BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN THỊ ANH THƯ

KHẮC PHỤC THẤT BẠI CỦA THỊ TRƯỜNG TIẾN TỚI XÂY DỰNG THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2007

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt

Danh mục các bảng, biểu

Danh mục các hình vẽ đồ thị

Mở đầu .........................................................................................................................1

Chương 1: Lý luận về thị trường hiệu quả và những thất bại của thị trường ..............4

1.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo...........................................................................4

1.1.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là gì? ..........................................................4

1.1.2 Tại sao thị trường cạnh tranh hoàn hảo lại hiệu quả? ...................................4

1.2 Một số khuyết tật của thị trường và tác động của nó đến nền kinh tế của một quốc

gia.................................................................................................................................8

1.2.1 Độc quyền ....................................................................................................8

1.2.1.1 Định nghĩa ...........................................................................................8

1.2.1.2 Tác động của độc quyền đến nền kinh tế ...........................................8

1.2.1.3 Chi phí xã hội của sức mạnh độc quyền ..............................................8

1.2.2 Các ngoại ứng............................................................................................10

1.2.2.1Các ngoại ứng tiêu cực và tính phi hiệu quả ......................................10

1.2.3 Bất cân xứng thông tin ..............................................................................12

1.2.3.1 Thông tin là gì ?..................................................................................12

1.2.3.2 Tầm quan trọng của thông tin đối với các quyết định của nhà đầu tư 13

1.3 Thị trường hiệu quả..........................................................................................14

1.3.1 Thị trường hiệu quả là gì? ..........................................................................14

1

1.3.2 Ba hình thức của thị trường hiệu quả .......................................................16

1.3.3 Vai trò của thị trường hiệu quả đối với nền kinh tế ..................................16

1.4 Thị trường chứng khoán ....................................................................................17

1.4.1 Khái niệm ...................................................................................................17

1.4.2 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán ..............................17

1.4.2.1 Các cơ quan quản lý của chính phủ ....................................................17

1.4.2.2 Các tổ chức tự quản ............................................................................17

1.4.3 Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán .................................18

1.4.4 Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán.....................................19

1.4.4.1 Chức năng của thị trường chứng khoán.............................................19

1.4.4.2 Vai trò của thị trường chứng khoán...................................................19

Chương 2: Thất bại thị trường ở Việt Nam hiện nay.................................................22

2.1 Thất bại của thị trường Việt Nam .......................................................................22

2.1.1 Sơ lược về nền kinh tế Việt Nam ................................................................22

2.1.2 Đánh giá quốc tế về nền kinh tế Việt Nam ................................................23

2.1.3 Một số thất bại thị trường ở Việt Nam .......................................................24

2.1.3.1 Độc quyền ..........................................................................................24

2.1.3.2 : Các ngoại ứng tiêu cực ....................................................................26

2.1.3.3: Thông tin bất cân xứng......................................................................27

2.2 Thất bại của thị trường và sự phát triển của thị trường chứng khoán..................28

2.2.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam .......................................28

2.2.2 Thất bại của thị trường trên thị trường chứng khoán..................................29

2.2.2.1 Tác động của bất cân xứng thông tin đến thị trường chứng khoán Việt

Nam............................................................................................................................29

2.2.2.2 Đánh giá thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam................30

2.2.2.2.1 Các kênh thông tin thị trường chứng khoán ở Việt Nam...........30

2.2.2.2.2 Chất lượng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam ...31

2

2.2.2.2.3 Khâu tổ chức quản lý của các tổ chức công bố thông tin ..........33

2.2.2.3 Biểu hiện bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam

....................................................................................................................................33

Chương 3 : Khắc phục bất hòan hảo của thị trường nhằm xây dựng thị trường hiệu quả

nói chung và thị trường vốn hiệu quả nói riêng ................................................40 3.1 Xây dựng thị trường hiệu quả..............................................................................40

3.2 Khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin và xây dựng thị trường vốn hiệu quả

....................................................................................................................................42

3.2.1 Sự cần thiết phải xây dựng thị trường vốn hiệu quả ...................................42

3.2.2 Một số giải pháp xây dựng thị trường vốn hiệu quả ở Việt Nam ..............43

3.2.2.1 Chất lượng thông tin ..........................................................................43

3.2.2.2 Thời gian và cách thức công bố thông tin .........................................47

3.2.2.3 Giải quyết vấn đề nội gián trên thị trường chứng khoán Việt Nam ...50

Kết luận......................................................................................................................54

Tài liệu tham khảo .....................................................................................................56

3

Phụ lục .......................................................................................................................58

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

APEC (The Asia – Pacific Economic Cooperation) : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á

Thái Bình Dương.

GDP (Gross Domestic Product) : Tổng sản phẩm quốc nội.

WTO(World Trade Organization) : Tổ chức thương mại thế giới.

FDI( Foreign Direct Investment) : Đầu tư trực tiếp nước ngoài.

WEF(World Economic Forum) : Diễn đàn kinh tế thế giới.

FII(Foreign indirect Investment): Đầu tư gián tiếp nước ngoài.

UBCKNN : Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước.

TTCK : Thị Trường Chứng Khoán.

4

TTGDCK : Trung Tâm Giao Dịch Chứng Khoán.

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

1. Bảng 2.1: Tình hình niêm yết từ năm 2000 đến hết 31/12/2006....................28

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

1 Hình 1.1 : Cân bằng cung cầu thị trường .........................................................4

2. Hình 1.2 : Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất.......................................6

3. Hình 1.3 : Sự thay đổi của thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất do kiểm soát

..........................................................................................................................6

4. Hình 1.4 : Tác động của kiểm soát giá khi cầu không co giãn.........................8

5. Hình 1.5 : Phần mất không do sức mạnh độc quyền ........................................9

5

6. Hình 1.6 : Chi phí ngoại sinh..........................................................................11

MỞ ĐẦU

(cid:89)(cid:64)(cid:90)

Tính cấp thiết của đề tài:

Nổ lực của Chính phủ các nước trên thế giới đều nhằm thúc đẩy sự phát triển

kinh tế, đem lại sự thỏa mãn cao nhất nhu cầu cho con người đang sống trong quốc gia

đó. Sự phát triển về kinh tế xã hội của một quốc gia không nằm ngoài xu hướng phát

triển chung của toàn cầu. Vì vậy, việc hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của

một quốc gia luôn gắn liền với việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Để có thể

theo kịp, đứng vững và tận dụng cơ hội trong quá trình hội nhập, mỗi quốc gia đều phải

dần dần hoàn thiện các khiếm khuyết thị trường của mình bằng những cải tổ, điều

chỉnh khác nhau phù hợp với điều kiện của quốc gia đó.

Việt Nam, một đất nước mà trong những năm qua với những nổ lực không

ngừng của toàn Đảng, toàn dân trong việc khôi phục và phát triển kinh tế xã hội, đã là

tâm điểm của không ít các nhà đầu tư từ các quốc gia trên thế giới. Thế nhưng những

thành tựu mà Việt Nam đạt được chỉ mới là những bước đầu tiên của quá trình phát

triển. Thời điểm hiện nay chính là lúc mà Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều vấn đề

khi gia nhập kinh tế thế giới. Vẫn còn tồn tại nhiều khuyết tật thị trường mà Chính Phủ

Việt Nam cần phải giải quyết nhằm tiến tới xây dựng một nền kinh tế thị trường, một

thị trường hiệu quả - thị trường mà ở đó nhu cầu của con người được thỏa mãn ngày

càng cao, phúc lợi xã hội tối đa, nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả….

Với những kiến thức đã được các giảng viên tận tình truyền đạt trong suốt

những năm ngồi ở ghế nhà trường và thực tế về nền kinh tế xã hội của Việt Nam, tôi

chọn nghiên cứu đề tài “Khắc phục thất bại của thị trường – tiến tới xây dựng thị

trường hiệu quả ở Việt Nam ” với mong muốn đóng góp phần nhỏ nhoi vào sự nghiệp

6

phát triển kinh tế xã hội của nước nhà.

Mục tiêu nghiên cứu:

Làm rõ mối quan hệ giữa thị trường hoàn hảo và tính hiệu quả của thị trường

Tìm hiểu và phân tích các thất bại của thị trường nói chung và thị trường chứng

khoán nói riêng ở Việt Nam.

Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những thất bại của thị trường

tiến tới xây dựng một thị trường hiệu quả đồng thời đưa ra các đề xuất để có thể tạo

tính hiệu quả cho thị trường vốn với mục tiêu phát triển TTCK, tạo kênh thu hút vốn

chủ yếu và bền vững cho nền kinh tế.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về thất bại trên thị trường nói chung và thất bại trên thị trường

chứng khoán nói riêng.

Phạm vi nghiên cứu là thị trường nói chung và thị trường chứng khoán ở Việt

Nam trong những năm gần đây.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài vận dụng phương pháp nghiên cứu phân tích để thấy rõ những thất bại

của thị trường – nguyên nhân gây ra tính không hiệu quả cho thị trường – qua đó đưa ra

các giải pháp nhằm khắc phục những thất bại đó và tiến tới xây dựng một thị trường

hiệu quả.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Lý thuyết về thị trường hoàn hảo, thị trường hiệu quả đã được các nhà kinh tế

nghiên cứu, đưa vào các mô hình toán học nhằm chỉ ra tính phi hiệu quả của thị trường

tuy nhiên vẫn chưa được áp dụng vào thực tiễn ở Việt Nam. Đề tài dựa trên những lập

luận của các lý thuyết nhằm tìm ra những mấu chốt gây nên tính phi hiệu quả cho thị

trường ở Việt Nam từ đó có giải pháp khả thi để khắc phục những điểm yếu này.

Những điểm nổi bậc của luận văn

Làm rõ mối quan hệ giữa thị trường hoàn hảo và tính hiệu quả của thị trường

Xác định, phân tích những yếu tố làm cho thị trường ở Việt Nam phi hiệu quả

7

đó là những thất bại thị trường.

Đề xuất những giải pháp khả thi, thiết thực để khắc phục những thất bại đó

nhằm xây dựng thị trường hiệu quả nói chung và phát triển thị trường chứng khoán nói

riêng.

Kết cấu của luận văn

Chương 1 : Lý luận về thị trường hiệu quả và những thất bại của thị trường

Chương 2 : Thất bại thị trường ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Khắc phục bất hoàn hảo của thị trường nhằm xây dựng thị trường

hiệu quả nói chung và thị trường vốn hiệu quả nói riêng.

Với rất nhiều cố gắng để có thể áp dụng lý thuyết vào giải quyết vấn đề thực tiễn của

thị trường Việt Nam nhưng do trình độ nghiên cứu và kinh nghiệm còn hạn chế nên

luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Những ý kiến đóng góp của quý thầy cô

8

luôn là sự bổ sung kiến thức qúy báu cho bản thân tác giả. Tôi xin chân thành cám ơn.

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ VÀ

NHỮNG THẤT BẠI CỦA THỊ TRƯỜNG

1.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo

1.1.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là gì?

Thị trường là tập hợp những người mua và bán tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến

khả năng trao đổi.

Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có nhiều người bán và người

mua một loại hàng hóa nên không một người mua và người bán riêng lẻ nào có thể tác

động tới giá của hàng hóa đó được. Giá được xác định bởi các lực lượng cung cầu của

thị trường. Các hãng riêng lẻ lấy giá thị trường để quyết định số lượng sản phẩm được

sản xuất và bán, người tiêu dùng cũng lấy giá đó để quyết định lượng mua.

Giá

S

Giá thị trường trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo được xác định theo sơ đồ sau

D

Số lượng

Qo

Po

Hình 1.1 : Cân bằng cung cầu thị trường

9

1.1.2 Tại sao thị trường cạnh tranh hoàn hảo lại hiệu quả?

Trả lời câu hỏi này thông qua việc đánh giá chính sách của chính phủ - thặng dư

tiêu dùng và thặng dư sản xuất. Phương pháp đánh giá là tính toán sự thay đổi của

thặng dư tiêu và thặng dư sản xuất do sự can thiệp gây ra. Trong một thị trường không

bị điều tiết, người tiêu dùng và người sản xuất mua và bán theo giá hiện hành trên thị

trường. Nhưng đối với một số người tiêu dùng thì giá trị của hàng hóa cao hơn giá thị

trường và những người này sẽ trả cao hơn cho hàng hóa nếu họ phải trả. Thặng dư tiêu

dùng là tổng lợi ích hay giá trị mà người tiêu dùng thu được vượt quá giá mà họ chỉ trả

cho hàng hóa.

Đối với toàn thể người tiêu dùng, thặng dư tiêu dùng là diện tích phần nằm giữa

đường cầu và đường giá thị trường. Bởi vì thặng dư tiêu dùng đo lường tổng lợi ích

ròng của người tiêu dùng, chúng ta có thể đo lường phần lợi hoặc khoản thiệt hại đối

với người tiêu dùng do can thiệp của chính phủ gây ra bằng cách đo lường sự thay đổi

của thặng dư tiêu dùng.

Thặng dư sản xuất là một thước đo tương tự đối với các nhà sản xuất. Có vài nhà

sản xuất sản xuất ra sản phẩm với mức chi phí đúng bằng giá thị trường. Tuy nhiên các

đơn vị hàng hóa khác có thể được sản xuất với chi phí thấp hơn giá thị trường, các đơn

vị hàng hóa đó tiếp tục được sản xuất và bán ra cho dù giá thị trường thấp hơn. Do đó,

người sản xuất được hưởng một khoản lợi ích thặng dư bán các đơn vị hàng hóa đó.

Đối với mỗi đơn vị hàng hóa, khoản thặng dư bằng hiệu giữa giá thị trường mà người

sản xuất thu được và chi phí biên để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó.

Đối với toàn bộ thị trường, thặng dư sản xuất là phần diện tích nằm phía trên đường

cung tới giá thị trường. Đó là phần lợi mà các nhà sản xuất có chi phí thấp được hưởng

khi bán theo giá thị trường. Bởi vì thặng dư sản xuất đo lường tổng lợi ích ròng của

người sản xuất đó chúng ta có thể đo lường phần lợi và thiệt hại đối với người sản xuất

do sự can thiệp của chính phủ bằng cách đo lường sự thay đổi của thặng dư sản xuất.

Chú thích Hình 1.2 (dưới) : Người tiêu dùng A sẽ trả 10USD cho hàng hóa mà giá thị

trường của nó là 5USD và do đó hưởng một lợi ích là 5 USD. Người tiêu dùng B

10

hưởng lợi ích là 2 USD và người tiêu dùng C đánh giá lợi ích hàng hóa đúng bằng giá

thị trường không được hưởng chút lợi ích nào. Thặng dư tiêu dùng để đo lường tổng lợi

ích của tất cả người tiêu dùng là phần diện tích có các hình sao nằm giữa đường cầu

và giá thị trường.

Thặng dư sản xuất đo lường tổng lợi nhuận của các nhà sản xuất và lợi tức của các yếu

tố sản xuất. Đó là diện tích nằm giữa đường cung và giá thị trường. Cùng nhau, thặng

Giá

S

$10

thặng dư tiêu dùng

$7

$5

D

Th/dư sản xuất

Số lượng

ười ng t/dùn

g A

người t/dùng B

người t/dùng C

dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất đo lường ích lợi của thị trường cạnh tranh.

Hình 1.2 : Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất

Để thấy thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất được sử dụng như thế nào để

giá

mất không

S

đánh giá chính sách của chính phủ , xem xét ví dụ về kiểm soát giá của chính phủ.

B

po

C

A

Pmax

D

11

Số lượng

Q1

Q0

Q2

Hình 1.3 : Sự thay đổi của thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất do kiểm soát

giá : Giá hàng hoá được điều tiết không được cao hơn Pmax giá này thấp hơn giá thị

trường P0. Phần lợi của người tiêu dùng là hiệu số giữa hình chữ nhật A và tam giác B.

Phần thiệt hại của người sản xuất là tổng của hình chữ nhật A và tam giác C. Hình tam

giác B và C cùng nhau đo lường phần mất không do kiểm soát giá

Giả sử chính phủ cho rằng Po là quá cao và ra lệnh rằng giá không thể cao hơn

một mức giá trần tối đa cho phép ký hiệu là Pmax. Kết quả là tại mức giá thấp hơn này

các nhà sản xuất sẽ sản xuất ít đi và cung sẽ là Q1. Mặt khác , tại mức giá thấp này,

những người tiêu dùng sẽ đòi hỏi lượng hàng hóa lớn hơn, họ muốn mua 1 lượng Q2.

Vậy là cầu vượt quá cung và xuất hiện tình trạng thiếu hụt được gọi là trạng thái thặng

dư của cầu. Những nhà sản xuất chịu thiệt hại - họ nhận được giá thấp hơn và một số

trong họ rời bỏ ngành sản xuất đã cho.

Một số người tiêu dùng đã bị loại khỏi thị trường vì sự kiểm soát giá đó, và

lượng bán giảm từ Q0 xuống Q1. Những người tiêu dùng mà vẫn có thể mua được hàng

hóa thì mua được ở mức giá thấp và do đó hưởng một sự gia tăng trong thặng dư tiêu

dùng, phần gia tăng này được biểu diễn bằng chũ nhật A. Tuy vậy vài người tiêu dùng

khác lại không thể mua được hàng hóa. Sự thiệt hại về thặng dư tiêu dùng của họ được

biểu diễn bởi tam giác in đậm B. Do vậy sự thay đổi ròng trong thặng dư tiêu dùng sẽ

là A-B. Trong hình 1.3 hình chữ nhật A lớn hơn tam giác B do vậy sự thay đổi ròng

trong thặng dư tiêu dùng là số dương.

Những người sản xuất mà vẫn còn trên thị trường và sản xuất Q1 sẽ nhận được

mức giá thấp hơn. Họ bị mất một lượng thặng dư sản xuất bằng hình chữ nhật A. Tuy

nhiên , tổng sản lượng cũng giảm. Điều này biểu diễn sự mất mát thêm một phần thặng

dư sản xuất bằng tam giác C. Do đó tổng thay đổi trong thặng dư sản xuất là –A-C. Rõ

12

ràng người sản xuất cũng bị thiệt hại do việc kiểm soát giá.

Vậy, liệu thiệt hại của người sản xuất có bù đắp được phần lợi ích của người tiêu

dùng hay không? Qua sơ đồ và phân tích trên ta thấy kiểm soát giá dẫn đến sự mất mát

ròng trong tổng thặng dư, mà ta gọi phần mất mát này là phần mất không. Vì thặng dư

tiêu dùng thay đổi là A-B và sự thay đổi của thặng dư sản xuất lá A-C do đó tổng thặng

dư thay đổi là (A-B)+(-A-C)= -B-C. Như vậy ta bị mất không một lượng cho bởi hai

tam giác B và C. Phần mất không này là do tính không hiệu quả của kiểm soát giá gây

ra.

Trong trường hợp đường cầu không co dãn, kiểm soát giá có thể dẫn tới mất mát

của thặng dư tiêu dùng. Theo hình bên dưới Hình 1.4 : tam giác B (thể hiện sự mất mát

trong thặng dư tiêu dùng của những người bị loại khỏi thị trường) lớn hơn hình chữ

nhật A ( biểu diễn phần lợi của những người tiêu dùng có thể mua hàng hóa). Ở đây

người tiêu dùng đánh giá rất cao giá trị của hàng hoá, do đó những người tiêu dùng bị

giá

loại khỏi thị trường bị thiệt hại lớn.

B

C

A

po Pmax

Số lượng

Q1

Q2

Hình 1.4 : Tác động của kiểm soát giá khi cầu không co giãn : Nếu cầu không co

giãn, tam giác B có thể lớn hơn hình chữ nhật A. Trong trường hợp này, người tiêu

dùng bị thiệt hại bởi kiểm soát giá

1.2 Một số khuyết tật của thị trường và tác động của nó đến nền kinh tế của một

quốc gia:

1.2.1 Độc quyền

13

1.2.1.1 Định nghĩa :

Độc quyền gồm có 2 loại độc quyền bán và độc quyền mua. Độc quyền bán là

thị trường chỉ có một người bán nhưng nhiều người mua. Độc quyền mua là tình huống

ngược lại - một thị trường với nhiều người bán song chỉ có một người mua. Độc quyền

thuần túy là rất hiếm, phổ biến là các trường hợp một số hãng cạnh tranh nhau trong

một thị trường.

1.2.1.2 Tác động của độc quyền đến nền kinh tế :

Chính vì nhà độc quyền bán là người duy nhất sản xuất sản phẩm nên họ kiểm

soát giá trên thị trường. Cụ thể là sản lượng của nhà độc quyền sẽ thấp hơn và giá độc

quyền sẽ cao so với sản lượng và giá cạnh tranh. Điều này sẽ tạo ra một chi phí cho xã

hội vì có ít người tiêu dùng hơn mua được sản phẩm và những ai mua được sản phẩm

phải trả giá cao hơn.

Thị trường độc quyền không có đường cung. Nói cách khác, không có mối liên

hệ 1-1 giữa giá và số lượng hàng sản xuất(trang 365)

1.2.1.3 Chi phí xã hội của sức mạnh độc quyền:

Trong thị trường cạnh tranh, giá bằng chi phí biên, còn khi có sức mạnh độc

quyền giá cao hơn chi phí biên. Vì sức mạnh độc quyền dẫn đến giá cao hơn và sản

lượng bị giảm, điều đó có thể làm cho hãng tốt hơn và người tiêu dùng sẽ tồi đi. Nhưng

giả sử chúng ta đánh giá phúc lợi của người tiêu dùng như của người sản xuất. Liệu sức

mạnh độc quyền có phải làm cho người tiêu dùng và người sản xuất về tổng thể tốt hơn

hoặc tồi đi hay không? Để trả lời câu hỏi này ta so sánh thặng dư tiêu dùng và thặng dư

sản xuất khi một ngành cạnh tranh sản xuất ra hàng hóa với thặng dư tiêu dùng và

thặng dư sản xuất khi nhà độc quyền cung cấp hàng hóa cho toàn bộ thị trường. Tham

14

khảo hình 1.5

Phần thặng dư tiêu dùng bị mất

MC

Phần mất không

Pm

A

B

C

AR

MR

Số lượng

Qm

Qc

Pc

Hình 1.5 : Phần mất không do sức mạnh độc quyền : Hình tam giác sẫm và các hình

thang mô tả sự thay đổi về thặng dư người tiêu dùng và thặng dư nhà sản xuất khi

chuyển từ các giá cạnh tranh Pc và sản lượng cạnh tranh Qc sang giá và sản lượng độc

quyền Pm và Qm . Vì giá cao, người tiêu dùng sẽ mất đi A + B và nhà sản xuất lợi A-C,

phần thiệt hại xã hội là - B – C.

Hình 1.5 biểu diễn các đường doanh thu bình quân, doanh thu biên và đường chi phí

biên của nhà độc quyền. Để tối đa hóa lợi nhuận hãng cần sản xuất một lượng tại điểm

mà ở đó doanh thu biên bằng chi phí biên, giá và sản lượng tương ứng là Pm và Qm.

Trong thị trường cạnh tranh giá phải bằng chi phí biên, giá và sản lượng cạnh tranh

tương ứng là Pc và Qc tìm được tại điểm giao nhau giữa đường doanh thu bình quân

(cầu) và đường chi phí biên. Xem xét thặng dư sẽ thay đổi như thế nào nếu chúng ta

chuyển từ giá và sản lượng cạnh tranh sang giá và sản lượng độc quyền.

Trong tình trạng độc quyền, giá cao hơn và người tiêu dùng sẽ mua ít đi. Vì giá

15

cao hơn, những người tiêu dùng mua hàng hóa mất đi lượng thặng dư bằng lượng cho

trong hình chữ nhật A. Những người tiêu dùng có thể mua ở giá Pc nhưng không mua

được ở giá Pm sẽ mất đi lượng thặng dư bằng hình tam giác B. Toàn bộ lượng thặng dư

mất đi của người tiêu dùng là A+B. Nhà sản xuất tuy thế sẽ nhận được hình thang A do

bán với giá cao hơn nhưng mất đi hình thang C. Tổng thặng dư đối với nhà sản xuất

thay đổi là A-C. Như vậy lấy phần thặng dư của nhà sản xuất trừ phần mất đi của người

tiêu dùng ta có phần mất không của xã hội là –B-C. Ngay cả khi nếu lợi nhuận của nhà

độc quyền bị đánh thuế và phân phối lại cho người tiêu dùng đã mua của nhà độc

quyền thì vẫn xuất hiện sự phi hiệu quả vì sản lượng vẫn thấp hơn so với mức sản

lượng trong cạnh tranh. Phần mất không chính là chi phí xã hội của tính không hiệu

quả đó.

1.2.2 Các ngoại ứng:

Các ngoại ứng có thể phát sinh giữa những người sản xuất với nhau, giữa những

người tiêu dùng với nhau, hoặc giữa cả hai. Các ngoại ứng có thể là tiêu cực – khi hành

động của bên này gây ra chi phí cho bên kia - hoặc tích cực – khi hành động bên này

đem lại lợi ích cho bên kia .

1.2.2.1Các ngoại ứng tiêu cực và tính phi hiệu quả :

Vì các ngoại ứng không được phản ánh trong giá thị trường nên chúng có thể là

nguyên nhân gây ra tính phi hiệu quả kinh tế.

Để thấy tại sao, chúng ta lấy ví dụ về nhà máy luyện kim thải chất thải xuống

dòng sông. Hình 1.6b biểu thị các đường cung, cầu thị trường trong thị trường cạnh

tranh, giả định rằng tất cả các nhà máy luyện kim đều gây ra các ngoại ứng tương tự.

Chúng ta giả định rằng hãng có hàm sản xuất với các đầu vào được kết hợp theo

những tỷ lệ cố định, do đó nó không thể thay đổi các kết hợp đầu vào của mình; ô

nhiễm chỉ có thể giảm xuống bằng cách giảm sản lượng. Chúng ta sẽ phân tích bản chất

của ngoại ứng theo hai bước :

Thứ nhất, khi chỉ một nhà máy luyện kim gây ô nhiễm

16

Và sau đó là tất cả các nhà máy luyện kim đều gây ô nhiễm theo cùng một cách.

MSC1

giá

MSC

MC

S =MC1

p*

P1

P t

MEC1

MEC

D

(hình 18.1 trang 668) giá

q* q1 (a)

1 q q* (b)

Sản lượng của hãng

Sản lượng của hãng Hình 1.6 : Chi phí ngoại sinh : Khi có các ngoại ứng tiêu cực, chi phí xã hội biên

MSC cao hơn chi phí tư nhân MC. Chênh lệch đó chính là chi phí ngoại sinh biên

MEC. Trong trường hợp (a), hãng tối đa được lợi nhuận khi sản xuất q1 khi giá bằng MC. Lượng sản phẩm hiệu quả là q*, tại đó giá cả bằng MSC. Trong trường hợp (b), sản lượng cạnh tranh của ngành là Q1 tại điểm giao giữa đường cung của ngành MC1 và đường cầu D. Tuy vậy, sản lượng hiệu quả Q* nhỏ hơn tại điểm giao giữa đường

cầu và đường chi phí biên xã hội MSC

Giá thép P1 tại giao điểm giữa đường cung và đường cầu trong hình 1.6b. Đường

MC ở Hình 1.6a là chi phí sản xuất biên của một hãng điển hình. Hãng tối đa hóa lợi

nhuận bằng cách sản xuất ở q1, ở đó chi phí biên bằng giá (bằng giá vì hãng coi giá là

đã cho trước). Nhưng khi sản lượng của hãng thay đổi thì chi phí ngoại sinh gây ra cho

ngư dân ở hạ lưu cũng thay đổi. Chi phí ngoại sinh này được biểu thị bằng đường chi

phí ngoại sinh biên (MEC) ở Hình 1.6a. Đường này dốc lên đối với hầu hết các dạng ô

nhiễm vì khi hãng sản xuất thêm sản lượng và xả thêm chất thải xuống sông thì những

thiệt hại tăng thêm đối với ngành đánh cá cũng tăng lên.

Trên quan điểm xã hội, hãng đang sản xuất quá nhiều. Sản lượng hiệu quả là

mức ở đó giá bằng chi phí xã hội biên của sản xuất. Chi phí biên của sản xuất cộng chi

phí ngoại sinh biên của việc xả thải. Ở Hình 1.6a, đường chi phí xã hội biên được xác

định bằng cách cộng chi phí biên và chi phí ngoại sinh biên tại mỗi mức sản lượng

17

( nghĩa là MSC = MC + MEC). Đường chi phí xã hội biên MSC cắt đường giá ở sản

lượng q*. Vì trong trường hợp này chỉ có một nhà máy thải chất thải xuống sông nên

giá thị trường của sản phẩm là không đổi. Nhưng hãng sản xuất quá nhiều (q1 thay vì q*) và gây ra quá nhiều chất thải.

Ở Hình 1.6b, đường chi phí biên MC1 là đường cung của ngành. Chi phí ngoại sinh biên tương ứng với sản lượng của ngành. MEC1, được xác định bằng cách cộng chi phí biên của từng người bị gây thiệt ở mỗi mức sản lượng. Đường MSC1 biểu thị

tổng của chi phí sản xuất biên và chi phí ngoại sinh biên của tất cả các hãng luyện kim. Do đó MSC1 = MC1 + MEC1

Khi có ngoại ứng, mức sản lượng của ngành có hiệu quả không? Hình 1.6b cho

thấy mức sản lượng hiệu quả của ngành là mức sản lượng mà ở đó lợi ích biên của mỗi

đơn vị sản lượng tăng thêm bằng chi phí xã hội biên. Vì đường cầu biểu thị lợi ích biên của người tiêu dùng nên sản lượng hiệu quả là Q*, đạt tại giao điểm của đường chi phí xã hội biên MSC1 và đường cầu D . Nhưng mức sản lượng cạnh tranh của ngành là ở Q1, đạt tại giao điểm của đường cầu và đường cung MC1. Rõ ràng sản lượng của ngành

là quá cao.

Như vậy chúng ta có thể thấy được tính phi hiệu quả này là do việc định giá sản

phẩm không chính xác. Giá sản phẩm ở Hình 1.6b là quá thấp – nó phản ánh chi phí

tư nhân biên của việc sản xuất của hãng, chứ không phải là chi phí xã hội biên. Chỉ ở mức giá P* cao hơn thì các hãng luyện kim sẽ sản xuất mức sản lượng hiệu quả.

Cái giá phải trả đối với xã hội của tính phi hiệu quả này là gì? với mỗi đơn vị sản xuất cao hơn Q*, các giá đối với xã hội là chênh lệch giữa chi phí xã hội biên và lợi

ích biên. Do đó, tổng chi phí xã hội được biểu thị ở Hình 1.6b là tam giác giới hạn bởi MSC1, D, sản lượng Q1.

1.2.3 Bất cân xứng thông tin:

Trong nền kinh tế, bất cân xứng thông tin xảy ra khi một bên giao dịch có những

thông tin liên quan trong khi bên kia không có. Điển hình là người bán biết nhiều thông

tin về sản phẩm hơn người mua, tuy nhiên, nó cũng có thể là ngược lại người mua biết

18

nhiều thông tin hơn người bán.

1.2.3.1 Thông tin là gì ?

Thông tin là những tin tức và dữ liệu giúp người tiếp nhận hiểu biết hơn về vấn

đề quan tâm.

Tin tức là những thông điệp phản ánh sự kiện mới mẻ và mang tính thời sự. Dữ

liệu đó là các kết quả thống kê, hồ sơ, tài liệu, điều tra tổng hợp hay phân tích

1.2.3.2 Tầm quan trọng của thông tin đối với các quyết định của nhà đầu tư

Thông tin tạo ra sự chênh lệch giữa lợi ích về kết quả khi chưa có thông tin và

khi đã có thông tin. Thông tin có giá trị ở mức độ nào tùy thuộc vào nguồn cung cấp,

thời gian tiếp nhận thông tin và khả năng xử lý thông tin của người tiếp nhận. Kết quả

đạt được từ thông tin được đo lường bằng tỷ số thông tin hậu nghiệm ( là tỷ số giữa tỷ

suất sinh lợi thặng dư (được tính hàng năm) so với rủi ro thặng dư (được tính hằng

năm)).

Thông tin là tài sản có giá trị sử dụng, mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã

hội nếu được khai thác tốt. Thông tin đầy đủ, kịp thời, chuẩn xác giúp dự báo chính

xác, loại trừ rủi ro trong việc ra quyết định, khai thác tốt nhất cơ hội được gọi là thông

tin hoàn hảo.

Trong thực tế, hiếm khi có thông tin hoàn hảo vì việc thu thập cực kỳ khó khăn,

đòi hỏi nhiều chi phí , thời gian và mặt khác là do trình độ nhận thức hạn chế của người

tiếp nhận nó. Những thông tin đem lại mức độ thỏa mãn cao cho người tiếp nhận gọi là

thông tin hữu hiệu. Ngược lại với thông tin hữu hiệu là thông tin sai lệch làm người tiếp

nhận lúng túng đưa ra quyết định sai.

Thông tin là môt yếu tố đầu vào quan trọng đối với bất cứ quyết định nào của

nhà đầu tư hay những chủ thể tham gia trên thị trường. Đối với nhà quản trị thông tin

có tác động đến quyết định đầu tư, tài trợ, quyết định phân phối cổ tức. Trên thị trường

nếu một bên của giao dịch không có thông tin chính xác về giá trị thị trường hoặc chất

lượng sản phẩm thì hệ thống thị trường sẽ không hoạt động hiệu quả. Việc thiếu thông

19

tin có thể làm cho người sản xuất cung cấp quá nhiều một vài sản phẩm và quá ít những

sản phẩm khác. Trong những trường hợp khác, một số người tiêu dùng có thể không

mua sản phẩm mặc dù họ được lợi nếu mua, trong khi đó một số người tiêu dùng khác

lại mua sản phẩm làm cho họ bị thiệt.

Xét về mặt chất lượng hàng hóa trên thị trường thì việc thiếu thông tin sẽ dẫn

đến việc loại bỏ dần những sản phẩm tốt ra khỏi thị trường. Xét về mặt phân bổ nguồn

lực thì thông tin không chính xác, không đầy đủ sẽ dẫn đến sự phân bổ nguồn lực

không hiệu quả trong nền kinh tế. Mỗi một trong các vướng mắc về thông tin này có

thể dẫn đến sự phi hiệu quả của thị trường cạnh tranh.

Tóm lại :Có nhiều thất bại của thị trường để dẫn tới thị trường không hiệu quả.

Theo lý luận trên, sự can thiệp của chính phủ là một thất bại của thị trường trong điều

kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tuy nhiên, trong một thị trường cạnh canh không

hoàn hảo với những thất bại của nó thì sự can thiệp của chính phủ hoàn toàn có thể đưa

đến một thị trường hiệu quả. Một thị trường hoàn hảo sẽ dẫn đến tính hiệu quả của thị

trường. Có thể tóm lại những yếu tố cho một thị trường hiệu quả đó là :

+ Có đối tượng đầu tư hấp dẫn

+ Thông tin đầy đủ

+ Thanh khoản thị trường

+ Công bằng trong thị trường

+ Chi phí thấp

1.4 Thị trường hiệu quả:

1.3.1 Thị trường hiệu quả là gì?

Ở phần trên, ta đã biết các yếu tố cho một thị trường hiệu quả. Tất cả các yếu tố trên

hổ trợ cho việc thông tin được phản ánh một cách đầy đủ, chính xác vào giá cả của

hàng hóa. Như vậy thì khi nào thị trường hiệu quả hay dấu hiệu cho biết thị trường hiệu

quả?

Thị trường hiệu quả là thị trường mà ở đó giá cả phản ánh đầy đủ các thông tin liên

20

quan đến hàng hóa.

Thị trường vốn hiệu quả là gì? Không nằm ngoài khái niệm thị trường hiệu quả, thị

trường vốn hiệu quả là thị trường trong đó giá chứng khoán điều chỉnh nhanh chóng để

nắm bắt được các thông tin mới, vì thế giá hiện hành của chứng khoán phản ánh tất cả

các thông tin về chứng khoán. Các giả định về một thị trường vốn hiệu quả :

+ Điều quan trọng cốt yếu đầu tiên về một thị trường hiệu quả yêu cầu rằng có

một lượng lớn các thành viên tham gia biết tối đa hóa lợi nhuận bằng cách phân tích.

+ Các thông tin liên quan tới chứng khoán đến được với thị trường một cách

ngẫu nhiên.

+ Các nhà đầu tư tối đa hóa lợi nhuận điều chỉnh giá chứng khoán một cách

nhanh chóng để phản ánh tác động của thông tin mới.

Sự kết hợp giả định (1) và (2) cho thấy rằng thị trường thông tin hiệu quả yêu

cầu đạt được một khối lượng giao dịch với một số lượng lớn các nhà đầu tư giao dịch

cạnh tranh lẫn nhau thì sẽ có một sự điều chỉnh giá nhanh chóng hơn làm cho thị

trường hiệu quả hơn

+ Vì giá chứng khoán điều chỉnh theo tất cả các thông tin mới nên giá của những

chứng khoán này sẽ phản ánh tất cả các thông tin có sẵn và được công bố rộng rãi ở

mọi thời điểm. Vì thế mà giá chứng khoán được biết đến ở bất cứ thời điểm nào cũng

sẽ là một phản ánh không thiên lệch của tất cả thông tin sẵn có hiện thời, và trong giá

chứng khoán đã bao gồm rủi ro của việc nắm giữ chứng khoán. Vì thế trong một thị

trường hiệu quả nhà đầu tư mua chứng khoán ở mức giá thông tin hiệu quả sẽ nhận

được một tỷ suất sinh lợi phù hợp với rủi ro gánh chịu từ chứng khoán.

Theo nghiên cứu của Maurice Kendall- một nhà thống kê người Anh thì giá cả

không theo chu kỳ có thể dự báo trước mà nó đi theo một bước ngẫu nhiên. Bởi vì, nếu

các thay đổi giá cả quá khứ có thể được sử dụng để dự đoán các thay đổi giá cả tương

lai, các nhà đầu tư có thể tạo ra tỷ suất sinh lợi dễ dàng. Nhưng trong các thị trường

cạnh tranh, việc thu được tỷ suất sinh lợi dễ dàng sẽ không kéo dài. Khi các nhà đầu tư

cố gắng tận dụng thông tin về giá cả quá khứ, giá cả điều chỉnh ngay lập tức cho đến

21

khi siêu tỷ suất sinh lợi từ việc nghiên cứu các chuyển động giá cả trong quá khứ biến

mất. Kết quả là tất cả thông tin về giá cả quá khứ sẽ được phản ánh trong giá cổ phần

ngày hôm nay chứ không phải trong giá ngày mai. Các mẫu mực trong giá cả sẽ không

tồn tại nữa và các thay đổi giá cả trong một thời kỳ sẽ độc lập với các thay đổi trong kỳ

kế tiếp.

Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp cần xác định thị trường có hiệu quả hay

không bằng phép kiểm định ví dụ như lý thuyết dự báo tỷ giá , thị trường hiệu quả và

đầu cơ thì việc xác định thị trường có hiệu quả hay không rất quan trọng bởi vì trong

thị trường không hiệu quả tồn tại tỷ suất lợi nhuận vượt mức do sử dụng thông tin khi

thực hiện các vị thế trong thị trường ngoại hối. Với một mức độ rủi ro cho sẵn, tỷ suất

lợi nhuận vượt mức bằng với tỷ suất lợi nhuận thực sự trừ đi tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng

nếu như tất cả các thông tin có được liên quan đến tài sản đã sử dụng để xác định giá cả

của tài sản đó. Bởi vì nhận dạng tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng khi đánh giá thị trường có

hiệu quả hay không là một việc làm cần thiết cho nên những kiểm định thị trường hiệu

quả là quan trọng.

1.3.2 Ba hình thức của thị trường hiệu quả :

Các nhà kinh tế thường định nghĩa ba mức độ của thị trường hiệu quả, được

phân biệt bởi mức độ thông tin đã phản ánh trong giá chứng khoán.

- Hình thức hiệu quả yếu : giá cả phản ánh thông tin đã chứa đựng trong hồ

sơ giá cả quá khứ. Nếu các thị trường hiệu quả ở mức yếu thì không thể tạo

được các siêu tỷ suất sinh lợi liên tục bằng cách nghiên cứu tỷ suất sinh lợi

quá khứ. Giá cả theo một bước ngẫu nhiên.

- Hình thức hiệu quả vừa phải : Mức độ hiệu quả thứ hai đòi hỏi giá cả phản

ánh không chỉ giá cả quá khứ mà còn phản ánh tất cả thông tin đã công bố

khác, như là thông tin có thể có được do đọc các báo chí về tài chính . Nếu

các thị trường hiệu quả ở mức vừa phải, giá cả sẽ điều chỉnh ngay lập tức

trước các thông tin công cộng như là việc công bố tỷ suất sinh lợi quý vừa

22

qua, một phát hành cổ phần mới, một đề nghị sáp nhập hai công ty.

- Hình thức hiệu quả mạnh : Giá cả phản ánh đầy đủ các thông tin từ nguồn

thông tin công cộng cho đến nguồn thông tin riêng. Điều này có nghĩa rằng

không có nhóm đầu tư nào có thể độc quyền tiếp cận các thông tin liên quan

đến việc hình thành nên giá chứng khoán.

1.3.3 Vai trò của thị trường hiệu quả đối với nền kinh tế:

+ Khuyến khích đầu tư : Một thị trường hiệu quả sẽ hội đủ các yếu tố công

bằng, minh bạch, có tính thanh khoản cao và chính sách quản lý hợp lý sẽ khuyến

khích các nhà đầu tư tham gia vào. Bởi vì, trong thị trường hiệu quả thì giá trị

doanh nghiệp được định giá đúng và chính xác do đó giảm được rủi ro cho nhà đầu

tư, tạo tâm lý yên tâm khi mua bán trên thị trường.

+ Phân bổ có hiệu quả các nguồn lực : Trong nền kinh tế không hiệu quả

thì các nhà đầu tư sẽ không có được nguồn thông tin đúng đắn và kịp thời, từ đó

dẫn đến việc ra quyết định đầu tư, quyết định tài trợ không chính xác. Chính vì tính

không chính xác của các quyết định mà nguồn lực trong xã hội bị phân bổ một

cách không hiệu quả. Ví dụ như trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam : khi các

công ty cổ phần thực hiện đấu giá cổ phần ra công chúng, thông tin về hoạt động

kinh doanh cũng như giá trị của doanh nghiệp vì lý do chủ quan hay khách quan

không được truyền tải tới nhà đầu tư một cách chuẩn xác nên có thể các nhà đầu tư

đã rót vốn vào các dự án không khả thi thay vì rót vốn vào doanh nghiệp khác hoạt

động hiệu quả hơn. Điều này không chỉ làm thiệt hại cho nhà đầu tư mà còn làm

thiệt hại cho cả nền kinh tế. Như vậy, trong thị trường hiệu quả thì các nguồn lực

được phân bổ một cách hiệu quả góp phần tạo ra sự tăng trưởng và phát triển mạnh

mẽ của nền kinh tế một quốc gia

1.4 Thị trường chứng khoán:

1.4.1 Khái niệm :

Thị trường chứng khoán là thuật ngữ dùng để chỉ cơ chế của hoạt động giao dịch

mua bán chứng khoán dài hạn như các loại trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính

23

khác như chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ phái sinh, hợp đồng tương lai, quyền chọn…

Thị trường chứng khoán là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu

tư và phát triển kinh tế do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và

nền kinh tế nói chung. Mặt khác thị trường chứng khoán là một thị trường cao cấp, nơi

tập trung nhiều đối tượng tham gia với các mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau,

các giao dịch các sản phẩm tài chính được thực hiện với giá trị rất lớn. Đặc tính đó

khiến cho thị trường chứng khoán cũng là môi trường dễ xảy ra các hoạt động kiếm lợi

không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, không công bằng, gây tổn thất cho

các nhà đầu tư, tổn thất cho thị trường và cho toàn bộ nền kinh tế.

1.4.2 Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán :

Nhìn chung các tổ chức tham gia quản lý và giám sát thị trường gồm 2 nhóm : cơ

quan quản lý của Chính phủ và các tổ chức tự quản.

1.4.2.1 Các cơ quan quản lý của chính phủ : thực hiện chức năng quản lý Nhà

nước đối với hoạt động của TTCK, thực hiện các chức năng quản lý chung chứ không

trực tiếp điều hành và giám sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành

các quy định điều chỉnh các hoạt động trên TTCK tạo nên cơ sở cho các tổ chức tự

quản trực tiếp thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình.

1.4.2.2 Các tổ chức tự quản : Gồm có sở giao dịch và hiệp hội các nhà kinh

doanh chứng khoán.

- Sở giao dịch thực hiện một số chức năng sau :

+ Điều hành các hoạt động giao dịch diễn ra trên Sở thông qua việc đưa

ra và đảm bảo thực hiện các quy định cho các hoạt động giao dịch trên thị trường

+ Giám sát, theo dõi các giao dịch giữa các công ty thành viên và các

khách hàng của họ. Xử lý, cưỡng chế khi phát hiện các vi phạm hoặc báo cáo lên Ủy

ban chứng khoán để giải quyết trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng đến các quy

định của ngành chứng khoán.

+ Hoạt động điều hành và giám sát của Sở giao dịch phải được thực hiện

24

trên cơ sở phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan.

- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng

khoán được thành lập với mục đích tạo ra tiếng nói chung cho toàn ngành kinh doanh

chứng khoán và đảm bảo các lợi ích chung của TTCK. Hiệp hội các nhà kinh doanh

chứng khoán có các chức năng sau:

+ Điều hành và giám sát thị trường giao dịch phi tập trung. Các công ty

muốn tham gia thị trường này phải đăng ký với Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng

khoán và phải thực hiện các quy định do hiệp hội đưa ra.

+ Đưa ra các quy định chung cho các công ty chứng khoán thành viên

trong các lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và đảm bảo thực hiện các quy định này.

+ Thu nhận các khiếu nại của khách hàng và điều tra các công ty chứng

khoán thành viên để tìm ra các vi phạm.

+ Đưa ra các đề xuất và gợi ý với những cơ quan quản lý thị trường

chứng khoán của chính phủ về các vấn đề tổng quát trên thị trường chứng khoán.

1.4.3 Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán:

Nguyên tắc cạnh tranh :

Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh quan hệ cung

cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị

trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình

cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo mục tiêu

của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm

cho mình một lợi nhuận cao nhất và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá.

Nguyên tắc công bằng:

Theo nguyên tắc này mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy

định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các

hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những quy định đó.

Nguyên tắc công khai:

Nhà đầu tư chỉ có thể đánh giá được giá trị của chứng khoán thông qua thông tin

25

liên quan đến nó. Vì vậy thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ

thống công bố thông tin tốt. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu

cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các phương tiện thông

tin đại chúng.

Nguyên tắc tập trung :

Thị trường chứng khoán phải hoạt động thao nguyên tắc tập trung. Các giao dịch

phải diễn ra tại các trung tâm giao dịch và trên thị trường OTC, có sự kiểm soát của cơ

quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.

1.4.4 Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán

1.4.4.1 Chức năng của thị trường chứng khoán

+ Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế : Khi các nhà đầu tư mua chứng

khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản

xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua thị trường

chứng khoán, chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các

nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu

cầu chung của xã hội.

+ Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng : Thị trường chứng khoán

cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn

phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường khác nhau về tính chất, thời hạn và độ

rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lực chọn cho loại hàng hóa phù hợp với khả

năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp phần

đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.

+ Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:

Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách

nhạy bén và chính xác.

1.4.4.2 Vai trò của thị trường chứng khoán

+ Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán : Nhờ có thị trường chứng

khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc

26

các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc

tính hấp dẫn cũa chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh

hoạt, an toàn của vốn đầu tư.Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có

hiệu quả thì càng có khá năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao

dịch trên thị trường.

+ Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp : Thông qua giá chứng khoán,

hoạt động của doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho

việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận

tiện, từ đó tạo ra được một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả

sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.

+ Nghĩa vụ công khai thông tin trên thị trường chứng khoán giúp các nhà

đầu tư, các nhà quản lý thị trường có thể định giá sự tăng trưởng ổn định hay suy thoái

bất ổn của các công ty.

+ Hổ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển: Thị trường

chứng khoán hổ trợ chương trình cổ phần hóa cũng như việc thành lập và phát triển của

công ty cổ phần qua việc quảng bá thông tin, định giá doanh nghiệp, bảo lãnh phát

hành, phân phối chứng khoán một cách nhanh chóng, tạo tính thanh khoản cho chúng

và như thế thu hút các nhà đầu tư đến góp vốn vào công ty cổ phần.

Ngược lại, chính sự phát triển của mô hình công ty cổ phần đã làm phong phú và đa

dạng các loại hàng hóa trên thị trường chứng khoán, thúc đẩy sự phát triển sôi động của

thị trường chứng khoán.

+ Thu hút vốn đầu tư nước ngoài : Thị trường chứng khoán không những

thu hút các nguồn vốn trong nội địa mà còn giúp Chính phủ và doanh nghiệp có thể

phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty ra thị trường vốn quốc tế. Việc thu hút vốn

đầu tư nước ngoài qua kênh chứng khoán (FPI) là an toàn và hiệu quả vì các chủ thể

phát hành được toàn quyền sử dụng vốn huy động cho mục đích riêng mà không bị

27

ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện nào của các nhà đầu tư nước ngoài.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Thị trường hoàn hảo là thị trường mà ở đó không tồn tại những thất bại

của thị trường, giá được xác định bởi cung cầu thị trường. Một thị trường hoàn hảo

sẽ đưa đến tính hiệu quả của thị trường tức ở đó chi phí giao dịch thấp, thông tin

đầy đủ, nguồn lực phân bổ hiệu quả, giá cả chứa đựng tất cả các thông tin liên

quan.

Thị trường bị thất bại do một số trường hợp sau : Độc quyền, bất cân xứng

thông tin, các ngoại ứng, hàng hóa công cộng, sự can thiệp quá mạnh của chính

phủ vào nền kinh tế. Một khi thị trường tồn tại những thất bại thì cần có sự can

thiệp của chính phủ để nó trở nên hiệu quả.

Thị trường hiệu quả sẽ đưa nền kinh tế xã hội của một đất nước ngày

càng đi lên. Việc xây dựng một thị trường hiệu quả là tất yếu.

Thị trường chứng khoán là bộ phận quan trọng trong thị trường vốn. Thị

trường chứng khoán là nơi tạo lập nguồn vốn cho khác doanh nghiệp và tạo ra tính

thanh khoản cho cổ phiếu. Cũng như bất cứ thị trường nào khác, những thất bại

của thị trường sẽ làm cho thị trường vốn không hiệu quả. Cần thiết xem xét thất bại

trên thị trường chứng khoán nhằm khắc phục nó để phát huy vai trò và chức năng

28

của thị trường chứng khoán cho sự nghiệp phát triển chung của nước nhà.

CHƯƠNG 2: THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Thất bại của thị trường Việt Nam :

2.1.1 Sơ lược về nền kinh tế Việt Nam :

Nền kinh tế Việt Nam qua 20 năm phát triển đã phải đương đầu với không ít khó

khăn và thách thức để đạt được những thành quả tốt đẹp như bây giờ : Năm 2006, kinh

tế Việt Nam tăng trưởng 8.2%, năm 2007 dự kiến tăng trưởng ở mức 8,5%, thu nhập

bình quân đầu người năm 2006 đạt 724USD. Bên cạnh đó, địa vị của Việt Nam ngày

càng được nâng cao. Việt Nam được APEC đánh giá là quốc gia có tốc độ tăng trưởng

GDP và độ công bằng tốt nhất năm 2006. Năm 2006, Việt Nam đã đạt được những

thành tựu lớn: Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị APEC - một hoạt động quốc

tế có quy mô lớn. Việc tổ chức thành công hội nghị APEC đã thúc đẩy việc nâng cao vị

thế của Việt Nam trên trường Quốc tế. Ngày 7/11 (giờ Hà Nội), tại Geneva, Tổ chức

Thương mại thế giới (WTO) đã chính thức thông qua việc Việt Nam gia nhập và trở

thành thành viên thứ 150 của tổ chức này, theo đó thị trường tài chính sẽ mở cửa hơn,

quy định pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, điều đó thu hút vốn đầu tư nước ngoài

vào thị TTCK Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu cả nước năm 2006 đã đạt 39,6 tỷ USD,

vượt 4,9% so với kế hoạch và tăng 22,1% so với năm 2005. Đóng góp vào kim ngạch

xuất khẩu chung, các doanh nghiệp khối đầu tư nước ngoài chiếm 29,921 tỷ USD,

doanh nghiệp 100% vốn trong nước đóng góp 15,184 tỷ.

Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tiếp tục dẫn đầu về đóng góp xuất khẩu với

số vốn FDI đã đạt tới 142,9% so với dự kiến ban đầu. Tính đến cuối năm 2006, đã có 9

nhóm hàng tham gia “câu lạc bộ” kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ.

Vượt xa kế hoạch và cả con số dự báo, đầu tư trực tiếp nước ngài (FDI) vào Việt

Nam năm 2006 đã đạt con số kỷ lục 10,2 tỉ USD (vượt xa mức kế hoạch là 6,5 tỉ USD).

29

Theo Cục Đầu tư nước ngoài, vốn của các dự án cấp mới đã đạt hơn 7,6 tỉ USD, còn lại

là vốn của các dự án đang hoạt động xin tăng vốn - đây là mức thu hút FDI cao nhất kể

từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1997 đến nay.

2.1.2 Đánh giá quốc tế về nền kinh tế Việt Nam : Nền kinh tế của một quốc

gia muốn phát triển bền vững không tách rời mối quan hệ hợp tác đa phương, song

phương với các quốc gia khác trên thế giới. Trên thương trường quốc tế, vị thế của

quốc gia đó như thế nào sẽ là ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế trong tương

lai. Các chuẩn mà các tổ chức quốc tế đưa ra nhằm đánh giá, xếp hạng vị trí của từng

quốc gia là thước đo để chúng ta phấn đấu, xây dựng nền kinh tế xã hội ngang tầm với

các cường quốc khác.

Về môi trường kinh doanh : Việt Nam được Ngân Hàng Thế Giới xếp hạng 104

trong 175 nền kinh tế được khảo sát năm 2006, tụt 6 bậc so với năm 2005. Các tiêu chí

đánh giá : Khởi sự doanh nghiệp, giải quyết giấy phép, thuê mướn nhân công, đăng ký

tài sản, đi vay, bảo vệ nhà đầu tư, thuế khóa, buôn bán xuyên biên giới, thực hiện hợp

đồng và đóng cửa doanh nghiệp. Ở khu vực Đông Nam Á, môi trường kinh doanh của

Việt Nam đứng sau Singapore (hạng 1), Thái Lan (18) và Malaysia (25) và dẫn trước

các nước như Philippines(126), Indonesia (135), Campuchia (143) và Lào (159). Nhìn

chung, môi trường kinh doanh ở Việt Nam tuy có cải thiện nhưng so với nhịp độ chung

của thế giới và khu vực thì cò chậm hơn. Việt Nam cần quan tâm hoàn thiện hơn nữa

môi trường kinh doanh có thể theo tiêu chí của Ngân Hàng Thế Giới nhằm tạo điều

kiện thuận lợi và tăng cường sức mạnh cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

Về mức độ tự do kinh tế toàn cầu : Theo báo cáo hàng năm về Chỉ số mức độ tự

do kinh tế toàn cầu năm 2007của Quỹ Heritage và báo Wall Street Journal Việt Nam

được xếp hạng thứ 138 trong tổng số 157 quốc gia và vùng lãnh thổ (năm 2006 :

142/161). Theo ban tổ chức xếp hạng, mức độ tự do kinh tế được định nghĩa là không

có sự can thiệp hay hạn chế vượt quá mức cần thiết từ phía chính phủ đối với các hoạt

động sản xuất, phân phối, tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Tức là mọi công dân được tự

do lao động, sản xuất, tiêu dùng và đầu tư theo mọi cách thức mà họ cho là hiệu quả

30

nhất. Thay cho cách xếp hạng các tiêu chí theo mức độ tự do giảm dần từ 1-5 như mọi

năm, hệ thống đánh giá năm nay cũng được đổi mới, dựa trên thang điểm từ 0-100, với

chỉ số càng cao phản ánh mức độ tự do hóa càng lớn. Mặc dù, không quá coi trọng các

đánh giá của thế giới nhưng chúng ta cũng có thể tham khảo những kết quả này để làm

cơ sở tìm ra những điểm yếu của nền kinh tế, xã hội mà khắc phục. Tuy nhiên, trong

giai đoạn hội nhập này thì kết quả trên là đáng lo ngại.

Kết quả trên cho thấy Chính Phủ Việt Nam vẫn còn can thiệp quá mạnh vào nền

kinh tế điển hình như tại quyết định 38 ban hàng ngày 20/03/2007 của Thủ tướng chính

phủ, nhà nước vẫn còn giữ 100% vốn trong 19 ngành và lĩnh vực. Chỉ số tự do kinh tế

toàn cầu phản ánh khả năng hội nhập và tính chất thị trường của nền kinh tế. Nhà nước

can thiệp quá sâu vào nền kinh tế sẽ gây ra thất bại thị trường, kiềm hãm sự phát triển

của nền kinh tế, làm cho thị trường hoạt động không hiệu quả.

Về năng lực cạnh tranh toàn cầu : Việt Nam đứng vị trí thứ 77/125, tụt ba bậc so

với năm ngoái, trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu 2006 do Diễn đàn

Kinh tế thế giới (WEF) công bố. Chỉ số cạnh tranh được xây dựng dựa trên 9 chỉ số

thành phần, gồm thể chế, cơ sở hạ tầng, kinh tế vĩ mô, giáo dục và y tế phổ thông, giáo

dục đại học, hiệu quả thị trường, độ sẵn sàng về kỹ thuật, mức độ hài lòng doanh

nghiệp và mức độ sáng tạo. Việt Nam xếp thứ 74 ở yếu tố thể chế, cơ sở hạ tầng 83,

kinh tế vĩ mô 53, y tế và giáo dục phổ thông 56, giáo dục đại học xếp thứ 90, hiệu quả

thị trường 73, độ sẵn sàng về công nghệ 85. Ở hai chỉ số còn lại, Việt Nam lần lượt xếp

thứ 86 và 75.

2.1.3 Một số thất bại thị trường ở Việt Nam :

Ngoài những thành quả mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được thì vẫn còn tồn tại

những thất bại mà Nhà Nước đang và sẽ tìm cách khắc phục để dần đạt đến tính hiệu

quả của thị trường. Một số thất bại lớn của thị trường :

2.1.3.1 Độc quyền :

Độc quyền luôn là hiện tượng đi ngược với xu thế cạnh tranh của thị trường. Một

nền kinh tế mà tồn tại càng nhiều doanh nghiệp, ngành độc quyền thì càng kìm hãm sự

31

phát triển về kinh tế, xã hội của quốc gia đó. Cùng với tiến trình cải cách đất nước, tình

trạng độc quyền ở Việt Nam cũng đã giảm dần. Điển hình: theo thống kê của Vụ Đổi

mới doanh nghiệp cho thấy:

Quyết định 58 của Thủ tướng Chính phủ ban hành vào tháng 4/2002, Nhà nước giữ

100% vốn trong 60 ngành và lãnh vực đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động

kinh doanh và hoạt động công ích.

Quyết định 155 ban hành vào tháng 08/2004, số lĩnh vực Nhà nước nắm giữ sở hữu

độc quyền đã giảm xuống còn 30.

Nhưng cho tới quyết định 38 ban hành ngày 20/03 của Thủ tướng chính phủ, nhà

nước chỉ còn 100% vốn trong 19 ngành và lĩnh vực theo bảng liệt kê dưới đây : Sản

xuất, cung ứng : vật liệu nổ, hóa chất độc,chất phóng xạ; Sản xuất, sửa chữa vũ khí,

khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh, trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật

và cung ứng dịch vụ bảo mật thông tin bằng kỹ thuật nghiệp vụ mật mã; Các doanh

nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đặc biệt và các doanh

nghiệp và các doanh nghiệp đóng tại các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng sâu,

vùng xa kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

Truyền tải hệ thống điện quốc gia, sản xuất điện quy mô lớn có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng,an ninh; Quản lý, khai thác đường sắt quốc gia,

đô thị, các cảng hàng không, cảng biển có quy mô lớn; Điều hành bay, điều hành vận

tải đường sắt quốc gia; Bảo đảm an toàn hàng hải; Bưu chính công ích; Phát thanh,

truyền hình; Xổ số kiến thiết; Xuất bản, báo chí; In, đúc tiền; Sản xuất thuốc lá điếu;

Quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi, thủy nông liên tỉnh, liên huyện, kè đá

lấn biển; Quản lý, duy tu công trình đê điều, phân lũ và phòng chống thiên tai; Trồng

và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Tín dụng chính sách, phục

vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Trong các ngành nghề nói trên thì có những ngành vì lợi ích công cộng, vì sự an

toàn chính trị quốc gia mà nhà nước vẫn phải giữ thế độc quyền trong một thời gian

nhất định và điều kiện nhất định. Để đáp ứng cho yêu cầu của sự gia nhập các tổ chức

32

thế giới, trên cơ sở đảm bảo các quy ước quốc tế về tự do cạnh tranh Việt Nam cần phá

vỡ thế độc quyền của các ngành như : điện lực, điều hành bay, điều hành vận tải đường

sắt quốc gia và dần tiến tới các ngành khác.

Thời gian vừa qua, người ta bàn cãi nhiều về vấn đề độc quyền trong ngành xăng

dầu, điện lực, vận tải hàng không và đường sắt. Điển hình là vừa qua, sau khi Chính

phủ ban hành nghị định về trao quyền tự quyết giá xăng dầu cho doanh nghiệp nhằm

tiến tới một thị trường cạnh tranh thì 11 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đã đồng

loạt tăng 800đ/lit vào 0h ngày 07/05. Rõ ràng, hiện tượng trên đã vi phạm luật cạnh

tranh là ‘‘cấm các thỏa thuận hay dàn xếp nhằm hạn chế, thủ tiêu cạnh tranh’’ và quyết

định trên chỉ nhằm mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, người

tiêu dùng tiếp tục bị móc túi.

Việc ban hành nghị 38 nếu trên tinh thần hướng tới cạnh tranh thị trường và các

doanh nghiệp xăng dầu sẽ tự đổi mới nhằm giảm chi phí, giá thành theo cung cầu thì

thật đáng hoang nghênh, đằng này 11 doanh nghiệp này dựa vào ‘‘quyền tự quyết’’ để

tăng giá thì chỉ làm thiệt hại cho người tiêu dùng, cho các doanh nghiệp khác và cho

toàn xã hội mà thôi, như vậy chẳng khác nào liên minh độc quyền.

2.1.3.2 Các ngoại ứng tiêu cực :

Tại cuộc hội thảo “Chất lượng không khí và góc nhìn Báo chí” thuộc chương

trình không khí sạch Việt Nam - Thụy Sĩ (SVCAP) vừa được tổ chức tại Hà Nội, các

nhà khoa học xác định “thủ phạm” chính gây ô nhiễm môi trường ở thủ đô hiện nay là

do các cơ sở công nghiệp và mật độ phương tiện giao thông quá dày đặc.

Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới thì thiệt hại về ô nhiễm không khí ở

Thái Lan về kinh tế làm mất đi 1,6% tổng sản lượng quốc gia hàng năm do mất đi

những ngày lao động, phí tổn y tế nhập viện, chữa trị. Năm 2002, ô nhiễm bụi đã đưa

đến hơn 17.000 ca nhập viện, tốn 6,3 tỷ đô la Mỹ chi phí y tế. Qua con số thống kê này

có thể thấy chi phí xã hội cho ngoại ứng tiêu cực này là rất lớn đối với mỗi quốc qia.

Ở Việt Nam, tình trạng ô nhiễm không khí và nước đã tới mức báo động. Ở

33

thượng nguồn sông Sài Gòn và sông Đồng Nai có rất nhiều cơ sở công nghiệp đã thải

chất thải công nghiệp chưa xử lý làm ô nhiễm môi trường nước ở hạ nguồn. Mức độ ô

nhiễm hiện nay là đáng báo động vì có ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống cung cấp nước

cho TPHCM. Gần đây, Công ty Cấp nước Sài Gòn cho biết các cơ sở sản xuất bột ngọt,

nhiều hộ nuôi cá bè ở thượng nguồn khu vực Dầu Tiếng, Bình Dương… làm nước sông

Sài Gòn bị ô nhiễm, làm ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt cung cấp cho thành phố.

Ô nhiễm nguồn nước làm cho cá tôm không thể sống được làm thiệt hại về kinh tế cho

xã hội.

Thực tế là các nhà máy sản xuất ở Việt Nam thường lựa chọn những dây chuyền

công nghệ cũ, giá rẻ nhằm giảm chi phí mà họ không quan tâm đến vấn đề xử lý chất

thải. Lý do là nhà nước do chưa có quy định, biện pháp chế tài thật sự hiệu quả về vấn

đề này đối với các doanh nghiệp cho nên những thiệt hại về ô nhiễm môi trường do các

doanh nghiệp gây ra nhà nước phải tiêu tốn chí phí khá lớn để giải quyết vấn đề này,

chi phí này chính là chi phí xã hội và ngoại ứng ô nhiễm môi trường này cũng dẫn đến

tính phi hiệu quả của thị trường.

2.1.3.3: Thông tin bất cân xứng :

Thông tin bất cân xứng có ở mọi lĩnh vực: lao động, tài chính, tín dụng…..

Nhưng tùy từng thị trường có những cách khắc phục khác nhau. Ở thị trường lao động,

có thể khắc phục bất cân xứng thông tin giữa người sử dụng lao động và người lao

động là những tín hiệu phát ra từ người lao động như bằng cấp, mức lương đề nghị. Bất

cân xứng thông tin hay thông tin thiếu minh bạch đã để lại những hậu quả và thiệt hại

cho nền kinh tế xã hội.

Về mặt xã hội: thiếu minh bạch về thông tin tạo điều kiện cho một số cán bộ,

quan chức tham nhũng thông qua các dự án với kinh phí cao ngất ngưỡng nhưng thi

công ì ạch, kém chất lượng. Theo ông Đặng Văn Khoa, đại biểu Hội đồng Nhân dân

TPHCM cho biết : các ban giám sát mang tiếng là có quyền giám sát nhưng hầu như

vẫn trong tình trạng mù thông tin. Ông Khoa ví dụ gần đây nhất là dự án hệ thống thoát

nước Vạn Kiếp – Hoàng Hoa Thám (Bình Thạnh). Ban giám sát của cộng đồng ở đây

34

đề nghị được cung cấp thông tin chi tiết về dự án song cứ bị lần lữa trì hoãn mãi. Điều

đó cho thấy chúng ta đang thiếu cơ chế công khai hóa thông tin về thu , chi sử dụng tài

chính của bộ máy nhà nước.

Theo Tổ chức minh bạch quốc tế (IT), năm 1999 Việt Nam còn đứng hạng

75 thế giới về mức độ tham nhũng nhưng đến năm 2005 đã tụt xuống hạng 107. Việt

Nam thua xa cả Lào (77), Mông Cổ (85), Trung Quốc (78), Thái Lan (59), Malaysia

(39), Singapore (5).

Về mặt kinh tế : Từ khi nhà nước có chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp

nhà nước đến nay hàng loạt công ty đã bị định giá thấp hơn giá trị thực của doanh

nghiệp làm thất thoát rất nhiều tài sản của nhà nước. Mặc dù theo nghị định 187 Chính

Phủ yêu cầu phải đưa cổ phần ra đấu giá công khai nhằm đưa giá trị doanh nghiệp về

sát với giá thị trường nhưng việc thực hiện vẫn không ổn do vẫn còn quá nhiều bất cân

xứng thông tin.

Theo quy định, việc đấu giá phải được đăng trên báo Trung ương vá báo địa

phương trong 3 số liên tiếp nhưng cách doanh nghiệp thường đăng trên những tờ báo ít

người đọc. Ví dụ điển hình như việc dấu các quyết định thuê đất trong cuộc đấu giá cổ

phần của công ty Intimex (thuộc Bộ Thương Mại) cho đến khi đấu giá xong thì các nhà

đầu tư mới vỡ lẽ công ty đang nắm giữ một khối bất động sản khổng lồ vừa được cơ

quan có thẩm quyền cho thuê.

Thông tin thiếu minh bạch, bất cân xứng thông tin không chỉ gây thiệt hại

cho các nhà đầu tư mà cò làm thất thoát của cải nhà nước, tạo nên những tệ nạn cản trở

sự phát triển của nước nhà.

2.2 Thất bại của thị trường và sự phát triển của thị trường chứng khoán

2.2.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam

Thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập từ tháng 7/2000 đến nay đã

có những bước phát triển đáng kể. Tuy còn non trẻ nhưng TTCK Việt Nam bước đầu

đã góp phần hình thành một mô hình thị trường vốn tương đối toàn diện, tạo lập và vận

35

hành kênh huy động vốn trung dài hạn cho nền kinh tế. Từ hai công ty niêm yết tại

Trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM trong những ngày đầu thì đến hết

31/12/2006 đã có 106 công ty niêm yết.

Bảng 2.1 Tình hình niêm yết từ năm 2000 đến hết 31/12/2006:

Số loại CK niêm Năm Năm Năm Năm Năm Năm 31/12/06

yết 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Cổ phiếu 5 11 20 22 26 32 106

Chứng chỉ quỹ 0 0 0 0 1 1 2

Trái phiếu công ty 1 2 2 2 1 0 3

Nguồn : Báo cáo tình hình quản lý, giám sát và hoạt động năm 2006 của các tổ chức

tham gia thị trường

Đến tháng 3/2005 TTCK có thêm Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội,

được hoạt động theo cơ chế thỏa thuận. Số lượng công ty cổ phần đăng ký giao dịch

trên sàn Hà Nội cũng tăng nhanh đặc biệt là trong năm 2006, nếu tính đến 30/06/2006

có 12 công ty đăng ký giao dịch trên sàn thì đến 31/12/2006 có tới 87 công ty đăng ký

giao dịch. Tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tính theo giá thị trường đến 31/12/2006 đạt

221.156 tỷ đồng, chiếm 22.7% GDP của năm 2006, tăng 20 lần so với cuối năm 2005.

Ngoài ra, việc niêm yết trái phiếu cũng tăng đáng kể, đến 31/12/2006 có gần 400 loại

trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với tổng giá trị

trên 70.000 tỷ đồng bằng 7.7% GDP của năm 2006. Trong đó có 3.550 tỷ đồng trái

phiếu tăng vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), khoảng 1.000 tỷ đồng là các loại chứng chỉ quỹ

đầu tư chứng khoán.

Năm 2006 số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường tăng hơn 3 lần so với cuối

năm 2005, đến hết năm 2006 có khoảng 100.000 tài khoản giao dịch tại các công ty

chứng khoán, tăng mạnh so với 31.300 tài khoản của năm 2005. Trong đó 1.700 tài

khoản (chiếm 1.7%) của nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm một số nhà đầu tư quốc tế

36

như JP Morgan, MerrII Lynch, Citigroup…

Những tháng đầu năm 2007 là sự bùng nổ của TTCK Việt Nam, theo UBCK thì

cho đến cuối tháng 5 năm 2007 các nhà đầu tư trên cả nước đã mở đến 200.000 tài

khoản để giao dịch chứng khoán nhiều gấp 2 lần so với cuối năm 2006, tuy nhiên con

số này chỉ mới chiếm 2,5% dân số, còn rất thấp so với các nước như Trung Quốc(6%).

2.2.2 Thất bại của thị trường trên thị trường chứng khoán

2.2.2.1 Tác động của bất cân xứng thông tin đến thị trường chứng khoán

Việt Nam

Thất bại lớn nhất trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là bất cân

xứng thông tin - bất cân xứng thông tin giữa các nhà đầu tư, giữa doanh nghiệp và các

nhà đầu tư. Bất cân xứng thông tin sẽ dẫn đến việc đưa ra các quyết định không chính

xác của nhà đầu tư từ đó sẽ tạo ra lượng cung, lượng cầu ảo trên thị trường và kết quả

là thị trường bong bóng và nguy cơ đỗ vỡ thị trường. Trên thị trường sơ cấp, bất cân

xứng thông tin sẽ dẫn đến sự phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả vào các dự

án và trên cả hai thị trường sơ cấp, thị trường thức cấp, bất cân xứng thông tin sẽ gây

thiệt hại cho nhà đầu tư.

Bất cân xứng thông tin làm mất niềm tin ở các nhà đầu tư về một sân chơi bình

đẳng, gây tâm lý bất an và chán nản dẫn đến việc rút vốn khỏi thị trường của các nhà

đầu tư, và việc chuyển nguồn vốn vào các kênh đầu tư khác hoặc ở thị trường chứng

khoán của các nước khác.

Như ta biết, nguồn vốn FII vào Việt Nam thông qua việc đầu tư vào các công ty cổ

phần trên thị trường chứng khoán. Nhưng với môi trường kinh doanh không công bằng

và thiếu minh bạch như vậy liệu có đủ lực hấp dẫn để nhà đầu tư nước ngoài đổ vốn

vào Việt Nam theo kênh này không? Không tự dưng mà các nhà đầu tư nước ngoài đã

đổ hàng ngàn tỷ đô vào thị trường chứng khoán New York, bởi vì ở đó họ yên tâm rằng

họ đang đầu tư trong một môi trường công bằng và minh bạch, ở đó nếu tính toán và

phân tích vượt trội người khác họ sẽ chiến thắng, và ở đó có những quy định chặt chẽ

để bảo vệ những nhà đầu tư lành mạnh xử lý một cách triệt để những trò lừa gạt, đánh

37

lận con đen.

2.2.2.2 Đánh giá thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam

2.2.2.2.1 Các kênh thông tin thị trường chứng khoán ở Việt Nam:

Trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay tồn tại một số kênh thông

tin chủ yếu cho nhà đầu tư :

+ Thông tin từ tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty đại chúng, công

ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán. Thông tin từ các tổ

chức trên là dạng thông tin gốc, độ tin cậy cao. Quy trình công bố thông tin và nội dung

của thông tin được công bố của các tổ chức này cũng được luật chứng chứng khoán

quy định

+ Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán : Đây là kênh

cung cấp các thông tin thông tin tổng quát về thị trường chứng khoán như : Thông tin

về giao dịch chứng khoán; về tổ chức niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung

tâm giao dịch chứng khoán, thông tin về công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ,

quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán, thông tin về giám sát hoạt động

của thị trường chứng khoán.

+ Thông tin từ phương tiện truyền thông, từ đánh giá của các chuyên gia :

nguồn thông tin này cung cấp cho nhà đầu tư những phân tích cơ bản, những nhận định

về xu hướng của thị trường hay về những vấn đề liên quan đến thị trường chứng khoán.

Nhìn chung, thông tin ở kênh này thường định hướng tâm lý đầu tư, các nhà đầu tư dễ

bị cuốn theo những phân tích và nhận định này. Vì vậy, có một số thành phần lạm dụng

quyền của mình để cố tình định hướng các nhà đầu tư, thu lợi cá nhân. Nhà đầu tư cần

phải tỉnh táo nhận định các phân tích từ kênh thông tin này, chí ít có thể phân biệt

thông tin của các chuyên gia kinh tế và thông tin của các tay mơ .

+ Thông tin có được từ các kênh không chính thức khác: như thông tin từ nội

bộ công ty, tổ chức, thông tin rỉ tai bên lề, thông tin mua được.

2.2.2.2.2 Chất lượng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam :

Khi đầu tư vào cổ phiếu của một công ty nào đó thì nhà đầu tư rất quan tâm về

38

tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của nó. Báo cáo tài chính là nguồn thông tin

cần thiết để nhà đầu nắm được những chỉ số cũng như năng lực của công ty. Về nguyên

tắc, tất cả các công ty cổ phần đều phải công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán

cho các cổ đông. Tuy nhiên, về chất lượng của các báo cáo tài chính này như thế nào

thì đó còn là vấn đề cần xem xét. Chất lượng của thông tin tùy thuộc vào nhiều yếu tố:

+ Các tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên : Đối với các công ty niêm yết trên

thị trường tập trung, các công ty đại chúng báo cáo tài chính phải được kiểm toán bởi

các tổ chức kiểm toán được chấp thuận (tức là các công ty kiểm toán độc lập thuộc

danh mục các công ty kiểm toán được Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước chấp thuận

kiểm toán theo điều kiện do Bộ Tài Chính đề ra). Như vậy, một mặt nào đó thì chất

lượng kiểm toán của các công ty này cũng tương đối hơn các công ty kiểm toán nhỏ lẻ

khác.Tuy nhiên, không phải bất kỳ tổ chức kiểm toán nào được Ủy Ban Chứng Khoán

Nhà Nước chấp thuận đều cho kết quả tin cậy. Vấn đề là còn ở chổ đạo đức nghề

nghiệp của các tổ chức kiểm toán trong quá trình thực hiện kiểm toán các doanh

nghiệp.

Cho đến cuối tháng 05/2006 cả nước có 95 công ty kế toán kiểm tóan trong đó

có 3 công ty nhà nước, 4 công ty có 100% vốn nước ngoài, 16 công ty hợp danh,14

công ty cổ phần, còn lại là TNHH. Trong đó có 87 công ty đủ điều kiện hành nghề.

Kiểm toán cũng là một lọai hình dịch vụ, công ty kiểm toán họat động cũng nhằm mục

đích thu lợi nhuận vì vậy sự cạnh tranh của các công ty kiểm tóan sẽ đưa đến giá phí

thấp và như vậy cũng một phần nào đó làm chất lượng kiểm toán bị ảnh hưởng

Thế nhưng, với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán thì số lượng công ty đại

chúng, công ty niêm yết càng gia tăng nhưng số lượng công ty kiểm toán được chấp

thuận không tăng, có 12 công ty kiểm toán được chấp thuận nhưng cho đến cuối tháng

3 vừa qua, Công ty TNHH Dịch vụ kiểm toán và Tư vấn kế toán BHP đã bị mất quyền

được kiểm toán cho các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh

chứng khoán, do không đủ số lượng kiểm toán viên theo yêu cầu. Như vậy chỉ còn 11

công ty kiểm toán trong khi có tới 199 doanh nghiệp niêm yết và 6 công ty chứng

39

khoán. Như vậy, về số lượng đã không đủ đáp ứng như cầu của thị trường .

Theo quy định, một công ty kiểm toán được thành lập 3 năm và có từ 10 kiểm

toán viên trở lên thì sẽ đủ điều kiện trở thành công ty kiểm toán được chấp thuận. Vì

vậy, để đảm đủ số lượng kiểm toán viên thì các công ty kiểm toán sẽ sẵn sàng tuyển

dụng ngay lập tức nếu gặp một ứng cử viên có đủ điều kiện theo quy định. Việc tuyển

dụng không sàn lọc, phải lo chạy theo chỉ tiêu số lượng sẽ làm cho chất lượng nhân sự

trong các công ty kiểm toán giảm đi và điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm

toán.

Ngoài ra, việc vi phạm luật kiểm toán vẫn còn tồn tại nhưng chưa được phát

hiện xử lý như việc nhân viên kiểm toán lợi dụng mối quan hệ công việc để mua cổ

phần tại các công ty được kiểm toán, làm kiểm toán một lúc cho hai nơi, nhận lợi ích

vật chất từ các công ty được kiểm toán. Những tồn tại này làm cho chất lượng báo báo

tài chính không cao, có thể làm sai lệch nội dung báo cáo tài chính.

Thông tin từ báo chí : Trong thời gian qua, sự phát triển của thị trường chứng

khoán không thể không kể đến vai trò của báo chí. Thông qua các phương tiện truyền

thông mà chứng khoán đến với nhà nhà, người người. Nhà đầu tư ở nước ngoài cũng

biết đến và tìm hiểu thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua báo chí và các

phương tiện truyền thông khác. Trước các văn bản pháp luật về TTCK, báo chí đóng

vai trò quan trọng nhất trong việc tham gia phân tích, phản biện. Bên cạnh đó, báo chí

cũng là công cụ đắc lực trong việc thúc ép các công ty niêm yết công bố thông tin ra thị

trường. Sau khi những thông tin của doanh nghiệp được công bố, báo chí phải tiếp tục

phân tích và đào sâu.

Ngoài các tác động tích cực mà báo chí đã đem đến cho thị trường chứng khoán

Việt Nam thì vẫn còn tồn tại những tiêu cực như: Thông tin về cổ phiếu, về doanh

nghiệp qua ngòi bút của một số nhà báo trở thành công cụ tác động đến tâm lý của các

nhà đầu tư nhằm thay đổi xu hướng thị trường theo hướng có lợi cho một số nhà đầu tư

hay cho chính các nhà báo.

Một lý do không kém phần quan trọng đó là do sự hiểu biết của các nhà báo về

40

chứng khoán còn quá hạn hẹp, nên khả năng bình luận về thị trường chứng khoán cũng

hạn chế đều đó dẫn đến chất lượng thông tin họ gới đến người đọc rất kém. Điển hình:

Báo tiền phong điện tử đăng vào ngày 12/01/2007 thông tin về SJS "sập sàn". Thực

chất là do SJS chia 3 cổ phiếu thưởng cho 1 cổ phiếu hiện tại nên giá cổ phiếu của công

ty giảm tương ứng từ 728.000đ/CP xuống còn 190.000đ/CP. Các nhà báo dường như

phải chạy theo thị trường nên họ không kịp trang bị cho mình những kiến thức cơ bản

về thị trường, thường bình luận theo cảm giác và cường điệu hóa vấn đề xung quanh sự

thay đổi của thị trường.

Đặc điểm của thị trường chứng khoán ở Việt Nam là số lượng nhà đầu tư cá

nhân chiếm đa số, và hiện tượng chơi theo phong trào, theo cảm tính tuy có giảm

nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều. Đa số những nhà đầu tư này mua bán theo tin đồn bên

ngoài, từ các bài luận trên báo chí, do đó chỉ cần những lời bình có điểm nhấn là có thể

thay đổi quan điểm của họ. Vì vậy, báo chí cần cẩn trọng trong việc đưa ra các bình

luận về thị trường và bình luận một cách khách quan, không đưa cảm xúc của mình vào

bài viết, hãy để cho nhà đâu tư tự quyết định.

2.2.2.2.3 Khâu tổ chức quản lý của các tổ chức công bố thông tin

Ngoài các thông tin trên báo cáo tài chính định kỳ thì các thông tin bất thường

liên quan đến hoạt động của công ty cũng rất cần thiết cho nhà đầu tư. Có ý kiến cho

rằng ( theo báo điện tử vnexpress.net) thông tin từ công ty niêm yết trước khi công khai

phải được gởi đến trung tâm giao dịch chứng khoán kiểm duyệt tính xác thực và

thường là được công bố đến các nhà đầu tư sau 1 thời gian là 2 đến 3 ngày. Thông tin

này đến được nhà đầu tư thì giá trị của nó đã giảm đi nhiều lần vì đã có những giao

dịch trước đó làm cho nhà đầu tư khi nhận thông tin thì trong sự “đã quá muộn“

Thực tế là theo luật công bố thông tin, các công ty niêm yết phải có trách nhiệm

công bố thông tin cho công chúng đồng thời gởi lên TTGDCK các thông tin đã công

bố. Vậy nhưng, các công ty, các tổ chức đã không thực hiện theo luật, họ chỉ gởi thông

tin lên cho UBCK là xong nhiệm vụ, không quan tâm đến việc phải công bố kịp thời

thông tin ra công chúng trên các trang điện tử, trên các phương tiện thông tin đại

41

chúng. Như vậy việc rò rĩ thông tin làm cho thông tin đến khi được công bố giảm giá trị

đáng kể không chỉ do các tổ chức quản lý thị trường chứng khoán như UBCKNN hay

TTGDCK mà ngay tại các doanh nghiệp – nơi đẻ ra các thông tin đó.

2.2.2.3 Biểu hiện bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt

Nam

+ Gian lận thông tin : Hiện nay, trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam tình

trạng thổi phồng thông tin có lợi cho doanh nghiệp nhằm định hướng cho dư luận đánh

giá chứng khoán cao hơn thực tế là không ít. Ngay chính bản thân tôi cũng được chào

mời mua cổ phiếu của công ty Cổ Phần Kỹ Nghệ Lạnh Searefico với giá gấp 12 lần

mệnh giá với các thông tin như sắp tăng vốn đủ 80 tỷ để niêm yết vào tháng tới, sắp

được chia cổ phiếu thưởng với tỷ lệ hấp dẫn, và hãy mua đi vì giá lên hàng

ngày....Thông tin này được cung cấp bởi một cán bộ có vị trí kha khá trong công ty.

Có thể thấy, việc sử dụng thông tin như một công cụ biến hóa để đưa giá cổ

phiếu tăng lên nhiều lần so với mệnh giá là phổ biến. Vào trang web sàn OTC là có thể

thấy ngay, kiểm chứng 10 trường hợp rao bán, rao mua của Công ty Cổ Phần Đầu Tư

và Phát Triển Xây Dựng INVESTCO thì đã có hết 8 trường hợp là thổi phồng thông

tin, thổi phồng giá, cung cầu giả.

Các tổ chức không thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin kịp thời:

Luật đầu tư chứng khoán quy định rất rõ thời hạn các loại hình tổ chức phải

công bố thông tin cho nhà đầu tư nhưng thực tế thì các tổ chức gần như không thực

hiện cũng như thực hiện một cách chậm trễ. Ngoài các thông tin mà luật quy định phải

công bố thì các tổ chức đã không cung cấp các thông tin bất thường có liên quan đến

giá cổ phiếu cho nhà đầu tư ; bảng cáo bạch được báo cáo một cách sơ sài, không đầy

đủ những thông tin cần thiết và quan trọng.

Doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư:

Đó là việc ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu

tư tổ chức mà không công bố rộng rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy ở

các cuộc đấu giá thì người đấu giá thành công chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức. Loại

42

trừ khả năng các nhà đầu tư tổ chức có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích và nhiều vốn

hơn thì người ta cũng nghi ngờ các nhà đầu tư nhận được nhiều thông tin chất lượng

hơn so với các nhà đầu tư cá thể.

Tung tin đồn thất thiệt:

Những tin đồn làm ảnh hưởng tới uy tín công ty điển hình là trong tháng ba vừa

qua có tin đồn Tổng Giám Đốc Công Ty Cổ Phần Vincom – Bà Mai Hương Nội biến

mất ôm theo hàng trăm tỷ đồng. Nhưng thực tế là không hề có chuyện đó xảy ra cụ thể:

vào ngày 11/03/07 phóng viên báo Dân trí đã có cuộc phỏng vấn Bà Nội tại văn phòng

làm việc công ty. Trong thời điểm này Công ty Cổ Phần Vincom đang nộp hồ sơ xin

Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước cho phép niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng

khoán, những tin đồn như vậy không khỏi làm giảm uy tín của công ty đồng thời ảnh

hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư mong muốn đầu tư vào công ty, và cả việc các

trung tâm công bố thông tin không chính xác về tổ chức niêm yết.

Đặc biệt : Thị trường chứng khoán chợ đen ở Việt Nam hiện nay là thị trường

chứa đựng rủi ro tiềm ẩn cao nhất, hoạt động một cách tự phát và không chịu sự quản

lý của cơ quan nào. Biên độ giá cả là vô hạn, thông tin thì vô cùng, thiếu cơ sở . Bất

cân xứng thông tin trên thị trường chợ đen này là rất lớn, người bán luôn đưa ra những

thông tin rất hấp dẫn và người mua thì phải luôn cân nhắc, mò mẩm trong mớ thông tin

hổn độn đó. Có thể thấy, ngoài vỉa hè cũng nghe thông tin về chứng khoán, nào là công

ty A sắp lên sàn, công B sắp được chia cổ tức bằng cổ phiếu, cổ phiếu thưởng. Người ta

rỉ tai nhau, lôi kéo nhau, lừa gạt nhau.

Mặc dù hoạt động trên thị trường này chịu sự chi phối của luật dân sự, các hoạt

động chuyển nhượng tên cổ đông vẫn phải thông qua chủ tịch hội đồng quản trị của

công ty đó nhưng về thông tin của các doanh nghiệp phát hành riêng lẻ thì chủ yếu do

các nhà đầu tư tự tìm hiểu từ các nguồn khác nhau.

Luật chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 yêu cầu tất cả các công ty đại

chúng phải đăng ký tập trung về Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước nhưng không mấy

công ty chấp hành quy định này. Có thể thấy lý do họ đưa ra đi ngược với xu hướng

43

tiến tới thị trường minh bạch về thông tin. Họ cho rằng, đăng ký thành công ty đại

chúng thì không có lợi cho doanh nghiệp mà chỉ có nghĩa vụ nhiều hơn, theo quy định

thì các công ty đại chúng phải công bố thông tin theo điều 101 của luật chứng khoán.

Có thể thấy, trong suy nghĩ chủ quan của các doanh nghiệp đã không muốn công khai

minh bạch thông tin ra công chúng, luật thì có nhưng triển khai thi hành không nghiêm,

biện pháp xử phạt vi phạm hành chánh đối với các công ty đại chúng không đăng ký

phải chăng là còn quá nhẹ. Một khi các công ty đã cố tình không công bố thông tin thì

việc tìm hiểu của các nhà đầu tư là rất khó khăn và thông tin có được chưa chắc đã

chính xác, và hơn nữa nó còn tạo điều kiện cho hành vi mua bán thông tin, thông tin

nội gián và giao dịch nội gián.

Giao dịch nội gián : Giao dịch nội gián là hành vi mua bán hoặc cung cấp thông

tin cho người khác để thực hiện việc mua bán chứng khoán dựa trên thông tin có được

từ nội bộ công ty mà thông tin này sau khi công bố ra công chúng sẽ ảnh hưởng đến giá

cả của loại chứng khoán đó.

Từ khi thị trường chứng khoán ra đời cho đến nay không ít hoạt động giao dịch

nội gián đã thực hiện nhưng chưa có một trường hợp nào bị phát hiện và xử lý.Có thể

nói, không có cơ quan chức năng nào quan tâm tới việc điều tra phát hiện giao dịch nội

gián thì làm gì có xử lý. Hoạt động nội gián trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam

tồn tại một cách nghiễm nhiên, ai có được thông tin nội gián thì y như rằng người đó

được “thần tài gõ cửa’’. Ban quản trị là những người nắm chắc thông tin về kế hoạch

hoạt động của công ty; kết quả là bản thân họ, gia đình, người thân đều được hưởng lợi

từ các thông tin nội gián này.

Một số nhà đầu tư đã rất bức xức đối với trường hợp họ nghi ngờ là có thông tin

nội gián tại sàn giao dịch Hà Nội và đã gởi Email yêu cầu VnEconomy xác minh. Họ

đưa ra bốn trường hợp như sau :( 26/01/2007 theo Vn economy)

+ Công ty Thạch cao xi măng đưa thông tin chia cổ tức 16% và tăng vốn điều lệ

năm 2007 từ ngày 05/01 nhưng đến ngày 12/01 HASTC mới đưa tin.

+ Công ty Sông Đà 9 họp Hội đồng quản trị ra nghị quyết từ ngày 12/01 về việc

44

chia cổ tức bằng 15% bằng cổ phiếu, trình đại hội cổ đông sắp tới kế hoạch sản xuất

kinh doanh và chia cổ tức 18% năm 2007, giao Tổng Giám Đốc xem xét phương án

chuyển sàn HASTC nhưng đến nay vẫn chưa có công bố của HASTC.

+ PTIC chốt quyền cổ tức trong hai ngày 18 và 19/01 nhưng sáng ngày 19

HASTC mới có thông báo. Trong khi trung tâm lưu ký đã có thông báo từ ngày 12/01.

+ Bốn công ty sách giáo khoa đều có phương án tăng vốn điều lệ bằng phát

hành cổ phiếu thưởng tỷ lệ 5:1. Các công ty sách giáo khoa hiện phần lớn sản lượng

phụ thuộc vào nhà xuất bản giáo dục và dự kiến đến năm 2008 không còn độc quyền in

sách giáo khoa. Đây là điều các cổ đông lo nhất. Chính vì vậy các công ty này có P/E

thấp nhất thị trường nên việc tăng vốn điều lệ bằng cổ phiếu thưởng chứng tỏ các công

ty này đang có hướng sản xuất mới hước tới các thị trường và các khách hàng tiềm

năng. Từ khi có tin giá các cổ phiếu này đều tăng gấp 2 lần vậy mà HASTC không hề

đưa tin.

Để giải thích cho 4 trường hợp trên Ông Nguyễn Vũ Quang Trung – Phó Giám

Đốc HASTC chỉ công nhận một trường hợp đầu tiên, các trường hợp còn lại Ông đưa

ra nhiều lý do như công văn bị thất lạc hay chậm trễ do khâu hành chính ở trung tâm,

do trục trặc đường công văn giữa trung tâm lưu ký và Trung Tâm Giao dịch chứng

khoán Hà Nội. Ông cho rằng do khối lượng công việc quá nhiều, nhân viên bị hạn chế

về số lượng lẫn nghiệp vụ dẫn đến các sai sót trên.

Có thể thấy các lý do mà PGĐ đều là lý do chủ quan mà HASTC có thể không

để xảy ra nếu quản lý tốt hơn, nó chứng tỏ sự thờ ơ của Trung Tâm và của doanh

nghiệp đối với quyền lợi của nhà đầu tư cũng như phớt lờ các quy định của pháp luật về

việc thực hiện các nghĩa vụ của chính các tổ chức đó để góp phần tạo một sân chơi

minh bạch và bình đẳng.

Nhận định của tôi về bốn trường hợp trên như sau:

Điểm chung của 4 trường hợp trên là HASTC cung cấp thông tin chậm và có

trường hợp không cung cấp thông tin. Sự chậm trể và thiếu sót của HSATC gây thiệt

hại lớn cho một số nhà đầu tư, tạo nên sự bức xúc, mất niềm tin vào năng lực và ý chí

45

của quản lý của cơ quan quản lý nhà nước từ đó sẽ góp phần đẩy nhà đầu tư ra khỏi sàn

giao dịch. Có nội gián hay không thì còn xem xét lại, ở đây tác giả chỉ nêu lên sự chậm

trể của HASTC mà không cho thấy biểu hiện bất thường của các giao dịch trong

khoảng thời gian này. Tuy nhiên, cả 4 trường hợp trên đều thể hiện sự bất cân xứng

thông tin giữa các nhà đầu tư và hoạt động nội gián hoàn toàn có thể xảy ra nếu như

những người biết trước các thông tin trên tiến hành giao dịch đón đầu xu hướng giá cả

để thu lợi. Người biết trước thông tin ở đây có thể là người từ nội bộ doanh nghiệp, từ

HASTC, trung tâm lưu ký chứng khoán....

Thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là thị trường mới nổi phát

triển một cách vượt bậc và được sự quan tâm của không ít nhà đầu tư, tổ chức trên thế

giới. Đây là nơi thu hút vốn trung dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, vậy mà tiêu chí

bình đẳng trên sân chơi này ngày một giảm sút.

Ngoài ra, báo tuổi trẻ số 68/2007 ngày 14/03/2007 có đưa một số thông tin về

nghi ngờ giao dịch nội gián như : từ sau tết, giá cổ phiếu của một đơn vị niêm yết tăng

mạnh trong suốt 12 phiên (tính đến phiên giao dịch ngày 13/03) trong đó có 9 phiên

tăng giá kịch trần. Theo một nhà đầu tư tại sàn ACBS, giới chơi chứng khoán đang rỉ

tai nhau thông tin về việc đơn vị này sẽ phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ với tỉ lệ

và giá hấp dẫn, mặc dù những thông tin này chưa được công bố. Cũng theo nhà đầu tư

này, thông tin này hoàn toàn có cơ sở do một “tay trong“ - người nhà của một quan

chức cỡ bự - đã âm thầm mua vào hơn 10.000 CP từ cuối tháng 01 năm 2007. Nhưng

chuyện gom cổ phiếu chỉ mới được bàn dân thiên hạ biết được vài ngày trước phiên

giao dịch đầu tiên của năm Đinh Hợi, sau khi đơn vị này phải giải trình theo yêu cầu

của TTDGCK.

Trong bảy năm qua kể từ khi thị trường chứng khoán VN đi vào hoạt động,

“nghi án’’ giao dịch nội gián lớn nhất là giao dịch có liên quan đến cổ phiếu công ty

bánh kẹo. Ở thời điểm công ty này đang rối ren trong vụ biến lỗ thành lời cho năm tài

chính 2002 , ông L.V thành viên HĐQT đã bán ra 40.000CP của công ty. Khi đó, giới

đầu tư nghi ngờ ông V biết được nội tình nên đã kịp thời tháo chạy. Và quả thật, tháng

46

6/2003 ông V bước ra khỏi Hội đồng quản trị công ty này.

Các trường hợp nghi ngờ nội gián nêu trên khá rõ ràng và trường hợp của công

ty cổ phần bánh kẹo trên qua động thái mua bán như vậy, UBCK cần có những hành

động kịp thời điều tra xử lý để làm sạch môi trường và răn đe những hành vi vi phạm

pháp luật tiếp theo. Tuy nhiên cho đến thời điểm bây giờ là gần cuối tháng 5/2007, vẫn

chưa có trường hợp nào được đưa ra ánh sáng. Có thể thấy, giao dịch nội gián gần như

không kiểm soát được ở Việt Nam mà nguyên nhân là do cơ quan quản lý nhà nước

còn thiếu kinh nghiệm và luật còn quá lỏng lẻo.

Mặc dù TTGDCK đã yêu cầu các công ty có giá cổ phiếu tăng kịch trần trong

năm phiên liên tiếp phải giải trình về các thông tin có liên quan đến việc tăng giá nhưng

dường như là không giải quyết được. Các công ty giải trình theo nhiều cách khác nhau :

một số công ty giải trình do họ có hợp đồng mới, một số cho rằng có kế hoạch phát

hành cổ phiếu thưởng, số khác nói là tăng theo xu hướng của thị trường và những giải

trình này được chấp nhận một cách dễ dàng vì theo chủ tịch một công ty quản lý quỹ là

cơ quan quản lý thị trường khó lần ra những ai đứng sau các vụ tăng giá này. Sự bất lực

trong khâu quản lý, phát hiện và xử lý các hành vi kinh doanh bất hợp pháp là tồn tại

lớn trong sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam và các cơ quan giám sát

thị trường cần quan tâm hơn đến vấn đề này cũng như nhà nước cần tạo điều kiện thuận

lợi về pháp lý để hổ trợ cơ quan giám sát thị trường chứng khoán thực hiện tốt hơn

47

nhiệm vụ của mình.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc kế từ năm

1986, nhưng đặc biệt là vào những năm của thế kỷ 21 này. Vào thời kỳ bao cấp,

do sự can thiệp quá sâu của Chính Phủ vào sự vận hành của nền kinh tế nên đã

kìm hãm sự phát triển, làm cho nền kinh tế trở nên tụt hậu. Đó chính là thất bại

trường nặng nề mà chính phủ Chính Phủ ta đã kịp thời sửa đổi, để cho nền kinh

tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và chúng ta đã đạt

được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, để phát triển bền vững Việt Nam cần

phải giải quyết dần những thất bại thị trường nhằm tạo ra một thị trường hiệu

quả. Hiện nay, Việt Nam vẫn còn tồn tại một số thất bại thị trường chủ yếu : Độc

quyền, bất cân xứng thông tin, ngoại ứng tiêu cực....Những thất bại này đã làm

kìm hãm một số ngành quan trọng, chủ chốt của nền kinh tế, gây tổn thất về chi

phí xã hội, tạo ra sự tăng nóng không bền vững.

Thị trường chứng khoán chỉ mới bắt đầu ở Việt Nam từ năm 2000 và đã trở

thành một kênh huy động vốn trung dài hạn cho nền kinh tế. Sự phát triển thị

trường chứng khoán trong 2 năm 2006 và 2007 được các chuyên gia trong và

ngoài nước đánh giá là tăng trưởng nóng. Ngoài nguyên nhân thị trường mới nổi,

đầu tư theo tâm lý bầy đàn, đầu cơ, rửa tiền thì bất cân xứng thông tin là nguyên

nhân quan trọng làm cho một số thành phần làm giàu bất hợp pháp một cách

nhanh chóng. Tình trạng bất cân xứng thông trên thị trường chứng khoán ở Việt

Nam là vấn đề mà Chính Phủ cần quan tâm giải quyết nhằm tiến tới xây dựng

48

một thị trường vốn hiệu quả.

CHƯƠNG 3: KHẮC PHỤC BẤT HOÀN HẢO CỦA THỊ TRƯỜNG

NHẰM XÂY DỰNG THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ NÓI CHUNG VÀ

THỊ TRƯỜNG VỐN HIỆU QUẢ NÓI RIÊNG

3.1 Xây dựng thị trường hiệu quả

Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển cùng với các sự kiện kinh tế chính trị

quan trọng : Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới

(WTO), Hội nghị APEC 2006 tại Hà Nội thành công tốt đẹp, Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ 10. Việc gia nhập WTO cũng như tổ chức thành công hội nghị APEC tạo điều

kiện thuận lợi cũng như cơ hội để kinh tế Việt Nam ngày càng tăng trưởng và phát

triển. Việc xây dựng một thị trường hiệu quả luôn là yếu tố cần thiết để đưa đất nước

ngày một tiến lên sánh vai cùng các nước phát triển khác. Qua hai phần trên ta đã thấy

rõ thị trường hiệu quả là thị trường như thế nào và Việt Nam đang tồn tại một số bất

hoàn hảo gì là rào cản cho sự phát triển thị trường nói chung và thị trường vốn nói

riêng.

Trên cơ sở một số thất bại của thị trường có thể đưa ra các giải pháp sau để khắc

phục :

Giảm độc quyền : Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong nội địa cũng như trên

thế giới Chính Phủ cần phải giảm bớt độc quyền nhà nước và hạn chế dần sự thống lĩnh

thị trường của khu vực này bằng cách:

Chính Phủ cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển khu vực

kinh tế tư nhân như cho phép các tổ chức tư nhân và nước ngoài tham gia vào những

lĩnh vực như điện lực, khai thác đường bay nội địa, bưu chính viễn thông ... Việc mở

rộng hình thức sở hữu cũng sẽ góp phần tạo ra kênh huy động vốn hết sức hiệu quả

nhằm phát triển các lĩnh vực trọng yếu trên.

Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.

49

Thực thi chính sách giảm dần sự hổ trợ đối với khu vực kinh tế nhà nước.

Cho phép nhiều doanh nghiệp nhà nước cùng tham gia một lĩnh vực do một

doanh nghiệp độc quyền từ trước tới nay để hạn chế vị trí thống lĩnh độc quyền của

doanh nghiệp đó.

Giảm các ngoại ứng tiêu cực :

Các ngoại ứng tiêu cực do các nhà máy gây ra tổn thất kinh tế xã hội vô cùng to

lớn. Nếu không có các biện pháp mạnh để hạn chế tình trạng này thì sẽ khó mà nâng

cao tính hiệu quả của thị trường nói chung. Các doanh nghiệp không bỏ ra chi phí để

giải quyết cũng như hạn chế vấn đề này nhưng chi phí đó lại đẩy qua cho nhà nước. Vì

vậy, càng nhiều doanh nghiệp tham gia vào sản xuất để thu được phần lợi nhuận từ chi

phí mà đúng ra họ phải gánh chịu nhưng chính phủ đã gánh chịu thay, và kết quả là

càng gây ô nhiễm môi trường, chi phí xã hội càng lớn.

Từ đó, có thể thấy Chính phủ cần thiết phải gắn sản xuất của doanh nghiệp với

trách nhiệm xã hội. Xây dựng khuôn khổ pháp luật buộc các doanh nghiệp phải quan

tâm đến vấn đề xử lý chất thải. Các doanh nghiệp buộc phải đưa chi phí xử lý chất thải

này vào chi phí của doanh nghiệp và do đó phải luôn học hỏi cải tiến công nghệ sao

cho có lợi nhất, thị trường sẽ loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém không đủ năng lực

và giữ lại những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả.

Chỉ đưa ra luật thôi không đủ, Chính Phủ cần phải quản lý chặt chẽ hơn nữa vấn

đề xử lý chất thải của các doanh nghiệp này. Không cho phép xây dựng các cơ sở có

nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và có nguy cơ gây sự cố môi trường.

Các cơ quan cần phải thực hiện một cách nghiêm túc việc kiểm nghiệm công nghệ xử

lý ô nhiễm trước khi cấp giấy phép đầu tư vào dự án nào đó.

Chính Phủ cần triển khai và đưa vào áp dụng một cách rộng rãi chương trình

Sản Xuất Sạch Hơn cho các doanh nghiệp. Theo kinh nghiệm của các chuyên gia về

SXSH của UNIDO và khảo sát thực tế tại Tp. Hồ Chí Minh, hơn 50% chất thải có thể

tránh được bằng các biện pháp quản lý đơn giản và các thay đổi nhỏ trong quy trình sản

50

xuất, và hơn 65% rào cản để áp dụng SXSH lại liên quan đến động cơ và thái độ hợp

tác của lãnh đạo, nhân viên trong nhà máy. Việc áp dụng SXSH sẽ giúp cho các doanh

nghiệp ít tốn chi phí hơn là xử lý chất thải cuối đường ống vì SXSH sẽ giúp cải thiện về

cả môi trường lẫn kinh tế, nó cho phép nhà quản lý sẽ xác định được các thất thoát,

hiểu được tại sao xảy ra lãng phí.

Giảm thiểu bất cân xứng thông tin trên thị trường nói chung:

Để khắc phục được tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường cần phải

thực hiện chủ trương minh bạch hóa thông tin.

Đối với nhà nước : Nhà nước cần có quy định cụ thể về việc công khai hóa các

thông tin tài chính công. Việc công khai hóa tài chính công sẽ giúp cho dân giám sát

việc thực thi quyền lực nhà nước, chống tham nhũng. Có thể thực hiện việc minh bạch

hóa thông tin bằng một số việc sau :

Cho phép các nhà báo tìm hiểu thông tin về các dự án đang triển khai bằng vốn

nhà nước.

Công khai các vấn đề liên quan đến các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước

trên các trang web về tài chính công cho dân biết.

Chú trọng phát triển công nghệ thông tin trên toàn quốc, thiết lập, cải tiến hệ

thống mạng.

Yêu cầu các đơn vị sử dụng vốn ngân sách phải công khai hóa thông tin về tài

chính.

Cuối cùng, khuyến khích người dân tham gia tìm hiểu các thông tin trên nhằm

nâng cao khả năng giám sát việc sử dụng tài chính công trên cả nước.

Đối với doanh nghiệp:

Cần phải tuân thủ một cách triệt để các quy định của nhà nước về công bố thông

tin khi tiến hành bán đấu giá cổ phần, cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư về tình

hình tài chính, tài sản của doanh nghiệp.

Xem xét lại phương pháp định giá doanh nghiệp để hạn chế việc luồn lách trong

51

định giá doanh nghiệp làm thất thoát tiền của nhà nước.

Nhà nước cần có những biện pháp chế tài hiệu quả đối với các hành vi vi phạm.

3.2 Khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin và xây dựng thị trường vốn hiệu

quả

3.2.1 Sự cần thiết phải xây dựng thị trường vốn hiệu quả :

Một thị trường vốn hiệu quả ở đó giá cả chứng khoán phản ảnh một cách đầy đủ

các thông tin liên qian đến giá chứng khoán. Muốn như vậy, cần có sự minh bạch và

công bằng về thông tin cho mọi người. Đồng thời khi một thị trường là hiệu quả thì có

nghĩa là mọi người đều có cơ hội như nhau trong việc nắm giữ thông tin.

Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát triễn mạnh mẽ của nền kinh tế,

TTCK là một kênh huy động vốn trung dài hạn quan trọng . Việc xây dựng thị trường

vốn hiệu quả là vấn đề bức thiết mà nhà nước cần phải giải quyết. Thất bại thị trường

lớn nhất trên thị TTCK Việt Nam là bất cân xứng thông tin. Cần có giải pháp cụ thể

nhằm minh bạch hóa thông tin, giảm thiểu bất cân xứng thông tin để tạo một môi

trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng, sân chơi tốt, tạo được niềm tin, sự hấp dẫn đối

với các nhà đầu tư để thị trường chứng khoán thực sự trở thành chỗ trũng để thu hút

vốn từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ đến các nhà đầu tư chuyên nghiệp trong và ngoài nước.

3.2.2 Một số giải pháp xây dựng thị trường vốn hiệu quả ở Việt Nam :

Giảp pháp để thực hiện giảm thiểu bất cân xứng thông tin chú trọng vào một số

vấn đề chủ yếu cần giải quyết sau:

3.2.2.1 Chất lượng thông tin :

+ Về phía các đơn vị có liên quan đến nguồn thông tin được cung cấp :

Các đơn vị cần chú trọng đến nguồn nhân lực, có chính sách bồi dưỡng, nâng

cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân sự trong đơn vị cũng như những người

trưc tiếp thực hiện việc lập báo cáo tài chính.

Các công ty đại chúng, tổ chức niêm yết, công ty chứng khóan cần có chủ

trương và định hướng chỉ đạo việc cung cấp thông tin trung thực, chính xác cho các

52

nhà đầu tư.

Các tổ chức này cần xóa bỏ tư tưởng che đậy, thổi phồng, làm lệch lạc thông tin

về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xây dựng và phát triển doanh

nghiệp dựa trên sự cạnh tranh lành mạnh theo xu hướng hội nhập kinh tế thế giới.

Các tổ chức quản lý giám sát thị trường và các đơn vị thành viên:

Phải chú trọng trong khâu tuyển dụng các chuyên viên có trình độ chuyên môn

cao, nhạy bén để thực hiện tốt các công tác thẩm định giám sát hoạt động của các đơn

vị cung cấp hàng hóa trên thị trường chứng khoán.

Phát hiện kịp thời các sai phạm trong nội dung thông tin mà các đơn vị cung

cấp liên quan đến cổ phiếu và có các biện pháp xử lý thích hợp đối với các tổ chức gian

lận thông tin.

Cung cấp một cách chính xác các thông tin chung về thị trường và các thông tin

liên quan đến cổ phiếu bằng cách kiểm tra một cách kỹ càng và chắc chắn các thông tin

trước khi công bố ra công chúng.

Các khuyến cáo, nhận xét phải dựa trên sự phân tích kỹ càng về cổ phiếu của

các chuyên gia có trình độ chuyên môn vững và cao. Cân nhắc kỹ lưỡng các các thông

tin có liên quan đến giá cổ phiếu như thông tin về các sai phạm của các đơn vị.

Theo như nhận xét của VaFi (hiệp hội các nhà đầu tư tài chính) thì cơ cấu cũng

như bộ máy quản lý của Trung Tâm Giao Dịch Chứng Khóan ở Việt Nam là không hợp

lý. Theo tôi, sự thiếu tự chủ trong quản lý của các trung tâm giao dịch chứng khoán

cũng như vấn đề nhân sự tiền lương ở đây vẫn còn là cơ chế hành chính quan liêu, cơ

chế xin cho thì không thể nào thu hút cũng như giữ chân được người tài giỏi vì vậy sản

phẩm của các cơ quan này không thể đạt chất lượng. Các trung tâm giao dịch chứng

khoán cần phải được tách ra hoạt động một cách độc lập, tự chịu trách nhiệm các hoạt

động của mình, áp dụng các chế độ hành chánh nhân sự phù hợp để đáp ứng được nhu

cầu của họ.

Các tổ chức kiểm toán:

Có thể nói vai trò của các công ty kiểm toán là cực kỳ quan trọng trong chất

53

lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp. Các công ty kiểm toán ngoài chức năng

cung cấp các dịch vụ tư vấn kế toán kiểm toán, thực hành kế toán cho các doanh nghiệp

thì nó có chức năng chính là cơ quan kiểm tra xác nhận tính trung thực của báo cáo tài

chính của doanh nghiệp. Trong khi các báo cáo tài chính của doanh nghiệp mang tính

chủ quan cục bộ của chính nó thì báo cáo tài chính đã được kiểm toán thể hiện tính

khách quan, phản ánh trung thực tình hình sức khoẻ của doanh nghiệp. Với tầm quan

trọng như vậy, cần có giải pháp cho sự phát triển của thị trường chứng khoán nhằm góp

phần làm cho chất lượng thông tin cung cấp trên thị trường chứng khoán được cao

hơn.

Nhìn lại mô hình quản lý của nhà nước về lĩnh vực kiểm toán: Điều 20 của Nghị

định 105/2004/NĐ-CP về kiểm toán độc lập và Nghị định 133/2005/NĐ-CP sửa đổi

Nghị định 105 do Chính phủ ban hành có quy định rõ các công ty kiểm toán được

thành lập và hoạt động một trong bốn mô hình sau: công ty có vốn đầu tư nước ngoài;

công ty hợp danh; doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH. Với quy định này, được

hiểu là các công ty kiểm toán có sở hữu nước ngoài hoạt động theo mô hình TNHH

theo Luật Đầu tư. Đồng thời sẽ không tồn tại mô hình công ty kiểm toán là công ty cổ

phần, doanh nghiệp nhà nước. Đối với công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước (bao

gồm công ty nhà nước và công ty TNHH một thành viên) cần phải chuyển đổi xong

trước ngày 21/4/2007.

Như vậy, đối với các công ty kiểm toán có sở hữu vốn nhà nước, việc chuyển

đổi sở hữu, theo yêu cầu quốc tế sẽ tác động tích cực mạnh mẽ trên một số mặt quan

trọng như: Các công ty kiểm toán sẽ chủ động hoàn toàn trong chính sách trả lương cho

nhân viên, không bị khống chế tỷ lệ quỹ lương, không bị trừ quỹ lương theo cơ chế "lợi

nhuận năm sau phải cao hơn năm trước" và không được thấp hơn lợi nhuận kế hoạch.

Điều này thực sự quan trọng, nó cho phép các công ty được trả lương cao để thu hút

nhân viên giỏi, đồng thời cho phép chủ động đầu tư chi phí đào tạo và nâng cao chất

lượng nhân viên và dịch vụ. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của các thành viên Ban

Giám đốc trong việc điều hành công ty, quản lý và nâng cao chất lượng dịch vụ gắn với

54

trách nhiệm vật chất. Các thành viên Ban Giám đốc các công ty sau khi chuyển đổi

phải có trách nhiệm trong việc nâng cao năng lực cá nhân cả về điều hành và kiến thức

chuyên môn để duy trì ổn định và tiếp tục phát triển công ty cao hơn.

Bộ tài chính cần thiết ban hành quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán,

kiểm toán.

Các công ty kiểm toán cần :

Kiểm tra chặt chẽ về hệ thống quản lý, trình độ của đội ngũ nhân viên, đạo đức

nghề nghiệp của các kiểm toán viên.

Phải đảm bảo các kiểm toán viên công tác một cách trung thực, thiết lập và tổ

chức thực hiện một cách có hiệu quả hệ thống quản lý trong công ty.

Phát hiện và xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm nguyên tắc kiểm toán của

các kiểm toán viên như : nhận hối lộ của các doanh nghiệp để bỏ qua các sai sót trọng

yếu, thông đồng với doanh nghiệp được kiểm toán để làm sai lệch báo cáo kết quả hoạt

động kinh doanh.

Thường xuyên nâng cao năng lực cũng như đạo đức nghề nghiệp cho kiểm toán

viên bằng các khoá đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn trong và ngoài nước, có chế độ

luơng thưởng thỏa đáng để kiểm toán viên có thể yên tâm công tác và làm tròn trách

nhiệm của kiểm toán viên.

Ngoài ra, nhà quản lý của các công ty này cần thực hiện việc đánh giá năng lực

nhân viên theo định kỳ nhằm củng cố đội ngũ kiểm toán viên để đáp ứng kịp thời nhu

cầu của thị trường.

Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cần duy trì và phát triển

mạnh mẽ hơn, phải thực sự là tổ chức mang tính nghề nghiệp cao, là tổ chức tự quản

độc lập, tạo uy tín để thu hút các Hội viên đẳng cấp nghề nghiệp cao góp phần phát

triển thị trường kiểm toán ở Việt Nam đáp ứng nhu cầu cho sự phát triển kinh tế xã hội

nói chung và sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng.

Các tổ chức thông tin đại chúng : Để có thể phát huy thế mạnh của báo chí

cũng như hạn chế các tiêu cực của nó thì cần có một số chủ trương đối với nhà báo như

55

sau :

Theo Ông Dominic Scriven – Giám đốc quỹ Đầu tư Dragon Capital các nhà báo

nên tham gia đầu tư chứng khoán để có thể hiểu rõ về lĩnh vực này mới có thể phát huy

được thế mạnh của mình, mới có thể đưa ra các nhận xét, các phân tích đúng với xu

hướng thị trường. Đồng thời nhà báo phải có trách nhiệm trong việc viết những thông

tin liên quan đến cổ phiếu mình đang có ý định đầu tư, có cái nhìn khách quan không

vụ lợi. Nhà báo khi viết về chứng khoán nên minh bạch hóa thông tin đầu tư của mình

cho tổng biên tập để việc phân bổ theo dõi tin bài được dễ dàng.

Tuy nhiên, theo tôi ý kiến trên tuy có vẻ như dễ thực hiện nhưng hiệu quả

không cao bởi vì một khi các nhà báo đã tham gia đầu tư thì họ khó có thể không dùng

ngoài bút của mình để làm lợi cho bản thân nếu được. Tôi cho rằng vấn đề này xuất

phát từ trình độ nắm bắt chuyên môn của ngành và đạo đức nghề nghiệp của các nhà

báo.

Thực tế trong tòa báo sẽ có những ban đảm trách những phần việc khác nhau,

những người nào thuộc ban nào sẽ phải tìm hiểu sâu vào lĩnh vực đó để trang bị kiến

thức cho mình khi muốn viết về mảng đó. Do đó tòa báo cần :

Tạo điều kiện để các nhà báo thuộc từng lĩnh vực có thể hiểu và tư duy sâu vấn

đề về lĩnh vực đó bằng cách mời các chuyên gia về từng lĩnh vực như chuyên gia về tài

chính, chứng khoán.. truyền đạt kiến thức cho các nhà báo, đồng thời các nhà báo cần

tự tìm hiểu, học hỏi thêm.

Ngoài ra, vấn đề đạo đức nghề nghiệp trong ngành báo chí cũng cần phải được

quan tâm đề cập thường xuyên trong tòa báo để các nhà báo luôn được nhắc nhở phải

tuân thủ đạo đức nghề nghiệp trong nghề.

Mặc dù các hành động kích động thị trường hoặc thông tin nhằm định hướng thị

trường theo hướng có lợi cho bản thân, nhằm tạo dựng và tuyên truyền thông tin sai sự

thật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường chứng khoán, gây lũng đoạn thị trường

giao dịch chứng khoán thì bị phạt tiền hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy

56

định của pháp luật theo khoản 5 điều 126 của luật chứng khoán nhưng các nhà báo cần

thiết không được tham gia đầu tư chứng khoán, điều này có thể được quy định trong

các tòa báo hoặc hội nghề nghiệp của ngành báo. Việc quy định này sẽ giúp cho ngoài

bút của các nhà báo công bằng và trong sáng hơn.

Việc trang bị kiến thức đầu tư chứng khoán cho các nhà báo là nhu cầu bức thiết

mà các tòa báo cần quan tâm và đáp ứng kịp thời cùng với sự phát triển của thị trường

chứng khoán.

3.2.2.2 Thời gian và cách thức công bố thông tin :

Vấn đề thời gian cung cấp thông tin cũng như thời điểm nhận thông tin về

doanh nghiệp hay về hàng hóa (chứng khoán) là vô cùng quan trọng trong việc ra quyết

định của các nhà đầu tư. Vì vậy, để đảm bảo thông tin được cung cấp một cách kịp

thời, nhanh chóng từ các tổ chức trên thì bản thân các tổ chức này trước hết cần phải

tuân thủ việc công bố thông tin theo chương 8 luật chứng khoán số 70/2006/QH 11 có

hiệu lực từ ngày 01/07 và theo thông tư hướng dẫn thi hành số 38/2007/TT-BTC ngày

18/04/2007.

Tuy nhiên, theo tôi thông tư hướng dẫn việc công bố thông tin quy định các

công ty đại chúng phải công bố báo cáo tài chính trong vòng 10 ngày kể từ ngày có báo

cáo tài chính năm được kiểm toán là chưa sát sao với tình hình thực tế. Nên để cho các

công ty niêm yết và công ty đại chúng có nghĩa vụ như nhau trong việc công bố thông

tin cho các nhà đầu tư tức phải công bố báo cáo tài chính trong vòng 5 ngày kể từ ngày

có báo cáo tài chính được kiểm toán.

Bởi vì, thực chất thông tin càng công khai, minh bạch thì càng tạo điều kiện cho

thị trường phát triển và các nhà đầu tư cho dù ở bất cứ thị trường nào cũng cần được

cung cấp thông tin thường xuyên về tình hình sức khỏe của doanh nghiệp. Các công ty

đại chúng cho dù chưa đủ điều kiện niêm yết hoặc chưa niêm yết cũng là thành phần

tạo nguồn cung trên thị trường chứng khoán.

Ở Việt Nam hiện nay thị trường tự do có quy mô rất lớn và rộng khắp, mặc dù

nó chưa phải là thị trường OTC nhưng đó là thị trường đóng vai trò quan trọng trong

57

việc tạo vốn cho doanh nghiệp và cũng là thị trường góp phần tạo ra tính thanh khoản

cho chứng khoán. Do đó, việc quy định các công ty đại chúng có nghĩa vụ phải công bố

thông tin như các công ty niêm yết sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của

thị trường tự do, tiếp tục phát huy vai trò huy động vốn của nó cho doanh nghiệp, đồng

thời khuyến khích các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết sẽ niêm yết lên sàn giao

dịch tạo nguồn cung cho thị trường chứng khoán chính thức.

Ngoài ra, thông tư 38 còn quy định việc báo cáo định kỳ là hàng quý và các báo

cáo này không cần kiểm toán. Vấn đề doanh nghiệp báo cáo kết quả hoạt động kinh

doanh hằng quý tuy có thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng không đáp ứng tốt nhu cầu

thông tin của thị trường chứng khoán. Giá chứng khoán thay đổi từng giờ, từng ngày

trong khi cho đến đầu quý sau các nhà đầu tư mới có thông tin về tình hình hoạt động

của doanh nghiệp là hoàn toàn không tương xứng. Các báo cáo tài chính cần được báo

cáo định kỳ hàng tháng trong khoảng thời gian trong vòng 5 ngày kể từ ngày có báo

cáo tài chính. Doanh nghiệp có thể làm được điều này nếu họ ứng dụng khoa học công

nghệ như phần mềm kế toán hiện đại, làm việc việc 1 cách hệ thống và làm theo

nguyên tắc cuốn chiếu: làm tháng nào chốt tới tháng đó. Sau khi đã đi vào hệ thống thì

việc báo cào hàng tháng là trong tầm tay. Có thể báo cáo tháng không cần được kiểm

toán nhưng báo cáo quý là cần có cơ quan kiểm toán độc lập kiểm tra xác thực. Nếu

doanh nghiệp ký hợp đồng dài hạn với công ty kiểm toán độc lập được chấp thuận thì

việc kiểm toán sẽ dễ dàng và nhanh chónh hơn. Lý do là nếu công ty kiểm toán đã nắm

được cơ cấu tổ chức, cách thức tổ chức hạch toán của doanh nghiệp và thực hiện kiểm

toán thường xuyên hàng quý thì sẽ đỡ tốn thời gian khảo sát, và thời gian kiểm tra toàn

bộ chứng từ kế toán trong năm và cho ra kết quả nhanh hơn đáp ứng được thời gian

công bố thông tin ra công chúng .

Để việc cung cấp thông tin được nhanh chóng thuận lợi thì các tổ chức cung cấp

thông tin cần phải tổ chức bộ phận công bố thông tin cũng như giải đáp các câu hỏi của

nhà đầu tư. Bộ phận công bố thông tin này sẽ tùy thuộc vào quy mô từng đơn vị, không

58

đòi hỏi phải quá nhiều dẫn đến lãng phí chi phí của công ty. Cần phải có phương tiện

để thông tin được đến với công chúng nhanh nhất như: cải thiện hệ thống mạng, cập

nhật thường xuyên thông tin vào website của đơn vị.

Các tổ chức quản lý hoạt động của thị trường chứng khoán :

Ở Việt Nam, việc quản lý thông tin, cách thức công bố thông tin cũng được đưa

vào luật, cũng có thông tư hướng dẫn các loại hình công ty thời gian và phương tiện

công bố thông tin nhưng không có văn bản nào hướng dẫn cụ thể các doanh nghiệp cần

xây dựng mô hình như thế nào để thực hiện tốt khâu quản lý thông tin, và công bố

thông tin – hay nói một cách ngắn gọn là chưa có những quy định và hướng dẫn về hệ

thống bảo quản và công bố thông tin.

Vì vậy, mặc dù đã có luật và thông tư hướng dẫn việc thi hành công bố thông tin

cũng như các xử phạt khi vi phạm các quy định này nhưng nhất thiết phải có hướng dẫn

cụ thể, các gợi ý có giá trị để các công ty có thể thực hiện tốt việc quản lý thông tin, và

công bố thông tin.

“Phòng bệnh hơn chữa bệnh“ quản lý chặt chẽ nguồn thông tin tốt hơn nhiều

việc phải điều tra phát hiện và xử lý nó bởi vì việc điều tra phát hiện ra các vi phạm về

thông tin như thông tin nội gián không phải là đơn giản và những thiệt hại mà nó gây ra

cho thị trường nói chung là rất lớn mà những xử lý cá nhân là không thể bù đắp.

Sở Giao Dịch Chứng Khoán cần gấp rút ra các quy định yêu cầu các công ty

niêm yết, công ty đại chúng tiến hành thực hiện việc giám sát các cấp lãnh đạo công ty

trong việc tiếp cận các thông tin nằm trong diện phải tuân thủ nguyên tiết tiết lộ. Các

quy định này nên được viết dưới hình thức văn bản “Hướng dẫn về hệ thống quản lý

công bố thông tin của các công ty niêm yết, đại chúng“ nhằm mục đích giúp các doanh

nghiệp thực hiện việc quản lý và công bố thông tin tốt hơn. Nội dung của văn bản này

có thể xoay quanh vấn đề yêu cầu các doanh nghiệp thành lập các phòng ban chuyên

quản về quản lý công bố thông tin. Ban Giám Đốc công ty cần phải chịu trách nhiệm về

hoạt động của hệ thống này và báo cáo về việc thực thi hệ thống công bố thông tin

trong báo cáo đánh giá kiểm soát nội bộ thường niên. Nếu công ty bị đặt dưới các biện

59

pháp giám sát, phê bình công khai của cơ quan quản lý do vi phạm công bố thông tin

thì Ban Giám Đốc phải rà soát lại và sửa đổi kịp thời hệ thống. Công ty phải có những

biện pháp kỹ luật đối với các cá nhân liên quan và báo cáo về hình thức kỷ luật về Sở

Giao Dịch trong thời gian ngắn nhất là 7 ngày. Các doanh nghiệp tùy theo tình hình

hiện tại của mình mà phải thiết lập hệ thống cho phù hợp và báo cáo về Sở Giao Dịch

Chứng Khoán.

Các quy định vừa mang tính chất hướng dẫn vừa mang tính bắt buộc như trên sẽ

là sự kết hợp chặt chẽ giữa Sở Giao Dịch và Ban Lãnh Đạo công ty nhằm thực hiện

một cách có hiệu quả việc quản lý và công bố thông tin về doanh nghiệp, đảm bảo

thông tin được cung cấp đến nhà đầu tư một cách kịp thời và giữ nguyên giá trị, góp

phần quan trọng trong việc xây dựng thị trường vốn hiệu quả. Các quy định mang tính

hướng dẫn này cũng đã và đang được sử dụng rất thành công ở Trung Quốc trong việc

siết chặt thông tin trên thị trường chứng khoán.

3.2.2.3 Giải quyết vấn đề nội gián trên thị trường chứng khoán Việt Nam:

Qua thực trạng về thông tin và giao dịch nội gián đã trình bày ở phần trên, có thể

thấy trình độ quản lý thị trường của các cơ quan quản lý còn rất yếu kém, thị trường

chưa đạt tới trình độ chuyên nghiệp. Nếu tình trạng này vẫn còn tiếp diễn thì TTCK

Việt Nam sẽ khó có bước tiến trong tương lai và như vậy hạn chế việc thu hút vốn cho

các dự án, lãng phí một kênh huy động vốn tốt nhất để phát triển kinh tế.

Hạn chế vấn đề này như thế nào và bằng cách nào? Việc phát hiện giao dịch nội

gián là hết sức khó khăn, nếu lấy việc theo dõi khối lượng giao dịch của những “người

biết thông tin nội bộ“ thì chỉ hạn chế được một phần nhỏ của hoạt động giao dịch nội

gián bởi vì những người trực tiếp có được thông tin nội gián sẽ không trực tiếp thực

hiện các giao dịch mà họ sẽ cung cấp thông tin cho người thân hay bán thông tin ra bên

ngoài và những người này sẽ thực hiện giao dịch trước khi thông tin chính thức được

công bố.

Giao dịch nội gián có ở bất cứ thị trường chứng khoán nào trên thế giới nhưng

tùy sự phát triển của từng thị trường mà mức độ nó nhiều hay ít. Tại sao Mỹ đã phát

60

hiện và hạn chế được nhiều trường hợp giao dịch nội gián tạo ra cho thị trường chứng

khoán NewYork một môi trường đầu tư hấp dẫn ví dụ như tháng 3 vừa qua Mỹ đã phát

hiện và phá vỡ đường dây giao dịch nội gián hàng chục triệu USD, ông Linda

Thomsen- Giám đốc cơ quan hành pháp của Sec đã nói “Sự kiện hôm nay phát đi một

số thông điệp tới bất cứ ai cho rằng giao dịch chứng khoán nội gián là một cách làm

giàu dễ dàng và nhanh chóng“. Như vậy, để phát hiện và ngăn chặn giao dịch nội

gián có thể thực hiện một số biện pháp sau :

Trong nội bộ của các tổ chức công bố thông tin : Mỗi đơn vị cần phải xây

dựng quy chế nghiêm ngặt và rõ ràng về hoạt động quản lý của công ty. Quy chế hoạt

động này được công bố cho mỗi thành viên trong công ty để họ có thể nắm được chủ

trương, phương hướng của đơn vị.

Quan tâm đến quyền lợi của mỗi thành viên trong đơn vị, tạo cho họ sự gắn kết

thực sự với sự sống còn của đơn vị để họ có trách nhiệm nhiều hơn đối với sự tồn tại và

phát triển của đơn vị.

Bên cạnh đó, ngoài việc quy định các thành viên trong ban quản trị cũng như

những người biết thông tin nội bộ không được thực hiện các giao dịch trước khi các

thông tin liên quan đến giá chứng khoán được công bố chính thức thì đơn vị cần tạo ra

mội trường kiểm soát lẫn nhau giữa các thành viên và các nhân viên trong công ty. Có

chế độ khen thưởng thích đáng cho những cá nhân phát hiện ra giao dịch, thông tin nội

gián; cho thôi việc, giao cho cơ quan chức năng xử lý đối với các trường hợp trực tiếp

hay gián tiếp thực hiện giao dịch nội gián.

Tổ chức những khóa huấn luyện cho nhân viên trong công ty để họ nắm được

các quy định của các nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán, khuyến khích

nhân viên trong công ty nắm giữ nhiều hơn chứng khoán của công ty nhằm gắn kết

trách nhiệm của họ với nhiệt tình công công việc và kiểm soát công ty. Khuyến cáo các

trường hợp vi phạm luật chứng khoán, hướng họ tới lối đầu tư lành mạnh, bình đẳng và

tuân thủ luật pháp.

61

Loại trừ tính gia đình trong một công ty để đảm bảo tính minh bạch.

Cấm “những người biết thông tin “ (theo luật chứng khoán tức là thành viên hội

đồng quản trị...) thực hiện việc mua bán cổ phần công ty cho đến khi thông tin được

công bố.

Về phía cơ quan quản lý thị trường chứng khoán : Cơ quan quản lý thị

trường chứng khoán là nơi có rất nhiều thông tin về doanh nghiệp, về chứng khoán vì

vậy thông tin nội gián cũng rất dễ xảy ra. Vì vậy, ngay trong các cơ quan cần phải có

quy định nghiêm ngặt về vấn đề bảo mật thông tin của khách hàng, xử lý tới nơi tới

chốn các trường hợp vi phạm, lựa chọn những nhân viên có trình độ, có đạo đức nghề

nghiệp đặt vào những vị trí quan trọng với mức thu nhập hấp dẫn. Điều này sẽ làm cho

họ phải xem lại việc đánh đổi giữa cái lợi trước mắt nhưng không chắc chắn so với sự

nghiệp của họ.

Cần phải nắm rõ hồ sơ lý lịch của những cán bộ chủ chốt trong các đơn vị mình

quản lý, đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ họ hàng giữa những người quản lý trong

công ty và trong các quan để đảm bảo tính công bằng, trung thực trong thông tin, quyền

lợi.

Ngoài ra, cần thành lập ban thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán có nhiệm

vụ chính là theo dõi, phát hiện, điều tra các hoạt động đầu tư trái pháp luật trên thị

trường chứng khoán.

Cần phải trang bị một cách tốt nhất về nghiệp vụ điều tra, giám sát thị trường

bằng cách có thể gởi đi đào tạo và học tập kinh nghiệp ở các nước phát triển như Mỹ.

Trang bị cho họ những công cụ kỹ thuật hiện đại hổ trợ cho công tác, có chế độ

đãi ngộ xứng đáng.

Cần thiết phải thành lập cơ quan này bởi vì họ sẽ chuyên nghiệp hơn trong theo

62

dõi an ninh thị trường chứng khoán, đưa ra ánh sáng các hoạt động đầu tư trái pháp luật

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Một thất bại nào của thị trường đều đưa đến tính phi hiệu quả của nó. Vấn

đề đặt ra cho việc xây dựng một thị trường hiệu quả là phải khắc phục các thất

bại thị trường. Để xây dựng một thị trường hiệu quả nói chung và một thị trường

vốn hiệu quả nói riêng cần có những biện pháp sau :

Độc quyền :

Nhà nước cần có những biện pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa

các doanh nghiệp nhà nước.

Hội đồng cạnh tranh đẩy mạnh công tác kiểm tra, xử lý các vụ vi phạm

mang tính hạng chế cạnh tranh

Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân có vốn

đầu tư trong nước và ngòai nước tham gia vào các lĩnh vực như hàng không, viễn

thông, điện lực, tạo sự cạnh tranh công bằng cho mọi công ty.

Ngoại ứng tiêu cực:

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chống và xử phạt họat động gây ô nhiễm

môi trường bằng các chất thải độc hại.

Tính toán, xây dựng biểu phí đối với chất thải của các doanh nghiệp sao cho

đảm bảo chi phí xử lý nước thải

Tổ chức kiểm tra nghiêm ngặt quy trình sản xuất gắn liền với xử lý chất

thải của nhà máy.

63

Bất cân xứng thông tin:

Đề ra chủ trương minh bạch hóa thông tin trên toàn quốc nhằm tăng cường

sự giám sát của nhân dân đối với chi tiêu chính phủ.

Cải tiến và nâng cao hệ thống công nghệ thông tin trên cả nước.

Hoàn thiện hệ thống luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán,

giám sát việc thực hiện của các đối tượng công bố thông tin một cách chặt chẽ

cũng như rà soát lại các đối tượng có liên quan đến chất lượng thông tin.

Tăng cường đội ngũ kiểm tra và xử lý cách hành vi nội gián trên thị trường

chứng khoán.

Nói tóm lại, các thất bại thị trường cần phải được khắc phục bởi chính cách

quản lý của nhà nước. Vì vậy, vấn đề cốt yếu là các bộ ngành có liên quan cần

xem xét lại những khe hở của các luật mà hoàn thiện đồng thời phải tổ chức thực

64

hiện một cách triệt để bằng các chế tài.

KẾT LUẬN (cid:89)(cid:64)(cid:90)

Để phát triển kinh kế xã hội mỗi quốc gia cần phải có những chiến lược đúng

đắn và hiệu quả. Mà quan trọng nhất là phải xác định được đâu là nguyên nhân gây ra

tính phi hiệu quả của thị trường. Lý thuyết thị trường hoàn hảo, thị trường hiệu quả đưa

ra cơ sở cho những nhà hoạch định chính sách xác định được một cách rõ ràng những

nguyên nhân này từ đó có thể đề xuất được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn

đề.

Cũng từ lý thuyết này, luận văn đã làm rõ mối quan hệ giữa thị trường hoàn hảo

và tính hiệu quả của thị trường để từ đó tìm ra nguyên nhân gây nên tính phi hiệu quả

của thị trường. Những nguyên nhân đó chính là các thất bại thị trường. Luận văn đã

đưa ra những thất bại chính của thị trường đó là: Độc quyền, các ngoại ứng tiêu cực,

bất cân xứng thông tin. Từ việc phân tích những thất bại này tác giả đã đề xuất những

giải pháp phù hợp nhằm khắc phục nó tiến tới xây dựng thị trường hiệu quả. Đồng thời,

đi sâu vào thất bại trên thị trường chứng khoán đó là bất cân xứng thông tin và từ đó

đưa ra các giải pháp khả thi để xây dựng một thị trường vốn hiệu quả mà trọng tâm là

thị trường chứng khoán.

Mặc dù rằng những thất bại này khi đưa ra trình bày thì nó có vẻ như vấn đề này

ai cũng biết nhưng khi gắn kết nó vào lý thuyết có cơ sở khoa học thì ta sẽ không phải

bị lúng túng khi phân tích ra những tác hại của nó đối với nền kinh tế. Tác giả đã cố

gắng giải thích những tồn tại ở thị trường Việt Nam dựa trên cơ sở khoa học vững chắc

để từ đó đề xuất ra những giải pháp mang tính khả thi, sát với thực tế nhằm góp phần

xây dựng thị trường hiệu quả nói chung ở Việt Nam, và xây dựng thị trường vốn hiệu

65

quả nói riêng.

Luận văn đề cập đến những vấn đề mang tính thời sự như tình trạng ô nhiễm

môi trường, độc quyền ở một số ngành như đường bay nội địa, điện lực, minh bạch hoá

thông tin, bất cân xứng thông tin, tình trạng nội gián trên thị trường chứng khoán

nhưng cũng là vấn đề không thể giải quyết ngày một ngày hai mà cần có thời gian để

dần dần hoàn thiện.

Mặc dù đã rất nổ lực nhưng luận văn không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong

sự đóng góp ý kiến của Các Thầy Cô và Các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cám ơn.

66

Kính chúc quý Thầy Cô sức khỏe và thành công.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Bùi Kim Yến (2005), Thị Trường Chứng Khoán, NXB Lao Động.

2. Robert S.Pindyck, Daniel L.Rubinfeld (1999), Kinh Tế Học Vi Mô, NXB Thống

kê.

3. Nguyễn Tấn (2006), “Minh Bạch”, Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, (số 18-2006),

trang 41.

4. PGS.TS.Trần Ngọc Thơ (2005),Tài Chính Doanh Nghiệp Hiện Đại, NXB

Thống kê.

5. PGS.TS. Trần Ngọc Thơ, TS. Nguyễn Ngọc Định (2005), Tài Chính Quốc Tế,

NXB Thống Kê.

6. Thiều Lê Thanh Lâm (2006), Thông tin bất cân xứng và các quyết định tài chính

của các công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại Học

Kinh Tế TPHCM.

7. Quốc hội (2006), Luật chứng khoán,(số 70/06/QH11), chương VIII.

8. Chính phủ (2007), Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của luật

chứng khoán,(số 14/2007/NĐ-CP).

9. Chính phủ (2007), Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

chứng khoán và thị trường chứng khoán, (số 36/2007/NĐ-CP).

10. Chính phủ (2004), Nghị định của chính phủ về kiểm toán độc lập, (số 105/2004

/NĐ-CP).

11. Bộ Tài Chính (2004), Thông tư hướng dẫn một số điều của nghị định 105 về

kiểm toán độc lập, (Thông tư số 64/2004/TT—BTC).

12. Bộ Tài Chính (2007), Thông tư hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị

TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC

trường chứng khoán, (Thông tư số 38/2007/TT- BTC).

1. Báo cáo tình hình quản lý, giám sát và hoạt động năm 2006 của các tổ chức

67

tham gia thị trường của UBCKNN.

Và một số trang web

2. www.mof.gov.vn

3. www.tchdkh.org.vn

4. www.nhandan.com.vn

5. www.nld.com.vn

6. www.tinnhanhchungkhoan.com.vn

7. www.ssc.gov.vn

8. www.kiemtoan.com.vn

9. www.bvsc.com.vn

68

10. www.vneconomy.vn

PHỤ LỤC 1

Mã CK

Tên CP

Công ty

ABT

Ben Tre Seafood

Ben Tre Seafood Import Export JS Co

AGF

Agifish

Cty CP XNK Thủy sản An Giang

ALT

Alta

Cty CP văn hóa Tân Bình

BBC

Bibica

Cty CP Bánh kẹo Biên Hoà

BBT

BBT

Cty CP bông Bạch Tuyết

BHS

Bien Hoa Sugar

Cty CP đường Biên Hòa

BMC

BMC

Binh Dinh Minerals JS Co

BMP

BM Plasco

Cty CP nhựa Bình Minh

BPC

BPC

Cty CP bao bì Bỉm Sơn

BT6

BT6

Cty CP bê tông 620 Châu Thới

BTC

BTC

Cty CP cơ khí và xây dựng Bình Triệu

CAN

Canfoco

Cty CP đồ hộp Hạ Long

CII

CII

Cty CP đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

CLC

Cat Loi Co

Cty CP Cát Lợi

COM

COMECO

Cty CP vật tư xăng dầu

CYC

Chang Yih

Công ty cổ phần Gạch Men Chang Yih

DCT

Donac

Cty CP tấm lợp vật liệu xây dựng Đồng Nai

DHA

HoaAnStone

Cty CP Hóa An

DHG

Hau Giang Pharm Cty CP dược Hậu Giang

DIC

Dic - Intraco

Cty CP đầu tư và thương mại DIC

DMC

Domesco

Cty CP Xuất Nhập Khẩu Y Tế Domesco

DNP

Dong Nai Co

Cty CP nhựa xây dựng Đồng Nai

DPC

Danaplast

Cty CP nhựa Đà Nẵng

DRC

Danang Rubber

Danang Rubber JS Co

DTT

Do Thanh Co.

Cty CP kỹ nghệ Đô Thành

DXP

Doan Xa Port

Cty CP Cảng Đoạn Xá

FMC

Fimex VN

Cty CP Thực phẩm Sao Ta

FPC

Full Power

Cty CP Full Power

FPT

FPT

Cty CP phát triển đầu tư công nghệ FPT

69

Danh sách các công ty niêm yết đến ngày 30/06/2007

GIL

Gilimex

Cty CP SXKD & XNK Bình Thạnh

GMD

Gemadept

Cty CP đại lý Liên hiệp Vận chuyển

HAP

Hapaco

Cty CP giấy Hải Phòng

HAS

Hacisco

Cty CP xây lắp Bưu điện Hà Nội

HAX

Haxaco

Hang Xanh Auto JS Co

HBC

Hoa Binh Co.

Cty CP xây dựng và kinh doanh địa ốc Hòa Bình

HBD

HBD

Binh Duong Packaging JS Co

HMC

HCMC Mechanica Cty CP kim khí TP.Hồ Chí Minh

HRC

Horuco

Hoa Binh Rubber JS Co

HTV

Hà Tiên

Cty CP vận tải Hà Tiên

IFS

Interfood

Cty CP thực phẩm Quốc tế

IMP

Imexpharm

Cty CP dược phẩm Imexpharm

ITA

Itaco

Cty CP khu công nghiệp Tân Tạo

KDC

KIDO

Cty CP Kinh Đô

KHA

Khahomex

Cty CP Xuất Nhập Khẩu Khánh Hội

KHP

KHP

Cty CP Điện Lực Khánh Hòa

LAF

Lafooco

Cty CP chế biến hàng xuất khẩu Long An

LBM

Lam Dong Co

Cty CP vật liệu xây dựng Lâm Đồng

LGC

LGC

LGC

MCP

MCP

My Chau Packaging JS Co

MCV

CVCM

Cty CP Cavico Việt Nam khai thác mỏ và xây dựng

MHC

MARINA HANOI

Cty CP Hàng hải Hà Nội

NAV

Navifico

Cty CP Nam Việt

NHC

BRICO

Cty CP gạch ngói Nhị Hiệp

NKD

NKD

Cty CP chế biến thực phẩm Miền Bắc

NSC

NSC

Cty CP giống cây trồng Trung ương

PAC

Pinaco

Cty Pin Ắc Quy Miền Nam

PGC

Petrolimex

Cty CP Gas Petrolimex

PJT

PJT

Petrolimex Petroleum Transport JS Co

PMS

PMSC

Cty CP cơ khí xăng dầu

PNC

Phuong Nam Corp Cty CP văn hóa Phương Nam

PPC

Phalai Power

Cty CP nhiệt điện Phả Lại

PRUBF1 PRUBF1

Quỹ đầu tư cân bằng Prudential

70

PVD

PV Drilling

Cty CP khoan và dịch vụ khoan dầu khí

RAL

Ralaco

Cty CP bóng đèn phích nước Rạng Đông

REE

REECorp

Cty CP cơ điện lạnh

RHC

Ry Ninh II

Cty CP thủy điện Ry Ninh II

SAF

Safoco

Saigon Foodstuff JS Co

SAM

Sacom

Cty CP cáp và vật liệu Viễn Thông

SAV

Savimex

Cty CP Hợp tác kinh tế và Xuất nhập khẩu Savimex

SCD

ChuongDuong Bev Cty CP nước giải khát Chương Dương

SDN

DongNai Coating

Dong Nai Coating JS Co

SFC

Saigon Fuel

Cty CP nhiên liệu Sài Gòn

SFI

SAFI

SAFI

SFN

Saigon Net

Saigon Fishing Net JS Co

SGC

Sa Giang

Cty CP xuất nhập khẩu Sa Giang

SGH

Saigon Hotel

Cty CP khách sạn Sài Gòn

SHC

SMC

Cty CP hàng hải Sài Gòn

SJ1

Seaprodex 1

Seaprodex 1

SJD

Can Don HSC

Cty CP thủy điện Cần Đơn

SJS

Sudico

Cty CP đầu tư phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Sông Đà

SMC

SMC

Cty CP Đầu tư - Thương mại SMC

SSC

SSC

Cty CP giống cây trồng Miền Nam

STB

Sacombank

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín

TAC

Tuong An Oil

Cty CP Dầu Tường An

TCR

Taceira

Taceira

TCT

Tay Ninh Cable

Cty CP cáp treo núi Bà Tây Ninh

TDH

Thu Duc House

Cty CP nhà Thủ Đức

TMC

Thu Duc Imexco

Thu Duc Import Export JS Co

TMS

Transimex

Cty CP Kho vận và Giao nhận Ngoại thương Sài Gòn

TNA

TENIMEX

Cty CPTM xuất nhập khẩu Thiên Nam

TRI

Tribeco

Cty CP nước giải khát Sài Gòn

TS4

Seapriexco 4

Cty CP thủy sản số 4

TTC

Thanh Thanh

Cty CP gạch men Thanh Thanh

TTP

Tapack

Cty CP bao bì nhựa Tân Tiến

TYA

Taya

Cty CP dây và cáp điện Taya Việt Nam

UNI

Unico

Cty CP Viễn Liên

71

VFC

Vinafco

Cty CP VINAFCO

VFMVF1 VFMVF1

Cty liên doanh quản lý quỹ đầu tư Việt Nam

VGP

Vegeport J Co

Cty CP cảng rau quả

VID

Vidon

Cty CP giấy Viễn Đông

VIP

VIPCO

Cty vận chuyển xăng dầu Việt Nam

VIS

Visco

Cty CP thép Việt Ý

VNM

Vinamilk

Cty CP Sữa Việt Nam

VPK

V-Pack

Cty CP bao bì dầu thực vật

VSH

VSH

Cty CP thủy điện Vĩnh Sơn Sông Hinh

VTA

v

Vitaly

VTB

Công ty CP Điện

Công ty Cổ phần điện tử Tân Bình

VTC

Cty CP viễn thông VTC

VTC

72

Nguồn : http://www.apec.com.vn/Stock/EnterSym.aspx

PHỤ LỤC 2

Danh sách 12 Công ty được kiểm toán cho các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và

tổ chức kinh doanh chứng khoán:

1. Công ty Kiểm toán DTL;

2. Công ty Kiểm toán và Kế toán AAC;

3. Công ty Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán (AFC);

4. Công ty Dịnh vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC);

5. Công ty PriceWaterHouseCooper (Vietnam);

6. Công ty Trách nhiệm Hữu hạn KPMG;

7. Công ty Kiểm toán BHP;

8. Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A & C);

9. Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO);

10. Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam (VAE., LTD);

11. Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam;

12. Công ty Kiểm toán & Dịch vụ tin học (AISC).

73

Nguồn : www.kiemtoan.com.vn