ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------------
Nguyễn Thị Thu Hà
KHẢO SÁT TÍNH KHÁNG THUỐC CỦA VI KHUẨN LAO
PHÂN LẬP TỪ BỆNH NHÂN LAO ĐIỀU TRỊ BẰNG ISONIAZID VÀ
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA GEN NAT2 CỦA BỆNH NHÂN LAO
ĐẾN TÍNH KHÁNG THUỐC ISONIAZID
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội, 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------------
Nguyễn Thị Thu Hà
KHẢO SÁT TÍNH KHÁNG THUỐC CỦA VI KHUẨN LAO
PHÂN LẬP TỪ BỆNH NHÂN LAO ĐIỀU TRỊ BẰNG ISONIAZID VÀ
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA GEN NAT2 CỦA BỆNH NHÂN LAO
ĐẾN TÍNH KHÁNG THUỐC ISONIAZID
Chuyên ngành: Vi sinh vật học
Mã số:
8420101.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Vũ Thị Thơm
TS. Phạm Thế Hải
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Học viên
Nguyễn Thị Thu Hà
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự quan
tâm giúp đỡ của các Thầy Cô, nhà trường, cơ quan, gia đình và bạn bè.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới TS. Vũ Thị Thơm,
TS. Phạm Thế Hải là những người Thầy đã tận tình hướng dẫn khoa học, tạo điều
kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin cảm ơn PGS.TS. Lê Thị Luyến - chủ nhiệm đề tài, ThS. Lê Anh Tuấn
- nghiên cứu sinh của đề tài Nghị định thư hợp tác nghiên cứu giữa Đại học Quốc gia
Hà Nội và Đại học Liverpool - Vương quốc Anh (Mã số HNQT/SPĐP/01.06), đã tạo
điều kiện để tôi được tham gia nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô, các nhà khoa học trong hội
đồng chấm đề cương và luận văn tốt nghiệp đã đóng góp những ý kiến quý báu cho
luận văn.
Tôi xin gửi lời biết ơn tới Ban Giám Hiệu, phòng Đào tạo sau đại học, các
Thầy Cô Bộ môn Vi sinh - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia
Hà Nội đã cho tôi những kiến thức quý báu, tạo điều kiện thuận lợi để tôi được học
tập, nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Các cán bộ Bộ môn Y Dược học cơ sở, Ban lãnh đạo Khoa Y Dược - Đại
học Quốc gia Hà Nội; các bác sĩ và nhân viên Bệnh viện Phổi Trung ương đã tạo
điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình hoàn thành luận văn. Sự biết ơn đối với gia
đình và bạn bè đã luôn sát cánh động viên và khích lệ tôi.
Cuối cùng tôi xin gửi lời tri ân tới những bệnh nhân đã tham gia vào nhóm
nghiên cứu, sự đóng góp của các bệnh nhân đã giúp tôi có thành công này.
Hà Nội, ngày tháng năm
Nguyễn Thị Thu Hà
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN ..................................................................................... 3
1.1. Giới thiệu về vi khuẩn lao .............................................................................. 3
1.1.1. Hình thể, cấu trúc ...................................................................................... 3
1.1.2. Khả năng gây bệnh .................................................................................... 4
1.1.3. Nuôi cấy vi khuẩn lao................................................................................ 5
1.2. Thuốc điều trị lao và lao kháng thuốc .......................................................... 6
1.2.1. Thuốc điều trị lao và phân loại lao kháng thuốc ....................................... 6
1.2.2. Tính kháng thuốc của vi khuẩn lao ........................................................... 7
1.2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về tính kháng thuốc của
vi khuẩn lao.............................................................................................................. 9
1.3. Isoniazid trong điều trị lao .......................................................................... 10
1.3.1. Dược lý và chuyển hóa của Isoniazid ..................................................... 10
1.3.2. Gen liên quan đến chuyển hóa Isoniazid ở bệnh nhân lao ...................... 12
1.4. Đặc điểm của gen NAT2 và đa hình gen NAT2 ......................................... 13
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................... 16
2.1. Vật liệu nghiên cứu ...................................................................................... 16
2.1.1. Dụng cụ, trang thiết bị ............................................................................. 16
2.1.2. Hóa chất, môi trường ............................................................................... 16
2.2. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 17
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu ............................................. 17
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ .................................................................................. 17
2.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 17
2.3.1. Cỡ mẫu .................................................................................................... 17
2.3.2. Thu thập mẫu bệnh phẩm ........................................................................ 18
2.3.3. Quy trình nuôi cấy đờm trên môi trường lỏng BACTEC MGIT ............ 18
2.3.4. Phương pháp kháng sinh đồ cho 5 thuốc chống lao hàng một ................ 20
2.3.5. Phân tích kiểu gen NAT2 để xác định kiểu hình acetyl hóa isoniazid.... 26
2.3.6. Phương pháp xử lý số liệu ....................................................................... 27
2.3.7. Đạo đức nghiên cứu y học ....................................................................... 28
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ............................................................ 29
3.1. Tính kháng thuốc của vi khuẩn lao đối với thuốc kháng lao hàng một ... 29
3.1.1. Đặc điểm chung của quần thể bệnh nhân nghiên cứu ............................. 29
3.1.2. Tình hình kháng thuốc chống lao hàng 1 ở các bệnh nhân lao phổi ....... 32
3.2. Tỷ lệ phân bố các kiểu gen NAT2 trên người bệnh lao và mối ảnh hưởng
đến tính kháng thuốc Isoniazid .............................................................................. 40
3.2.1. Kết quả tối ưu quy trình phân tích NAT2 ............................................... 40
3.2.2. Tỷ lệ phân bố các kiểu gen NAT2 trên người bệnh lao .......................... 42
3.2.3. Mối liên quan giữa đa hình kiểu gen NAT2 và tình hình kháng INH .... 47
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 50
KIẾN NGHỊ ............................................................................................................. 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Nhận định kết quả nuôi cấy MGIT ........................................................... 19
Bảng 2.2: Nồng độ thuốc và ngưỡng kháng thuốc kháng lao hàng 1
trên môi trường đặc ................................................................................................... 22
Bảng 2.3: Hướng dẫn pha dung dịch thuốc (1) ......................................................... 23
Bảng 2.4: Đánh giá kết quả vi khuẩn mọc dựa vào khuẩn lạc .................................. 25
Bảng 2.5: Đánh giá tính kháng thuốc của vi khuẩn lao ............................................ 25
Bảng 2.6: Thành phần tối ưu cho phản ứng nhân dòng gen NAT2 ........................... 27
Bảng 3.1: Thông tin chung của quần thể nghiên cứu ................................................ 29
Bảng 3.2: Thời gian nuôi cấy và đơn vị sinh trưởng của vi khuẩn lao ..................... 32
Bảng 3.3: Tỷ lệ kháng thuốc ở nhóm lao mới và lao tái trị ...................................... 34
Bảng 3.4: Kết quả kháng sinh đồ với từng thuốc chống lao hàng một ..................... 36
Bảng 3.5: Tần số phân bố allen NAT2 ở nhóm lao mới và lao tái trị ........................ 43
Bảng 3.6: Tần số phân bố kiểu gen NAT2 ở nhóm lao mới và lao tái trị .................. 44
Bảng 3.7: Mối liên quan giữa kiểu hình chuyển hóa với thể lao .............................. 45
Bảng 3.8: Tần số kiểu hình acetyl hóa NAT2 ở các vùng trên thế giới ..................... 46
Bảng 3.9: Mối liên quan kiểu hình chuyển hóa với tính kháng INH ........................ 48
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: M. tuberculosis nhuộm Ziehl - Neelsen, vật kính dầu 100x ....................... 3
Hình 1.2: Hình ảnh M.tuberculosis nuôi cấy trên môi trường đặc [23], [59] ............. 5
Hình 1.3: Cơ chế kháng thuốc của vi khuẩn lao ......................................................... 9
Hình 1.4: Chuyển hóa Isoniazid ở gan [39]. ............................................................. 11
Hình 1.5: Vị trí gen NAT2 trên NST số 8 .................................................................. 14
Hình 2.1: Sơ đồ thu mẫu và luân chuyển mẫu tại 3 bệnh viện ................................. 18
Hình 2.2: Hệ thống BACTEC MGIT 960 ................................................................. 19
Hình 2.3: Kháng sinh đồ PZA ................................................................................... 21
Hình 2.4: Chuẩn bị huyền dịch làm kháng sinh đồ đặc ............................................ 24
Hình 3.1: Biểu đồ dinh dưỡng theo BMI của hai nhóm bệnh nhân .......................... 31
Hình 3.2: Một số hình ảnh kết quả kháng sinh đồ trên môi trường đặc ................... 33
Hình 3.3: Biểu đồ tỷ lệ số thuốc kháng mỗi loại ....................................................... 34
Hình 3.4: Kết quả DNA tổng số tách chiết điện di trên gel agarose 1,2% ............... 41
Hình 3.5: Kết quả nhân dòng gen NAT2 của một số mẫu theo điều kiện tối ưu ...... 41
Hình 3.6: Kết quả đọc kiểu gen NAT2 ...................................................................... 42
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Vi khuẩn kháng cồn kháng axit (Acid Fast Bacilli) AFB
Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index) BMI
Ethambutol EMB
Isoniazid INH
Lowenstein-Jensen LJ
Vi khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis) MTB
MDR-TB Lao đa kháng thuốc (Multi Drug Resistant Tuberculosis)
MDR/RR-TB Lao đa kháng hoặc Lao kháng Rifampicin
(Multi Drug Resistant - Rifampicin Resistant - Tuberculosis)
Mycobacteria Growth Indicator Tube MGIT
N-Acetyltransferase 2 NAT2
Rifampicin RMP
Pyrazinamid PZA
Streptomycin SM
Đa hình đơn nucleotit (Single Nucleotide polymorphisms) SNP
XDR-TB Lao siêu kháng thuốc
(Extensively Drug Resistant-Tuberculosis)
WHO Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lao là một bệnh truyền nhiễm có tính lây nhiễm cao, diễn biến lâm sàng
phức tạp và thời gian điều trị kéo dài. Theo thống kê của WHO (2018), với sự nỗ
lực không ngừng của toàn thế giới, từ năm 2000 đến 2018 ước tính có khoảng 53
triệu người đã được phát hiện và điều trị lao giúp giảm tỷ lệ tử vong do lao xuống
còn 37%. Mặc dù đã được tập trung kiểm soát, bệnh lao vẫn là một trong 10 nguyên
nhân tử vong hàng đầu và là nguyên nhân tử vong số 1 do bệnh truyền nhiễm (trên
cả HIV). Việt Nam là một trong những điểm nóng của bệnh lao, đứng thứ 14 trong
số 30 nước có gánh nặng cao do lao (WHO, 2018). Năm 2017, tổng số trường hợp
mắc lao được báo cáo ở Việt Nam là 105.733 bệnh nhân trong số đó có khoảng 80%
là bệnh nhân lao phổi mới mắc và tái nhiễm. Mặc dù trên toàn thế giới, tỷ lệ mắc lao
đang giảm đi khoảng 2% mỗi năm nhưng đến nay bệnh lao vẫn còn là vấn đề thách
thức do sự phát triển và lan rộng của lao kháng thuốc. Bệnh nhân mang lao kháng
thuốc thường có thời gian điều trị kéo dài, tốn kém. Ở Việt Nam theo ước tính trung
bình chi phí cho một bệnh nhân lao đa kháng thuốc khoảng gần 400 USD cao hơn
nhiều so với chi phí hơn 150 USD cho bệnh nhân lao thông thường. Theo thống kê
mới nhất của WHO, trên toàn cầu 3,5% trường hợp lao mới và 18% trường hợp lao
tái trị có kháng Rifampicin hoặc đa kháng Rifampicin và Isoniazid (MDR/RR-TB).
Ở Việt Nam con số này ước tính tương ứng là 4,1% và 17%. Tuy nhiên đây chỉ là
con số ước tính vì chỉ có khoảng 32%-67% được thực hiện đánh giá tính kháng
thuốc với Rifampicin (WHO, 2018). Trong các thuốc chống lao hàng một, ngoài
Rifampicin và Isoniazid là hai thuốc quan trọng nhất trong các phác đồ điều trị lao
còn có Streptomycin, Ethambutol, Pyrazinamid. Trong những năm gần đây, tình
hình kháng thuốc với 3 loại thuốc này ít được quan tâm, báo cáo. Việc chỉ tập trung
vào hai thuốc quan trọng nhất là Rifampicin và Isoniazid có thể bỏ qua các biến
động đáng chú ý về tình hình kháng thuốc của ba thuốc này.
Theo hướng dẫn của WHO cũng như của Bộ Y tế, Isoniazid được dùng trong
hầu hết các đối tượng bệnh nhân lao theo tuổi, giới, trong các phác đồ điều trị bệnh
nhân lao mới, lao tái trị và kể cả điều trị dự phòng lao. Isoniazid được chuyển hóa bởi
1
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
enzyme NAT2 tại gan. Đa hình di truyền gen NAT2 được biết đến có liên quan chặt
chẽ tới đáp ứng Isoniazid trên các bệnh nhân mắc lao. Nghiên cứu tại Nam Phi cho
thấy mặc dù > 98% bệnh nhân tuân thủ điều trị nhưng tình hình kháng thuốc vẫn xảy
ra và một nghiên cứu khác cũng khẳng định kháng thuốc không phải chỉ do không
tuân thủ điều trị mà còn do sự khác biệt về dược động học của thuốc giữa các cá thể.
Mặt khác một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng yếu tố di truyền của bệnh nhân cũng có
thể là một trong những yếu tố nguy cơ đối với việc việc lây nhiễm vi khuẩn lao.
Tại Việt Nam, việc chẩn đoán lao kháng thuốc thật sự còn là vấn đề hết sức
khó khăn tại các bệnh viện, kể cả những bệnh viện tuyến Trung ương. Chỉ một số
lượng nhất định bệnh nhân được chỉ định làm kháng sinh đồ và thời gian này mất
khoảng 2-3 tháng mới có kết quả do vi khuẩn lao sinh trưởng tương đối chậm trong
quá trình nuôi cấy. Hiện nay một số các test phân tử được áp dụng để chẩn đoán
nhanh lao kháng thuốc là Hain test hay Xpert MTB/RIF. Tuy nhiên, các xét nghiệm
này giá thành khá cao và không được chỉ định rộng rãi. Hơn nữa các kit thương mại
này mới chỉ đánh giá được lao kháng Rifampicin, Isoniazid chứ chưa đánh giá được
với các thuốc khác trong thuốc kháng lao hàng một. Từ thực tiễn chẩn đoán và điều
trị lao, với mục tiêu xác định được tính kháng thuốc của các thuốc chống lao hàng
một và tiên lượng nguy cơ mắc vi khuẩn lao kháng thuốc Isoniazid liên quan đến
yếu tố di truyền gen NAT2 ở bệnh nhân lao phổi, chúng tôi đề xuất đề tài “Khảo sát
tính kháng thuốc của vi khuẩn lao phân lập từ bệnh nhân lao điều trị bằng
Isoniazid và đánh giá ảnh hƣởng của gen NAT2 của bệnh nhân lao đến tính
kháng thuốc Isoniazid”.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được tính kháng thuốc của vi khuẩn lao với các thuốc chống lao
hàng một trên bệnh nhân lao phổi;
Xác định được đa hình di truyền gen NAT2 và mối liên quan tới tính kháng
thuốc Isoniazid của vi khuẩn lao ở bệnh nhân lao phổi.
2
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu về vi khuẩn lao
1.1.1. Hình thể, cấu trúc
Vi khuẩn lao thuộc giới Bacteria, ngành Actinobacteria, bộ Actinomycetales,
phân bộ Corynebacterineae, họ Mycobacteriaceae, chi Mycobacterium, gồm hơn
169 loài, đa phần không gây bệnh cho người. Nhóm vi khuẩn gây bệnh lao cho
người được gọi là nhóm Mycobacterium tuberculosis complex (MTBc) gồm có các
loài chính như Mycobacterium tuberculosis (trực khuẩn lao người), Mycobacterium
bovis (trực khuẩn lao bò), Mycobacterium caprae, Mycobacterium microti. Trong
đó quan trọng nhất là loài Mycobacterium tuberculosis[64].
Mycobacterium được gọi là trực khuẩn kháng cồn kháng acid, được Robert
Koch phân lập năm 1882, gọi tắt là BK (Bacille de Koch). M. tuberculosis là trực
khuẩn thanh mảnh, hơi cong, kích thước 0,5 x 2-6 µm. Chúng không có vỏ, không
có lông và không có nha bào. Trong bệnh phẩm chúng thường đứng thành từng đám
nối đầu vào nhau. Thành tế bào của M. tuberculosis chỉ chứa một lượng nhỏ
peptidoglycan, nhưng chứa nhiều lipid tạo nên tính kháng cồn - kháng acid, và làm
cho vi khuẩn lao không nhuộm được bằng phương pháp thông thường mà phải
nhuộm bằng phương pháp Ziehl - Neelsen (hình 1.1) [15].
Hình 1.1: M. tuberculosis nhuộm Ziehl - Neelsen, vật kính dầu 100x
3
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
1.1.2. Khả năng gây bệnh
1.1.2.1. Độc lực và con đường lây truyền
Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố và nội độc tố. Độc lực của vi khuẩn
lao có thể liên quan đến yếu tố sợi và lớp sáp ở vách tế bào. Các chủng lao độc lực
có chứa nhiều yếu tố sợi có bản chất hóa học là 6,6’-dimycoly trehalose. Yếu tố sợi
này làm vi khuẩn lao gắn với nhau thành bó và khi mất đi sẽ làm giảm độc lực. Vi
khuẩn lao có thể sống sót trong đại thực bào sau khi bị thực bào. Vi khuẩn lao phát
triển trong đại thực bào, phá vỡ tế bào và xâm nhập đại thực bào khác [15].
Bệnh lao lây chủ yếu qua đường hô hấp. Người bị nhiễm lao do hít phải
những giọt đờm (đường kính 1 - 5 μm) có chứa vi khuẩn lao từ bệnh nhân lao ho,
hắt hơi vào không khí. Các vi khuẩn khi qua được hàng rào thứ nhất của cơ thể sẽ ở
lại phế nang và tiến triển thành viêm phế quản phổi với phần lớn các trường hợp có
triệu chứng không rõ ràng. Vi khuẩn cũng có thể lây nhiễm sang thai nhi bằng
đường máu qua tĩnh mạch rốn nếu mẹ bị lao cấp tính hoặc qua nước ối khi chuyển
dạ nếu mẹ bị lao niêm mạc tử cung, âm đạo. Đôi khi, đường lây khác có thể là
đường tiêu hóa khi uống sữa bò bị bệnh do M. bovis. Từ cơ quan bị lao ban đầu,
trực khuẩn lao theo đường máu và bạch huyết đến các cơ quan khác để gây bệnh
(lao hạch, lao mang não lao xương). Tuy nhiên, con đường truyền bệnh quan trọng
nhất với bệnh lao là đường hô hấp [11], [15].
1.1.2.2. Cơ chế gây bệnh
Bệnh lao là một loại bệnh nhiễm trùng bên trong tế bào và tiến triển mạn
tính. Vi khuẩn lao khi xâm nhập vào phế nang sẽ bị các đại thực bào tiêu diệt một
phần. Những tế tào không bị đại thực bào tiêu diệt sẽ tiếp tục nhân lên trong đại
thực bào và dần thành nang lao. Nếu các nang lao vỡ ra vi khuẩn lao lây nhiễm
rộng, sinh sản và bệnh lao xuất hiện.
Khi tiếp xúc lần đầu với vi khuẩn lao thì một phản ứng viêm cấp tính nhẹ ở
phổi xuất hiện. Sau khi vi khuẩn lao bị thực bào, ở người có đáp ứng miễn dịch tế
bào đầy đủ, sau 4 - 6 tuần lymphokin được sản xuất, hoạt hóa đại thực bào giết
4
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
chết vi khuẩn lao. Cơ thể sinh ra đáp ứng quá mẫn muộn với vi khuẩn lao, kết quả
là hình thành u hạt. Tiếp theo là hoại tử ở trung tâm, bã đậu hoá, xơ hoá và hình
thành sẹo. Sau khi liền tổn thương tiên phát, vi khuẩn lao vẫn không bị diệt hoàn
toàn. Chúng có thể tồn tại mãi trong cơ thể dưới dạng không hoạt động, những
người nhiễm lao thường chỉ biểu hiện ở test tuberculin (+) và không có khả năng
lây nhiễm. Ở những người này có khoảng 10% vi khuẩn lao tái hoạt động trở
thành người mắc lao. Ngoài ra các yếu tố nguy cơ đối với việc mắc lao như: tuổi
trẻ, bệnh đi kèm như đái tháo đường, bụi phổi, HIV, phụ nữ có thai, yếu tố cơ địa -
yếu tố gen [11].
1.1.3. Nuôi cấy vi khuẩn lao
Để chuẩn đoán xác định có nhiều phương pháp cận lâm sàng như nhuộm
Ziehl-Neelsen tìm AFB, Xpert MTB/RIF, nuôi cấy…. trong đó xét nghiệm nuôi cấy
vi khuẩn lao là tiêu chuẩn vàng.
Vi khuẩn lao thuộc loại vi khuẩn hiếu khí, nhiệt độ thích hợp là 37oC và dưới
áp suất của oxy là 100 mmHg. Đây là một trong những lý do giải thích tại sao lao
phổi là thể bệnh gặp nhiều nhất. Vi khuẩn lao không nuôi được ở môi trường thông
thường, phải nuôi ở môi trường đặc biệt giàu chất dinh dưỡng (hình 1.2).
a. Khuẩn lạc đƣợc phóng đại
b. Khuẩn lạc trên LJ
Hình 1.2: Hình ảnh M.tuberculosis nuôi cấy trên môi trƣờng đặc [24], [60]
5
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Vi khuẩn lao mọc rất chậm, thời gian phân chia khoảng 20-24 giờ một lần
trên môi trường thử nghiệm. Trên môi trường Lowenstein- Jensen (LJ, gồm chủ yếu
khoai tây, lòng đỏ trứng gà, asparagin, glycerin 0,75%), sau 4-6 tuần vi khuẩn lao
mới hình thành khuẩn lạc điển hình. Khuẩn lạc dạng R, sần sùi như hình hoa lơ.
Trên môi trường lỏng (canh thang Sauton, Middlebbrook 7H9, 7H12) vi khuẩn lao
mọc thành váng, đám hoặc lắng cặn. Hiện nay trên môi trường thương mại
Mycobacteria Growth Indicator Tube (MGIT) dạng lỏng nuôi cấy vi khuẩn lao có
thể cho kết quả dương tính sau 3-13 ngày[15].
1.2. Thuốc điều trị lao và lao kháng thuốc
1.2.1. Thuốc điều trị lao và phân loại lao kháng thuốc
Hiện nay, trong thực tế điều trị, người ta phân loại 2 nhóm thuốc trị bệnh lao,
thường gọi là “thuốc kháng lao hàng 1” và “thuốc kháng lao hàng 2” [18]:
Kháng lao hàng 1 gồm: Bao gồm Streptomycin (viết tắt là SM hay S),
Rifampicin (viết tắt RIF hay RMP hay R ), Isoniazid (INH hay H), Pyrazinamid
(PZA hay Z) và Ethambutol (EMB hay E). Đây là các thuốc được lựa chọn đầu tiên
để điều trị cho bệnh nhân bị lao.
Kháng lao hàng 2 gồm nhiều thuốc, chia làm 4 nhóm A, B, C, D: Nhóm A
gồm các thuốc thuộc nhóm kháng sinh Fluoroquinolones như Levofloxacin,
Moxifloxacin, Gatifloxacin. Nhóm B là các thuốc tiêm hàng hai như Amikacin,
Capreomycin, Kanamycin. Nhóm C là các thuốc hàng hai chủ đạo khác như
Ethionamide, Cycloserin, Clofazimine, Linezolid, Prothionamide. Nhóm D là các
thuốc bổ sung, không thuộc nhóm chủ đạo như: Isoniazid liều cao, Pyrazinamide,
Ethambutol, Bedaquiline, Meropenem [18]. Đây là các thuốc được dùng khi bệnh
nhân bị kháng với thuốc lao hàng một, hay dùng trong một số trường hợp đặc biệt.
Các thuốc này thường có nhiều tác dụng phụ hơn và việc sử dụng thuốc cũng phức
tạp hơn thuốc kháng lao hàng một. Ngoài ra, giá thành của các thuốc kháng lao
hàng hai cũng đắt hơn rất nhiều. Nhận diện nhanh các chủng kháng thuốc, đặc biệt
là các chủng kháng RMP và INH, sẽ tạo điều kiện để áp dụng kịp thời các biện
pháp điều trị thích hợp; và điều này là vô cùng quan trọng trong giảm sự lan
truyền của các chủng kháng thuốc.
6
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Có thể phân loại lao kháng thuốc dựa vào tính kháng các loại thuốc chống
lao hàng một như sau[18]: Nếu vi khuẩn kháng một loại trong các loại thuốc kháng
lao hàng một mà không phải là Rifampicin thì được gọi là kháng một loại thuốc.
Nếu vi khuẩn lao kháng với trên một loại thuốc chống lao hàng một nhưng không
kháng Rifampicin thì được gọi là kháng nhiều loại thuốc. Nếu vi khuẩn kháng
Rifampicin, có hoặc không kháng thêm các thuốc khác trừ Isoniazid thì được gọi là
kháng Rifampicin. Vi khuẩn kháng đồng thời với ít nhất hai thuốc chống lao là
Isoniazid và Rifampicin thì được gọi là lao đa kháng thuốc (MDR-TB).
Dựa trên tính kháng thuốc với các thuốc chống lao hàng hai để phân loại lao
siêu kháng thuốc. Lao tiền siêu kháng: Lao đa kháng có kháng thêm với bất cứ
thuốc nào thuộc nhóm Fluoroquinolone hoặc với ít nhất một trong ba thuốc tiêm
hàng hai Capreomycin, Kanamycin, Amikacin. Lao siêu kháng thuốc (XDR-TB):
Lao đa kháng có kháng thêm với bất cứ thuốc nào thuộc nhóm Fluoroquinolone và
bất cứ thuốc nào trong ba thuốc tiêm hàng hai (Capreomycin, Kanamycin,
Amikacin).
Ngoài ra còn có phân loại bệnh nhân lao theo tiền sử điều trị:
- Lao mới là người bệnh lao chưa bao giờ dùng thuốc chống lao hoặc dùng
thuốc dưới một tháng. Lao phổi mới là bệnh nhân lao mới mắc thể lao phổi.
- Lao tái trị là người bệnh lao đã dùng thuốc chống lao từ một tháng trở lên
có thể là người bệnh đã điều trị khỏi lao từ lần trước hoặc điều trị thất bại trước đây
do nhiều nguyên nhân. Lao phổi tái trị là bệnh nhân lao tái trị mắc thể lao phổi
Trong lao tái trị người bệnh có thể tái nhiễm ngoại sinh (chủng vi khuẩn
khác với chủng vi khuẩn ban đầu) hoặc do tái phát (chủng vi khuẩn giống với chủng
vi khuẩn ban đầu) [64], [21].
1.2.2. Tính kháng thuốc của vi khuẩn lao
Kháng thuốc là hiện tượng giảm độ nhạy cảm của vi khuẩn lao với thuốc
điều trị lao in vitro với nồng độ vừa đủ hợp lý của một vài chủng kiểm tra so với
chủng hoang dại chưa từng tiếp xúc với thuốc điều trị lao [53].
7
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Kháng thuốc tiên phát là kháng thuốc xảy ra ở một bệnh nhân trước đó chưa
sử dụng một liệu pháp điều trị chống lao nào; kháng thuốc thứ phát là kháng thuốc
sau khi bệnh nhân lao đã có tiếp xúc với thuốc. Kháng thuốc tự nhiên là tính kháng
thuốc của chủng kiểu dại. Ví dụ như M.tuberculosis kháng tự nhiên với penicilin
[43]. Tỷ lệ vi khuẩn lao kháng thuốc tự nhiên khác nhau tùy từng loại loại thuốc đặc hiệu: Rifampicin là 1/108, Isoniazid là 1/106, Streptomycin và Ethambutol là 1/105.
Trong quá trình nhân lên của vi khuẩn tính kháng thuốc sẽ được phát sinh do các
đột biến ngẫu nhiên. Khi không có mặt của thuốc, các chủng mẫn cảm sẽ phát triển
lấn áp các chủng có đột biến khác. Khi có mặt của thuốc sẽ tạo thành áp lực chọn
lọc và chủng đột biến kháng thuốc sẽ trở nên ưu thế và và lây lan sang người khác
làm cho người bị nhiễm vi khuẩn lao này sẽ kháng thuốc ngay từ đầu [43].
Cơ chế kháng thuốc ở vi khuẩn lao cũng giống như cơ chế kháng kháng sinh
ở các loại vi khuẩn khác do sự hạn chế xâm nhập của kháng sinh vào bên trong
thành tế bào hoặc sản xuất ra các men (enzzyme) để phá hủy kháng sinh hoặc che
chắn hay làm biến đổi đích tác động của kháng sinh và làm kháng sinh mất hiệu lực.
Ở 70-80% vi khuẩn lao kháng INH người ta nhận thấy có sự biến đổi ở gen katG
làm giảm hoặc mất hoạt tính men catalase-peroxidase do đó sẽ làm giảm hoặc mất
tác dụng của INH đối với vi khuẩn lao [5]. INH sẽ mất khả năng ức chế sự tổng hợp
axit mycolic cần cho thành tế bào vi khuẩn lao vì vậy mà vi khuẩn lao sẽ kháng
thuốc. Đối với RMP, vi khuẩn lao kháng RMP có chứa đột biến gen rpoB làm cho
RMP mất khả năng ức chế men RNA-polymeraza của vi khuẩn lao. Tùy từng loại
thuốc với cơ chế tác động khác nhau sẽ có cơ chế kháng thuốc khác nhau. Cơ chế
kháng một số thuốc của vi khuẩn lao được trình bày trong hình 1.3.
8
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Hình 1.3: Cơ chế kháng thuốc của vi khuẩn lao
1.2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về tính kháng thuốc của vi
khuẩn lao
Theo WHO, năm 2014 số lượng ước tính của các ca nhiễm đa kháng thuốc
(MDR/RR-TB) và siêu kháng thuốc (XDR-TB) trong số bệnh nhân nhiễm mới là
480.000, nhưng chỉ khoảng 25% trong số này được chẩn đoán và báo cáo. Trong năm
2014, ước tính có 190.000 người chết vì MDR-TB. Đến năm 2015, đã có báo cáo
xuất hiện XDR-TB ở 105 quốc gia; khoảng 9,7% bệnh nhân nhiễm MDR-TB sẽ bị
XDR-TB. Và tính đến năm 2016 ước tính có khoảng 600.000 ca nhiễm MDR/RR-TB
nhưng chỉ có 153.000 ca được báo cáo và 130.000 ca được điều trị [67].
Việt Nam nằm trong nhóm 30 quốc gia có gánh nặng lao đa kháng thuốc
cao nhất thế giới, xếp thứ 14/27 quốc gia có số lượng bệnh nhân MDR-TB nhiều
nhất, chiếm 1,7% toàn cầu (WHO, 2015). Bên cạnh đó, Việt Nam là 1 trong 20
quốc gia xảy ra 80% trường hợp nhiễm TB mới của thế giới. Hiện tượng kháng
thuốc đã được giám sát từ năm 1978, và tỉ lệ giảm dần đến năm 1998. Năm 1996-
1997 Việt Nam đã tham gia dự án nghiên cứu tình hình kháng thuốc lao trên toàn
cầu của WHO cho thấy tỷ lệ kháng thuốc tiên phát khá cao 32,5% trong đó có cả
9
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
2,3% kháng đa thuốc. Nghiên cứu năm 2005-2006 tỷ lệ kháng thuốc tiên phát có
giảm nhưng không đáng kể 30,9%; kháng thuốc thứ phát ở bệnh nhân lao đã điều
trị là 58,9% và đặc biệt là tỷ lệ đa kháng ở lao mới (kháng tiên phát) cũng không
giảm 2,7% và ở bệnh nhân lao tái trị là 19.3%. Vào năm 2006, tỉ lệ kháng thuốc
lại tăng 12,52% so với năm 1978 (30,7% và 18,18%). Những nghiên cứu đơn lẻ
của một số cá nhân quanh thời điểm này cũng cho thấy những kết quả kháng thuốc
tương tự [3].
Lê Ngọc Hưng và cộng sự (2008) nghiên cứu 193 bệnh nhân lao phổi tái trị
tại Bệnh viện Phổi trung ương cho thấy tỷ lệ kháng đa thuốc là 62,9% [8]. Chu Thị
Mão và cộng sự (2007) cũng tiến hành nghiên cứu trên bệnh nhân lao phổi mới cho
thấy tỷ lệ lao đa kháng là 4% [9]. Lê Thị Kim Hoa (2008) nghiên cứu trên bệnh
nhân lao mới và lao tái trị cho thấy tỷ lệ đa kháng trên lao mới là 8,5% và trên lao
tái trị là 40,3% [7]. Trong các năm gần đây, tỉ lệ về tính kháng ít nhất 1 thuốc được
báo cáo: ví dụ kháng INH là 16% - 25%, và tỉ lệ MDR-TB là 2%-4% đối với bệnh
nhân điều trị lần đầu, 17%-18% với bệnh nhân điều trị tái trị. Năm 2017, theo
WHO, tại Việt Nam tỷ lệ ước tính lao kháng MDR/RR-TB ở thể lao mới là 4,1% và
17% ở thể lao tái trị. Có thể thấy, tình hình kháng thuốc lao tại Việt Nam vẫn đang
được theo dõi, tập trung nhiều vào nhóm vi khuẩn lao đa kháng thuốc.
1.3. Isoniazid trong điều trị lao
1.3.1. Dược lý và chuyển hóa của Isoniazid
Isoniazid (viết tắt là INH), là một hydrazid của axit isonicotinic được tổng
hợp lần đầu tiên ở Praha năm 1912 nhưng đến năm 1952 mới biết được tác dụng
của INH với vi khuẩn lao. Isoniazid có cấu trúc đơn giản chứa vòng pyridine và
nhóm hydrazide có tác dụng kìm hãm sinh trưởng và diệt vi khuẩn lao trong và
ngoài tế bào. Cơ chế tác dụng của thuốc là thông qua sự ức chế hình thành axit
mycolic có ở thành tế bào vi khuẩn lao [15]. Tuy nhiên, INH cũng được phát hiện
là có thể bị kháng bởi M.tuberculosis liên quan tới các đột biến ở nhiều gen, bao
gồm katG, ahpC, inhA, kasA, ndh. INH là một tiền thuốc cần được hoạt hóa bởi
10
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
catalase/ peroxidase mã hóa bởi katG. INH đã hoạt hóa sẽ can thiệp vào quá trình
tổng hợp một thành phần thiết yếu của vi khuẩn lao là mycolic acid bằng cách ức
chế NADH-dependent enoyl-ACP reductase được mã hóa bởi inhA. Hai cơ chế
phân tử này chính là các nguyên nhân chính dẫn đến tính kháng Isoniazid: đột biến
trên katG và inhA.
Sau khi uống, INH hấp thu qua ruột vào máu: 40% ở dạng tự do, một phần
kết hợp với axit amin trong máu thành hydrazol; INH ở dạng tự do và hydrazol có
tác dụng với vi khuẩn lao. Phần còn lại sẽ được chuyển hóa ở gan tạo thành các hợp
chất không có tác dụng với vi khuẩn lao. Tại gan, 50% - 90% INH được acetyl hóa
bởi enzyme NAT2 như Hình 1.4 tạo thành acetyl Isoniazid, sản phẩm tiếp tục bị
thủy phân tạo thành acetyl hydrazine. Một con đường khác là INH có thể bị thủy
phân trực tiếp tạo ra hydrazin. Sau đó NAT2 xúc tác quá trình acetyl hóa của
hydrazin tạo acetyl hydrazin và diacetyl hydrazin. INH, Acetyl hydrazine và
hydrazin có thể bị oxi hóa bởi cytochrome P450 2E1 (CYP2E1) tạo thành các hợp
chất trung gian gây độc cho cơ thể. Enzyme glutathione S-transferase (GST) có thể
kết hợp với các chất trung gian này với glutathione và loại bỏ các chất chuyển hóa
độc hại này. Các chất chuyển hóa của INH được thải trừ ra khỏi cơ thể chủ yếu qua
hệ tiết niệu (chiếm 80%). Dưới 10% liều INH được đào thải qua phân [40].
CYP2E1: cytochrome P450 2E1; NAT2: N-Acetyltransferase 2
Hình 1.4: Chuyển hóa Isoniazid ở gan [40].
11
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Nồng độ ức chế tối thiểu trong huyết thanh của INH với vi khuẩn lao là
0,04 µg/mL, hệ số vượt là 20 ở người có kiểu hình acetyl hóa nhanh và 62 ở người
có kiểu hình acetyl hóa chậm. Nồng độ của INH trong huyết thanh của mỗi người
khác nhau phụ thuộc vào kiểu hình acetyl hóa của cá thể. Khi uống INH liều 5
mg/kg sau 1-2 giờ sẽ đạt nồng độ tối đa trong huyết tương là 3-5 µg/mL [15], [18].
Liều dùng hàng ngày của INH là 5 mg (4-6 mg)/kg thể trọng cho cả trẻ em
và người lớn, liều hàng ngày tối đa là 300 mg, nên uống một lần lúc đói. Liều cách
quãng 3 lần/tuần là 10 mg/kg thể trọng (8-12 mg), liều cách quãng 2 lần/tuần là 15
mg/kg thể trọng (13-17 mg) [10].
INH có thể gây các tác dụng phụ trên hệ thần kinh và gan. Trên hệ thần kinh,
INH có thể gây ra viêm dây thần kinh, co giật, viêm dây thần kinh thị giác, rối
loạn tâm thần. Tại gan, INH có thể gây viêm gan với các triệu chứng chán ăn,
buồn nôn, nôn, mệt mỏi. 10 – 20% bệnh nhân sử dụng INH có thể có nồng độ
transaminase huyết thanh (AST, ALT), bilirubin máu, bilirubin nước tiểu tăng
bất kì trong đợt điều trị, nhưng thường tăng trong 1 đến 3 tháng đầu và sau đó trở
lại bình thường. Ngoài ra bệnh nhân có thể gặp một số tác dụng phụ khác như:
buồn nôn, nôn, đau thượng vị, viêm tụy; thiếu máu, giảm hoặc mất bạch cầu hạt,
giảm bạch cầu ưa axit giảm tiểu cầu, sốt, viêm da [55].
1.3.2. Gen liên quan đến chuyển hóa Isoniazid ở bệnh nhân lao
Tổn thương gan do thuốc chống lao là một tác dụng phụ phổ biến, đa phần
do INH gây ra. Quá trình chuyển hóa INH đóng vai trò quan trọng trong tổn thương
gan [59]. Sự khác biệt về độc tính của INH gây ra là do sự biến đồi về di truyền ở
một số gen như: N - acetyltransferase 2 (NAT2), Cytochrome P450 2E1 (CYP2E1),
glutathione S - transferase M1 (GSTM1), glutathione S - transferase T1 (GSTT1)
[45].
CYP2E1 là gen mã hóa cho enzyme CYP2E1 có tác dụng chuyển hóa thuốc
ở gan. CYP2E1 xúc tác quá trình oxy hóa AcHz và Hz tạo ra các chất trung gian
gây độc cho cơ thể [42]. Sự đa hình của gen CYP2E1 quyết định khả năng hoạt
động của gen, hoạt tính cao hơn của enzyme này có thể làm tăng sự tổng hợp của
các độc tố gan [61].
12
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Các enzyme thuộc họ Glutathione S - transferase (GST) tham gia vào khả
năng giải độc cho cơ thể, chúng chuyển các chất trung gian gây độc hoặc các sản
phẩm oxy hóa thành chất ít hoặc không gây độc và giúp cơ thể đào thải ra ngoài.
GST tham gia quá trình chuyển hóa của thuốc điều trị lao thông qua các phản ứng
liên hợp các chất chuyển hóa trung gian gây độc ở dạng tiềm ẩn [40]. Sự thiếu hụt
hoạt tính GST do sự đồng hợp tử tại locus GSTM1 và GSTT1 có thể ảnh hưởng
đến tính nhạy cảm với độc tính gan do INH gây ra. Nguy cơ nhiễm độc gan do
INH ở bệnh nhân Ấn Độ có GSTM1 đồng hợp tử đột biến đã tăng so với nhóm
còn lại [34] . Tuy nhiên ở một số nghiên cứu khác lại chỉ ra không chỉ ra được tính
liên quan giữa sự đa hình của gen GST và nguy cơ tổn thương gan. Ngoài ra còn có
một số gen khác cũng ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa INH như HLA-
DQA1/DQB1 [54].
So với các enzyme trên, N-acetyltransferase 2 (NAT2) là enzyme được
chứng minh có vai trò quan trọng nhất liên quan tới chuyển hóa Isoniazid. Đa hình
gen NAT2 ảnh hưởng đến tốc độ acetyl hóa, tạo ra các kiểu hình acetyl hóa chậm
làm tăng nồng độ INH trong huyết thanh, giảm tốc độ thanh thải của INH và tăng
các sản phẩm chuyển hóa trung gian gây độc cho cơ thể [45], [36].
1.4. Đặc điểm của gen NAT2 và đa hình gen NAT2
NAT là một loại enzyme xúc tác quá trình acetyl hóa arylamine từ acetyl-
CoA. Nó được tìm thấy ở nhiều loài khác nhau. NAT1 và NAT2 là các gen chính
của NAT nằm gần nhau trên nhiễm sắc số 8, vị trí 8p22. Biểu hiện của 2 gen này
khác nhau ở các mô riêng biệt và các enzyme có các ưu tiên khác nhau. NAT1 biểu
hiện ở hầu hết các mô như mô thần kinh, gan, đường tiêu hóa, tế bào máu, trong khi
NAT2 chỉ giới hạn tại gan và đường tiêu hóa [32]. Gen NAT2 gồm hai exon, exon 2
là một khung đọc mở dài 870 bp (tức là các vùng mã hóa protein) không có intron.
Đa hình gen NAT2 gây ra kiểu hình acetyl hóa chậm làm tăng nồng độ INH trong
huyết thanh, giảm tốc độ thanh thải của INH, tăng các sản phẩm chuyển hóa trung
gian gây độc cho cơ thể [48], [44] .
13
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Hình 1.5: Vị trí gen NAT2 trên NST số 8
Sự đa hình của gen NAT2 có vai trò quan trọng trong việc biểu hiện các vai
trò của gen ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng thuốc cũng như gia tăng tỷ lệ mắc một
số bệnh khi tiếp xúc với các yếu tố phơi nhiễm. Dựa vào kiểu gen của NAT2, các
nhà khoa học đã chia kiểu hình của enzyme NAT2 thành 3 dạng: kiểu hình acetyl
hóa nhanh (RA), acetyl hóa chậm (SA), acetyl hóa trung gian (IA). Các nghiên cứu
đều chỉ ra rằng kiểu hình acetyl hóa nhanh khi mang 2 alen kiểu dại (NAT2*4*4),
acetyl hóa trung bình khi có 1 alen kiểu dại (NAT2*4/*5, NAT2*4/*6 và
NAT2*4/*7) và acetyl hóa chậm khi có 2 đa hình alen (NAT2*5/*5, NAT2*5/*6,
NAT2*5/*7, NAT2*6/*6, NAT2*6/*7 và NAT2*7/*7) [44]. Hiện nay, các nhà di
truyền học đã xác định được alen kiểu dại (được qui ước là NAT2*4) và 88 biến thể
trên gen NAT2 [30]. Trong các đa hình gây ra kiểu hình acetyl hóa chậm, 3 alen
NAT2*5, *6, *7 được nghiên cứu nhiều nhất. Alen NAT2*5 có axit amin thay thế là
I1e114Thr; alen NAT2*6 có axit amin thay thế là Arg197Gln, alen NAT2*7 có axit
amin thay thế là Gly286Glu. Thường gặp nhất là nhóm cá thể có kiểu hình acetyl
hóa nhanh, kiểu gen đồng hợp tử kiểu dại (NAT2*4) ở cả 3 vị trí SNP (T341C,
14
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
G590A, G857A). Các cá thể có kiểu hình acetyl hóa trung bình thường có kiểu gen
dị hợp tử về alen biến đổi ở một locus đơn, tức là một trong 3 vị trí NAT2*5, *6
hoặc *7 . Những người acetyl hóa chậm là những người có nhiều hơn một đa hình
alen. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh, những bệnh nhân có kiểu hình
acetyl hóa chậm có nguy cơ tổn thương gan, gặp các tác dụng phụ và tỉ lệ thất bại
điều trị cao hơn 2 kiểu hình còn lại. Đa hình gen cho thấy có sự khác biệt ở các
chủng tộc, gần 50% người da trắng Châu Âu cho kiểu hình acetyl hoá chậm, trong
khi đó ở người Nhật chỉ có 10% có kiểu hình acetyl hoá chậm. Trên quần thể bệnh
nhân Nhật và Đài Loan, bệnh nhân có kiểu hình chuyển hóa INH chậm có thể bị
nhiễm độc gan cao hơn 28 lần so với những bệnh nhân có kiểu hình chuyển hóa
nhanh [50]. Một nghiên cứu của Hàn Quốc cũng chỉ ra rằng kiểu hình acetyl hóa
chậm có nguy cơ nhiễm độc gan cao gấp 3 - 8 lần khi điều trị bằng INH so với kiểu
chuyển hóa nhanh. Wang và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu tổng hợp 14 nghiên
cứu khác trên 474 trường hợp và 1446 nhóm chứng đã cho thấy mối liên quan đáng
kể giữa các chất acetyl hóa chậm và nguy cơ nhiễm độc gan do INH [57]. Tại Việt
Nam, nghiên cứu gần đây của Phạm Thị Hồng Nhung và cộng sự (2011) trên 100
người Việt Nam khỏe mạnh bằng phân tích đa hình gen của NAT2 cho thấy người
Việt Nam có loại hình acetyl hóa nhanh chiếm tỷ lệ lớn [46].
Enzyme NAT2 có vai trò quan trọng trong việc giúp cơ thể tránh khỏi các
phản ứng quá khích với thuốc và môi trường. NAT2 có khả năng hoạt hóa sinh học,
giải độc nhiều thuốc và các hóa chất độc hại, bao gồm cả các hợp chất gây ung thư.
Các nghiên cứu trong hơn 50 năm trở lại đây đã chứng minh được tầm quan trọng
của việc xác định kiểu hình acetyl hóa ở các cá thể mắc lao hoặc một số cá thể phơi
nhiễm với các tác nhân ung thư. Việt Nam hiện đang đứng thứ 14/30 nước có gánh
nặng bệnh lao cao nhất thế giới, chính vì vậy việc xác định kiểu hình acetyl hóa
không chỉ có thể giúp các nhà lâm sàng định hướng trong xác định liều Isoniazid
cho mỗi cá thể khi điều trị lao mà còn cung cấp nguồn dữ liệu về yếu tố di truyền để
có thể đánh giá những yếu tố nguy cơ đối với người mắc bệnh lao, đặc biệt là mắc
lao kháng Isoniazid.
15
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Dụng cụ, trang thiết bị
Thiết bị chính: Hệ thống cấy nhanh BACTEC MGIT 960 hoặc 320
(BD,Mỹ), Tủ an toàn sinh học cấp II (Telstar), Máy ly tâm lạnh đủ tiêu chuẩn an
toàn sinh học, đủ lực ly tâm > 3000g (Mỹ), Máy lắc (Scientifica, Châu Âu), tủ lạnh
âm, tủ lạnh mát (Panasonic, Nhật), cân (Shinko, Nhật), Tủ ấm hoặc buồng ấm
(Memmert, Đức), Kính hiển vi (Olympus, Nhật), Nồi hấp ướt (Tomy, Nhật), Máy
soi chụp ảnh gel (Gel Doc It, Mỹ), Hệ thống điện di (Cleaver Scientific, Anh), Máy
PCR (Prime Thermal Cycler, Anh), Tủ an toàn sinh học (ESCO, Singapore), Máy li
tâm EBA 21 (Hettich Zentrifugen, Đức), Máy quang phổ NP80 (Nanophotometer,
Đức), Máy làm đá vảy (Fiocchetti, Ý).
Dụng cụ, vật tư: Lam kính trứng, ống thủy tinh vô trùng, lọ nhựa chia vạch
vô trùng, pipet nhựa chia vạch, pipet tự động loại 2-100µL và 1000µl và đầu côn vô
trùng, ăng nhựa vô trùng, ống bi vô trùng, găng tay, khẩu trang N95.
2.1.2. Hóa chất, môi trường
Các hóa chất chính dùng cho phân lập, nuôi cấy và kháng sinh đồ lao:
Dung dịch khử nhiễm và dung dịch đệm photphat, Bộ nhuộm Ziehl-Neelsen, Bộ
sinh phẩm nuôi cấy lỏng MGIT bao gồm: tube BBL MGIT 7mL; BACTEC MGIT Growth Supplement 15ml; BBL MGIT PANTA; BD MGITTM TBcID test nhanh
định danh MTB, Sinh phẩm làm kháng sinh đồ lỏng PZA: Tube MGIT960 PZA,
BACTEC MGIT 960 PZA Supplement, Giá code AST, Lọ kháng sinh PZA 8000
µg/ml, Độ đục chuẩn 0.5 McFarland, Độ đục chuẩn 1.0 McFarland, Nước cất vô
trùng, Môi trường LJ có và không có kháng sinh.
Các hóa chất chính cho phân tích đa hình di truyền gen NAT2: E.Z.N.A
blood DNA Mini kit (hãng Omega-Biotek), Ethylene Diamine Tetra Acetic Acid,
(EDTA) Disodium Salt, Dihydrate (hãng Affymetrix), TAE 1X, 5X DNA
loading dye (hãng ThermoScientific), Gene Ruler Ladder DNA marker (hãng
16
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
ThermoScientific), Lambda DNA/HindIII Ladder (hãng ThermoScientific), Tris
base (hãng Bio basic), axit acetic (hãng Merck), Cặp mồi được đặt tổng hợp từ hãng IDT, nước khử ion (hãng Omega Biotek), Kapa2GTM Robust HotStart
ReadyMix (2X) (hãng Kapabiosystems).
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được lựa chọn vào nghiên cứu tại 03 bệnh viện: Bệnh viện Bệnh
phổi Trung ương, Bệnh viện Lao phổi Hà Nội, Bệnh viện 74 Trung ương từ tháng
3/2017 đến 6/2018 đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
Tuổi >= 16
Chẩn đoán ban đầu: lao phổi mới hoặc lao phổi tái trị
Kết quả Genxpert MTB+/RIF-
Chỉ định điều trị phác đồ có INH.
Điều trị nội trú tại bệnh viện
Chấp thuận tình nguyện tham gia nghiên cứu
Chuẩn đoán xác định: lao phổi có bằng chứng vi khuẩn - nuôi cấy dương tính
và định danh Mycobacteria tuberculosis;
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS
- Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Cỡ mẫu
Nghiên cứu tiến cứu kết hợp hồi cứu, sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận
tiện. Đối tượng nghiên cứu được lựa chọn theo tiêu chuẩn mục 2.2.1 và đối tượng tự
nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu. Thu nhận mẫu từ tháng 3/2017 đến tháng
6/2018 cho tới khi cỡ mẫu đạt 125.
17
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
2.3.2. Thu thập mẫu bệnh phẩm
Những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đáp ứng 5 tiêu chuẩn đầu tiên trong mục
2.2.1 sẽ được lấy đờm (3-5ml) theo đúng hướng dẫn của Chương trình chống lao
quốc gia (2017) để nuôi cấy và theo dõi kết quả nuôi cấy và định danh. Kết quả
định danh là MTB thì sẽ được gửi mẫu đến Khoa Vi sinh và Labo tham chiếu Quốc gia của Bệnh viện Phổi trung ương để lưu mẫu tại -700C chờ làm kháng sinh
Mẫu đờm nuôi cấy, định danh MTB tại Bệnh viện Phổi Hà Nội
đồ đặc và lỏng.
Gữi mẫu MGIT dương
Nuôi cấy, định danh và phân lập làm kháng sinh đồ tại khoa Vi sinh và Labo Lao chuẩn Quốc Gia - Bệnh viện Phổi Trung ương
Mẫu đờm nuôi cấy, định danh MTB tại Bệnh viện K74
Hình 2.1: Sơ đồ thu mẫu và luân chuyển mẫu tại 3 bệnh viện
2.3.3. Quy trình nuôi cấy đờm trên môi trường lỏng BACTEC MGIT
Nguyên lý: Một lớp huỳnh quang được đưa vào bên trong lớp silicon nằm ở
đáy ống có đường kính 16x100 mm. Chất huỳnh quang nhạy với sự hiện diện của
Oxy hòa tan trong môi trường. Nồng độ oxy ban đầu có trong ống làm bất hoạt
huỳnh quang. Sau đó khi vi sinh vật hô hấp tiêu thụ oxy làm giảm lượng oxy dẫn
đến sự phát quang. Ống môi trường được đưa vào hệ thống BACTEC MGIT 960/320 được ủ liên tục ở 370C và tín hiệu huỳnh quang được giám sát 60 phút/lần. Máy báo dương bằng tín hiệu đèn và âm thanh khi trong ống chứa từ khoảng 105 - 106 CFU/mL. Sau 42-56 ngày nếu không có tín hiệu huỳnh quang được thu nhận thì
máy sẽ báo âm tính.
18
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Hình 2.2: Hệ thống BACTEC MGIT 960
Các bƣớc tiến hành: 3-5 ml đờm có nhày mủ được thu thập trong ống
falcon 50ml. Mẫu đờm của bệnh nhân được khử tạp bằng dung dịch NaCl-NaOH
với thể tích pha là 1:1, voltex, ủ ở nhiệt độ phòng 15 phút sau đó thêm dung dịch NaCl-NaOH cho đến khi đầy 40 ml rồi ly tâm 3000 rpm/15 phút ở 100C, gạn dịch
nổi và bổ sung 0,5 ml dung dịch đệm nuôi cấy để thu huyền dịch. Huyền dịch sau
đó được đưa vào ống MGIT đã bổ sung thêm các yếu tố tăng trưởng (PANTA
supplement), kháng sinh, kháng nấm và nuôi cấy trong hệ thống BACTEC MGIT
960/320. Kết quả cấy được theo dõi trong vòng 42 ngày, mẫu bệnh phẩm sẽ được
máy tự động ghi nhận kết quả. Cách nhận định kết quả được tóm tắt ở bảng 2.1.
Bảng 2.1: Nhận định kết quả nuôi cấy MGIT
Máy báo Nhuộm soi Định danh Kết quả
Dương Vi khuẩn khác, nấm Ngoại nhiễm
AFB cuộn thừng, AFB Dương tính M.tuberculosis
complex
Âm tính NTM*
AFB vụn Âm tính NTM*
Âm tính Âm tính Không thấy cặn vụn
Có cặn vụn hoặc nhuộm soi dương tính làm theo quy trình ống
dương
* NTM: Non-tuberculosis Mycobacteria (Mycobacteria ngoài lao)
19
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
2.3.4. Phương pháp kháng sinh đồ cho 5 thuốc chống lao hàng một
Việc thực hiện kháng sinh đồ cho 5 thuốc chống lao hàng một được thực hiện
bằng 02 phương pháp: kháng sinh đồ trên môi trường lỏng được thực hiện cho
Pyrazinamid (PZA), kháng sinh đồ trên môi trường đặc được thực hiện cho 4 thuốc
chống lao còn lại là Rifampicin (RMP), Isoniazid (INH), Ethambutol (EMB),
Streptomycin (SM). Quá trình làm kháng sinh đồ được thực hiện trong phòng an toàn
sinh học có áp lực âm và tủ an toàn sinh học cấp độ II, theo quy trình chuẩn của Labo
Lao chuẩn quốc gia tại Bệnh viện Phổi Trung ương.
2.3.4.1. Phương pháp xác định tính kháng Pyrazinamide (PZA) trên môi trường
lỏng
Nguyên lý: Hệ thống BACTEC MGIT 960 được dùng làm thử nghiệm
kháng sinh đồ PZA. Dựa trên chỉ số growth unit (GU), hệ thống tự động so sánh
lượng vi khuẩn mọc ở ống chứa thuốc kháng sinh với ống chứng không chứa thuốc
kháng sinh, máy tự động phân tích kết quả. Chủng vi khuẩn thử nghiệm được pha
theo tỷ lệ quy định, cấy vào môi trường lỏng MGIT không có và có PZA và đưa vào
hệ thống nuôi cấy. Hệ thống sẽ giám sát liên tục sự phát phát quang của ống cấy
dựa trên đơn vị sinh trưởng GU. Kết quả kháng sinh đồ được báo cáo trong vòng 4-
21 ngày khi ống chứng đạt 400 GU, dựa trên so sánh định lượng sự phát triển của vi
khuẩn lao trong ống chứng và ống có thuốc PZA. Ống có thuốc PZA GU < 100 là
nhạy cảm; GU > 100 là kháng thuốc. Mỗi mẻ kháng sinh đồ trong ngày với cùng lô hóa chất được kiểm tra chất lượng bằng chủng chuẩn H37RV 100 và được thực hiện như chủng thử nghiệm.
Các bƣớc tiến hành
Chuẩn bị môi trường: Chuẩn bị 02 ống (ống chứng và ống thử nghiệm)
chứa MGIT960 PZA có bổ sung 0,8ml yếu tố sinh trưởng, ghi đầy đủ thông tin
bệnh nhân và ngày xét nghiệm lên ống. Pha PZA 8000µg/ml trong 2.5 ml nước cất
vô trùng. Lấy 100 µl PZA bổ sung vào ống MGIT thử nghiệm.
Chuẩn bị chủng làm kháng sinh đồ: Các chủng làm kháng sinh đồ được
kiểm tra là chủng thuần. Huyền dịch vi khuẩn được chuẩn bị bằng cách gặt chủng
cho vào ống có bi thủy tinh vô trùng và vài giọt nước cất, voltex trong 2-3 phút để
chủng được hòa tan hoàn toàn, ủ 15 phút sau đó thêm nước cất trộn đều, điều
chỉnh huyền dịch có độ đục hơn chuẩn Mac Farland 1.0. Sau 20 phút, chuyển phần
20
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
nước nổi sang ống vô trùng khác. Thêm nước cất, điều chỉnh huyền dịch có độ đục
tương đương độ đục chuẩn Mc Farland 0.5. Pha tiếp huyền dịch với nước cất tỷ lệ
1:5, dùng huyền dịch này làm kháng sinh đồ. Lấy 1ml huyền dịch đã pha loãng 1:5
ở bước trên tiếp tục pha loãng với nước cất tỷ lệ 1:10 để được huyền dịch cấy vào
ống MGIT960 PZA làm ống chứng GC.
Cấy huyền dịch vi khuẩn vào môi trường kháng sinh đồ: Dùng Pipet tự
động hút 0,5ml huyền dịch chuẩn bị cho ống GC vào ống chứng GC. Dùng Pipet tự
động húy 0,5ml huyền dịch pha loãng tỷ lệ 1:5 vào ống thử nghiệm PZA. Vặn chặt
nắp mỗi ống và đảo ngược ống 3-4 lần để đồng nhất dung dịch. Xếp 2 ống vào giá
code AST theo đúng thứ tự: GC-PZA. Đưa giá code AST vào máy BACTEC
MGIT960 và ghi các thông tin vào sổ kháng sinh đồ.
Đọc kết quả kháng sinh đồ: Máy báo kết quả kháng sinh đồ tại thời điểm
ống chứng GC đạt 400GU trong vòng 4-21 ngày. Ngưỡng kháng là 100GU. Kết quả
kháng sinh đồ có thể được thông báo một trong ba trường hợp:
+ Kết quả nhạy (S): ống thử nghiệm PZA có mức GU < 100
+ Kết quả kháng (R): ống thử nghiệm PZA có mức GU > 100
+ Kết quả không kết luận được (X) báo lỗi: ống thử nghiệm GU >400 và thời
gian máy báo < 4 ngày có thể do pha huyền dịch đặc hoặc chủng nhiễm trùng; lỗi
GU<200 có thể do một số chủng kháng thuốc đặc hiệu mọc chậm hoặc huyền dịch
vi khuẩn quá loãng. Trong trường hợp này kiểm tra lại các bước và thực hiện lại
kháng sinh đồ.
a. Nhạy b. Kháng
Hình 2.3: Kháng sinh đồ PZA
21
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
2.3.4.2. Phương pháp xác định tính kháng INH; RMP; SM; EMB trên môi
trường đặc
Nguyên lý phƣơng pháp kháng sinh đồ tỷ lệ: Xác định tỷ lệ phần trăm số
lượng khuẩn lạc vi khuẩn lao mọc trên môi trường có chứa các loại thuốc chống lao
ở nồng độ tối thiểu so với số vi khuẩn lao mọc trên môi trường đối chứng không
chứa thuốc. Xác định sự kháng của vi khuẩn lao với từng loại thuốc bằng cách so
sánh tỷ lệ trên với ngưỡng kháng. Nếu trên hoặc bằng ngưỡng là vi khuẩn kháng;
dưới ngưỡng là vi khuẩn nhạy cảm. Nồng độ thuốc và ngưỡng kháng thuốc chống
lao được trình bày ở bảng 2.2. Mỗi mẻ kháng sinh đồ trong ngày được làm cùng 03
chủng kiểm tra, cách thức làm giống như chủng thử nghiệm: Chủng chuẩn H37RV 100; chủng chứng kháng RS (kháng RMP và SM), chủng chứng kháng HE (INH và
EMB).
Bảng 2.2: Nồng độ thuốc và ngƣỡng kháng thuốc kháng lao hàng 1
trên môi trƣờng đặc
Nồng độ thuốc µg/ml Ngƣỡng kháng (%) Tên thuốc
Isoniazid 0.2 1
Streptomycin 4.0 1
Rifampicin 49.0 1
Ethambutol 2.0 1
Các bƣớc tiến hành
Chuẩn bị môi trường: Chuẩn bị dung dịch Malachite green 2%, dung dịch
LJ cơ bản, dung dịch trứng. Ở bảng 2.3, thuốc dạng bột được tính toán để pha trong
nước cất vô trùng hoặc trong propylene tùy loại thuốc tạo thành dung dịch thuốc
(1). Sau đó dung dịch thuốc (1) sẽ được pha tiếp với nước cất vô trùng để tạo thành
những dung dịch có nồng độ thấp hơn rồi bổ sung vào môi trường LJ với thể tích
phù hợp để đạt được nồng độ thuốc cuối cùng trong môi trường là 0,2 µg/ml cho
INH; 40 µg/ml cho RMP; 4 µg/ml cho SM; 2 µg/ml cho EMB, 500 µg/ml cho PNB
(Para nitrobenzoic acid) (ống đối chứng kiểm tra chủng xác định MTB).
22
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Bảng 2.3: Hƣớng dẫn pha dung dịch thuốc (1)
Số mg thuốc mỗi loại tính Hòa tan trong Dung dịch thuốc
theo độ tinh khiết (1)
10 ml nước cất vô trùng Dung dịch INH (1)
2 ml dung môi Propylen Dung dịch RMP (1)
8 ml nước cất vô
trùng
10 ml nước cất vô trùng Dung dịch SM (1)
10 ml nước cất vô trùng Dung dịch EMB (1)
20 ml dung môi Dung dịch PNB (1)
Propylen
Mỗi chủng thử nghiệm chuẩn bị: 04 ống môi trường LJ (2 ống ghi 10-2; 2 ống ghi 10-4); 04 ống môi trường LJ có chứa kháng sinh (INH, RMP, SM, EMB) và
ống PNB. Ghi rõ các thông tin ký hiệu chủng, ngày thực hiện trên các ống.
Các chủng làm kháng sinh đồ được kiểm tra là chủng thuần đã được định
danh; chủng nguyên thủy 3-4 tuần tuổi có nhiều hơn 5 khuẩn lạc; chủng cấy truyền
2 tuần tuổi.
Chuẩn bị huyền dịch vi khuẩn: Dùng ăng nhựa lấy vi khuẩn lao từ ống
nuôi cấy cho vào ống có bi thủy tinh vô trùng và vài giọt nước cất. Voltex trong 2-
3 phút để chủng được hòa tan hoàn toàn. Chờ 15 phút. Thêm 2-4 ml nước cất vô
trùng trộn đều để 15 phút. Dùng pipet vô trùng hút huyền dịch phía trên nhỏ dần
vào ống chứa 10ml nước cất vô trùng, trộn đều, điều chỉnh huyền dịch độ đục tương đương Mac Farland 1.0. Ta được huyền dịch nồng độ 100. Pha 100 µl huyền dịch 100 và ống chứa 99ml nước cất vô trùng, trộn đều được nồng độ 10-2, tiếp tục pha loãng trong nước cất để thu được nồng độ 10-4. Huyền dịch 10-2 và 10-4 được
sử dụng để làm kháng sinh đồ
23
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Cấy chủng làm kháng sinh đồ: Dùng pipet vô trùng cấy vào ống môi trường có kháng sinh 0,1 ml huyền dịch vi khuẩn 10-4, nhẹ nhàng láng đều huyền
dịch trên ống môi trường chứa kháng sinh. Hai ống LJ không chứa kháng sinh cấy huyền dịch vi khuẩn 10-4; 2 ống LJ không chứa kháng sinh khác cấy huyền dịch vi khuẩn 10-2. Sau đó, vặn lỏng nắp ống môi trường, đặt ống cấy lên khay, mặt môi trường quay lên trên, đặt khay vào tủ ấm 370C. Kiểm tra ngoại nhiễm sau khi ủ ấm
24 giờ, 72 giờ, 1 tuần và vặn nắp ống khi mặt môi trường đã khô và tiếp tục cho
vào tủ ấm.
Hình 2.4: Chuẩn bị huyền dịch làm kháng sinh đồ đặc
Đọc kết quả kháng sinh đồ: Đánh giá kết quả ở 2 thời điểm là sau 28 ngày
và 42 ngày nuôi cấy. Chủng chuẩn H37RV nhạy với các thuốc kháng lao; Chủng
chứng kháng RS: kháng với Rifampicin và Streptomycin; Chủng chứng kháng HE: Kháng với Isoniazid và Ethamtanol; Các ống môi trường LJ 10-2 phải có số khuẩn lạc > 200 khuẩn lạc; Các ống môi trường LJ 10-4 phải có khuẩn lạc; Ống PNB
không có khuẩn lạc, nếu mẫu nào có khuẩn lạc thì cần phải kiểm tra lại định danh
chủng thử nghiệm.
Đánh giá kết quả vi khuẩn mọc: Đánh giá trên tất cả 9 ống môi trường cụ
thể như sau:
24
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Bảng 2.4: Đánh giá kết quả vi khuẩn mọc dựa vào khuẩn lạc
Đặc điểm Kết quả
Không thấy khuẩn lạc Âm tính
< 20 khuẩn lạc Dương tính: ghi cụ thể số khuẩn lạc
20 - 100 khuẩn lạc Dương tính: 1+
100 - 200 khuẩn lạc Dương tính: 2+
200 - 500 khuẩn lạc Dương tính: 3+
>500 khuẩn lạc Dương tính: 4+
Nhiễm trùng hoặc nấm Ngoại nhiễm
Nhận định kết quả kháng thuốc: So sánh số lượng khuẩn lạc trên ống môi trường LJ có thuốc và ống môi trường không có thuốc LJ 10-4. Tỷ lệ 1% được gọi là
ngưỡng kháng.
Tuỳ thuộc kết quả so sánh để đánh giá tính kháng thuốc của vi khuẩn lao
theo các trường hợp như bảng 2.5:
Bảng 2.5: Đánh giá tính kháng thuốc của vi khuẩn lao
Ngày thứ 28
Kết qủa vi khuẩn mọc trên ống thuốc Ngày thứ 42
Kết luận tính kháng
Ủ ấm tiếp Nhạy cảm Nhạy cảm
Khuẩn lạc không mọc trên môi trường chứa thuốc
Kết quả sơ bộ: nhạy cảm
Kháng Trả kết quả Kháng
Ủ ấm tiếp Nhạy cảm Nhạy cảm
Tỷ lệ phần trăm khuẩn lạc lớn hơn hoặc bằng ngưỡng kháng Tỷ lệ phần trăm số khuẩn lạc nhỏ hơn ngưỡng kháng quả rõ
Kết chưa ràng Kháng Kháng
25
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Làm lại kháng sinh đồ sớm nhất có thể trong các trường hợp: vi khuẩn không mọc trên ống chứng; số lượng khuẩn lạc trên ống môi trường LJ 10-2 < 200 khuẩn
lạc; tỷ lệ kháng xấp xỉ ngưỡng kháng; ngoại nhiễm. Các trường hợp ngoại nhiễm
hoặc lẫn vi khuẩn ngoài lao sẽ được phát hiện trong khoảng thời gian một tuần sau
khi thực hiện cấy kháng sinh đồ.
2.3.5. Phân tích kiểu gen NAT2 để xác định kiểu hình acetyl hóa isoniazid
Thu thập, vận chuyển và bảo quản mẫu máu
Những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đáp ứng 5 tiêu chuẩn đầu tiên trong mục
2.2.1 sẽ được lấy mẫu máu cho phân tích gen NAT2 vào ngày điều trị thứ 10 -14.
Mỗi bệnh nhân được lấy 2ml máu tĩnh mạch vào ống có chất chống đông EDTA
ghi đầy đủ thông tin gồm mã bệnh nhân, tên, tuổi, ngày lấy mẫu. Mẫu được vận
chuyển bằng hộp giữ lạnh đựng mẫu chuyên dụng về phòng thí nghiệm Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội bảo quản ở -300C cho đến khi thực hiện các
bước tiếp theo.
Tách chiết, kiểm tra và định lƣợng ADN
ADN được tách chiết theo hướng dẫn của nhà sản xuất, sử dụng kit E.Z.N.A
blood DNA Mini (Mỹ). Nồng độ và độ tinh sạch của DNA tách chiết được định
lượng bằng máy đo Nano Photometer-implen NP80: đo mật độ hấp thụ quang ở
bước sóng 260 nm (A260) và 280 nm (A280). DNA được cho là có độ tinh sạch cao
khi giá trị A260/A280 nằm trong khoảng 1,8 - 2,0. Chất lượng DNA còn được kiểm
tra bằng điện di trên gel agarose 1,2%.
Nhân dòng đoạn gen NAT2 bằng PCR
Gen NAT2 sẽ được xác định các SNP (NAT2*5, NAT2*6, NAT2*7) bằng
phương pháp PCR- giải trình tự gen. Đầu tiên, DNA tổng số được sử dụng để nhân
dòng đoạn gen NAT2 có độ dài 1093 bp sử dụng cặp mồi 5'-GGA ACA AAT TGG
ACT TGG-3' và 5'-TCT AGC ATG AAT CAC TCT GC-3’ [56]. Các thành phần
phản ứng được trình bày ở bảng 2.6.
26
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Bảng 2.6: Thành phần tối ƣu cho phản ứng nhân dòng gen NAT2
Nồng độ Thể tích 1 phản ứng (25 µL) Thành phần
Nước khử ion 10
1X 12.5
Master Mix Kapa2G Robust Hotstart DNA polymerase
Mồi xuôi 10 µM 0,3 µM 0,75
Mồi ngược 10 µM 0,3 µM 0,75
DNA 1
Tối ưu phản ứng PCR: Để có quy trình nhân dòng đặc hiệu và ổn định, các
thí nghiệm tối ưu nhiệt độ gắn mồi, nồng độ mồi và nồng độ DNA đã được tiến hành biến tính với 95 oC trong 3 phút, sau đó thực hiện 35 chu kỳ (95 oC trong 15s, 58 oC trong 15s, 72oC trong 1 phút), giai đoạn kết thúc ở 72oC trong 10 giây và bảo quản ở 4oC. Sản phẩm PCR được đánh giá chất lượng trên gel agarose 1,5%, sử dụng thang
chuẩn O Gene Ruler Ladder DNA marker/Massruler Express Forward DNA Ladder
Mix để xác định kích thước sản phẩm.
Xác định kiểu gen NAT2 bằng phƣơng pháp giải trình tự
20 µL sản phẩm PCR đã được kiểm tra trên gel agarose sẽ được gửi đến hãng
First base (Malaysia ) để giải trình tự bằng cách sử dụng cùng 1 mồi (5'-GGA ACA
AAT TGG ACT TGG-3' và 5'-TCT AGC ATG AAT CAC TCT GC-3’) cho cả
đoạn gen NAT2. Kết quả giải trình tự được đọc bằng phần mềm BioEdit version
7.1.9 để xác định kiểu gen của mỗi bệnh nhân. Các đọc như sau: mỗi nucleotit được
thể hiện bằng một đỉnh với màu đặc trưng (A: màu xanh lá cây, C: màu xanh da
trời, G: màu đen, T: màu đỏ). Tại vị trí cho mỗi nucleotit, nếu chỉ hiện 1 đỉnh màu
thì bệnh nhân có kiểu gen đồng hợp tử, nếu xuất hiện hai đỉnh màu thì là kiểu gen dị
hợp tử.
2.3.6. Phương pháp xử lý số liệu
Dữ liệu nghiên cứu được phân tích thống kê sử dụng phần mềm SPSS 16.0.
Thống kê mô tả được trình bày, các thuật toán phân tích t-student và ANOVA được
sử dụng để phân tích các biến định lượng, kiểm định chi-square được sử dụng cho
phân tích bảng tương liên và so sánh tỷ lệ.
27
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
2.3.7. Đạo đức nghiên cứu y học
Nghiên cứu đảm bảo các quy định về đạo đức trong thiết kế thử nghiệm lâm
sàng của Bộ Y tế. Bệnh nhân trước khi tham gia nghiên cứu được thông báo đầy đủ
về mục đích và mục tiêu nghiên cứu, cũng như lợi ích của nghiên cứu và những ảnh
hưởng bất lợi của nghiên cứu tới bệnh nhân. Những bệnh nhân tham gia nghiên cứu
sẽ được kí bản đồng thuận tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân có quyền rút khỏi
nghiên cứu bất cứ lúc nào. Các thông tin của bệnh nhân được đảm bảo bí mật tuyệt
đối và chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đã được thông qua tại Hội đồng đạo đức Khoa Y Dược, Đại học
Quốc gia Hà Nội trước khi triển khai thực hiện. Mẫu bệnh án và phiếu xác nhận tự
nguyện tham gia nghiên cứu của bệnh nhân được thu thập đầy đủ.
28
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Tính kháng thuốc của vi khuẩn lao đối với thuốc kháng lao hàng một
3.1.1. Đặc điểm chung của quần thể bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.1: Thông tin chung của quần thể nghiên cứu
Chỉ số Thể lao Xác suất
Lao mới Lao tái trị p ( ̅ SD) hoặc
(n=69) (n=56) %
63,8/36,2 87,5/12,5 0,002 Nam/Nữ
0,003 41,11 14,70 48,79 13,58 Tuổi (năm)
0,539 18,91 18,65 BMI
Từ tháng 3/2017 đến tháng 6/2018 chúng tôi ghi nhận trong số bệnh nhân
đến khám và điều trị tại 03 bệnh viện (Bệnh Phổi Hà Nội, K74 Trung ương; Phổi
Trung ương) có 125 bệnh nhân được chuẩn đoán lao phổi và được thực hiện test
GenXpert MTB+/RIF- để loại trừ nhanh lao đa kháng. Có 69 bệnh nhân lao phổi
mới (chiếm 55,2%) và 56 bệnh nhân lao phổi tái trị (44,8%) trong đó chủ yếu là lao
tái phát (53 bệnh nhân). Giữa hai nhóm lao phổi mới là lao phổi tái trị có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ giới tính nam/nữ (p< 0.05).
Về mặt giới tính, mặc dù phụ nữ trong quá trình sống có nhiều thời điểm dễ
mắc lao hơn như thời kỳ có thai, nuôi con nhỏ, mãn kinh… nhưng các nghiên cứu
trong và ngoài nước đều đưa ra nhận định nam giới có số lượng người mắc lao cao
hơn nữ giới nhưng tỷ lệ nam/nữ lại khác nhau tùy theo nghiên cứu. Nam giới được
cho là có nguy cơ tiếp xúc nguồn lây nhiều hơn nữ giới, cường độ làm việc cao hơn,
có nhiều mối quan hệ xã hội rộng rãi, đồng thời có nhiều thói quen có hại như
nghiện rượu, hút thuốc. Theo báo cáo của WHO (2018) năm 2017 trên toàn thế giới
có khoảng 6 triệu nam giới mắc bệnh lao, trong khi đó chỉ chỉ xấp xỉ 3,2 triệu nữ
giới mắc lao. Nghiên cứu tổng hợp của WHO mới đây cũng cho thấy số lượng nam
giới mắc lao cao hơn so với nữ giới ở hầu hết các nghiên cứu ở các nước có thu
29
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
nhập thấp và trung bình [26]. Ở Việt Nam, năm 2006-2007, chương trình chống
lao quốc gia đã thực hiện điều tra tình hình mắc lao toàn quốc cho thấy tỷ lệ mắc lao
của nam giới cao hơn nữ giới là 4-5 lần [3]. Ở nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ
nam/nữ là 2,9, cao hơn không đáng kể trong một số nghiên cứu trong nước khác ở
mức 2,4 lần [12], [20]. Điều này có thể giải thích do nghiên cứu chỉ giới hạn trong
bệnh nhân lao phổi, số lượng nghiên cứu chưa đủ lớn và do những năm gần đây sự
phát triển điều kiện kinh tế - xã hội - nhận thức của người dân làm tăng cơ hội tiếp
cận hệ thống y tế của phụ nữ.
Tỷ lệ chênh lệch nam/nữ ở nhóm lao phổi mới là 1,76 xấp xỉ tỷ lệ 1,92
trong nghiên cứu của Hoàng Thị Phượng (2009) [13]. Tỷ lệ nam/nữ ở nhóm lao
phổi tái trị của nghiên cứu là 7,0 cao hơn so với trong nghiên cứu của Hoàng Hà
(4,0) (2009) [4]. Sự khác biệt về tỷ lệ nam/nữ giữa hai nhóm lao phổi tái trị và lao
phổi mới trong nghiên cứu mang ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Tỷ lệ nam giới trong
nhóm lao phổi tái trị cao hơn so với nữ giới rất nhiều. Nguyên nhân có thể là do
nam giới thường không có kiên nhẫn để tuân thủ quá trình điều trị, cùng những
yếu tố nguy cơ cao như hút thuốc, nghiện rượu vì vậy thường dẫn đến sự tái phát.
Tại Việt Nam chúng tôi chưa tìm được công bố nào trong các nghiên cứu báo cáo
về mối quan hệ giữa giới tính trong nhóm lao phổi mới và lao tái trị. Nhận định
này có thể là lưu ý quan trọng với bác sỹ điều trị, đặc biệt lưu ý các đối tượng
bệnh nhân nam trong quá trình điều trị để đảm bảo đạt được kết quả điều trị cao
nhất ngay từ lần đầu.
Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của nhóm lao phổi tái trị (48,79) cao
hơn nhóm lao phổi mới (41,11). Sự khác biệt về độ tuổi trung bình giữa hai
nhóm có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này phản ánh mối quan hệ giữa độ tuổi
và tình trạng mắc lao mới thấp hơn lao tái trị. Sự khác biệt giữa hai nhóm có thể
là do ở người lớn tuổi tình trạng đề kháng chung của cơ thể kém hơn so với
người trẻ tuổi. Vì vậy những quần thể vi khuẩn nằm ngủ trong cơ thể sẽ có cơ
hội tái hoạt động, mặt khác cũng dễ làm cho người lớn tuổi dễ ngoại nhiễm vi
khuẩn lao hơn người trẻ.
30
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Chỉ số khối cơ thể (BMI) trung bình của nhóm lao phổi mới là 18,91 và của
nhóm lao phổi tái trị là 18,65. BMI trung bình của hai nhóm là tương đương nhau.
Đây là mức BMI ở gần ngưỡng bình thường theo chỉ số dinh dưỡng (18,5). Chỉ số
này cũng tương tự như trong nghiên cứu của Hoàng Thị Phượng (2009) là
18,71[13].
Hình 3.1: Biểu đồ dinh dƣỡng theo BMI của hai nhóm bệnh nhân
Phân loại tình trạng dinh dưỡng theo chỉ số BMI của người Việt Nam (theo
WPRO), ở người Việt Nam trưởng thành từ 25-64 tuổi, có tỷ lệ tình trạng thiếu cân
20,9%; tình trạng bình thường 62,9%; tình trạng thừa cân 9,7% và béo phì 6,6% [2].
Chỉ số BMI của bệnh nhân nghiên cứu nằm trong 3 nhóm: gầy (thiếu cân), bình
thường và thừa cân. Không có bệnh nhân tình trạng béo phì ở cả hai nhóm lao. Điều
này phù hợp với nghiên cứu của Tverdal khi nghiên cứu 1.717.655 người trên 14
tuổi trong 8-19 năm, tỷ lệ mắc lao phổi giảm khi tăng BMI, tỷ lệ giống nhau cho cả
hai giới và mọi lứa tuổi [23]. Một nghiên cứu khác trên diện rộng kéo dài 20 năm
tại Hoa Kỳ, loại bỏ các trường hợp đã mắc lao trước khi nghiên cứu cũng đưa ra
nhận định tỷ lệ mắc lao ở những người có chỉ số BMI thấp (<18,5) cao hơn ở những
người có chỉ số BMI bình thường, cao và rất cao [41]. Tuy nhiên nghiên cứu gần
đây tại Hàn Quốc trong vòng 5 năm từ 2007 đến 2013, các bệnh nhân mắc lao trước
đó được loại trừ cũng cho thấy chỉ số BMI tăng có thể làm giảm nguy cơ mắc lao
31
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
nhưng chỉ số BMI rất cao (>30) lại không làm giảm nguy cơ mắc lao ở phụ nữ trẻ
[39]. Còn trong đa phần các nghiên cứu tại Việt Nam, những thống kê về mối liên
quan giữa chỉ số BMI và người mắc lao đều cho thấy những người mắc lao phần lớn
có chỉ số BMI thấp [13]. Điều này có thể được giải thích do các nghiên cứu tại Việt
Nam phần lớn là nghiên cứu tại thời điểm bệnh nhân đã bị lao, khi đó bệnh nhân đã
có tình trạng suy kiệt cơ thể ảnh hưởng đến cân nặng. Ngoài ra cũng có thể do điều
kiện dinh dưỡng ảnh hưởng đến chỉ số BMI liên quan đến điều kiện lao động của
những người nhiễm lao. Vì vậy để có thể đưa ra những nhận định đúng về mối liên
quan giữa chỉ số BMI và tình trạng mắc lao tại Việt Nam cần có các nghiên cứu
nhiều năm đo được BMI trước khi nhiễm lao.
3.1.2. Tình hình kháng thuốc chống lao hàng 1 ở các bệnh nhân lao phổi
3.1.2.1. Kết quả nuôi cấy vi khuẩn lao
Bảng 3.2: Thời gian nuôi cấy và đơn vị sinh trƣởng của vi khuẩn lao
Chỉ số Thể lao Xác suất
Lao mới Lao tái trị p ( ̅ SE)
(n=69) (n=56)
0,018 210,35 10,37 250,61 13,65 Thời gian nuôi cấy
(giờ)
0,711 2285,0 658,57 1915,3 748,70 Đơn vị sinh trƣởng
(GU)
Thời gian nuôi cấy trung bình (giờ) ở nhóm lao phổi mới (210) thấp hơn
nhóm lao phổi tái trị (250) (p< 0,05). Đơn vị sinh trưởng GU giữa hai nhóm không
có sự khác biệt. Có sự dao động lớn giữa các cá thể về đơn vị sinh trưởng và thời
gian nuôi cấy ở trên cả hai nhóm.
Thời gian nuôi cấy được tính từ lúc mẫu được đưa vào máy nuôi cấy đến lúc máy báo dương khi nồng độ trong ống nuôi cấy đạt 105 - 106 CFU/mL. Nồng độ vi
khuẩn trong ống phụ thuộc vào nồng độ vi khuẩn ban đầu của mẫu, vì vậy thời gian
nuôi cấy của các mẫu sẽ khác nhau. Một số nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh,
32
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
thời gian nuôi cấy tỷ lệ nghịch với số lượng khuẩn lạc được tính trên số CFU/mL
[27], [24]. Chỉ số thời gian nuôi cấy trong môi trường MGIT sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho việc đánh giá định lượng Mycobacterium tuberculosis, đặc biệt là trong việc
đánh giá sớm hiệu quả trong điều trị.
3.1.2.2. Kết quả kháng sinh đồ vi khuẩn lao
Sau 42 ngày, kết quả kháng sinh đồ đặc với 4 loại thuốc RMP, INH, SM,
EMB sẽ được kết luận dựa trên kết quả vi khuẩn mọc trên ống môi trường thử
nghiệm. Hình 3.2 là kết quả kháng sinh đồ đặc với bốn loại thuốc kháng lao INH,
RMP, SM, EMB của một số chủng trong nghiên cứu.
Kháng INH, RIF, EMB; Nhạy SM Kháng SM; Nhạy INH, RIF, EMB
Kháng INH, RIF, SM; EMB Nhạy INH, RIF, SM, EMB
Hình 3.2: Một số hình ảnh kết quả kháng sinh đồ trên môi trƣờng đặc
33
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Đối với kháng sinh đồ lỏng PZA trong vòng 21 ngày máy sẽ tự động báo kết
quả. Các kết quả kháng sinh đồ đặc và lỏng được ghi nhận và phân tích với từng
loại thuốc. Hình 3.3 thể hiện tỷ lệ số thuốc kháng mỗi loại của 5 loại thuốc kháng
lao hàng một INH, RMP, EMB, SM, PZA
Tỷ lệ số lượng thuốc bị kháng của 5 loại thuốc INH, RMP, EMB, SM, PZA
0% 2.4%
2.4%
12.8%
21.6%
, 60.8%
Nhạy tất cả các thuốc Kháng 1 thuốc
Kháng 2 thuốc
Kháng 3 thuốc
Kháng 4 thuốc
Kháng 5 thuốc
Hình 3.3: Biểu đồ tỷ lệ số thuốc kháng mỗi loại
Trong số 125 chủng vi khuẩn lao phân lập được từ bệnh nhân nghiên cứu có
60,8% chủng nhạy với tất cả các thuốc kháng lao hàng 1. Có 21,6% chủng kháng 1
loại thuốc bất kỳ; 12,8% kháng với 2 loại thuốc bất kỳ; không có chủng nào kháng
với 3 loại thuốc bất kỳ và có 2,4% kháng với 4 thuốc bất kỳ (tương đương 3/125
chủng). Đặc biệt có 3 chủng (2,4%) kháng toàn bộ 5 thuốc kháng lao hàng 1.
Bảng 3.3: Tỷ lệ kháng thuốc ở nhóm lao mới và lao tái trị
Tình trạng kháng thuốc Thể lao Xác suất
chống lao (n, %) Lao mới Lao tái trị
(n=69) (n=56)
54 (71,1%) 22 (39,3%) Nhạy tất cả thuốc χ2=20,931
p=0,000 15 (21,7%) 34 (60,7%) Kháng thuốc bất kỳ
(1 hoặc nhiều hơn)
34
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Tỷ lệ kháng với một thuốc bất kỳ giữa hai nhóm lao phổi tái trị và lao phổi
mới có sự khác biệt rõ rệt và mang ý nghĩa thống kê (p<0,05) Tỷ lệ kháng một
thuốc bất kỳ ở nhóm lao phổi tái trị (60,7%) cao hơn so với nhóm lao phổi mới
(21,7%). Và 3 chủng vi khuẩn kháng cả 5 thuốc chống lao hàng một đều thuộc
nhóm lao tái trị (2,4%). Tỷ lệ kháng thuốc chung là 39,2%.
Theo WHO (2015), Việt Nam xếp thứ 14/27 quốc gia có số lượng bệnh nhân
đa kháng nhiều nhất, chiếm 1,7% toàn cầu. Với các thuốc chống lao hàng một INH,
RIF, SM, EMB, PZA sau hơn nửa kỷ được sử dụng đã xuất hiện các chủng vi khuẩn
kháng gần hết các loại thuốc theo các mức độ khác nhau. Từ năm 1997 đến nay,
Chương trình chống lao quốc gia đã tiến hành 4 lần điều tra tỷ lệ kháng thuốc chống
lao trên toàn quốc. Năm 1996, điều tra kháng thuốc lần thứ nhất cho thấy ở bệnh nhân
lao mới tỷ lệ kháng thuốc chung là 32,5%, tỷ lệ đa kháng thuốc là 2,5%. Năm 2002
điều tra kháng thuốc lần 2, tỷ lệ đa kháng thuốc là 3% ở lao mới và 23,5% ở lao tái
trị. Năm 2005-2006 điều tra kháng thuốc toàn quốc lần 3, kháng thuốc chung là
30,9%; ở nhóm lao tái trị tỷ lệ lao kháng thuốc là 58,9%; đa kháng thuốc là 19,3% ;
kháng INH 43,5%và SM là 50,7%; và đa kháng thuốc 2,7% ở lao mới [14]. Còn theo
nghiên cứu của Hoàng Thị Phượng (2009) có 31,6% bệnh nhân kháng thuốc bất kỳ
(56/177). Như vậy tỷ lệ kháng thuốc chung của nghiên cứu là 39,2% có xu hướng cao
hơn số với tỷ lệ của toàn quốc. Điều này có thể do bệnh nhân trong nghiên cứu này là
các bệnh nhân tại 3 bệnh viện thuộc khu vực Hà Nội, nơi tập trung đông dân cư, và là
những cơ sở điều trị bệnh nhân lao kháng thuốc. Đây cũng là một dấu hiệu đáng lưu ý
trong chương trình hành động phòng chống lao quốc gia, để có biện pháp hạn chế tối
đa sự lây lan lao của bệnh lao, đặc biệt là lao kháng thuốc.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chính năm 2016 trên hồ sơ của 287 bệnh nhân
kháng thuốc tại Hà Nội được chương trình phòng chống lao quản lý, cho thấy tỷ lệ
lao kháng thuốc ở nhóm tái trị là 92,68%, ở nhóm bệnh nhân mới là 7,32% ; tỷ lệ
kháng 4 loại thuốc chung là 34%; kháng 3 loại là 10,65%; kháng 2 loại là 19,35%;
kháng 1 loại là 36% [1]. Tỷ lệ này có phần cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi
(60,7%) mặc dù đối tượng nghiên cứu cùng thuộc địa bàn Hà Nội và chúng tôi cũng
không thu nhận được chủng vi khuẩn nào có kháng đồng thời ba loại thuốc. Điều
này có thể giải thích do đối tượng của chúng tôi được nghiên cứu tiến cứu, không bị
35
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
loại bỏ các trường hợp kháng thuốc như như nghiên cứu trên hồ sơ bệnh nhân
kháng thuốc. Tỷ lệ kháng thuốc bất kỳ của 295 bệnh nhân lao phổi tái trị ở Bệnh
viện Lao và Bệnh phổi Trung ương và Bệnh viện Lao phổi thái nguyên là 82,4 %
[4]. Tỷ lệ này cũng cao hơn so với chúng tôi, có thể do đối tượng của chúng tôi
cũng đã được loại bỏ các trường hợp kháng Rifampicin bằng Genxpert MTB/RIF. Ở
bệnh nhân lao mới, so với số liệu điều tra kháng thuốc toàn quốc lần thứ 4 thì tỷ lệ
kháng thuốc chống lao bất kỳ hàng 1 là 32,7% cao hơn so với kết quả nghiên cứu
của chúng tôi (21,7%) [52]. Ngoài những lý do trong việc lựa chọn đối tượng
nghiên cứu, sự thay đổi này có thể là một dấu hiện tốt cho thấy tình trạng giảm tỷ lệ
kháng thuốc chống lao hàng một ở Việt Nam.
Ngoài ra, trong nghiên cứu này cũng chỉ ra sự khác biệt về tỷ lệ kháng thuốc
giữa nhóm lao phổi tái trị và lao phổi mới. Sự khác biệt này hoàn toàn phù hợp với
giả thuyết các nguyên nhân làm gia tăng tính kháng thuốc của vi khuẩn lao do sự
tiếp xúc với các thuốc trong lần điều trị trước. Vì vậy trong quá trình điều trị, theo
dõi những bệnh nhân lao phổi tái trị cần phải có theo dõi về tính kháng thuốc chống
lao hàng một kịp thời để có thể điều chỉnh phác đồ phù hợp.
Bảng 3.4: Kết quả kháng sinh đồ với từng thuốc chống lao hàng một
Thuốc Thể lao
Sự mẫn cảm với thuốc Xác suất P
INH
RIF
SM
EMB
PZA
Nhạy (n, %) Kháng (n, %) Nhạy (n, %) Kháng (n, %) Nhạy (n, %) Kháng (n, %) Nhạy (n, %) Kháng (n, %) Nhạy (n, %) Kháng (n, %) Lao mới (n=69) 58 (84,1%) 11 (15,9%) 68 (98,6%) 1 (1,4%) 60 (87,0%) 9 (13,0%) 68 (98,6%) 1 (1,4%) 68 (98,6%) 1 (1,4%)
Nhạy (119; 95,2 %) 68 (98,6%)
Đa kháng (RIF và INH) χ2=11,108 p=0,001 χ2=3,784 p=0,089 χ2=15,588 p=0,000 χ2=3,784 p=0,089 χ2=2,610 p=0,172 χ2=3,784 p=0,089 Kháng (6; 4,8%) 1 (1,4%) Lao tái trị (n=56) 32 (57,1%) 24 (42,9%) 51 (91,1%) 5 (8,9%) 31 (72,8%) 25 (44,6%) 51 (91,1) 5 (8,9%) 52 (92,9%) 4 (7,1%) 51(91,1%) 5 (8,9%)
36
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Có sự khác biệt rõ rệt và mang tính thống kê về tỷ lệ nhạy/kháng INH và SM
giữa hai nhóm lao phổi mới và lao phổi tái trị (p< 0.05) Tỷ lệ kháng INH ở nhóm
lao phổi tái trị là 42,9% và ở nhóm lao phổi mới là 15,9%. Tỷ lệ kháng RMP, EMB,
PZA ở hai nhóm lao phổi mới và lao phổi tái trị không có sự khác biệt (p>0.05). Tỷ
lệ kháng RMP, kháng EMB ở lao phổi mới là 1,4%; ở nhóm lao phổi tái trị là 8,9%.
Tỷ lệ kháng PZA ở lao phổi mới là 1,4%; ở nhóm lao phổi tái trị là 7,1%. Tỷ lệ đa
kháng chung trong nghiên cứu này là 4,8 % (6 trường hợp) và cũng không có sự
khác biệt rõ ở cả hai nhóm lao phổi mới (1,4%) và lao phổi tái trị (8,9%).
Điều tra kháng thuốc lần 4 của chương trình chống lao quốc gia (2011-2012),
tỷ lệ đa kháng thuốc chung là 4%, nhóm tái trị là 23,3% [16]. Và theo thống kê báo
cáo mới nhất của WHO (2018) năm 2017 tỷ lệ đa kháng thuốc ước tính tại Việt
Nam ở bệnh nhân mới là 4,1% và bệnh nhân tái phát là 17%. Như vậy, tỷ lệ đa
kháng ở nhóm lao tái trị trong nghiên cứu này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ theo điều
tra kháng thuốc toàn quốc lần thứ 4 cũng như báo cáo mới nhất của WHO (2018) và
một số nghiên cứu trong, ngoài nước khác [4]. Điều này có thể giải thích do nhóm
bệnh nhân lao phổi trong nghiên cứu này đã được loại trừ các trường hợp kháng
RIF bằng xét nghiệm GeneXpert MTB/RIF. Tuy tỷ lệ đa kháng ở nhóm lao phổi tái
trị (8,9%) cao hơn so với nhóm lao phổi mới nhưng sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05). Như vậy kể cả những bệnh nhân lao phổi mới thì vẫn có
nguy cơ cao nhiễm vỉ khuẩn lao đa kháng. Vì thế việc loại trừ nhanh lao đa kháng
bằng GeneXpert nên được triển khai rộng rãi cả ở bệnh nhân lao mới. Theo thống
kê của WHO năm 2017 mới chỉ có 32% bệnh nhân lao mới và 67% bệnh nhân lao
tái trị được thực test kháng Rifampicin
Trong 5 loại thuốc kháng lao hàng một, tỷ lệ kháng thuốc cao nhất là SM
(44,6%) và tiếp theo là INH (42,9%) trên nhóm lao phổi tái trị. Từ năm 1996-1997,
khi Việt Nam thực hiện điều tra kháng thuốc thuốc toàn quốc lần 1 thì tỷ lệ kháng
INH là 20%; kháng SM là 24%. Đến lần điều tra thứ 4 năm 2011-2012 tỷ lệ này
trên bệnh nhân tái trị là 43,5% kháng INH và 50,7% kháng SM [14]. Như vậy tỷ lệ
37
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
kháng SM và INH trên bệnh nhân tái trị của nghiên cứu thấp hơn so với điều tra
kháng thuốc gần đây và một số nghiên cứu trong nước khác (kháng SM là 79,5%,
kháng INH là 82,2% [6] nhưng lại cao hơn so với các tác giả nước ngoài [28].
Ngoài yếu tố nhạy cảm khác nhau với từng loại thuốc, tỷ lệ này còn có thể do trước
đây theo hướng dẫn của Bộ Y tế, phác đồ điều trị cho bệnh nhân, đặc biệt là bệnh
nhân tái điều trị có sử dụng SM[17]. SM là một thuốc chống lao hàng một dạng
tiêm, bệnh nhân phải đến các cơ sở y tế để thực hiện, nên trong quá trình tuân thủ có
thể không được thực hiện tốt, tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng thuốc được biểu
hiện làm tăng tính kháng thuốc trong quần thể. Trong 2 năm trở lại đây SM đã được
đưa ra khỏi các phác đồ điều trị chính, chỉ sử dụng trong các trường hợp đặc biệt.
Cùng với SM, tỷ lệ kháng INH trong nhóm lao phổi tái trị của nghiên cứu
thấp hơn so với nhiều nghiên cứu trong nước khác [4]. Đây có thể là kết quả của
những nỗ lực làm giảm tỷ lệ kháng thuốc trong chương trình chống lao quốc gia.
Nhưng tỷ lệ kháng của INH vẫn thuộc mức cao và cao hơn so với thể giới [28], và
có tỷ lệ cao hơn nhiều lần giữa nhóm lao phổi tái trị và lao phổi mới. Vì vậy cần
phải có các biện pháp giám sát chặt chẽ trong việc sử dụng điều trị INH, để đảm bảo
INH vẫn là nguồn thuốc tốt trong điều trị lao, dự phòng lao.
Trong nghiên cứu này, không phát hiện được trường hợp kháng RMP đơn
độc. Tất cả các trường hợp kháng RMP đều kháng INH (2,4%, 6/125). Một số
nghiên cứu trong nước cho thấy phần lớn (89,95%) các chủng kháng RMP thường
kháng phối hợp Isoniazid [6]. Theo Nguyễn Thị Thu Thái (2017) nghiên cứu trên
700 bệnh nhân tại 3 bệnh viện lớn trên toàn quốc cũng chỉ phát hiện 3 chủng vi
khuẩn lao đơn kháng RMP [19]. Báo cáo năm 2018 của WHO cũng cho thấy trong
số 558.000 kháng RMP thì có 82% kháng RMP kết hợp INH (đa kháng thuốc).
Trong nghiên cứu của chúng tôi 100% chủng kháng RMP kháng kết hợp Isoniazid
(chủng đa kháng MDR-TB).
125 bệnh nhân tham gia nghiên cứu đã được loại trừ kháng RMP bằng xét
nghiệm nhanh GeneXpert MTB/RF và có kết quả MTB+/RIF-. Tuy nhiên xét
38
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
nghiệm tính kháng RMP của các chủng này bằng phương pháp kháng sinh đồ tỷ lệ,
chúng tôi đã phát hiện được 6 trường hợp kháng RMP. Như vậy, theo khuyến cáo
của WHO cũng như của Bộ Y tế, GeneXpert MTB/RIF có thể được dùng để sàng
lọc chuẩn đoán nhanh tình hình kháng RMP. Nhưng trong quá trình điều trị nếu có
nghi ngờ hoặc điều kiện cho phép thì vẫn nên kiểm tra lại bằng kháng sinh đồ.
Đối với tính kháng EMB, chúng tôi không phát hiện được trường hợp kháng
EMB đơn độc. Tỷ lệ kháng EMB ở cả hai nhóm là 4,8%. Tỷ lệ kháng EMB ở nhóm
lao mới là 1,4% không có khác biệt lớn với tỷ lệ 1,1% trong điều tra kháng thuốc lần
thứ nhất năm 1996. Tuy nhiên theo Mai Văn Tuấn (2016) trên nghiên cứu 214 bệnh
nhân lao tại bệnh viện Thừa Thiên Huế tỷ lệ kháng EMB lên đến 7,9%[20]. Tính
kháng của EMB ít được quan tâm tại Việt Nam một mặt vì sự không ổn định trong
xét nghiệm kháng sinh đồ đối với EMB [58], mặt khác mọi nguồn lực được tập trung
vào lao đa kháng. Tuy nhiên, hiện nay đã có nhiều bằng chứng cho thấy tính kháng
EMB có liên quan chặt chẽ với tính đa kháng MDR-TB [58], [38]. Trong nghiên cứu
này, 6 chủng vi khuẩn kháng EMB cũng là những chủng đa kháng MDR-TB. Vì vậy,
cần phải có những thống kê, nghiên cứu về tính kháng EMB phục vụ cho giám sát,
đánh giá điều trị lao, đặc biệt là lao kháng thuốc khi EMB là 1 trong những thuốc của
phác đồ chuẩn điều trị lao đa kháng [18].
Khác với EMB, tính kháng PZA của vi khuẩn lao ít được quan tâm vì sự phức
tạp trong thực hiện xét nghiệm kháng sinh đồ truyền thống. Tại Việt Nam, gần như
không có các báo cáo về tình hình kháng PZA. Các xét nghiệm chỉ định kháng sinh
đồ cho bệnh nhân cũng như các nghiên cứu ít thực hiện với PZA vì xét nghiệm kháng
sinh đồ PZA tương đối phức tạp so với kháng sinh đồ đặc các thuốc kháng lao hàng
một khác [38]. Trong năm 2010-2011, Bệnh viện Phổi Trung ương và bệnh viện
Phạm Ngọc Thạch đã thực hiện nghiên cứu tính kháng PZA trên 1533 chủng
M.tuberculosis phân lập từ 1398 bệnh nhân lao phổi mới và 135 bệnh nhân lao phổi
tái trị. Kết quả cho thấy tỷ lệ kháng PZA là 2,2% (33/1533), trong đó tỷ lệ ở bệnh
nhân lao phổi mới là 1,8% (25/1398) và ở bệnh nhân lao tái trị là 5,9% (8/135). 100%
39
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
các chủng kháng PZA có kháng phối với hợp với các thuốc kháng lao hàng một,
trong đó 100% các chủng vi khuẩn kháng PZA phân lập từ nhóm bệnh nhân tái trị là
các chủng đa kháng; tỷ lệ này ở nhóm bệnh nhân lao phổi mới là 60% [35]. Kết qủa
này phù hợp với kết quả trong các nghiên cứu tương tự của các nhà khoa học trên thế
giới[49]. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ kháng PZA trên nhóm lao phổi mới
và lao phổi tái trị lần lượt là 1,4% và 7,1%. Tỷ lệ kháng PZA trên nhóm lao phổi tái
trị cao hơn so với nghiên cứu năm 2011. Và 100% chủng PZA ở nhóm lao phổi tái trị
cũng là chủng đa kháng. Ở nhóm lao phổi mới, trong nghiên cứu của chúng tôi không
có đối tượng đa kháng nên có sự sai khác so với nghiên cứu năm 2011. Như vậy có
thể thấy, tính kháng PZA đã có xu hướng gia tăng ở nhóm lao tái trị. PZA vẫn đang là
một trong những thuốc nền tảng trong phác đồ điều trị lao đa kháng và hiện nay
kháng sinh đồ PZA có thể được thực hiện bằng dạng kháng sinh đồ lỏng với kít
thương mại MGIT 960 PZA. Vì vậy cần phải có các biện pháp số liệu giám sát tính
kháng PZA thường xuyên hơn để kịp thời có những điều chỉnh thích hợp trong quá
trình điều trị và kế hoạch phòng chống kháng thuốc.
3.2. Tỷ lệ phân bố các kiểu gen NAT2 trên ngƣời bệnh lao và mối ảnh hƣởng
đến tính kháng thuốc Isoniazid
3.2.1. Kết quả tối ưu quy trình phân tích NAT2
Các mẫu máu thu được từ 125 bệnh nhân được tách DNA theo kit của
Omega, sản phẩm tách chiết điện di trên gel agarose 1,2%. Kết quả điện di sản
phẩm DNA tổng số từ mẫu máu của các bệnh nhân (Hình 3.3) cho thấy các sản
phẩm DNA tổng số từ mẫu máu của các bệnh nhân đều có một băng DNA rõ nét,
chất lượng DNA từ các mẫu khác nhau tương đối đồng đều và ổn định, thể hiện qua
các băng điện di có độ sáng cao tương ứng với băng 23,1 kb của thang chuẩn.
40
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
M 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
Base pair 23,130 9,416 6,557 4,361 2,322 2,027
23,1kb
Làn M1: thang chuẩn DNA λ/HindIII; Làn 1 - 16: sản phẩm DNA tổng số của mẫu
Hình 3.3: Kết quả DNA tổng số tách chiết điện di trên gel agarose 1,2%.
Kết quả đo mật độ hấp thụ quang ở 260 nm của sản phẩm DNA tổng số cho
thấy nồng độ DNA thu được dao động từ 20 - 200 ng/µL, chỉ số A260/A280 nằm
trong khoảng từ 1,6 đến 2,2. Như vậy, DNA tổng số thu được ít bị đứt gãy với một
băng duy nhất, đảm bảo tinh sạch và đủ điều kiện để tiến hành phản ứng nhân dòng tiếp theo. Chúng tôi lựa chọn Kapa2GTM Robust Hotstart Ready Mix với ưu điểm là
khả năng khuếch đại gen dù có hiện diện của một số chất ức chế PCR hoặc với các
mẫu DNA có độ tinh sạch thấp. Hình 3.4 là kết quả điện di nhân dòng gen NAT2.
Hình ảnh là một băng sáng rõ nét cho thấy phản ứng PCR đạt hiệu suất và độ đặc
Làn M: O Gene Ruler Ladder DNA marker, Làn (-): đối chứng âm
Làn M: Massruler Express Forward DNA Ladder Mix, Làn (-): đối chứng âm
hiệu cao, đảm bảo điều kiện cho phân tích giải trình tự tiếp theo.
Hình 3.4: Kết quả nhân dòng gen NAT2 của một số mẫu theo điều kiện tối ƣu
41
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Sản phẩm nhân dòng gen NAT2 từ phản ứng PCR ở trên được tinh sạch và
giải trình tự. Kết quả giải trình tự được trình bày ở hình 3.5 cho thấy các pick đại
diện cho các nucleotide có độ phân giải tốt, không bị nhiễu giúp dễ dàng phân tích
kết quả. Hình 3.5 cho thấy tất cả các kiểu gen tổ hợp của các allen kiểu dại (*4) và
các allen khác (*5, *6, *7) đều xuất hiện trong nghiên cứu này.
KG Đồng hợp kiểu dại
(NAT2*4*4) Dị hợp đa hình alen (NAT2*4*5/*4*6/*4*7 Đồng hợp đa hình alen (NAT2*5*5/*6*6/*7*7)
/*5*6/*5*7/*6*7)
NAT2 *5
TT CT CC
NAT2 *6
GG GA AA
NAT2
*7
AA GG GA
* NAT2*4 là kiểu gen không chứa các đa hình alen
Hình 3.5: Kết quả đọc kiểu gen NAT2
3.2.2. Tỷ lệ phân bố các kiểu gen NAT2 trên người bệnh lao
N-Acetyltransferase 2 đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa của nhiều
loại thuốc và các hợp chất ngoại lai. Hiện nay, thông tin về sự phân bố của các
dạng đa hình gen NAT2 đã được tiến hành nghiên cứu tại nhiều quốc gia trên thế
giới. Phần lớn các nghiên cứu xác định sự phân bố của các alen NAT2 đã được đơn
giản hóa bằng cách chỉ phân tích đối với một số vị trí đa hình làm thay đổi chức
năng NAT2 như NAT2*5, *6, *7 trong tổng số 27 đa hình đơn nucleotide được tìm
42
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
thấy ở NAT2. Đa hình trong NAT2 chịu trách nhiệm về tính đa hình N-acetyl hóa,
trên thế giới được chia thành các dạng acetyl hóa nhanh, trung bình và chậm. Sự
có mặt của bất kỳ hai đa hình alen của NAT2 xác định cho kiểu hình acetyl hóa
chậm, trong khi acetyl hóa trung bình và acetyl hoá nhanh có một hoặc hai alen
kiểu dại tương ứng [29].
Kết quả phân tích tần số alen của 125 mẫu nghiên cứu được trình bày trong
Bảng 3.5. Tần số phân bố của các alen NAT2*5, *6, *7 lần lượt là 6,4%; 31,2% và
16,0%.
Bảng 3.5: Tần số phân bố allen NAT2 ở nhóm lao mới và lao tái trị
Tần số alen Alen
NAT2 Tổng Lao mới Lao tái trị
(n=69*2) (n=125*2) (n=56*2)
116 (0,464) 73 (0,529) 43 (0,384) *4
16 (0,064) 10 (0,072) 6 (0,054) *5
78 (0,312) 38 (0,276) 40 (0,357) *6
40 (0,160) 17 (0,123) 23 (0,205) *7
Xác suất P=0,069
Tổng Lao mới Lao tái trị
116 (0,464) 73 (0,529) 43 (0,384) Alen kiểu dại
134 (0,536) 65 (0,471) 69 (0,616) Đa hình alen
Xác suất P=0,022
Tần số alen kiểu dại và tần số alen NAT2*6 chiếm tỷ lệ lớn nhất (31,2%),
NAT2*5 chiếm tỷ lệ nhỏ nhất (16%). Tỷ lệ phân bố kiểu gen của 3 alen NAT2*5,
NAT*6, NAT*7 không có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm lao phổi mới và lao phổi
tái trị (p=0,069). Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ tần số alen kiểu dại (NAT2*4) so
với tần số đa hình alen (gồm NAT2*5, *6, *7) thì sự phân bố alen giữa nhóm lao
43
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
phổi mới và lao phổi tái trị sai khác có ý nghĩa (p=0,022). Trong đó đa hình alen
cao trong nhóm lao phổi tái trị (61,6%) cao hơn so với nhóm lao phổi mới
(47,1%). Sự kết hợp các alen này tạo thành 10 kiểu gen khác nhau với tần số phân
bố kiểu gen được trình bày trong bảng 3.6.
Bảng 3.6: Tần số phân bố kiểu gen NAT2 ở nhóm lao mới và lao tái trị
Gen Tần số kiểu gen
NAT2 Tổng Lao mới Lao tái trị
(n=125) (n=69) (n=56)
34 (27,2%) 25 (36,2%) 9 (16,1%) *4*4
7 (5,6%) 5 (7,2%) 2 (3,6%) *4*5
28 (22,4%) 12 (17,4%) 16 (28,6%) *4*6
13 (10,4%) 6 (8,7%) 7 (12,5%) *4*7
1 (1,4%) 0 (0%) 1 (0,8%) *5*5
15 (12%) 8 (11,6%) 7 (12,5%) *6*6
5 (4,0%) 1 (1,4%) 4 (7,1%) *7*7
2 (2,9%) 3 (5,4%) 5 (4,0%) *5*6
2 (1,6%) 1 (1,4%) 1 (1,8%) *5*7
15 (12,0%) 8 (11,6%) 7 (12,5%) *6*7
Xác suất P=0,206
Tần số phân bố của tổ hợp 10 kiểu gen giữa nhóm lao mới và lao tái trị
không có sai khác (p=0,206). Tỷ lệ kiểu gen đồng hợp tử kiểu dại chiếm tỷ lệ lớn
nhất, tiếp đến là các alen trong tổ hợp của alen *4 và alen *6. Tần số phân bố alen
và tỷ lệ kiểu gen NAT2 cũng được nghiên cứu tại nhiều quần thể người trên thế giới.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở người da trắng gốc Âu, người Ai Cập, người Ấn
Độ, người Oman, người Maroc thì tần số alen NAT2*5 chiếm tỷ lệ lớn, alen *4, *6
và *7 chiếm tỷ lệ nhỏ [33] . Ví dụ, ở quần thể người Maroc trong nghiên cứu của
Guaoua và cộng sự (2014), tần số phân bố alen *5 chiếm tới 53% và các tổ hợp kiểu
gen của *5 như *5*5, *4*5, *5*6 chiếm gần 70%, điều này hoàn toàn khác biệt với
tỷ lệ phân bố alen và kiểu gen NAT2 ở quần thể bệnh nhân Việt Nam trong nghiên
44
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
cứu này. Nghiên cứu của Toure và cộng sự (2016) trên quần thể bệnh nhân lao
người Senegan (châu Phi) cho thấy xuất hiện các đa hình *4, *5, *6, *7, *12, *14
trong đó tần số phân bố alen *5, *6 chiếm tỷ lệ cao nhất (26,6%) [22]. Các nghiên
cứu trên quần thể người gốc Á như Hàn Quốc, Nhật Bản cho thấy tỷ lệ *5 rất ít, *6,
*7 nhiều hơn. Tuy nhiên, ở người Nhật Bản chủ yếu là *6, *7 chiếm tỷ lệ rất thấp,
còn ở người Hàn Quốc tỷ lệ alen của cả *6 và *7 đều tương đồng với kết quả của
chúng tôi.
Dựa vào kiểu gen, người ta phân loại kiểu hình chuyển hóa gồm kiểu hình
acetyl hóa nhanh (*4*4), kiểu hình acetyl hóa trung bình (*4*5, *4*6, *4*7) và kiểu
acetyl hóa chậm (*5*5, *6*6, *7*7, *5*6, *5*7, *6*7). Trong nghiên cứu của
chúng tôi kiểu hình acetyl hóa trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm mẫu
nghiên cứu (38,4%), sau đó là đến kiểu hình acetyl hóa chậm (34,4%). Tỷ lệ kiểu
hình acetyl hóa nhanh chiểm tỷ lệ thấp nhất là 27,4 % (xem Bảng 3.7).
Bảng 3.7: Mối liên quan giữa kiểu hình chuyển hóa với thể lao
Kiểu hình acetyl hóa Thể lao Tổng
của NAT2 Lao mới Lao tái trị
(n=69) (n=56)
25 (36,2%) Nhanh 9 (16,1%) 34 (27,2%)
23 (33,3%) Trung bình 25 (44,6%) 48 (38,4%)
21 (30,4%) Chậm 22 (39,3%) 43 (34,4%)
Xác suất χ2=6,353; p=0,042
Tiến hành phân tích so sánh tỷ lệ kiểu hình acetyl hóa của NAT2 trên hai
nhóm bệnh nhân lao mới và lao tái trị thấy có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê
(p=0,042). Ở nhóm lao phổi mới có sự phân bố đồng đều giữa các loại kiểu hình:
kiểu hình acetyl hóa nhanh (36,2%), acetyl hóa trung bình (33,3%), acety hóa chậm
(30,4%). Ở nhóm lao phổi tái trị kiểu hình acetyl hóa nhanh chiếm tỷ lệ nhỏ
(16,1%) và hai kiểu hình còn lại có sự phân bố tương đương không khác biệt lớn.
45
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
Các nghiên cứu trên thế giới về tỷ lệ kiểu hình chuyển hóa acetyl của NAT2 ở các
quần thể người khác nhau được tổng kết ở bảng 3.8.
Bảng 3.8: Tần số kiểu hình acetyl hóa NAT2 ở các vùng trên thế giới
Khu vực Số lƣợng đối Kiểu hình acetyl hóa NAT2
tƣợng nghiên Chậm Trung Nhanh
cứu (n) bình
Người Châu Âu (da trắng) 5382 0,34 0,58 0,08
Châu Phi 1034 0,40 0,46 0,14
Châu Á 1790 0,37 0,45 0,18
Trung và Nam Mỹ 824 0,52 0,27 0,21
Đông Bắc Á (Trung Quốc, 2062 0,46 0,14 0,40
Hàn Quốc, Nhật Bản)
Ta thấy tỷ lệ kiểu hình acetyl hóa NAT2 ở quần thể người Châu Âu, Châu
Phi và châu Á nói chung là tương đồng nhau [25, 47] [62] Ở các quần thể này, chủ
yếu là các kiểu hình chuyển hóa Isoniazid chậm và trung bình, kiểu hình chuyển
hóa nhanh chiếm tỷ lệ dưới 20%. Quần thể người Châu Mỹ thì kiểu hình chuyển
hóa trung bình chiếm đa số, tỷ lệ kiểu hình chuyển hóa nhanh và chậm tương
đương nhau. Ngược lại, ở quần thể người khu vực Bắc Á, tỷ lệ kiểu hình chuyển
hóa nhanh và trung bình chiếm trên 80%, số ít có kiểu hình chuyển hóa chậm [33],
[22] . Một nghiên cứu trên bệnh nhân người Thái Lan kháng thuốc chống lao kèm
tổn thương gan cho thấy 71,7% có kiểu hình chuyển hóa chậm, 22,6% có kiểu
hình chuyển hóa trung bình và 5,7% có kiểu hình chuyển hóa nhanh, trong khi đó,
kiểu hình chuyển hóa NAT2 chậm, trung bình, nhanh ở nhóm chứng kháng thuốc
không tổn thương gan lần lượt là 22,4%; 62,4% và 15,3% [63]. Tương tự như
nghiên cứu của Thái Lan, tỷ lệ kiểu hình acetyl hóa ở quần thể bệnh nhân lao
người Việt Nam trong nghiên cứu này chủ yếu là kiểu hình chuyển hóa trung bình
46
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
và chậm (>70%), dưới 30% có tỷ lệ kiểu hình chuyển hóa nhanh. Ở nhóm lao mới,
có sự phân bố đồng đều giữa các kiểu hình acetyl hóa NAT2, nhưng ở nhóm lao tái
trị, tỷ lệ kiểu hình acetyl hóa nhanh thấp hơn hẳn hai nhóm còn lại (16%) và tương
tự như phân bố ở người châu Á nói chung và thấp hơn so với quần thể khu vực
Bắc Á (40%). Đánh giá lâm sàng trên một nghiên cứu tại Ma rốc (2014) trên 163
người dân, Guaoua và cộng sự chỉ ra kiểu phổ biến nhất của gen NAT2 trên quần
thể người Ma rốc là mã hóa kiểu hình acetyl hóa chậm (72,39%) và có nguy cơ
cao khi sử dụng các thuốc điều trị lao [33]. Nền tảng di truyền này cho rằng các
thông tin này nên được đưa vào trong việc xác định liều tối thiểu của INH cần
thiết để điều trị bệnh nhân lao Ma rốc, để giảm tác dụng phụ[33]. Một vài nghiên
cứu khảo sát tính đa dạng của kiểu gen NAT2 giữa các quần thể và dân tộc khác
nhau cho thấy kiểu gen NAT2 đã được thay đổi đáng kể trong quá trình chuyển đổi
từ lối sống thợ săn/du mục sang lối sống nông nghiệp/chăn nuôi, dẫn đến thay đổi
chế độ ăn uống và do đó thay đổi chuyển hóa với các loại xenobiotics khác nhau
[22], [31]. Ví dụ, kiểu hình acetyl hóa chậm thường gặp ở các dân tộc Tajik và tần
suất cao của kiểu hình acetyl hóa nhanh hoặc trung gian được quan sát thấy ở các
quần thể người thợ săn ở Tây Nam Phi ( Kung San, Bakola Pygmy, quần thể
Biaka Pygmy) [37]. Tương tự ở Ấn Độ kiểu hình acetyl hóa chậm (dựa trên kiểu
gen) chiếm tỷ lệ cao hơn acetyl hóa nhanh ở những vùng mà chế độ ăn chay chiếm
ưu thế. [51] Điều này được làm rõ hơn bởi các nghiên cứu trên các cộng đồng
khác nhau cho thấy điểm khác biệt, ví dụ NAT2*7 có SNP G857A (K268R)
thường xảy ra ở Nam Ấn Độ và Hàn Quốc nhiều hơn các quần thể khác trong khi
NAT2*5 chứa SNP T341C (I114T) ít gặp ở Hàn Quốc hơn ở châu Âu, Bắc Mỹ, Ấn
Độ và Châu Phi. [66]
3.2.3. Mối liên quan giữa đa hình kiểu gen NAT2 và tình hình kháng INH
Có thể thấy, ở nhóm lao phổi tái trị, tỷ lệ kiểu hình acetyl hóa nhanh giảm ở
mức đáng kể so sới nhóm lao phổi mới. Điều này có thể đặt ra giả thuyết liệu kiểu
hình acetyl hóa nhanh có phải là một trong những yếu tố gia tăng sự thành công
trong điều trị lao? Xét tỷ lệ phân bố kiểu hình acetyl hóa của quần thể bệnh nhân lao
47
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
trên hai nhóm kháng và nhạy INH trong nghiên cứu chúng tôi cũng không thấy có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả được trình bày trong bảng 3.9.
Bảng 3.9: Mối liên quan kiểu hình chuyển hóa với tính kháng INH
ở nhóm lao mới và lao tái trị
Kiểu hình Thể lao
acetyl hóa Lao mới Lao tái trị
của NAT2 (n=69) (n=56)
Nhạy INH Kháng INH Nhạy INH Kháng INH
23 (39,7%) 2 (18,2%) 5 (15,6%) 4 (16,7%) Nhanh
16 (27,6%) 7 (63,6%) 15 (46,9%) 10 (41,7%) Trung bình
19 (32,8%) 2 (18,2%) 12 (37,5%) 10 (41,7%) Chậm
Xác suất χ2=5,427; p=0,089 χ2=0,153; p=0,936
Ở nhóm vi khuẩn kháng Isoniazid, kiểu hình acetyl hoá trung bình chiếm cao
nhất (48,6%) và thấp nhất là nhóm kiểu hình acetyl hóa nhanh (17,1%). Kiểu hình
acetyl hóa ở nhóm vi kháng nhạy Isoniazid có sự phân bố đồng đều giữa ba kiểu
hình. Trong khi đó ở nhóm vi khuẩn kháng Isoniazid sự phân này tập trung cao nhất
ở nhóm có kiểu hình acetyl hoá trung bình (48,6%) và thấp nhất ở nhóm có kiểu
hình acetyl hóa chậm. Trong nhóm lao mới, kiểu hình acetyl hóa nhanh có tỷ lệ
nhạy INH (39,7%) cao hơn nhiều so với nhóm kháng INH (18,2%); kiểu hình acetyl
hóa trung bình có tỷ lệ kháng INH (63,6%) cao hơn so với nhóm nhạy INH
(27,6%). Trong nhóm lao mới gần như không có sự khác biệt đáng kể giữa các kiểu
hình acetyl hóa về tỷ lệ kháng/nhạy INH. Như vậy có thể nói tính kháng INH không
có mối liên quan rõ ràng với tần số phân bố kiểu hình acety hóa nhưng có xu hướng
gia tăng tính kháng INH trong nhóm kiểu hình acetyl hóa trung bình và giảm tính
kháng trong nhóm kiểu hình acetyl hóa nhanh với những bệnh nhân mới mắc lao
phổi. Nghiên cứu trên 144 bệnh nhân lao của Sotsuka và cộng sự (2011) cho thấy
kiểu hình chuyển hóa có liên quan tới nồng độ thuốc INH trong huyết thanh bệnh
nhân. Trong nghiên cứu của Sotsuka (2011), nồng độ INH trung bình sau 2 giờ
48
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
uống thuốc cao nhất trong nhóm bệnh nhân kiểu hình acetyl hoá chậm; nồng độ
INH trong nhóm bệnh nhân chuyển hóa nhanh và trung bình thấp hơn 50% và 32%
so với nhóm bệnh nhân chuyển hóa chậm. Tỷ lệ AcINH/INH (chỉ thị của công suất
acetyl hóa) là 2,21 ± 0,95 ở nhóm acetyl hóa nhanh và cao nhất trong ba nhóm. Tỷ
lệ nhiễm độc gan cao nhất ở bệnh nhân với kiểu hình acetyl hóa chậm và thấp nhất
ở những người có kiểu hình acetyl hoá nhanh [65]. Nghiên cứu ở 129 bệnh nhân lao
tại Nhật Bản (2008) cho thấy kiểu hình acetyl hóa nhanh chiếm 46,5%, acetyl hóa
chậm là 9,3%, acetyl hóa trung gian 44,2%. Đồng thời nghiên cứu này còn cho thấy
có sự khác biệt rõ rệt về nồng độ INH tại thời điểm 2 giờ giữa các nhóm bệnh nhân
có kiểu hình acetyl hóa nhanh, acetyl hóa chậm và trung bình [42]. Các nghiên cứu
khác cũng cho thấy có mối liên quan tương tự. Kết quả của tôi nằm trong dữ liệu
tổng thể của một đề tài cấp nhà nước, chúng tôi có đánh giá mối tương quan giữa
nồng độ thuốc với kiểu hình chuyển hóa INH của NAT2. Tuy nhiên, trong khuôn
khổ luận văn này này tôi chỉ dừng lại báo cáo ở bước đầu khảo sát mối tương quan
giữa kiểu hình acetyl hóa NAT2 với dữ liệu nhạy và kháng Isoniazid của vi khuẩn
lao và hiện chưa thấy mối liên hệ rõ rệt (p=0,089).
Tóm lại, kết quả của luận văn này đã đánh giá được về tính kháng thuốc
chống lao hàng một của vi khuẩn lao phân lập và nuôi cấy từ mẫu đờm của bệnh
nhân được chẩn đoán lao phổi. Đồng thời, luận văn cũng đánh giá được tần số phân
bố kiểu gen NAT2 trên quần thể bệnh nhân lao mới và lao tái trị. Bên cạnh đó, luận
văn cũng xác định mối tương quan với tỷ lệ kháng INH của vi khuẩn lao.
49
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
KẾT LUẬN
Từ những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đi đến
các kết luận sau:
1. Tính kháng thuốc của vi khuẩn lao với các thuốc chống lao hàng một trên
bệnh nhân lao phổi:
+ Tỷ lệ kháng thuốc chung đối với các thuốc chống lao hàng một là tương
đối cao 39,2%. Tỷ lệ kháng Streptomycin và Isoniazid chiếm tỷ lệ cao đặc biệt ở
nhóm lao phổi tái trị. Lao đa kháng xuất hiện ở bệnh nhân lao phổi mới và lao phổi
tái trị.
+ Xuất hiện chủng vi khuẩn kháng toàn bộ thuốc chống lao hàng một với tỷ
lệ 2,4%.
2. Đa hình di truyền gen NAT2 và mối liên quan tới tính kháng Isoniazid của vi
khuẩn lao trên bệnh nhân lao phổi
2.1. Đa hình di truyền gen NAT2: có sự đa hình di truyền gen NAT2 trong
quần thể nghiên cứu
+ Có sự khác biệt về tần số các alen trong giữa các nhóm bệnh nhân lao phổi
tái trị và lao phổi mới, trong đó tần số alen (NAT*5, *6, *7) ở nhóm lao phổi tái trị
cao hơn so với nhóm lao phổi mới.
2.2. Mối liên quan tới tính kháng Isoniazid
+ Ở bệnh nhân lao phổi mắc vi khuẩn lao nhạy INH có sự phân bố đồng đều
giữa ba loại kiểu hình acetyl hoá. Ở nhóm bệnh nhân lao phổi mắc vi khuẩn lao
kháng Isoniazid, kiểu hình acetyl hoá trung bình chiếm cao nhất (48,6%) và thấp
nhất là nhóm kiểu hình acetyl hóa nhanh (17,1%).
+ Không có mối liên quan rõ ràng giữa tần số tính kháng INH và tần số phân
bố kiểu hình acetyl hóa. Kiểu hình acetyl hóa không phải là yếu tố nguy cơ cho việc
mắc lao bởi các vi khuẩn kháng INH.
50
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Thu Hà
KIẾN NGHỊ
1. Vi khuẩn lao phân lập ở những bệnh nhân có tiền sử điều trị thuốc chống lao có
tính kháng thuốc cao vì vậy việc xác định tính kháng thuốc cho những bệnh nhân
lao tái trị là rất cần thiết.
2. Những kết quả nghiên cứu về gen NAT2 của chúng tôi là một bước đệm quan
trong để tiến hành đánh giá dược động học Isoniazid ở bệnh nhân lao nhằm đưa ra
phác đồ điều trị hợp lý cho từng cá nhân, giảm tải tất cả các vấn đề trong điều trị lao
để hướng tới mục tiêu thanh toán bệnh lao vào sau năm 2030.
51
Khoá 2016-2018
Khoa Sinh học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Văn Chính (2016), Thực trạng phát hiện - chẩn đoán - điều trị và
quản lý bệnh nhân lao đa kháng thuốc thuộc chương trình chống lao Hà Nội
giai đoạn 2011-2014, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Y tế Công Cộng, Hà Nội.
2. Viện dinh dưỡng (2006), Kết quả điều tra thừa cân - béo phì và một số yếu
tố liên quan ở người Việt Nam 25-64 tuổi, truy cập ngày 27/5-2017, tại trang
web http://viendinhduong.vn/vi/dinh-duong-nguoi-lon/ket-qua-dieu-tra-thua-
can---beo-phi-va-mot-so-yeu-to-lien-quan-o-nguoi-viet-nam-25--64-
tuoi.html.
3. Bộ Y tế - Chương trình Chống lao Quốc gia (2007), Kết quả nghiên cứu tỷ lệ
nhiễm lao và mắc lao ở Việt Nam, Đinh Ngọc Sỹ, chủ biên.
4. Hoàng Hà (2009), Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, sinh
học của vi khuẩn ở bệnh nhân lao phổi điều trị lại, Luận án Tiến sỹ Y học,
Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
5. Nguyễn Thu Hà (2012), Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng, đột biến gen
rpoB, katG và inhA của vi khuẩn trong lao phổi tái phát, Luận án Tiến sỹ Y
học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
6. Nguyễn Thu Hà, Trần Văn Sáng và Đinh Ngọc Sỹ (2011), "Lâm sàng, cận
lâm sàng và tính kháng thuốc của vi khuẩn lao ở bệnh nhân lao phổi tái
phát", JFran Viet Pneu. 2(3), tr. 63-67.
7. Lê Thị Kim Hoa (2009), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của
lao phổi có vi khuẩn kháng đa thuốc, Luận văn chuyên khoa II, Đại học Y
Hà Nội, Hà Nội.
8. Lê Ngọc Hưng (2008), "Nghiên cứu kháng thuốc của lao phổi tái phát", Tạp
chí Dược học. 1, tr. 18-20.
9. Chu Thị Mão và Hoàng Hà (2007), "Đặc điểm lâm sàng, Xquang và tính chất
vi khuẩn kháng thuốc ở bệnh nhân lao phổi mới AFB(+) tại Thái Nguyên",
Tạp chí Thông tin Y Dược, tr. 153-158.
10. Nguyễn Viết Nhung (2016), Cẩm nang hướng dẫn sử dụng thuốc điều trị
lao, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội.
11. Trường Đại học Y Hà Nội-Bộ môn Lao và Bệnh phổi (2014), Bệnh học Lao,
Trần Văn Sáng và Lê Ngọc Hưng, ed, Nhà Xuất bản Y học Hà Nội,.
12. Nguyễn Tuyết Phong (2008), Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và tình hình
chẩn đoán lao phổi tại bệnh viện lao phổi Hà Giang, Luận văn Thạc sỹ, Học
viện Quân Y, Hà Nội.
13. Hoàng Thị Phượng (2009), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng,
tính kháng thuốc của vi khuẩn ở bệnh nhân lao phổi mới kết hợp bệnh đái
tháo đường, Luận văn Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
14. Đinh Ngọc Sỹ (2011), "Chiến lược quản lý bệnh lao đa kháng thuốc tại Việt
Nam", Tạp chí khoa học Hội Phổi Pháp - Việt. 2(3), tr. 40-42.
15. Bộ Y tế (2009), Vi khuẩn Y học, Lê Văn Phủng, ed, Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam Hà Nội.
16. Bộ Y tế (2014), Báo cáo tổng kết hoạt động chương trình chống lao 2013 và
phương hướng hoạt động năm 2014, Chương trình chống lao Quốc Gia, chủ
biên.
17. Bộ Y tế (2015), Hướng dẫn chuẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh lao, Cục
Quản lý Khám chữa bệnh, chủ biên, Hà Nội.
18. Bộ Y tế (2018), Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh lao, Cục
Quản lý Khám chữa bệnh, chủ biên, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Thu Thái (2017), Nghiên cứu đặc điểm phân tử gen rpoB, katG
của vi khuẩn lao kháng đa thuốc, Luận án Tiến Sỹ Y học, Học viện Quân Y.
20. Mai Văn Tuấn (2016), Sự đột biến kháng Rifampicin và Isoniazid của
Mycobacterium Tuberculosis phân lập tại bệnh viện Trung ương Huế, Luận
án Tiến sỹ Y học, Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh.
TIẾNG ANH
21. Kruuner A và các cộng sự. (2002), "Use of molecular techniques to
distinguish between treatment failure and exogenous reinfection with
Mycobacterium tuberculosis", Clin Infect Dis. 35(2), tr. 146-55.
22. Toure A và các cộng sự. (2016), "Prevention of isoniazid toxicity by NAT2
genotyping in Senegalese tuberculosis patients", Toxicology reports. 3(826-
831).
23. Tverdal A (1986), "Body mass index and incidence of tuberculosis", Eur J
Respir Dis. 69(5), tr. 355-62.
24. David B và các cộng sự. (2016), "Serial image analysis of Mycobacterium
tuberculosis colony growth reveals a persistent subpopulation in sputum
during treatment of pulmonary TB", Tuberculosis (Edinb). 98, tr. 110-115.
25. Chen C và các cộng sự. (2001), "N-Acetyltransferase 2 polymorphisms,
cigarette smoking and alcohol consumption, and oral squamous cell cancer
risk", Carcinogenesi. 22(12), tr. 1993-1999.
26. Horton K. C và các cộng sự. (2016), "Sex Differences in Tuberculosis
Burden and Notifications in Low- and Middle-Income Countries: A
Systematic Review and Meta-analysis", PLoS Med. 13(9), tr. e1002119.
27. Pheiffer C và các cộng sự. (2008), "Time to detection of Mycobacterium
tuberculosis in BACTEC systems as a viable alternative to colony counting",
Int J Tuberc Lung Dis. 12(7), tr. 792-8.
28. Tu D, Zhang L và Su J (2000), "Resistance and efficacy of treatment in
relapse pulmonary tuberculosis", Zhonghua Jie He He Hu Xi Za Zhi. 23(11),
tr. 666-8.
29. Hein DW và các cộng sự. (2000), "Molecular genetics and epidemiology of
the NAT1 and NAT2 acetylation polymorphisms", Cancer Epidemiol
Biomarkers Prev. 9(1), tr. 29-42.
30. Podgorna E và các cộng sự. (2015), "Variation in NAT2 acetylation
phenotypes is associated with differences in food-producing subsistence
modes and ecoregions in Africa", BMC Evolutionary Biology. 15, tr. 263.
31. Luca F và các cộng sự. (2008), "Multiple advantageous amino acid variants
in the NAT2 gene in human populations", PLoS One. 3(9), tr. 3136.
32. Windmill K. F và các cộng sự. (2000), "Localization of N-acetyltransferases
NAT1 and NAT2 in human tissues", Toxicol Sci. 54(1), tr. 19-29.
33. Soukaina G và các cộng sự. (2014), "Distribution of allelic and genotypic
frequencies of NAT2 and CYP2E1 variants in Moroccan population", BMC
Genet. 15, tr. 156.
34. Gupta V. H và các cộng sự. (2013), "Association of GST null genotypes with
anti-tuberculosis drug induced hepatotoxicity in Western Indian population",
Ann Hepatol. 12(6), tr. 959-65.
35. Pham Thu Hang và các cộng sự. (2011), Pyrazinamide resistance of
Mycobacterium tuberculosis in Viet Nam in 2011, National Lung Hospital,
Viet Nam.
36. Cho HJ và các cộng sự. (2007), "Genetic polymorphisms of NAT2 and
CYP2E1 associated with anti tuberculosis drug-induced hepatotoxicity in
Korean patients with pulmonary tuberculosis", Tuberculosis (Edinb) 87(6),
tr. 551-556.
37. Mortensen HM và các cộng sự. (2011), "Characterization of genetic variation
and natural selection at the arylamine N-acetyltransferase genes in global
human populations", Pharmacogenomics. 12(11), tr. 1545-1558.
38. K G P Hoek và các cộng sự. (2009), "Resistance to pyrazinamide and
ethambutol compromises MDR/XDR-TB treatment", South African Medical
Journal. 99(11).
39. Kim S. J và các cộng sự. (2018), "Association of body mass index with
incident tuberculosis in Korea", PLoS One. 13(4), tr. e0195104.
40. Klein D. J và các cộng sự. (2016), "PharmGKB summary: isoniazid pathway,
pharmacokinetics", Pharmacogenet Genomics. 26(9), tr. 436-44.
41. Cegielski JP, Arab L và Cornoni-Huntley J (2012), "Nutritional risk factors
for tuberculosis among adults in the United States, 1971-1992", Am J
Epidemiol. 176(5), tr. 409-22.
42. Fukino K và các cộng sự. (2008), "Effects of N-acetyltransferase 2 (NAT2),
CYP2E1 and Glutathione-S-transferase (GST) genotypes on the serum
concentrations of isoniazid and metabolites in tuberculosis Patients", The
Journal of Toxicological Sciences. 33(22), tr. 187-195.
43. Van Doorn Hr D.H.P. Kremer K, Vandenbroucke-Grauls Cm, Borgdorff
Mw, Van Soolingen D (2006), "Public health impact of Isoniazid-resistant
Mycobacterium tuberculosis strains with mutation at amino-acid position
315 of katG:a decade of experience in The Netherlands", Clin Microbiol
Infect. 12, tr. 769-775.
44. Stanley L (2008), "Update on the pharmacogenetics of NATs: structural
considerations", Pharmacogenomics. 9(11), tr. 1673-1693.
45. Teixeira R. L và các cộng sự. (2011), "Genetic polymorphisms of NAT2,
CYP2E1 and GST enzymes and the occurrence of antituberculosis drug-
induced hepatitis in Brazilian TB patients", Mem Inst Oswaldo Cruz. 106(6),
tr. 716-24.
46. Dinh Doan Long và các cộng sự. (2011), "Variability in the frequency of
Single nucleotide polymorphisms of N-acetyl transferase (NAT2) gene in
Vietnamese", VNU Journal of Science. 27, tr. 245-250.
47. Majumder M và các cộng sự. (2007), "Polymorphisms at XPD and XRCC1
DNA repair loci and increased risk of oral leukoplakia and cancer among
NAT2 slow acetylators", International Journal of Cancer. 120(10), tr. 2148-
2156.
48. Moller M và Hoal E. G (2010), "Current findings, challenges and novel
approaches in human genetic susceptibility to tuberculosis", Tuberculosis
(Edinb). 90(2), tr. 71-83.
49. Mphahlele M và các cộng sự. (2008), "Pyrazinamide resistance among South
African multidrug resistant Mycobacterium tuberculosis isolates", J Clin
Microbiol. 46(10), tr. 3459-3464.
50. Ohno M và các cộng sự. (2000), "Slow N-acetyltransferase 2 genotype
affects the incidence of isoniazid and rifampicin induced hepatotoxicity", Int
J Tuberc Lung Dis. 4(3), tr. 256-261.
51. Khan N, Pande V và Das A (2013), "NAT2 sequence polymorphisms and
acetylation profiles in Indians ", Pharmacogenomics. 14(3), tr. 289-303.
52. N.V.Nhung và các cộng sự. (2015), "The fouth national anti-tuberculosis
drug resistance survey in Viet Nam", Int.J.Tubere.Lung Dis. 19(6), tr. 670-
675.
53. World Health Organization (2004), Anti-tuberculosis drug resistance in the
world 1999-2002, The WHO/IUATLD Global Project on Anti-tuberculosis -
Drug Resistance Surveillance, chủ biên, Third Global Report, Geneva.
54. Wang P và các cộng sự. (2016), "Isoniazid metabolism and hepatotoxicity",
Acta Pharm Sin B. 6(5), tr. 384-392.
55. American Society of Health - System Pharmacists (2018), AHFS Drug
information 2018, AHFS.
56. Ensembl Project (1999), truy cập ngày-2018, tại trang web
http://asia.ensembl.org/Homo_sapiens/Variation/Population?db=core;r=8:18
399844-18400844;v=rs1801280;vdb=variation;vf=1243314.
57. Wang Py và các cộng sự. (2012), "NAT2 polymorphisms and susceptibility
to anti-tuberculosis drug-induced liver injury: meta-analysis", Int J Tuberc
Lung Dis. 16(5), tr. 589-595.
58. Johnson R và các cộng sự. (2006), "Ethambutol resistance testing by
mutation detection", Int J Tuberc Lung Dis 10(1), tr. 68-73.
59. Mitchell J. R và các cộng sự. (1976), "Isoniazid liver injury: clinical
spectrum, pathology, and probable pathogenesis", Ann Intern Med. 84(2), tr.
181-92.
60. Agarwal S, Edward J B và Daniel C (2010), "M.Tuberculosis on Lowenstein
Jensen", Biology Image Library.
61. Huang Y. S và các cộng sự. (2003), "Cytochrome P450 2E1 genotype and
the susceptibility to antituberculosis drug-induced hepatitis", Hepatology.
37(4), tr. 924-30.
62. Morita S và các cộng sự. (1999), "Genetic polymorphisms of drug-
metabolizing enzymes and susceptibility to head-and-neck squamous-cell
carcinoma", Int J Cancer. 80(5), tr. 685-688.
63. Wattanapokayakit S và các cộng sự. (2016), "NAT2 slow acetylator
associated with anti-tuberculosis drug induced liver injury in Thai patients",
Int J Tuberc Lung Dis. 20(10), tr. 1364-1369.
64. Jagielski T và các cộng sự. (2016), "Methodological and Clinical Aspects of
the Molecular Epidemiology of Mycobacterium tuberculosis and Other
Mycobacteria", Clin Microbiol Rev. 29(2), tr. 239-90.
65. Sotsuka T và các cộng sự. (2011), "Association of isoniazid-metabolizing
enzyme genotypes and isoniazid-induced hepatotoxicity in tuberculosis
patients", In Vivo. 25(5), tr. 803-812.
66. Hein D. W (2006), "N-acetyltransferase 2 genetic polymorphism: effects of
carcinogen and haplotype on urinary bladder cancer risk", Oncogene. 25(11),
tr. 1649-1658.
67. WHO (2018), Global Tuberculossi report.
DANH SÁCH BỆNH NHÂN THAM GIA NGHIÊN CỨU Thời gian từ 3/2017 - 6/2018
STT Mã nghiên cứu Tuổi Giới tính Bệnh viện
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 HM01 HM02 HM03 HM04 HM05 HM06 HM07 HM09 HM11 HM13 HM14 HM16 HM17 HM18 HM19 HM21 HM22 HM23 HM24 HM26 HM27 HM28 HM29 HM30 HM31 HM32 HM33 HM34 HM35 HM36 HM39 HM40 HT01 HT02 HT03 HT04 HT05 HT06 HT07 HT08 HT09 22 23 48 49 41 60 59 21 58 58 33 60 25 22 34 28 16 24 41 36 62 46 69 71 32 64 26 28 49 63 53 40 61 51 70 53 35 60 30 45 57 Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nữ Nữ Nữ Nữ Nữ Nam Nữ Nữ Nữ Nữ Nữ Nam Nữ Nữ Nữ Nam Nữ Nam Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội
45 45 54 53 40 45 31 48 40 52 48 55 43 46 56 58 43 40 42 49 28 63 60 49 57 32 55 58 57 54 33 30 47 33 45 29 64 28 39 22 24 24 46 20 45 39 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 HT10 HT11 HT12 HT13 HT14 HT15 HT16 HT17 HT19 HT20 HT21 HT22 HT24 HT25 HT26 HT27 HT28 HT29 HT30 HT31 HT32 HT33 HT34 HT35 HT36 KM01 KM02 KM03 KM05 KM06 KM08 KM09 KM10 KM11 KM12 KM13 KM14 KM15 KM16 KM17 KM18 KM19 KM22 KM23 KM24 KM25 Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nữ Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nam Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện Phổi Hà Nội Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương
88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 KM26 KM27 KM29 KM30 KM31 KM32 KM34 KT01 KT02 KT03 KT06 KT07 KT08 KT09 KT10 KT11 KT12 KT13 KT14 KT15 KT16 KT18 KT20 WM01 WM02 WM03 WM04 WM05 WM06 WM07 WM08 WM09 WM10 WT01 WT02 WT03 WT04 WT05 44 48 24 42 35 21 46 46 82 46 46 71 39 24 80 41 70 61 44 47 45 56 57 59 16 38 55 40 36 38 36 26 69 23 35 27 76 43 Nam Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nữ Nam Nam Nam Nam Nữ Nam Nam Nữ Nữ Nam Nam Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện 74 Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương Bệnh viện Phổi Trung ương