó, Cơ quan

CSĐT đã trả lời từ chối thực hiện yêu cầu của phía Campuchia.

Tháng 1/2017, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lạng Sơn đề nghị phía

Trung Quốc cung cấp trích lục bản án, quyết định thi hành án hình sự (vụ án ở

Trung Quốc) đối với Hoàng Thị Hoài Thu để phục vụ việc điều tra giải quyết

102

vụ án Tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả.

Phía Trung Quốc đã thực hiện và gửi kết quả.

Thứ hai, hợp tác tương trợ trong việc trao đổi cung cấp các thông tin

có liên quan đến hoạt động lấy lời khai nhân chứng, đối tượng nghi vấn…

Hoạt động này được thực hiện theo yêu cầu cung cấp các thông tin, lời

khai để làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án đang điều tra. Cơ quan CSĐT

đã yêu cầu và tiếp nhận xử lý khoảng 25% tổng số yêu cầu TTTP về nội dung

này. Hoạt động này chủ yếu liên quan đến các yêu cầu về việc trợ giúp lấy lời

khai người bị hại, lời khai nhân chứng và lời khai của các đối tượng có liên

quan. Các quốc gia có nhiều yêu cầu loại này là Séc, Singapore, Malaysia,

Phần Lan..., chủ yếu là lấy lời khai các đối tượng liên quan đến hành vi mua

bán phụ nữ, trẻ em, trộm cắp tài sản, trốn thuế. Điển hình như:

Năm 2012, Cơ quan CSĐT BCA đã thực hiện ủy thác tư pháp của

Belarus yêu cầu cơ quan chức năng của Việt Nam khám xét nơi làm việc của

Bí thư thứ ba Đại sứ quán Cộng hòa Belarus tại Việt Nam. Tuy nhiên, yêu cầu

này bị ta từ chối vì trái với Công ước Viên năm 1964 về quan hệ ngoại giao.

Ngoài ra, phía Belarus cũng yêu cầu ta lấy lời khai của 450 nhân chứng là

người Việt Nam. Nhờ sự phối hợp có hiệu quả của các cơ quan chức năng của

VKSNDTC, Bộ Ngoại giao và Công an 27 tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương, Văn phòng Cơ quan CSĐT BCA đã hoàn thành yêu cầu này và chuyển

hồ sơ đến VKSNDTC để trả lời phía Belarus.

Tháng 9/2014, Cơ quan CSĐT BCA đã phối hợp với Cơ quan CSĐT

Công an tỉnh Quảng Bình, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai tiếp nhận và

thực hiện yêu cầu của Cộng hòa Séc đề nghị tống đạt các quyết định khởi tố

hình sự, lấy lời khai đối với Nguyễn Thị Thúy Vân, sinh ngày 31/8/1962 ở

Kong Chro, Gia Lai và Nguyễn Thị Hương Lan, sinh ngày 12/7/1970 ở Đồng

103

Hới, Quảng Bình có hành vi “tổ chức tạo điều kiện vượt biên giới quốc gia

trái phép” và “giúp cư trú trái phép tại lãnh thổ Cộng hòa Séc”.

Tháng 6/2017, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam có yêu cầu

TTTP gửi Thụy Điển, Anh đề nghị xác minh thông tin, ghi lời khai của Austin

Amanda Helene, Ms. Miranda Frudd có liên quan đến vụ án Cướp giật tài sản.

Phía Thụy Điển đã thực hiện.

Hoạt động tương trợ này của Cơ quan CSĐT diễn ra khá phổ biến, đa

dạng và có liên quan đến rất nhiều quốc gia. Tuy nhiên, một số trường hợp ủy

thác của nước ngoài thiếu thông tin nên Cơ quan CSĐT yêu cầu nước đó

(thông qua VKSNDTC) cung cấp thêm các thông tin, tài liệu cụ thể để xác

định đối tượng, làm rõ nội dung tương trợ nên mất rất nhiều thời gian mới có

đủ điều kiện để thực hiện yêu cầu TTTPHS đó.

3.3.2.6. Hợp tác thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về hình sự

Hoạt động HTQT về TTTPHS ở nội dung này diễn ra đa dạng, liên

quan đến nhiều loại yêu cầu như: xác định thu hồi tài sản; xác minh địa chỉ,

xác định nhận dạng người làm chứng, người bị tình nghi; xác định tung tích

nạn nhân, lấy mẫu AND, vân tay… Theo số liệu thống kê cho thấy, Cơ quan

CSĐT đã yêu cầu và tiếp nhận, xử lý khoảng 16% trong tổng số các yêu cầu

TTTPHS về nội dung này.

Thứ nhất, hợp tác TTTPHS trong việc xác định, thu hồi tài sản do phạm

tội mà có: Hoạt động này liên quan đến việc xác định tài sản do đối tượng

phạm tội chiếm đoạt rồi chuyển ra nước ngoài hoặc phạm tội ở nước ngoài rồi

chuyển về Việt Nam để tẩu tán; tập trung chủ yếu vào các loại tội phạm: buôn

lậu, buôn bán hàng cấm, lừa đảo và một số loại tội phạm có tính chất chiếm

đoạt khác. Đáng chú ý là yêu cầu của Cơ quan CSĐT BCA đề nghị thu hồi tài

sản do phạm tội mà có ở các nước (như vụ Vinalines, Vinashin).

104

Năm 2013, phía Úc có yêu cầu TTTP đề nghị kê biên tài sản có được

do Kim Hoàng Thái (là người Việt Nam đang sống tại Úc) vi phạm pháp luật

Úc. Kim Hoàng Thái có gửi một lượng đô-la nhất định cho Nguyễn Kim Hiền

ở Việt Nam để đầu tư vào khách sạn tại tỉnh Cà Mau. Phía Úc nghe lén điện

thoại của Thái về việc này và cho rằng đây là chứng cứ pháp lý, đề nghị phía

Việt Nam kê biên tài sản, tống đạt tài liệu cho Hiền (khách sạn này đã được

Hiền thế chấp tại Vietcombank). Căn cứ quy định pháp luật Việt Nam hiện

hành thì không đủ cơ sở để kê biên tài sản của Hiền theo yêu cầu của Úc.

Tháng 1/2019, Cơ quan CSĐT BCA đã tiếp nhận, thực hiện yêu cầu

TTTP của Thụy Sỹ đề nghị xác minh, phong tỏa và thu hồi tài sản liên quan

đến tài khoản số 31310000820208 tại BIDV vì có liên quan đến vụ việc sử

dụng giấy tờ giả mạo chuyển tiền qua ngân hàng để chiếm đoạt tài sản.

Thứ hai, hợp tác TTTPHS trong việc xác minh địa chỉ và nhân dạng

người làm chứng, xác định tung tích nạn nhân, xác minh về nhân thân, lai

lịch và địa chỉ cư trú của đối tượng nghi vấn phục vụ hoạt động điều tra vụ

án hình sự: Đây là hoạt động TTTPHS diễn ra khá phổ biến trong thời gian

vừa qua, nhằm trợ giúp cho các hoạt động điều tra làm rõ thủ phạm, nạn nhân,

người làm chứng, làm rõ các tình tiết của vụ án.

Ví dụ, tháng 7/2015, Trung Quốc có yêu cầu TTTPHS đề nghị xác

minh nhân thân, lai lịch, địa chỉ cư trú của 15 đối tượng là người Việt Nam

phạm tội nhập cảnh trái phép đang bị Sở Công an Quảng Tây tạm giữ. Cơ

quan CSĐT BCA đã phối hợp với Cơ quan CSĐT của Công an 7 tỉnh xác

minh và trả lời kết quả cho phía Trung Quốc.

Thứ ba, hợp tác TTTPHS trong việc lấy mẫu vân tay, mẫu ADN phục

vụ hoạt động điều tra: Hoạt động tương trợ này được thực hiện nhằm thu thập

tài liệu chứng cứ hỗ trợ hoạt động điều tra như xác định tung tích nạn nhân,

xác định người bị hại, xác định mối quan hệ huyết thống,... Tuy nhiên, hoạt

105

động tương trợ này được thực hiện trong phạm vi có giới hạn và thông thường

là liên quan đến các vụ án nghiêm trọng, các vụ án giết người hoặc những vụ

án mà trong đó cần xác định mối quan hệ huyết thống.

Ví dụ: tháng 6/2014, Cộng hòa Séc có yêu cầu TTTP đề nghị lấy mẫu

vật sinh học niêm mạc miệng (nước bọt) cháu Natalie Vu hiện đang sống

cùng bà ngoại Bùi Thị Thêm, trú tại Đông Triều, Quảng Ninh. Lý do: Tòa sơ

thẩm tỉnh Chomutov, Cộng hòa Séc đang thụ lý hồ sơ liên quan đến đối tượng

Josef Kuranda, sinh ngày 13/12/1959 đã tạo điều kiện cư trú trái phép trên

lãnh thổ Séc vi phạm Bộ luật hình sự Séc; ông Josef Kuranda đã nhận cháu

Natalie Vu (con chị Vu Thi Hoa) là con và nhận của chị Hoa 8.000 Kuron để

cháu Natalie Vu được nhập quốc tịch Séc. Cơ quan CSĐT BCA đã phối hợp

với Công an địa phương làm việc với bà Thêm về đề nghị của phía Séc, tuy

nhiên bà Thêm đã từ chối. Tháng 2/2015, phía Séc tiếp tục có yêu cầu TTTP

về việc trên. Lần này, bà Thêm đã đồng ý để Cơ quan CSĐT BCA tiến hành

lấy mẫu nước bọt của cháu Natalie Vu để gửi cho phía Séc.

3.4. Nhận xét, đánh giá

3.4.1. Ưu điểm

Cùng với quá trình hội nhập quốc tế thì HTQT về TTTPHS là xu

hướng tất yếu của các quốc gia. Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng chỉ đạo việc

tăng cường HTQT trong hoạt động TTTPHS, đặc biệt là HTQT về pháp luật.

Bộ Chính trị đã ban hành các văn bản trong đó có nội dung chỉ đạo nhiệm vụ

tăng cường HTQT về tư pháp, HTQT trong phòng, chống tội phạm (Nghị

quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác

tư pháp trong thơi gian tới”; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 48-CT/TW ngày

22/10/2020 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,

chống tội phạm trong tình hình mới). Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết

106

định số 40/QĐ-TTg ngày 7/1/2016 phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập

quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Việt Nam đã chủ động đàm

phán, ký kết, gia nhập, thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan; đồng thời

xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong nước, từng bước kiện toàn bộ máy, tổ

chức cán bộ, kết quả đã cơ bản bảo đảm các điều kiện cần thiết nhằm tạo cơ

sở pháp lý, cơ chế hợp tác hiệu quả giữa các các cơ quan chức năng của Việt

Nam với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.

Sự ra đời của Luật TTTP năm 2007 đã thể chế hóa đường lối, chủ

trương của Đảng và Nhà nước về TTTP trong bối cảnh cải cách tư pháp và cải

cách pháp luật, đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới và khu

vực. Sau 12 năm thi hành, công tác TTTPHS đã có những bước chuyển tích

cực và toàn diện. Một trong những tác động quan trọng khi Luật TTTP được

thi hành đó là đã góp phần nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước, của

cán bộ và người dân về vai trò của công tác TTTP nói chung, TTTPHS nói

riêng, về chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan cụ thể trong công tác này.

BLTTHS năm 2015 là sự phát triển của Bộ luật năm 2003, đã dành 18

điều (tăng 11 điều) quy định về HTQT trong TTHS. Bộ luật đã bổ sung một

số quy định liên quan đến TTTPHS như: công nhận kết quả thực hiện ủy thác

tư pháp là một nguồn chứng cứ; quy định VKSNDTC là cơ quan trung ương;

quy định về giá trị pháp lý của tài liệu, đồ vật thu thập được qua HTQT trong

TTHS; sự có mặt của người làm chứng, người giám định, người đang chấp

hành án phạt tù tại Việt Nam ở nước ngoài; người làm chứng, người giám

định, người đang chấp hành án phạt tù tại nước ngoài ở Việt Nam; xử lý tài

sản do phạm tội mà có; phối hợp điều tra, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng

đặc biệt. Những quy định trên là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện

TTTPHS cũng như xác định giá trị kết quả của hoạt động này.

107

Công tác tiếp nhận, giải quyết yêu cầu TTTPHS ngày càng hiệu quả

đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Các yêu cầu ủy

thác xử lý hàng năm ngày càng tăng và phức tạp, đa dạng hơn về nội dung,

đối tượng, nước thực hiện; quy trình thủ tục thực hiện ủy thác tư pháp ngày

càng rõ ràng, đi vào nề nếp. Các cơ quan có thẩm quyền thực hiện TTTPHS

đã luôn cố gắng thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định của Luật TTTP,

nhằm giải quyết nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả các ủy thác tư pháp.

Đa số các yêu cầu TTTP đề nghị hỗ trợ thực hiện nhiều nội dung trong

cùng 1 hồ sơ yêu cầu; có những vụ án có nhiều yêu cầu bổ sung; có những đối

tượng có nhiều yêu cầu tương trợ từ các quốc gia (vd: Văn phòng Cơ quan

CSĐT BCA nhận được các yêu cầu tương trợ của Séc, Litva, Ba Lan về cùng

đối tượng Nguyễn Chí Tài). Phía Việt Nam cũng có những vụ án phải gửi yêu

cầu TTTP tới nhiều nước với nhiều nội dung (vd: 3/2013, Cơ quan CSĐT

BCA đã yêu cầu TTTP tới 8 nước xác minh thông tin cá nhân và phong tỏa

thu hồi tiền trong điều tra vụ án Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động

của các tổ chức tín dụng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thiếu trách nhiệm gây

hậu quả nghiêm trọng liên quan đến đối tượng Ahmed El Fehdi).

Nhìn chung, HTQT về TTTPHS đã đạt được những kết quả tích cực.

Việc tiếp nhận, giải quyết các yêu cầu được thực hiện tốt, về cơ bản đáp ứng

được yêu cầu thực tiễn, góp phần giải quyết các vụ án, tố giác, tin báo về tội

phạm, qua đó góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hầu hết các yêu cầu

TTTP đều được thực hiện và trả lời kết quả. Chỉ có 1 số ít bị từ chối do không

phù hợp với pháp luật của bên được yêu cầu, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia

hoặc hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật của bên được yêu cầu.

Một số ít yêu cầu không thực hiện được do bên yêu cầu không cung cấp đủ

thông tin để xác định đối tượng.

108

Kết quả yêu cầu TTTP là tài liệu quan trọng, được sử dụng để chứng

minh tội phạm, người phạm tội cũng như những tình tiết liên quan đến vụ án.

BLTTHS năm 2015 của Việt Nam quy định kết quả thực hiện yêu cầu TTTP

là một trong những nguồn chứng cứ.

Hoạt động HTQT về TTTPHS được thực hiện với tinh thần hợp tác,

trách nhiệm giữa Việt Nam với các nước (bao gồm 10 nước ASEAN đã ký

hiệp định chung, 25 nước đã ký kết hiệp định song phương và cả các nước

chưa ký kết hiệp định). Đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan CSĐT với

VKSNDTC (cơ quan trung ương), Công an các đơn vị, địa phương; đã có sự

cộng tác tích cực của các ban, ngành, tổ chức trong giải quyết từng vụ việc cụ

thể; đã có sự hợp tác trong khuôn khổ điều ước ký kết, phù hợp với nội luật từ

phía các cơ quan phòng, chống tội phạm của nước ngoài.

3.4.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế

3.4.2.1. Hạn chế

Thứ nhất, việc ký kết các hiệp định TTTP giữa Việt Nam với các nước

tuy đã được quan tâm thúc đẩy nhưng chưa nhiều (mới có 1 hiệp định chung

ASEAN và 25 hiệp định song phương). Thủ tục đàm phán (nhiều vòng), ký

kết, phê chuẩn thường kéo dài (vd: đã đàm phán thành công, ký chính thức

Hiệp định với Cộng hòa Mô-dăm-bích vào tháng 12/2018, đến nay đã gần 2

năm vẫn đang chờ thủ tục phê chuẩn Hiệp định để có hiệu lực chính).

Đối với Hiệp định TTTPHS giữa các quốc gia là thành viên ASEAN đã

có sự gia nhập của 10 quốc gia thành viên ASEAN, vì là hiệp định chung nên

quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, hợp tác chung, ít đi vào những

vấn đề cụ thể, và có những quốc gia căn cứ vào nội luật mà bảo lưu điều,

khoản nhất định. Do đó, vẫn cần thiết ký kết các hiệp định song phương với

từng quốc gia trong khối ASEAN để quy định cụ thể hơn các vấn đề hợp tác

phù hợp với pháp luật 2 bên (hiện đã có hiệp định song phương với Lào,

109

Indonexia). Có những Hiệp định ký đã lâu (vd: 3 hiệp định ký những năm

1980 với Tiệp Khắc, Bungari, Ba Lan) nay có những quy định không còn phù

hợp, cần bổ sung những quy định, thỏa thuận mới cho phù hợp với yêu cầu

hợp tác. Có các Hiệp định chung gồm nhiều lĩnh vực (hình sự, dân sự, lao

động, gia đình) mà Việt Nam đã ký với các nước trước năm 2000 không còn

phù hợp với đòi hỏi thực tiễn và pháp luật TTTPHS hiện nay, cần phải tách ra

thành hiệp định riêng trong lĩnh vực TTTPHS.

Đối với những quốc gia chưa ký Hiệp định, HTQT về TTTPHS được

thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại (do Bộ Ngoại giao xem xét quyết định

áp dụng nguyên tắc này), và việc thực hiện yêu cầu trong trường hợp này phụ

thuộc nhiều vào nội luật của bên được yêu cầu, nếu không có sự tương thích

về pháp luật dễ bị từ chối thực hiện.

Thứ hai, Luật TTTP năm 2007 còn có những hạn chế sau:

Luật điều chỉnh cả 04 lĩnh vực là TTTP về dân sự, hình sự, dẫn độ và

chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù, trong đó có những lĩnh vực

có tính chất và trình tự, thủ tục thực hiện rất khác nhau. Phạm vi điều chỉnh

như vậy là chưa thực sự phù hợp.

Luật chưa quy định giá trị pháp lý của kết quả TTTP (điều này đã được

BLTTHS 2015 quy định là một trong những nguồn chứng cứ).

Điều 4 quy định trường hợp giữa các nước chưa ký kết điều ước quốc

tế thì áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” trong hoạt động TTTP. Điều 66 giao

trách nhiệm cho Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan

xem xét, quyết định áp dụng nguyên tắc có đi có lại với nước hữu quan. Đây

là nguyên tắc đặc thù, được áp dụng khá nhiều trong thực tiễn nhưng chưa có

sự thống nhất về nhận thức, thiếu hướng dẫn thực hiện.

Điều 7 quy định hợp pháp hóa lãnh sự nêu tại phần những quy định chung

của Luật có thể dẫn đến cách hiểu là phải áp dụng trong cả hoạt động TTTPHS.

110

Phạm vi TTTPHS quy định tại Điều 17 còn hạn chế, chưa phù hợp với

các cam kết quốc tế của Việt Nam, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Luật

chưa quy định về cho phép người tiến hành tố tụng của nước yêu cầu được

tham gia một số hoạt động trong quá trình thực hiện TTTP tại nước được yêu

cầu; tổ chức cho người tại nước được yêu cầu đến nước yêu cầu để hỗ trợ điều

tra hoặc cung cấp chứng cứ, liên kết điều tra, phối hợp điều tra; chưa quy định

cụ thể về TTTP trong việc phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch thu và xử lý tài sản

do phạm tội mà có và công cụ, phương tiện phạm tội... là những hoạt động

TTTP đã được quy định trong các điều ước quốc tế song phương và đa

phương trong lĩnh vực tư pháp hình sự mà Việt Nam đã ký kết và tham gia và

đã phát sinh trên thực tiễn.

Luật chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện một số yêu

cầu tương trợ: Triệu tập người làm chứng, người giám định, dẫn giải người

chấp hành hình phạt tù ra nước ngoài để hỗ trợ điều tra hoặc cung cấp chứng

cứ; chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự... dẫn đến lúng túng, khó khăn

trong thực hiện. Điển hình như yêu cầu về phong tỏa, thu giữ tài sản trên lãnh

thổ Việt Nam kèm theo lệnh tịch thu của Tòa án nước ngoài. Pháp luật TTTP

chưa có quy định về chuyển hóa tố tụng đối với các lệnh, quyết định của nước

ngoài để có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam nên cơ quan tiến hành tố tụng của

Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi thực hiện các yêu cầu tương trợ này.

Luật chưa quy định thủ tục “đóng” yêu cầu TTTPHS trong trường hợp

thời gian thực hiện đã lâu, Cơ quan trung ương đã nhiều lần có văn bản đôn

đốc tiến độ nhưng không nhận được kết quả thực hiện TTTP để cơ quan tiến

hành tố tụng có căn cứ áp dụng các thủ tục tố tụng tiếp theo đối với vụ án

hình sự có liên quan.

Luật chưa quy định việc gửi hồ sơ ủy thác tư pháp dưới hình thức điện

tử nhằm nâng cao hiệu quả, tính kịp thời của việc tiếp nhận, giải quyết yêu

111

cầu TTTPHS trong khi một số Hiệp định TTTP về hình sự đã quy định và

thực tiễn đã triển khai thực hiện.

Việc các nước yêu cầu cam kết không áp dụng án tử hình là điều kiện

để thực hiện yêu cầu TTTP là vấn đề khá phổ biến trong thực tiễn hoạt động

TTTPHS cũng như việc đàm phán, ký kết các Hiệp định TTTP về hình sự.

Nhưng Luật này chưa có quy định về trình tự, thủ tục cam kết không áp dụng

hình phạt tử hình trong hoạt động TTTPHS. Trên thực tế, VKSNDTC đã giải

quyết 01 trường hợp phía nước ngoài yêu cầu cam kết trước khi chuyển giao

về Việt Nam truy cứu trách nhiệm hình sự theo hướng vận dụng các quy định

của Bộ luật hình sự trình Chủ tịch nước, với thẩm quyền ân giảm án tử hình,

đề xuất cho phép VKSNDTC ban hành cam kết không thi hành án tử hình đối

với đối tượng phạm tội.

Luật chưa có cơ chế đặc thù trong việc tiếp nhận, giải quyết yêu cầu

TTTPHS trực tiếp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương có chung

đường biên giới với nước láng giềng, là cơ chế đã được quy định trong một số

Hiệp định TTTP về hình sự giữa Việt Nam với nước ngoài (Lào).

Điều 21 quy định về căn cứ từ chối thực hiện TTTP chưa có sự phân

biệt trường hợp bắt buộc từ chối và trường hợp có thể từ chối. Quy định như

vậy chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham

gia và có thể dẫn đến vướng mắc trong thực tiễn. Với xu hướng hợp tác tối đa

trong TTTPHS, nhiều quốc gia đã xem xét đồng ý thực hiện TTTP ngay cả

khi hành vi có liên quan không cấu thành tội phạm theo quy định của pháp

luật nước được yêu cầu trong trường hợp không áp dụng các biện pháp cưỡng

chế. Tuy nhiên không đáp ứng nguyên tắc “tội phạm kép” vẫn là một căn cứ

dẫn đến việc bắt buộc từ chối thực hiện TTTP theo quy định tại Luật TTTP.

Điều 29 quy định cơ quan tiếp nhận truy cứu trách nhiệm hình sự công

dân Việt Nam tại Việt Nam là cơ quan nơi công dân đó cư trú cuối cùng trước

112

khi ra nước ngoài là không hợp lý, vì có nhiều trường hợp công dân Việt Nam

đã ra nước ngoài trong thời gian dài, nhiều trường hợp công dân Việt Nam ra

nước ngoài trái với quy định pháp luật, không khai báo đúng tên tuổi, nơi cư

trú cuối cùng của mình. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 29, trường hợp

chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự công dân Việt Nam tại Việt Nam

trong giai đoạn điều tra thì VKSND cấp tỉnh tiếp nhận sau đó chuyển cho cơ

quan điều tra cùng cấp để điều tra; nếu việc chuyển giao thực hiện trong giai

đoạn truy tố thì VKSND cấp tỉnh tiếp nhận và tiến hành truy tố. Quy định như

vậy là chưa hợp lý vì có sự khác nhau trong việc xác định giai đoạn tố tụng

theo quy định của pháp luật nước ngoài và Việt Nam.

Điều 31 quy định chi phí thực hiện TTTPHS giữa Việt Nam với nước

ngoài do nước yêu cầu chi trả là chưa phù hợp với quy định của các điều ước

quốc tế và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực TTTPHS.

Thứ ba, hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật TTTP chưa đầy đủ,

cụ thể dẫn đến việc thực hiện của các cơ quan chức năng còn gặp lúng túng,

khó khăn. Trong nhiều yêu cầu TTTP, phía bạn đề nghị khám xét, thu giữ tài

sản,... kèm theo các lệnh, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên,

với chủ quyền lãnh thổ, thì các lệnh, quyết định đó không có hiệu lực thi hành

trên lãnh thổ Việt Nam. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt

Nam triển khai thực hiện yêu cầu TTTP đó bằng các văn bản, quyết định của

mình phù hợp với quy định của nội luật. Vấn đề triển khai thực hiện này cũng

chưa được quy định, hướng dẫn thực hiện. Thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng

Việt Nam thường áp dụng thủ tục tương tự.

Thứ tư, còn có những sự khác biệt trong pháp luật Việt Nam với pháp

luật nhiều nước hiện nay liên quan đến hoạt động TTTPHS. Vấn đề này đã ảnh

hưởng đến việc thực hiện các yêu cầu ủy thác tư pháp về hình sự, thậm trí sẽ

113

phải từ chối thực hiện yêu cầu TTTP nếu như hành vi tội phạm trong yêu cầu

tương trợ lại không cấu thành tội phạm theo pháp luật của bên được yêu cầu.

Thứ năm, việc triển khai thực hiện các yêu cầu TTTPHS thường mất

nhiều thời gian, trong khi việc giải quyết các vụ án hình sự phải tuân thủ thời

hạn luật định. Việc chậm có kết quả thực hiện yêu cầu tương trợ ảnh hưởng

đến tiến độ giải quyết vụ án. Nguyên nhân là do Luật TTTP và các hiệp định

mà Việt Nam đã ký với các nước không quy định thời hạn giải quyết yêu cầu

TTTPHS. Hơn nữa, một số yêu cầu tương trợ không có đầy đủ thông tin, phải

chuyển đi chuyển lại nhiều lần qua đường công văn để bổ sung thông tin, gây

ảnh hưởng nhiều đến kết quả thực hiện TTTP.

Thứ sáu, hồ sơ, thủ tục yêu cầu TTTP quy định chặt chẽ đồng thời là sự

phức tạp, qua nhiều khâu kiểm duyệt mới đến được đơn vị trực tiếp thực hiện

nên kết quả thường chậm. Trong thực tế, nhiều trường hợp khi yêu cầu

TTTPHS với phía nước ngoài qua kênh chính thức của VKSNDTC, thì Cơ

quan CSĐT đồng thời gửi đề nghị về nội dung đó qua kênh hợp tác Interpol vì

kênh này có thủ tục đơn giản, nhanh và có kết quả sớm để hỗ trợ thông tin cho

hoạt động điều tra vụ án. Tuy nhiên, để đảm bảo giá trị pháp lý phục vụ điều

tra, truy tố thì vẫn phải chờ kết quả, tài liệu thực hiện yêu cầu TTTPHS.

Thứ bảy, tài liệu trong hồ sơ yêu cầu TTTPHS của nước ngoài có những

bản dịch chưa đúng từ ngữ pháp luật, chưa logic về ngữ pháp, gây khó hiểu cho

cơ quan thụ lý thực hiện. Tên đối tượng thường ghi không có dấu, trong khi tên

tiếng Việt rất phức tạp nên việc xác định tên đúng, con người cụ thể rất mất

thời gian, có trường hợp không xác định được. Có trường hợp đối tượng không

có địa chỉ hoặc địa chỉ không đúng, không có trong địa danh của Việt Nam nên

rất khó cho việc xác định đối tượng để thực hiện yêu cầu tương trợ.

Thứ tám, chất lượng hồ sơ TTTPHS của một số Cơ quan CSĐT gửi

ra nước ngoài còn hạn chế. Có hồ sơ thiếu thông tin, tài liệu cần thiết; nội

114

dung không đầy đủ theo quy định của Điều 18, Điều 19 Luật TTTP. Có hồ

sơ không kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ của nước được yêu cầu hoặc một

ngôn ngữ khác mà nước yêu cầu chấp nhận. Những hồ sơ này thường bị trả

để hướng dẫn lập lại, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ án.

Để đảm bảo tính pháp lý của văn bản ủy thác, Cơ quan CSĐT khi ủy

thác phải hợp đồng dịch thuật nhưng ở hầu hết các địa phương còn ít hệ

thống các cơ quan dịch thuật, ngôn ngữ chủ yếu là Anh, Nga, Pháp, Trung

Quốc nên khó khăn trong việc dịch ra các ngôn ngữ không phổ biến như

Séc, Ba Lan, Lào... Rào cản về ngôn ngữ ảnh hưởng đến chất lượng, tiến

độ giải quyết vụ án và tính bảo mật của tài liệu. Một số trường hợp trưng

cầu phiên dịch để Cơ quan điều tra làm việc với đối tượng mang quốc tịch

nước ngoài gặp nhiều khó khăn nhất là khi ngôn ngữ không phổ biến nên việc

lập biên bản ghi lời khai, làm các thủ tục tạm giữ, tạm giam còn vướng mắc.

Thứ chín, hiện nay việc bên yêu cầu mong muốn thực hiện thẩm vấn

trực tiếp đối tượng, người làm chứng, người có liên quan đến vụ án đang cư

trú tại bên được yêu cầu thường thực hiện bằng 2 cách: (1) đưa người cần

thẩm vấn đến nước yêu cầu hoặc yêu cầu người này tham gia phiên tòa tại

nước yêu cầu; (2) cơ quan chức năng của nước yêu cầu đến nước được yêu

cầu để thẩm vấn đối tượng. Những cách này đều tốn kém chi phí, mất thời

gian, thủ tục phức tạp và vấn đề bảo vệ nhân chứng... Những khó khăn này sẽ

được giải quyết nếu như có hệ thống truyền hình trực tuyến bảo mật để những

người này có thể tham gia hoạt động tố tụng trực tiếp theo đề nghị của bên

yêu cầu mà không cần phải đến nước đó. Tuy nhiên, chúng ta chưa trang bị hệ

thống này để phục vụ hoạt động phối hợp điều tra với các quốc gia.

Thứ mười, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, HTQT về TTTPHS ngày

càng đa dạng, phát sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, trong khi pháp luật chưa

115

có quy định, hướng dẫn cụ thể nên việc thực hiện còn gặp khó khăn, lúng

túng, như:

Ủy thác tư pháp của nước ngoài có vụ phức tạp, phạm vi rộng như TTTP

của Cộng hòa Belarus năm 2014 yêu cầu cơ quan chức năng của Việt Nam

khám xét nơi làm việc của Bí thư thứ ba Đại sứ quán Cộng hòa Belarus tại Việt

Nam. Tuy nhiên, yêu cầu này bị ta từ chối vì hoạt động này trái với Công ước

Viên năm 1964 về quan hệ ngoại giao. Ngoài ra, phía Belarus còn yêu cầu ta

lấy lời khai của 450 nhân chứng là người Việt Nam. Hay từ yêu cầu TTTP của

Hoa Kỳ, ta đã xác lập, đấu tranh chuyên án, khởi tố vụ án điều tra đối với Vũ

Trường Giang phạm tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản.

Bắt để trao trả nước ngoài người có 2 quốc tịch, trong đó có quốc tịch

Việt Nam: 10/2014, Cảnh sát Hungari yêu cầu bắt, dẫn độ đối tượng Nguyễn

Thanh Bình sinh năm 1981, có quốc tịch Việt Nam và Hungari tham gia băng

nhóm tổ chức buôn người và đưa người trái phép vào Anh, đã tổ chức chót lọt

13 vụ. Bình bị Ban tổng thư ký Interpol ra Lệnh truy nã quốc tế. Việc bắt

Bình để dẫn độ cho phía Hungari là không đúng quy định của pháp luật, vi

phạm nguyên tắc không dẫn độ công dân Việt Nam cho nước khác. Ta đã yêu

cầu phía Hungari lập ủy thác tư pháp yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng Việt

Nam truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thanh Bình tại Việt Nam.

Ủy thác tư pháp của nước ngoài liên quan đến việc truy cứu trách

nhiệm hình sự mà theo pháp luật Việt Nam thì hành vi này không cấu thành

tội phạm: Tháng 2/2014, Văn phòng Cơ quan CSĐT BCA nhận được ủy thác

tư pháp của Cộng hòa Séc yêu cầu tống đạt cáo trạng đối với công dân Đinh

Ngọc Dung ở tỉnh Quảng Ninh phạm tội bán rượu cho người dưới 18 tuổi

(theo Điều 204 BLHS của Séc) trong thời gian cư trú tại Séc. Tuy nhiên,

BLHS Việt Nam không coi hành vi trên là tội phạm, nên đã đề từ chối thực

hiện ủy thác tư pháp của Séc.

116

Về việc Tòa án nước ngoài đề nghị triệu tập Điều tra viên Việt Nam

tham dự phiên tòa xét xử công dân Việt Nam ở nước ngoài với tư cách là

người làm chứng. Tháng 10/2014, Tòa án Malaysia đã đề nghị ta triệu tập

người làm chứng đối với 2 công dân Việt Nam hiện là Điều tra viên thuộc Cơ

quan CSĐT Bộ Công an tham gia phiên tòa phúc thẩm xét xử Nguyễn Thanh

Ngọc Tuyết (đã nêu ví dụ ở mục 3.3.2.2).

Thứ mười một, sự phối hợp giữa VKSNDTC và Cơ quan CSĐT địa

phương trong thực hiện một số hoạt động TTTPHS còn lúng túng, vướng

mắc. Một số Cơ quan CSĐT không gửi yêu cầu TTTPHS qua VKSNDTC mà

gửi tới Văn phòng Interpol Việt Nam, Sở Ngoại vụ, Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại

giao, Đại sứ quán các nước hoặc gửi trực tiếp tới các cơ quan tiến hành tố

tụng nước ngoài. Cơ quan CSĐT một số địa phương có chung đường biên

giới với nước láng giềng trực tiếp liên hệ với cơ quan có thẩm quyền nước

Bạn để yêu cầu tương trợ, nhưng không kịp thời báo cáo với VKSNDTC. Vì

không phải là tương trợ chính thức nên nhiều yêu cầu TTTPHS không có kết

quả. Trong khi đó, VKSNDTC không nắm được thông tin để liên hệ đôn đốc

tiến độ thực hiện đối với Cơ quan trung ương của nước ngoài.

Thứ mười hai, các đơn vị thuộc Cơ quan CSĐT BCA đều có chức năng

thực hiện HTQT về TTTPHS. Trước yêu cầu hội nhập, hợp tác đấu tranh,

BCA đã quyết định thành lập đơn vị chuyên trách về nhiệm vụ này (Phòng

Tương trợ tư pháp về hình sự và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự thuộc

Văn phòng Cơ quan CSĐT BCA), chính thức đi vào hoạt động từ 10/2012.

Với xu hướng TTTP gia tăng hàng năm (mỗi năm giải quyết khoảng gần 100

yêu cầu), thì Phòng này hiện còn thiếu về số lượng, chất lượng cán bộ, nhất là

số cán bộ có năng lực, kinh nghiệm về hoạt động điều tra; một số cán bộ trẻ

nên kiến thức pháp luật quốc tế, tập quán quốc tế, kỹ năng nghề nghiệp còn

hạn chế; thiếu cán bộ thông thạo ngoại ngữ. Nếu cán bộ biết tiếng của nước

117

yêu cầu thì việc nghiên cứu hồ sơ, thực hiện rất thuận lợi vì hiểu đúng được

nội dung, tình tiết, yêu cầu. Mặc dù hồ sơ đã dịch ra tiếng Việt nhưng có

những bản dịch không sát nghĩa, ngôn ngữ khó hiểu, tên, địa danh không chính

xác... một phần cũng do người dịch không am hiểu về nghiệp vụ điều tra.

3.4.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

Những hạn chế nêu trên do một số nguyên nhân khách quan (sự khác

biệt giữa pháp luật Việt Nam và các nước; khoảng cách về địa lý), còn lại chủ

yếu do các nguyên nhân thuộc về chủ quan của cơ quan thực thi. Cụ thể:

Thứ nhất, cơ sở pháp lý cho việc thực hiện HTQT về TTTPHS của

nước ta còn chưa hoàn thiện, trong đó một số quy định chỉ mang tính nguyên

tắc. Trước khi BLTTHS năm 2015 được ban hành và có hiệu lực, pháp luật

TTTPHS chưa có quy định về việc phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch thu và xử

lý tài sản do phạm tội mà có; chưa có quy định về giá trị chứng cứ của các

thông tin, tài liệu thu thập qua hoạt động TTTPHS; chưa có quy định về việc

tham gia của người tiến hành tố tụng Việt Nam ở nước ngoài và người tiến

hành tố tụng nước ngoài ở Việt Nam trong quá trình thực hiện yêu cầu

TTTPHS; chưa có quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết các vụ án có yếu

tố nước ngoài… Mặc dù Luật TTTP đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày

01/7/2008, nhưng đến nay vẫn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành, gây khó

khăn cho việc áp dụng pháp luật. Số lượng các Hiệp định TTTPHS còn ít,

trong đó các Hiệp định được ký trước năm 2000 có nhiều điểm không còn phù

hợp với tình hình thực tế và yêu cầu hội nhập sâu rộng hiện nay.

Thứ hai, sự khác biệt về quy định pháp luật TTTPHS giữa Việt Nam

với nước ngoài dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện dứt điểm yêu cầu

TTTP. Ví dụ: khác nhau về nhận thức, quy trình, thủ tục để thực hiện yêu cầu

của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài đề nghị cung cấp quyết định pháp lý

cuối cùng trong trường hợp chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự cho cơ

118

quan tiến hành tố tụng Việt Nam; khác nhau về quy định áp dụng hình phạt tử

hình trong pháp luật hình sự nên một số nước đã từ chối thực hiện tương trợ

cho Việt Nam nếu Việt Nam không cam kết về việc sẽ không tuyên án tử hình

hoặc có tuyên thì không thi hành bản án; khác nhau về việc xác định tội danh

dẫn đến khả năng yêu cầu bị từ chối thực hiện vì không đáp ứng được nguyên

tắc cùng hình sự hóa; khác nhau về cách thức lấy lời khai trong giai đoạn điều

tra “tự nguyện và bắt buộc”…

Thứ ba, chất lượng hồ sơ ủy thác tư pháp của Cơ quan CSĐT gửi ra

nước ngoài còn hạn chế. Nhiều hồ sơ còn thiếu thông tin, tài liệu cần thiết; nội

dung không đầy đủ theo quy định tại Điều 17, Điều 18 Luật TTTP. Một số hồ

sơ không kèm bản dịch. Do vậy số lượng hồ sơ phải hướng dẫn lập lại còn

nhiều, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết yêu cầu TTTPHS.

Thứ tư, rào cản về ngôn ngữ cũng ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ

giải quyết yêu cầu TTTPHS và tính bảo mật của hồ sơ, tài liệu. Nhiều địa

phương không có các tổ chức dịch thuật chuyên nghiệp. Việc biên dịch tài

liệu bằng các thứ tiếng không phổ biến như: Séc, Ba Lan, Lào, Campuchia,...

cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho việc xây dựng hồ sơ ủy thác tư pháp.

Thứ năm, đội ngũ cán bộ làm công tác HTQT về TTTPHS của Cơ quan

CSĐT còn thiếu về số lượng và chất lượng cũng còn hạn chế. Thiếu cán bộ có

kiến thức sâu về pháp luật quốc tế, giỏi ngoại ngữ, đặc biệt là ở Cơ quan

CSĐT các tỉnh. Nhận thức của một bộ phận cán bộ tư pháp về quy trình, thủ

tục, ý nghĩa và tầm quan trọng của HTQT về pháp luật nói chung, hoạt động

HTQT về TTTPHS nói riêng còn hạn chế.

Thứ sáu, khoảng cách địa lý dẫn đến thời gian gửi yêu cầu đi và nhận

đến còn mất nhiều thời gian, gây trở ngại đến việc thực hiện yêu cầu. Một số

yêu cầu không đến được nước nhận hoặc đến nước nhận sau thời hạn mà

nước gửi yêu cầu mong muốn yêu cầu được thực hiện do phải đảm bảo thời

119

hạn tố tụng trong nước. Việc áp dụng công nghệ cao (thư điện tử, fax...)

ngày càng phổ biến và đã có hình thức nhận yêu cầu chính thức bằng hộp

thư điện tử mà không cần gửi qua bưu điện (Mỹ). Tuy nhiên công nghệ

thông tin cũng như hệ thống thư công vụ của VKSNDTC còn hạn chế,

thậm chí có thời gian dài không sử dụng được làm ảnh hưởng đến việc liên

hệ với nước ngoài.

120

Kết luận Chương 3

Chương 3 đã phân tích, tổng hợp, đánh giá đầy đủ về tình hình tội phạm

xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài trên thế giới nói chung, ở Việt

Nam nói riêng và tội phạm do người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện. Đã nêu

và phân tích điều kiện thực hiện HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT gồm:

quy định của pháp luật, của BCA về cơ cấu, tổ chức bộ máy và nhiệm vụ

quyền hạn của các đơn vị thuộc Cơ quan CSĐT có liên quan đến HTQT về

TTTPHS. Đây là những yếu tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động HTQT

về TTTPHS của Cơ quan CSĐT nói riêng, lực lượng CSĐT nói chung.

Luận án đã đánh giá thực trạng quy định của pháp luật HTQT về

TTTPHS ở cả khía cạnh gia nhập, ký kết các điều ước quốc tế và khía cạnh

xây dựng, ban hành pháp luật trong nước. Luận án đã phân tích, thống kê các

điều ước và văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động HTQT về TTTPHS, làm

rõ những quy định mới của Bộ luật TTHS năm 2015 về hoạt động này, đánh

giá tác dụng hiệu quả của pháp luật đối với HTQT về TTTPHS.

Luận án đã khái quát kết quả đạt được trong hoạt động HTQT về

TTTPHS (cả yêu cầu và tiếp nhận giải quyết yêu cầu) của cơ quan có thẩm

quyền Việt Nam nói chung, của Cơ quan CSĐT nói riêng bằng những số liệu

dẫn chứng sinh động trong thời gian từ 1/7/2008 đến 31/12/2019 trên các lĩnh

vực: tống đạt các loại giấy tờ, hồ sơ, tài liệu có liên quan; triệu tập người làm

chứng, người giám định; thu thập cung cấp chứng cứ; truy cứu trách nhiệm

hình sự; trao đổi thông tin và các yêu cầu TTTP khác về hình sự...

Từ đó, Luận án đã tổng hợp, đưa ra nhận xét, đánh giá về ưu điểm, hạn

chế và nguyên nhân của hạn chế của thực trạng pháp luật, thực trạng hoạt

động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT. Đây là cơ sở quan trọng để đưa

ra những dự báo và giải pháp phù hợp, có khả thi nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động này trong hời gian tới được đề cập ở Chương 4.

121

CHƯƠNG IV

DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO

HIỆU QUẢ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH

SỰ CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA Ở VIỆT NAM

TRONG PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM THỜI GIAN TỚI

4.1. Dự báo các yếu tố tác động đến hợp tác quốc tế về tương trợ tư

pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra.

4.1.1. Cơ sở dự báo

Dựa trên cơ sở những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến hoạt động HTQT

về TTTPHS trong tương lai, để từ đó việc đưa ra những tính toán, nhận định

có căn cứ về những diễn biến có khả năng sẽ xảy ra, những tác động có thể

làm ảnh hưởng như:

Thứ nhất, xu hướng toàn cầu hóa tiếp tục tạo ra những thời cơ và thách

thức mới cho quốc tế cũng như mỗi quốc gia. Trong đó, diễn biến tình hình

thế giới cho thấy “Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ

hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi

phối quan hệ quốc tế” [24; tr.183]. Đồng thời, nhân loại đứng trước nhiều vấn

đề toàn cầu bức xúc, cấp bách đòi hỏi phải hợp tác đa phương, song phương

để giải quyết: ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, dịch bệnh, tội phạm.

Thứ hai, Đảng, Nhà nước ta có đường lối, chính sách đối ngoại của đất

nước phù hợp trong bối cảnh hội nhập. Mục tiêu đối ngoại là phải tạo lập

được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển

kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước

mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

Thứ ba, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ ANQG, giữ

gìn TTATXH của đất nước trong thời kỳ hội nhập, trong đó có việc tăng

cường HTQT trong đấu tranh phòng chống tội phạm và hoạt động TTTPHS.

122

Thứ tư, sự thay đổi, bổ sung, điều chỉnh một số chính sách hình sự của

Đảng, Nhà nước và việc hoàn thiện pháp luật về đấu tranh phòng chống tội

phạm, trong đó có hoạt động HTQT về TTTPHS qua từng giai đoạn của quá

trình phát triển, nhất là trong xây dựng, ban hành các luật: BLHS, BLTTHS,

Luật tạm giam tạm giữ, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật TTTP.

Thứ năm, tình hình đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, phương tiện khoa học

– kỹ thuật được trang bị cũng có thể thay đổi theo thời gian.

Thứ sáu, trên cơ sở tổng kết thực tiễn tình hình, kết quả, kinh nghiệm

tích luỹ trong quá trình thực hiện hoạt động HTQT về TTTPHS của các cơ

quan, đơn vị có thẩm quyền; trên cơ sở các công trình nghiên cứu khoa học đã

được nghiệm thu để đưa ra những nhận định có căn cứ về thuận lợi, khó khăn

trong hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT trong thời gian tới.

4.1.2. Nội dung dự báo

4.1.2.1. Những yếu tố thuận lợi

Thứ nhất, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu trên thế

giới, và ngày càng được xúc tiến nhanh, ngoại giao đa phương ngày càng giữ

một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước trên thế

giới. Quan hệ quốc tế ngày càng dân chủ hóa hơn do tương quan sức mạnh

tổng hợp giữa các nước thay đổi; các cơ chế đa phương, các tổ chức quốc tế,

luật pháp quốc tế, truyền thông, báo chí, mạng xã hội và nhận thức của người

dân toàn thế giới có vai trò ngày càng tăng. Các nước vừa và nhỏ có cơ hội

tham gia tích cực hơn vào các vấn đề quốc tế, đặc biệt trong khuôn khổ Liên

hợp quốc và các tổ chức khu vực, có tiếng nói ngày càng quan trọng hơn

trong cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn.

Thứ hai, quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam

trong ba thập kỷ qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần tạo thế

và lực mới cho đất nước, là tiền đề cho giai đoạn hội nhập toàn diện thời gian

123

tới. Hợp tác đa phương được mở rộng từng bước. Việt Nam đã và sẽ tham gia

một cách chủ động, tích cực và có trách nhiệm tại các cơ chế đa phương, đặc

biệt là các cơ chế cấp khu vực như Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN

(ARF); Đối thoại Shangri-La, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN

(ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+),

Hội nghị những người đứng đầu cơ quan an ninh các nước ASEAN

(MACOSA), Tổ chức hình sự quốc tế (INTERPOL), Hội nghị Bộ trưởng

ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (AMMTC); Hiệp hội

Cảnh sát các quốc gia Đông Nam Á (ASEANPOL),... và tăng cường hợp tác

quốc phòng, an ninh trên phạm vi toàn cầu, tham gia vào các hoạt động gìn

giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Thứ ba, Đảng, Nhà nước ta rất coi trọng vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia

giữ gìn TTATXH của đất nước trong thời kỳ hội nhập. Ngày 7/1/2016, Thủ

tướng Chính phủ Việt Nam đã ký Quyết định số 40/QĐ-TTg phê duyệt Chiến

lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong

đó, định hướng vấn đề hội nhập về chính trị, quốc phòng, an ninh được đề ra

với 6 nhóm giải pháp: (1) Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối

tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và

an ninh của đất nước; đưa các khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất,

tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa nước ta với các đối tác; (2) Đẩy mạnh,

nâng tầm đối ngoại đa phương; chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa

phương, góp phần định hình luật chơi, xây dựng trật tự chính trị và kinh tế

công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy

mạnh hợp tác cùng có lợi; (3) Triển khai chiến lược hội nhập quốc phòng, an

ninh phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia,

khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế quốc tế của đất nước nhằm

phục vụ mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng

124

thời tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập trong các lĩnh vực

khác: (4) Chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm

mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng hội nhập quốc tế để xâm

phạm ANTT của đất nước; (5) Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa

phương về quốc phòng, an ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ

chế trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo; (6) Xây dựng và

triển khai kế hoạch gia nhập các cơ chế đa phương khác, trong đó có việc

tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa

bình của Liên hợp quốc, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, diễn tập

chung và các hoạt động khác, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

và góp phần đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu ổn định, bền vững.

Thứ tư, vấn đề hợp tác trong đấu tranh phòng chống tội phạm được

quan tâm thúc đẩy. Xu thế Việt nam gia nhập các điều ước quốc tế về phòng

chống tội phạm; đàm phán, ký kết các hiệp định đa phương, song phương về

TTTP về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người có án phạt tù....

Thứ năm, vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế

là 1 trong 6 định hướng lớn trong Nghị quyết 48 về Chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm

2020. Pháp luật về hội nhập quốc tế đã và tiếp tục được tăng cường (Luật điều

ước quốc tế, Luật TTTP, Pháp lệnh ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế

được ban hành) đã hình thành khung pháp luật thống nhất cho việc ký kết, gia

nhập các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế và hoạt động TTTP, cũng như

tạo cơ chế để bảo đảm thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam.

Thứ sáu, hệ thống pháp luật trong nước của Việt Nam (nội luật) đã và

đang được xây dựng, hoàn thiện từng bước, trong đó có hệ thống pháp luật về

hình sự, TTHS, TTTP. Đặc biệt, trong BLTTHS năm 2015 có 2 chương gồm

18 điều quy định về hợp tác quốc tế (BLTTHS năm 2003 chỉ có 3 điều quy

125

định về vấn đề này); Điều 87 quy định “kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và

hợp tác quốc tế khác” là một trong những nguồn chứng cứ; Điều 494 quy định

“tài liệu, đồ vật do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thu thập theo ủy

tác tư pháp của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam hoặc tài liệu, đồ vật do cơ

quan có thẩm quyền của nước ngoài gửi đến Việt Nam để ủy thác truy cứu

trách nhiệm hình sự có thể được coi là chứng cứ. Trường hợp tài liệu, đồ vật

có đặc điểm quy định tại Điều 89 của Bộ luật này thì có thể coi là chứng

cứ”;… đã khẳng định giá trị pháp lý của kết quả hoạt động TTTP. Những quy

định này sẽ là là điều kiện thuận lợi, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt

động TTTP về hình sự trong thời gian tới.

Thứ bảy, cùng với việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế, những

năm qua, Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc

ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc

tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cơ bản đã theo kịp và

tương thích với hầu hết các nguyên tắc, tập quán quốc tế, góp phần quan trọng

trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực

như thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng, TTTP, chống tội phạm, chống

rửa tiền, chống tham nhũng.

Thứ tám, hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT tiếp tục nhận

được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, thường xuyên của Lãnh đạo BCA; sự phối

hợp chặt chẽ của VKSNDTC, Công an các đơn vị, địa phương; sự cộng tác

tích cực của các ban ngành, các tổ chức, nhân dân; sự hợp tác từ phía các cơ

quan phòng, chống tội phạm của nước ngoài.

Thứ chín, đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động HTQT về TTTPHS ngày

càng được quan tâm củng cố: tăng cường về số lượng, đào tạo nâng cao chất

lượng; được tạo điều kiện thuận lợi về phương tiện, thiết bị, cơ sở vật chất để

thực hiện nhiệm vụ.

126

4.1.2.2. Những yếu tố khó khăn

Thứ nhất, quá trình hội nhập quốc tế bên cạnh việc mang lại những

thuận lợi để cộng đồng quốc tế phát triển bền vững, nhưng đồng thời cũng

mang đến không ít những nguy cơ, thách thức đang đe dọa an ninh toàn cầu

như: biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, an ninh năng lượng, lương thực,

nguồn nước, an ninh mạng, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố,

vấn đề người di cư…

Thứ hai, quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam

đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần tạo thế và lực mới cho đất

nước. Tuy nhiên, mức độ hội nhập của Việt Nam còn thấp, chủ yếu là hội

nhập theo chiều rộng. Quá trình hội nhập sâu hơn vào khu vực và thế giới

đứng trước những vấn đề lớn hơn như nguy cơ bị tổn thương trước những

biến động quốc tế, cạnh tranh gay gắt hơn, làm gia tăng nguy cơ tụt hậu nếu

hội nhập quốc tế không đạt được các mục tiêu mà Đảng đã đề ra. Những nguy

cơ bất ổn chính trị, xã hội như các vấn đề bức xúc, tình hình vi phạm pháp

luật, tội phạm, mất trật tự an toàn xã hội, khủng bố, chiến tranh mạng, mất an

ninh an toàn thông tin... tiếp tục gia tăng, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa

và khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin ngày càng phát triển

nhanh. Các vấn đề an ninh lãnh thổ, nhất là vấn đề Biển Đông có thể diễn biến

phức tạp hơn, không loại trừ những đột biến, gây tác động tiêu cực tới an ninh,

ổn định, phá vỡ môi trường hòa bình, thuận lợi cho phát triển của đất nước.

Thứ ba, thời gian qua, việc xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam luôn

đảm bảo phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước,

đồng thời chúng ta đã chú ý hướng tới những cam kết quốc tế, những vấn đề

chung mà quốc tế đang nỗ lực hướng tới như: vấn đề nhân quyền; giảm và

tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự,… Tuy nhiên, việc gia

nhập và thực hiện các cam kết quốc tế còn nhiều khó khăn, thách thức. Các

127

điều ước quốc tế, nhất là các điều ước đa phương thường rất phức tạp, có

những vấn đề được quy định chỉ mang tính nguyên tắc. Hệ quả là rất nhiều

vấn đề pháp lý phức tạp trong việc tiếp cận, hiểu đúng và quan trọng hơn là

áp dụng các điều ước trên thực tế. Hơn nữa, hệ thống pháp luật của các nước

trên thế giới rất đa dạng, một số nước còn có cả pháp luật tôn giáo (vd: pháp

luật Hồi giáo ở Afganistan, Pakistan, Kowait,…). Đồng thời, hệ thống tư pháp

giữa Việt Nam với các quốc gia hiện nay còn có sự khác biệt. Do đó, hoạt

động HTQT nói chung, TTTPHS nói riêng trong đấu tranh phòng chống tội

phạm sẽ còn gặp những khó khăn, trở ngại.

Thứ tư, cùng với quá trình hội nhập, với những chính sách phát triển

kinh tế văn hóa xã hội của đất nước, dự báo trong thời gian tới, cộng đồng

người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng tăng về số lượng người cũng như

quốc gia cư trú; đồng thời lượng người nước ngoài vào Việt Nam làm ăn, sinh

sống, du lịch sẽ tăng nhanh. Bên cạnh tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế xã

hội thì tình hình trên sẽ gây ra những vấn đề phức tạp về ANTT, về những vi

phạm pháp luật và tội phạm.

Thứ năm, xu hướng tội phạm: tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức

tạp. Theo cảnh báo của nhiều cơ quan thi hành pháp luật quốc tế, các đối

tượng phạm tội sẽ lợi dụng sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật của các nước

trong việc điều chỉnh một số quan hệ xã hội mới để thực hiện hành vi phạm

tội, đặc biệt là lợi dụng sự thiếu kinh nghiệm của các lực lượng điều tra về tài

chính ngân hàng, về chống rửa tiền... Bên cạnh đó, việc cập nhật và áp dụng

công nghệ thông tin chưa kịp thời của các cơ quan chức năng sẽ là điều kiện

thuận lợi để bọn tội phạm lợi dụng công nghệ thông tin thực hiện hoạt động

phạm tội. Việt Nam sẽ là một trong những địa bàn hoạt động của các tổ chức

tội phạm về tài chính, rửa tiền. Một số loại tội phạm sử dụng công nghệ cao sẽ

mở rộng phạm vi hoạt động trên nhiều lĩnh vực như làm giả hộ chiếu, sản

128

xuất và tiêu thụ các loại thẻ thanh toán giả, buôn bán thông tin thẻ tín dụng,

tài khoản ngân hàng, tấn công vào các trang web của các đối tác cạnh tranh,

trang web của chính phủ...

Các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia có xu hướng liên kết lợi ích với

nhau trong việc đối phó, chống trả với các cơ quan thực thi pháp luật. Trước

đây là các tổ chức tội phạm buôn bán ma túy, rửa tiền nay là các tổ chức tội

phạm mua bán phụ nữ trẻ em xuyên quốc gia sẽ thu hút các loại tội phạm

khác tham gia như các tổ chức buôn lậu quốc tế, tội phạm làm giấy tờ giả.

Bên cạnh đó, các nhóm tội phạm hoạt động ở các vùng biên giới sẽ lợi dụng

sự khác nhau về pháp luật, văn hóa để thực hiện hành vi phạm tội và dung

dưỡng các tội phạm truy nã quốc tế. Các đối tượng phạm tội ở nước ngoài sẽ

nghiên cứu kỹ về địa bàn một số nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam)

để cấu kết thực hiện các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia. Xu thế hình

thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia sẽ dựa trên cộng

đồng những người cùng quốc tịch đang làm ăn, sinh sống và du lịch tại Việt

Nam. Hơn nữa, nhiều tổ chức thực thi pháp luật quốc tế đã cảnh báo các nước

chưa mở rộng HTQT trong hoạt động TTTPHS, đặc biệt là dẫn độ tội phạm

sẽ là địa bàn an toàn của các đối tượng phạm tội bỏ trốn với hy vọng không bị

bắt giữ để dẫn độ...

Ngoài ra, tiếp tục hình thành, phát triển các tội phạm như: làm hàng giả

và tiền giả; xử lý chất thải độc hại và hoạt động phạm tội trên mạng internet,

tội phạm sử dụng công nghệ cao, sử dụng vũ khí hóa học, sinh học... Mặt

khác, hoạt động tống tiền trên mạng như quấy rối kinh doanh hoặc thay đổi

dữ liệu trên mạng để tống tiền; hoạt động vi phạm các luật về quyền sở hữu trí

tuệ, đặc biệt là các sản phẩm phần mềm như kinh doanh băng đĩa nhạc trên

mạng internet, đánh cắp phần mềm vi tính... cũng đang được các tổ chức tội

phạm quan tâm đến.

129

Phương thức, thủ đoạn hoạt động của các tổ chức tội phạm ngày càng

phức tạp, chuyển từ mối liên kết chặt chẽ sang cơ động khó có thể nhận thấy

sự phối hợp của chúng, lãnh địa hoạt động rộng nhằm đối phó với những mối

đe dọa chung. Xuất hiện xu hướng sáp nhập các băng nhóm, thành lập nhiều

tổ chức hội, nhánh, chân rết ở nước ngoài hoặc manh nha dạng mafia, hình

thành những tập đoàn tội phạm xuyên quốc gia, thao túng mọi mặt đời sống

xã hội. Bọn tội phạm xuyên quốc gia sẽ có quan hệ móc ngoặc gắn kết với các

quan chức nhà nước, các cán bộ, chiến sỹ trong các cơ quan chức năng như

công an, hải quan, quản lý thị trường... thông đồng với nhiều ngành, nhiều cấp

giữa các nước để thực hiện hành vi phạm tội và trốn tránh pháp luật.

Địa bàn hoạt động của tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm có yếu tố

nước ngoài liên quan đến Việt Nam tập trung chủ yếu ở các đô thị, các trung

tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của các nước, tập trung ở các thành phố

lớn, các trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, các tỉnh biên giới phía Bắc, biên

giới Tây Nam, các tuyến viễn dương, hàng không quốc tế, đường sắt, đường

quốc lộ, cửa khẩu Nội Bài, cửa khẩu Tân Sơn Nhất, vùng biển Quảng Ninh,

Hải Phòng và vùng biển Tây Nam. Riêng về ma tuý là các tuyến Tây Bắc - Hà

Nội, Lào - Nghệ An; các tuyến biên giới Việt Nam với: Lào, Campuchia,

Trung Quốc, tuyến hàng không; tuyến bưu điện quốc tế, trên các tuyến giao

thông huyết mạnh đường thủy, đường bộ, hàng không nối giữa các nước, các

khu vực. Đối với tội phạm ma túy sẽ vẫn tập trung ở các khu vực "Tam giác

vàng", "Lưỡi liềm vàng" sau đó vận chuyển đi các nước để tiêu thụ.

Đối tượng phạm tội: người nước ngoài phạm tội liên quan đến Việt

Nam sẽ tăng lên, không chỉ người các nước trong khu vực Đông Nam Á,

Châu Á - Thái Bình Dương mà nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Canada,

Châu Âu, Châu Phi... ở trong nước chủ yếu là bọn hoạt động có tổ chức,

chuyên nghiệp.

130

4.2. Các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về

tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra ở Việt Nam

trong phòng, chống tội phạm thời gian tới

4.2.1. Hoàn thiện pháp luật

Hoạt động HTQT nói chung và TTTPHS nói riêng chỉ có thể mang lại

hiệu quả khi có được cơ sở pháp lý đồng bộ, đầy đủ và khả thi. Do đó, cần

thiết tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Nhà nước ta đối với

HTQT phòng, chống tội phạm nói chung, HTQT về TTTPHS nói riêng, đặc

biệt là về pháp luật trên các lĩnh vực: xây dựng, ký kết, gia nhập các điều ước

quốc tế; hoàn thiện pháp luật trong nước; nghiên cứu luật học so sánh. Cụ thể:

Thứ nhất, tăng cường đàm phán ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế

về HTQT phòng, chống tội phạm nói chung, HTQT về TTTPHS nói riêng.

Thời kỳ trước đây, Nhà nước ta đã chú ý thiết lập cơ sở pháp lý với các

nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, các nước có mối quan hệ truyền thống

để tạo một cơ chế phối hợp hiệu quả trong hoạt động TTTP. Song đến nay,

thể chế nhà nước của các nước đó đã thay đổi với chế độ chính trị, xã hội và

thể chế, pháp luật khác. Chúng ta cần phải tiến hành việc sửa đổi, bổ sung

hoặc đàm phán, ký các điều ước mới với các nước đó mà Việt Nam vẫn còn

quan hệ ngoại giao, quan hệ tư pháp.

Hiện nay, số lượng các điều ước quốc tế đa phương, song phương liên

quan đến HTQT phòng, chống tội phạm, nhất là các Hiệp định TTTPHS mà

Việt Nam đã ký kết, gia nhập còn ít. VKSNDTC, BCA cần có kế hoạch dài

hạn về đàm phán, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về HTQT trong

phòng, chống tội phạm, về TTTPHS, trong đó lưu ý các vấn đề sau:

(1) Tăng cường đàm phán, ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế (đa

phương, song phương, khu vực) liên quan đến lĩnh vực HTQT phòng, chống

tội phạm.

131

(2) Chủ động thức đầy đàm phán, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế

về HTQT về TTTPHS, trọng tâm là với các nước đối tác chiến lược, đối tác

toàn diện, các nước láng giềng, các nước có quan hệ truyền thống, các nước

có đông người Việt Nam sinh sống, các nước có quan hệ hợp tác kinh tế - đầu

tư phát triển với nước ta.

(3) Nghiên cứu, đề xuất việc đàm phán sửa đổi các Hiệp định TTTP mà

Việt Nam đã ký trước những năm 2000 cho phù hợp với pháp luật và tình

hình hợp tác hiện nay (như Hiệp định song phương với các nước: Tiệp Khắc

ký ngày 10/12/1982, Hung-ga-ri ký ngày 18/01/1985, Ba Lan ký ngày

22/3/1993, Lào ký ngày 06/7/1998, Nga ký ngày 25/8/1998, Trung Hoa ký

ngày 19/10/1998). Trong đó, đối với các Hiệp định chung gồm nhiều lĩnh vực

(hình sự, dân sự, lao động, gia đình) cần phải tách ra thành hiệp định riêng

trong lĩnh vực TTTP hình sự. VD: Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia

đình và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Mông Cổ, ký ngày 17/4/2000;

Hiệp định TTTP và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình

sự giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà Belarus, ký ngày 14/9/2000;...

(4) Đối với các nước thành viên ASEAN: mặc dù đã có Hiệp định

TTTP hình sự chung, nhưng cần thiết đàm phán ký kết các Hiệp định song

phương với từng quốc gia để quy định cụ thể hơn các vấn đề hợp tác phù hợp

với pháp luật 2 bên (hiện đã có hiệp định song phương với Lào, Indonexia).

Thứ hai, cần thiết xây dựng Luật TTTPHS là một luật riêng:

Phạm vi điều chỉnh của Luật TTTP năm 2007 hiện chưa phù hợp: điều

chỉnh cả 04 lĩnh vực là TTTP về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người

đang chấp hành hình phạt tù, trong đó có những lĩnh vực có tính chất và trình

tự, thủ tục thực hiện rất khác nhau. Về định hướng lâu dài cần thiết xây dựng

các luật riêng điều chỉnh hoạt động TTTP trong từng lĩnh vực cụ thể trên

(hiện Bộ Tư pháp đang phối hợp với VKSNDTC, BCA xây dựng kế hoạch và

132

hồ sơ đề nghị báo cáo Chính phủ đề án xây dựng Luật TTTP thành 4 luật

chuyên ngành).

Đối với xây dựng Luật TTTPHS cần theo một số định hướng sau:

(1) Luật TTTPHS cần đảm bảo một số yêu cầu: thể chế hóa toàn diện,

sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp

và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp; Kế thừa những ưu điểm, khắc phục

những hạn chế của pháp luật hiện hành và thực tiễn hoạt động TTTPHS; Bảo

đảm sự tương thích giữa pháp luật TTTP về hình sự với các văn bản quy

phạm pháp luật trong nước có liên quan và các điều ước quốc tế về TTTPHS

mà Việt Nam là thành viên.

(2) Xây dựng Luật TTTPHS bên cạnh việc kế thừa những ưu điểm,

những quy định phù hợp, còn giá trị thực tiễn của Luật TTTP năm 2007, cần

thiết xây dựng, bổ sung một quy định sau:

+ Bổ sung quy định giá trị pháp lý của kết quả thực hiện TTTPHS cho

phù hợp với quy định của Bộ luật TTHS năm 2015.

+ Bổ sung, quy định đầy đủ, toàn diện phạm vi TTTP về hình sự bao

gồm các hoạt động tương trợ trong việc áp dụng biện pháp truy tìm, thu giữ,

phong tỏa, kê biên, tịch thu, trả lại tài sản do phạm tội mà có và công cụ,

phương tiện phạm tội; cho phép người tiến hành tố tụng của Bên yêu cầu

được tham gia một số hoạt động trong quá trình thực hiện tương trợ tư pháp

tại Bên được yêu cầu; tổ chức cho người của Bên được yêu cầu đến Bên yêu

cầu để hỗ trợ điều tra hoặc cung cấp chứng cứ; liên kết điều tra, phối hợp điều

tra... và quy định trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tương trợ.

+ Bổ sung quy định thủ tục “đóng” yêu cầu TTTP trong trường hợp

thời gian thực hiện đã lâu; quy định gửi hồ sơ ủy thác dưới hình thức điện tử;

quy định cơ chế đặc thù trong tiếp nhận, giải quyết yêu cầu TTTP giữa cơ

quan tiến hành tố tụng ở địa phương giáp biên giới 2 nước.

133

+ Xem xét sửa đổi, bổ sung căn cứ từ chối tương trợ theo hướng phân

biệt giữa những trường hợp “bắt buộc” phải từ chối và “có thể” từ chối. Bổ

sung quy định về thực hiện cam kết có đi có lại, cam kết không áp dụng hình

phạt tử hình trong hoạt động HTQT về TTTPHS.

+ Bổ sung quy định cho phép sử dụng các phương tiện kỹ thuật trong việc

gửi, tiếp nhận hồ sơ ủy thác tư pháp và thực hiện một số hoạt động TTTPHS.

+ Quy định thẩm quyền tiếp nhận yêu cầu của nước ngoài về việc truy

cứu trách nhiệm hình sự công dân Việt Nam tại Việt Nam của cơ quan tiến

hành tố tụng nơi đối tượng đang ở thực tế.

+ Quy định về chi phí thực hiện TTTP cho phù hợp với thông lệ quốc

tế và quy định của các Hiệp định TTTP về hình sự mà Việt Nam đã ký với

các nước theo hướng: nước được yêu cầu phải chịu mọi chi phí thực hiện yêu

cầu tương trợ (hiện quy định do nước yêu cầu chi trả) trừ một số chi phí nhất

định mang tính đặc thù như: Chi phí liên quan đến việc ăn, ở, đi lại của người

cần có mặt tại lãnh thổ nước yêu cầu theo yêu cầu tương trợ; chi phí liên quan

đến việc chuyên chở nhân viên dẫn giải hoặc hộ tống; chi phí trưng cầu giám

định; chi phí liên quan đến việc phiên dịch, biên dịch tài liệu và thu thập

chứng cứ qua cầu truyền hình hoặc các phương tiện kỹ thuật khác từ nước

được yêu cầu đến nước yêu cầu; chi phí bất thường phát sinh trong quá trình

thực hiện yêu cầu tương trợ khi nước được yêu cầu đề nghị.

Thứ ba, xây dựng mới và sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật, văn

bản hướng dẫn nghiệp vụ hướng dẫn thực hiện hoạt động TTTPHS.

Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết hoặc liên ngành Bộ

Công an, Bộ Tư pháp, TANDTC, VKSNDTC ban hành Thông tư liên tịch

hướng dẫn chi tiết thi hành quy định về TTTPHS trong Luật TTTP năm 2007

và các quy định về hợp tác quốc tế tại phần thứ tám của BLTTHS năm 2015

về nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ phối hợp và trình tự, thủ tục của các cơ

134

quan tiến hành tố tụng trong thực hiện hoạt động TTTPHS, nhất là việc quy

định thủ tục thực hiện yêu cầu tương trợ liên quan đến bắt, khám xét, thu giữ

tài sản... theo lệnh, quyết định của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài; hướng

dẫn thực hiện khoản 6 điều 17 Luật TTTP về “Các yêu cầu TTTP khác về

hình sự” trong quy định phạm vi TTTPHS.

Việc Việt Nam quy định thời hạn thực hiện yêu cầu TTTP của nước

ngoài hay đề nghị phía nước ngoài về thời hạn giải quyết các yêu cầu TTTP

của Việt Nam là rất khó vì bản chất hoạt động TTTP là sự hỗ trợ nhau, và phụ

thuộc vào mức độ phức tạp của yêu cầu. Tuy nhiên, cần thiết có cơ chế giàng

buộc hoặc thúc đẩy trách nhiệm của bên thực hiện yêu cầu TTTP rút ngắn

thời gian thực hiện vì liên quan đến thời hạn điều tra vụ án theo luật định.

Thứ tư, tăng cường công tác nghiên cứu Luật học so sánh

Cần thiết tăng cường đầu tư nghiên cứu Luật học so sánh đối với lĩnh

vực pháp luật phòng, chống tội phạm, nhất là pháp luật TTHS giữa Việt Nam

với các quốc gia. Chú trọng nghiên cứu pháp luật của các quốc gia có thể chế

chính trị, kinh tế xã hội tương đồng với Việt Nam và văn minh; các quốc gia

có mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội với Việt Nam; các quốc gia

ta đã ký kết hoặc sẽ ký kết các điều ước quốc tế... Việc nghiên cứu này giúp ta

nắm được các điểm tương đồng, khác biệt, các ưu điểm, hạn chế, khuynh

hướng phát triển,... của các hệ thống pháp luật. Từ đó có ý nghĩa quan trọng

cho việc xây dựng pháp luật trong nước, đàm phán, ký kết và gia nhập các

điều ước quốc tế và thực tiễn thực hiện hoạt động HTQT.

4.2.2. Nâng cao năng lực cán bộ của Cơ quan Cảnh sát điều tra

trong thực hiện hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự

Con người là nhân tố quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã

hội. Nhà nước ta đã có “Chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

135

Cộng sản Việt Nam đã đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm 2016 – 2020,

trong đó “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội;

tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng

lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”, Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016 (tr 434).

BCA đã xác định rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ trong thời kỳ

mới, nhất là việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp trước yêu cầu

cải cách tư pháp, yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm trong

bối cảnh hội nhập quốc tế. Do đó, việc tập trung củng cố, xây dựng đội ngũ

cán bộ thực hiện nhiệm vụ HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT cả về mặt

lượng và chất được đặt ra như là một nhiệm vụ quan trọng, lâu dài và thường

xuyên. Trong đó, tập trung các vấn đề sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trình độ về HTQT về TTTPHS cho các

cấp lãnh đạo và cán bộ thực thi nhiệm vụ trong lĩnh vực công tác này

Tiếp tục quán triệt, phổ biến và bồi dưỡng nâng cao kiến thức về luật

pháp quốc tế, pháp luật trong nước có liên quan, kiến thức nghiệp vụ và các

kiến thức cần thiết khác (ngoại ngữ, tin học, đối ngoại,...) về lĩnh vực hợp tác

quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm, HTQT về TTTPHS đối với đội ngũ

lãnh đạo, cán bộ thực thi nhiệm vụ HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT.

Tăng cường công tác nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện hệ thống lý luận

về hoạt động HTQT về TTTPHS. Cần đẩy mạnh công tác sơ kết, tổng kết

thực tiễn, hội thảo khoa học và tổ chức nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa

học trong các trường CAND, các đơn vị có chức năng thực hiện hoạt động

HTQT về TTTPHS hoặc các đơn vị chuyên trách được phân công đảm nhận

về nhiệm vụ khoa học. Trong đó chú trọng tập trung đặt hàng hoặc giao

nhiệm vụ nghiên cứu cho các trường, các cơ quan có nhiệm vụ nghiên cứu

khoa học đó chỉ đạo hoặc phân công các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh

136

nghiên cứu chuyên sâu một cách toàn diện hoặc về các vấn đề có liên quan

đến hoạt động HTQT về TTTPHS ở cấp độ Tiến sĩ hoặc Đề tài khoa học cấp

Bộ trở lên để kịp thời ứng dụng đáp ứng với yêu cầu giảng dạy, tập huấn và

hoạt động thực tiễn đã và đang đặt ra đối với công tác này trong thời gian tới.

Thứ hai, đào tạo cán bộ thực thi nhiệm vụ:

Xây dựng kế hoạch tuyển lựa, đào tạo, đào tạo lại, tổ chức các lớp bồi

dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ chuyên sâu về hoạt động HTQT về TTTPHS và

HTQT trong tố tụng hình sự cho lực lượng thực thi nhiệm vụ điều tra tội

phạm có yếu tố nước ngoài. Đề nghị, các trường CAND cần chú trọng hơn

nữa, đưa nội dung lĩnh vực này vào trong chương trình giảng dạy các hệ học

thuộc chuyên ngành điều tra tội phạm với thời lượng giảng dạy phù hợp, đảm

bảo (hiện nay, nội dung này đã được đề cập giảng dạy nhưng mới ở mức độ

nhận thức chung, những vấn đề cơ bản). Đồng thời, đào tạo tay nghề sử dụng

các phương tiện kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ tốt yêu cầu công tác thực tiễn

khi được giao nhiệm vụ.

Trong đào tạo cán bộ, cần quan tâm đến việc phối hợp với nước ngoài

mở các lớp tập huấn, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm đấu tranh chống tội

phạm, nhất là tội phạm phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao, tội phạm

rửa tiền, buôn lậu... và vấn đề hợp tác trong thu hồi tài sản. Đối tượng đào tạo

cần chú ý đến cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ liên quan đến hoạt động

HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT BCA nói riêng và của Công an một

số thành phố lớn (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng...), Công an một số

địa phương có đường biên giới đường bộ chung với nước ngoài có hoạt động

tội phạm phức tạp (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, Nghệ An,...).

Để thực hiện được yêu cầu này, Cục Đào tạo - BCA cần xây dựng kế

hoạch cụ thể và phối hợp với các cơ sở đào tạo, Học viện, trường Đại học

thuộc BCA chủ động về cơ sở vật chất, nhân lực phục vụ cho việc đào tạo.

137

Đồng thời phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ thuộc Cơ quan CSĐT BCA,

Công an các địa phương để tiến hành rà soát lại đội ngũ cán bộ cần phải đào

tạo và đào tạo lại. Qua đó, đề xuất lãnh đạo Bộ việc tuyển chọn, đào tạo cán

bộ đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu nhiệm vụ mà thực tiễn đang đặt ra.

Thứ ba, bổ sung cán bộ đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Các đơn vị thuộc Cơ quan CSĐT cần chủ động rà soát lại thực trạng

đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện hoạt động điều tra tội phạm, hoạt động

HTQT về TTTPHS, để đánh giá chất lượng cán bộ, khả năng đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ, từ đó có kế hoạch đề xuất cấp có thẩm quyền bổ sung cán bộ phù

hợp, trong đó tập trung bổ sung điều tra viên có năng lực, kinh nghiệm, cán

bộ có trình độ ngoại ngữ. Đồng thời cử cán bộ đi đào tạo, và chủ động tự đào

tạo cán bộ tại chỗ để nâng cao chất lượng cán bộ.

Đối với Phòng Tương trợ tư pháp về hình sự và hợp tác quốc tế trong tố

tụng hình sự thuộc Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an: cần bổ

sung điều tra viên, cán bộ có năng lực, kinh nghiệm về công tác điều tra, am

hiểu pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước liên quan đến hợp tác quốc tế

về TTTP hình sự, bổ sung cán bộ thông thạo ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ trong tình hình mới.

3.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động hợp tác

quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra

Để nâng cao hiệu quả hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan

CSĐT cần đồng thời thực hiện nhiều giải pháp. Bên cạnh các giải pháp về

hoàn thiện pháp luật, xây dựng đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng giải quyết

các yêu cầu TTTPHS, tăng cường mối quan hệ phối hợp với các đơn vị, tăng

cường hợp tác quốc tế, thì giải pháp về tăng cường cơ sở vật chất là điều kiện

cần có để đảm bảo hoạt động này được thực hiện tốt.

138

Đề xuất Chính phủ, lãnh đạo BCA cần tiếp tục quan tâm phê duyệt kinh

phí để triển khai thực hiện các dự án tăng cường năng lực cho Cơ quan CSĐT

các cấp trong điều tra các loại án hình sự, kinh tế, ma túy, công nghệ cao...

phục vụ phòng ngừa và điều tra tội phạm, trong đó có hoạt động TTTP về

hình sự. Đối với các đơn vị thuộc Cơ quan CSĐT BCA cần tập trung trang bị

như những thiết bị mang tính công nghệ cao, máy móc hiện đại: camera đêm,

máy ảnh hồng ngoại, ghi âm, thiết bị thu thập dữ liệu nhanh từ máy tính, thiết

bị hỗ trợ phục hồi dữ liệu điện tử, vũ khí, công cụ hỗ trợ, các thiết bị nghiệp

vụ khác.... Đối với Cơ quan CSĐT các cấp, nhất là cấp huyện cần tập trung

trang bị đủ các máy móc, thiết bị cơ bản: thiết bị máy văn phòng (máy vi tính,

máy photo, máy in, máy fax...), công cụ hỗ trợ, thiết bị ghi âm ghi hình...

Đối với Vụ HTQT – VKSNDTC là Cơ quan trung ương thì ngoài việc

củng cố, xây dựng cơ chế hợp tác, đồng thời chú trọng trang bị các ứng dụng

công nghệ thông tin hiện đại trong việc nhận, chuyển giao, theo dõi, quản lý

các yêu cầu TTTPHS như: phần mềm quản lý, thư điện tử, fax,... kèm theo hệ

thống thiết bị tiên tiến, bảo mật.

Về lâu dài, cần xây dựng, bố trí hệ thống đầu mối truyền hình trực

tuyến kết nối giữa các quốc gia để phục vụ hoạt động hỏi cung, lấy lời khai

trực tuyến, hay tham dự các phiên tòa trực tuyến,... để giảm thiểu thủ tục, chi

phí, rút ngắn thời gian thực hiện, đảm bảo an toàn nhân chứng, nâng cao hiệu

quả, tính khả thi của các hoạt động này phục vụ kịp thời yêu cầu công tác đấu

tranh chống tội phạm xuyên quốc gia hiện nay.

Cần thường xuyên tăng cường hợp tác với các cơ quan, tổ chức chức

năng nước ngoài để tranh thủ sự hỗ trợ máy móc, phương tiện hiện đại,

chuyển giao công nghệ,... của nước ngoài để trang bị cho các cơ quan phòng,

chống tội phạm trong nước, nhất là lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ

điều tra tố tụng.

139

Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế huy động

nguồn vốn tài trợ qua việc xây dựng và triển khai thực hiện các dự án hợp tác

quốc tế về phòng, chống tội phạm; tăng cường hợp tác phòng, chống tội phạm

trong khuôn khổ ASEAN; sử dụng có hiệu quả mạng thông tin về tội phạm

của Cảnh sát các nước thành viên ASEAN cũng như của Tổ chức Cảnh sát

hình sự quốc tế Interpol… từ đó nâng cao hiệu quả công tác HTQT trong tố

tụng hình sự.

4.2.4. Khắc phục những hạn chế, nâng cao chất lượng trong thực

hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp

Thực tiễn thực hiện HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT cho thấy

vẫn còn những hạn chế về quy trình, thủ tục, lập hồ sơ và trình tự giải quyết...

đã ảnh hưởng đến chất lượng của công tác này, ảnh hưởng đến hoạt động điều

tra, giải quyết vụ án. Bản chất hoạt động TTTPHS là hoạt động tố tụng hình

sự, liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm của tổ chức,

cá nhân, pháp nhân nên hơn hết cần tuân thủ pháp luật, đảm bảo thực hiện

đúng quy định, đảm bảo hiệu quả. Mỗi cán bộ thuộc Cơ quan CSĐT khi đảm

nhận nhiệm vụ này cần có nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của

nhiệm vụ, có nhận thức đầy đủ về các quy định của pháp luật và của ngành

Công an về thực thi nhiệm vụ để làm kim chỉ nam cho hành động. Quá trình

thực hiện nhiệm vụ này, cán bộ, điều tra viên của Cơ quan CSĐT cần khắc

phục những hạn chế trên, trong đó lưu ý:

Thứ nhất, đối với việc lập hồ sơ TTTP đề nghị nước ngoài thực hiện:

Thực tế điều tra giải quyết các vụ án hình sự có đối tượng, bị can, bị

cáo, bị hại là người nước ngoài hoặc ở nước ngoài, có tài sản, phương tiện ở

nước ngoài, hoặc hành vi phạm tội thực hiện ở nước ngoài... thường phát sinh

yêu cầu nước ngoài hỗ trợ thực hiện TTTPHS. Khi đó, để đảm bảo hiệu quả

và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các yêu cầu TTTP về hình sự, trong quá trình

140

giải quyết các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài, Cơ quan CSĐT cần lưu ý

các vấn đề sau:

(1) Nếu xét thấy vụ án cần ủy thác tư pháp thì đề nghị sớm lập hồ sơ ủy

thác gửi đến VKSNDTC (Vụ Hợp tác quốc tế và TTTP hình sự). Quá trình

lập hồ sơ có thể tham vấn Văn phòng Cơ quan CSĐT BCA hoặc Vụ Hợp tác

quốc tế và TTTP hình sự - VKSNDTC để được hướng dẫn trực tiếp về tính

hợp lệ của hồ sơ để tránh phải lập hồ sơ nhiều lần.

(2) Quy trình lập hồ sơ tiến hành theo quy định của Luật TTTP (Điều

18, Điều 19) và Hướng dẫn số 2576/C44-P6 ngày 20/9/2013 của Văn phòng

Cơ quan CSĐT BCA hướng dẫn thực hiện các vụ việc TTTP về hình sự.

(3) Hồ sơ cần ghi rõ thời hạn mong muốn nhận được kết quả ủy thác

(Luật TTTP và các điều ước không quy định thời hạn giải quyết).

(4) Nội dung yêu cầu phải cụ thể, rõ ràng, mạch lạc, có căn cứ pháp

luật, thể hiện được tính cần thiết của yêu cầu tương trợ; thông tin về cá nhân,

tổ chức, địa chỉ... trong yêu cầu phải chính xác để đảm bảo tính khả thi. Bản

dịch cần chính xác, đúng thuật ngữ.

Thứ hai, đối với việc tiếp nhận, giải quyết yêu cầu yêu cầu TTTP về

hình sự của nước ngoài:

Trong các điều ước quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam không quy

định thời hạn thực hiện yêu cầu TTTPHS, chỉ nêu thời hạn mong muốn nhận

kết quả vì thực chất hoạt động này là sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các

quốc gia. Tuy nhiên để thể hiện thiện trí, trách nhiệm với nước ngoài và quốc

tế trong phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm, Cơ quan CSĐT khi tiếp

nhận giải quyết yêu cầu TTTPHS của nước ngoài cần thực hiện khẩn trương,

tốt nhất là trong thời hạn do phía nước ngoài đề nghị, và đảm bảo các nội

dung yêu cầu phù hợp với pháp luật trong nước và điều ước mà Việt Nam đã

gia nhập. Trường hợp có vướng mắc hay cần làm rõ thông tin, bổ sung tài liệu

141

thì đơn vị thực hiện cần nhanh chóng trao đổi với phía nước ngoài thông qua

Vụ Hợp tác quốc tế và TTTPHS - VKSNDTC để phối hợp giải quyết kịp thời.

Theo nguyên tắc có đi có lại, việc Cơ quan CSĐT tích cực thực hiện

nhanh, đầy đủ các yêu cầu của nước ngoài cũng là điều kiện để phía nước

ngoài thực hiện yêu cầu yêu cầu TTTPHS của ta khi có phát sinh. Những kết

quả này là cốt lõi, là căn bản xây dựng mối quan hệ hợp tác bền vững, lâu dài

giữa các quốc gia trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

4.2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan Cảnh sát

điều tra với các đơn vị chức năng trong thực hiện hợp tác quốc tế về tương

trợ tư pháp về hình sự

Vốn dĩ hoạt động điều tra, giải quyết vụ án hình sự của Cơ quan CSĐT

bao hàm nhiều nội dung, yêu cầu phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, hoạt

động trong xã hội nên cần thiết có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan, đơn

vị, tổ chức, cá nhân trên từng lĩnh vực, nhiệm vụ cụ thể. Hoạt động HTQT về

TTTPHS hơn hết cần có sự góp sức của các đơn vị có liên quan vì bản chất

của hoạt động “hợp tác” là sự phối hợp, giúp đỡ, liên kết với nhau. Thời gian

tới, Cơ quan CSĐT cần chú ý tăng cường mối quan hệ phối hợp với các đơn

vị chức năng, cụ thể:

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với Cơ quan trung

ương Việt Nam đối với hoạt động HTQT về TTTPHS (trực tiếp là Vụ Hợp tác

quốc tế và TTTP hình sự - VKSNDTC): Trước mắt, sửa đổi, bổ sung Quy chế

về quan hệ phối hợp giữa Vụ Hợp tác quốc tế - VKSNDTC và Văn phòng Cơ

quan CSĐT BCA trong thực hiện yêu cầu TTTP về hình sự (ký ngày

11/10/2011) để phù hợp với các quy định mới của pháp luật (Bộ luật tố tụng

hình sự có hiệu lực từ 1/1/2018 với nhiều điều khoản mới quy định về HTQT

trong tố tụng hình sự) và thực tiễn thi hành. Thường xuyên trao đổi thông tin

về tình hình, tiến độ, kết quả thực hiện cũng như những vướng mắc về pháp

142

luật, điều ước, về cơ chế cũng như trong thực tiễn thực thiện yêu cầu TTTP đề

có kiến nghị tháo gỡ kịp thời. Thời xuyên phối hợp, thông qua Vụ Hợp tác

quốc tế và TTTP hình sự - VKSNDTC là kênh trao đổi chính thức, trực tiếp

để thúc đẩy phía nước ngoài đẩy nhanh tiến độ giải quyết yêu cầu TTTP hoặc

kịp thời bổ sung thông tin, tài liệu liên quan.

Thứ hai, tăng cường phối hợp với các đơn vị trong ngành Công an: Đối

với các đơn vị thường xuyên phối hợp thì xem xét những vẫn đề còn vướng

mắc cần tháo gỡ, xác định tính cần thiết thì có thể xây dựng quy chế phối hợp

công tác. Phối hợp với Văn phòng Interpol Việt Nam trong việc trao đổi

thông tin về tội phạm xuyên quốc gia, đây cũng là một kênh để đề nghị xác

minh thông tin ở nước ngoài một cách nhanh chóng nhằm bổ trợ cho việc

thực hiện các yêu cầu TTTPHS. Phối hợp với các đơn vị: Cục An ninh nội

địa, Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Cục Hồ sơ nghiệp vụ... để thường xuyên tra

cứu các thông tin về các đối tượng phạm tội, đối tượng truy nã, đối tượng có

liên quan phục vụ hoạt động HTQT về TTTPHS. Trong nhiều yêu cầu TTTP

do phía ngoài đề nghị, thông tin về đối tượng, sự việc chưa được đầy đủ, rõ

ràng, do đó Cơ quan CSĐT cần thiết xác minh, tra cứu thêm thông qua các

đơn vị nêu trên nhằm xác định đúng đối tượng, sự việc để thực hiện các nội

dung yêu cầu TTTP. Trong yêu cầu TTTP, đối tượng là các cá nhân, tổ chức ở

các địa phương thì việc phối hợp với Công an địa phương là rất cần thiết như:

ủy thác cho Công an địa phương giải quyết toàn bộ hoặc một phần yêu cầu

TTTP; phối hợp với Công an địa phương trong hoạt động xác minh điều tra...

Thứ ba, tăng cường phối hợp liên ngành: Trong giải quyết các yêu cầu

TTTP cụ thể, có những yêu cầu liên quan đến lĩnh vực công tác hay liên quan

đến cá nhân, đơn vị của của các bộ, ngành, tổ chức... cần thiết có sự phối hợp,

giải quyết của các đơn vị đó. Hoặc có những yêu cầu TTTP phức tạp, những

vấn đề mà pháp luật chưa quy định rõ, vấn đề liên quan đến chính sách đối

143

ngoại,... cần thiết có sự tham gia giải quyết, thậm chí cần tổ chức các cuộc

họp của liên ngành: Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ Ngoại giao, và các bộ, ngành,

tổ chức... có liên quan để cùng bàn bạc, thống nhất đường lối giải quyết.

4.2.6. Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế

Ngoài việc thúc đẩy đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế (đã nêu ở

mục 4.2.1), cần thiết đẩy mạnh các hoạt động HTQT trong TTHS như:

Thứ nhất, tích cực và chủ động trong các diễn đàn hợp tác khu vực, như

diễn đàn thường niên về Hội nghị quan chức cao cấp các nước ASEAN theo

tinh thần Hiệp định TTTPHS giữa các quốc gia ASEAN, đảm bảo Hiệp định

này đều được các quốc gia ASEAN phê chuẩn và được thực thi trong thực

tiễn, coi đó là công cụ pháp lý quan trọng trong hợp tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm ở phạm vi khu vực.

Thứ hai, tiếp tục củng cố, tăng cường phối hợp chung trong hoạt động

phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố

nước ngoài, hợp tác TTTPHS với tổ chức Interpol, Aseanpol... với các cơ

quan phòng chống tội phạm của các nước láng giềng (Trung Quốc, Lào và

Campuchia) và khu vực ASEAN, với các nước đã có quan hệ truyền thống và

Cảnh sát các nước đang có đông công dân Việt Nam hoặc công dân của họ

sinh sống trên lãnh thổ của nhau. Chú ý quan tâm hơn đến các nước mà ta

chưa ký kết hiệp định song phương về TTTPHS.

Thứ ba, BCA cần tổ chức sơ kết, tổng kết kinh nghiệm của mô hình

hợp tác đảm bảo ANTT được ký kết và thực hiện giữa địa phương các tỉnh

biên giới của Việt Nam với các quốc gia láng giềng trong thời gian qua. Qua

đó tập trung chỉ đạo Công an các địa phương giáp biên giới Trung Quốc, Lào,

Campuchia thiết lập các đường dây nóng để kịp thời chia sẻ thông tin và tăng

cường quan hệ phối hợp phòng, chống tội phạm ở địa bàn giáp ranh biên giới.

Trường hợp cần thiết có thể thiết lập tổ, đội, nhóm điều tra chung giữa 2 bên

144

để điều tra tội phạm xuyên quốc gia liên quan đến 2 nước, hoặc để điều tra vụ

án cụ thể. Thời gian tới, cần thiết xây dựng cơ chế phối hợp trong đấu tranh

phòng chống tội phạm giữa Công an 2 tỉnh biên giới giáp ranh của Việt Nam

và của Trung Quốc, Lào, Campuchia để đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời,

hiệu quả trước yêu cầu nhiệm vụ hiện nay.

Thứ tư, tăng cường thiết lập, củng cố và từng bước phát triển Cơ quan

đại diện của Bộ Công an, Văn phòng Sỹ quan liên lạc Cảnh sát Việt Nam với

các nước, Văn phòng liên lạc qua biên giới (BLO). Hiện nay, ở Việt Nam đã

có Sỹ quan liên lạc của Cảnh sát Cộng hòa liên bang Đức, Australia, Cộng

hòa Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ. Bộ Công an Việt Nam có Cơ quan

đại diện tại các nước: Nga, Trung Quốc, Campuchia, Lào và lực lượng Cảnh

sát Việt Nam đã có Sỹ quan liên lạc tại Đức. Qua hoạt động của mạng lưới

này giúp Cơ quan CSĐT kịp thời nắm tình hình, phát hiện, phòng ngừa, ngăn

chặn tội phạm và phối hợp đấu tranh triệt phá các tổ chức tội phạm xuyên

quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài.

Cần xây dựng mạng lưới Cơ quan đại diện, Sỹ quan liên lạc Cảnh sát ở

một số quốc gia thường xuyên có quan hệ hợp tác phòng, chống tội phạm với

Việt Nam. Qua đó, nắm bắt thông tin về tình hình tội phạm có tính quốc tế

được nhanh chóng, kịp thời và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế đấu tranh

phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cao, cũng như việc thúc đẩy hoạt động

TTTP về hình sự. Do đó, việc tiếp tục duy trì và phát triển hệ thống mạng lưới

Cơ quan đại diện, Sỹ quan liên lạc của Cảnh sát Việt Nam tại các nước có vai

trò và ý nghĩa quan trọng.

Từ năm 1999 đến nay, thông qua các dự án, các biên bản hợp tác song

phương, Việt Nam đã thành lập và đưa vào hoạt động 20 BLO tại 13 tỉnh biên

giới gồm: An Giang, Tây Ninh, Kiên Giang, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An,

Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng.

145

Đây là kênh trao đổi thông tin quan trọng, hỗ trợ tích cực và hiệu quả hợp tác

đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy qua biên giới; thúc đẩy hợp tác giữa

các lực lượng các nước ngày càng gắn bó, phát triển. Thời gian tới, cần thiết

lập thêm các BLO; cần tăng cường phối hợp giữa các BLO và các lực lượng

chức năng; tăng cường công tác liên lạc, kiểm tra các tuyến biên giới giữa

đường bộ và cảng biển, tích cực thu thập giữ liệu; đồng thời nâng cao hơn

nữa hiệu quả chia sẻ thông tin giữa các BLO góp phần hỗ trợ công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm và ma túy ở khu vực biên giới; mở rộng phạm vi

phối hợp giữa các BLO sang phòng chống các loại tội phạm khác như: môi

trường, mua bán người, đưa người di cư trái phép qua biên giới...

Thứ năm, tăng cường các biện pháp thúc đẩy hoạt động HTQT về

TTTPHS của Cơ quan điều tra trong CAND nói chung, Cơ quan CSĐT nói

riêng. Tăng cường các nội dung HTQT về TTTPHS quy định tại Điều 17 Luật

TTTP. Gắn kết hoạt động TTTPHS với hoạt động dẫn độ tội phạm. Kết quả

của công tác này có góp phần trực tiếp vào hiệu quả các vụ án đang điều tra,

đồng thời có vai trò hỗ trợ tích cực hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng,

chống tội phạm.

146

Kết luận Chương 4

Chương 4 của Luận án đã tập trung nghiên cứu, đưa ra các dự báo về

tình hình và kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả HTQT về TTTPHS

của Cơ quan CSĐT trong phòng, chống tội phạm ở Việt Nam thời gian tới.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật đối

với HTQT về TTTPHS; phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng hoạt động

HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT trong 12 năm qua, làm rõ những kết

quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế, Luận án đã đề ra 6

nhóm giải pháp để Cơ quan CSĐT có thể áp dụng vào thực tiễn hoạt động

HTQT về TTTPHS trong phòng chống tội phạm:

Nhóm giải pháp thứ nhất: hoàn thiện pháp luật. Tăng cường đàm phán,

ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế song phương, đa phương; xây dựng, ban

hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước điều chỉnh hoạt động này.

Nhóm giải pháp thứ hai: nâng cao năng lực cán bộ của Cơ quan CSĐT

ở các khía cạnh: nâng cao nhận thức, trình độ, đào tạo cán bộ, bổ sung cán bộ.

Nhóm giải pháp thứ ba: tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt

động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT.

Nhóm giải pháp thứ tư: khắc phục những hạn chế, nâng cao chất lượng

trong thực hiện việc lập hồ sơ TTTPHS đề nghị nước ngoài thực hiện và việc

tiếp nhận, giải quyết yêu cầu của nước ngoài.

Nhóm giải pháp thứ năm: tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Cơ

quan CSĐT với các đơn vị chức năng trong thực hiện HTQT về TTTPHS.

Nhóm giải pháp thứ sáu: đẩy mạnh các hoạt động HTQT ở các nội

dung: tích cực tham gia các diễn đàn hợp tác khu vực; hợp tác với các tổ chức

Interpol, Aseanpol; hợp tác giữa các địa phương giáp biên giới; củng cố cơ

quan đại diện ở nước ngoài, Văn phòng sỹ quan liên lạc, BLO.

147

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, HTQT về TTTPHS trở thành

xu hướng và là yêu cầu tất yếu của mỗi quốc gia. Cơ quan CSĐT ở Việt Nam

thực hiện hoạt động này như là một nội dung, biện pháp phòng, chống tội

phạm. Sau 12 năm thi hành Luật TTTP, hoạt động HTQT về TTTPHS đã có

những bước chuyển tích cực và đạt những kết quả nhất định, đảm bảo yêu cầu

của pháp luật, chính trị, đối ngoại, phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm. Bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn, hạn chế đã tác động,

ảnh hưởng đến hiệu quả HTQT về TTTPHS. Nghiên cứu về hoạt động này,

Luận án đã đạt được các kết quả sau:

Thứ nhất, Luận án đã đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về lĩnh

vực HTQT phòng, chống tội phạm và HTQT về TTTPHS. Tập trung thống

kê, phân tích, tổng hợp hệ thống các công trình nghiên cứu ngoài nước và

trong nước mà Nghiên cứu sinh tiếp cận được. Trong đó, đi sâu phân tích một

số công trình nghiên cứu về các nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu của

Luận án. Hệ thống các công trình nghiên cứu này cơ bản đã phản ánh được xu

hướng nghiên cứu về HTQT về TTTPHS trong thời gian qua, những kết quả

nghiên cứu đó đã đóng góp cho kho tàng tri thức lý luận và thực tiễn về lĩnh

vực HTQT về TTTPHS. Từ đó Luận án đánh giá những vấn đề đã được

nghiên cứu, những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, luận giải.

Thứ hai, Luận án đã luận giải làm sâu sắc thêm một số vấn đề lý luận,

nhận thức cơ bản về HTQT phòng chống tội phạm nói chung, HTQT về

TTTPHS của Cơ quan CSĐT nói riêng. Trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo

quan điểm của các nhà khoa học và phân tích bản chất, nội hàm của hoạt động

này, Luận án đã đưa ra khái niệm HTQT phòng, chống tội phạm, khái niệm

HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT. Đồng thời Luận án phân tích, luận

giải về đặc điểm, nguyên tắc, nội dung, mục đích của HTQT phòng, chống tội

148

phạm; về chủ thể, nguyên tắc, nội dung, nhiệm vụ, kênh thực hiện, thủ tục áp

dụng... HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT.

Thứ ba, Luận án đã phân tích, tổng hợp và đánh giá đầy đủ về tình hình

tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài trên thế giới nói

chung, ở Việt Nam nói riêng. Đồng thời đã đánh giá thực trạng quy định của

pháp luật HTQT về TTTPHS ở cả khía cạnh gia nhập, ký kết các điều ước

quốc tế và khía cạnh xây dựng, ban hành pháp luật trong nước, đánh giá tác

dụng hiệu quả của pháp luật đối với HTQT về TTTPHS. Luận án đã có đóng

góp mới trong việc phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng hoạt động HTQT

về TTTPHS của Cơ quan CSĐT trong 12 năm qua. Trên cơ sở phân tích thực

trạng, Luận án đã tổng hợp và đưa ra được những nhận xét, đánh giá về ưu

điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế của thực trạng pháp luật và thực

trạng hoạt động HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT.

Thứ tư, Luận án đã nhận định, đưa ra dự báo có cơ sở khoa học về

những yếu tố thuận lợi và khó khăn tác động đến hoạt động HTQT về

TTTPHS. Cùng với việc đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn

chế và nguyên nhân của hoạt động này, Luận án đã đề ra 6 nhóm giải pháp để

Cơ quan CSĐT có thể áp dụng vào thực tiễn hoạt động HTQT về TTTPHS

trong phòng, chống tội phạm về: hoàn thiện pháp luật; nâng cao năng lực cán

bộ; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động HTQT về TTTPHS của

Cơ quan CSĐT; khắc phục những tồn tại và nâng cao chất lượng trong thực

hiện TTTPHS; tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan CSĐT với các

đơn vị chức năng; đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế.

HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT là một nội dung quan trọng

trong công tác phòng, chống tội phạm hiện nay. Hy vọng, với kết quả nghiên

cứu và những giải pháp, kiến nghị mà tác giả đưa ra sẽ có tính khả thi, nhằm

góp phần nâng cao hiệu quả HTQT về TTTPHS của Cơ quan CSĐT. Bên

149

cạnh đó thời gian nghiên cứu có hạn; chính vì vậy, kết quả nghiên cứu không

tránh khỏi thiếu sót, nên tác giả mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến

quý báu của các nhà khoa học và của đồng nghiệp để tiếp thu, chỉnh sửa Luận

án được hoàn thiện hơn. Đồng thời đây là vấn đề mang tính thời sự, vấn đề

mở, những ai quan tâm đến vấn đề này có thể tiếp tục đầu tư hơn nữa để làm

sáng tỏ thêm những vấn đề mà tác giả chưa làm rõ và xây dựng thêm các giải

pháp, kiến nghị để cùng góp phần nâng cao hiệu quả HTQT về TTTPHS của

Cơ quan CSĐT một cách hiệu quả hơn.

Xin trân trọng cám ơn!

150

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Lại Thị Huệ, Vai trò của cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam trong

thực hiện Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình sự giữa các nước

ASEAN, Tạp chí Kiểm sát, số 19/2018, phát hành ngày 05/10/2018, tr

59-63.

2. Lại Thị Huệ, Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn thi hành Luật tương trợ

tư pháp năm 2007 của Cơ quan điều tra, Tạp chí Kiểm sát, số 21/2018,

phát hành ngày 05/11/2018 tr 18-23,34.

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TRONG NƯỚC

1. GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (2009), Tương trợ tư pháp về hình sự - Những

vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CAND, Hà Nội.

2. GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (2013), Sổ tay công tác tương trợ tư pháp về

hình sự.

3. GS.TS Nguyễn Ngọc Anh, “Hoàn thiện chế định hợp tác quốc tế trong tố

tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Trang điện tử Trường Đại

học Kiểm sát Hà Nội.

4. Ngô Quỳnh Anh, “Giới thiệu khái quát về tương trợ tư pháp về hình sự

của Ô-xtrây-lia”, Trang điện tử Trường Đại học kiểm sát Hà Nội

5. Bộ Công an (2001), Chỉ thị số 10/2001/CT-BCA (V12) ngày 20-8-2001

của Bộ trưởng Bộ Công an về tăng cường hợp tác quốc tế của lực lượng

Công an nhân dân trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Hà Nội.

6. Bộ Công an (2002), Báo cáo tổng kết giai đoạn 1 thực hiện Đề án 3,

Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, Hà Nội.

7. Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa CAND Việt Nam.

8. Bộ Công an (2010), Một số văn bản điều ước quốc tế giữa Việt Nam và

nước ngoài về hợp tác phòng, chống tội phạm, Hà Nội.

9. Bộ Công an (2017), Báo cáo tổng kết 10 năm triển khai thi hành Luật

tương trợ tư pháp năm 2007 và thực hiện dẫn độ, chuyển giao người bị kết án

phạt tù, tương trợ tư pháp về hình sự.

10. Bộ Tài chính (2012), Thông tư số 144/2012/TT-BTC ngày 04/9/2012 quy

định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho

công tác tương trợ tư pháp.

152

11. Bộ Tổng trưởng lý Australia, Bộ Tư pháp Việt Nam (2010), Cẩm nang

hướng dẫn Luật tương trợ tư pháp, nxb Bộ Tư pháp

12. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị định

92/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật tương trợ tư pháp về chế độ báo cáo, thông báo hoạt động

tương trợ tư pháp.

13. Cục Đối ngoại – Bộ Công an, “Interpol - những điều cần biết”, Nxb

CAND, 2017.

14. Bùi Anh Dũng (2005), Hợp tác quốc tế của lực lượng Cảnh sát nhân dân

Việt Nam với Cảnh sát nước ngoài trong đấu tranh phòng, chống tội phạm,

luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

15. Đại học Luật Hà Nội (2008), giáo trình Luật TTHS Việt Nam, NXB Tư

pháp, Hà Nội

16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia

17. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị quốc gia

18. Chử Văn Dũng (2010), Hoạt động Interpol trong thực hiện tương trợ tư

pháp hình sự và dẫn độ tội phạm ở Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội.

19. Trần Phương Đạt (2000), Hoạt động của Công an nhân dân trong phòng

ngừa tội phạm do người nước ngoài gây ra ở Việt Nam, luận án tiến sĩ luật

học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

20. Nguyễn Đình Đường, “Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội

phạm”, Báo Nhân dân điện tử, 12/8/2005

21. Học viện Cảnh sát nhân dân, giáo trình “Hợp tác quốc tế trong phòng,

chống tội phạm” (2014), nxb CAND

22. Học viện Cảnh sát nhân dân, giáo trình “Tội phạm học Việt Nam”, nxb CAND

153

23. Nguyễn Khắc Hải, “Hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống mua

bán người tại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà

Nội, tập 29, số 1 (2013)

24. Nguyễn Phong Hòa- Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát (2015),

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế phòng chống tội

phạm của lực lượng CSND trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài

khoa học cấp Bộ trọng điểm.

25. Hoàng Thị Thúy Hòa, 2013, "Hoàn thiện pháp luật về TTTP về hình sự ở

Việt Nam", Luận văn Thạc sỹ Luật học; Học viện Chính trị - Hành chính quốc

gia Hồ Chí Minh.

26. Phạm Hỗ (2003), Tội phạm xuyên quốc gia liên quan đến Việt Nam –

Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

27. Lại Thị Huệ (2016), bài báo Nâng cao hiệu quả hoạt động tương trợ tư

pháp về hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an trong quá trình

hội nhập quốc tế, Tạp chí Cảnh sát 10/2016

28. Lại Thị Huệ (2017), luận văn Thạc sĩ, Nâng cao hiệu quả hoạt động

tương trợ tư pháp về hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an

trong quá trình hội nhập quốc tế

29. Nguyễn Huy Hùng (2011), luận văn Thạc sĩ, Hoạt động tương trợ tư pháp

hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an

30. Nguyễn Hương, “Nâng cao hiệu quả công tác tương trợ tư pháp về hình

sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù”, Trang điện tử Công an nhân

dân, 18/12/2017

31. Việt Hưng, “Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên

quốc gia”, báo CAND, 23/8/2015.

154

32. Đặng Xuân Khang, “Hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm giữa

Việt Nam và Ấn Độ trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Trang điện tử Ho Chi

Minh national academy of politics, 23/12/2016.

33. Nguyễn Thành Long (2015), Phòng, chống tội phạm trên tuyến biên giới

Tây Nam Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học

xã hội.

34. Nguyễn Thị Mai Nga, “Hợp tác quốc tế phòng, chống ma túy và tình hình

phòng, chống tội phạm ma túy ở một số quốc gia”, Tạp chí Kiểm sát, số 11/2006

35. Nguyễn Thị Nga, “Hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tội phạm và vi phạm

pháp luật về môi trường biển”, Trang điện tử Cảnh sát nhân dân, 23/4/2017

36. Phạm Quý Ngọ, “Công tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia trong

tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, 2010

37. Nguyễn Xuân Quyển, 2016, “Tương trợ tư pháp về hình sự trong phòng,

chống tội phạm của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an”, Luận văn Thạc

sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

38. Nxb Chính trị quốc gia (2001), Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý ký

kết giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nước, Hà Nội.

39. Nxb Chính trị quốc gia (2003), Các điều ước quốc tế về chống khủng bố,

Hà Nội.

40. Nxb Đà Nẵng (2007), Từ điển Tiếng Việt

41. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 2003.

42. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật phòng,

chống tham nhũng năm 2005

43. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật tương

trợ tư pháp năm 2007

155

44. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật phòng

chống rửa tiền năm 2012

45. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

46. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật phòng,

chống khủng bố năm 2013

47. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 2015

48. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật điều

ước quốc tế năm 2016

49. Lê Quang Thành, (2016), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt

tài sản do người nước ngoài thực hiện ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,

Học viện Khoa học xã hội.

50. Nguyễn Văn Thắng, “Một số vấn đề về tương trợ tư pháp trong trao đối

thông tin lý lịch tư pháp trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Trang điện tử Bộ Tư

pháp, 06/5/2017.

51. Tổng cục Cảnh sát (1999), Dẫn độ tội phạm và tương trợ tư pháp hình sự

trong phòng, chống tội phạm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội

52. Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm (2011), Tương trợ tư pháp và

hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm của lực lượng CSND trong quá

trình hội nhập quốc tế, nxb CAND

53. Tổng cục Cảnh sát (2016), Hệ thống báo cáo tổng kết công tác năm về

phòng, chống tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn xã hội

54. Nguyễn Mai Trâm, (2017), Phòng, chống tội phạm mua bán người tại

Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

55. Từ điển Bách khoa CAND Việt Nam (2005) - Nxb CAND, Hà Nội.

156

56. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự

năm 2004, Hà Nội

57. Trần Hữu Ứng (1997), Vấn đề tội phạm có tổ chức trong cộng đồng người

Việt Nam ở Cộng hoà Liên bang Đức, Tạp chí trật tự an toàn xã hội số 4, tr 14-16

58. Trần Hữu Ứng (1997), Ý tưởng về mạng lưới sỹ quan liên lạc của Cảnh sát

Việt Nam trong tương lai, Tạp chí Trật tự an toàn xã hội, số 8-9, tr 47-50.

59. Trần Hữu Ứng (1997), Về phòng, chống tội phạm do người Việt Nam gây

ra ở Cộng hoà Liên bang Đức, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 3, Tr 24-26.

60. Trần Hữu Ứng (1998), Hợp tác quốc tế đấu tranh chống tội phạm, một

yêu cầu bức xúc, Tạp chí Cộng sản, số 4

61. Trần Hữu Ứng (1998), Vài suy nghĩ về hợp tác quốc tế đấu tranh chống

tội phạm có tổ chức do người Việt Nam thực hiện ở nước ngoài, Tạp chí Luật

học, số 12, Tr 30-34

62. Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Báo cáo tổng kết các

năm: 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018

63. Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (2013), Hướng dẫn số

2576/C44-P6 ngày 20/9/2013 hướng dẫn thực hiện các vụ việc tương trợ tư

pháp về hình sự

64. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cáo, Bộ Công an, Bộ

Tư pháp, Bộ Ngoại giao (2013), Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT ngày

16/8/2013 hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao hồ sơ, vật chứng của vụ án

để yêu cầu nước ngoài tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự

65. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Hướng dẫn số 943/VKSTC-HTQT

ngày 05/4/2012 về thông báo và tiếp xúc lãnh sự

66. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Hướng dẫn số 1918/VKSTC-

HTQT ngày 15/6/2012 về yêu cầu ban hành quyết định pháp lý cuối cùng

157

trong việc giải quyết các vụ án do phía nước ngoài chuyển giao truy cứu

trách nhiệm hình sự

67. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Hướng dẫn số 19/HD-VKSTC-

HTQT ngày 24/7/2012 về thực hiện Điều 4 Hiệp định tương trợ tư pháp về

các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Lào.

68. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Chương trình đối tác tư pháp (2015), Sổ

tay công tác tương trợ tư pháp hình sự, nxb Lao động.

69. CHXHCN Việt Nam, CHXHCN Tiệp Khắc (1982), Hiệp định tương trợ

tư pháp và pháp lý về dân sự và hình sự

70. CHXHCN Việt Nam, Cộng hoà Cuba (1984), Hiệp định tương trợ tư

pháp về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự

71. CHXHCN Việt Nam, Cộng hoà Bulgaria (1986), Hiệp định tương trợ tư

pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự

72. CHXHCN Việt Nam, Cộng hoà Ba Lan (1993), Hiệp định tương trợ tư

pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự

73. CHXHCN Việt Nam, CHDCND Lào (1998), Hiệp định tương trợ tư pháp

về dân sự và hình sự

74. CHXHCN Việt Nam, Liên bang Nga (1998), Hiệp định tương trợ tư pháp

và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự

75. CHXHCN Việt Nam, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (1998), Hiệp định

tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự

76. CHXHCN Việt Nam, Ukraina (2000), Hiệp định tương trợ tư pháp và

pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự

77. CHXHCN Việt Nam, Mông Cổ (2000), Hiệp định tương trợ tư pháp về

các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự

78. CHXHCN Việt Nam, Cộng hoà Belarus (2000), Hiệp định tương trợ tư

pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự

158

79. CHXHCN Việt Nam, CHCDND Triều Tiên (2002), Hiệp định tương trợ

tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự

80. CHXHCN Việt Nam, Đại Hàn Dân Quốc (2005), Hiệp định tương trợ tư

pháp về hình sự

81. CHXHCN Việt Nam, Cộng hòa Ấn Độ (2007), Hiệp định tương trợ tư

pháp về hình sự

82. CHXHCN Việt Nam, Liên hợp Vương quốc Anh và Bắc Ai Len (2009),

Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự

83. CHXHCN Việt Nam, Cộng hòa An-giê-ri (2010), Hiệp định tương trợ tư

pháp về hình sự

84. CHXHCN Việt Nam, Indonesia (2013), Hiệp định tương trợ tư pháp về

hình sự

85. CHXHCN Việt Nam, Ô-xtơ-rây-li-a (2014), Hiệp định tương trợ tư pháp

về hình sự

86. CHXHCN Việt Nam, Vương quốc Tây Ban Nha (2015), Hiệp định tương

trợ tư pháp về hình sự

87. CHXHCN Việt Nam, Hung-ga-ri (2016), Hiệp định tương trợ tư pháp về

hình sự

88. Vụ Hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp hình sự - Viện kiểm sát nhân dân

tối cao, Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (2012), Quy chế về

quan hệ phối hợp giữa 2 đơn vị trong thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp về

hình sự (ký ngày 11/10/2011).

89. Vụ Hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp hình sự - Viện kiểm sát nhân dân

tối cao, Báo cáo tổng kết các năm: 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014,

2015, 2016, 2017, 2018, 2019

90. Vụ Pháp luật quốc tế - Bộ Tư pháp (2006), sách Pháp luật tương trợ tư

pháp quốc tế, nxb Tư pháp

159

91. Vụ Hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp hình sự - VKSNDTC, “Kết quả

thực hiện chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạt động tư

pháp”, Trang điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 01/8/2013

92. Phan Vũ, “Hướng dẫn công tác hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp hình

sự năm 2017”, Trang điện tử Kiemsat, 06/2/2017.

93. Nguyễn Xuân Yêm (1994), Tội phạm quốc tế - những bàn tay bạch tuộc,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Dẫn độ tội phạm, tương trợ tư pháp về hình

sự và chuyển giao phạm nhân, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm (2013), Khoa học hình sự Việt nam, tập 3,

Chiến thuật hình sự, nxb CAND

TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI

96. Liên hợp quốc (1961), Công ước thống nhất về các chất ma túy; Nghị

định thư 1972 sửa đổi Công ước này

97. Gail Kent (2015), Bài viết “The mutual legal assistance problem explained”

(Giải thích những vấn đề tồn tại của hoạt động tương trợ tư pháp), nguồn trang

web của Trung tâm về Xã hội và Internet Hoa Kỳ ngày 23/02/2015.

98. Jorg Friedrichs (2008), Sách: “Fighting Terrorism and Drugs - Europe

and International Police cooperation” (Đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố

và ma túy - Sự hợp tác của Cảnh sát quốc tế và châu Âu), NXB Routledge,

Vương quốc Anh

99. Liên hợp quốc (1970), Hiến chương Liên hợp quốc được Đại hội đồng

Liên hợp quốc thông qua ngày 24-10-1970.

100. Liên hợp quốc (1970), Tuyên bố của Liên hợp quốc về những nguyên

tắc cơ bản của công pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ hợp tác và hữu nghị

giữa các quốc gia.

160

101. Liên hợp quốc (1970), Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp

pháp tàu bay,

102. Liên hợp quốc (1971), Công ước về trừng trị những hành vi bất hợp

pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng

103. Liên hợp quốc (1971), Công ước quốc tế về các chất hướng thần

104. Liên hợp quốc (1973), Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các tội

phạm chống lại những người được hưởng sự bảo hộ quốc tế, trong đó có các

viên chức ngoại giao

105. Liên hợp quốc (1979), Công ước về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân

106. Liên hợp quốc (1988), Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp

pháp chống lại an toàn giao thông hàng hải

107. Liên hợp quốc (1988), Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các

chất ma túy và các chất hướng thần

108. Liên hợp quốc (1999), Công ước quốc tế về trừng trị việc tài trợ cho

khủng bố

109. Liên hợp quốc (2000), Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên

quốc gia.

110. Liên hợp quốc (2000), Nghị định thư về ngăn ngừa, loại trừ và trừng

phạt buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em

111. Liên hợp quốc (2003), Công ước chống tham nhũng

112. Leila Nadya Sadat và Michael P. Schart (2008), Sách: “The theory

and practice of international criminal law” (Lý luận và thực tiễn về pháp

luật hình sự quốc tế), NXB Martinus Nijhoff, Hoa Kỳ

113. Matti Joutsen, Trưởng phòng Đối ngoại Bộ Tư pháp Phần Lan, Bài viết:

“International cooperation against transnational organized crime: Extradition

and mutual legal assistance in criminal matters” (Hợp tác quốc tế chống lại tội

phạm có tổ chức xuyên quốc gia: Dẫn độ và tương trợ tư pháp về hình sự)

161

114. Shalini S thuộc Trung tâm quản lý Viễn thông Ấn Độ, Nhóm nghiên

cứu loạt bài viết CCG (năm 2015 – 2016), Bài viết “Evaluating mlats in the

era of online criminal conduct” (Đánh giá các hiệp định tương trợ tư pháp

trong kỷ nguyên tội phạm mạng)

115. Tổ chức ASEAN (2004), Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự hình

sự giữa các quốc gia là thành viên ASEAN

116. Tổ chức ASEAN (2007), Công ước về chống khủng bố

117. Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (1957), Điều lệ và quy định chung

của Interpol.

118. Tổ chức UNODC (2007), Model Law on Mutual Assistance in

Criminal Matters (Luật mẫu về tương trợ tư pháp về hình sự)

119. Tổ chức UNODC (2009), Manual on International Cooperation in

Criminal Matters related to Terrorism (Sổ tay về Hợp tác quốc tế trong giải

quyết các vấn đề hình sự liên quan đến khủng bố)

120. Tổ chức UNODC (2012), Manual on Mutual Legal Assistance and

Extradition (Sổ tay về Tương trợ tư pháp và dẫn độ )

121. Tổ chức UNODC, Counter - Terrorism Legal Training Curriculum:

Module 3: International Cooperation in Criminal Matters (Chương trình đào

tạo pháp lý về chống khủng bố. Bài giảng số 3: Hợp tác quốc tế trong các vấn

đề hình sự)

162

Phụ lục 1: Danh mục điều ước quốc tế đa phương liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự mà Việt Nam là thành viên

STT Tên điều ước quốc tế Bảo lưu

Ngày hiệu lực đối với Việt Nam

17/9/1979 Khoản 1 Điều 12 về giải quyết bất đồng 1 Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay năm 1970

17/9/1979

2 Công ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng năm 1971

24/9//1999

3 Nghị định thư về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế năm 1988, bổ sung Công ước Mông-trê-an năm 1971 về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng

8/1/1980 Khoản 1 Điều 24 về giải quyết bất đồng 4 Công ước về các tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay năm 1963

5

4/11/1997 Công ước thống nhất về các chất ma tuý năm 1961 điểm b khoản 2 Điều 36 về dân độ; khoản 2 Điều 48 về giải quyết các bất đồng

6

4/11/1997 Công ước về các chất hướng thần năm 1971 điểm b khoản 2 Điều 22 về dân độ; khoản 2 Điều 31 về giải quyết các bất đồng

4/11/1997

7 Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma tuý, chất hướng thần năm 1988 Điều 6 về dẫn độ; khoản 2, khoản 3 Điều 32 về giải quyết các bất đồng

20/12/2001

Ngày 26/3/2009, Việt Nam tuyên bố bỏ bảo lưu đối với Điều 5 về dẫn độ 8 Nghị định thư bổ sung Công ước về quyền trẻ em về cấm mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và phim ảnh khiêu dâm trẻ em năm 2000

9 Công ước về ngăn ngừa và trừng trị 2/5/2002 Điều 13 về giải quyết bất

163

đồng

các tội phạm chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao năm 1973 10 Công ước về trừng trị việc tài trợ 25/9/2002 cho khủng bố năm 1999

10/10//2002 Khoản 1 Điều 16 về giải quyết bất đồng 11 Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải năm 1988

10/10/200 2

12 Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn của những công trình cố định trên thềm lục địa năm 1988, bổ sung Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải năm 1988

20/9/2005

13 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia ASEAN năm 2004

14

18/9/2009 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003

Khoản 2 điều 66 về giải quyết tranh chấp, Điều 20 về tội làm giàu bất hợp pháp, Điều 26 về trách nhiệm hình sự của pháp nhân, Điều 44 về dẫn độ

15 Công ước ASEAN về chống khủng 28/5/2011 bố năm 2007

16

8/6/2012

Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000

Khoản 2 Điều 35 về thủ tục giải quyết tranh chấp; Điều 10 về trách nhiệm hình sự của pháp nhân ; điều 16 về cơ sở pháp lý về dẫn độ

03/11/2012

17 Công ước về bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân năm 1980 (Sửa đổi năm 2005) Khoản 2 Điều 17 về giải quyết tranh chấp Điều 11 về dẫn độ

18 Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối 07/3/2015 Khoản 1 Điều 20 về thẩm quyền của Ủy ban chống

164

tra tấn; khoản 1 Điều 30 về giải quyết tranh chấp và Điều 4 về dẫn độ xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người

19

8/2/2014 Công ước quốc tế về chống bắt con tin năm 1979 Khoản 1 Điều 16 về giải quyết tranh chấp, Điều 10 về dẫn độ

20

8/2/2014 Công ước quốc tế về chống khủng bố bằng bom năm 1997 Khoản 1 Điều 20 về giải quyết tranh chấp, Điều 9 về dẫn độ

04/9/2006

21 Hiệp định hợp tác khu vực về chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền tại châu Á

08/03/2017

22 Công ước ASEAN về chống mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em

165

Phụ lục 2: Danh mục Hiệp định song phương về TTTP hình sự mà Việt Nam đã ký kết với các nước:

1. Hiệp định đã ký, đang có hiệu lực: 21

1. Hiệp định TTTP và pháp lý về dân sự và hình sự giữa CHXHCN

Việt Nam và CHXHCN Tiệp Khắc ký ngày 10/12/1982. Hiện nay hai nước

Cộng hoà Séc và Slovakia kế thừa Hiệp định này.

2. Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự

giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà Cuba ký ngày 30/11/1984.

3. Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa

CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà Bulgaria, ký ngày 03/10/1986.

4. Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa

CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà Ba Lan ký ngày 22/3/1993.

5. Hiệp định TTTP về dân sự và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và

CHDCND Lào, ký ngày 06/7/1998.

6. Hiệp định TTTP và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa

CHXHCN Việt Nam và Liên Bang Nga, ký ngày 25/8/1998.

7. Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự và hình sự giữa CHXHCN

Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, ký ngày 19/10/1998.

8. Hiệp định TTTP và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa

CHXHCN Việt Nam và Ukraina, ký ngày 06/4/2000.

9. Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa

CHXHCN Việt Nam và Mông Cổ, ký ngày 17/4/2000.

10. Hiệp định TTTP và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động

và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà Belarus ký ngày

14/9/2000.

166

11. Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và CHCDND Triều Tiên về

TTTP và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự, ký ngày 03/5/2002.

12. Hiệp định TTTP về hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Đại Hàn

Dân Quốc, ký ngày 15/9/2005.

13. Hiệp định TTTP về hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hòa

Ấn Độ năm 2007.

14. Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Liên hợp Vương quốc Anh

và Bắc Ai Len về TTTP về hình sự năm 2009.

15. Hiệp định TTTP về hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hòa

An-giê-ri dân chủ và nhân dân năm 2010.

16. Hiệp định TTTP về hình sự giữa CHXHCN Việt Nam với

Indonesia năm 2013.

17. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với Ô-

xtơ-rây-li-a ký 7/2014.

18. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với Tây

Ban Nha (ký 18/9/2015)

19. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với

Hung-ga-ri (ký 16/3/2016).

20. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với

Cộng hòa Ca-dắc-xtan (ký 29/4/2016).

21. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với CH

Pháp (ký ngày 06/9/2016, hiệu lực từ 20/5/2020).

2. Hiệp định đã ký, chờ phê chuẩn, chờ có hiệu lực: 4

1. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với Vương

quốc Căm-pu-chia (ký chính thức 12/2016) đã phê chuẩn, chờ có hiệu lực.

2. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với

CHDCND Lào (ký tháng 1/2020), chờ phê chuẩn.

167

3. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với Cộng

hòa Mô-dăm-bích (ký tháng 12/1018), chờ phê chuẩn.

4. Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với Cu-ba

(ký 2018), chờ phê chuẩn.

* Ngoài ra, Việt Nam đang đàm phán, chờ ký chức thức các Hiệp định sau:

- Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với Nam

Phi, đàm phán 11/2012

- Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với Cộng

hòa U-dơ-bê-ki-xtan, đàm phán vòng 1 vào 6/2017.

- Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với Cộng

hòa Séc, đàm phán vòng 1, vòng 2.

- Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với I-ta-li-a

- Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa CHXHCNVN với Nhật

Bản, đàm phán vòng 1, 2, 3.

168

Phụ lục 3: Phân tích theo nội dung yêu cầu TTTP do Cơ quan CSĐT Bộ Công an yêu cầu / tiếp nhận thực hiện

(từ 1/7/2008 đến 31/12/2019)

STT Nội dung yêu cầu

1 Hoạt động tống đạt các loại giấy tờ, hồ sơ, tài liệu có Tỷ lệ so với Tổng số 18%

liên quan

2 Hoạt động triệu tập người làm chứng, người giám 12%

định

3 Hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ phục vụ công 40%

tác điều tra, giải quyết vụ án hình sự 4 Hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự 5 Hoạt động trao đổi thông tin có liên quan đến điều tra 5%

9%

25%

vụ án hình sự - Hợp tác trao đổi đề nghị cung cấp bản gốc, bản sao có xác nhận của các loại tài liệu, hồ sơ có liên quan đến hoạt động điều tra - Hợp tác tương trợ trong việc trao đổi cung cấp các thông tin có liên quan đến hoạt động lấy lời khai nhân chứng, đối tượng nghi vấn…

6 Hợp tác thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp khác 16%

về hình sự

(Nguồn: Vụ HTQT và TTTPHS - VKSNDTC)

169