ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------
NGUYỄN THỊ MAI PHƢƠNG
KHẢO SÁT LOẠI HÌNH HÁT SOỌNG CÔ CỦA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN VÀ TUYÊN QUANG CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HUẾ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN, NĂM 2011
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận
văn là trung thực, khách quan và chưa có ai công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Mai Phƣơng
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Huế, người đã trực tiếp
hướng dẫn tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu cũng nhưn trong quá
trình viết luận văn. Tôi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô Khoa
Ngữ văn trong suốt những năm tháng học tập tại đây. Cảm ơn Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, các nghệ nhân…
đã tạo mọi điều kiện, thời gian và công sức giúp đỡ tôi trong quá trình thu
thập tài liệu.
Cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp - những
người luôn dành cho tôi sự động viên khích lệ trong suốt quá trình thực hiện
luận văn này.
Ngƣời viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Mai Phƣơng
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
1.1. Về phương diện khoa học .................................................................. 1
1.2. Lý do thực tiễn ................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 4
3.1. Mục đích nghiên cứu .......................................................................... 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Những đóng góp của Luận văn ................................................................. 6
7. Bố cục của Luận văn ................................................................................. 6
NỘI DUNG ........................................................................................................ 7
Chƣơng I: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN, TUYÊN
QUANG VÀ LOẠI HÌNH HÁT SOỌNG CÔ ................................................... 7
1.1. Đặc điểm lịch sử xã hội của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang .. 7
1.1.1. Khái quát về người Sán Dìu ở Việt Nam ........................................ 7
1.1.2. Quá trình thiên di của người Sán Dìu đến Thái Nguyên, Tuyên Quang ....... 7
1.1.3. Đời sống và quan hệ xã hội, bản làng và gia đình của người Sán
Dìu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang ................................................ 9
1.2. Đặc điểm văn hoá truyền thống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang ....................................................................................... 10
1.2.1. Chữ viết của người Sán Dìu ......................................................... 10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1.2.2. Tôn giáo, tín ngưỡng của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang ..... 12
iv
1.3. Một số loại hình văn nghệ dân gian truyền thống của người Sán Dìu ở
Thái Nguyên, Tuyên Quang ................................................................ 12
1.4. Hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang ... 14
1.4.1. Hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Việt Nam và các truyền thuyết
về Soọng cô ................................................................................. 19
1.4.2. Hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang .... 28
Chƣơng II: KHẢO SÁT VÙNG HÁT VÀ CÁC NGHỆ NHÂN ...................... 34
2.1. Khảo sát về hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên,
Tuyên Quang ...................................................................................... 34
2.1.1. Khảo sát vùng hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên . 35
2.1.2. Khảo sát vùng hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Tuyên Quang 36
2.2. Các nghệ nhân ...................................................................................... 37
2.2.1. Nghệ nhân vùng Thái Nguyên ...................................................... 37
2.2.2. Nghệ nhân vùng Tuyên Quang ..................................................... 43
2.3. Một số nhận xét về vùng hát, nghệ nhân hát Soọng cô ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang ....................................................................................... 51
Chƣơng III: GIÁ TRỊ NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN
HÁT SOỌNG CÔ ............................................................................................ 54
3.1. Giá trị về nội dung ................................................................................ 54
3.1.1. Hát Soọng cô phản ánh tình yêu đôi lứa ....................................... 54
3.1.2. Hát Soọng cô phản ánh niềm kính trọng tổ tiên, ông bà, người già
và nhưng người làng ................................................................... 61
3.1.3. Hát Soọng cô phản ánh tình yêu lao động .................................... 65
3.2. Giá trị về nghệ thuật ............................................................................. 66
3.2.1. Thể thơ .......................................................................................... 66
3.2.2. Kết cấu .......................................................................................... 68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.2.3. Vần nhịp ........................................................................................ 71
v
3.3. Hiện trạng và bảo tồn hát Soọng cô ở Thái Nguyên và Tuyên Quang 71
3.3.1. Hiện trạng ...................................................................................... 71
3.3.2. Bảo tồn loại hình dân ca dân tộc Sán Dìu ..................................... 75
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 85
DANH SÁCH NGHỆ NHÂN HÁT SOỌNG CÔ ............................................. 89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về phương diện khoa học
Một dân tộc sáng tạo ra văn hoá của mình, và đến lượt nó, chứa đựng
trong nền văn hoá đó là sức sống, tiềm năng, bản lĩnh, sức sáng tạo và bản
sắc của chính mình dân tộc đó. Bằng văn hoá và thông qua văn hoá, dân tộc
đó, qua các thế hệ, xây dựng cho mình những chuẩn mực sống, lao động, đấu
tranh, sáng tạo và quan hệ cộng đồng [11, tr.271]
Văn hóa là nền tảng, là nhân tố phản ánh trình độ phát triển của xã hội.
Kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú.
Mỗi dân tộc đều có nét văn hóa, phong tục, tập quán riêng, tạo nên bản sắc
riêng và độc đáo. Trên khắp vùng miền của đất nước có rất nhiều di sản văn
hóa phi vật thể khác nhau, trong đó phải kể đến hát Then, Sli, Lượn cọi của
dân tộc Tày; hát Song Hao của người Nùng; Sình ca của người Cao Lan;
Xắng cọ của người Sán Chỉ; hát Ghẹo, hát Xoan của người Kinh….
Một trong những hình thức văn nghệ dân gian độc đáo của dân tộc Sán
Dìu là hát Soọng cô (dân ca). Là điệu hát truyền thống của người Sán Dìu
được lưu truyền từ nhiều đời nay. Lời Soọng cô là thể thơ 7 chữ, ví von trang
nhã, tình tứ và thường dựa vào cảnh đẹp quê hương, làng xóm, sinh hoạt hàng
ngày để nói lên nỗi lòng mình. Soọng cô là thể loại dân ca trữ tình với lời hát
đối đáp nam nữ. Mỗi bài ca là một bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ
tuyệt ghi chép bằng chữ Hán cổ và được lưu truyền trong dân gian. Soọng cô
thường được thường được bà con thể hiện trong lễ hội đầu xuân, lễ cưới giữa
làng này với làng kia. Ngày nay, mặc dù có sự giao thoa giữa các dân tộc
thiểu số, người Sán Dìu ở Tuyên Quang và Thái Nguyên cũng du nhập nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nét văn hóa của các dân tộc khác vào đời sống tinh thần, nhưng Soọng cô vẫn
2
được lưu truyền. Có thể nói, dân tộc Sán Dìu một dân tộc có tâm hồn thơ ca,
đồng bào yêu thích ca hát, dùng tiếng hát để ca ngợi quê hương, xứ sở, ca
ngợi lao động, tình yêu lứa đôi và khát vọng về một cuộc sống ấm no. Soọng
cô đã hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của dân
tộc Sán Dìu. Đó là sản phẩm tinh thần không thể thiếu trong đời sống sinh
hoạt, lao động sản xuất của người Sán Dìu.
Tuy nhiên, từ trước tới nay, hát Soọng cô của người Sán Dìu tuy đã
được sưu tầm và dịch nhưng số lượng vẫn rất hạn chế, chưa có sự quan tâm,
nghiên cứu tìm hiểu một cách khoa học về mặt giá trị nội dung và nghệ thuật.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành điền dã và sưu tầm
những bài hát Soọng cô được lưu truyền trong dân gian làm cơ sở nghiên cứu.
1.2. Lý do thực tiễn
Nghiên cứu những nét cơ bản về giá trị nội dung nghệ thuật của hát
Soọng cô trong đời sống văn hóa của người dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên
và Tuyên Quang sẽ góp phần khẳng định, bảo tồn và phát huy nét đẹp truyền
thống vốn có của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung và dân tộc Sán Dìu
nói riêng.
Xuất phát từ phương diện khoa học nêu trên, chúng tôi tiến hành tìm
hiểu về: “Khảo sát loại hình hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên
và Tuyên Quang” trong đề tài luận văn nghiên cứu của mình. Hoàn thành
công trình này, chúng tôi mong muốn được khám phá và tôn vinh giá trị văn
hóa phi vật thể của các dân tộc số Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học dân gian (VHDG) là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân
dân lao động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thuỷ, trải qua các thời kỳ phát
triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại cho đến ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nay[24, tr.7].
3
Hướng tiếp cận các tác phẩm văn hoá dân gian theo folklore học bao
gồm các phương diện như ngữ văn dân gian, nghệ thuật dân gian, tri thức dân
gian, tín ngưỡng, phong tục và lễ hội. Cách tiếp cận này mang tính tổng thể
của văn hoá học [20]. Đứng ở vị trí nghiên cứu văn học, chúng ta coi tác
phẩm VHDG trước hết là những tác phẩm nghệ thuật. Tính nghệ thuật là một
thuộc tính khách quan của văn học dân gian, cho dù thuộc tính đó có được
nhân dân nhận thức rõ hay không trong khi sáng tác, diễn xướng và tíêp thu
các tác phẩm văn học dân gian. Thuộc về loại hình trữ tình dân gian, ca dao,
dân ca với những đặc điểm thể loại của nó là sự thể hiện cảm xúc của chủ thể
trữ tình trước những vấn đề xã hội và nhân sinh. Ca dao, dân ca từ lâu đã
được Khoa Nghiên cứu văn học dân gian soi sáng, phân tích dưới nhiều góc
độ: Chủ đề, tư tưởng, đề tài, ngôn ngữ… Có những luận văn, đề tài đã nghiên
cứu dân ca nói chung và dân ca các dân tộc thiểu số nói riêng, song đề tài
nghiên cứu về Soọng cô của người Sán Dìu gần như không có. Gần đây, Sở
Văn hóa, Thông tin và Thể thao tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên cũng có Đề
tài Bảo tồn hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu với mục đích: sưu tầm lời kể
của nghệ nhân, chọn người để luyện tập các điệu hát Soọng cô nhằm phát huy
những giá trị văn hóa phi vật thể của người dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên;
đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên nhằm tìm hiểu nội dung và thi pháp
Hát dân ca giao duyên Soọng cô của người dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang….
Như vậy, công tác sưu tầm, nghiên cứu về Soọng cô còn rất khiêm tốn. Trong
các đề tài nghiên cứu chưa khám phá hết giá trị của loại hình dân ca này
nhưng các công trình nghiên cứu trên là những gợi mở, là tiền đề khoa học có
giá trị cho việc nghiên cứu đề tài luận văn của chúng tôi.
Hát Soọng cô là một loại hình sinh hoạt văn hóa tập thể của đồng bào
dân tộc Sán Dìu ở hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang nên những điệu hát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được lưu truyền ở nhiều xóm bản đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa độc đáo.
4
Dù đã được biết đến nhưng hát Soọng cô vẫn chưa được nhiều người quan
tâm nghiên cứu. Do vậy, việc tìm hiểu về hát Soọng cô là việc làm thiết thực
nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của đồng bào các dân tộc
thiểu số nói chung và dân tộc Sán Dìu nói riêng.
Hát đối đáp nam nữ với những lời thơ trữ tình, giàu tính dân tộc, là
một phần chủ yếu, nếu không nói là quan trọng nhất trong kho tàng thơ ca
dân gian của người Sán Dìu. Soọng cô, một lối hát giao duyên giữa nam nữ
bằng thơ, cũng tương tự Sli, lượn của người Tày, Nùng. Thanh niên nam nữ
từ tuổi 18 đều biết hát khá thành thạo các làn điệu và bài bản soọng cô. Từ
khi đầu còn để chỏm (12-13 tuổi), họ đã theo anh, theo chị tập dượt cho quen.
Một số bài được ghi lại rồi nhân thành nhiều bản trao tay nhau học. Những
bài bản cứ sai khác mãi, vì khi sao chép người ta tuỳ tiện thêm bớt, cho nên
có rất nhiều dị bản. Song cái hấp dẫn, cái sống động lại không phải ở bài bản
được cố định thành văn, mà là ở những lời thơ của người hát tự ứng tác cho
hợp cảnh, hợp người. Cái đó mới là cái vốn vô tận của Soọng cô. [2, tr 136].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát loại hình hát Soọng cô, nghiên cứu về mặt giá trị nội dung
nghệ thuật của loại hình dân ca này.
Qua việc nghiên cứu góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy nét đặc sắc
văn hóa của đồng bào dân tộc Sán Dìu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên
cứu của Luận văn là: Khái niệm chung nhất về thơ ca dân gian. Từ khái niệm
ấy đối chiếu vào các lời ca trong kho tàng dân ca Sán Dìu tìm hiểu đặc điểm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giá trị nội dung nghệ thuật của Soọng cô.
5
Trên cơ sở những phân tích những lời hát Soọng cô mà kết quả khảo sát
mang lại, chỉ ra nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật của các làn điệu dân ca
Soọng cô của dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang và Thái Nguyên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Khảo sát các làng hát dân ca Sán Dìu ở hai tỉnh Thái Nguyên và
Tuyên Quang.
- Tiếp xúc, phỏng vấn sâu một số nghệ nhân tiêu biểu xuất sắc ở cả hai
địa phương Thái Nguyên và Tuyên Quang.
- Tìm hiểu hình thức diễn xướng Soọng cô trong đời sống đồng bào dân
tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tiến hành xem xét, thống kê, nghiên cứu trên cơ sở các
lời dân ca Sán Dìu được sưu tầm và biên dịch trong cuốn sách: Dân ca Sán
Dìu của Diệp Trung Bình, Nhà Xuất bản Dân tộc; Dân tộc Sán Dìu ở Bắc
Giang, Nhà Xuất bản Văn hoá dân tộc; Đề tài nghiên cứu khoa học Bảo tồn
hát Soọng cô dân tộc Sán Dìu của hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Đồng thời trong quá trình triển khai đề tài sẽ bổ sung thêm các lời dân ca được
sưu tầm trong quá trình khảo sát, điền dã ở cả hai địa phương Thái Nguyên và
Tuyên Quang.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ở đề tài này, chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
khác nhau. Trong đó gồm một số phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp khảo sát thống kê;
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
- Phương pháp phân tích tổng hợp so sánh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Phương pháp điền dã.
6
Trong thời gian đi điền dã, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình của một đồng nghiệp là Chu Đức Anh, là người dân tộc Sán Dìu ở xã
Nam Hoà, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên nhiệt tình giúp đỡ, và cũng là
người rất am hiểu phong tục tập quán của người dân bản địa. Nhờ đó mà
chúng tôi hiểu được rõ hơn về ngôn ngữ, văn hoá dân tộc Sán Dìu. Mặc dù
vậy, quá trình nghiên cứu người viết có lúc lúc gặp phải sự thiếu hợp tác của
các nghệ nhân, song với khả năng của mình, người nghiên cứu đã cố gắng tìm
hiểu và tiếp cận với họ một cách có kết quả.
6. Những đóng góp của Luận văn
Hoàn thành đề tài, Luận văn hy vọng sẽ chỉ ra được một cách có hệ
thống giá trị nội dung nghệ thuật, bảo tồn và phát huy dân ca dân tộc Sán Dìu.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn chia thành ba chương viết:
- Chương I: Khái quát về người Sán Dìu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang
và loại hình hát Soọng cô.
- Chương II: Khảo sát vùng hát và các nghệ nhân.
- Chương III: Giá trị nội dung, nghệ thuật và bảo tồn, phát huy Soọng
cô của người Sán Dìu ở Tuyên Quang và Thái Nguyên.
Tài liệu tham khảo.
Phần phụ lục của Luận văn có một số hình ảnh các làng hát, nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhân, bản đồ minh họa.
7
NỘI DUNG
Chƣơng I
KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI SÁN DÌU Ở THÁI NGUYÊN,
TUYÊN QUANG VÀ LOẠI HÌNH HÁT SOỌNG CÔ
1.1. Đặc điểm lịch sử xã hội của ngƣời Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang
1.1.1. Khái quát về người Sán Dìu ở Việt Nam
Dân tộc Sán Dìu theo âm Hán Việt là Sơn Dao (Sán là Sơn, Dìu là Dao)
còn có một số tên gọi khác là: Trại, Trại Đất, Mán quần cộc, Mán váy xẻ, San
Déo Nhín. Theo các cụ già người Sán Dìu ở Tuyên Quang kể thì Sán Dìu là
tộc người nhỏ, quê tổ xa xưa ở Quảng Đông (Trung Quốc). Cuối thế kỷ XVII
đầu thế kỷ XVIII, do không chịu nổi sự áp bức bóc lột tàn bạo của nhà Minh
và nhà Thanh, người Sán Dìu phải dời quê cha đất tổ, tìm đường sang các
nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam để sinh sống. Đồng bào đã lập làng
cư trú ở nhiêu nơi trên đất nước Việt Nam như Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang.
1.1.2. Quá trình thiên di của người Sán Dìu đến Thái Nguyên, Tuyên Quang
Thành phố Thái Nguyên nằm trên Quốc lộ số 3 (Hà Nội - Cao Bằng).
Đường sắt từ đây nối liền với hệ thống đường sắt của cả nước. Thành phố Thái
Nguyên cách trung tâm Hà Nội là 80km. Theo thống kê, Thái Nguyên là tỉnh
có nhiều người Sán Dìu nhất trong cả nước: chiếm 29,59%, đứng thứ 4 (Kinh,
Tày, Nùng, Sán Dìu) trong số 9 dân tộc của tỉnh. Người Sán Dìu phân bố ở các
vùng bán sơn địa, nhiều nhất là ở huyện Đồng Hỷ: 40,8%; Phổ Yên 21,7%;
Phú Lương 12,%, thành phố Thái Nguyên chiếm 9,2%. Xã có đông người Sán
Dìu nhất của huyện Đồng Hỷ là Nam Hoà: 61,6%. Hiện nay, Thái Nguyên là
tỉnh có đông người Sán Dìu nhất ở nước ta (29,59%). Năm 1999 với 37.365
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người (3,57%) họ đứng ở vị trí thứ 4 trong các dân tộc của tỉnh và có mặt ở tất
8
cả các huyện, thị xã thành phố của Thái Nguyên. Người Sán Dìu phân bố chủ
yếu ở vùng bán sơn địa, đông nhất là huyện Đồng Hỷ (40,8%), tiếp đến là: Phổ
Yên (21,8%) Phú Lương (12,2%), thành phố Thái Nguyên (9,2%) và ít nhất là
huyện Định Hoá (0,09%). Năm 1960 người Sán Dìu có mặt ở 63/162 xã,
phường của tỉnh, trong đó huyện Đại Từ có 22 xã, huyện Đồng Hỷ có 21 xã,
còn hai huyện: Định Hoá và Võ Nhai không có xã nào có người Sán Dìu cư trú.
Người Sán Dìu đã có mặt ở 154/180 xã phường của Thái Nguyên, dân
số Sán Dìu trong mỗi xã cũng vẫn chiếm tỷ lệ thấp, có 151/154 xã chiếm tỷ
lệ từ 0,01 đến 40%, còn lại 3 xã có tỷ lệ trên 40% là Nam Hoà (61,6%), Tân
Lợi (42,5%) huyện Đồng Hỷ và Bàn Đạt (41,3%) huyện Phú Bình. Ở Thái
Nguyên, bản người Sán Dìu thường được lập dưới chân các đồi núi, gần các
con sông, cánh rừng. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, người Sán Dìu ở
Thái Nguyên đã chắp cánh bên nhau, cùng chống chọi với thiên nhiên khắc
nghiệt, biến những mảnh đất khô cằn thành những cánh đồng màu mỡ và từ
trong cuộc sống vất vả lam lũ, Soọng cô đã trở thành một món ăn tinh thần,
gắn bó máu thịt với họ.[13]
Còn ở Tuyên Quang, khác với các dân tộc Tày, Dao, Cao Lan là những
dân tộc có số đông trong tỉnh, dân tộc Sán Dìu có rất ít. Theo kết quả điều tra
ngày 1/4/2009, tỉnh Tuyên Quang có 727.505 người. Trong đó dân số trong
độ tuổi lao động là 377.314 người, chiếm 55,80% dân số toàn tỉnh. Trên địa
bàn tỉnh có 23 dân tộc cùng sinh sống. Ðông nhất là dân tộc Kinh có 326.033
người, chiếm 48,21%; các dân tộc thiểu số như dân tộc Tày có 172.136 người,
chiếm 25,45%; dân tộc Dao có 77.015 người, chiếm 11,38%; dân tộc Sán
Chay có 54.095 người, chiếm 8,0%; dân tộc Mông có 14.658 người, chiếm
2,16%; dân tộc Nùng có 12.891 người, chiếm 1,90%; dân tộc Sán Dìu có
11.007 người, chiếm 1,62%; các dân tộc khác chiếm 1,28%. Nếu một số dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tộc cư trú ở nhiều nơi khác trong tỉnh thì đồng bào Sán Dìu chỉ cư trú tập
9
trung ở ba xã của huyện Sơn Dưong là Ninh Lai, Thiện Kế và Sơn Nam. Đây
là vùng đất bán sơn địa ở phía Tây chân dãy núi Tam Đảo, có nhiều đồi thấp,
nhiều sỏi đá, ít ruộng. Đồng bào cư trú xen kẽ theo xóm với các dân tộc Tày,
Kinh, Dao, Cao Lan.
Năm 1999, dân tộc Sán Dìu mới chỉ có khoảng 8,4 vạn người. Đến năm
2011 là khoảng 14 vạn người.
1.1.3. Đời sống và quan hệ xã hội, bản làng và gia đình của người Sán Dìu
ở Thái Nguyên, Tuyên Quang
Dân tộc Sán Dìu sinh sống tập trung ở trung du Bắc Bộ, trong vùng từ
tả ngạn sông Hồng đổ về phía đông. Làng xóm của họ tựa như làng người
Kinh, có luỹ tre bao bọc và giữa các nhà thường có tường hay hàng rào. Nghề
sống chính của người Sán Dìu là sản xuất nông nghiệp. Cũng như bao người
nông dân Việt Nam khác, đồng ruộng, làng xóm đối với họ là vô giá. Những
thế hệ trước đã truyền cho thế hệ sau lời khuyên: Buôn đông bán tây không
bằng cày góc ruộng (Mai tông, mai slay mạo cộ số thén coóc).
Bộ y phục truyền thống của phụ nữ gồm khăn đen, áo dài (đơn hoặc
kép), nếu là áo kép thì bao giờ chiếc bên trong cũng màu trắng còn chiếc bên
ngoài màu chàm, dài hơn một chút; yếm màu đỏ; thắt lưng màu trắng, hồng,
hay xanh lơ; váy là hai mảnh rời cùng chung một cạp; xà cạp màu trắng. Đặc
biệt nổi bật ở trang phục phụ nữ Sán Dìu là chiếc khăn thắt eo lưng và xà tích.
Thắt lưng thường có bốn màu: xanh, đỏ, tím, vàng, mỗi cái dài khoảng 1,2-
1,5cm, rộng: từ 20-30cm được làm bằng vải mỏng, 2 đầu làm tua rủ. Xà tích
là một chiếc túi đựng trầu thường buộc quanh thắt lưng để đựng các têm trầu.
Nam giới có trang phục đơn giản hơn, không cầu kỳ như phụ nữ. Áo
chàm có cổ đứng, quần ống chân què, cặp chun. Trang phục thì cả nam nữ
người Sán Dìu đều đi dép cao su hoặc chân đất, chân thường quấn xà cạp cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khoảng 40cm.
10
Trong hôn nhân, nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu, tuy nhiên
quyết định là do bố mẹ và khi lấy nhau phải xem tuổi có hợp thì mới được.
Gia đình người Sán Dìu là gia đình nhỏ phụ quyền. Trong gia đình, người cha
hoặc người chồng làm trụ cột, có quyền quyết định mọi việc và chỉ có con trai
mới được thừa hưởng gia tài cha để lại. Khi phân chia tài sản, người con trai
cả ở với bố mẹ mới được thừa hưởng ngôi nhà và chiếc chảo nấu cháo. Đàn
ông là người chịu trách nhiệm chính trong việc chăm lo kinh tế gia đình.
Trong xã hội truyền thống, do bị ảnh hưỏng lớn của tư tưởng Khổng giáo nên
người Sán Dìu cũng tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Người Sán Dìu có nhiều họ: Bàng, Đặng, Thăng, Dương, Hoàng, Diệp,
Ninh, Trương, Lê, Ân, Trần… Trong một làng người Sán Dìu phần lớn là anh
em họ hàng với nhau. Tuy có nhiều dòng họ, nhưng ở bất kỳ đâu, khi họ gặp
nhau, nhận ra nhau cùng là người Sán Dìu thì thường nói với nhau: Sán Déo
loỏng si với dụng ý: Người Sán Dìu ít ỏi, cần phải yêu thương, đùm bọc nhau.
Tuy nhiên, trong cuộc sống họ có tinh thần tương thân, tương ái cao không
chỉ trong tộc người mà với cả các dân tộc khác cùng sinh sống.
1.2. Đặc điểm văn hoá truyền thống của ngƣời Sán Dìu ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang
1.2.1. Chữ viết của người Sán Dìu
Hiện nay người Sán Dìu ở một số tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc
của nước ta vẫn còn sử dụng chữ viết của dân tộc mình. Chữ viết thường được
lưu truyền ở những gia đình thầy cúng, thầy địa lý. Nơi nào có thầy cúng, thầy
địa lý người Sán Dìu, nơi đó còn chữ viết của người Sán Dìu.
Theo giới nghiên cứu ngôn ngữ học, dân tộc học, ngôn ngữ của người
Sán Dìu thuộc ngữ hệ Hán - Tạng, nhóm Hán ngữ. Như vậy, tiếng nói mang
âm hưởng, ngữ nghĩa Hán và chữ viết cũng xuất phát từ chữ Hán. Họ dựa vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chữ Hán để tạo ra chữ Hán - Nôm Sán Dìu giống như kiểu tạo ra Hán - Nôm
11
Tày, Hán - Nôm Cao Lan, Nôm Dao, Nôm Sán Chỉ... Các bài cúng của các
dân tộc: Sán Dìu, Cao Lan, Dao, Sán Chỉ, Hoa... tương đối giống nhau về ý
nghĩa và phần chữ viết cũng gần giống nhau, chỉ khác ở phần phát âm theo
tiếng riêng của mỗi dân tộc và mỗi thời điểm cúng, nội dung cúng [10].
Chữ Hán - Nôm Sán Dìu trên nguyên tác không khác gì cách ghép âm
và nghĩa theo kiểu Nôm Việt, Nôm Tày, Nôm Cao Lan... Thực tế, người Sán
Dìu dùng khoảng 60 - 70% chữ Hán cổ trong một văn bản hoặc sách cúng,
đọc theo cách phát âm tiếng của dân tộc mình. Còn lại những từ thiếu biểu
âm, biểu nghĩa, họ dùng cách ghép phần âm và phần nghĩa thành chữ Nôm
của họ. Ví dụ chữ “sệch” nghĩa là “ăn”. Trong chữ Hán không có chữ “sệch”,
nên được ghép bộ “khẩu” là cái mồm với chữ “đích” biểu âm thành chữ
“sệch”, cũng có khi họ dùng nguyên chữ “thực” của chữ Hán có nghĩa là
“ăn” mà đọc là “sệch”. Hay chữ “sộ” nghĩa là “ngồi”, được ghép từ chữ “thổ”
và chữ “nhân đứng” được đọc là “sộ”. Còn đại đa số họ dùng chữ Hán cổ
nguyên nghĩa nhưng đọc theo âm của tiếng Sán Dìu.
Hệ thống chữ Nôm Sán Dìu đủ khả năng ký âm chuyển tải thông tin
cho hệ thống tiếng nói của họ. Nó thể hiện trong bộ sách cúng, hát đối (Soọng
cô), thậm chí thể hiện trong thư từ gửi cho người thân trao đổi tình hình khi ở
xa cách nhau lâu ngày. Qua đó cho thấy năng lực sử dụng ngôn ngữ với chữ
viết Nôm Sán Dìu của các thầy cúng cùng đồ đệ của họ đạt ở trình độ cao.
Cùng với chữ Nôm, người Sán Dìu đồng thời dùng hệ thống chữ cái La
tinh để phiên âm, ký âm tiếng nói của mình. Người Sán Dìu đã sử dụng hệ
thống chữ cái La tinh để phiên âm và phát triển rộng trong việc lưu truyền các
bài hát đối, truyện kể, truyền thuyết, bài thuốc dân gian...
Mặc dù người Sán Dìu không có chữ viết riêng nguyên gốc; chữ viết
của họ được tạo ra từ chữ Hán cổ, thành chữ Hán - Nôm Sán Dìu và được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phiên âm bằng chữ cái La tinh để dễ đọc, song người Sán Dìu từ xưa đến nay
12
đều có ý thức giữ gìn, lưu truyền, phổ biến chữ viết dân tộc mình để thế hệ
sau kế tiếp bảo tồn, phát huy di sản văn hóa chữ viết của thế hệ trước.
Trong chuyến đi thực tế vừa qua, được tiếp xúc với người Sán Dìu,
chúng tôi cũng tiếp cận được một số tài liệu chữ Hán như sách Hợp hôn thư,
sách thuốc, sách cúng, sách xem số tử vi… Qua tìm hiểu chúng tôi thấy,
người Sán Dìu cũng sử dụng song ngữ. Ngoài tiếng mẹ đẻ, dân tộc này cũng
sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với các dân tộc xung quanh.
1.2.2. Tôn giáo, tín ngưỡng của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang
Văn hoá phi vật thể của người Sán Dìu rất phong phú và đa dạng bao
gồm: phong tục tập quán, tín ngưỡng. Người Sán Dìu quan niệm thế giới có
nhiều thần linh và nhiều loại ma (cúi). Có hai loại ma: loại ma lành (hén cúi)
luôn giúp đỡ con ngưòi và loại ma dữ (thôộc cúi) chuyên hại người như ma
sấm sét, ma gà. Trong mỗi xóm, đồng bào đều lập miếu thờ thổ thần, lập đình
thờ Thành hoàng làng. Trước Tết Nguyên đán, đồng bào có các lễ cúng
Thượng điền, Hạ điền, thờ Tổ sư, Thành hoàng, thờ Mụ, cúng Táo quân, cúng
Thổ địa, thần Nông. Đồng bào Sán Dìu còn có Lễ Đại phan, một nghi lễ tôn
giáo để cấp sắc, duy trì việc cúng tế của thầy cúng, đồng thời để trừ tà ma; Lễ
cầu yên để cầu an cho mọi người, mọi nhà và cho thôn làng. Các lễ này được
cả cộng đồng tham gia và tự nguyện đóng góp tiền của, vật chất.
Ngoài ra, đồng bào Sán Dìu còn chịu ảnh hưởng của Tam giáo. Một số
gia đình còn thờ Phật bà Quan âm, Thái Thượng, thờ Thánh.
1.3. Một số loại hình văn nghệ dân gian truyền thống của ngƣời Sán Dìu
ở Thái Nguyên, Tuyên Quang
Vốn VHDG dân tộc Sán Dìu rất đặc sắc và phong phú bao gồm:
Truyện được chép thành sách bằng chữ Hán như Tảo An, Đổng Vinh,
Duyên Tiên, Văn Giáng, Khuyến Thế Văn, Thành Nhữ Khảo, Tăng Quảng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Vũ Nhi, Vua Cóc.
13
Dạng thứ hai do nhân dân sáng tác và được truyền miệng qua nhiều thế
hệ. Nội dung truyện kể phong phú, phản ánh quan niệm về nguồn gốc vũ trụ,
loài người, quá trình lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên, quan hệ xã hội,
đề cao truyền thống đạo lý, biết ơn tổ tiên, kính trọng hiếu thảo với cha mẹ.
Về truyện kể: Ngoài các loại thơ ca, dân tộc Sán Dìu còn có những
truyện kể mang tính chất huyền thoại. Nội dung các cốt truyện đều phản ánh
cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, giữa người giàu
và người nghèo. Kết cục câu chuyện thường nói lên nguyện vọng của quần
chúng nhân dân. Đó là những người nghèo, cái thiện và cái tốt bao giờ cũng
chiến thắng.
Cũng giống như nhiều truyện côt tích của các dân tộc Kinh, Tày, Nùng,
Dao, trong cộng đồng người Sán Dìu cũng lưu truyền những câu chuyện nhằm
răn dạy con người sống tình nghĩa, tránh xa cái xấu, cái độc ác. Và truyện Vua
Cóc của dân tộc Sán Dìu là một ví dụ. Một câu chuyện có tính chất huyền thoại
đã được người Sán Dìu lưu truyền từ đời này sang đời khác nhằm chê bai sự
dối trá và khuyên răn con người nên ăn ở có đức hạnh, chỉ làm việc thiện,
không làm điều ác thì đời sau con cháu sẽ được hưởng phúc lành.
Truyện kể rằng: Có một người họ Trương làm quan tri huyện, thụ ở Trân
Châu kết hôn với một người có tên là Nàng Ba ở cùng huyện. Vợ chồng lấy
nhau trên 10 năm mà chưa có con nên hằng ngày hai ông bà chú tâm làm việc
thiện và chăm chỉ thắp hương cầu Phật. Sau ba năm ba tháng thì người vợ có
thai và sinh ra một con cóc. Nàng Ba cho là điềm quái gở định đánh chết cóc
nhưng khi nghĩ lại thì thấy không đành tâm. Cóc thường ở sau vườn, khi đói lại
trở về bú mẹ.
Sau một thời gian dài đi làm quan, quan tri huyện trở về thăm vợ và
cũng là để được xem mặt con. Nàng Ba dẫn chồng ra vườn, con cóc nhảy lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người khiến ông sợ hãi. Hai vợ chồng mang nặng một nỗi sầu…
14
Khi trong nước loạn lạc, vua treo bảng ở triều đình báo loạn và tìm
người diệt giặc Man Di giữ nền thái bình cho đất nước. Một hôm Cóc cùng cha
ra ngoài phố, thấy bảng vua treo trước cửa triều đình liền nhảy lên ngậm bảng
mang về. Thấy vậy, hai vợ chồng rất hoang mang bèn gọi cóc ra mắng: Không
phải là người sao dám làm việc đó. Nếu không dẹp được loạn sẽ mắc tội với
triều đình. Cóc bày tỏ lòng mình và quyết tâm xin đi đánh giặc. Vua cho thẩm
vấn người lĩnh bảng. Sau ba ngày tướng sĩ trong triều nổi chiêng trống nghênh
đón người lĩnh bảng đến Man Man. Tới triều đình, bị tướng quân mắng, Cóc
liền nhảy đến trước mặt vua xin được đi đánh giặc. Cóc chỉ xin vua cho một
con ngựa lớn, một lá cờ hồng, hai chiếc côn dài và 100 quân. Sau đó Cóc nhảy
lên lưng ngựa phóng đi. Tới đất Man Man, Cóc ở trên lưng ngựa cao giọng
quát quân Man Di. Quân Man Di rất coi thường Cóc sai quân tướng bắt cóc lột
da. Cóc ngồi trên mình ngựa đầu bốc lửa, lá cờ phần phật tung bay phát ra lửa
khói thiêu trụi quân Man Di.
Dẹp xong giặc Man Di, Cóc trở lại đất đế vương trình tấu công trạng với
vua. Vua ban cho ba trăm gánh bạc để Cóc trở nuôi mẹ nhưng Cóc không
nhận. Cóc trình với vua rằng, trước khi đi dẹp giặc Man Di, vua đã nói sẽ gả
công chúa cho ai dẹp được loạn nay phải giữ lời hứa của mình. Vua không
muốn gả con gái cho chàng Cóc liền nghĩ ra một kế để trì hoãn. Nhà vua cho
gọi ba nghìn cô gái ăn mặc giống hệt nhau đến để nhận vợ. Đến canh ba,
chàng Cóc được thần linh báo mộng rằng công chúa là cô gái thứ sáu. Tối
đến, khi hai vợ chồng lên giường ngủ, trong lòng công chúa lo lắng lạ lùng.
Cho tới canh năm, khi mở mắt ra, công chúa thấy tấm da cóc bị trút bỏ, bên
mình là một bậc quan lang. Trời vừa sáng, công chúa vội trở về báo với vua
cha rằng chàng Cóc thực là đấng trai tài, bậc quân nhân và trình lên vua cha
tấm da cóc vàng. Vua thấy tấm da cóc vàng đẹp đẽ liền mặc vào song không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể nào cởi ra được. Các quan trong triều thấy quái tinh liền đem đao kiếm
15
giết chết cóc và chàng Cóc được lên làm vua. Nhân dân trăm họ từ đây được
hưởng thái bình.
Cũng còn có một dị bản khác nói về vua Cóc, dị bản này gắn liền với
tộc người Sán Dìu. Có một số chi tiết khác đó là: bố mẹ chàng Cóc là nông
dân, họ lấy nhau hai mươi năm rồi chưa có con. Sau sinh ra một con cóc. Diễn
biến tiếp theo như câu chuyện trên song kết thúc có sự khác biệt: Tên vua
tham tàn nhìn thấy tấm da cóc đẹp tựa cẩm bào liền khoác thử tấm da đó vào
người. Trong nháy mắt vua đã biến thành con cóc xấu xí. Thấy vua cóc như
vậy, nhiều người định chém chết nhưng công chúa thương cha đã đem cóc
quẳng vào gậm giường. Thoát chết nhưng từ đó mỗi khi trái nắng trở trời, vua
cóc phải nghiến răng kèn kẹt để báo cho thiên hạ biết rằng sắp có mưa, có gió
[53, tr. 15 - 19].
Ngoài ra, truyện kể của dân tộc Sán Dìu có một quyển truyện thơ
nguyên bản chữ Hán có tên là Vũ Nhi thư cộng đồng thiềm thừ vương (chuyện
kể về Vũ Nhi). Đây là truyện thơ nguyên bản chữ Hán dài hơn 800 câu, mỗi
câu có 7 chữ. Truyện Vũ Nhi nói về cảnh dì ghẻ, con chồng, sự độc ác dã man
của người dì ghẻ. Tuy nhiên, truyện thơ này cũng cho biết thêm về sự hình
thành một gia đình, một dòng tộc. Cốt truyện đã nhiều lần nhắc tới các địa
danh như Tân Châu, Lịch Sơn, hà Nam đêu là những địa danh Trung quốc
ngày nay. Mở đầu tập truyện thơ có đoạn nói rằng:
Từ ngày Bàn Cổ chia rời đất
Triều đinh phân chia việc vua tôi
Gia đình trú ở huyện Tân Châu
Họ Vũ sống ở ngõ Đại Bình
Lấy vợ làm dâu nhà họ Trương
Chèo thuyền đi tới đất Hà Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đi tới Tân Châu nơi đất tổ.
16
[Ngô Xuân Trụ, Nguyễn Xuân Cần, 53, tr. 14]
Nội dung truyện thơ Vũ Nhi thư cộng đồng thiềm thù vương như sau:
Có một gia đình họ Vũ ở huyện Tân Châu lấy một người họ Trương được
mười lăm tháng thì sinh ra một cháu bé đặt tên là Vũ Nhi. Khi Vũ Nhi lên 9
tuổi thì mẹ bị bệnh nặng và qua đời. Cha Vũ Nhi lấy người vợ kế họ Dương
để lo việc nhà. Người mẹ kế này lòng đầy ác tâm, đã đánh đập Vũ Nhi thật cơ
cực. Vũ Nhi không được ăn no mặc ấm lại phải trông một lũ em. Một hôm
cha Vũ Nhi có việc phải đi xa, mẹ ghẻ liền nghĩ kế đày Vũ Nhi. Dì ghẻ sai Vũ
Nhi trèo lên cây lấy quất. Lấy được quả rồi, dì ghẻ cho người gánh quả đi và
lấy dây quấn quanh gốc cây. Khi Vũ Nhi xuống được thì bị gai cào chảy máu
đầy người. Hàng xóm nhìn thấy đều lấy làm kinh sợ vì sự ác tâm của người dì
ghẻ và thay nhau thuốc thang cho Vũ Nhi. Lần thứ hai dì ghẻ lại sai Vũ Nhi
xuống nhà kho lấy thóc rồi châm lửa đốt nhà kho nhằm thiêu cháy Vũ Nhi.
Vũ Nhi bèn vái lạy trời đất. Bỗng nhiên mưa gió đổ về dập tắt ngay ngọn lửa
hung tàn. Lần thứ ba dì ghẻ sát hại Vũ Nhi rồi đem chôn ở cách đó năm dặm.
Ngọc Hoàng liền sai tôn y tiên nhân xuống cứu Vũ Nhi. Một lần khác, dì ghẻ
lại sai Vũ Nhi đi gánh nước ở một giếng cổ sau vườn về tắm. Khi đi gánh
nước, dì ghẻ nói rằng có 35 quan tiền ở dưới giếng và sai Vũ Nhi xuống đó
vót lên. vừa xuống dưới giếng, dì ghẻ liền vần đá lấp giếng.Vũ Nhi lại vái lạy
trời đất à được thổ địa sai năm con rồng xuống cứu Vũ Nhi thoát chết.
Thấy dã tâm độc ác của dì ghẻ, đêm hôm đó Vũ Nhi đi lang thang xin
ăn rồi được nhận vào làm người ở cho nhà phú ông. Hằng ngày, Vũ Nhi đi
chăn trâu và eo lần đã lên tới tận Hồ Nam. Thấy nơi đây đất đai phì nhiêu
nhưng lại bị bỏ hoang không có người cày cấy liền về xin với phú ông ở hết
ba năm rồi bái biệt để về Lịch Sơn làm ruộng. Hằng ngày, Vũ Nhi làm việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chăm chỉ và lại được sơn thần, thổ địa đến giúp sức nên thóc lúa đầy kho.
17
Một hôm, nghĩ đến người cha cao tuổi không biết sống chết ra sao Vũ
Nhi bèn quyết định về quê cha đất tổ. Thấy Tân Châu gặp hạn không có lúa
gạo, Vũ Nhi lại trở về Lịch Sơn xay lúa gạo rồi thuê thuyền mang về Tân
Châu bán để dò la tin tức gia đình. Mụ dì ghẻ cũng tới mua gạo liền được Vũ
Nhi cấp cho mà không lấy tiền. Về nhà, dì nói lại với cha Vũ Nhi chuyện đó.
Người cha sinh nghi bèn bảo em dắt đến nơi có người bán gạo để xem sự tình.
Đến nơi, cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Thấy cha bị đau mắt,
Vũ Nhi mua thuốc về chữa khỏi cho cha. Vũ Nhi lại đưa cha và em trở lại
Lịch Sơn Dì ghẻ khóc lóc xin được đi cùng nhưng Vũ Nhi không cho đi theo
mà chỉ cấp cho lương thực để ăn.
Khi ấy vua Vĩnh Hoàng có bệnh nặng liền treo bảng ở Ngũ triều môn
tìm ngự y trị bệnh. Bảng treo đã nhiều ngày mà không có người đến chữa trị.
Vua mất đi mà không có người thay để trị vì thiên hạ. Lúc đó một quẻ bói cho
hay rằng, trong đất Lịch Sơn có một ông vua "thân cao chín tấc, vai năm
thước,, liền cho chúng thần mang xe ngựa, trống dong cờ mở đến đón vua về.
Khi đoàn tới đất Lịch Sơn, Vũ Nhi nhìn thấy đâm lo sợ tưởng rằng số người
này đến chiếm đất của mình. Lúc đó quan quân trình bày sự việc rằng nếu
không có người lên làm chủ nước thì loạn lạc khắp nơi rồi bái lạy và mời Vũ
Nhi lên trị vì thiên hạ. Sau khi lên làm vua, di ghẻ được Vũ Nhi mời vào chơi
trong cung điện. Không từ bỏ dã tâm độc ác của mình, dì ghẻ lại bày ra kế độc
hòng sát hại Vũ Nhi Trong tiết Thanh Minh, dì ghẻ bảo Vũ Nhi về đắp lại mộ
đường với mưu đó sát hại nhà vua. Nhưng trời không dung túng cho kẻ ác đã
sai thần Sấm xuống trần gian và Ngũ Lôi đã đánh chết người dì ghẻ độc ác.
[53, tr. 151- l54]. Qua câu chuyện này có thể thấy rằng, nội dung của truyện
nhằm răn dạy đạo đức cho các thành viên trong cộng đồng. Cái thiện bao giờ
cũng chiến thắng, và tội ác phải bị trừng phạt. Ngoài ra, trong loại hình văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoá của người Sán Dìu còn có một thể loại nữa là đố chữ. Đây cũng chính là
18
một nội dung khá độc đáo, mang tính chất văn hoá đặc sắc trong sinh hoạt văn
hoá dân gian của người Sán Dìu. Chẳng hạn đố chữ Hương:
Thiên tự vô thành thiên
Bát tự bài lưỡng biên
Nhật hữu tại hoà hạ
Quái tại phật diên tiền
Dịch:
Chữ Thiên không phải thiên
Chữ bát bày hai bên
Nhật có ở dưới thóc
Quẻ ở trước mặt phật
Hoặc đố câu: Phúc như đông hải
Nhất nhân nhất khẩu tại điền điện
Nhị nhân điền biên nhất thành ngân
Đại mật đả đòng điền trung quá
Nữ mẫu trú tại giang thủy tiên
Dịch:
Một người một miệng trên mặt ruộng
Hai người bên đồng chẳng thành dải
Cây to đem đánh qua trong ruộng
Mẹ con ở lại bên sông nước
[ 53, tr.155 và l57]
Ngoài đố chữ /trong cộng đồng người Sán Dìu còn lưu truyền những
câu tục ngữ. Tục ngữ của người Sán Dìu cũng phản ánh mọi mặt của đời sống
xã hội và khái quát cô đọng bản chất của các sự vật, hiện tượng. Nói về nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dung và hình thức: Đẹp vỏ không bằng đẹp ruột; sự nôn nóng: Chưa có cánh
19
đã muốn bay; nói về ước muốn hạnh phúc: Trẻ muốn đẹp, già muốn no; sự
thông cảm: Gánh nặng mới biết trâu khó nhọc; về ơn đức sinh thành: Sinh
con mới biết cha mẹ khú/ Nuôi on mới biết cụng ơn của bố mẹ; nói về sự đổi
thay: Lòng người như dòng nước chảy; nói về sự ngẫm nghĩ, nhận xét: Sự
việc ở đời như lá cây trên rừng”.
1.4. Hát Soọng cô của ngƣời Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên
Quang
1.4.1. Hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Việt Nam và các truyền thuyết về
Soọng cô
1.4.1.1. Các truyền thuyết về hát Soọng cô
Ở đời thượng cổ, tổ tiên ta không có chữ, không thấy có di tích gì
truyền lại. Đến thời Bắc thuộc, ta bắt đầu học chữ Hán, nhưng trình độ học
tập đương còn thấp kém cho nên bây giờ cũng chưa có tác phẩm gì truyền lại
cho đời sau. Song những câu tục ngữ ca dao là văn chương truyền khẩu lưu
hành ở chốn dân gian thì xuất hiện từ lâu lắm, ta có thể nói rằng ngay từ khi
có tiếng nói thì người ta đã đặt ra những lời có tiết điệu, có vận luật để bày tỏ
tính tình và ghi nhớ kinh nghiệm [1, tr. 272]
Kho tàng văn học dân gian của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, để
giữ gìn những truyền thống quý báu của dân tộc, để bảo tồn những kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ người Việt Nam một hình
thức văn học dân gian truyền miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này
sang thế hệ khác tại Việt Nam. Văn học dân gian thường ca ngợi tài năng và
lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ thù độc
ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai gái,
tình chung thuỷ vợ chồng, yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu làng xóm, quê
hương. Không những thế văn học dân gian Việt Nam còn là vũ khí đấu tranh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chống lại những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công thối
20
nát trong xã hội. Bằng ngôn ngữ dân gian giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc
điệu sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu vào lòng người một
cách tự nhiên và rất dễ dàng truyền lại cho đời sau.
Soọng cô của người Sán Dìu cũng không tách rời guồng quay đó.
Soọng cô phát âm theo tiếng của dân tộc Sán Dìu có nghĩa là ca hát. Và
Soọng cô là lối hát dân ca truyền thống của dân tộc Sán Dìu. Về nguồn gốc
của hát Soọng cô đến nay cũng chưa thực sự biết chắc chắn song những lời ca
dân dã và tình tứ ấy chắc hẳn đã theo đời sống tâm hồn của người Sán Dìu từ
bao đời nay.
Lý giải về nguồn gốc của lối hát Soọng cô, trong dân gian đã truyền
tụng câu chuyện: Ngày xưa, trong làng có một cô gái rất thông minh và xinh
đẹp tên là Lý Tam Mói. Cô gái có tài hát đối, thanh niên trong làng chưa có ai
thắng được tài ứng đối bằng lời ca tiếng hát của cô. Vào một ngày nọ, có ba
chàng trai đến làng của cô trên ba con thuyền lớn chở rất nhiều sách vở.
Không rõ con thuyền ấy đến từ đâu, những chàng trai ấy là người thế nào, chỉ
biết rằng vừa đến đầu làng là tìm hỏi thăm đến nhà cô Mói. Tình cờ trên
đường vào làng, họ gặp một cô gái đang gánh nước trên sông và hỏi thăm
đường tới nhà cô gái có biệt tài hát đối. Cô gái khẽ mỉm cười và tự nhận mình
là em gái của cô Lý Tam Mói. Cô gái hỏi ba chàng trai họ gì và được biết một
người họ Lê, một người họ Lý, một người Đào. Cô gái ra một câu hát đối và
bảo rằng, nếu ba chàng đối lại được thì sẽ chỉ đường cho họ. Cô hát rằng:
Leng thao mạo ken thra vắt
Fẹng lý mạo kẹng lý va hoi
Sẹng lay mạo kẹng lay thèn thi
Tam chát cun chi sọi hả loi
Dịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Họ Đào mà không thấy đào nở hoa
21
Hoa mận (họ Lý) mà không thấy hoa mận nở
Đi cày mà không thấy cày ruộng đâu
Hỏi ba anh này ở phương nào đến.
(Ông Lê Văn Thành, xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ dịch)
Đáng tiếc là các chàng trai dù mang theo thiên kinh vạn quyển cũng
không tài nào đối lại được câu hát của cô gái. Họ thất vọng, buồn bã quay trở
về. Song cũng từ ngày đó, cô Mói cũng ngày đêm âu sầu vì luyến tiếc đã
không mời ba chàng trai vào làng chơi. Ngày ngày cô tha thẩn bên bờ sông,
cất lên những lời hát với âm thanh da diết, ngọt ngào và khắc khoải. Lời hát của
cô không biết có bay đến tận nơi các chàng trai kia đang sống hay không nhưng
đã đi vào tâm khảm của những người dân làng ấy. Họ cũng đã bắt đầu thuộc
từng lời hát, từng làn điệu, lưu truyền cho nhau từ đời này qua đời khác. Và
Soọng cô đã trở nên quen thuộc trong đời sống tinh thần người Sán Dìu từ đó.
Theo truyền thuyết Truyện quả bầu nói về nguồn gốc của dân tộc Sán
Dìu: Thuở xa xưa trời đất gần nhau, có một làng quê đông đúc trù phú soi bóng
xuống dòng sông thơ mộng. Bỗng một hôm ông trời nổi giận, cho nước sông
dâng cao làm chết hết muôn loài. Trong làng có hai chị em, họ nhanh chân chui
vào quả bầu khô nổi lên theo nước nên sống sót. Khi nước rút, họ liền lấy nhau,
sinh nhiều con cháu làm cho người Sán Dìu hồi sinh trở lại. Tuy làng đông
người nhưng toàn con cháu cùng huyết thống nên không thể lấy nhau nên phải
sang làng khác tìm hiểu. Để bạn tình ở làng bên rung động, họ dùng tiếng hát
để diễn tả lòng mình. Soọng cô ra đời từ đó và tồn tại cho đến ngày nay.
Còn về số lượng bài hát Soọng còn tồn tại cho đến ngày nay, người
nghiên cứu cũng đã gặp ông Đặng An ở xóm Cầu Đất, xã Nam Hoà, huyện
Đồng Hỷ (Thái Nguyên) hỏi về số lượng bài Soọng cô của dân tộc Sán Dìu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
còn được lưư truyền đến bây giờ. Ông đã trả lời bằng một câu chuyện: “Ngày
22
xưa, có ba anh đi trên ba thanh niên đi trên 3 chiếc thuyền lớn. Khi đến bến
thì hỏi thăm: “nhà cô tiên ở chỗ nào?” Cô tiên hỏi: “các anh ở đâu về?hỏi cô
ấy làm gì?”. Một trong số 3 chàng trai trả lời: “Chúng tôi hỏi để hát ví với
nhau”. Cô tiên lại hỏi: “Thế các anh họ tên gì?”. Ba anh thì có 3 tên khác nhau
nhưng mà các anh này có họ Đào, họ Lý, họ Cày. Cô tiên bảo: “Em hỏi câu
này nếu các anh hát đối được thì em sẽ dẫn đi tìm cô ấy”:
Leng thao mạo ken thra vắt
Fẹng lý mạo kẹng lý va hoi
Sẹng lay mạo kẹng lay thèn thi
Tam chát cun chi sọi hả loi
Ba anh lật hết cả 3 thuyền sách nhưng không có bài hát nào đối lại
được liền đổ cả 3 thuyền sách xuống sông rồi ra về. Lúc này cô tiên mới thấy
hối tiếc liền lấy đòn gánh khoắng lên tìm được một thuyền sách. Vì thế người
Sán Dìu mới còn có những bài Soọng cô được lưu truyền cho đến ngày nay.
Còn theo ông Lê Văn Thành, nghệ nhân ở Tam Thái, Hoá Thượng,
Đồng Hỷ thì: Khi ba chàng trai đổ hết thuyền sách xuống sông, cô lấy đòn
gánh vớt được một quyển ở gần. Cô ấy dạy lại cho thanh niên trong làng: Con
trai không biết hát thì nhìn sách hát, con gái không biết hát thì tự mình sáng
tác ra cho nên trong 44 bài giang hồ (như đã nêu ở trên) thì sẽ có một bài trả
lời được mã khoá của bài hát.
1.4.1.2. Hình thức lưu truyền
Trong VHDG, phương thức sáng tác và tồn tại bằng truyền miệng là
phương thức chủ yếu và trong những giai đoạn lịch sử nhất định, là phương
thức duy nhất của VHDG. Trong điều kiện một bộ tộc, một thị tộc, một dân
tộc chưa có chữ viết thì VHDG của thị tộc, bộ tộc, dân tộc đó không thể có
một phương thức sáng tác và tồn tại nào khác ngoài phương thức truyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
miệng. Trong điều kiện một dân tộc đã có chữ viết nhưng giai cấp đó nắm
23
những tư liệu tinh thần, lại là giai cấp thống trị- giai cấp nắm giữ những tư
liệu sản xuất vật chất thì phương thức sáng tác và tồn tại của văn học dân gian
trong quần chúng lao động cũng chủ yếu là phương thức truyền miệng. Trong
điều kiện xã hội không giai cấp trong đó quần chúng nhân dân được nắm cả
những tư liệu sản xuất vật chất, cả những tư liệu sản xuất tinh thần và không
bị hạn chế trong bất cứ lĩnh vực sáng tác nghệ thuật nào (thành văn và không
thành văn, cá nhân và tập thể) thì tuy phương thức truyền miệng không có vai
trò đáng kể nhưng xét về cơ sở lịch sử xã hội thì phương thức này cẫn cứ tồn
tại với tư cách là một trong những phương thức sáng tạo của hoạt động nghệ
thuật không chuyên, phương thức này gắn liền với một hình thức trong đó
hoạt động nghệ thuật và hoạt động thực tiễn không tách rời nhau. Và trong
điều kiện dân tộc đã có chữ viết, ngoài phương thức truyền miệng, VHDG
vẫn còn được tồn tại, truyền bá và cả sáng tác bằng phương thức thành văn.
Ở văn học dân gian, người kể và người nghe giao lưu trao đổi trực tiếp
với nhau trong một môi trường sinh hoạt chung. Người kể vừa là người truyền
đạt, diễn xướng tác phẩm có sẵn, vừa là đồng tác giả, là người tham gia sáng
tạo tiếp (hoặc sáng tạo lại). Người nghe vừa là người thưởng thức, vừa là
người tham gia vào quá trình biểu diễn và sáng tạo tiếp tục ấy. Trong điều
kiện ấy người kể và người nghe gần gũi, đồng cảm với nhau hơn, đồng thời
cũng tự do hơn, tích cực và chủ động hơn trong sự diễn đạt, lĩnh hội và tham
gia sáng tạo. Đó cũng là điều kiện khiến cho tác phẩm văn học dân gian có thể
ngắn, truyện cổ tích có thể không được kể đầy đủ tỉ mỉ, chi tiết mà người nghe
cũng có thể lĩnh hội được tốt. [17, tr. 80].
Dân ca trữ tình là một khái niệm rộng được dùng để chỉ tất cả những
hình thức dân ca hình thành, tồn tại và phát triển chủ yếu do nhu cầu bộc lộ
tâm tư, tình cảm, khát vọng của nhân dân (các chức năng khác nếu có đều chỉ
là thứ yếu) như hát cò lả, trống quân, dân ca quan họ, các điệu lý, và nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
loại dân ca giao duyên khác.
24
Nếu coi toàn bộ dân ca của dân tộc như một dòng sông liên tục và thống
nhất thì dòng sông ấy rất dài và ngày càng mở rộng với nhiều chi lưu chính
phụ, lớn nhỏ khác nhau. Dòng sông này bắt nguồn từ thời thượng cổ, thượng
lưu của nólà các loại dân ca ra đời và phát triển sớm (như dân ca lao động, dân
ca nghi lễ…). Còn trung lưu và hạ lưu của nó chính là các loại dân ca sinh
thành và phát triển sau, trong đó đại bộ phận là các loại dân ca trữ tình.
Trong dân ca trữ tình, bộ phận phát triển mạnh mẽ, rộng khắp nhất là
đối ca nam nữ bao gồm nhiều dạng thức, làn điệu với những tên gọi khác
nhau (như hát ghẹo, hát giao duyên, hát huê tình…).
Nguồn gốc của dân ca trữ tình nói chung và bộ phận hát giao duyên
nam nữ nói riêng có thể có từ xa xưa (gắn chặt với dân ca lao động, nghi
lễ…). Nhưng căn cứ vào những tư liệu sưu tầm dân ca, ca dao đã biết thì hầu
như toàn bộ phần lời ca còn lại của các loại dân ca trữ tình nói chung cũng
như toàn bộ phận hát giao duyên nói riêng của người Việt đều chủ yếu là sản
phẩm của các thế kỷ gần đây (thế kỷ XVII, XVIII, XIX, và đầu XX). [tr178]
1.4.1.3. Hình thức diễn xướng
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) đã định nghĩa diễn xướng một
cách ngắn gọn là “Trình bày các sáng tác dân gian bằng lời lẽ, âm thanh, nhịp
điệu”, [44. tr. 85].
Sinh hoạt ca hát dân gian gắn bó chặt chẽ với đời sống dân gian, là cơ sở
quan trọng hình thành nên diễn xướng ca dao - diễn xướng một bộ phận thơ ca
dân gian đậm chất trữ tình trong kho tàng thơ ca dân tộc [45]. Trong VHDG,
thành phần ngôn ngữ có một vị trí quan trọng nếu không nói là chủ yếu nhất
là giai đoạn lịch sử phát triển sau này của VHDG. Song không thể có được
một quan niệm đầy đủ về bản chất thẩm mỹ của VHDG nếu không chú ý tới
vai trò của các phương tiện nghệ thuật khác trong việc thể hiện nội dung tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phẩm từ những phương tiện thể hiện thô sơ nhất như âm sắc của giọng điệu,
25
cử chỉ, lời nói, nét mặt của người diễn xướng đã trở thành những biện pháp
nghệ thuật đúng với ý nghĩa của nó như nhịp điệu và âm điệu, phong cách
diễn xuất. Có thể so sánh với nghệ thuật sân khấu dân gian như chèo, hẳn đó
là điều hiển nhiên bởi nó cung giống với mọi hình thức nghệ thuật tổng hợp
chuyên nghiệp khác. Không khó nhận thấy nếu đó không phải là thứ văn học
dân gian đã được cố định hoá, vật chất hoá bằng văn tự trên các trang sách in
hoặc viết tay, mà là thứ VHDG đang sống một cuộc sống sinh động của nó
trong những môi trường sinh hoạt khác nhau của nhân dân.
Trong sinh hoạt văn hóa dân gian có một bộ phận quan trọng là sinh hoạt
ca hát. Sinh hoạt ca hát dân gian có thể bao gồm cả việc diễn xướng những tác
phẩm tự sự, như tác phẩm thuộc thể loại sử thi, truyện cổ tích... Song, nói đến sinh
hoạt ca hát dân gian, người ta thường hay nghĩ đến việc diễn xướng ca dao, dân
ca. Trong ca dao, dân ca, không phải không có những tác phẩm tự sự nhưng đa
số đó là tác phẩm trữ tình và trong sinh hoạt ca hát dân gian, càng về sau này, tác
phẩm trữ tình càng chiếm đa số [24, tr. 410].
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn học dân gian, tuy nhiên theo
PGS - TS Vũ Anh Tuấn thì văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật
ngôn từ truyền miệng theo phương thức tập thể nhiều đời chọn lọc và gọt giũa
của nhân dân, là một thành tổ hợp thành chỉnh thể văn hoá dân gian có tính
nguyên hợp [29]. Tác phẩm VHDG là kết quả của một quá trình sáng tạo
tập thể, trong đó một người tham gia vào quá trình là một cá nhân sáng tạo.
Song bởi VHDG không phải là hiện tượng duy nhất của sự sáng tạo tập thể
trong lĩnh vực sản xuất tinh thần nói chung và trong hoạt động sáng tác
nghệ thuật nói riêng.
Diễn xướng là tổng thể các phương thức nghệ thuật, cùng thể hiện
đồng nhất giữa ca hát và hành động của con người theo chiều thẩm mỹ. Dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ca Việt Nam biểu hiện theo lối diễn xướng, điều này lý giải tại sao lời ca biểu
26
đạt giá trị lớn lao về thế giới quan, nhân sinh quan và mang nhiều hàm nghĩa
khác nhau. Trong quá trình điền dã, các nhà âm nhạc học đã sưu tầm, ghi âm
làn điệu, kiểu hát. Cách thâm nhập sâu, tiếp cận nội dung theo quy trình, trật
tự diễn biến cuộc hát chính là phương pháp nghiên cứu diễn xướng dân gian,
điển hình như GS-TSKH. Tô Ngọc Thanh, PGS. Tú Ngọc, PGS-TS. Nguyễn
Thụy Loan, Nhạc sĩ Hồng Thao. Không chỉ ghi chép lại giai điệu, lời ca, hầu
hết các nhà sưu tầm đều mô tả chi tiết cách tổ chức canh hát, thời gian, địa
điểm hát… nhằm sáng tỏ nguồn cội hình thành và giá trị nghệ thuật dân ca.
Một đặc điểm nổi bật đó là lối truyền khẩu, nhập tâm làn điệu trong đời sống
dân gian [48].
Cứ như vậy, dân ca được truyền từ đời này sang đời khác. Theo thời
gian, làn điệu được cộng đồng điều chỉnh, nâng cao, tạo nên những biến điệu
tinh tế, đặc sắc hơn. Như vậy, diễn xướng dân gian làm liền mạch làn điệu
dân ca, tổng hòa nhiều thành tố: giai điệu, lời ca, lối hát, môi trường xung
quanh và đóng vai trò đồng nhất giữa hát và hành động diễn. Bằng phương
thức diễn xướng, đời sống nghệ thuật dân gian truyền thống tiếp nối không
ngừng. Khởi sinh cách đây hàng ngàn năm, dân ca mãi mãi trường tồn, bởi tất
cả thế hệ người Việt Nam đều ý thức trao lại cho muôn đời sau những làn
điệu dân ca đậm đà bản sắc văn hóa, tượng trưng cho giá trị tinh thần, tính
cách dân tộc Việt Nam.
Mỗi một dân tộc lại mang một làn điệu đặc trưng riêng cho dân tộc
mình. Hát Then có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của người
Tày, trong lễ cấp sắc của người Tày, lễ cầu an đầu năm, lễ chúc thọ cha mẹ,
ông bà. Then là một hình thức cơ bản để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân. Tuy nhiên trong Then còn nhiều nội dung phê phán thói hư tật xấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong xã hội, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người thông qua nghệ
27
thuật sắp xếp ca từ Then khắc hoạ nên những nhân vật tương phản như: Trai
đần - gái giỏi, Gái lười - trai chăm… với ý nghĩa răn dạy, giáo dục người đời.
Như vậy, soọng cô mang khá nhiều đặc điểm khác với hát Then của
dân tộc Tày. Các hình thức trong Then đa dạng, có âm thanh, nhạc cụ, để tạo
nên cái độc đáo, đặc trưng riêng của văn hoá người Tày.
Hát Sli của dân tộc Nùng là một hình thức hát thơ. Đây là một thể loại
trữ tình dùng trong các ngày hội, ngày chợ, ngày cưới hay ngày vào nhà mới.
Cũng mang những đặc điểm giống hát Soọng cô, hát Sli cũng được coi như
tiếng hát giao duyên. Tuy nhiên hát sli lại thể hiện sự ứng đối tài hoa của mỗi
người với những lời Sli ví von, bóng bẩy, tinh nghịch… Riêng với Sli giao
duyên thường do một đôi trai gái hoặc một vài đôi trai gái thể hiện theo lối
đối đáp. Bao giờ cũng có người đứng ra sli trước (kiểu mời gọi lĩnh xướng).
Người hát trước thường là người có giọng vang trong và phải có khả năng
ứng đối, khéo léo, tài tình và nhanh nhạy. Khi bên này vừa ngừng tiếng sli thì
bên kia cũng phải có người nhanh chóng cắt Sli để đáp lại. Lời Sli không chỉ
bao hàm một nội dung mà còn thể hiện các khía cạnh trong đời sống xã hội
như các hiện tượng tự nhiên, các mốc thời gian sự kiện nhân vật…
Làn điệu Soọng cô là đặc trưng văn hoá của dân tộc Sán Dìu, thì với
người Tày, hát Then cũng là một hình thức sinh hoạt tâm linh văn hoá tinh
thần không thể thiếu. Then là một hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống
của người Tày, ra đời và gắn bó với sự hình thành và phát triển của dân tộc
Tày, phản ánh xã hội người Tày. Khác với Soọng cô, Then là sự tích hợp
những giá trị văn hoá nghệ thuật đặc trưng của dân tộc Tày tiêu biểu là nghệ
thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn cộng với môi trường diễn xướng mang
đậm bản sắc dân tộc thông qua các thể loại độc tấu, song tấu, hồn tấu cùng với
cây đàn tính.
Có thể nói, người Sán Dìu say sưa hát Soọng cô, hát những lời ca mộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mạc bằng lời thơ trữ tình giàu tính dân tộc với lối ví von tinh tế làm rung
28
động lòng người. Nét độc đáo của Soọng cô là người sáng tác nên những làn
điệu này chính là những người nông dân tưởng chừng như chỉ quen với một
nắng hai sương nhưng trong họ chứa đựng một tâm hồn lãng mạn.
1.4.2. Hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang
1.4.2.1. Lề lối hát
Văn hoá phi vật thể của người Sán Dìu có loại hinh sinh hoạt văn hóa
đặc trưng nhất đó là Soọng cô. Đây là hình thức hát đối đáp giao duyên của
thanh niên nam nữ trong những ngày lễ tết, hoặc lúc nông nhàn, hát trong đám
cưới và trong các cuộc vui. Soọng cô được hát theo sách có bài bản sẵn.
Người đi hát phải thuộc sách hát. Họ dẫn câu hát trong sách ra để hát đố.
Người đáp cũng nhờ thuộc sách màn trích ra những câu hợp cảnh, hợp tình để
hát đáp những câu hỏi. Mỗi đêm hát đều có các bước: Chập tối hát giọng:
mời ngồi xuống chiều, mời nước, mời trầu. Nửa đêm là hát hỏi: Hỏi về quê
quán, gia sự, hát thăm dò tìm hiểu nghề nghiệp, ý nguyện của nhau…. Canh
ba chủ nhà mời ăn lót dạ xôi hoặc chè, cháo. Sau đó là hát chào, hát xin về,
hát níu giữ nhau. Sáng ra thì họ vừa tiễn nhau ra cổng, vừa hát hẹn hò cuộc
hát tới. Khi hát không được đùa cợt, không vì phục tại, cảm thông, hay yêu
mà tách ra đi tỏ tình riêng. Nếu ưng nhau thì gặp nhau sau để rồi lựa đi tìm
ông mai mối (Mu Nhin) mối manh cho mình. Các cặp vợ chồng sau đó coi
ông bà Mu Nhin như cha mẹ đẻ, sống tết, giỗ chết. Khi ông bà Mu Nhin qua
đời, cặp vợ chồng phải có một con lợn đến làm ma.
Soọng cô có nguyên tắc riêng như lề lối hát và cách thức hát. Soọng cô
là lối hát dân gian Với hai dạng thức: hát giao duyên gắn với đời sống sinh
hoạt, lao động sản xuất (Hị soon soọng cô) và hát đối đáp trong lễ hội, lễ cưới
(Sênh ca chíu soọng cô). Ở dạng thức thứ nhất, nội dung hát vừa để tìm hiểu,
có khi để trổ tài, nếu hát trong nhà thì phải hát theo trình tự, còn khi hát ngoài
trời có thể ứng tác lời ca phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Ở dạng thức này, đòi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hỏi người hát phải nhanh trí, thông minh, tài ứng khẩu, giỏi đặt lời mới cho
29
các bài ca. Còn ở dạng thức thứ hai phải hát theo bài bản, giai điệu bắt buộc,
đồng thời đòi hỏi người hát phải am hiểu phong tục tập quán và thuộc nhiều
bài hát có sẵn. Do đặc điểm hát đối đáp giao duyên theo lối ngẫu hứng nên
Soọng cô không có nhạc đệm.
Hát đối đáp theo giọng ví kể lể gọi là hát cộc. Hát đám cưới thường là
hát du. Giọng du dài. Nếu một từ hát cộc kể ra rồi bắt ngay sang từ khác
nhưng hát du thì du đi du lại ngân nga luyến láy điệp khúc kéo dài dến dăm
bảy lần hát cộc. Soọng cô trong đám cưới thường do các cặp nam giới đối đáp
nhau: nhà trai cử hai anh, nhà gái cử hai anh. Hát giọng du thì song ca, hát cộc
thì đơn ca.
Vào đầu năm mới, họ cũng có những bài Soọng: hát mừng năm mới
(Soọng cô xin sun); hát trong tiết xuân (Soọng cô sun then); hát khi gặp nhau
ở giếng làng (Soọng cô tam xíu lu); hát khi đi cấy, hát trên thác nước, đắp
mương, hát dạo chơi, ngắm cảnh (Soọng cô cao shan cón xúi) hay phê phán
những thói hư, tật xấu…
Thường thì cứ vào dịp tháng Giêng, tháng Hai và tháng Bảy tháng
Tám, khi mùa màng đã cơ bản hoàn thành, các cụ ông cụ bà, các chàng trai cô
gái người dân tộc Sán Dìu thường tổ chức đi chơi làng (đi sang làng khác
hát). Hội thường có từ 4 đến 5 người, có lúc đến 20 người, có khi đông đến
vài chục người. Hội hát diễn ra từ một đến hai ba đêm ở một gia đình, có khi
10 đến 11 ngày liền. Hiện nay nét sinh hoạt văn hoá này khi đã bị mai một
nhưng bà con cũng vẫn tổ chức những buổi giao lưu văn nghệ. Các buổi hát
này thường kéo dài từ một đến hai ngày.
Nam nữ thanh niên các làng trong vùng, có khi ở các làng xa như ở
Vĩnh Phúc, Bắc Kạn, Bắc Giang, Thái Nguyên đến thăm làng và thăm nhà
nhau với mục đích chính là hát giao duyên. Mỗi cuộc đi như vậy thường có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một nhóm từ 2 đến 10 người, do một phụ nữ hoặc một nam giới đứng tuổi
30
thông thạo phong tục tập quán và thuộc nhiều bài hát dẫn đầu. Nếu đoàn
khách hát là nam thì chủ nhà phải là nữ và ngược lại. Hát đối đáp trong hội
xuân thì diễn ra ban ngày, còn hát theo lối ứng tác, lối hát trong nhà được diễn
ra vào buổi tối đến thâu đêm. Các bài hát phải theo trình tự nhất định từ bài
mở đầu đến bài chia tay. Hát Soọng cô trong nhà buổi tối là chủ yếu nhất
trong hát giao duyên, là lối sinh hoạt cộng đồng mang bản sắc văn hoá riêng
của người Sán Dìu. Mỗi cuộc hát thường diễn ra một hoặc hai, ba đêm với các
chủ đề hết sức phong phú, mỗi chủ đề có từ 12 đến 18 bài hát khác nhau. Do
được hẹn trước, khi được tin khách đến hát, mọi người trong làng, nhất là
nam nữ thanh niên đều phấn khởi vui mừng. Chủ gia đình được chọn đón
khách đến xin phép bố mẹ cô gái được chọn hát và chuẩn bị mọi điều kiện
cho cuộc hát thành công. Các cô gái chủ làng đội khăn mới, mặc bộ váy áo
mới và đeo đồ trang sức đẹp nhất, bưng trầu nước mời chủ nhà và người dẫn
đầu đoàn khách.
Trong các nhóm hát có các thế hệ tuổi từ 14, 15, 16, 17 trở lên, lớp trẻ
thường đi theo các anh, các chị đi hát và họ đã học thuộc được rất nhiều bài.
Soọng cô được hát theo thể kể thơ thất ngôn với giai điệu chậm rãi, ngân nga.
Soọng cô được hát theo thể thức đối xứng: hai nam, hai nữ.. .Nội dung hát đối
theo cùng một làn điệu nhưng đối lời nhau. Một bên ra về đối, bên kia đối lại
được thì coi như hoà. Trong cuộc hát, vai trò của những người lớn tuổi, có
kinh nghiệm hết sức quan trọng bởi họ tư vấn những bài hát cho những người
ứng xử nhanh nhạy trong đối đáp, hoặc đưa ra những bài hát ứng tác tại chỗ.
Trong cuộc chơi, người thắng thì phấn chấn, còn người thua thì âm thầm học
hỏi, rèn luyện để trả bài. Cứ thế, các cuộc hát lại được kéo dài theo ngày
tháng. Ông Lê Văn Thành cho hay: Hát Soọng cô có hai kiểu hát: Một kiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hát nói và một kiểu hát ngân dài. Và đặc biệt khi hát trong đám cưới có những
31
bài hát như bài hát trầu, khi bên nhà trai đến nhà gái thì phải hát đọc bài này.
Bài này đọc cũng mất khoảng 30 phút.
Những người am hiểu Soọng cô cho biết, quy định trong Soọng cô của
dân tộc Sán Dìu là bài hát mở đầu cho cuộc hát là bài: Phát cô thói
Shòn shọng phú thòi shúi diu hoi
Thệnh vùn háo ngại dịp son thòi
Cui ca thệnh vùn phềnh dịu shót
Sà văn mạo shệch ngọi da loi.
Dịch:
Thuyền vào đầu bến nước rẽ đôi
Nghe tin chàng đến đầu làng em
Về nhà nghe tin bạn bè nói
Cơm nước quên ăn trốn mẹ cha.
Nếu nam giới đi hát thường là từ hai đến năm tối, đến tối thứ năm mới
được quay lại hát bài ban đầu. Những đêm trước đêm thứ năm hát trình tự các
bài hát cổ theo quy định trong sách. Ngoài ra trong khi hát họ phải tự ứng tác
để đến đêm thứ năm mới quay về hát bài hát của đêm đầu. Vì vậy đòi hỏi
người hát phải biết nhiều bài hát và ứng tác giỏi. Cũng có những người phải
mời người cao tuổi đi cùng để nhắc hoặc mớm lời các bài hát. Trong dòng họ
được hát giao lưu và người cùng dòng họ không được lấy nhau.
Ông Diệp Văn Tài, Chủ nhiệm Câu lạc bộ hát Soọng cô của xóm Tam
Thái, xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ cho biết: Điều đặc biệt trong đêm hát
là dù say sưa đến mấy màn khi già làng hát bài Ca trường kết thúc (bởi khi đó
trong làng có chuyện buồn, hay muốn kết thúc cuộc hát thì mọi người tự động
giải tán.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1.4.2.2. Thời gian
32
Soọng cô của người Sán Dìu là một thể loại Folklore đa thành phần
nghệ thuật và cũng là một sinh hoạt văn nghệ dân gian mang tính chất tập thể.
Nó được lưu giữ bằng văn bản, và trong trí nhớ của các bậc cao niên. Khi hát
Soọng cô, người Sán Dìu không bao giờ trình diễn trước một vài người mà
trước đám đông. Thời gian diễn xướng là vào những ngày nông nhàn, sau
mùa gặt hái, từng tốp thanh niên Sán Dìu đi khắp làng trên, xóm dưới để tìm
đám hát. Họ gọi những cuộc ấy là đi chơi làng. Cuộc hát chủ yếu diễn ra vào
ban đêm. Người nghe phần lớn ngồi ở ngoài thành từng nhóm bên cạnh
những bếp lửa. Tất cả đều nghe một cách say sưa, chăm chú. Với cách thức
diễn xướng ấy, người hát phải có trí nhớ tốt và khả năng sáng tạo thì mới có
thể hát đối đáp được. Môi trường diễn xướng của Soọng cô là những buổi đi
chơi làng và nhiều khi là ở nhà các nghệ nhân. Trong sinh hoạt, mặc dù mang
tính chất cộng đồng bởi số lượng đông đảo người nghe tạo thêm niềm hưng
phấn cho tâm lý và giọng điệu của người hát. Ngoài ra còn phải biết cách vận
dụng các làn điệu, đặt vần cho các làn điệu, đặt vần cho các câu hát, phân
đoạn, phân câu, chọn chỗ lấy hơi, chỗ luyến láy, thêm những hư từ, phụ từ
làm cho câu chuyện thêm sinh động, giọng kể không đơn điệu, Do đó, trong
mỗi một nghệ nhân là sự tập hợp của một nhà thơ, một ca sĩ
1.4.2.3. Không gian
Không gian tổ chức buổi hát “không gian là khoảng mênh mông, vô
hạn bao trùm vạn vật”. Không gian tổ chức buổi hát soọng cô là một không
gian đặc biệt. Trước đây người Sán Dìu thường tổ chức bên bếp lửa hồng ấm
áp, ở đó những lời ca được cất lên để ngợi ca tình yêu và vẻ đẹp của quê
hương. Sở dĩ, tổ chức hát soọng cô bên bếp lửa chứ không hát ngoài trời như
hát Sli, Lượn của người Tày Nùng bởi Soọng cô mang tính chất giao duyên.
Việc tổ chức các cuộc hát bên bếp lửa càng làm đậm thêm tình cảm giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người với người. Theo quan niệm của đồng bào, hát bên bếp lửa sẽ được thần
33
Bếp (Chạo Am) phù trợ cho gia đình làm ăn may mắn, mùa màng bội thu.
Trong khung cảnh này, không khí trở nên thân tình. Cứ thế, lời hát cứ nối tiếp
nhau, hết bài này đến bài khác cho đến khi trở nên gần nhau hơn. Đêm đến họ
cùng ăn cơm, uống chén rượu nồng bên bếp lửa của chủ nhà rồi tiếp tục ca hát
cho đến khi bình minh thức dậy.
Hát Soọng cô là lối hát dân gian hoà quyện vào từng nếp sống sinh hoạt
của người Sán Dìu. Đó là hình thức sinh hoạt cộng đồng giữa hai bên chủ và
khách, nam và nữ, giữa làng nọ với làng kia. Môi trường diễn xướng của loại
hình dân ca này rất phong phú bởi không gian diễn xướng (trong nhà, ngoài
ngõ, bên bếp lửa). Trong các ngày lễ tết, thanh niên nam nữ gặp nhau ở ngoài
đường nếu muốn làm quen thì họ bẻ cành lá vứt xuống đường. Tốp kia biết ý
dừng lại sau đó thì họ cùng hát đối đáp. Soọng cô có nhiều bài hát riêng. Vào
đầu năm mới với những bài Soọng: Hát mừng năm mới (Soọng cô sin xun);
hát trong tiết xuân (Soọng cô sun then); hát khi gặp nhau ở giếng làng
(Soọng cô tam xíu lu); hát khi đi cấy, hát trên thác nước, đắp mương, hát dạo
chơi, ngắm cảnh, hát ngoài đường, hát trong nhà…
Tiểu kết Chƣơng I
Chương viết đã tiến hành tìm hiểu về người Sán Dìu ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang về quá trình thiên di của người Sán Dìu. Việc tìm hiểu về
những đặc điểm lịch sử xã hội, truyền thống văn hoá, chữ viết, tôn giáo và
vốn văn nghệ dân gian của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Cũng trong chương này, chúng tôi cũng bước đầu giới thiệu và tìm hiểu về
loại hình sinh hoạt ca hát dân gian đặc sắc của người Sán Dìu ở Thái Nguyên
và Tuyên Quang, đó là hát Soọng cô. Soọng cô xuất hiện từ rất lâu đời, do
cộng đồng người Sán Dìu ở nhiều làng quê Việt Nam lưu truyền và sáng tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ra. Truyền miệng là phương thức chủ yếu, ngoài ra các nghệ nhân dân gian
34
cũng có ý thức ghi chép, sưu tầm và lưu giữ những làn điệu Soọng cô. Họ
thường hát vào mùa xuân, mùa thu, khi có lễ hội.
Chƣơng II
KHẢO SÁT VÙNG HÁT VÀ CÁC NGHỆ NHÂN
2.1. Khảo sát về hát Soọng cô của ngƣời Sán Dìu ở Thái Nguyên,
Tuyên Quang
Bản sắc văn hóa quốc gia, vùng miền nằm trong chiến lược đa dạng văn
hóa toàn cầu, như đa dạng sinh học, là khái niệm được các nhà văn hóa học và
các nhà hoạt động văn hóa quốc tế nêu ra, luôn đề cao yếu tố địa phương, bản
địa. Đó chính là sự khác biệt, tính độc đáo, thậm chí là những di sản độc đáo
của mỗi nước, mỗi vùng miền. Với người dân, đó còn là các thói quen ứng
xử, tập tục, văn nghệ dân gian, lễ hội như: Tết Nhảy của đồng bào Dao Đỏ ở
Tả Phìn, Tả Van (Sa Pa); hội Sải Sán của đồng bào Mông ở Cán Cấu (Si Ma
Cai); hội xuống đồng của người Tày (Bắc Hà), lễ hội “Lạn Trượng khai phá
Mường Thanh” của dân tộc Thái Đen (T.P Điện Biên Phủ); lễ hội “Gạ ma
thú” của dân tộc Hà Nhì, bản A Pa Chải, xã Sín Thầu (huyện Mường Nhé); lễ
hội “Dòng họ Giàng” của dân tộc Mông (huyện Tuần Giáo, đặc biệt là lễ hội
Ka-tê, một lễ hội mang tính cộng đồng cao, thể hiện rõ phong tục, tập quán,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tín ngưỡng mang đậm bản sắc của dân tộc Chăm, lễ hội Sayangva của đồng
35
bào Châu Ro,…với những vũ điệu độc đáo và huyền bí, những làn điệu dân
ca mê đắm lòng người, cùng những trò chơi dân gian giàu tính nhân văn…
Khái niệm vùng văn học dân gian được hình thành và phát triển trên cơ
sở vận dụng tính địa phương và tính truyền thống của văn học dân gian vào
hoạt động điều tra, nghiên cứu văn học dân gian của mỗi dân tộc.
Văn học dân gian nói riêng cũng như sáng tác dân gian nói chung của
mỗi dân tộc đều không đứng yên mà luôn vận động. Sự vận động đó vừa diễn
ra trong thời gian, vừa diễn ra trong không gian gắn với địa bàn làm ăn sinh
sống của nhân dân. [24, tr. 404-406]. Vì thế, với đề tài của luận văn, người
nghiên cứu giới hạn phạm vi theo chiều vận động trong không gian đó là phân
vùng. Việc đặt các tác phẩm văn học dân gian vào các thể loại, vùng miền là
điều hết sức cần thiết.
2.1.1. Khảo sát vùng hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên
Mảnh đất Thái Nguyên cũng là nơi lưu giữ nhiều di sản văn hoá phi vật
thể của nhiều dân tộc anh em như Then (dân tộc Tày); Xắng cọ (dân tộc Sán
Chí) và nhiều lễ hội dân gian….
* Xã Nam Hoà có khoảng 1.000 người với 5 dân tộc anh em cùng sinh
sống, trong đó dân tộc Sán Dìu chiếm đa số: 73%. Xã có 22 xóm. Trong cộng
đồng dân tộc Sán Dìu, phải nói rằng hát Soọng cô ở thời sôi nổi nhất là từ năm
1973 trở về trước. Khi đó hát soọng cô và đi giao lưu là một nhu cầu không thể
thiếu của dân tộc Sán Dìu. Quãng thời gian từ sau 1973 đến năm 2007, tiếng
hát của dân tộc Sán Dìu cũng bị ngắt quãng bởi lúc này kinh tế của các gia đình
cũng qua khó khăn nên người ta cũng không dành thời gian để đi hát nữa. Bây
giờ, khi Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch thực hiện Đề tài Bảo tồn hát Soọng
cô của dân tộc Sán Dìu thì phong trào hát Soọng cô đã được khôi phục và đến
nay, xã đã có 4 xóm là có nhóm hát là Bờ Suối, La Quán, Đồng Chốc và Chí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Son. Câu lạc bộ Soọng cô của xã cũng hoạt động một cách tự nguyện đã được
36
thành lập. Ban đầu họ đưa ra kế hoạch là sinh hoạt một tuần hai buổi nhưng do
ý kiến của đồng chí lãnh đạo xã đề nghị các cụ cần suy nghĩ và sắp đặt lại kế
hoạch có thể thực hiện một tháng sinh hoạt một lần, sau này nới tuỳ theo nhu
cầu và khả năng có thể tổ chức sinh hoạt một tháng từ hai đến ba lần.
Qua công tác điền dã khảo sát tại 5 xóm của xã Hoá Thượng, Nam Hoà
(Đồng Hỷ, Thái Nguyên) chúng tôi thấy: Ở xã Hoá Thượng có 17 xóm với
32% số dân là người Sán Dìu; xã Nam Hoà có 22 xóm với 73% số dân là
người Sán Dìu. Số lượng người biết hát Soọng cô còn khoảng trên 100 người.
Tuy nhiên, số người trung niên và cao tuổi (từ 45 tuổi đến 70) biết hát Soọng
cô chiếm tới 92%. Nhiều bài hát trước đây được truyền khẩu nay cũng không
còn lưu giữ được. Những năm gần đây, một số tiết mục về hát Soọng cô được
biểu diễn trong các cuộc liên hoan văn hoá các dân tộc ở huyện và tỉnh, nhưng
chỉ được đặt lời mới theo nội dung mới. Số lượng sách cổ ghi lại bài hát
Soọng cô bằng chữ Hán còn rất ít. Số người già biết chữ Hán không còn
nhiều, số cụ có khả năng dịch từ chũ Hán sang chữ Việt ở 2 xã Nam Hoà, Hoá
Thượng chỉ có 4 người.
2.1.2. Khảo sát vùng hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Tuyên Quang
Có thể ví Tuyên Quang như một hình ảnh thu nhỏ của văn hóa Việt Bắc
bởi mảnh đất này đang lưu giữ một bề dày giá trị văn hóa truyền thống của
các dân tộc thiểu số với một kho tàng dân ca, dân vũ hết sức phong phú, đặc
sắc như làn điệu then, cọi, quan làng (dân tộc Tày), Páo dung (dân tộc Dao),
Sình ca (dân tộc Cao Lan), Soọng cô (dân tộc Sán Dìu)... Bên cạnh đó là
những lễ hội dân gian mang nhiều sắc thái văn hóa đặc trưng và đa dạng như:
Lễ hội Lồng tồng (dân tộc Tày); lễ Cầu mùa, lễ Cấp sắc (dân tộc Dao); lễ hội
Nhảy lửa (dân tộc Pà Thẻn)...
Người Sán Dìu ở Tuyên Quang chủ yếu sinh sống ở ba xã Ninh Lai,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thiện Kế, Sơn Nam của huyện Sơn Dương. Qua khảo sát tại 6 thôn thuộc 3 xã
37
Ninh Lai, Thiện Kế, Sơn Nam (huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang): Ở xã
Ninh Lai có 17/20 thôn với 80% dân số là người Sán Dìu; xã Thiện Kế có 8/15
thôn với 60% dân số là người Sán Dìu. Mặc dầu vậy, số lượng người biết hát
Soọng cô còn rất ít. Ở ba xã Ninh Lai, Thiện Kế, Sơn Nam, qua khảo sát, trung
bình mỗi thôn có khoảng 10 người trung niên và cao tuổi biết hát Soọng cô.
2.2. Các nghệ nhân
Trong cộng đồng người dân tộc Sán Dìu, chúng tôi cũng đã gặp rất nhiều
các nghệ nhân cao niên ở hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên. Đây là những
người rất am hiểu phong tục tập quán và văn hoá, văn nghệ dân gian dân tộc
Sán Dìu. Là những người đã nối tiếp những bậc tiền bối giữ được tiếng hát
Soọng cô cho đến ngày hôm nay.
Trong số các nghệ nhân ở vùng Tuyên Quang và Thái Nguyên có các
ông: Ôn Cát Đức, Lê Duy Sinh, Hoàng Long là thông thạo chữ Hán, có khả
năng dịch các bài Soọng cô từ chữ Hán sang chữ Việt. Đặc biệt có rất nhiều
nam nữ trung niên còn nhớ và hát Soọng cô rất hay là ông Ôn Cát Đức, ông
Lục Văn Phúc, ông Lưu Văn Tư, bà Trương Thị Tam, ông Lê Xuân Chuyền,
bà Lưu Thị Leo, bà Vi Thị Chanh, bà Âu Thị Phàng….. Quá trình đi điền dã,
người nghiên cứu đã tiếp xúc với rất nhiều nghệ nhân và họ đã bộc bạch
những suy nghĩ rất thật của mình.
2.2.1. Nghệ nhân vùng Thái Nguyên
* Phỏng vấn ông bà Lê Văn Thành (74 tuổi) - Âu Thị Phàng (67
tuổi, ở xóm Tam Thái, xã Hóa Thƣợng, huyện Đồng Hỷ).
Ông Thành trước đây là Chánh án Toà án Dân sự tỉnh Bắc Thái, nay là
Thái Nguyên. Ông đi công tác từ năm 1967 đến năm 1999 thì nghỉ hưu. Thế
hệ ông Thành là đời thứ tám của dân tộc Sán Dìu ở đất Tam Thái và cháu nội
ngoại của ông bây giờ là đời thứ mười. Điều này được xác định trong cuốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Người Sán Dìu ở Việt Nam của tác giả Ma Khánh Bằng (Nhà Xuất bản Khoa
38
học và Xã hội ấn hành năm 1983) ngay ở những trang đầu của cuốn sách. Ông
bà có 7 người con, 4 trai 3 gái. Chỉ duy nhất có người con trai cả là biết hát
Soọng cô.
Ngay từ khi còn nhỏ, ông Thành đã được tiếp cận những câu hát Soọng
cô từ cha mẹ, ông bà, bạn bè và những người đồng lứa. Bởi thế nên ông là
người thuộc rất nhiều bài hát Soọng cô. Cũng từ câu hát Soọng cô mà ông
Thành đã tìm được người bạn tâm giao. Bà Phàng - vợ ông, người ở làng
Chàng, xã Tân Lợi, huyện Đồng Hỷ cũng là người hát rất hay. Khi đó, ông lập
gia đình khi 23 tuổi còn bà mới 16 tuổi. Nói rồi bà cất tiếng hát, năm nay đã
67 tuổi rồi mà tiếng hát của bà nghe rất trong và thanh. Ông Thành nói: Tìm
được người con gái ưng ý chỉ cần qua lời nói, giọng hát. Qua câu hát là có thể
biết con người đó là tốt hay xấu. Chính vì bà hát hay nên ông đã phải mất 6
năm trời đi hát mới lấy được bà. Lập gia đình rồi, bà cũng chẳng còn đi hát,
chỉ chuyên tâm lo cho chồng con.
*Phỏng vấn bà Phàng:
Nhớ lại thời trẻ, bà Phàng kể với giọng tự hào: Đợt đi hát dài nhất của tôi
là vào năm 1959. Chuyến đi hát ở xã Đạo Trù, tỉnh Vĩnh Phú lúc đó có lẽ với tôi
đó là kỷ lục bởi cuộc hát đó kéo dài 11 ngày. Đoàn gồm 1 người già, cùng đi có
4-5 đứa con gái, mỗi xóm ở lại hát 1-2 tối, xong lại đưa sang xóm kia, bạn đưa
bạn đi, xóm cuối lại được mấy chục người. Bài hát đầu tiên phải mời trầu nhà
chủ, khi người già cho phép thì mới được ra. Mỗi lần hỏi phải hỏi bằng bài hát,
uống nước cũng phải hát, ăn trầu cũng phải hát, có quy định hỏi chỗ ngồi, mời
hát riêng.
Còn ông Thành cho hay: So với các bài hát ở Thái Nguyên thì ở Vĩnh
Phúc hay Quảng Ninh thì có khác đôi ba từ, giọng thì giống nhau, ví dụ cái
chén ở Quảng Ninh gọi là boi ở đây gọi chông; cái ấm ở Quảng Ninh gọi là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
pheng, thì Thái Nguyên vẫn gọi là ấm. Trước đây ông cũng có những cuốn vở
39
chép những lời hát Soọng cô. Những năm 1966, bom Mỹ bắn phá miền Bắc,
nhà ông bị cháy nên những cuốn sổ ghi chép ấy cũng bị cháy cùng ngôi nhà.
Năm 1967, ông cũng ghi chép lại và bây giờ trong cuốn sổ này có 84 bài.
Xem qua cuốn sổ ông ghi chép lại những lời bài hát cổ bằng chữ phiên âm
Hán - Nôm. Trong đó có những bài hát đám cưới, bài hát của trẻ em, bài hát
chúc tổ tiên, người già, những người hàng xóm và đặc biệt trong đó có 44 bài
mà theo ông gọi đó là nhóm bài hát “giang hồ”. Với người Sán Dìu, nếu thuộc
44 bài này trong đó đặc biệt có 24 chữ cái thì đều có thể vận dụng được hết
mọi điều. Chẳng hạn như máy bay bay qua, tên lửa bay lên, máy bay rơi
xuống đều có thể vận vào làm thơ được. Ngoài ra trong sách còn có những
câu hát về làm ruộng, dạy cách làm ăn; hoặc 12 tháng trong năm ứng với từng
con vật như hùm, thỏ, rồng, rắn, ngựa…. Dựa vào đó mà người dân biết tính
thời vụ, là tháng có mưa hay không có mưa. Qua nói chuyện được biết cậu
cháu nội của ông bà năm nay 3 tuổi cũng rất thích nghe bà hát ru. Lời hát êm
êm qua giọng của bà chỉ sau 8 câu hát là cậu bé đã đi vào giấc ngủ. Những bài
hát về trẻ con rất hay như bài Con gà con.
Con gà con cộc đuôi
Chị có câu hát không dạy em
Em có con cáo
Bắt con gà con của chị
Hay bài Con chim bồ câu:
Bồ câu non
Con chim bố đến dỗ con khóc
Hai cánh vẫy vẫy
Con chim mẹ đến mớm mồi cho con
Ông Thành bảo: Tình người Sán Dìu đối với nhau sâu sắc lắm, không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mô tả được. Trong suốt thời gian tôi công tác ở Toà án, thì những vụ ly hôn
40
của người Sán Dìu rất ít bởi nếu có thì những câu hát giao duyên năm xưa đã
khiến họ nghĩ lại và quay về với niềm yêu thương xưa.
Với người Sán Dìu, một chữ cũng là thân. Khi đến nhà người Sán Dìu,
đến giờ ăn cơm là có cơm ăn chứ không phải báo cơm thì cũng có chai rượu
để đó rồi, dù cơm cà cơm muối cũng ăn bởi họ nói rằng người Sán Dìu cùng
chung một tiếng nói, không phải mua cơm mất một đồng nào.
Nguyện vọng của ông bà Thành - Phàng là truyền dạy cho lớp trẻ những
câu hát của dân tộc mình. Tam Thái giờ mới thành lập được câu lạc bộ hát
soọng cô mà bà Phàng là người có kinh nghiệm và giọng hát hay, là Phó chủ
nhiệm Câu lạc bộ, cũng là người trực tiếp truyền dạy. Bà bảo: Bây giờ chúng
tôi đã dạy được cho 5 đôi trẻ. Và từ khi câu lạc bộ được thành lập đến nay, cứ
tối thứ 7 và chủ nhật, trong khoảng thời gian từ 8 đến 10h, cứ ai thích thì ra đây
chúng tôi đều dạy. Dạy hát cũng hoàn toàn tự nguyện, dù không có thù lao, sợ
không dạy thì bản sắc dân tộc sẽ bị mai một nên chúng tôi phải cố gắng.
*Phỏng vấn ông bà Hoàng Văn Long (66 tuổi) - Trần Thị Sìn (65
tuổi xóm Chí Son, xã Nam Hoà, huyện Đồng Hỷ).
Ông cũng là một trong số ít người của xã tinh thông tiếng Hán (ông
hiện vẫn đang làm nghề thầy cúng) và hát Soọng cô rất hay.
Từ khi còn nhỏ, những câu hát đã được bố mẹ truyền dạy đã gắn bó với
ông trong suốt tuổi ấu thơ. Lớn lên, cũng như nhiều thanh niên trong làng,
ông cũng đi hát từ khi mới 15, 16 tuổi. Bố mẹ ông sinh được năm người con,
cả năm người đều biết hát. Ông cho biết: Thời đó, cứ sau ngày Rằm tháng
Giêng trở ra hoặc tháng 7, 8 là chúng tôi lại tổ chức đi hát. Cứ mỗi một cuộc
đi như thế đều có một ông một bà đều là người của xóm dẫn đầu. Bố mẹ tôi
cũng nhiều lần dẫn đầu các đoàn hát. Đi đến nhà có các cô gái đều hát đối từ
tối cho đến thâu đêm, thậm chí cả đến gần trưa hôm sau. Có lần đi hát ở một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
làng, các cô gái trong làng đã giấu mũ khiến chúng tôi phải ở lại đó hát đến ba
41
ngày mới dời đi được. Tôi nhớ có lần các cô gái trải chiếu ngược trên chiếc
nong đặt cạnh bếp lửa buộc chúng tôi phải hát đối bằng được mới trải lại
chiếu. Phải nói rằng, trong số các nghệ nhân mà người nghiên cứu đã gặp, có
lẽ ông Hoàng Long là người có thâm niên hát lâu nhất. Ông sinh năm 1945, đi
hát từ năm 15 tuổi. Đến năm 1989, ông mới thôi đi hát. Cũng bởi ông là
người hát Soọng cô rất hay nên hầu như đám cưới nào cũng mời ông đến hát.
Ông có 10 người con và đều đã có gia đình riêng. Các con của ông đều
biết tiếng Sán Dìu, thế nhưng chỉ có cậu con thứ sáu là Hoàng Văn Lục và cô
con gái út là Hoàng Thị Lâm là biết hát Soọng cô. Từ năm 2008, trở lại đây,
khi Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch triển khai đề tài Bảo tồn hát soọng cô
của dân tộc Sán Dìu ở xã Nam Hoà, ông Long và ông Trần Văn Bình là người
cộng tác và dịch lời những bài hát Soọng cô sang tiếng Việt. Con gái ông
cũng tham gia học hát khoảng hai tháng theo Đề án này. Đến bây giờ cô bé
cũng đi lấy chồng nhưng may là cũng ở cùng xã nên những buổi biểu diễn văn
nghệ em vẫn tham gia.
Phải nói rằng, từ năm 2008 đến nay, phong trào hát Soọng cô của xã
ngày càng thêm sôi động. Ban đầu chỉ là một nhóm người thích hát thường
đến nhà nhau hát, thì bây giờ phong trào đã lan rộng ra khắp cả xóm và các
xóm lân cận. Thể theo nguyện vọng của nhiều người, Câu lạc bộ hát Soọng cô
của xã Nam Hoà cũng đã được thành lập. Câu lạc bộ có 72 thành viên, trong
đó có 17 người ở xóm Đồng Chốc, tuổi của các thành viên từ 40 tuổi trở lên;
từ 55 đến 70 tuổi chiếm một nửa. Chủ nhiệm Câu lạc bộ là ông Hoàng Văn
Long. Trong số các thành viên này có nhiều ngưới hát rất hay, điển hình là
ông Hoàng Long, ông Trần Văn Chính (56 tuổi), ông Trần Văn An (60 tuổi),
bà Vi Thị Chanh (55 tuổi), bà Vi Thị Hai (khoảng 54 tuổi).
Chúng tôi cũng đã hỏi ông Hoàng Văn Long kế hoạch tổ chức sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoạt của Câu lạc bộ về cách thức truyền dạy cho lớp trẻ. Ông Long đã trả lởi
42
rằng đối với các thành viên và hầu hết các nghệ nhân chắc cũng không ngại
truyền dạy. Song cái khó ở đây là lớp trẻ trong độ tuổi 15 đến 18, 20 thường
phải đi học nên cũng không dành được nhiều thời gian. Vì thế, để tổ chức
được những cuộc hát thì đó cũng là điều khó không chỉ riêng đối với chúng
tôi mà cả các thành viên trong Câu lạc bộ. Tuy nhiên chúng tôi cũng đã nghĩ
đến một điều là truyền dạy điệu hát Soọng cô là điều cần thiết để giữ gìn bản
sắc văn hóa của dân tộc mình. Nói rồi ông chỉ cho tôi về cậu cháu nội năm
nay khoảng 10 tuổi và bảo cháu cũng rất thích học tiếng Hán và tôi đang bắt
đầu dạy cho cháu. Còn về các bài hát Soọng cô, từ năm 2008 đến nay tôi cũng
đã có ý thức chép và dịch lại các bài để lưu truyền cho con cháu đời sau, đến
nay khoảng được 100 bài.
* Phỏng vấn ông Đặng Văn An (69 tuổi, ở xóm Cầu Đất, xã Nam
Hoà, huyện Đồng Hỷ)
Ông An khi nghe chúng tôi hỏi đến hát Soọng Cô thời trai trẻ của ông
thì say sưa kể: Ông học hát từ năm 16 tuổi. Ban đầu, ông đi theo để đun nước,
nấu cháo ăn đêm cho các bậc đàn anh, đàn chị và được thưởng thức những
giọng hát rất hay với những lời ca đằm thắm, trữ tình mà mộc mạc, chân
thành. Không khí sôi nổi của những đêm hát vẫn còn đọng lại trong tâm trí
ông nhiều ngày sau. Ông quyết tâm học hát, hát làm sao cho thật hay. Qua
những lần theo đoàn đi giao lưu ca hát, ông dần biết hát và thuộc được nhiều
bài hát. Ông khoe với chúng tôi rằng: Thời trẻ, giọng hát của ông rất hay,
được nhiều cô ngưỡng mộ. Đến nay, hai vợ chồng ông vẫn thường cùng các
cụ trong xóm hát khi có dịp ngồi trò chuyện với nhau.
Nói rồi ông bảo bà và hai người hàng xóm cùng hát bài: Soi cô
Long vạt cô thoi mạt ký tô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tàn thoi ngủ cụ long sòi cù
43
Ết nhít nà thênh dịu kỷ cứu
Ết zà nà thênh dịu kỷ tô
(Ý của bài: một ngày được bao nhiêu lâu, một đêm được bao nhiêu dài)
và bài:
Son tạo phu thoi súi dìn hoi
Thạnh vui háo ngại dịp sòn thoi
Cui ca thệnh vụn phênh dịu sót
Sa vàn mu sệch ngọi già loi
(Nghĩa: về nhà nghe hôm nay có con gái đến chơi…)
2.2.2. Nghệ nhân vùng Tuyên Quang
Cùng với nghệ nhân ở Thái Nguyên, người nghiên cứu cũng đã gặp rẩt
nhiều nghệ nhân ở ba xã Sơn Nam, Thiện Kế và Ninh Lai của huyện Sơn
Dương. Khi hỏi về Soọng cô, thì không ít người dân đã kể với niềm tự hào về
nét văn hoá truyền thống của dân tộc mình.
Tình cờ gặp con gái cụ Trƣơng Thị Con đang bán vải ở ngã ba Sơn
Nam, người đồng nghiệp đi cùng tôi giơ cuốn sổ tay ghi chép tên một số nghệ
nhân, hỏi thăm chị thì được biết có người còn, người mất. Chợt chị reo lên:
Bà Con là mẹ chị đấy. Sao em lại biết tên của mẹ chị. Thấy chị mừng rỡ như
thể gặp người nhà, tôi liền hỏi: Thế chị là con gái hay con dâu của cụ? Con
gái, chị trả lời. Đưa bọn em đến thăm cụ nhé. Ngần ngừ một lát rồi chị gật
đầu. Chúng tôi bám theo sau khoảng hai cây số thì chị dừng lại, tranh thủ vừa
gửi đồ vừa gọi điện cho cậu em út và thông báo: Nấu cơm nhé, trưa nay nhà
mình có khách đấy. Chưa biết khách hỏi thăm làm gì mà đã thấy chị gọi điện
bảo nấu cơm, tôi liền nói với đồng nghiệp đi cùng: Chờ chị mua chút thức ăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vào nhé. Cậu chàng liền gạt đi ngay. Ché đừng làm thế họ giận đấy….
44
Cụ Con giờ ở với người con trai út. Đường vào nhà cụ Con rất khó đi
nên con gái cụ bảo chúng tôi lên nhà người con trai cả của cụ, còn chị quay về
đón cụ.
* Phỏng vấn cụ Trương Thị Con (86 tuổi ở thôn Bình Thái, xã Sơn Nam,
huyện Sơn Dương)
Ngày trước khi mới 15, 16 tuổi tôi cũng thường theo các anh, các chị
đi hát. Từ khi 20 tuổi, lấy chồng, sinh con, đẻ cái, việc nhà bận rộn nên
cũng chẳng còn đi hát nữa. Điệu soọng cô hay nhưng giờ cũng không có ý
định truyền lại nữa bởi sống chung với người Kinh nên cũng chẳng có điều
kiện để hát. Thanh niên bây giờ cũng ít người biết hát, thậm chí tiếng Trại
cũng chẳng biết.
Hỏi cụ nhớ nhất bài hát nào thì cụ bảo: Giờ tôi chỉ nhớ mỗi bài hát do
ông trẻ dạy đó là bài “Em là cô gái Sán Dìu”. Bảo cụ hát thì cụ bảo bây giờ
răng rụng hết rồi, hát chẳng còn ra hơi nữa nên không muốn hát.
- Thế ngày xưa cụ có dạy cho các con cháu hát không?
- Ngày xưa vất vả lắm không như bây giờ. Ruộng nương nhiều, suốt
ngày chỉ lo làm, lo ăn nên cũng chẳng còn nghĩ đến hát hò gi nữa. Giờ thì chỉ
có con trai cả của tôi thì biết hát còn các cháu thì không.
- Vậy bản sắc dân tộc của dân tộc mình không được lưu truyền, cụ thấy
thế nào?
- Tôi cũng cảm thấy tiếc. Vào những ngày Rằm hay thỉnh thoảng ngồi
dự các đám cưới cũng nhớ lại về thời trẻ đi hát.
* Phỏng vấn ông Ôn Hải Hƣng (56 tuổi, ở thôn Vân Bảo, xã Sơn
Nam, huyện Sơn Dƣơng, con trai của cụ Trương Thị Con)
Hồi thanh niên, tối tối chúng tôi thường rủ nhau đi hát. Có lần đi hai, ba
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngày, hết xóm nọ đến xóm kia. Bắt đầu mỗi một cuộc hát thì đều hát bài hát
45
Hát chúc gia đình, hát giao duyên, hát chúc người già. Đi hát được khoảng hai,
ba năm thì tôi đi bộ đội. Đóng quân ở bên Thái Nguyên, thỉnh thoảng vào
những ngày cuối tuần tôi cũng đến những xóm bản có người Sán Dìu để hát.
Sau khi đi bộ đội về, tôi chuyển sang nghề thuốc Nam, nghề cha truyền con nối
nên cũng chẳng còn đi hát nữa. Thôn Vân Bản cũng có nhiều người biết hát.
Lớp trẻ thì hầu như còn không biết cả tiếng mẹ đẻ.
- Bác có còn lưu giữ những cuốn sổ nào ghi chép những bài hát Soọng
cô của dân tộc mình không?
- Trước kia tôi có quyển sổ ghi chép nhưng giờ đã bỏ hết rồi. Giờ chỉ
mong các cháu học nghề thuốc chữa bệnh để kiếm sống.
* Phỏng vấn ông Lƣu Văn Thông, 68 tuổi, ở thôn Tân Bình, xã Sơn
Nam, huyện Sơn Dƣơng.
Thôn có gần 100 hộ dân là người dân tộc Sán Dìu, cùng dòng họ từ
Thái Nguyên về đây sinh sống. Ông bộc bạch: Nhìn về phía các dân tộc Việt
Nam thì có lẽ dân tộc Sán Dìu là thiệt thòi nhất. Bản thân mình là người dân
tộc, ngày trẻ cũng đi hát, nhưng các cháu bây giờ hầu hết không biết nói cái
tiếng của dân tộc mình. Ngày xưa dân tộc chưa có chè trồng, cấy xong là hết
việc, rảnh rỗi là đi hát. Đi nơi xa nhất là ở Bắc Thái (năm 1962). Lúc đó,
chúng tôi tổ chức một đoàn đông tới 34 người. Nơi nào có con gái hát hay thì
đến. Đi đển thử tiếng - anh nào hát hay, chị nào hát hay chứ không phải đi tìm
người yêu. Những người đi hát cùng với tôi ngày xưa giờ nhiều người cũng
đã khuất núi. Bây giờ bọn trẻ có hát Soọng cô thì không thể lại như thời thanh
niên xưa nữa.
Ông Thông cũng như bao nghệ nhân người Sán Dìu mà tôi đã tiếp xúc:
xởi lởi, thật thà, chất phác. Qua buổi nói chuyện, tôi hiểu sâu hơn về tập quán
của đồng bào dân tộc Sán Dìu. Hỏi ông có thuộc nhiều bài hát của dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình không, ông bảo cũng phải vài chục bài. Hầu hết những người cùng độ
46
tuổi với ông đều biết hát Soọng cô. Dù xã không có câu lạc bộ, nhưng thỉnh
thoảng mọi người vẫn thường đến nhà tôi hát vào buổi tối.
- Ông có thể hát cho chúng cháu nghe được không?
- Mời cô ở lại đây, tối đến chúng tôi sẽ tổ chức cuộc hát.
- Vâng, cảm ơn ông! Chúng cháu xin hẹn ông vào một dịp khác. Vậy
các con của ông có biết tiếng của dân tộc mình không?
- Con của tôi đứa nào cũng biết tiếng, nhưng con của chúng không biết nói.
- Ông nghĩ thế nào khi các cháu không biết nói tiếng của dân tộc mình?
- Nói nó cũng không tiếp thu đâu. Giờ chỉ có ở bên Ninh Lai, Thiện Kế
80% người Sán Dìu là vẫn giữ được bản sắc, vẫn nói tiếng của dân tộc mình
trong giao tiếp hàng ngày.
* Phỏng vấn bà Lƣu Thị Leo (57 tuổi, thôn Văn Sòng, xã Thiện Kế,
huyện Sơn Dƣơng)
Năm 17-18 tuổi tôi đã đi hát đối giữa người làng mình với người làng
khác. Từ khi lập gia đình thì tôi ít đi hát. Bà Leo cũng thuộc rất nhiều bài, bà
bảo đi chơi làng, con trai hát thế nào thì con gái tìm bài hát để đáp trả. Không
hát trả lại được thì lại bị bên kia nói tức. Chúng tôi không chịu thua đâu, luôn
nghĩ câu hát để đối trả lại. Bây giờ thì tôi thường đi hát đám cưới. Mỗi lần đi
hát được trả bằng một chiếc chân giò.
Tiếp chuyện chúng tôi khi mới ốm dậy, giọng vẫn còn run run nhưng
sự nhiệt tình của bà Leo với những người khách lạ chẳng vơi đi chút nào. Trải
hết nỗi lòng về cuộc sống, về tuổi trẻ gắn với những câu hát Soọng cô, rồi bà
cất lời hát một bài hát trong đám cưới:
Hồ chú công (Mừng chủ nhà)
Soọng theo shếnh cô hồ chú công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chú công láo leo sộ lú chông
47
Chủ công ụn nam lu ụn nhuỳ
Loang thoi nam nhuý kết shếnh zhông
Soọng theo shếnh cô hộ chú shèn
Chú công láo leo sộ lú bèn
Chú công ụn nam lu ụn nhuỵ
Loang nam nhuý kịt zhênh zhen
Chỉ sang bé gái xinh xắn đứng ngay bên cạnh, bà bảo: Đây là cháu ngoại
của tôi đấy, cháu đang ở tuổi mẫu giáo. Nghe bà hát ru nhiều nên cũng rất thích
hát, sau này lớn lên sẽ dạy cho cháu để giữ lấy bản sắc quê hương mình.
* Phỏng vấn bà Đỗ Thị Ba (60 tuổi, thôn Ninh Quý, xã Ninh Lai,
huyện Sơn Dƣơng).
Bà Ba biết hát từ năm 17-18 tuổi, bà còn nhớ có lần đi bộ sang mãi bên
Đèo Nứa (xã Phúc Thuận, Phổ Yên, Bắc Thái, nay là tỉnh Thái Nguyên). Dẫn
đầu đoàn là hai người già. Sau bữa cơm chiều, nghỉ ngơi chờ đến tối thì cuộc
hát bắt đầu. Lời hát đầu tiên là hát hỏi xin nhà chủ với bài hát Mặt trời lặn. Sau
chủ nhà đồng ý và cuộc hát bắt đầu. Càng khuya hát càng say. Gần sáng, chủ
nhà nấu cơm nếp, thịt gà mời ăn. Chủ khách hát mời trà và đáp lại. Ăn xong lại
hỏi nhà chủ xin tăm xỉa răng, chậu nước rửa tay cũng bằng lời bài hát. Sau cuộc
hát, đi về cũng hát níu chân và hát xin về. Có nhiều lần, chúng tôi đi rất nhiều
nơi. Tối nay ở xóm này, ăn trưa xong lại đi bộ đến xóm khác theo lịch trình. Cứ
sau một đêm hát là một ngày đi bộ. Có cuộc hát kéo dài tới mười một đêm liền.
Nhiều lúc buồn ngủ, cứ nhắm mắt vào mà miệng vẫn cứ phải hát, không hát
không được. Đi xa nhất là Phúc Thuận, Phổ Yên, làng Sen, Vĩnh Phúc. Cứ mỗi
một cuộc hát, đều phải có ít nhất là hai người già đưa đi chứ không tự nhiên đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hát. Trước mỗi cuộc hát, đều có người bưng đĩa trầu hát hỏi xin phép. Soọng cô
48
thường hát ở trong nhà, cứ nhà nào có con gái thì đến hát, thường hát vào
những dịp đi chơi làng như tháng giêng, hai, tháng 7 sau mỗi đợt cấy. Trong
thời gian chiến tranh (1969-1972) chúng tôi không đi xa hát nữa nhưng tối tối
vẫn đi trong làng mình. Sau khi lập gia đình (1972) thì tôi không đi hát nữa.
Sau chiến tranh, cuộc sống khó khăn, người già cũng không đi hát, thanh niên
cũng chẳng để ý đến nét sinh hoạt văn hoá của làng mình nữa. Phải đến năm
2001, 2002 thì Soọng cô mới bắt đầu được khôi phục lại.
Ngày bé tôi khổ lắm, vừa đi học, vừa phải trông em. Bố mẹ đi làm về
thấy chưa nấu cơm nên chửi mắng, thế là tôi bỏ học. Khi ông bà có con dâu,
động viên tôi đi học thì tôi nghĩ mình lớn rồi, đi học nữa thì xấu hổ lắm. Giờ
không biết chữ nên những câu Soọng cô cũng hạn hẹp. Thấy người ta hát từ
một đến hai lần thì nhẩm học theo. Mỗi lần đi hát, có những người hát giọng
nghe khó, nếu không chú ý thì sẽ không biết đáp lại thế nào. Chị nào không
thuộc bài thì cứ ngân theo giọng rồi cùng hát. Nếu không hát được thì sẽ bị
phạt hát lại. Không biết hát thì nhờ chị bên cạnh hát đối lại cho. Còn bây giờ,
tối nào ông bà trong xóm cũng tụ tập ở nhà tôi cùng hát. Có những tối có đến
20-30 người. Tôi có 5 người con nhưng chẳng đứa nào biết hát. Giờ có cháu
ngoại là Trương Anh Tâm, học sinh lớp 7, cháu cũng rất thích hát Soọng cô.
Thường ngồi nghe các ông bà hát rồi học theo.
* Phỏng vấn ông bà Ôn Cát Đức (62 tuổi) - Trƣơng Thị Hồng (68
tuổi, ở thôn Ninh Quý, xã Ninh Lai, huyện Sơn Dƣơng)
Trước đây khi còn trẻ tôi cũng đi hát. 18 tuổi thì đi theo cánh già học
hát. Bây giờ ngoài 60 tuổi rồi chúng tôi vẫn còn đi hát thâu đêm đấy. Thế mới
biết là những câu hát ấy đã thấm sâu vào đời sống tâm hồn của người Sán
Dìu. Thường cứ vào tháng 7, sau khi cấy thì thời điểm đấy hát là hay nhất.
Chúng tôi thường hát đối đáp với nhau: Quen với nhau thì hát một kiểu;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người cùng làng hát một kiểu; yêu đương khắng khít thì lại hát kiểu khác.
49
Ngày đó, thanh niên chúng tôi hát say sưa. Cứ tối đến là sang bên làng khác
hát. Ngày thì dắt trâu đi cày, có những lần hát ba đêm liền mà hôm sau vẫn đi
làm hợp tác xã đầy đủ. Đêm đi hát như thế, ngày thì cũng không dám ngủ vì
sợ bố mẹ chửi. Cứ tháng 7 cấy xong là thanh niên lại rủ nhau đi hát. Chúng tôi
đi tới Phúc Thuận (Phổ Yên), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), đến làng vào khoảng 4h
chiều, sau đó gọi con gái đến hát. Nhà chủ nấu cơm ăn đêm. Đến sáng hôm
sau lại đi làng khác để hát tiếp. Những năm 1965-1970, thời kỳ bao cấp, nên
gia đình rất khó khăn về kinh tế. 21 tuổi, tôi đi bộ đội, đóng quân ở Thái
Nguyên, đến tối thứ 7 vẫn đi đến vùng dân tộc Sán Dìu để hát. Từ năm 1980
đến năm 2004, trong làng chẳng nghe thấy tiếng hát Soọng cô. Sau năm 2004,
Soọng cô mới được khôi phục lại. Mỗi xã có một đội văn nghệ. Cứ vào cuối
tháng lại tổ chức giao lưu với Đạo Trù, Vĩnh Linh (Vĩnh Phúc) nơi có câu lạc
bộ. Chỗ chúng tôi mới chỉ thành lập đội hát chứ chưa thành lập được câu lạc
bộ. Từ nhà tôi xuống Đạo Trù chỉ có 7km. Chúng tôi thường đến đây hát, hát
đến thâu đêm, không gì bằng được hát tiếng hát của dân tộc mình. Đến giờ tôi
còn nhớ khoảng 60 đến 70 bài.
1. Kim cheo sút món hông soc nỉ
Diu thống stạy ca hông soc lỷ
Stạy ca hông lý sút non nhọn
Sóng kim hống nỉ nán stá lý.
Dịch: Hôm nay ra cổng gặp được em
khác gì dây mướp gặp được giàn
Mướp gặp được giàn ra búp non
Anh nay gặp em khó chia ly.
2. Kẹn nhóng diêp duy lết toi cheo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mun nỷ ky nhóng mun nỉ cheo
50
Nhoáng hay non cheo stang cao stọng
Lóng hay loi thành lén stọng leo
Dịch: Thấy em như thấy một cây non
Hỏi em rồi lại hỏi cây non
Em hay cây non mọc lên cao
Anh hay cây dần leo lên chơi.
Xóm giờ có khoảng 20 người biết hát. Giới trẻ thì hầu như chẳng quan
tâm đến. Chúng chỉ nghĩ đến chuyện làm ăn mà chẳng nghĩ gì đến việc giữ
gìn bản sắc văn hoá của dân tộc mình.
Còn bà Hồng thì cho hay: Đàn bà có con rồi thì chẳng mấy khi đi đâu
hát. Hết con rồi lại đến cháu mà bây giờ sức khoẻ yếu cũng chẳng có giọng
hát nữa. Còn ông nhà tôi từ tháng 2, 3 đến giờ, thỉnh thoảng vẫn gọi điện hát
qua điện thoại với nghệ nhân bên xóm Đạo Trù. Có tối phải mất tới 100 nghìn
đồng tiền điện thoại chứ có ít đâu. Mai kia tôi cũng lo mất gốc vì giới trẻ bây
giờ không thích hát nũa. Chúng tôi cũng động viên nhiều thanh niên nam nữ
học hát nhằm giữ gìn vốn văn hoá của dân tộc nhiều nhưng chúng chỉ lo làm
kinh tế. Cứ lúc nào cấy gặt thì về hộ gia đình, xong rồi lại đi nên rất khó tổ
chức. Chúng tôi cũng lo sau này lớp người già cả như chúng tôi mất đi thì liệu
câu hát soọng cô có còn tồn tại.
* Phỏng vấn bà Lê Thị Long (71 tuổi, thôn Ninh Quý, xã Ninh Lai,
huyện Sơn Dƣơng, tỉnh Tuyên Quang).
Lời hát Soọng cô là những câu chữ rất mộc mạc, giản dị nhưng giàu
nhạc điệu, khi trầm bổng, khi ngân nga, lúc tha thiết, khi lại như thầm thì.
Người Sán Dìu ở đây mê hát bởi qua làn điệu Soọng cô, họ nói lên được tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảm, ước vọng của mình. Trai gái hát Soọng cô để tìm duyên chồng vợ.
51
Người già hát Soọng cô để răn dạy con cháu về công nuôi dưỡng, sinh thành
của cha mẹ, kinh nghiệm đối nhân xử thế.
2.3. Một số nhận xét về vùng hát, nghệ nhân hát Soọng cô ở Thái Nguyên và
Tuyên Quang
Nhận xét 1: Phải nói rằng ban đầu khi mới tiếp cận để thực hiện Đề tài
luận văn, chúng tôi cũng gặp một số những trở ngại. Tuy nhiên, càng tiếp xúc
càng thấy được sự say mê của các nghệ nhân sau từng câu hát. Họ không ngại
ngần khi nói về Soọng cô cho người ngoại đạo như chúng tôi, mà còn rất
nhiệt tình nói về lề lối, hình thức diễn xướng cho đến khi chúng tôi hiểu được
nét sinh hoạt văn hoá của cộng đồng người Sán Dìu.
Nhận xét 2: Cũng như các nghệ nhân vùng Thái Nguyên, các nghệ nhân
vùng Tuyên Quang cũng rất say sưa với Soọng cô. Họ vẫn thường sử dụng
tiếng Sán Dìu trong giao tiếp hằng ngày song song với sử dụng tiếng Việt.
Nhiều nghệ nhân mà chúng tôi tiếp xúc đều chú ý truyền dạy cho con cháu
của mình như bà Ba, ông Đức, bà Long…. Điều mà các nghệ nhân lo lắng là
làm thế nào để lưu truyền nét văn hoá đặc sắc của dân tộc mình trong khi lớp
trẻ chẳng mấy mặn mà.
Nhận xét 3: Qua cuộc trò chuyện với các nghệ nhân, có thể thấy người
dân tộc Sán Dìu ở vùng đất Thái Nguyên và Tuyên Quang thường tổ chức đi
hát sau những buổi nông nhàn hay các dịp lễ hội. Những dịp này các nam
thanh, nữ tú lại có dịp khoe giọng hát của mình. Các cụ am hiểu lối hát Soọng
cô cho biết, có hai lối hát Soọng cô đó là: Soọng cô theo kiểu đọc thơ và hát
theo kiểu ngân dài các từ trong câu nhưng không quy định trong hoàn cảnh
nào thì hát đọc, hoàn cảnh nào thì hát ngâm. Soọng cô không có nhạc cụ đệm,
giai điệu đều đều, âm thanh được ngân dài sau mỗi từ, trường độ không quy
định theo nhịp phách mà người hát có thể ngân tự do theo khả năng lấy hơi và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chất giọng của mình.
52
Nhận xét 4: Hầu hết các nghệ nhân của Thái Nguyên và Tuyên Quang
đều mong muốn Soọng cô được gìn giữ trong cộng đồng người Sán Dìu. Song
để lưu truyền thì các nghệ nhân ở Thái Nguyên đã có những giải pháp nhất
định đó là truyền dạy cho đồng bào mình ở nhiều lứa tuổi (từ 6 đến 35 tuổi).
Còn ở Tuyên Quang thì điều này rất khó bởi thanh niên trong làng thường đi
làm ăn xa, ở nhà chỉ còn người già và trẻ nhỏ. Mặc dù vậy, các cụ cũng đã chú ý
đến việc truyền dạy cho con cháu trong nhà. Hiện ở Tuyên Quang, các nhóm hát
cũng đã hình thành song hầu hết là những người già (từ 50 đến 70 tuổi).
Nhận xét 5: Qua khảo sát tại 6 thôn thuộc 3 xã Ninh Lai, Thiện Kế,
Sơn Nam (huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang) chúng tôi thấy: số người
biết hát Soọng cô không nhiều. Ở các xã này, trung bình mỗi xóm có khoảng
10 người trung niên và cao tuổi biết hát Soọng cô. Khảo sát tại 5 xóm của hai
xã Hoá Thượng và Nam Hoà (Đồng Hỷ, Thái Nguyên) chúng tôi thấy: hai xã
này cũng có đông đồng bào dân tộc Sán Dìu sinh sống: Nam Hoà có 22 xóm,
số người Sán Dìu chiếm 71,2%; Hoá Thượng có 17 xóm, trong đó người Sán
Dìu chiếm 32%.
Tiểu kết Chƣơng II: Chương viết đã tiến hành việc khảo sát về hai
vùng tồn tại và lưu truyền loại hình hát Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái
Nguyên và Tuyên Quang, chỉ ra sự hình thành về vùng hát, về đội ngũ các
nghệ nhân, hình thành đội hát và các câu lạc bộ. Chúng tôi cũng đã tiến hành
phỏng vấn các nghệ nhân, từ đó thấy được tâm tư, nguyện vọng, thực trạng
của hát Soọng cô trước đây và hiện nay của người Sán Dìu ở Tuyên Quang và
Thái Nguyên. Từ đó chúng tôi rút ra một số nhận xét về vùng và nghệ nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hát Soọng cô của hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
54
Chƣơng III
GIÁ TRỊ NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT
VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN HÁT SOỌNG CÔ
3.1. Giá trị về nội dung
Theo ông Ma Khánh Bằng: Ở người Sán Dìu, thơ với ca vẫn chỉ là
một, ngơi ta làm thơ để ca hát, và vì yêu thích ca hát mà làm thơ, chủ yếu là
sáng tác ứng khẩu và truyền miệng. Người ta hát để ca ngợi tình yêu, quê
hương đất nước, ca ngợi sức sáng tạo của người lao động; lên án, căm ghét
sự gian ác và áp bức bóc lột [2, tr. 135]. Ý kiến trên đây đã nói lên một phần
nội dung của hát Soọng cô, đồng thời cũng lý giải vì sao người Sán Dìu lại
yêu thích hát Soọng cô đến như vậy.
Soọng cô là lối hát giao duyên nên nội dung bao trùm của các bài
Soọng cô vẫn là tình yêu đôi lứa. Bởi thế, trong những cuộc hát có khi kéo dài
đến mấy đêm liền của các nam thanh nữ tú (các bài hát đêm thứ nhất chỉ được
phép hát lại vào đêm thứ năm) khiến cho kho tàng Soọng cô của dân tộc Sán
Dìu Dìu tích luỹ được khối lượng lớn lời ca đủ để biểu hiện những sắc thái
tinh tế trong tình yêu. Tình yêu muôn màu muôn vẻ được thể hiện qua những
lời ướm hỏi, khao khát, nhớ mong được thể hiện trong lời ca của dân tộc Sán
Dìu. Tuy nhiên, Soọng cô vốn là một hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng
của dân tộc Sán Dìu cho nên trong mỗi cuộc hát luôn có mặt của các bậc cao
niên và nam thanh nữ tú - một yếu tố quy định chặt chẽ, khuôn nếp của tiếng
hát Soọng cô nên ngoài tình yêu đôi lứa và niềm tôn kính với tổ tiên, ông bà,
người già và những người làng; niềm tự hào với quê hương xứ sở.
3.1.1. Hát Soọng cô phản ánh tình yêu đôi lứa
Dường như những đêm hát Soọng cô là những cơ hội tuyệt vời nhất cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các đôi lứa trao gửi tâm tình. Gái trai Sán Dìu có thể giãi bày nỗi niềm tâm
55
sự. Chính vì thế mà không phải ngẫu nhiên mà người Sán Dìu lại say mê với
Soọng cô bởi đó là sự lôi kéo mê hoặc của những lời ca ân tình. Với những lơi
ca giao duyên tế nhị, sâu sắc, yêu cái chất thơ tinh tế vô cùng đó, càng đọc lại
càng thấm cái ý nhị đẹp đẽ trong nội dung câu hát.
Xuân cũ qua đi, xuân mới đến
Hoa mận đã tàn, hoa đào nở
Hoa mận đã tàn gió thổi bay
Hoa đào đang nở chờ em tới.
(Ông Hoàng Văn Long, xã Nam Hoà, huyện Đồng Hỷ dịch
Mở đầu cuộc hát bao giờ cũng là những bài hát mời nước mời trầu,
vừa để tỏ lòng hiếu khách, vừa để ướm lòng khách:
Lời cổ:
Mạo si mút
Mạo si bi nóng mạo si loi
Loi dẹp ben hay láo suy dẹp
Mạo phí ben hay láo thánh thoi.
Dịch:
Thật là ngậm ngùi quá đi thôi
Có giầu chẳng lẽ không mời xơi
Lá giầu - tựa lá cây già cỗi
Vỏ cau tựa rễ cây trên đồi
(Ông Diệp Văn Tài, xã Hoá Thương dịch)
Sau những câu hát làm quen, nam nữ bắt đầu hát để thổ lộ tâm tư, tình
cảm của mình, xen vào những câu hỏi tên tuổi, anh em họ mạc, quê hương
bản quán, hỏi thăm sức khoẻ bạn hát đối đáp với nhau bằng những lời ướm
hỏi xa xôi như đi qua mấy con đò, mấy ngọn núi, bao khúc sông, làm cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không khí đêm hát trở nên đầm âm, thân mật. ở mọi tình huống, những câu
56
hát đòi hỏi phải có sự nhanh trí, tài ứng khẩu, đối tượng bị trêu ghẹo có khi là
những cô gái, nhưng nhiều khi ở thế bị động họ lại chuyển sang thế chủ động
gây lúng túng cho đối phương. Và qua lời bài hát họ có thể kết bạn với nhau.
Lời bài hát có khi chỉ là một câu hỏi tế nhị, nhưng ngay trong câu hát cũng
bộc lộ tình cảm của người hát:
Bên nam hát: Nhòng lòi tạo
Noofng kim lòi tạo ngoi son hương
Kim man chệnh xang nhóng lói tạo
Shá van mạo khênh lòi leo nhòng
Dịch: Mặt trời lên
Hỏi nàng đến đây có việc gì
Nghe tin nàng đến làng anh
Bỏ cả cơm nước đến chơi với nàng.
(Ông Ôn Cát Đức, xã Ninh Lai dịch
Không khí mỗi lúc một trở nên gần gũi. Hai bên trai gái hát những bài
thăm hỏi anh em họ hàng, quê hương bản quán, sức khoẻ của bạn hát. Cô gái
đáp lại bằng những lời ướm hỏi xa xôi như chàng trai trên đường đi đã qua
bao nhiêu con đò, khúc sông, ngọn núi, thể hiện sự quan tâm đến bạn và bộc
bạch tình cảm của mình:
Soọng thèo sềnh cô lòi mun nhòng
Mun nhòng hàng cộ kỳ shồng cong
Mun nhòng hàng cộ kỳ shan lẹng
Hàng sềnh lu dọn dịu kỳ sòng?
Dịch:
Xin bài hát ca đến hỏi chàng
Hỏi chàng đi qua bao nhiêu quãng đường
Bao dòng sông sâu bao quãng lội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chàng đến nơi đây mất mấy ngày?
57
Sau những câu thăm dò, chàng trai chuyển sang ca ngợi cô gái:
Nàng là thứ mấy trong nhà
Miệng ăn tiếng nói thật là khôn ngoan
Miệng cười hoa quế hoa nhài
Như bông hoa quệt như tơ hoa hồng
(Diệp Trung Bình dịch) [3]
Khi mời trầu đã dứt thì đôi bên trai gái cũng đã thân mật hơn, đủ để các
chàng trai không cần phải mượn cớ mà hỏi thẳng hay mạnh dạn hát lời hứa hẹn:
Thấy em anh cũng muốn nhìn
Thấy hoa muốn hái sợ vin gãy cành
Em về thu xếp cho rành
Rồi mai anh sẽ vin cành hái hoa.
(Diệp Trung Bình dịch) [3]
Trong thâm tâm của người con trai, cô gái xinh đẹp như một cành hoa
mà anh không hiểu có đủ dũng khí để hái nhưng vẫn mạnh dạn đưa ra lời ước
hẹn. Nếu cô gái cũng đồng lòng ước hẹn, cô cũng cất lên lời ca ngọt ngào. Cô
ví chàng trai như "cây gỗ lim thanh" - biểu tượng của sự mạnh mẽ khiến mình
thầm thương trộm nhớ. Cô gái khen chàng trai và cũng thầm ao ước được đến
nhà anh bằng lời hát có vẻ như không ăn nhập gì nhưng câu kết lại là một lời
đợi mong đến ngày nên đôi lứa:
Tiếc thay cây gỗ lim thanh
Đem về tiện đốn để dành mà đong
Chàng về thu xếp cho xong
Rồi mai em sẽ dốc lòng sang chơi
Chàng về nói nói cười cười
Thưa với thầy mẹ có người ước ao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nên chăng em sẽ ra vào
58
Kẻo luống công đợi kẻo bao công chờ
Chỉ tơ cuốn ngọn cột cờ
Chàng về thu xếp em chờ bóng giăng
(Diệp Trung Bình dịch) [3]
Và cuộc hát tưởng như sẽ kéo dài bất tận sau những lời yêu thương. Ví
tình yêu nhiều như lá cây sâm lâm trên rừng nên chàng trai đã rút ruột rút gan
tâm sự với người thương.
Cây sâm lâm gội lá xuân vàng
Cây bao nhiêu lá thương nàng bấy nhiêu
Lòng đây thương đấy đã nhiều
Đấy mà thương giá bao nhiêu mặc lòng.
(Diệp Trung Bình dịch) [3]
Cô gái bày tỏ nỗi lòng lo lắng rất đời thường và mong muốn xoá tan
nỗi cô đơn hiu quạnh của chàng trai. Nỗi lòng hiu quạnh của chàng trai được
cô gái đồng cảm đến tận cùng: Gọi trăng không thấy trăng thưa/ Gọi mây
mây cứ quấn cờ mà đi. Vậy là họ đã có cảm tình với nhau, nói như người xưa
“phải lòng nhau”. Như dòng họ bên lở bên bồi hiền hoà êm dịu, tình yêu lứa
đôi thật đẹp. Họ mong đến một ngày được cùng nhau đi chơi, như đôi bướm
trắng dập dờn bên đồng nội. Chàng trai hát:
Lòng nhóng hị bo vi vún tếnh
Vi vún tếnh soọng têt thông thóng
Shé sị cụi báo gia nhóng ché
Sộ sọi vị vún leo cô thóng
Dịch:
Cùng nàng đi chơi trên biển mây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trên đỉnh mây có một cái đầm
59
Nàng viết thư về báo cha mẹ
Ta ở trên mây chơi với rồng.
(Ông Trương Văn Phú, xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương dịch)[46]
Họ thề gắn bó bên nhau suốt đời, không gì có thể chia lìa như tình yêu
đôi lứa trong Sự tích trầu cau. Cô gái hát:
Ngỏi lống shênh nhóng mạn vụ si
Mạn nị nhet thói mạn nị thi
Nhóng hay nón suy sang cao sọng
Lóng hay loi thánh méng sọng suy!
Dịch:
Chàng và em không bao giờ sợ chết
Chẳng sợ mặt trời không sợ đất
Chàng sẽ hoá cây tùng cây bách
Em sẽ thành dây leo quấn gốc cây
(Ông Trương Văn Phú, xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương dịch)[46]
Đối với người Sán Dìu, họ ước mơ đi đến đỉnh cao nhất của tình yêu là
hôn nhân và hạnh phúc gia đình:
Mặt trăng ló đông vòng xuống tây
Xe kết hai người thành lứa đôi
Xe kết hai người thành gia thất
Thành đàn chim én bay lượn cánh đồng.
Ước vọng thành đôi của họ hoà với chiều dài của thời gian, họ không
sợ cái chết mà một lòng một dạ muốn được sống với nhau:
Dao cắt ruột gan đau ngày đêm
Ở trong lòng muốn kết duyên ngày đêm
Anh và em không bao giờ sợ chết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chẳng sợ mặt trời không sợ đất.
60
Tình yêu có một sức mạnh vô hình giúp cho các chàng trai cô gái vững
tin vào tình yêu. Tình yêu ấy đã được ví như dòng sông không bao giờ cạn:
Tình người như thể nước dòng sông
Nước sông chảy mãi không bao giờ cạn
Nước sông chảy mãi không ngày rút
Tình ta với mình khó chia ly.
(Ông Lục Đình Hoà, xã Ninh Lai dịch).
Và họ cùng ước mơ một tổ ấm:
Ước gì anh được là chồng
Mà nàng là thiếp tơ hồng hai se
Từ rày ai nói chớ nghe
Thương nhau ta gửi thư về làm tin
Vắng nàng anh phải đi tìm
Vắng nàng một lúc như chim lạc đàn.
(Diệp Trung Bình) [3]
Với Sình ca của dân tộc Cao Lan, dù trai gái hát nhiều nội dung khác
nhau nhưng lời bài hát nào cũng gắn với tình yêu. Hát Sình ca là dịp để trai
gái tìm hiểu, hò hẹn:
Dặt phòng mỏi líu nảy
Họp déng vung phoọng phọng trạc va
Vung phoọng phòng va cậy kệt tắn
Dọc chải va lặm nhăt dì dặng
Dịch:
Gặp được nàng rồi, được gặp nàng
Giống như ong vàng gặp được hoa
Ong vàng gặp hoa về xây tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngày đêm thơm nức tại rừng hoa
61
Có thể nói, với dân tộc nào cũng vậy, những lời hát khát vọng về lời hát
tình yêu hạnh phúc là điều thường thấy trong những bài hát dân ca của các
dân tộc ít người. Tuy nhiên, cùng với khát khao hạnh phúc nhưng cuộc sống
lại đa chiều, vì thế những lời ca về sự đổ vỡ trong tình yêu trong dân ca của
người Sán Dìu lấn chiếm số lượng không nhỏ:
Trời đất chẳng cho ta kết thành đôi
Như là con dao cắt đút ruột gan
Tiếc mãi duyên số ta chẳng hợp
Bông hoa đẹp tuyệt chẳng được hái. [47]
Như vậy, qua những lời ca giao duyên của người Sán Dìu, tình yêu
được thể hiện phong phú, nhiều chiều với nhiều cung bậc và nhiều trạng thái
cảm xúc trở thành cảm hứng chủ đạo. Tình yêu của các chàng trai cô gái
người Sán Dìu được thể hiện một cách bộc trực, thẳng thắn, mãnh liệt như chính
tính cách của họ, điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của các bài hát Soọng cô.
3.1.2. Hát Soọng cô phản ánh niềm kính trọng tổ tiên, ông bà, người già và
nhưng người làng
Tôn kính người già là biểu hiện một nếp sống đẹp có văn hóa phù hợp
với truyền thống đạo lý của dân tộc ta. Đối với người Sán Dìu, cuộc vui hát
không chỉ của nam nữ thanh niên hay của một gia đình mà là của thôn làng.
Vì vậy, cứ mỗi một cuộc hát là già trẻ, trai gái kéo đến chung vui. Đây cũng
là dịp để khách hát chúc sức khoẻ các bậc phụ lão trong làng, vừa như ngỏ ý
mời các cụ già vui hát cùng con cháu:
Soọng thèo phềnh cô hô son hoi
Son chông láo thai phác lèo thoi
Son chông láo thai ghim von hí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Diu tạo lẹo nén láo léo lói
62
Dịch:
Xin hát bài ca chúc xóm làng
Già làng tóc bạc vui cùng cháu
Già làng đã từng là niên thiếu
Bây giờ đã già đến cháu con
(Ông Lục Đình Hoà, xã Ninh Lai huyện Sơn Dương dịch) [47]
Lời bài hát làm ấm lòng các bậc cao niên. Ngày xưa còn trẻ, các già làng cũng
đã từng trải qua những giây phút tươi vui và giờ đến lượt con cháu nối tiếp
truyền thống xưa trong buổi hát này. Niềm vui lấp lánh trong mắt người già,
trong tiếng ngâm của con trẻ. Đặc biệt, đối với người Sán Dìu, lòng thành
kính tổ tiên, ông bà và tình cảm nồng hậu với những người xung quanh là một
phẩm chất tốt đẹp của người Sán Dìu. Nét văn hoá ấy được lưu giữ trong
những câu hát Soọng cô.
Lời cổ:
Ván hô son thói
Nhóng kim hô hí lóng hô hí
Sảy ca hô hí ngoi son thói
Lóng son dịu coi sống suy mộc
Nhóng lói lu dọn tách cha thói !
Dịch: Đáp lời chúc mừng xóm làng
Đôi bên ta chúc cho xóm làng
Tình người thắm thiết nhà khang trang
Làng anh có cây đa rợp bóng
Che mát cho em vào đến làng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Ông Lê Văn Thành, xã Hoá Thương dịch)
63
Tỏ lòng tôn kính với các cụ cao niên, những chàng trai, cô gái đã hát
mừng các già làng. Các cụ gặp nhau mừng vui phấn khởi, cùng nghe con cháu
hát vang những lời hát của bản làng:
Lời cổ:
Hô láo thai
Song theo sển
Si ben láo thai sộ phai phái
Si ben láo thai sảy sộ leo
Tánh ngoi sẹo nén leo pha cai
Dịch:
Chúc mừng các cụ cao niên
Hát một bài ca mừng già làng
Bốn bên các cụ ngồi từng hàng
Bốn bên các cụ ngồi trò chuyện
Chúng cháu tuổi trẻ hát ca vang
(Ông Diệp Văn Tài, xã Hoá Thương, huyện Đồng Hỷ dịch)
Và cùng chúc cho các cụ sống lâu, cùng con cháu trong những đêm hát
Soọng cô nồng ấm.
Lời cổ: Ván hô láo thai
Nhóng kim hô hí lóng hô hi
Sảy ca hô hí ngoi láo thai
Si ben láo thai sảy sộ leo
Tánh ngoi sẹo nén leo pha cai
Dịch: Đáp lời chúc mừng các cụ
Đôi bên ta chúc cho già làng
Tóc bạc da mồi cảnh còng lưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bốn bên các cụ ngồi trò chuyện
64
Để cháu vui mừng hát ca vang.
(Ông Lê Văn Thành, xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ dịch)
Còn đối với anh em bằng hữu, người Sán Dìu cũng có lời ca, cùng chúc
cho tình bằng hữu thêm mặn nồng, thắm thiết. Và cùng nhau hát vang cho tới
lúc rạng đông.
Lời cổ:
Hô phềnh dịu
Song thẻo sểnh cô hô phềnh dịu
Si ben phềnh dịu sộ phệnh phềnh
Siben phềnh dịu sảy sộ leo
Tánh ngoi sẹo nén leo cô sểnh.
Dịch:
Chúc mừng bằng hữu
Hát một bài ca mừng bạn làng
Bốn bên bạn hữu ngồi từng hàng
Bốn bên bạn hữu ngồi vui chơi
Tuổi trẻ chúng tôi vui hát vang
Lời cổ:
Ván hô phềnh dịu
Nhóng kim hô hí lóng hô hí
Sảy ca hô hí phềnh dịu lóng
Dịu dón kim mạn nhóng lói leo
Lồng nhóng sảy sộ tạo then cong!
Dịch:
Đáp lởi chúc mừng bằng hữu
Đôi bên chúc bạn cùng cộng đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chúc tình bằng hữu thêm mặn nồng
65
Đêm nay gặp mặt vui ca hát
Cùng nhau ca hát đến rạng đông
(Ông Lê Văn Thành, xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ dịch)
3.1.3. Hát Soọng cô phản ánh tình yêu lao động
Chiếm một phần đáng kể trong Soọng cô là những bài hát về tình yêu
lao động. Từ bao đời nay, người Sán Dìu đã phải vật lộn chinh phục thiên
nhiên khắc nghiệt để biến đồi sỏi đất khô cằn thành ruộng đồng màu mỡ.
Trong vất vả lam lũ ấy, tiếng hát So ọng cô vẫn vang lên xua đi nỗi nhọc
nhằn. Trai gái Sán Dìu đến với nhau để thổ lộ tâm tình không chỉ thông qua
nhưng đêm hát mà họ còn hát với nhau ở tất cả mọi nơi khi cùng lao động sản
xuất, thể hiện niềm lạc quan, yêu đời, lời ca tiếng hát giúp họ xua đi những
mệt mỏi vất vả. Qua các câu hát, trai gái khác làng làm quen rồi kết bạn với
nhau, Đôi khi đã biết nhau hay đã có vợ, có chồng, họ vẫn hát đối đáp để thử
tài nhau, thể hiện sự lạc quan yêu đời và niềm vui cuộc sống. Gồm các bài
theo khuôn mẫu chép thành sách và các bài ứng tác. Phần các bài trong khuôn
mẫu có 12 bài hát tương ứng với 12 tháng. Thông qua công việc hái chè để
khái quát hiện tượng thời tiết trong năm: mùa xuân thì tiết trời ấm áp, cỏ cây
đâm chồi nảy lộc; mùa hè mưa nhiều là mùa gieo cấy; mùa thu lá vàng rơi;
mùa đông ngày nắng đêm sương mù là mùa cây kết trái. ở phần này nam nữ
đều có thể hát:
Tháng hai hái chè thời đúng lúc
Rừng biếc đồi chè nảy lộc non
Bên này đi hái bên kia đến
Vui đùa ca hát quên mệt mỏi
hay:
Tháng sáu hái chè lá đã già
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ở ruộng đã có người cày cấy
66
Không đi hái chè chè quá lứa
Chẳng đi hái hoa hoa cũng tàn
Ở phần ứng tác các bài thường không hạn chế. Giữa thiên nhiên
khoáng đạt nam nữ thanh niên vừa hái chè vừa cười đùa vui vẻ, tiếng hát đối
đáp vang vọng vào vách núi:
Nam:
Cùng nàng lên núi trong sớm mai
Nắm cơm khăn gói hái chè xanh
Búp non tua tủa mọc trên cành
Chè xuân còn đợi người chơi xuân
Nữ:
Tháng ba chè búp đắng thì
Cùng anh lên núi hái chè tuyết xanh .
Búp non tua tủa trên cành
Đang chờ người hái để dành một khi.
3.2. Giá trị về nghệ thuật
3.2.1. Thể thơ
Trên phương diện tinh thần, thơ là nguồn cảm thông chung của nhân
loại (Hegel). Về cấu trúc, thơ là một ngôn ngữ riêng trong ngôn ngữ chung
của loài người và làm thơ tức là làm thế nào cho ngôn ngữ trở thành một tác
phẩm nghệ thuật (Paul Valéry). Về phương diện ngữ học, thơ !à ngôn ngữ
trong chức năng thẩm mỹ của nó (Jakobson). [56]
Xét về cơ cấu thể loại thì văn học dân gian các dân tộc ít người chẳng
những có khá đầy đủ các thể loại cơ bản của văn học dân gian người Việt
(như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, tục ngữ, câu đố,
dân ca, ca dao, vè…) mà ở một số dân tộc còn giữ được những thể loại văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học dân gian đặc sắc không thấy có (hay có nhưng không còn giữ được)
67
trongvăn học dân gian của người Việt (như thể loại sử thi thần thoại của
người Mường, thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc ở Tây Nguyên, thể loại
dân ca nghi lễ - phong tục, thể loại truyện thơ giàu tính dân gian của người
Mông, người Thái, người Tày, người Nùng…). Nhờ vậy mà nền văn học dân
gian đa sắc tộc Việt Nam có đầy đủ các th loại cơ bản của văn học dân gian
nhân loại. Hơn nữa nền văn học dân gian nước ta còn đủ những tác phẩm hay,
xứng đáng tiêu biểu cho các thể loại văn học dân gian cơ bản của Việt Nam
và có thể sánh với những tác phẩm hay của nền văn học học dân gian các dân
tộc trên thế giới. [24, tr. 271, 272].
Ở Soọng cô của người Sán Dìu, mỗi bài ca là một bài thơ được nhân
dân lao động sáng tác, truyền miệng và được ghi lại bằng chữ Hán theo thể
thất ngôn tứ tuyệt. Thỉnh thoảng cũng có những biến tấu bằng những câu ba
chữ hoặc năm chữ: câu đầu tiên chỉ có ba chữ, ba câu sau mỗi câu 7 chữ. Khi
dịch sang chữ Việt, có nghệ nhân đã chuyển thành thể thơ lục bát: bài thơ có
bốn câu, chia thành hai cặp, mỗi cặp câu trên có sáu chữ và câu dưới có tám
chữ. Tuy nhiên, qua những chuyến thu thập các bài Soọng cô ở hai huyện Sơn
Dương và Đồng Hỷ, các nghệ nhân mà người nghiên cứu được tiếp xúc
thường dịch ý các bài thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt. ý thơ dịch sát với văn
bản chữ Hán. Là thể loại ca hát dân gian đặc sắc và trữ tình của dân tộc Sán
Dìu nên ngôn ngữ trong Soọng cô mộc mạc và gần gũi với đời thường nhưng
giàu hình ảnh, một số từ mang tính ước lệ, lối so sánh ví von, sử dụng từ
tượng hình, tượng thanh khá phổ biến và hấp dẫn:
Tình người dài như dòng sông chảy
Cây sen mọc tốt chắn ngang trời
Hoàng anh bay lượn hát vang…
Ngôn ngữ thơ mang đậm tính chất ngôn ngữ dân tộc. Nhờ biết dựa vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngôn ngữ dân tộc, khai thác sử dụng ngôn ngữ dân tộc mà ca dao dân ca Việt
68
Nam rất giàu bản sắc không những thế mà còn tác động ngược trở lại ngôn
ngữ dân tộc để củng cố và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Văn học dân gian vốn
có tính dân tộc, tính tập thể, và tính truyền miệng nên vừa thống nhất, vừa đa
dạng. Vì vậy mà hai khuynh hướng dân tộc hóa và địa phương hóa luôn diễn
ra song song và tác động lẫn nhau. Ngôn ngữ ca dao cũng vậy, vừa đậm đà
bản sắc dân tộc vừa mang sắc thái địa phương. Chúng ta nhận thấy dấu ấn văn
hóa vùng miền nhờ vâo ngôn ngữ địa phương.
3.2.2. Kết cấu
Hát đối đáp thể hiện một cách sinh động và chân thực về mọi mặt của
đời sống lao động cũng như tư tưởng, tình cảm của người dân, đặc biệt là
tình yêu đôi lứa. Hát đối đáp cũng là một hình thức để giao hoà tình cảm của
cá nhân và tập thể qua cách thức thể hiện thật trữ tình. Lối hát đối đáp sinh ra
từ cuộc sống lao động và nghệ thuật tập thể, từ yêu cầu trao đổi tình cảm giữa
cá nhân với xã hội. Nó khơi dòng và truyền đi nguồn thơ của dân gian. Với
thơ ca ruyền thống Việt Nam, hình thức kết cấu gồm các dạng thức: Kết cấu
hai vế đối đáp; kết cấu trùng điệp.
Kết cấu hai vế đối đáp: Điều này cũng thể hiện khá rõ trong dân ca Sán
Dìu. Lối kết cấu này được thể hiện rõ nét nhất trong hát đố giữa các đôi nam
nữ và ngược lại:
Cây gì mọc trồng rất thẳng?
Cái gì mọc mà che ngang trời?
Cái gì mọc mà chiếu xuống đất?
Quả gì đem ra chợ bán được tiền?
Cây chuối mọc thời rất thẳng
Lá chuối mọc ngang trời
Bi chuối ra chiếu xuống đất
Quả chuối đem ra chợ bán được tiền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Ông Lê Văn Thành, xã Hoá Thượng dịch)
69
Một trong những nội dung của hát giao duyên và đan xen với hát giao
duyên là hát đố. Hát đố thường là hỏi và giải những hiện tượng sự vật, hiện
tượng thông thường trong đời sống sinh hoạt, điển tích. Trong khi hát, nếu
một bên không thuộc những bài hát cũ hoặc không ứng tác kịp thời những bài
hát đối lại thì coi như thua. Nhưng nếu để thua họ rất lấy làm hổ thẹn, tự coi
mình người kém cỏi. Nam nữ cứ tiếp tục đối đáp với những câu đố về cảnh
vật con người đan xen với những bài hát đối đáp mượn cảnh làng quê. Nội
dung hát đố cũng mượn cảnh vật nói về tình yêu, thông qua hát đố để thử tài
của nhau. Chẳng hạn như: “Cái gì sắc tựa hơn dao (đôi mắt người yêu;Cái gì
sáng tỏ như sao trên trời (đôi ta); Cái gì chàng trả em ngồi (chiếu hoa);
Trước đây ai là người mở đất (Bàn Cổ Vương)”.
Nữ:
Êt chốc nghi chốc soi sênh lóng
Lóng lim suy soi mút son boong
Xá suy mạ thói không ngơi cóng
Xá song tong sô xị mút vong
Dịch:
Tiện đây em hỏi mấy câu
Tiện đây em hỏi mấy câu sự tình
Anh mà giải được phân minh
Thì em quyết chí chung tình với anh
vua nào nâng được trời xanh
Tự lập thiên hạ từ thời thuở xưa
Khai thiên lập địa bấy giờ
Vua nào quản được người trần thế gian.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Ông Lục Đình Hoà, thôn Ninh Phú, xã Ninh lai dịch) [47. tr 23]
70
Bên nam đáp :
Ết chốc nghi chốc soi sênh nhưng
Lòng kim suy soi háo son hoàng
Xá suy mạ thói không ni cóng
Si soọng tong sô nhón cũ vòng
Dịch:
Em đố anh giải cho nghe
Đời ta đang ở giữa trời trong xanh
Vua Bàn Cổ nâng dựng trời xanh
Tự lập thiên hạ từ thời thuở xưa
Khai thiên lập địa bây giờ
Phục nghi hoàng đế quản người thế gian
Anh nay giải hết đã đành
Còn em quyết chí chung tình hay không?
(Ông Lục Đinh Hoà, thôn Ninh Phú, xã Ninh lai dịch) [47. tr 24]
Thường thì nữ đố, nam trả lời nhưng cũng có khi ngược lại:
Nam hỏi:
Ba rừng bốn núi núi nào cao?
Năm hồ bốn biển hồ nào sâu?
Trên rừng cây gì chỉ một lá?
Ở biển cá gì chỉ một vây?
Cô gái trả lời:
Ba rừng bốn núi, Linh Sơn cao
Năm hồ bốn biển, Động Đình sâu
Trên rừng cây độc chỉ một lá
Cá mực ở biển chỉ một vây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Ông Lục Đình Hòa, xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương dịch) [47, tr.25-26].
71
Kết cấu trùng điệp:
Cũng như trong ca dao trữ tình Việt Nam, kết cấu trùng điệp xuất hiện
nhiều trong thơ của người Sán Dìu. Với sự lặp lại cả một ý thơ, dòng thơ,
thậm chí cả khổ thơ để nhằm biểu đạt những cung bậc tình cảm sâu sắc của
con người. Bởi Soọng cô chủ yếu là phần hát đối đáp giao duyên, người
xướng dẫn câu hát đố, người đáp phải chọn những câu hợp cảnh hợp tình để
hát đáp câu hỏi:
Lửa đốt phên nứa cong hai đầu.
Đêm qua đám hát mới mở đầu
Đêm qua đám hát mới quen nhau
Đêm nay đám hát ta mình biết nhau.
3.2.3. Vần nhịp
Soọng cô được hát theo thể thơ thất ngôn với giai điệu chậm rãi, ngân
nga. Trong quá trình vận động của giai điệu, nhịp điệu đã góp phần đáng kể
vào việc hình thành phong cách hát. Nhịp điệu hát Soọng cô theo âm hình tiết
tấu của âm nhạc, câu sau lặp lại câu trước. Nhịp trong hát Soọng cô thường sử
dụng theo nhịp. Ở các hình thức hát trên, lời ca thường giản dị, ít tính nhạc,
nhịp điệu không phong phú. Thường các bài được át theo một nhịp điệu đều
đều với câu nhạc nhất định. Nếu cùng chủ đề thì lời ca của bài sau có thay đổi
nhưng không đáng kể, gần như lặp lại nguyên văn lời ca của bài trước. Chính
điều này cũng đã thể hiện bản chất, tâm tư, tình cảm, phong cách sinh hoạt
của người Sán Dìu trong một môi trường điều kiện ít biến đổi. Vì thế mà xưa
kia, bất cứ người Sán Dìu nào cũng có thể nói vần, hát Soọng cô được.
3.3. Hiện trạng và bảo tồn hát Soọng cô ở Thái Nguyên và Tuyên Quang
3.3.1. Hiện trạng
Văn học dân gian của người Sán Dìu rất phong phú. Soọng cô là một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hình thức sinh hoạt văn hoá mang tính cộng đồng rất cao. Khi hát Soọng cô,
72
đồng bào sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình và trang phục truyền thống.
Chính sự kết hợp hài hoà này đã tạo nên nét văn hoá riêng của người Sán Dìu.
Nói đến Soọng cô là nói đến một thể loại dân ca trữ tình với lời hát đối đáp
nam nữ gần giống với điệu hát Then, hát Lượn của dân tộc Tày, hát Sli của
dân tộc Nùng. Mỗi bài ca là một bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt
và được lưu truyền trong dân gian. Người Sán Dìu say mê hát bởi Soọng cô
bắt nguồn từ cuộc sống bình dị do chính những người nông dân thật thà, chất
phác sáng tạo nên. Lời hát được lưu truyền trong dân gian từ thế hệ này sang
thế hệ khác hoặc được ghi chép lại bằng chữ Hán cổ. Tuy nhiên, khác với các
làn điệu dân ca khác, khi hát, người Sán Dìu thường "hát chay" mà không
kêm theo một nhạc cụ nào. Cái hay và độc đáo của Soọng cô là bởi những lời
hát được cất lên trầm bổng, ngân nga, tha thiết, có khi lại như thầm thì; bởi
trong cách ví von rất ý nhị nhưng tình tứ và lãng mạn…
Những năm gần đây, ở Tuyên Quang, nhiều bài hát trước đây được
truyền khẩu nay cũng không còn lưu giữ được Số lượng sách cổ ghi lại bài
hát Soọng cô bằng chữ Hán còn rất ít.
Cùng với đó số lượng sách cổ ghi lại bài hát Soọng cô bằng chữ Hán
còn rất ít. Số người già biết chữ Hán không còn nhiều, số cụ có khả năng dịch
từ chữ Hán sang chữ Việt ở 2 xã Nam Hoà, Hoá Thượng chỉ có 4 người.
Theo lời kể của các nghệ nhân ở cơ sở hoặc một số tài liệu đã công bố
như sách "Dân ca Sán Dìu", Nhà Xuất bản Văn hoá dân tộc. 1987, "Người
Sán Dìu ở Việt Nam", Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, 1983… thì hát Soọng
cô theo khuôn mẫu bắt buộc ở các thể loại có 794 bài, gồm trên 3.200 câu.
Soọng cô có 16 phần hát cổ theo sách, trong bài hát mỗi câu có 7 chữ. Hiện
sách hát Soọng cô có ba cuốn tại thôn Ninh Lai (xã Ninh Lai, huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang). Hiện nay số nghệ nhân hát Soọng cô của năm xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được khảo sát tính ra còn khoảng trên 100 người. Những người nhớ được
73
những lời cổ chiếm tỷ lệ rất ít, chủ yếu là ở những người cao tuổi, độ tuổi từ
65 đến 70 tuổi.
Trên thực tế khảo sát xác định là có Soọng cô đậm đặc thuộc ba xã
Ninh Lai, Thiện Kế, Sơn Nam chỉ sưu tầm được 171 bài [47]. Tại thôn Thiện
Phong, xã Thiện Kế, nghệ nhân Bàng Kim Oanh (mất cách đây 4 năm) dịch
các bài hát từ chữ Hán sang chữ Việt phải theo cách nghe các nghệ nhân khác
hát bằng tiếng Sán Dìu, ghi lại trên giấy bằng chữ Hán rồi mới dịch sang chữ
Việt. Số lượng người già biết chữ Hán không còn nhiều, số cụ có khả năng
dịch từ chữ Hán sang chữ Việt ở ba xã Ninh Lai, Thiện Kế, Sơn Nam cũng
chỉ còn có 4 người.
Tuy nhiên, những năm gần đây, hát Soọng cô ở Thái Nguyên đã không
còn được phổ biến. Nam nữ thanh niên dân tộc Sán Dìu dường như không còn
biết hát Soọng cô. Trong những đêm hội hay đám cưới, hát Soọng cô đã được
thay thế bằng những bài hát thời hiện đại. Soọng chỉ còn được những người
già trên 50 tuổi hát. Trong sâu thẳm cõi lòng, các cụ luôn tâm niệm rằng phải
truyền lại cho thế hệ trẻ những câu hát Soọng cô để gìn giữ bản sắc văn hoá
dân tộc mình. Gìn giữ những câu hát Soọng cô cũng chính là gìn giữ tiếng nói
của dân tộc mình. Năm 2009, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thái Nguyên
đã chọn Nam Hoà (là xã có đông người Sán Dìu nhất của tỉnh Thái Nguyên
và cũng là xã có tới 73% người dân là dân tộc Sán Dìu) để thực hiện Đề tài
khoa học “Bảo tồn hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu". Từ khi có Đề tài khoa
học này, Đội học hát Soọng cô được thành lập gồm 1 4 thanh niên nam nữ của
xóm Chí Son do những nghệ nhân trong đó có ông Trần Văn Bình, 66 tuổi
trực tiếp truyền dạy. Ông Bình cho biết: Đến nay, Đội văn nghệ của xóm có
thể hát một cách thuần thục những bài hát Soọng Cô. Theo ông, việc dạy hát
Soọng cô cho thế hệ trẻ là một việc làm rất cân thiết để răn dạy con cháu về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
công ơn nuôi dưỡng, sinh thành của cha mẹ, truyền thụ lại những phong tục,
74
tập quán và kinh nghiệm của cha ông đúc kết. Anh Diệp Văn Chung, một
thành viên trong Đội hát cho hay: Những buổi học ban đầu thật khó khăn.
Đầu tiên, chúng tôi phải học thuộc lời bài hát bằng tiếng của dân tộc mình rồi
mới luyện giọng. Đây chính là điều khiến chúng tôi nản nhất vì hát đúng
giọng một bài rất khó. Cụ Bình và một số người khác đã rất nhiệt tình hướng
dẫn chúng tôi hát. Các cụ không chỉ dạy chúng tôi hát làm sao cho chuẩn mà
còn giải thích ý nghĩa từng lời hát, câu hát, kể cho nghe không khí các buổi
hát ngày xưa khiến chúng tôi cảm thấy rất thích thú. Điều kiện thuận lợi cho
công việc bảo tồn và phục hồi Soọng cô là hầu hết lớp thanh niên ở Thái
Nguyên hiện nay vẫn sử dụng thành thạo ngôn ngữ dân tộc mình trong giao
tiếp do nhiều gia đình vẫn có ý thức dạy cho con cháu nói tiếng Sán Dìu song
song với nói tiếng Việt. Qua trao đổi với ông Bình, chúng tôi được biết: Việc
phục hồi lại hát Soọng cô đang gặp không ít khó khăn. Khó khăn đầu tiên là
chọn người. Không phải ai cũng có thể hát mà phải là người có năng khiếu, có
tinh thần yêu ca hát mới có thể học hát thành công. Mặt khác, trong kho tàng
các bài hát Soọng Cô, nhiều bài đã bị thất lạc do không được ghi chép lại mà
chủ yếu được lưu truyền mừng. Chính vì lẽ đó, việc sưu tầm lại các bài hát
chủ yếu phụ thuộc vào trí nhớ của các cụ cao tuổi hay hát. Còn ông Diệp Văn
Đức, Trưởng xóm Chí Son cho hay: Hiện xóm cũng đang tổ chức dạy cho hai
cháu Từ Thị Điệp và Từ Thị Phương (đang học lớp 9 và lớp 10) nhằm bảo tồn
vốn văn hoá của dân tộc Sán Dìu…
Trước nguy cơ mai một nét văn hoá truyền thống của người Sán Dìu ở
Thái Nguyên, ngoài việc tuyên truyền để chính người Sán Dìu hiểu và trân
trọng nét văn hoá đặc sắc của dân tộc mình, giữ gìn tiếng nói, hát Soọng cô tại
địa phương; xã hội hoá hoạt động văn hoá gắn với xây dựng văn nghệ quần
chúng ở cơ sở nhằm thu hút mọi người dân, nhất là thanh niên tham gia học
và giữ gìn các làn điệu Soọng cô. Đồng thời sưu tầm những bài Soọng cô để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bảo tồn và phát huy giá trị.
75
Còn ở Tuyên Quang đứng trước nguy cơ mai một bản sắc văn hóa các
dân tộc thiểu số trên bàn tỉnh, những năm qua, nhất là từ năm 1998, khi có
Nghị quyết Trung ương 5 đến nay, Tuyên Quang đã tích cực triển khai công
tác bảo tồn di sản văn hóa, phát huy giá trị văn hóa phi vật thể, coi di sản văn
hóa là nguồn tài nguyên vô cùng quý báu, là yếu tố đặc biệt quan trọng nhằm
tạo sự hấp dẫn đối với du khách khi đặt chân đến Tuyên Quang. Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã xây dựng Dự án "Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
phi vật thể các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang” thực hiện đến năm 2015.
Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tuyên Quang Nguyễn Việt Thanh
cho biết: "Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể đòi hỏi cần có tầm
nhìn, sự hiểu biết, tri thức khoa học và cả sự tiếp cận đích thực văn hóa. Bảo
tồn, phát huy một cách đúng mức không những giữ gìn được nguyên vẹn mà
còn làm thăng hoa các giá trị văn hóa phi vật thể, từ cốt cách mỗi dân tộc
được gìn giữ, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc - nhân tố quan trọng của
sự phát triển bền vững, được nuôi dưỡng và lưu truyền, đồng thời góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh". [56] Từ vị trí và vai trò của nó
trong đời sống tinh thần của xã hội, có thể nói, văn hoá phi vật thể là hệ thống
các giá trị đã góp phần quan trọng để làm nên bản sắc văn hoá dân tộc.
3.3.2. Bảo tồn loại hình dân ca dân tộc Sán Dìu
3.3.2.1. Các hình thức bảo tồn: Ghi âm, sưu tầm
Ra đời từ trong quá khứ, vận hành cùng lịch sử dân tộc cho đến ngày
nay, muốn phát huy ý nghĩa tích cực của văn hoá phi vật thể trong xã hội hiện
đại thì trước hết, cần quan tâm đến việc bảo tồn nó như thế nào.
Đặc trưng dễ nhận biết của văn hoá phi vật thể là nó không tồn tại dưới
dạng vật chất, vật thể cụ thể (không kể một số hình thức đã được văn bản hoá)
mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ, tâm thức của con người và chỉ bộc lộ thông qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hành vi và hoạt động của con người. Nói cách khác, nếu văn hoá vật thể được
76
khách thể hoá, tức tồn tại như một thực thể ngoài bản thân con người, thì văn
hoá phi vật thể lại tiềm ẩn trong bản thân con người và thông qua diễn xướng,
các hiện tượng vốn tiềm ẩn ấy mới có thể bộc lộ, thể hiện ra như một hiện
tượng văn hoá.
Văn hoá nói chung, nhất là văn hoá phi vật thể, đều là của cộng đồng
(gia tộc, làng xã, địa phương, tộc người), nhưng tiềm ẩn trong trí nhớ và tâm
thức của từng con người cụ thể, qua sự tiếp nhận và thể hiện của từng con
người, cho nên nó mang dấu ấn cá nhân và vai trò sáng tạo của cá nhân rất rõ
rệt. Bởi thế sự sáng tạo, bảo tồn và trao truyền của văn hoá phi vật thể lại phụ
thuộc vào cuộc đời của từng cá nhân. Vì vậy, nó vừa mang tính bền chắc
tiềm ẩn trong tâm thức dân tộc) lại vừa mỏng manh dễ bị tổn thương (phụ
thuộc cuộc sống của một cá nhân với bao may rủi, bất ngờ).
Cũng chính vì đặc trưng nêu trên, văn hoá phi vật thể không chỉ phụ
thuộc từng cá nhân, mà còn phụ thuộc các nhóm xã hội khác nhau (nông thôn,
đô thị, già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân),... Tính cá nhân và tính nhóm xã
hội đã khiến cho văn hoá phi vật thể phong phú và đa dạng hơn nhiều, nói
cách khác tính dị bản của nó cao hơn so với văn hoá vật thể.
Sự phân biệt văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể là một sự giả định
chủ quan của con người, giúp 'con người có thể nhận thức bản chất thực tại
khách quan. Văn hoá với tư cách là khách thể, tồn tại và phát triển trên cơ sở
kết hợp hữu cơ giữa mặt vật thể và mặt phi vật thể. Mặt này là tiền đề tồn tại
của mặt kia và ngược lại. Do vậy, trong tư duy cũng như trong hoạt động thực
tiễn, tránh sự cô lập, đối lập một cách tuyệt đối giữa mặt vật thể và phi vật
thể của một hiện tượng văn hoá.
Văn hoá truyền thống nói chung, văn hoá phi vật thể nói riêng của các
tộc người ở nước ta, nhất là với các dân tộc thiểu số ở vùng núi còn chưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được chú ý sưu tầm, nghiên cứu. Hơn thế nữa, các hiện tượng văn hoá phi vật
77
thể này lại đang đứng trước nguy cơ mai một, mất đi vĩnh viễn bởi thử thách
của thời gian, bởi sự phá hoại vô ý thức của chính con người.
Công tác sưu tầm một số hiện tượng văn hoá dân gian tiêu biểu ở
Thái Nguyên và Tuyên Quang những năm gần đây cho thấy, đối với các
hiện tượng ngữ văn truyền miệng này, nếu không nhanh chóng điều tra, sưu
tầm thì sẽ mất đi vĩnh viễn. Những người còn nhớ được những lời cổ hiện
nay số lượng có thể đếm trên đầu ngón tay và đều ở độ tuổi khoảng 70. Như
trên đã nói, văn hoá phi vật thể vừa mang tính bền chắc lại vừa mang tính
mỏng manh, dễ bị thương tổn. Những đặc tính này gợi cho chúng ta những
cách thức hữu hiệu trong việc sưu tầm và bảo tồn các hiện tượng văn hoá phi
vật thể này. Những năm vừa qua, ngành Văn hoá đã có cố gắng lớn trong việc
sưu tầm, nghiên cứu các hiện tượng văn hoá phi vật thể như ngữ văn dân gian,
diễn xướng dân gian, ứng xử và quan hệ xã hội, tri thức dân gian...
Tuy nhiên, việc sưu tầm, nghiên cứu còn chưa tuân thủ các phương
pháp khoa học nghiêm túc và chặt chẽ, do vậy chất lượng công tác sưu tầm và
nghiên cứu chưa cao. Việc sưu tầm, nghiên cứu các hiện tượng văn hoá phi
vật thể chưa tuân thủ nguyên tắc diễn xướng một trong những môi trường cần
thiết để các hiện tượng văn hoá phi vật thể từ chỗ tiềm ẩn trong tiềm thức, tâm
thức con người bộc lộ ra như là một thực thể. Hay việc sưu tầm ca dao, dân
ca, truyện cổ, thành ngữ, tục ngữ của các dân tộc thiểu số vẫn chưa tuân thủ
nguyên tắc song ngữ, tức là được thể hiện bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của chủ thể
sáng tạo ra các hiện tượng văn hoá đó và ngôn ngữ phổ thông.
Ngày nay, việc bảo tồn các hiện tượng văn hoá cổ truyền, trong đó có
văn hoá phi vật thể, cần được quan tâm nhiều hơn nữa trước nguy cơ bị mất đi
nhanh chóng trong sự biến đổi xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoá. Có nhiều cách bảo tồn, nhưng chung quy lại có hai hướng chủ yếu sau:
78
3.3.2.2. Bảo tồn trong dạng “tĩnh”
Tiến hành điều tra, sưu tầm, thu thập các dạng thức văn hoá phi vật thể
như nó hiện có theo quy trình khoa học nghiêm túc, chặt chẽ, lưu giữ chúng
trong sách vở, các ghi chép, mô tả trong các băng hình (video), băng tiếng
(audio), ảnh... Tất cả các hiện tượng văn hoá phi vật thể này có thể lưu giữ
trong các kho lưu trữ, các viện bảo tàng, các viện nghiên cứu ở trung ương và
địa phương. Đó là "phiên bản' giúp chúng ta sau này căn cứ vào đó có thể
nghiên cứu, phục hồi các hiện tượng đã bị mai một. Sau này, trải qua hàng
trăm năm, nếu có hiện tượng ca, múa, nhạc của dân tộc nào đó bị mất, thì căn
cứ vào sách vở đã ghi chép có thể phục hồi một cách dễ dàng.
Hiện nay, trong việc bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể cũng gây nhiều
tranh cãi. Ngành Văn hoá cho rằng, nếu không có sự tổ chức, quảng bá, ghi
chép thì các làn điệu hát Soọng cô không thể tồn tại đến bây giờ. Tuy nhiên,
trong nhiều thế kỷ nay, các câu hát Soọng cô vẫn theo cùng dân tộc Sán Dìu
cả trong quá trình thiên di và tồn tại cho đến ngày nay. Các làn điệu Soọng cô
từ xưa đến nay được lưu truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ của các
cụ cao niên, thì một số người cũng có ý thức ghi chép lại để giao lại cho con
cháu. Cũng bởi sự bảo tồn riêng lẻ trong từng gia đình đó mới có sản phẩm
đưa ra cho công chúng hôm nay. Vì thế điều này cũng cần phải có sự tuyên
truyền, động viên của cán bộ ngành Văn hoá đối với các nghệ nhân, những
người hiện nay đang là vốn quý của loại hình văn hoá phi vật thể của người
Sán Dìu, nhằm gìn giữ vốn cổ cho muôn đời sau.
3.3.2.3. Bảo tồn “động”
Là bảo tồn các hiện tượng văn hoá phi vật thể đó ngay trong đời sống
cộng đồng. Cộng đồng chính là môi trường không chỉ sản sinh ra các hiện
tượng văn hoá phi vật thể, mà còn là nơi tốt nhất bảo tồn, làm giàu và phát
huy nó trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, hiện tại có một nghịch lý là nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hiện tượng văn hoá, nhất là văn hoá phi vật thể vốn là của nhân dân sáng tạo
79
ra, nay lại "xa lạ" với chính họ, thậm chí chỉ tìm thấy trên sách vở của các nhà
nghiên cứu. Do vậy, để bảo tồn chúng trong đời sống, chúng ta phải đưa nó
trở lại với nhân dân, "xã hội hoá" nó. Hiện tượng phục hồi các loại hình dân
ca cổ truyền cũng đang được thực hiện theo hướng phổ cập trở lại cho nhân
dân, nhất là thế hệ trẻ. Như cùng với dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên
dịch, các địa phương cũng đã tiến hành thử nghiệm mở các lớp truyền dạy
hát, để thế hệ nghệ nhân cao tuổi truyền lại việc diễn xướng eho thế hệ trẻ.
Đối với các vùng hát Soọng cô của Thái Nguyên và Tuyên Quang,
trong tâm thức của người dân, ý thức bảo tồn nét văn hoá đặc sắc của dân tộc
mình đã được nhiều nghệ nhân cũng như các ngành chức năng chú ý. Việc tổ
chức các buổi sinh hoạt văn hoá văn nghệ, giao lưu giữa các nghệ nhân trong
xóm, giữa xóm này với xóm khác, xã này với xã khác, đồng thời tổ chức giao
lưu trong phạm vi giữa tỉnh này với tỉnh khác cũng đã khẳng định người dân
đã chú trọng kế thừa, bảo tồn nét văn hoá truyền thống. Những đêm hát ấy
khiến người ta như trẻ lại trong không gian xưa với những lời ca tình tứ bên
bếp lửa hồng ấm cúng.
Có thể nói, việc xã hội hóa các hoạt động văn nghệ quần chúng ở cơ sở
là cách thức bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa có sức lan tỏa nhanh chóng.
Bởi, cộng đồng chính là môi trường không chỉ sản sinh ra các hiện tượng văn
hóa phi vật thể, mà còn là nơi tốt nhất để bảo tồn, làm giàu và phát huy nó
trong đời sống xã hội. Đến nay, toàn tỉnh Tuyên Quang đã có hơn 140 đội văn
nghệ xã, phường, thị trấn với hơn 2.500 tổ đội văn nghệ, thôn, bản, trường
học, đơn vị, lực lượng vũ trang. ở nhiều nơi, đồng bào tự giác đóng góp tiền
của xây dựng, duy trì đội văn nghệ, mua nhạc cụ, dành thời gian luyện tập.
Bình quân mỗi năm, các tổ đội văn nghệ tổ chức biểu diễn gần mười nghìn
buổi, hàng chục nghìn tiết mục ca múa nhạc, trong đó có nhiều tiết mục dân
ca, dân vũ các dân tộc thiểu số, góp phần đáp ứng một phần đời sống tinh thần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của cán bộ và đồng bào các dân tộc ở cơ sở.
80
3.3.3.4. Chính sách đối với nghệ nhân lưu giữ vốn cổ
Cả tỉnh Tuyên Quang tới giờ chỉ có hai nghệ nhân được Hội Văn nghệ
dân gian phong tặng danh hiệu nghệ nhân, đó là các ông Hà Phan, Hà Thuẫn
(xã Tân An, Chiêm Hóa). Ông Hà Phan đã mất, giờ chỉ còn duy nhất nghệ
nhân Hà Thuẫn. Đó cũng là nỗi lòng của không chỉ các nghệ nhân ngày đêm
âm thầm và miệt mài gìn giữ, truyền dạy cho thế hệ trẻ những tinh hoa của
dân tộc mình, mà còn là của các cấp lãnh đạo và các nhà làm công tác văn hóa
của tỉnh. Thời gian tới, Sở sẽ tham mưu, đề xuất với UBND tỉnh về cơ chế,
chính sách khuyến khích các nghệ nhân dân gian, già làng có công lưu giữ
văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong quá trình bảo tồn và phát triển văn
hóa truyền thống các dân tộc thiểu số, những nghệ nhân ấy cần có một danh
hiệu, cũng như sự khen thưởng khích lệ, tạo điều kiện tốt nhất để các nghệ
nhân dốc lòng hơn nữa vì văn hóa truyền thống của dân tộc mình".
Nền văn hoá Việt Nam có sự kết hợp hài hoà, phong cách của nhiều
dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Cùng chung một Tổ quốc,
bản sắc văn hoá các dân tộc thể hiện rất đa dạng, rất phong phú, xuyên suốt và
thấm đượm vào mọi mặt của đời sống xã hội, tồn tại trong văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần của mỗi dân tộc anh em, nên cần phải bảo tồn, chấn hưng
những nét đẹp văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc, tạo điều kiện ể
đồng bào tiếp thu và phát triển văn hoá Việt Nam hiện đại [47]. Những đóng
góp to lớn của các nghệ nhân dân gian là vô cùng quan trọng, thế nên, nếu
chúng ta không kịp thời tạo điều kiện để nghệ nhân truyền dạy lại những gì
các cụ còn nhớ. Nếu không thì chỉ ít năm nữa, chúng ta không còn ai để học
hỏi nữa và những di sản hoá quý báu sẽ mai một. Vì thế, việc bồi dưỡng, đào
tạo lớp trẻ hiểu và gắn bó với truyền thống của dân tộc mình. Các ngành, địa
phương tiếp tục hoàn thiện việc tổng kiểm kê vốn di sản văn hoá dân gian,
phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho các cá nhân tiêu biểu, có nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đóng góp trong việc giữ gìn, truyền dạy các di sản văn nghệ dân gian. Chú ý
81
đầu tư trí tuệ, nguồn lực vào việc phổ biến và truyền dạy vốn di sản đã được
sưu tầm, nghiên cứu cho nhân dân, đặc biệt cho lớp trẻ của địa phương nơi di
sản ra đời và tồn tại...
Việc tạo dựng sự gắn bó giữa cán bộ cơ sở của ngành Văn hóa, Thể thao
và Du lịch với các nghệ nhân là hết sức quan trọng. Đó không chỉ là sự quan tâm
động viên kịp thời của những người làm công tác bảo tồn và giữ gìn những giá
trị văn hóa mà nghệ nhân chính là một trong những giá trị văn hóa sống.
Bảo tồn vốn cổ dân tộc, điều tiên quyết nhất hiện nay đó là bảo tồn các
nghệ nhân - những người lưu giữ quá khứ bằng trí nhớ và khả năng của họ
được ví như kho thư viện sống. Chỉ có điều, các nghệ nhân này giờ leo lét như
ngọn đèn trước gió vì nhiều cụ đã ở vào tuổi xưa nay hiếm. Vì thế bên cạnh
cơ chế động viên, cần có sự đầu tư tối thiểu về phương tiện như ghi âm, ghi
hình nhằm lưu giữ hình ảnh nguồn tư liệu này. Đây không phải là điều khó
nhưng cũng đòi hỏi phải có sự chuyên tâm và sự quan tâm đặc biệt của chính
quyền địa phương đối với loại hình di sản văn hoá phi vật thể của cộng đồng
các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung dân tộc Sán Dìu nói riêng.
Tiểu kết Chƣơng III: Trong chương viết, chúng tôi đã chỉ ra giá trị nội
dung, nghệ thuật và nêu hiện trạng, bảo tồn hát Soọng cô của người Sán Dìu.
Hát Soọng cô - loại loại hình văn hoá phi vật thể, là văn hoá tiềm ẩn trong tâm
thức và trí nhớ của một số người, mà lâu nay chúng ta vẫn tôn vinh họ là
những nghệ nhân hay là những "báu vật sống”. Do vậy, bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hoá phi vật thể còn đồng nghĩa với việc "bảo tồn” các "báu vật
sống" đó. Đó chính là việc Nhà nước, cộng đồng thừa nhận những tài năng
dân gian, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo những điều kiện tốt nhất trong
hoàn cảnh có thể, để họ sống lâu, sống khoẻ mạnh, phát huy khả năng của
mình trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong thời kỳ CNH, HĐH ngày nay.
82
KẾT LUẬN
Toàn bộ luận văn của chúng tôi trước hết nhằm khẳng định về loại hình
hát soọng cô, một loại hình thơ ca dân gian đặc sắc của dân tộc Sán Dìu. Trải
qua mấy trăm năm nhưng nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Sán Dìu vẫn tồn tại
song hành cùng với văn học đương đại. Với đề tài luận văn Khảo sát loại hình
hát soọng cô của dân tộc Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang là sự bổ trợ
của văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Ở Chương I, chúng tôi đã tìm hiểu
về những đặc điểm lịch sử xã hội, truyền thống văn hoá, chữ viết, tôn giáo và
vốn văn nghệ dân gian của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang;
giới thiệu và tìm hiểu về loại hình sinh hoạt ca hát dân gian đặc sắc đó là hát
Soọng cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Trong chương
II, chúng tôi đã phản ánh trung thực các cuộc tiếp xúc với các nghệ nhân ở hai
huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) và Đồng Hỷ (Thái Nguyên) và khẳng định
sự tồn tại của vùng hát và loại hình hát Soọng cô của người Sán Dìu. Trải qua
bao thăng trầm của lịch sử, người Sán Dìu vẫn say sưa với Soọng cô và Soọng
cô đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được. Trong Chương III,
chúng tôi cũng đã nêu bật giá trị nội dung, nghệ thuật của loại hình dân ca
này. Soọng cô mang nghệ thuật của ngôn ngữ dân gian, với lối ví von giản dị
làm cho câu hát dễ thuộc và dễ nhớ. Từ xa xưa, người Sán Dìu đã sáng tác
Soọng cô thành bài bản trao tay nhau học. Vì sao chép nên người ta có thể
thêm bớt, làm cho lời bài hát phong phú, gợi cảm hơn phù hợp với từng hoàn
cảnh. Cái hấp dẫn, sống động đọng lại và có sức sống mãnh liệt gắn bó với
người Sán Dìu chính là ở những lời thơ của người hát, đó là nguồn vốn vô
tận. Vì thế, việc bảo tồn và phát huy giá trị, bản sắc văn hoá các dân tộc Việt
Nam là làm cho tất cả những giá trị vật chất và tinh thần (bao gồm tiếng nói,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm lý, tình cảm, phong tục,
83
tập quán, tín ngưỡng,...) được sáng tạo tróng quá trình phát triển lâu dài của
lịch sử ngày càng phát triển, để sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá của mỗi
dân tộc, sẽ càng làm phong phú nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Đó chính là sự thống nhất trong đa dạng, là nét riêng, độc đáo của nền
văn hoá các dân tộc Việt Nam [47]. Ngày nay, mặc dù có sự giao thoa giữa
các dân tộc thiểu số, người Sán Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang cũng du
nhập nhiều nét văn hóa của các dân tộc khác vào đời sống tinh thần, nhưng
Soọng cô vẫn được lưu truyền. Tuy nhiên, từ trước tới nay, hát Soọng cô của
người Sán Dìu tuy đã được sưu tầm và dịch nhưng số lượng vẫn rất hạn chế,
chưa có sự quan tâm, nghiên cứu tìm hiểu một cách khoa học về mặt giá trị
nội dung và nghệ thuật. Vậy, làm thế nào để bảo tồn và phát huy, góp phần
làm phong phú kho tàng văn hoá phi vật thể của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Trong việc bảo tồn, phát triển văn hoá phi vật thể các dân tộc thiểu số
công tác khảo cứu, sưu tầm, bảo tồn, phát huy giá trị văn học dân gian (truyện
cổ tích, ngụ ngôn, ca dao, tục ngữ, câu đố …), văn nghệ dân gian (hát, múa,
nhạc), trò chơi dân gian, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, nghề thủ
công truyền thống, văn hoá ẩm thực, tri thức dân gian các dân tộc thiểu số …
tiếp tục triển khai và được sự quan tâm đúng mức. Công tác bảo tồn ngôn ngữ
(tiếng nói, chữ viết) dân tộc thiểu số bước đầu triển khai thực hiện có kết quả.
Thành công của sự nghiệp bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số
trên địa bàn hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang sẽ góp phần không nhỏ
vào sự nghiệp xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao dân
trí, xoá đói giảm nghèo đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc,
miền núi; thực hiện thắng lợi Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) của Đảng, Chỉ thị
số 39/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về bảo tồn, phát triển văn hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
84
Quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài luận văn, chúng tôi xin rút ra 5
kết luận sau:
1. Qua nghiên cứu, khẳng định về vùng hát Soọng cô của người Sán
Dìu ở Thái Nguyên và Tuyên Quang.
2. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu và khẳng định về đội ngũ nghệ
nhân hát Soọng cô của Thái Nguyên và Tuyên Quang.
3. Qua nhận xét, chúng tôi đã chỉ ra sự giống và khác nhau về vùng hát
Soọng cô của Thái Nguyên và Tuyên Quang. Trong đó, sự giống nhau là cơ
bản, và sự khác nhau mang đặc trưng địa phương.
4. Đồng thời qua nghiên cứu, chúng tôi chỉ ra giá trị về nội dung và
nghệ thuật của Soọng cô.
5. Cuối cùng, trước thực tế lưu truyền và tồn tại của loại hình hát Soọng
cô của người Sán Dìu ở Tuyên Quang và Thái Nguyên, chúng tôi đề xuất một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
số giải pháp bảo tồn Soọng cô.
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương, NXB T.P Hồ Chí Minh.
2. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
3. Diệp Trung Bình (1987), Dân ca Sán Dìu, NXB Văn hóa Dân tộc.
4. Diệp Trung Bình (2002), Lễ hội cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb
Văn hóa Dân tộc.
5. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của
người Sán Dìu.
6. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (Tham khảo Ngô Đức Thịnh chủ
biên, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2001).
7. Bộ Văn hoá và Bảo tàng Việt Bắc (1991), Một số vấn đề lịch sử Văn
hoá các dân tộc ở Việt Bắc, Bảo tàng Việt Bắc, Thái Nguyên.
8. Nguyễn Xuân Cần, Trần Văn Lạng, Dân ca Sán Chí ở Kiên Lao, Lục Ngạn
9. Nông Quốc Chấn (1967), “Hãy khơi dòng dân ca các dân tộc thiểu số”,
Tạp chí Văn học (1).
10. Cổng thông tin điện tử Quảng Ninh.
11. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn học văn hoá - Tiếp nhận và suy nghĩ,
NXB Từ điển bách khoa.
12. Nguyễn Dược, Trung Hải (2006), Sổ tay thuật ngữ địa lý, NXB Văn hóa
dân tộc. Bách khoa.
13. Địa chí Thái Nguyên (2009), Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Thái Nguyên
14. Vũ Cao Đàm (1999), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB
Khoa học xã hội, H.
15. Ngô Văn Đức, Ngâm khúc quá trình hình thành phát triển và thi pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể loại, NXB Thanh niên, H.
86
16. Ninh Văn Độ, Nguyễn Phi Khanh, Hoàng Thế Hùng, Văn hóa truyền thống
các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang, NXB Văn hóa Dân tộc, H.
17. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, H.
18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Giáo dục, H.
19. Nguyễn Thị Huế (1978), "Qua việc tìm hiểu diễn xướng một số dân ca
vùng trung châu Bắc bộ", Tạp chí Văn học, số 01.
20. Nguyễn Thị Huế (2006),“Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian những
năm gần đây”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 01.
21. Hợp tuyển văn thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam (1997), NXB Văn hoá
dân tộc, H.
22. Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), Sáng tạo và bảo tồn
giá trị văn hoá, văn nghệ các dận tộc thiểu số Việt Nam”.NXB Văn hoá
dân tộc, H.
23. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam - nhiều tác giả, (2000), Sưu tầm
nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian, NXB văn hóa dân tộc, H.
24. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Vũ Quang Nhơn (1997),
Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
25. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên), (1994), Lễ hội truyền thống
trong đời sống xã hội hiện đại, NXB Khoa học xã hội, H
26. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2005), Từ điển Việt Nam văn hóa
tín ngưỡng phong tục, NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội.
27. Nguyễn Xuân Kính (1998), Văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên
cứu, NXB Khoa học xã hội, H.
28. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, NXB Đại học quốc gia, H.
29. Hoàng Ngọc La, Hoàng Văn Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002), Văn hoá dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gian Tày, Sở Văn hoá - Thông tin Thái Nguyên.
87
30. Đặng Văn Lung (1997), Văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên cứu,
Tập 1, NXB Văn hoá dân tộc, H.
31. Đặng Văn Lung (1973), "Về các hình thức sinh hoạt dân ca", Tạp
chí Văn hóa, số 5.
32. Đặng Văn Lung (1977), "Ý nghĩa của việc nghiên cứu diễn xướng dân gian",
Tạp chí Văn hóa số 06.
33. Đặng Văn Lung, Nguyễn Sông Thao, Hoàng Văn Thụ (1999), Phong
tục tập quán các dân tộc Việt Nam, NXB văn hóa dân tộc, H.
34. Phương Lựu (2006), Lý luận văn học Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục.
35. Hoàng Minh Lường (2001), Quan niệm về nghệ thuật trong văn học cổ
truyền các dân tộc thiểu số, Luận án Tiến sĩ.
36. Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn học, H.
37. Trần Đức Ngôn (2000), “Những đặc trưng của văn bản Văn hoá dân
gian” in trong Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm, nghiên cứu Văn
học văn nghệ dân gian, NXB Văn hoá dân tộc, H, trang 21-37.
38. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam, NXB
Văn học, H.
39. Hoàng Kim Ngọc (2004), So sánh và Ẩn dụ trong ca dao trữ tình
của người Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
40. Nhiều tác giả (1974), Bước đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, Sở Văn
hóa thông tin Việt Bắc.
41. Vũ Ngọc Phan (2005), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn học.
42. Lê Trường Phát (1999), Thi pháp văn học dân gian, NXB Giáo dục, H.
44. Hoàng Phê (chủ biên) (2001) Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung
tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
45. Nguyễn Hằng Phương, Diễn xướng ca dao theo dòng thời gian, tạp chí,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nguồn mạng Internet.
88
46. Mai Đức Thông, Nguyễn Phi Khanh, Báo cáo khoa học đề tài Bảo tồn
hát Soọng cô dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang, tháng 12-2004, Sở Văn
hoá Thông tin Tuyên Quang.
47. Nguyễn Thị Thu, Nguyễn Thị Tâm, Nguyễn Thành Luân Báo cáo khoa
học đề tài Bảo tồn hát Soọng cô dân tộc Sán Dìu (xã Nam Hoà, huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên), Kế hoạch 2009, Sở Văn hóa - Thể thao và
Du lịch Thái Nguyên.
48. Trần Thanh Thuỷ, Bảo tồn và phát huy giá trị, bản sắc văn hoá các dân
tộc Việt Nam. Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương, ngày 8-4-2011.
49. Trần Hoàng Tiến, Diễn xướng dân ca - phương thức trao truyền dân
gian trong bối cảnh hiện này, nguồn mạng Internet.
50. Hoàng Tiến Tựu (1998) Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục.
51. Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Khanh (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB
Thanh niên, H.
52. Đỗ Bình Trị, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân
gian, NXB Giáo dục, H.
53. Ngô Văn Trụ, Nguyễn Xuân Cần (2003), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang,
NXBVăn hóa Dân tộc, H.
54. Tuyển tập Dân tộc và miền núi, NXB Giáo dục, H.
55. Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ
Dung, Trần Thuý Anh (2009), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, H.
56. Các trang web: Văn học và ngôn ngữ, Chim Việt cành Nam, Đảng Cộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sản Việt Nam. Báo Điện tử Tuyên Quang…
89
DANH SÁCH NGHỆ NHÂN HÁT SOỌNG CÔ
Trong đợt điền dã khảo sát tại ba xã Ninh Lai. Thiện Kế và Sơn Nam
(huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang), và hai xã Nam Hoà và Hoá Thượng
của huyện Đồng Hỷ (Thái Nguyên) người nghiên cứu cũng đã gặp gỡ và nắm
bắt số nghệ nhân ở các vùng này. Dưới đây là danh sách các nghệ nhân:
1. Xã Thiện Kế:
- Ông Lưu Văn Tư, 60 tuổi, thôn Thiện Phong.
- Ông Lưu Xuân Chuyền, 57 tuổi, thôn Thiện Phong;
- Bà Lưu Thị Leo, 57 tuổi, thôn Thiện Phong;
- Bà Trương Thị Tam, 62 tuổi, thôn Văn Sòng.
2. Xã Ninh Lai:
- Ông Ôn Cát Đức, 62 tuổi. thôn Ninh Phú
- Ông Lục Văn Bảy, 67 tuổi, thôn Ninh Quý;
- Ông Lục Đình Hòa, 45 tuổi, thôn Ninh Quý;
- Ông Trần Văn Long, 63 tuổi, thôn Ninh Quý;
- Ông Thăng Văn Tường, 67 tuổi, thôn Cây Đa 1;
- Ông Lục Văn Lai, 52 tuổi, thôn Ninh Hòa 2;
- Ông Hoàng Văn Thông, 54 tuổi, thôn Ninh Bình;
- Bà Trương Thị Vòng, 50 tuổi, thôn Ninh Phú;
- Bà Lục Thị Lìu, 54 tuổi, thôn Ninh Quý;
3. Xã Sơn Nam:
- Ông Lục Hoàng Thái, 57 tuổi, thôn Đồng Cháy;
- Ông Trần Văn Hinh, 68 tuổi, thôn Làng Nàng;
- Bà Ôn Thị Sáu, 66 tuổi, thôn Trúc Long;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Bà Trương Thị Con, 86 tuổi, thôn Bình Thái;
90
4. T.P Thái Nguyên:
- Ông Diệp Trung Bình, phưòng Hoàng Văn Thụ, T.P Thái Nguyên.
- Bà Diệp Thị Xuân, xã Cao Ngạn, T.P Thái Nguyên;
5. Xã Nam Hoà (huyện Đồng Hỷ):
- Bà Vi Thị Chanh, 50 tuổi, xóm Chí Son;
- Ông Đặng Văn An, 70 tuổi, xóm Cầu Đất;
- Ông Lý Minh Hoà, 70 tuổi, xóm Cầu Đất;
- Ông Lý Hưng Đạo, 63 tuổi, xóm Cầu Đất;
- Bà Hoàng Thị Mị, 58 tuổi, xóm Cầu Đất;
- Bà Đặng Thị Vọi, 56 tuổi, xóm Cầu Đất;
- Hoàng Minh Long, 65 tuổi, xóm Chí Son;
- Hoàng Văn Chính, 59 tuổi, xóm Chí Son;
- Trần Văn An, 65 tuổi, xóm Chí Son;
- Vi Thị Chanh, 50 tuổi, xóm Chí Son;
- Diệp Thái Thượng, 63 tuổi, xóm Chí Son;
- Vi Thị Hoà, 51 tuổi, xóm Chí Son;
- La Thị Sinh, 48 tuổi, xóm Chí Son;
6. Xã Hoá Thƣợng (huyện Đồng Hỷ)
- Ông Diệp Văn Tài, 70 tuổi, xóm Tam Thái;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Bà Âu Thị Phàng, 70 tuổi, xóm Tam Thái;