HÙNG VĨ KỲ QUAN THẾ GIỚI CỔ ĐẠI

Vườn treo Babylone

Từ cách đây 4500 năm cho đến 2280 năm, ở ven bờ đông Địa Trung Hải, người

xưa đã làm được bảy công trình kiến trúc mỹ thuật to lớn, hùng vĩ và tráng lệ

không kém những cảnh quan mà thiên nhiên ban tặng. Hơn thế còn đóng vai trò hết

sức quan trọng trong đời sống văn hóa, chính trị và tôn giáo của loài người suốt

nhiều thế kỷ. Đó là kim tự tháp Giza, vườn treo Babylon, đền thờ nữ thần Artemis

(Ephesus), tượng thần Dớt (Olympia), lăng mộ Mausolus (Halicarnasus), tượng

thần mặt trời (Rhodes) và ngọn đèn biển Alexandria ngay từ buổi đầu đã được

nhiều đế chế thán phục, vinh danh là bảy kỳ quan tuyệt mỹ của thế giới. Trải bao

năm tháng, chiến tranh, thiên tai và biến động xã hội, trong bảy kỳ quan đến nay

chỉ còn kim tự tháp Giza tồn tại. Tuy nhiên, qua các lần khảo cổ, khoa học đã tìm

thấy nhiều dấu tích cho thấy các kỳ quan khác cũng có thật - ngoại trừ vườn treo

Babylon, và các di chỉ đang được bảo tồn, tôn tạo trở thành địa điểm du lịch nổi

tiếng.

“Con người sợ thời gian, thời gian lại sợ kim tự tháp” (Thành ngữ Arab). Trong

bảy kỳ quan thế giới cổ đại, kim tự tháp Giza ra đời sớm nhất, cũng tồn tại lâu

nhất. Kỳ quan này có tên thực là kim tự tháp Khufu hay Cheops, nằm trong quần

thể ba đại kim tự tháp cùng nhiều tháp vệ tinh nhỏ mà nó là trung tâm cao và lớn

nhất tọa lạc tại thành phố Giza, kế cận với Cairo, thủ đô Ai Cập. Theo tiếng Hy

Lạp, từ kim tự tháp xuất phát từ chữi pyr nghĩa là ngọn lửa hoặc pyra - dàn hỏa

táng, ý chỉ một ngôi mộ và chữ middos - sự đo đạc, do vậy là một ngôi mộ hết sức

to lớn.

Kim tự tháp Giza

Người Ai Cập xưa vốn có truyền thống xây kim tự tháp làm nơi an nghỉ cho vua

(pharaoh) - người được toàn dân tôn xưng là thánh thần. Kim tự tháp Giza được

dựng cho pharaoh Khufu thuộc triều đại thứ tư cách đây 4560 năm và do hàng triệu

nghệ nhân và nô lệ xây đắp suốt 20 năm. Công trình gồm 2,3 triệu phiến đá, mỗi

tảng nặng từ hai đến 30 tấn, chắp thành hình tháp nhọn, bốn mặt. Từ đế tới đỉnh

cao 145,75 mét, nặng khoảng sáu triệu tấn, bên ngoài trát vữa láng bóng song qua

hàng trăm năm vữa đã bong ra để lộ các hàng gạch đỏ au. Mỗi cạnh kim tự tháp

đều chỉ một hướng như hướng chính bắc, chính nam, chính đông hoặc chính tây,

trong đó cửa vào bên trong chỉ hướng bắc. Sau cánh cửa này là một mê cung rất

phức tạp với nhiều hành lang, lãm phòng trưng bày các bảo vật cùng châu ngọc

trước khi đến nơi đặt quách của nhà vua nằm ở trung tâm và chỉ có một lối vào duy

nhất. Cái quách được bảo vệ bởi những bức tường cao bằng đá đỏ kín mít đến nỗi

một con muỗi cũng không bay lọt, và được tin có các cơ quan bí mật khi bị động sẽ

phóng ra những luồng khí độc, tên, lửa giết chết kẻ xâm nhập. Với niềm tin linh

hồn có thể trở về thân xác khiến người chết sống lại sau khi đã sang bên kia thế

giới tiếp diện thần thánh, người xưa đã đặt quách của nhà vua sao cho từ trên đỉnh

tháp ánh sáng thiên thần có thể dẫn đường và bảo vệ ngài.

Ngoài vẻ đẹp uy nghi, lộng lẫy kim tự tháp Giza cùng nhiều kim tự tháp nói chung

của Ai Cập, ẩn chứa khá nhiều điều huyền bí. Đầu tiên là tuổi thọ vĩnh hằng, cho

phép nó là một công trình tồn tại lâu nhất trái đất. Thứ nữa là bề mặt có thể phản

chiếu ánh nắng, ánh trăng giúp tàu thuyền dễ dàng đi lại trên sông Nile cách đó

hàng chục kilômét. Và đặc biệt, đến giờ người ta vẫn chưa phát hiện ra một xác

ướp nào trong kim tự tháp, dường như các quách ở đây chỉ mang tính biểu tượng

về quyền năng hay một vị thế thần thánh tối cao; các xác ướp được tìm thấy đều ở

các ngôi mộ trong thung lũng các vị vua.

Đứng thứ hai trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại là vườn treo Babylon cách đây

2600 năm. Theo ghi chép của thầy tu Babylon Berossus và sau này của sử gia Hy

Lạp Herodotus 2450 năm trước và nhà địa lý Strabo 2100 năm trước thì ở bờ đông

của sông Euphrates, nam thành Baghdad, mà nay là tỉnh Babil, Iraq, có một vị vua

hùng mạnh tên là Nebuchadnezzar II (605- 562 TCN) trị vì vương quốc Babylon.

Trong thời đại của ông, đất nước rất thịnh vượng với những tòa thành kiên cố, bao

quanh là những tường rào dài 90 kilômét, cao 100 mét, dày 24 mét. Cùng nhiều

đền thờ, cung điện nguy nga và đẹp kỳ diệu là khu vườn treo Babylon vượt cao

trên mọi công trình mà từ xa bên sông Euphrates du thuyền có thể ngắm nhìn mọi

góc. Vào năm 605 TCN, Nebuchadnezzar II thay phụ vương Hammurabi lên lãnh

đạo đất nước. Cảm mến hoàng tử trẻ, vua Medes đã gả con gái yêu là công chúa

Amyitis cho chàng và lập nên một liên minh thắm thiết. Khi sống ở Babylon, mặc

dù được chiều chuộng, hoàng hậu Amyitis thường xuyên không vui, khuôn mặt

buồn bã. Thì ra, nàng nhớ quê hương- Nơi có những quả núi trùng điệp, bốn mùa

xanh tươi, chim ca ríu rít, muông thú nô dỡn. Ở đây đất đai phẳng lỳ, khô cằn, trời

nắng như lửa, vì khí hậu không thuận cơ thể nàng ngày thêm suy kiệt. Để hoàng

hậu khuây khỏa, vui vẻ trở lại, nhà vua đã cho xây một khu vườn hoàng gia giống

hệt cảnh quê Amyitis, dưới dạng những ngọn đồi cao lô xô, rậm rạp. Vì thế có cái

tên vườn treo hay thượng uyển; từ treo không có nghĩa là treo bằng dây mà là sự

vắt vẻo trên lan can hoặc các tầng mái cung điện.

Đền Dớt ở Olympia

Vườn treo Babylon hiện lên như một tòa tháp khổng lồ, với những mái vòm và

chống đỡ ở dưới là các hàng cột đá hoặc gạch nung gối đầu trên bệ tượng. Ở mỗi

tầng chia nhiều ô đất trồng vô số cây và nuôi nhốt hàng chục loài động vật quý

hiếm. Do thời tiết ít mưa, nô lệ được lệnh đào mương dẫn nước từ sông Euphrates

cách thành cả ngày đường về tưới cho vườn. Đầu tiên, họ làm một hồ to dưới chân

tháp chứa nước, sau đó dùng hai bánh xe lớn liên kết bằng dây xích gắn các thùng

gỗ múc nước từ dưới hồ kéo lên đổ vào các mương chạy quanh co cho chảy từ cao

xuống thấp tưới mát các tầng cây. Vào thế kỷ 2 TCN, khi quân đội Hy Lạp chiếm

đóng Babylon, họ vô cùng kinh ngạc trước phong cảnh trữ tình, diễm lệ, không khí

mát dịu, thơm ngát và có tiếng suối chảy như nhạc, mặc dù ngoài kia nắng cháy.

Vườn treo Babylon khoe sắc trong suốt 500 năm thì bị nhấn chìm bởi một trận

động đất. Đến nay, sau mọi cố gắng khảo cổ quanh thành Baghdad, khoa học vẫn

chưa tìm thấy một dấu vết nào, dẫu là một viên gạch có hình ảnh của khu vườn.

Đẹp và quy mô không kém trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại là đền thờ nữ thần săn

bắn Artemis - nữ thần Diana- nữ thần thịnh vượng thế kỷ 7 TCN của thành phố Hy

Lạp Ephesus, nay là Thổ Nhĩ Kỳ. Vốn chỉ là một ngôi miếu nhỏ cất giữ một tảng

đá thiêng là thiên thạch từ sao Mộc rơi xuống, theo thời gian ngôi đền lớn dần và

cũng nhiều lần bị tàn phá rồi được cư dân vùng sông nước Ephesus trùng tu. Đáng

kể vào năm 600 TCN, khi Ephesus trở thành trung tâm thương mại lớn ở Hy Lạp,

chính quyền đã xây dựng một đại điện lớn hơn trên nền đền cổ và do kiến trúc sư

Chersiphron thiết kế với tầng mái đồ sộ và nhiều hàng cột đá. Tuy nhiên, công

trình chỉ "sống" được 50 năm thì bị đạp đổ trong cuộc chiến xâm lược Ephesus của

vua Croesus xứ Lydia. Nhà vua muốn chứng tỏ mình là người sùng đạo đối với

những cư dân mà ông mới chinh phục nên đã cho dựng một cái khác to gấp bốn

lần, và cử kiến trúc sư Theodorus - một nghệ nhân kỳ tài đã có công dựng nhiều

công trình vĩ đại của Hy Lạp xây dựng đền mới từ hàng trăm khối đá. Cuối cùng,

ngôi đền được hoàn thành dài 115 mét, rộng 55 mét, cao 20 mét gồm 127 cột đá

hoa cương trắng. Bên trong đặt nhiều tượng nữ thần bằng ngà, vàng, ngọc...

Đền Artemis là niềm tự hào của Ephesus cho đến năm 356 TCN thì bị một kẻ

cuồng tín thiêu rụi. Điều kỳ lạ, đúng đêm đó Alexander Đại Đế cũng chào đời. Sử

gia Plutarch sau này đã viết, do nữ thần bận rộn với việc chăm sóc Alexander bé

bỏng đã không thể quay về bảo vệ ngôi đền. Alexander Đại đế sau này chinh phục

Ephesus, đã cho sửa lại đền. Khi sửa đến mái, tự nhiên một rầm đá rớt xuống, nặng

quá không ai có thể nhấc nó về chỗ cũ. Đêm đó, nữ thần hiện ra báo mộng bà sẽ

giúp họ đưa nó lên mái, quả nhiên sáng ra thì đâu đã vào đấy- người ta càng tin

ngôi đền thật linh thiêng. Trong nhiều năm, thành phố nhờ ngôi đền phát triển rực

rỡ, thu hút nhiều tín đồ hành hương, trong đó có các bậc vua chúa. Khi thánh Paul -

vị thánh tông đồ đầu tiên của đạo Thiên chúa đến Ephesus truyền đạo vào thế kỷ I,

ngài đã vấp phải rất nhiều trở ngại vì người dân quá tôn sùng Artemis mà không

muốn từ bỏ nữ thần của mình. Cuối cùng, Thiên Chúa giáo cũng chiến thắng, song

đền vẫn nằm đó tới năm 262, khi người Goths xâm chiếm thành phố một lần nữa

đốt đền khiến toàn bộ ngôi đền sụp đổ, tín ngưỡng thờ Artemis vì thế cũng suy tàn.

Một thế kỷ sau, hoàng đế La Mã Constantine tái thiết Ephesus lại cho dựng đền

song lúc này người ta đã không còn thiết tha như trước bởi đa số dân cư đã bỏ đi

nơi khác, những kẻ ở lại là người mới đến và họ đã dùng gạch đá của đền cũng như

nghiền các pho tượng làm vữa để xây dựng nhà cửa cho mình. Chỉ bớt lại một cái

cột đá có lẽ là cây cột lớn nhất giữa đầm lầy gợi nhớ đã từng có một kỳ quan thế

giới cổ đại ở nơi này.

Tuy tôn sùng nhiều thần, song người Hy Lạp yêu kính nhất là thần Dớt, chúa tể các

thần. Người xưa đã dựng trên đỉnh núi Olympia, trong khu rừng thiêng Altis, một

ngôi đền hết sức hoành tráng và bên trong thờ một pho tượng nạm ngà, nạm vàng

tuyệt mỹ được xem kỳ quan thế giới. Đền được kiến trúc sư Libon vùng Elis thiết

kế và dựng trong 10 năm từ năm 466 TCN đến 456 TCN, với một đế hình chữ nhật

và bên trên chồng 13 hàng cột dọc và sáu hàng cột ngang đỡ một cái mái khổng lồ

hình kim tự tháp. Trên trán mái đắp phù điêu miêu tả 12 kỳ tích của nam thần Héc

- quyn và phía dưới quanh đền bày hàng dãy tượng thần, cùng nhiều tượng đài

khắc họa các môn thể thao như trò cưỡi ngựa, phóng lao, bắn cung... của Hy Lạp.

Song, cái quan trọng nhất lại là pho tượng thần Dớt nằm sâu bên góc tây của đền

và đây mới thực sự là một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Tượng do nhà điêu

khắc Phiadias tạc từ gỗ sau đó nạm vàng trong 16 năm và hoàn thành năm 440

TCN. Từ đế lên đầu tượng cao 14 mét, rộng 6,5 mét và ở thế ngồi uy nghi, cách

trần nhà một quãng hợp lý, để giả thử thần Dớt có đứng lên vẫn không chạm mái.

Tượng thần có làn da bằng ngà sáng trắng, râu tóc xoăn, áo choàng và đôi dép bằng

vàng. Trên áo trạm trổ nhiều con thú và hoa huệ- biểu tượng cho một thế giới tươi

đẹp. Đầu đội một vòng nguyệt quế- biểu trưng cho vinh quang, và tay phải cầm

một pho tượng nữ thần chiến thắng Nike bằng vàng, tay trái nắm một cây quyền

trượng khảm kim loại quý khắc hình chim ưng thể hiện cho uy lực tối cao. Ngài

ngồi trên một chiếc ngai vàng gắn vô số hạt ngọc, và trạm nhiều hình thiên thần

như Apollo, Artemis và bầy trẻ của Niobe. Khi pho tượng hoàn chỉnh, vua

Antiochus đệ tứ nước Syria đã tiến cúng một chiếc mành len có thể che toàn vẹn

tượng. Do khí hậu ở Olympia ẩm ướt dễ làm rạn lớp da ngà nên người ta đã bôi

trên tượng một loại dầu đặc biệt giữ trong một hồ ngầm dưới đền. Trong hàng trăm

năm, con cháu của Phiadias có nhiệm vụ bảo dưỡng pho tượng này.

Cùng việc thờ thần Dớt, người Hy Lạp xưa cũng tổ chức nhiều môn thi đấu vinh

danh thần mà nổi bật là lễ hội Olympic Games hay Thế vận hội. Giống như ngày

nay, mọi vận động viên từ khắp thế giới gồm tiểu Á, Syria, Ai Cập và Sicily được

mời đến thi đua. Olympic Games được diễn ra lần đầu tiên cách đây 2776 năm tại

bờ biển phía tây của Hy Lạp, trong vùng Peloponneus. (Do lịch Hy Lạp cổ đại bắt

đầu từ năm 776 tCN nên người ta lấy Olympic Games là sự kiện mở đầu của năm).

Sau đó cứ bốn năm một lần, trò chơi được tổ chức để thể hiện sự bang giao của

mọi vương quốc thuộc Hy Lạp. Trong các ngày này, mọi tranh chấp - chiến loạn

đều phải dừng lại và dành một con đường an toàn để mọi người đến được đỉnh núi

Olympia.

Kiệt tác của Phiadias được thờ trên núi đến năm 392 thì hoàng đế Theodosius đệ

nhất của La Mã xâm chiếm nơi này. Do theo đạo Thiên chúa, xem Olympic Games

là trò dị giáo, nhà vua đã bãi bỏ nó. Pho tượng được các nhà quyền quý Hy Lạp rời

đến thành phố Constantinople và cuối cùng bị ngọn lửa thiêu rụi năm 469. Hôm

nay, Olympic Games đã được phục tồn, song còn rất ít dấu tích của ngôi đền ngoại

trừ một số cột đá có thể minh chứng cho một tác phẩm điêu khắc lớn nhất trong

lịch sử mỹ thuật Hy Lạp.