TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
HOÀNG THỊ HUYỀN
SỰ ẢNH HƢỞNG
CỦA TƢ TƢỞNG NHO GIÁO
TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI, 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
HOÀNG THỊ HUYỀN
SỰ ẢNH HƢỞNG
CỦA TƢ TƢỞNG NHO GIÁO
TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TÍNH
HÀ NỘI, 2018
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng
và biết ơn chân thành, sâu sắc nhất của mình tới TS. Nguyễn Thị Tính -
ngƣời đã tận tình chỉ bảo hƣớng dẫn tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam,
Khoa Ngữ văn đã quan tâm, động viên khích lệ, nhiệt tình giảng dạy; cảm ơn
Ban Chủ nhiệm khoa và Ban Giám hiệu nhà trƣờng đã tạo điều kiện giúp đỡ
tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn sâu sắc đến ngƣời thân, gia đình đã giúp đỡ, động viên
tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 05năm 2018
Tác giả khóa luận
Hoàng Thị Huyền
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tính. Khóa luận với đề tài Sự ảnh hưởng
của tư tưởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập chƣa từng đƣợc
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Nếu có gì sai phạm,
ngƣời viết sẽ chịu mọi hình thức kỷ luật theo đúng quy định của việc nghiên
cứu khoa học.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Tác giả khóa luận
Hoàng Thị Huyền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7
4. Đối tƣợng nghiên cứu.................................................................................... 7
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 7
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
7. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 8
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN ....................... 9
CỦA NHO GIÁO VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM ............................................... 9
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP ................................................................... 9
1.1. Những tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo và ảnh hƣởng đến văn học Việt
Nam ................................................................................................................... 9
1.2. Khái quát về tác giả, tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập ..................... 14
1.2.1. Tác giả Hồng Đức quốc âm thi tập ....................................................... 14
1.2.2. Tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập ................................................... 16
Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................ 18
Chƣơng 2. DẤU ẤN NHO GIÁO ................................................................... 19
TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP .................................................. 19
2.1. Ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo trong quan niệm nghệ thuật .................... 19
2.2. Ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo trong nội dung tác phẩm ......................... 29
2.2.1. Thiên mệnh, quân vƣơng và thời thái bình, thịnh trị ............................ 29
2.2.2. Mối quan hệ xã hội trong nền nếp tam cƣơng, ngũ thƣờng .................. 39
2.3. Ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo trong bút pháp nghệ thuật tác phẩm ....... 48
2.3.1. Ngôn từ cao nhã .................................................................................... 49
2.3.2. Lấy cổ xƣa làm mẫu mực ...................................................................... 51
2.3.3. Bút pháp vịnh ........................................................................................ 54
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................ 57
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 60
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thời đại Hồng Đức không những tiêu biểu cho một giai đoạn cực thịnh
của chế độ phong kiến Việt Nam mà còn là cột mốc đánh dấu thời kì xã hội
đƣa Nho giáo lên thành quốc giáo, vận dụng Nho giáo làm nền tảng để xây
dựng nhà nƣớc phong kiến tập quyền vững chắc, hƣng thịnh. Điều đó đƣợc
thể hiện rất rõ qua Hồng Đức quốc âm thi tập. Tập thơ do nhiều tác giả sáng
tác. Đó là những nhân sĩ thời Hồng Đức, mà chủ yếu là sáng tác của các nhân
sĩ hội Tao đàn, dƣới sự chủ xƣớng của Lê Thánh Tông. Nhiều ngƣời tìm đến
với Hồng Đức quốc âm thi tập không chỉ bởi giá trị văn học mà còn bởi chiều
sâu giá trị lịch sử của cả một thời đại mà nó phản ánh. Đây là tập thơ muôn
màu muôn vẻ, đa dạng về phong cách sáng tác nhƣng đều quy tụ ở ý thức,
lòng tự tôn dân tộc và thấm nhuần tƣ tƣởng Nho giáo. Lê Thánh Tông đã
dùng tƣ tƣởng Nho giáo một cách tiến bộ, tích cực để quản lý, xây dựng xã
hội thịnh trị, phát triển. Với nhà vua, bản thân mỗi con ngƣời từ vua quan cho
tới dân thƣờng phải có nhân đức thì xã hội mới tốt đẹp. Và nhân đức đó, đƣợc
bắt nguồn và học tập theo tƣ tƣởng Nho giáo.
Hồng Đức quốc âm thi tập tôn vinh quá khứ hào hùng của cha ông, ngợi
ca vai trò của nhà vua và các anh hùng hào kiệt, đồng thời là khúc ca bất tận
về đất nƣớc giàu đẹp. Các sáng tác tuy còn nặng lối cung đình quý tộc nhƣng
lại hết sức thi vị dễ đi vào lòng ngƣời. Ý thơ đi từ thiên nhiên kì vĩ mỹ lệ tới
cảnh vật bình dị thân thuộc, vai trò của vua quan đƣợc ca tụng là để hƣớng
đến cuộc sống đời thƣờng ấm no của muôn dân. Mặc dù vậy, các bài thơ này
đƣợc sáng tác trong thời Hồng Đức, ít nhiều chịu ảnh hƣởng bởi tƣ tƣởng của
nhà vua Lê Thánh Tông, mà cụ thể ở đây là tƣ tƣởng Nho giáo nên không dễ
dàng để hiểu hết đƣợc nội dung mà các tác giả muốn truyền đạt. Nho giáo có
những quy tắc, giáo lí nghiêm ngặt, sâu sắc có sức chi phối ảnh hƣởng cao tới
1
đời sống xã hội. Nho giáo trong thời kì này đã thấm nhuần vào đƣờng lối
quản lý nhà nƣớc của nhà vua đồng thời ảnh hƣởng sâu sắc tới các sáng tác
văn học, điển hình là Hồng Đức quốc âm thi tập. Vậy Nho giáo đã tác động
tới vai trò của vua Hồng Đức nhƣ thế nào, tạo nên lối sống nhân nghĩa cho
bậc tôi hiền ra sao, bức tranh xã hội lấy Nho giáo làm quốc giáo có hạnh phúc
ấm no hay không?... Tất cả những điều đó sẽ đƣợc lý giải qua Hồng Đức quốc
âm thi tập. Những bài thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập phải cần quá trình
nghiên cứu, học tập, đọc hiểu nghiêm túc mới thấm nhuần đƣợc nội dung mà
nó biểu hiện, mới hiểu đƣợc sâu sắc sự ảnh hƣởng của Nho giáo đối với tập
thơ này. Tuy nhiên cho đến nay chƣa có nhiều công trình tập trung nghiên cứu
chuyên sâu và riêng biệt về sự ảnh hƣởng của Nho giáo trong Hồng Đức quốc
âm thi tập. Đây là khó khăn cho việc tiếp cận và học tập những tác phẩm
trong tập thơ Nôm này.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Sự ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập” để giúp bạn đọc có cái nhìn toàn
diện và sâu sắc hơn về nội dung tập thơ, để thấy đƣợc rõ tƣ tƣởng Nho giáo đã
chi phối tới các sáng tác trong tập thơ này nhƣ thế nào đồng thời lý giải đƣợc
tại sao Lê Thánh Tông đã trị vì đƣợc một xã hội phong kiến hƣng thịnh đến
thế trong lịch sử dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lật đật bình phong mở mấy lần
Khắp hòa chốn chốn một trời xuân
(Mùa xuân, bài 13, Thiên địa môn)
Đó là những vần thơ khép lại phần Lời nói đầu của cuốn Hồng Đức quốc
âm thi tập. Cái rung rinh, phơi phới của câu thơ cũng chính là không khí
chung của toàn tập thơ khi viết về một thời đại phong kiến thịnh trị của dân
tộc trong lịch sử. Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời dựa trên sự kế thừa và phát
2
huy tinh thần đã có trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ở đầu thế kỉ XV.
Chắc hẳn khi viết về một thời đại hoàng kim trong lịch sử dân tộc, tác phẩm
ra đời vào thời Hồng Đức kia cũng phải đồ sộ về số lƣợng, cuốn hút về nội
dung để sánh ngang tầm với thời đại mà nó phản ánh. Thực tế cho thấy, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về giá trị của tập thơ này và để lại những đóng
góp đáng kể cho nền văn học dân tộc. Đó là những cuốn sách giáo trình đại
học, sách chuyên luận chuyên khảo, các sách tham khảo về lịch sử và luận
văn tốt nghiệp đại học.
Giáo trình Văn học Việt Nam (Thế kỉ X – nửa đầu thế kỷ XVIII) của
nhóm tác giả Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chƣơng, ở
chƣơng XV do Mai Cao Chƣơng viết đã dành gần 12 trang giới thiệu phân
tích về sự nghiệp văn học của Lê Thánh Tông. Ở những trang giáo trình ấy có
một nhận xét khách quan có giá trị gợi ý để tôi thực hiện khóa luận này: “Văn
học nửa thứ hai của thế kỷ XV tuy bị chi phối bởi quan điểm văn nghệ cung
đình, nhƣng vẫn còn có nội dung yêu nƣớc. Diện mạo văn học thời kỳ này
cũng khá đa dạng, có văn học cung đình của nhà vua và các triều thần (trong
hội Tao đàn), cũng có văn học thoát ly ảnh hƣởng cung đình của các nhà thơ
có thi tập riêng; có văn học ca tụng chế độ phong kiến, cũng có văn học ca
tụng cuộc sống của nhân dân. Phong cách nghệ thuật cũng có sự đa dạng nhất
định. Có phong cách thơ cung đình thiên về từ chƣơng, cũng có phong cách
điền viên chú trọng tính cụ thể sinh động của đời sống lại cũng có phong cách
thơ triết lý” [6, tr.319].
Giáo trình văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII của
nhóm tác giả Bùi Văn Nguyên (chủ biên), Nguyễn Sĩ Cẩn, Hoàng Ngọc Trì đã
dành trọn chƣơng 5 viết về Lê Thánh Tông ở mục III “Lê Thánh Tông, vị
nguyên súy sáng tác văn học và chỉ đạo việc sáng tác văn học”. Các tác giả
giáo trình viết: “Đặc biệt có quyển Hồng Đức quốc âm thi tập, chắc chắn rằng
3
do ngƣời đời sau sƣu tập, trong đó có một số là thơ nhà vua, còn lại một số
nhiều là thơ của văn thần nhƣng không ghi tên ai cả, nên hóa ra khuyết danh.
Đây là tập thơ quốc âm duy nhất ở thế kỷ XV hiện còn lại cùng với Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi” [8, tr.246]. Chính điều đó đã thôi thúc tôi tìm hiểu
tác phẩm và đi sâu nghiên cứu đề tài này.
Các tác giả cuốn Văn học trung đại Việt Nam tập 1 do Nguyễn Đăng Na
chủ biên đã đƣa ra những đánh giá khái quát về tập thơ Hồng Đức quốc âm
thi tập nhƣ sau: “Thời đại Hồng Đức không những đánh dấu giai đoạn hoàng
kim của chế độ phong kiến Việt Nam mà còn ghi một cột mốc lớn trên con
đƣờng phát triển của lịch sử văn học dân tộc với sự ra đời của tập thơ mang
chính tên thời đại đó” [7, tr.158]. Về mặt nội dung các tác giả cũng đƣa ra
nhận xét: “đồng thời mở rộng những nội dung Nho giáo, khẳng định đề cao
vƣơng triều phong kiến” [7, tr.157]. Nhận xét đề cập tới tƣ tƣởng Nho giáo
trong tác phẩm và trong thời đại mà nó ra đời tuy nhiên chỉ mang tính chất
lƣớt qua. Điều này gợi ý tôi đi sâu vào thực hiện đề tài này.
Cuốn giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX của Nguyễn
Phạm Hùng đã nhận định: “Một bộ phận văn học nửa sau thế kỷ XV đi vào xu
hƣớng cung đình hóa rõ rệt. Có lẽ không thời kỳ nào văn học cung đình gặt
hái đƣợc nhiều thành tựu nhƣ thời kỳ này. Văn học cung đình, một mặt thể
hiện đƣợc sự trì trệ và máy móc của nghệ thuật khi quá đi sâu vào tán tụng và
tiểu xảo, một mặt nó tự xác lập đƣợc những giá trị nhất định trong nội dung tƣ
tƣởng và nghệ thuật phản ánh, mà không thời nào có đƣợc, nhƣ những phẩm
chất đặc định cho văn học một thời kỳ. Tác gia tiêu biểu nhất là Lê Thánh
Tông” [4, tr.56]. Cùng với đó, theo Nguyễn Phạm Hùng: “Lê Thánh Tông
thành công hơn cả ở thơ Nôm. Tác phẩm nổi tiếng của ông là tập Hồng Đức
quốc âm thi tập… Tập thơ thể hiện tâm trạng hào sảng của một vị vua thời
thịnh mang niềm tự hào trƣớc lịch sử dân tộc, trƣớc non sống gấm vóc, ca
4
tụng vƣơng quyền, ca tụng cuộc sống thái bình, bày tỏ lòng quan tâm tới đời
sống muôn dân… Nghệ thuật thơ trau chuốt điêu luyện, có tính dân tộc, giàu
sắc thái dân dã. Song nhiều khi thơ ông quá cầu kỳ, đơn điệu, sáo rỗng. Song
dù sao, đây cũng là một tập thơ lớn, đánh dấu trình độ phát triển cao của nghệ
thuật tiếng Việt, trong việc phô diễn không chỉ đời sống thô tục, mà cả đời
sống cao nhã, sang quý bên trên” [4, tr.72]. Ý kiến của tác giả cuốn giáo trình
tuy rất khái quát nhƣng cũng có những nhận xét khá chính xác về tập thơ. Vẫn
là những nhận xét quen thuộc về nội dung và nghệ thuật tác phẩm, chƣa có sự
nghiên cứu sâu lý giải nội dung tác phẩm đƣợc chi phối bởi tƣ tƣởng Nho
giáo.
Cuốn sách chuyên luận “Lê Thánh Tông, về tác gia và tác phẩm” của
nhiều tác giả, ở phần 4 có tiêu đề “Lê Thánh Tông – Thơ văn quốc âm” có
nhiều bài viết đề cập tới tập thơ. Trong số đó thì có các bài viết của Trƣơng
Chính, Bùi Văn Nguyên, Bùi Duy Tân, Vƣơng Lộc là những bài nghiên cứu
toàn diện về tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập.
Nguyễn Hữu Sơn trong chuyên luận Văn học trung đại Việt Nam, quan
niệm con ngƣời và tiến trình phát triển có bài viết với tiêu đề: “Lê Thánh
Tông - đời thơ và những dấu hiệu trữ tình” đã nhận xét nhƣ sau: “Con ngƣời
Lê Thánh Tông phân hóa trong thơ khá rõ nét: Ông vừa hƣớng thƣợng đóng
vai một vị hoàng đế để có những bài thơ thắng thƣởng vịnh đề đầy tính khoa
trƣơng…; vừa phần nào bộc lộ tâm sự riêng… lại bày tỏ thái độ cảm thông
với các tầng lớp chúng sinh” [14, tr.181].
Đó là một số sách giáo trình nghiên cứu về Lê Thánh Tông, về cuốn
Hồng Đức quốc âm thi tập. Bên cạnh đó còn có các sách tham khảo về lịch sử
cũng tạo nên một cái nhìn đầy đủ hơn về tác phẩm bởi bất cứ một tác phẩm
văn học nào cũng gắn với giai đoạn lịch sử mà nó ra đời. Cuốn Những giai
thoại về vua Lê Thánh Tông do Nguyễn Tá Nhí và Mai Xuân Hải biên soạn,
5
trong giai thoại số 8 có tiêu đề Rộng cửa dùng ngƣời tài đã chép một bài thơ
chữ Nôm của Lê Thánh Tông viếng trạng nguyên Nguyễn Trực khi ông này
qua đời. Giai thoại số 28 có tiêu đề Thơ điếu Vũ Nƣơng, ngƣời biên soạn
không chỉ kể lai lịch mà còn chép đầy đủ hai bài thơ Nôm của vua Lê Thánh
Tông viếng nàng Vũ Thị Thiết. Những ngƣời biên soạn không bình luận gì cả
nhƣng việc sƣu tầm và chép những bài thơ đó cho thấy rằng tập thơ Hồng
Đức quốc âm thi tập có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác văn học của vị
hoàng đế anh minh. Cùng với đó là cuốn Sách các triều đại Việt Nam của
Quỳnh Cƣ và Đỗ Đức Hùng ở mục triều Lê Sơ có các giới thiệu về Lê Thánh
Tông trong đó trích dẫn bài thơ Tự thuật trong phần Nhân đạo môn để minh
họa cho phẩm chất đạo đức tuyệt vời của vua Lê Thánh Tông: “chính bản
thân Lê Thánh Tông cũng rất tự ý thức về sự cần mẫn chăm lo trau dồi tri
thức bỏ công sức của mình vào việc cai quản đất nƣớc” [1, tr.184]. Những lời
ngợi ca hết mực về Lê Thánh Tông, về thời đại Hồng Đức khiến ngƣời đọc
không thể không đặt ra câu hỏi: Do đâu mà có một thời đại thịnh trị, vua sáng
và tôi hiền đến vậy? Việc đi tìm hiểu sự ảnh hƣởng của Nho giáo trong Hồng
Đức quốc âm thi tập sẽ giúp chúng ta tìm ra câu trả lời chính xác nhất.
Bên cạnh đó còn có các luận văn đại học nghiên cứu về giá trị Hồng
Đức quốc âm thi tập, tiêu biểu nhƣ các đề tài: “Tìm hiểu giá trị của phần
Phong cảnh môn trong Hồng Đức quốc âm thi tập” hay đề tài: “Lý tƣởng
thẩm mỹ trong Hồng Đức quốc âm thi tập qua phần Nhân đạo môn”… Cùng
với đó còn rất nhiều các bài viết in trên tạp chí và các bài viết trên mạng
Internet nghiên cứu về tác giả và tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập.
Tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập là thứ văn chƣơng “máu mủ ruột
rà” của dân tộc ta cần phải đƣợc tất cả công chúng nghiên cứu thƣởng thức.
Đã có rất nhiều nghiên cứu về tập thơ này. Đó là những nghiên cứu về giá trị
của từng môn loại trong tập thơ, nghiên cứu về phong cách nghệ thuật thơ,
6
nghiên cứu về giá trị nội dung tập thơ, về vị trí của tập thơ trong tiến trình
phát triển thơ Nôm dân tộc ta… Mỗi nghiên cứu đều có những thế mạnh và
đặc sắc riêng và đều mang giá trị sâu sắc. Qua việc tìm hiểu đó, thấy đƣợc
một vấn đề đặc biệt là giá trị của tƣ tƣởng Nho giáo ảnh hƣởng tới nội dung
tác phẩm, tôi đi vào thực hiện khóa luận với đề tài: “Sự ảnh hưởng của tư
tưởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập” với hi vọng đem tới một
cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về tập thơ. Tuy nhiên, các tài liệu đã có ở
trên là cơ sở quan trọng tạo nền tảng chỗ dựa để tôi đi vào nghiên cứu đề tài
này.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hƣớng tới những mục đích sau:
- Góp phần tìm hiểu về Lê Thánh Tông và Hội Tao đàn.
- Có đƣợc cái nhìn sâu sắc nhất về sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo trong
Hồng Đức quốc âm thi tập nói riêng và văn học trung đại Việt Nam dƣới thời
Lê Thánh Tông nói chung.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Triển khai khóa luận “Ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo trong Hồng
Đức quốc âm thi tập”, ngƣời viết xác định những ảnh hƣởng của tƣ tƣởng
Nho giáo trong phƣơng diện nội dung và nghệ thuật của tập thơ Hồng Đức
quốc âm thi tập là đối tƣợng nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu trong phạm vi tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập
do hai nhà nghiên cứu Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên âm, chú
giải, giới thiệu, biên soạn, xuất bản năm 1982, Nhà xuất bản Văn học. Tác
phẩm gồm 328 bài thơ, đƣợc chia thành 5 phần: Thiên địa môn, Nhân đạo
môn, Phong cảnh môn, Phẩm vật môn, Nhàn ngâm chƣ phẩm.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
7
Để đảm bảo cho công việc nghiên cứu khóa luận đồng thời để có nguồn
tƣ liệu phong phú và đủ tin cậy đáp ứng đƣợc mục đích đặt ra, ngƣời viết tiến
hành những phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp thống kê phân loại.
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
- Phƣơng pháp văn học sử.
- Phƣơng pháp so sánh, thẩm định.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
đƣợc cấu trúc thành 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về những tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo và tác giả,
tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập
Chƣơng 2: Dấu ấn Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập
8
NỘI DUNG
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN
CỦA NHO GIÁO VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
1.1. Những tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo và ảnh hƣởng đến văn học
Việt Nam
Cơ sở của Nho giáo bắt nguồn từ Trung Quốc, đƣợc hình thành từ thời
Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.
Đến thời Xuân Thu xã hội loạn lạc, Khổng Tử ( sinh năm 551 trƣớc công
nguyên ) phát triển tƣ tƣởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tƣ tƣởng đó. Chính vì thế mà ngƣời đời sau gọi ông là ngƣời sáng lập
ra Nho giáo. Thông qua những ghi chép của học trò Khổng Tử và sự hệ thống
lại của các nhà nghiên cứu, ngƣời đời sau đã nắm bắt đƣợc một cách gián tiếp
những tƣ tƣởng Nho giáo của Khổng Tử. Nho giáo phát triển qua ba thời kì:
Nho giáo nguyên thủy, Hán Nho, Tống Nho.
Những tƣ tƣởng của Nho giáo đƣợc thể hiện trong hai bộ sách kinh điển:
Tứ Thƣ và Ngũ Kinh. Hệ thống kinh điển đó hầu nhƣ viết về chính trị, xã hội,
ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hƣớng biện luận về xã hội, về
chính trị, đạo đức là những tƣởng cốt lõi của Nho giáo. Khổng Tử và các học
trò của ông đã thấy đƣợc sức mạnh và vai trò to lớn của Nho giáo đối với xã
hội. Tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo nằm ở hai nội dung là tu thân và hành đạo.
Trƣớc hết, về vấn đề tu thân, một loạt những tƣ tƣởng tam cƣơng, ngũ
thƣờng, tam tòng, tứ đức,… đƣợc Khổng Tử đặt ra để làm chuẩn mực cho
mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam cƣơng và ngũ thƣờng là lẽ đạo
đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải
theo. Khổng Tử cho rằng xã hội an bình chỉ khi mọi ngƣời giữ đƣợc tam
cƣơng, ngũ thƣờng, tam tòng, tứ đức. Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan
9
hệ xã hội cơ bản của con ngƣời đƣợc gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ
luân: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè. Trong đó, ba mối
quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thƣ gọi là tam cƣơng – ba sợi dây ràng
buộc con ngƣời từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Tam cƣơng: tam
là ba, cƣơng là giềng mối. Tam cƣơng là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi),
phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng). Trong xã hội phong kiến, những mối
quan hệ này đƣợc vua chúa thiết lập dựa trên một loạt nguyên tắc bắt buộc
phải tuân thủ vô cùng chặt chẽ nghiêm ngặt. Thứ nhất đối với mối quan hệ
quân thần, “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là dù vua ra lệnh cho
bề dƣới phải chết thì bề dƣới cũng phải chết để làm đúng theo lệnh vua, nếu
bề dƣới không phục tùng mệnh lệnh tức là không trung thành với vua. Trong
mối quan hệ này, vua phán xét thƣởng phạt luôn phân minh còn bề dƣới thì
nhất mực trung thành một lòng một dạ. Bên cạnh đó là mối quan hệ phụ tử,
“phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” nghĩa là cha khiến con chết, con không
chết là con bất hiếu. Nếu nhƣ lệnh của vua đối với bề tôi đặt chữ “trung” lên
hàng đầu, thì giữa cha con coi trọng chữ “hiếu” hơn tất cả. Mối quan hệ cuối
cùng trong tƣ tƣởng “tam cƣơng” là phu phụ, “phu xƣớng phụ tùy” đồng
nghĩa với việc chồng nói, vợ phải theo. Tƣ tƣởng “tam cƣơng” chính là cƣơng
lĩnh đạo đức, là chuẩn mực của các mối quan hệ xã hội mà Nho giáo đề ra. .
Đức chính là phẩm chất quan trọng nhất mà con ngƣời cần phải có để thực
hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên.
Gắn liền với tam cƣơng là ngũ thƣờng. Ngũ là năm, thƣờng là hằng có.
Ngũ thƣờng là năm điều phải hằng có khi sống trong đời của một ngƣời quân
tử: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nhân là tấm lòng yêu thƣơng muôn loài trên cõi
đời này. Lễ là sự kính trọng, lịch sự trong cách cƣ xử với mọi ngƣời. Nghĩa là
đối xử với những ngƣời xung quanh bình đẳng, công minh theo đúng lẽ phải.
Trí là sự hiểu biết, hanh thông lí lẽ, biết phân biệt thiện ác, tốt xấu, đúng sai.
10
Còn tín là luôn đáng tin cậy trong mọi lời nói, hành động. Những phạm trù
này đều là chuẩn mực đạo đức làm ngƣời, là thƣớc đo đánh giá phẩm hạnh
của con ngƣời.
Nếu nhƣ Nho giáo đề ra những nguyên tắc nhất định cho ngƣời quân tử
thì bên cạnh đó, Nho giáo cũng không quên đặt ra một loạt những tƣ tƣởng
đạo đức khắt khe và nghiêm ngặt dành cho chuẩn mực đạo đức của một ngƣời
phụ nữ trong xã hội bấy giờ, đó là tam tòng và tứ đức. Tam là ba, tòng là theo.
Tam tòng là ba điều ngƣời phụ nữ phải theo gồm: “tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử”. Tại gia tòng phụ là ngƣời phụ nữ khi còn ở nhà thì
theo cha. Xuất giá tòng phu là lúc lấy chồng phải theo chồng. Phu tử tòng tử
là chồng qua đời thì phải theo con. Từ lẽ ấy, Nho giáo quy định cả cuộc đời
bất kì một ngƣời phụ nữ nào đều đứng sau và phụ thuộc vào ngƣời đàn ông là
cha, chồng, con. Bên cạnh đó, họ còn phải tuân theo tƣ tƣởng tứ đức. Tứ là
bốn, đức là đức tính tốt. Tứ đức là bốn đức tính quý báu ngƣời phụ nữ phải có
là: công – dung – ngôn – hạnh. Công là khéo léo trong việc làm. Dung là
dung dị, nhã nhặn trong sắc diện. Ngôn là tế nhị, mềm mại trong lời nói. Còn
hạnh là đức hạnh, phẩm hạnh và những tính nết tốt. Tất cả là khuôn vàng,
thƣớc ngọc để đánh giá phẩm hạnh của ngƣời phụ nữ.
Sau khi tu thân, bậc quân tử phải hành đạo, tức là phải ra làm quan, góp
sức cai quản chính trị xã hội. Cụ thể của việc hành đạo là “tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Nghĩa là phải thực hiện tốt từ những việc nhỏ trong gia đình
cho tới những việc lớn ngoài thiên hạ. Hai phƣơng châm đƣợc coi là kim chỉ
nam chi phối mọi hành động của ngƣời quân tử trong việc cai trị là nhân trị và
chính danh. Trƣớc hết, về nhân trị, nhân là tình ngƣời, nhân trị là cai trị bằng
tình ngƣời, yêu thƣơng con ngƣời. Quan điểm này của Nho giáo đồng nhất và
phù hợp với lối sống nhân đạo tình nghĩa của dân tộc Việt Nam. Trong luân lý
đạo đức, nhân đƣợc coi là điều cao nhất. Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử
11
nói: “Ngƣời không có nhân thì lễ mà làm gì? Ngƣời không có nhân thì nhạc
mà làm gì?”. Cùng với nhân trị , chính danh là mỗi ngƣời phải làm đúng chức
phận của mình, mỗi sự vật phải đƣợc gọi đúng tên của nó. Trong sách Luận
ngữ có dẫn: “Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận thì tất
việc không thành” và cũng chỉ rõ rằng: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử
tử” nghĩa là “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. Trong kinh sách
của Nho giáo, đó chính là những điều quan trọng nhất. Tất cả đƣợc tóm gọn
lại trong chín chữ: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, nó là cƣơng lĩnh
đạo đức để phân biệt ngƣời quân tử và kẻ tiểu nhân trong xã hội. Có thể nói tƣ
tƣởng của Nho giáo đã đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thƣớc đo đánh giá
phẩm hạnh con ngƣời.
“Nho giáo từ Trung Quốc vào Việt Nam đồng thời với Phật giáo và Đạo
giáo (cả tƣ tƣởng Lão – Trang) nhƣng phải đến hàng chục thế kỉ sau, đến cuối
đời Trần nó mới có sức ảnh hƣởng lớn” [5, tr.54]. Sau những chiến thắng lớn
quân xâm lƣợc, dân tộc ta giành độc lập và bắt đầu xây dựng nhà nƣớc phong
kiến tự chủ. Từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, suốt hai triều Lê – Nguyễn, Nho
giáo đã thống lĩnh tƣ tƣởng văn hóa Việt Nam. Nho giáo du nhập vào Việt
Nam, nƣớc ta uốn mình theo tƣ tƣởng Nho giáo, kế thừa và sáng tạo chứ
không học thuộc lòng sách Nho của Khổng Tử. Nho giáo không ngừng củng
cố và phát triển cho đến giữa thế kỷ XIX, yêu cầu tất yếu này dần nhƣ bị suy
sụp và dần nhạt phai khi sự du nhập mạnh mẽ của phƣơng Tây, của thực dân
Pháp. Tuy nhiên Nho giáo vẫn là công cụ ảnh hƣởng đối với những nhà yêu
nƣớc cách mạng nhƣ Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học hay Hồ Chí Minh,…
Nho giáo có ảnh hƣởng rất sâu đậm và rõ rệt tới văn hóa xã hội Việt
Nam mà chủ yếu là in dấu rõ nét trong văn học. Trên quê hƣơng Việt Nam,
Nho giáo đã kết duyên với văn học trung cận đại, góp phần tạo nên giá trị đạo
đức vốn là nét nổi trội của nền văn học này. Từ kim cổ đông tây, thật hiếm có
12
học thuyết nào coi trong vấn đề tu thân và vấn đề đạo đức con ngƣời nhƣ Nho
giáo. Nho giáo có bao nhiêu danh ngôn để đời nhƣ: "Kiến nghĩa bất vi vô
dũng dã", "Sát thân thủ nghĩa", "Xá thân thành nhân", "Phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất", "Dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh", "Kỷ sở bất dục, vật thi ƣ nhân", "Thế thiên hành đạo", "Quân
tử thận kỳ độc", "Ngô nhật tam tỉnh ngô thân", "Tiên thiên hạ ƣu, hậu thiên
hạ lạc"… Nho giáo ảnh hƣởng tới đối tƣợng sáng tác của các tác giả thời bấy
giờ. Tƣ tƣởng “trọng nam khinh nữ”, phụ nữ phải “tam tòng tứ đức” đã thổi
vào nƣớc ta không khí hệ tƣ tƣởng bất bình đẳng. Các tác giả lớn có tài đều là
nam nhân, mãi sau mới xuất hiện một số nhà thơ nữ kiệt xuất nhƣ Hồ Xuân
Hƣơng, Bà Huyện Thanh Quan… Nho giáo còn in dấu ấn sâu đậm tới nội
dung của các tác phẩm văn học, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tƣ tƣởng của các tác
giả lớn thời bấy giờ. Học thuyết thiên mệnh, học thuyết nhân nghĩa, tƣ tƣởng
trung quân ái quốc, ảnh hƣởng của “thi dĩ ngôn chí”,… là những điều không
thể không nhắc tới khi nói đến sự ảnh hƣởng của Nho giáo đối với nền văn
học Việt Nam, tất cả đều có cội nguồn từ Nho giáo. Nếu trong thời trung cận
đại, trên đất nƣớc ta, thiếu đi học thuyết Nho giáo thì con ngƣời Việt Nam ta,
văn học Việt Nam ta sẽ ra sao? Nho giáo là nguồn tƣ tƣởng tình cảm nuôi
dƣỡng tinh thần nhân dân ta, làm đẹp con ngƣời, văn học của dân tộc ta. Nho
giáo coi văn chƣơng là phƣơng tiện để giáo hóa, động viên, tổ chức, hoàn
thiện con ngƣời và xã hội. Nhà nƣớc chuyên chế phong kiến dùng hình thức
thi cử để chọn ngƣời tài mà Nho giáo chính là hệ tƣ tƣởng chính thống trong
các bài thi mà cụ thể là các bài văn. “Nho giáo ảnh hƣởng trực tiếp đến văn
học qua thế giới quan của ngƣời viết” [21, tr.51]. Ngòi bút các tác giả bị chi
phối mạnh mẽ bởi quan niệm cái đẹp cái hay của Nho giáo. Đọc các tác phẩm
bị chi phối bởi tƣ tƣởng Nho giáo, ta thƣờng hay bắt gặp những đề tài trùng
lặp đôi khi có phần hơi khô khan nghèo nàn thậm chí nghệ thuật đơn điệu
13
không sáng tạo đƣợc những phong cách riêng mới lạ. Đó là một ảnh hƣởng
tiêu cực của Nho giáo đối với văn học. Khi văn học bƣớc sang những giai
đoạn sau, lối viết chịu ảnh hƣởng bởi tƣ tƣởng Nho giáo vẫn chi phối tới
nhiều tác phẩm đƣợc viết sau này. Tuy vậy, không thể phủ nhận đƣợc những
ảnh hƣởng tích cực Nho giáo đối với nền văn học trung cận đại Việt Nam, nó
tạo ra rất nhiều tác phẩm thời đại. “Những triều đại đƣợc sử sách coi là thịnh
trị nhƣ thời Lê Thánh Tông ở Việt Nam không chỉ đƣợc ca tụng vì đất nƣớc
thái bình, nhân dân an cƣ lạc nghiệp mà còn vì có văn vận phát đạt, nhà nƣớc
chăm lo phát triển Nho học, ƣu đãi kẻ sĩ có văn học. Những thời kì nhƣ thế
cũng là những thời kỳ còn để lại cho ngày nay nhiều thƣ tịch, nhiều tác phẩm
văn học. Đó là một mặt quan hệ giữa Nho giáo và văn học: Nho giáo khích lệ
sự phát triển của văn học” [5, tr.50]. Trong văn học Việt Nam trung cận đại,
tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập là một kiệt tác tiêu biểu in đậm dấu ấn sự
ảnh hƣởng của Nho giáo thể hiện trên nhiều giá trị tƣ tƣởng nội dung và bút
pháp nghệ thuật.
1.2. Khái quát về tác giả, tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập
1.2.1. Tác giả “Hồng Đức quốc âm thi tập”
Hồng Đức quốc âm thi tập không phải là sáng tác của một cá nhân, tác
phẩm gồm nhiều bài thơ thuộc về rất nhiều tác giả tài năng dƣới thời Hồng
Đức mà chủ yếu là những nhân sĩ tập hợp trong Hội Tao đàn – “môn đệ” của
Nho giáo. Hội Tao đàn đƣợc thành lập vào năm Hồng Đức 26 (1495), là tổ
chức sáng tác thơ và bình thơ do vua Lê Thánh Tông đứng đầu tự xƣng là Tao
đàn nguyên súy. Đây là hội thơ có tính chất nhà nƣớc, nằm trong quy mô triều
đình. Sự ra đời của Hội Tao đàn đánh dấu một bƣớc tiến của thơ ca cung đình.
Hai mƣơi tám hội viên trong Hội Tao đàn do nhà vua chọn trong số các quan
văn đậu tiến sĩ ở triều đình thƣờng đƣợc gọi là “Tao đàn nhị thập bát tú”, tức
hai tám ngôi sao trên đàn văn chƣơng nhƣ Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Ngô
14
Luân, Ngô Hoán, Lƣu Hƣng Hiếu, Nguyễn Xung Xác, Nguyễn Quang Bật,
Nguyễn Đức Huấn, Vũ Dƣơng, Ngô Thầm, Ngô Văn Cảnh, Phạm Trí Khiêm,
Lƣu Thƣ Mậu, Nguyễn Tốn Miệt, Nguyễn Nhân Bị, Ngô Quyền, Nguyễn Bảo
Khuê, Bùi Phố, Dƣơng Trực Nguyên, Chu Hoãn, Phạm Cấn Trực, Nguyễn
Ích Tốn, Đỗ Thuần Thứ, Phạm Nhu Huệ, Lƣu Dịch, Đàm Thận Huy, Phạm
Đạo Phú, Chu Huân.
Là cánh chim đầu đàn, Tao Đàn nguyên súy luôn khuyến khích các nhân
sĩ hăng say sáng tác thơ ca. Nhà vua không chỉ có tài trị quốc mà còn là vị vua
có tâm hồn thi sĩ. Phần lời giới thiệu của Hồng Đức quốc âm thi tập, đã viết
rõ về Lê Thánh Tông: “Nguyên súy quả có một tâm hồn nghệ sĩ…Trong bài
Tựa tác phẩm Quỳnh uyển cửu ca…học sĩ là Đào Cử làm bài bạt ở cuối tác
phẩm đó, đã nói rõ ý đồ của nguyên súy: “Từ khi đức vua lên ngôi, trong
ngoài đều phục, mƣa nắng thuận hòa, dân yên vật thịnh. Trong khi nhàn rỗi,
nhà vua thƣờng bỏ hết thú vui nhƣ đàn hát, săn bắn, khiến cho sạch lòng, dục
ít, nhƣ cây ngay từ gốc, nƣớc trong từ nguồn, lại có tài học cao minh, lòng
đạo sáng suốt, cho nên anh hoa phát tiết ra ngoài, biểu hiện ở lời ngâm vịnh”
[3, tr.13]. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập có rất nhiều bài thơ đƣợc xác định
là do Lê Thánh Tông sáng tác không phải dựa vào khẩu khí đế vƣơng mà do
lời thơ rõ ràng của ông. Đó là những bài viết về chủ đề nhƣ vịnh năm canh,
vịnh tứ thời, vịnh các nhân vật lịch sử Trung Quốc, vịnh các nhân vật lịch sử
Việt Nam. Tuy nhiên tập thơ là sáng tác của một tập thể tác giả nên có nhiều
bài rất khó xác định một cách chính xác ai đã viết bài nào. Dù đây là tập thơ
của nhiều tác giả, song trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam tập 1 của tác
giả Nguyễn Đăng Na chủ biên ghi rõ: “Các tác giả phần lớn là Nho sĩ. Vì thế
bên cạnh tính chất đa dạng của một tập thơ với nhiều tác giả, Hồng Đức quốc
âm thi tập vẫn có sự nhất quán trong nội dung cảm xúc và hình thức nghệ
thuật biểu hiện” [7, tr.147].
15
Nhƣ vậy, có thể xác định rằng Hồng Đức quốc âm thi tập là tập hợp các
sáng tác của nhiều tác giả, chủ yếu là thành viên hội Tao đàn trong đó không
thể thiếu vua Lê Thánh Tông. Trong số nhiều tác giả ấy, cũng có ngƣời không
phải là thành viên của Hội Tao đàn, nhƣng họ sáng tác thơ và bình thơ dƣới
sự chủ súy của vua Lê Thánh Tông. “Theo tài liệu còn lại cho đến ngày nay,
Hồng Đức quốc âm thi tập là một tập thơ chỉ đƣợc sƣu tập về sau, chứ không
phải đƣợc biên soạn từ thời Lê Thánh Tông, do đó, có thể ở đây chép lẫn lộn
một số thơ ngƣời đời sau” [3, tr.5].
1.2.2. Tác phẩm “Hồng Đức quốc âm thi tập”
Tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời vào cuối thế kỉ XV trong bối
cảnh đất nƣớc yên bình, phát triển thịnh vƣợng, đời sống nhân dân ấm no
hạnh phúc. Các bài thơ đƣợc sáng tác trong thời gian khoảng 28 năm dƣới
niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497) của triều đại Lê Thánh Tông. Ngoài thời
Hồng Đức, thật khó có thể tìm đƣợc cái không khí xƣớng họa yêu đời, lạc
quan của tập thơ ở bất kì thời đại nào khác. Ngƣời đời sau đặt tên cho tác
phẩm là “Hồng Đức quốc âm thi tập” thật phù hợp với thời đại lịch sử xuất
hiện của những bài thơ trong tác phẩm. Toàn tập thơ hiện có 328 bài, đƣợc
chia làm năm phần nhƣ sau: Thiên địa môn gồm (59 bài), Nhân đạo môn (46
bài), Phong cảnh môn gồm (66 bài), Phẩm vật môn gồm (69 bài), Nhàn ngâm
chƣ phẩm (88 bài). Lối chia môn loại này có phần gần gũi với Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi. Tập thơ phong phú đa dạng về lời thơ và ý thơ, các chi
tiết, khía cạnh, phong cách các bài thơ cũng khác nhau do đây là sản phẩm lao
động trí tuệ của nhiều tác giả. Hồng Đức quốc âm thi tập không chỉ cuốn hút
về hình thức số lƣợng các bài thơ, mà còn hấp dẫn về giá trị ý nghĩa thời đại.
Đây là sáng tác của vua quan thời Hồng Đức, đặc biệt dƣới sự chủ súy của Lê
Thánh Tông nên tác phẩm còn mang nặng khuynh hƣớng cung đình, ngâm
hoa vịnh nguyệt. Tuy nhiên không thể phủ nhận giá trị của một tác phẩm tràn
16
đầy lòng tự tôn dân tộc, tràn đầy tình yêu thiên nhiên yêu cuộc sống. Tác
phẩm đƣợc viết dựa trên sự kế thừa thành tựu trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi và có sự phát huy đổi mới. Tác giả của Hồng Đức quốc âm thi
tập rất đông đảo nên đề tài nội dung của tập thơ, các vấn đề xã hội cũng đƣợc
mở rộng rất phong phú. Điểm nổi bật đáng chú ý trong tác phẩm là sự kết hợp
hài hòa tƣ tƣởng Nho giáo với tinh thần, tình cảm dân tộc. Hồng Đức quốc âm
thi tập mang đậm dấu ấn sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo. Nho giáo là
cƣơng lĩnh cai trị đất nƣớc thời bấy giờ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn trong
xã hội, Nho giáo thấm nhuần tƣ tƣởng của nhà vua. Và với Hồng Đức quốc
âm thi tập, nhà vua Lê Thánh Tông lại là ngƣời chủ súy việc sáng tác nên tập
thơ ảnh hƣởng sâu sắc tƣ tƣởng Nho giáo là điều tất yếu.
Hồng Đức quốc âm thi tập mang đậm giá trị văn chƣơng bao gồm giá trị
nội dung và giá trị nghệ thuật trong đó điều đặc biệt là từ nội dung cho tới
nghệ thuật của tác phẩm đều in đậm dấu ấn của Nho giáo. Nghiên cứu về sự
ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập chính là
“cuộc hành trình về nguồn” văn hóa dân tộc. Và chắc chắn, đây sẽ là một
cuộc “ôn cố tri tân” hết sức bổ ích và thú vị.
17
Tiểu kết chƣơng 1
“Cho tới nay, đã ngót năm thế kỷ, chúng ta vui sƣớng đọc lại lời thơ của
Nguyễn Trãi ở nửa đầu thế kỷ XV trong Quốc âm thi tập, thì chúng ta cũng
vui sƣớng đọc lại lời thơ nguyên vẹn của các nhân sĩ thời Lê Thánh Tông
trong Hồng Đức quốc âm thi tập ở nửa sau thế kỷ đó” [3, tr.31]. Các tác giả
của Hồng Đức quốc âm thi tập không thể tránh khỏi lối viết công thức, cung
đình nhƣng họ cũng đã biết cách vƣợt qua, quan tâm tới nhiều đề tài phong
phú trong cuộc sống. Tập thơ là sự khẳng định triều đại Lê Thánh Tông qua
những vần thơ ca ngợi bậc minh quân, ca ngợi cuộc sống thái bình thịnh trị;
đồng thời là tiếng thơ về một đất nƣớc giàu đẹp yên bình, chan chứa niềm tự
hào dân tộc. Thời bấy giờ, Nho giáo chính là cƣơng lĩnh chính trị, đạo đức để
xây dựng nên một đất nƣớc thịnh trị. Hơn nữa, tập thơ có tác giả là các Nho sĩ
nên chắc chắn tác phẩm chịu ảnh hƣởng sâu sắc bởi tƣ tƣởng Nho giáo.
18
Chƣơng 2. DẤU ẤN NHO GIÁO
TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
2.1. Ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo trong quan niệm nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “quan niệm nghệ thuật là hình thức bên
trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ qui chiếu ẩn chìm trong hình thức
nghệ thuật, nó gắn với các phạm trù phƣơng pháp sáng tác, phong cách nghệ
thuật và làm thành thƣớc đo của hình thức văn học và cơ sở của tƣ duy nghệ
thuật” [2, tr.197]. Quan niệm nghệ thuật đƣợc thể hiện qua mô hình nghệ
thuật về thế giới và con ngƣời, cách tổ chức các tuyến nhân vật, sự kiện, cách
giải quyết mâu thuẫn, qua điểm nhìn, cách nhìn, qua không gian, thời gian
nghệ thuật, qua motif các nhân vật, qua các kiểu biến cố, sự kiện. Nó chính là
cái nhìn nghệ thuật về cuộc đời, con ngƣời, gắn với xúc cảm, với sự miêu tả
nghệ thuật, phƣơng tiện nghệ thuật qua đó thể hiện cách cắt nghĩa lý giải hiện
thực của ngƣời nghệ sĩ. Phát hiện đƣợc quan niệm nghệ thuật của tác giả có
nghĩa là ngƣời đọc đã tìm đƣợc một trong những cánh cửa đi vào thế giới
nghệ thuật của nhà văn.
“Nói đến quan niệm nghệ thuật là nói đến sự sáng tạo về chất trong cảm
thụ và miêu tả đời sống” [17, tr.90]. Thời đại, hoàn cảnh xã hội chi phối tới
quan niệm nghệ thuật của tác giả. Quan niệm nghệ thuật lại ảnh hƣởng tới
cách thức và phƣơng tiện phản ánh trong tác phẩm. Hồng Đức quốc âm thi
tập gồm những bài thơ đƣợc viết vào thời Hồng Đức, cuối thế kỉ XV, là thời
đại tôn sùng Nho giáo. Hơn nữa, các tác giả của tập thơ này lại là vua, quan,
là môn đệ của Nho giáo nên Nho giáo ảnh hƣởng tới quan niệm nghệ thuật
trong Hồng Đức quốc âm thi tập là lẽ tất yếu. Trong mọi tác phẩm văn học,
quan niệm nghệ thuật có thể đƣợc phát biểu trực tiếp hoặc đƣợc thể hiện gián
tiếp qua sáng tác. Ở Hồng Đức quốc âm thi tập nói riêng hay ở bất kỳ sáng tác
chữ Hán của Lê Thánh Tông nói chung, quan niệm nghệ thuật không đƣợc
19
phát biểu thành lời một cách trực tiếp mà đƣợc thể hiện gián tiếp qua tác
phẩm biểu hiện cụ thể ở việc tác giả lựa chọn đề tài, chủ đề, và cách thức thực
hiện đề tài chủ đề đó. Các tác giả quan niệm rằng văn chƣơng phải dùng để
giáo huấn đạo đức theo quan niệm Nho giáo, cái đẹp từ cảnh vật đến con
ngƣời phải là cái đẹp theo quy chuẩn của Nho giáo. Nội dung thơ ca vì thế mà
xoay quanh “tam cƣơng, ngũ thƣờng, tam tòng, tứ đức”, “tu, tề, trị, bình”,
“nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”…
“Con ngƣời trong văn học bao giờ cũng có hai mặt: Mặt cảm tính và mặt
quan niệm. Mặt cảm tính là những chi tiết về ngoại hình, tính cách, tình
cảm… hiện diện trong tác phẩm. Còn đằng sau những hình ảnh cảm tính đó,
chiều sâu của sự phản ánh đó, chính là tƣ tƣởng, là quan niệm nghệ thuật của
tác giả chi phối cách thức phản ánh” [22, tr.2]. Thế giới nhân vật trong Hồng
Đức quốc âm thi tập phần lớn là vua quan, những ngƣời tài giỏi trong lịch sử.
Nó tuân theo chuẩn mực của Nho giáo về việc đề cao ngƣời quân tử, đề cao
đấng quân vƣơng. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của các nhân sĩ Hội
Tao đàn hầu nhƣ không có gì thay đổi với các tác phẩm văn học trung đại
trƣớc đó: Con ngƣời phải ở địa vị công danh lỗi lạc, phải có quyền uy trong
thiên hạ, văn võ tài đức song toàn. Nhà thơ nêu cao những tấm gƣơng chính
giáo, cƣơng thƣờng theo thuyết lý của Khổng Mạnh. Điều này có thể thấy rõ
trong phần Nhân đạo môn của tác phẩm. Chúng ta dễ dàng nhận ra khẩu khí
của nhà vua Lê Thánh Tông trong bài Tự thuật:
Lòng vì thiên hạ những sơ âu
Thay việc trời, dám trễ đâu.
Trống dời canh còn đọc sách,
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu…
(Tự thuật, bài 1, Nhân đạo môn)
20
Chỉ với bốn câu thơ đã vẽ ra bức chân dung một vị vua lý tƣởng. Nhà
vua tự ý thức rất rõ về bổn phận và trách nhiệm lớn lao mà trời giao phó, từ
đó, ông không ngừng tu thân để trị quốc. Hình ảnh đức vua đọc sách thâu
đêm, mải chầu triều quên rằng trời đã xế bóng thật đáng khâm phục. Có thể
nói đây chính là chuẩn mực đạo đức cho ngƣời quân tử thời bấy giờ, nó giúp
ta hiểu vì sao cuối thế kỉ XV lại là thời kì thịnh trị bậc nhất của nền phong
kiến dân tộc.
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong Hồng Đức quốc âm thi tập
không chấp nhận những kẻ hèn yếu tiểu nhân kém cỏi. Các tác giả hết lòng ca
ngợi các bậc minh quân không chỉ của nƣớc ta mà còn ở Trung Quốc. Đó là
Lƣu Bang đã làm nên “Bốn trăm nghiệp Hán dài bấy lâu” (Vịnh vua cao tổ
nhà Hán, bài 2, Nhân đạo môn). Đó là Hạng Vũ – đối thủ của Lƣu Bang trong
thời Hán Sở:
Mƣời một phen khua Tần lạnh gáy
Bảy mƣơi trận dã Hán tanh mè
(Vịnh Hạng Vũ, bài 4, Nhân đạo môn)
Vƣơng giỏi thì không thể không nhắc tới tƣớng tài là Trƣơng Lƣơng,
Tiêu Hà, Hàn Tín hết mực phục vụ Lƣu Bang, đƣợc ngợi ca trong các bài
Vịnh Trƣơng Lƣơng, Vịnh Tiêu Hà, Vịnh Hàn Tín. Tác giả còn quan niệm mẹ
của bậc anh hùng giúp vua thì cũng là một bậc anh hùng:
Mệnh thiếp già này bao nỡ tiếc
Về thì khuyên nó nghĩa quân thần
(Lăng mẫu tống sứ giả, bài 11, Nhân đạo môn)
Từ việc vịnh về các anh hùng vua quan tài giỏi Trung Quốc, ngợi ca họ
trên tinh thần coi trọng ngƣời tài trong thiên hạ, các tác giả đi tới việc ngợi ca
các bậc anh tài của dân tộc mình:
Dẹp yên tám cõi mới buông tay
21
Lồ lộ thai tinh một đóa mây
(Điếu (Viếng) Lẽ Du, bài 12, Nhân đạo môn)
Tƣởng nhớ về Lê Khôi:
Phong lƣu phú quý ba đời thấy,
Sự nghiệp công danh bốn bể hay
Đây là tên tuổi vang danh khắp ba triều Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê
Nhân Tông. Thật ít thấy triều đại nào coi trọng ngƣời tài nhƣ triều đại Hồng
Đức. Các trạng nguyên cũng giữ một vị trí quan trọng và không thể không
xuất hiện trong thơ. Bài “Điếu Cao – Hƣơng Lƣơng trạng nguyên”, “Điếu
Nghĩa – Bang trạng nguyên”,… là những lời viếng đầy tiếc thƣơng cho một
đời thánh hiền tài hoa :
Lấy ai làm trạng nƣớc Nam ta!
(Điếu Cao – Hƣơng trạng nguyên, bài 13, Nhân tự môn)
Các nhân vật đều là những ngƣời hừng hực khí thế lập công danh, hừng
hực khát vọng tô điểm cho đất nƣớc bằng tài năng của mình. Họ sống theo tôn
chỉ của Nho giáo. Có “chí”, có “đạo” nên con ngƣời không bị rơi vào bế tắc,
không phải mò mẫm tìm đƣờng cho lối đi của cuộc đời mình. Con ngƣời đƣợc
đề cập đến ở đây phải là con ngƣời đấng bậc, không có chỗ cho cái nhỏ nhen
tầm thƣờng. Vịnh về Quan Vũ thời Tam quốc có tới hẳn sáu bài trong phần
Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập. Cùng với đó là các tên tuổi lừng danh nhƣ:
Khổng Tử, Triệu Tử Long, Tào Tháo, Trƣng Vƣơng, Triệu Âu,… đều trở
thành đối tƣợng sáng tác của các nhân sĩ hội Tao đàn. Hiện lên nhƣ bức tƣợng
đài uy nghi trong thơ ca, liệu các bậc quan, thánh, các đấng anh hùng, trạng
nguyên có quá lung linh hƣ ảo và xa vời với bạn đọc? Nho giáo khoác lên
mình họ tấm áo choàng của chí đạo tôn nghiêm và đằng sau đó là lòng
ngƣỡng mộ chân thành xuất phát từ trái tim của các tác giả. Nho giáo nhƣ một
sợi dây vô hình đã quy định con ngƣời phải gắn với khát vọng chí lớn, phải tu
22
thân và hành đạo. Quan niệm về con ngƣời nhƣ vậy, nhƣng tại sao trong tác
phẩm vẫn xuất hiện những bài thơ về ngƣời kiếm cá, ngƣời hái củi, ngƣời đi
cày, ngƣời đi chăn trâu, thật chẳng phải mâu thuẫn sao? Không, cái mới mẻ
trong ngòi bút của các tác giả là ở chỗ: đang biết cách vƣợt ra lối viết cung
đình, đi vào cuộc sống xã hội bình dị gần gũi khi viết về những con ngƣời lao
động bình thƣờng. Thế nhƣng, dù viết về đối tƣợng nào thì ngòi bút của các
tác giả vẫn không đi lệch hƣớng, nó vẫn chăm chỉ nhắc về vua chúa và tên
tuổi những nhân vật đã đi vào lịch sử. Kết thúc bài thơ Ngƣ (Vịnh ngƣời kiếm
cá) tác giả bất ngờ để chủ thể bức tranh xuất hiện đó là Phạm Lãi – “ngƣời đời
Xuân Thu, làm quan nƣớc Việt, sau khi đã giúp Câu Tiễn diệt đƣợc nƣớc Ngô
để báo thù cho nƣớc Việt, liền đổi họ tên và buông thuyền đi ngao du ở Ngũ
hồ (sử ký)” [3, tr.5]:
Có kẻ làm ơn nheo nhẻo mách
Kia kìa Phạm Lãi mái kia mom
(Ngƣ, bài 50, Phong cảnh môn)
Cùng với đó, khi vịnh về ngƣời đi cày:
Lều Nam – dƣơng đã khoan chân đứng,
Non Phú – xuân qua cất mặt nhòm
Câu thơ nhắc tới “Nam – dƣơng” là nơi ở làm ruộng của Gia Cát Lƣợng
lúc chƣa ra giúp Lƣu Bị, “Phú – Xuân” là nơi Nghiêm Tú đi ở ẩn khi Lƣu Tú
(tức vua Quang Vũ nhà Hán) ra làm quan. Có thể nói, những tên tuổi sử sách
luôn in dấu ấn trong tập thơ này. “Chí”, “Đạo” cùng khát vọng tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ trong tƣ tƣởng của Nho giáo khiến các tác giả coi các tên tuổi
trong sử sách là điều cao cả, tuyệt vời và đƣa họ vào mọi trang viết của mình.
Con ngƣời trong Hồng Đức quốc âm thi tập không gặp phải bế tắc bất hạnh
hay những vấn đề tủn mủn của cuộc sống đời thƣờng mà họ đƣợc định sẵn
một con đƣờng mà lý tƣởng Nho giáo là thứ ánh sáng bất diệt soi dọi. Nếu
23
không phải là bậc trƣợng phu gánh vác giang sơn thì con ngƣời lại đƣợc nhìn
ở một phƣơng diện khác, đó chính là chuẩn mực đạo đức trong các mối quan
hệ. Đó là tình anh em, đạo vợ chồng, đạo làm con và phép dạy con của cha
mẹ trong các bài nhƣ “Huynh đệ”, “Giáo tử”, “Tử đạo”, “Ái tử”… Phải chăng
đây chính là quan niệm nghệ thuật về con ngƣời theo khuôn mẫu của văn học
trung đại đặc biệt là trong quan niệm của Nho giáo?
Trong tập thơ, ngoài quan niệm nghệ thuật về con ngƣời phải là bậc quân
tử dòng dõi anh kiệt tài hoa thì ta còn bắt gặp quan niệm nghệ thuật về cảnh
vật cuộc sống con ngƣời. Nhiều bài ở phần Phong cảnh môn và Phẩm vật môn
nói về thời tiết hay cây cỏ thƣờng gửi gắm tƣ tƣởng triết lý của đạo về vũ trụ,
xã hội, nhân sinh… Trong không khí thời đại tràn ngập niềm vui, con ngƣời
có nhu cầu “ngâm hoa vịnh nguyệt”, “đối chén họa vần”. Phải chăng “Đạo
ngƣời” của Nho giáo ở đây bao hàm cả tình ngƣời và tình cảm con ngƣời với
thiên nhiên. Lật trang sách, biết đƣợc thời đại tác phẩm ra đời, biết đƣợc tác
giả viết nên chúng, ta đoán bắt đƣợc rằng cảnh vật thiên nhiên nếu có đƣợc
miêu tả thì cũng là cảnh đẹp theo thƣớc đo chuẩn mực của Nho giáo. Đó là
trăng hoa tuyết nguyệt – nơi mà ngƣời quân tử có thể trải lòng mà vui cùng
gió trăng. Hơn nữa, chữ “lễ” trong Nho giáo quy định những điều nói đến
phải trang nhã nên ắt hẳn cảnh ở đây chẳng thể là cảnh thô tục đời thƣờng.
Thật đúng nhƣ vậy:
Tuyết nguyệt phong hoa xui hứng khách,
Cầm kỳ thi tửu gợi lòng ngƣời
Đây là những câu thơ trong bài Bát vịnh khởi ngâm mở đầu phần Phẩm
vật môn đã dự báo trƣớc rằng một loạt những bức tranh thiên nhiên mĩ lệ sẽ
xuất hiện. Cái tao nhã của Nho giáo thể hiện ngay ở nhan đề các bài thơ:
Tuyết, Nguyệt, Phong, Hoa. Vẽ về tuyết phải gắn liền với Đạo:
Cửa Trình chăm chăm lòng cầu đạo,
24
Thành thái hây hây chí lập công
(Tuyết, bài 2, Phẩm vật môn)
Tả về phong cũng phải nhắc tới điển tích ghi trong Sử ký và Hán thƣ:
Xem cậy mới biết lòng Cơ Đán
Thấy cát thì hay phúc Bái Công
(Phong, bài 4, Phẩm vật môn)
Các thú vui: Cầm, kì, thi, tửu cho tới các loài cây: tùng, cúc, trúc, mai,
sen, hải đƣờng,.. đều rất thanh cao và mang chí khí tƣợng trƣng cho ngƣời
quân tử. Viết về hoa mai có tới 6 bài, về sen có tới 7 bài, chƣa kể hoa cúc, cây
hòe, cây me, hải đƣờng, mẫu đơn, ba tiêu… thiết nghĩa nếu quy tụ lại, những
trang thơ ấy chẳng khác nào một khu vƣờn tràn ngập hƣơng sắc thanh tao và
cao quý trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Nét quý phái của ngòi bút cung
đình là ở đó, cái nhã nhặn của Nho giáo là ở đó. Hơn nữa, tả hoa mà có nhắc
đến chúa:
Phi Đƣờng chi ngọc tin thôi lần,
Chúa Tống đà nhiều phát thƣởng qua
(Hoa, bài 5, Phẩm vật môn)
Nói cúc trong đó có chuyện Đào Tiềm hay cùng bạn uống rƣợu trong
vƣờn cúc:
Ba đƣờng Tƣởng Hủ hồn thêm nhặt,
Mấy phút Uyên Minh hứng chẳng dài
(Cúc hoa, bài 15, Phẩm vật môn)
Họa về hoa mẫu đơn có vẻ đẹp tựa nhƣ mỹ nhân đƣơng say rƣợu buổi
sáng gắn với việc Tắc Thiên hoàng hậu đời Đƣờng hạ chiếu đi Lạc - dƣơng
ngắm hoa:
Thức tƣơi chiếm đƣợc xuân thiên hạ,
Giá trọng kham khoe đất Lạc - dƣơng
25
(Mẫu đơn, bài 16, Phẩm vật môn)
Chƣa kể đến viết về sen thì nhắc tới Tây tử, Thái Chân, Ả Tây,… về mai
thì so sánh chẳng khác nào bức tranh của Vƣơng Duy vẽ. Tả cảnh tả ngƣời
nhƣng những trang viết của Hồng Đức quốc âm thi tập cũng không thiếu
những bài thơ viết về vật. Quả dƣa, củ khoai, rau cải cho tới hòn đá, cái nón,
cái rế,… thậm chí đến con rận, con kiến, con muỗi,… những hình ảnh tƣởng
chừng không bao giờ xuất hiện trong một tác phẩm do vua quan viết chịu ảnh
hƣởng cung cách cao quý lễ nghi của Nho giáo vậy mà giờ đây lại bất ngờ
xuất hiện. Điều này có mâu thuẫn và đi lạc chủ đề chăng? Không, quan niệm
nghệ thuật của tác giả nắm chắc gốc rễ và tƣ tƣởng của tập thơ nên dù có sử
dụng phƣơng tiện truyền đạt là gì thì vẫn chung một ý đồ mục đích sáng tác.
Viết về những đồ vật tầm thƣờng, con vật nhỏ bé nhƣng chúng lại đƣợc biến
hóa khéo léo dƣới ngòi bút của tác giả để thể hiện lòng trung thành của bề tôi
với vua chúa, hết mực tận tâm với chữ “trung” trong đạo lý tam cƣơng:
Phô loài cả vóc nghênh ngang,
Mòn mọn song mầu kiến mấy càng.
Đạo biết quân thần tôn nhƣợng,
Cơ hay thiên địa nhu cƣơng.
Báo ơn nghĩa cả danh còn để,
Xuyên ngọc tài cao tiếng hãy vang.
Có thở trận ra binh phụ tử,
Kỳ kỳ chính chính sắp đòi hàng.
(Nghĩ, bài 50, Phẩm vật môn)
Tác giả mƣợn đặc điểm loài kiến để nói về đạo quân thần, về danh về
nghĩa về tài. Nhƣ vậy, cái bình thƣờng, nhỏ bé kia đâu còn là nghịch lý mâu
thuẫn khi đƣa vào tác phẩm, mà trái lại nó trở nên thú vị và mới lạ hơn bao
giờ hết khi dùng để nói Đạo.
26
Nhƣ vậy có thể thấy rằng quan niệm nghệ thuật của các tác giả viết tập
thơ chịu ảnh hƣởng sâu sắc bởi tƣ tƣởng Nho giáo: “văn chƣơng phải để giáo
hóa, có quan hệ đến thế đạo, nhân tâm, có tác dụng di dƣỡng tính tình nên
phải có nội dung đạo lý” [5, tr.52]. Nói về đạo thì phải gắn với ngƣời quân tử
cụ thể là vua, quan, tƣớng tài trong xã hội bởi vì “đối chiếu một nhân vật lịch
sử nào đó với những chuẩn mực đạo đức, lí tƣởng chính trị để căn cứ vào đấy
mà khen chê, đó là cách làm quen thuộc của nhà nho khi viết thơ vịnh sử”
[21, tr.120]. Chính vì lẽ đó nên con ngƣời đƣợc xây dựng luôn theo một
khuôn mẫu nhất định. Nhân vật ở đây là nhân vật lịch sử, nhân vật chức năng
buộc ngƣời đọc phải ngƣỡng vọng tôn kính. Không chỉ có nhân vật, con vật
đồ vật hay cảnh vật thậm chí các thú vui cũng đều theo chuẩn mực của cung
đình quý tộc, theo chữ “lễ” của Nho giáo. Phép tắc, chuẩn mực, lễ nghi không
có chốn dung thân cho những điều tầm thƣờng, dung tục. Cái bình thƣờng nếu
đƣợc đề cập đến cũng là phƣơng tiện để nói đạo. Hoàn cảnh lớn ở đây là xã
hội thời thái bình thịnh trị, dân chúng ấm no hạnh phúc, đã qua xa rồi cái thời:
Nƣớng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dƣới hầm tai vạ
(Bình Ngô Đại cáo - Nguyễn Trãi)
Nhà vua tập trung xây dựng một xã hội theo chuẩn mực đức đạo của
Nho giáo, chỉ có Nho giáo mới gìn giữ đƣợc phép tắc trật tự trong xã hội. Các
tác giả phóng ngòi bút của mình trong niềm say mê bất tận khi viết về non
sông đất nƣớc mình. Đó là âm hƣởng chung của thời đại, của cả một nền văn
học lúc bấy giờ. Những phát ngôn cho tu, tề, trị, bình là tôn chỉ của thời đại.
Chúng ta thật chẳng thể nào tìm thấy một con ngƣời luẩn quẩn trong khát
vọng hạnh phúc bình thƣờng, với nỗi trăn trở nhỏ mọn cho cuộc sống hằng
ngày, hay những than thở đớn đau trong cuộc đời… tất cả những điều đó chỉ
có thể xuất hiện trong văn học giai đoạn sau khi văn học thoát ly khỏi khuôn
27
mẫu, tiến gần và bám sát vào đời sống trần tục của con ngƣời. Còn ở đây, các
trang văn đƣợc dành cho đấng bậc, vua chúa, cho lý tƣởng thời đại. Tác giả là
những ngƣời đứng đầu xã hội chịu ảnh hƣởng sâu sắc bởi tƣ tƣởng Nho giáo,
muốn dùng Nho giáo để thiết lập xã hội nên những trang viết mang đậm tƣ
tƣởng của Đạo.
Tóm lại, về chất, tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập vẫn giữ vững và
tiếp nối, phát triển quan niệm tƣ tƣởng của các tác phẩm trong nền văn học
trung đại thời kì đó. Hoàn cảnh xã hội, lý tƣởng thời đại ảnh hƣởng sâu sắc tới
quan niệm nghệ thuật của ngƣời viết. Đó là xã hội:
Nhà nam nhà bắc đều no mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
(Nhất canh, bài 33, Thiên địa môn)
Xã hội ấy “tạo nên môi trƣờng lí tƣởng để các Nho sĩ có thể thực hiện
hoài bão tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” [7, tr.140], “Nho học thịnh
vƣợng, từ tầng lớp Nho sĩ “dấn thân yêu đời” (Thanh Lãng) đến các võ quan
đều sùng chuộng sách thánh hiền, yêu thích thơ văn” [7, tr.140]. Tác giả tập
thơ phần lớn là Nho sĩ nên “văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”, họ thổi luồng tƣ
tƣởng Nho giáo vào những trang viết. Dƣới sự chỉ đạo đƣờng lối văn nghệ
của nhà vua, các nhân sĩ thời bấy giờ, các nhà thơ hội Tao đàn đã mất đi ít
nhiều sự sáng tạo, mất đi ít nhiều cảm xúc thực của mình, nhất là trong thơ trữ
tình tuy nhiên chính vì thế nên Hồng Đức quốc âm thi tập là tác phẩm nằm
trong khôn khổ tiêu biểu cho giai đoạn văn học lúc bấy giờ về cả nội dung lẫn
nghệ thuật. Xã hội an yên, nhân dân ấm no, đạo đức con ngƣời và trật tự xã
hội nằm trong vòng cƣơng tỏa của Nho giáo. Nhƣ vậy, cội nguồn hạnh phúc
cuộc đời không phải ở cõi tiên, cũng chẳng phải ở cõi âm mà nằm trong chính
cuộc đời trần tục bình thƣờng gắn liền với triết lý của nhà Nho và bắt nguồn
từ Nho giáo.
28
2.2. Ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo trong nội dung tác phẩm
2.2.1. Thiên mệnh, quân vương và thời thái bình, thịnh trị
Thiên mệnh là một khái niệm triết học cổ của Trung Hoa về tính chính
danh của bậc quân vƣơng đồng thời là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý
của đạo Nho. “Mệnh” ở đây “với tƣ cách sự ủy thác quyền lực tối cao và
thiêng liêng, tức quyền cai trị” [13, tr.59], nó chỉ quyền lực dành riêng cho
một ngƣời. Theo lẽ đó thì Trời là đấng giao quyền chỉ cho một ngƣời làm vua
cai quản thiên hạ. Nếu ngƣời này là một kẻ bạo ngƣợc, thất đức và không
xứng đáng thì có thể đánh mất Thiên mệnh và trời sẽ trao cho một ngƣời
khác, đó chính là sự thay đổi triều đại. Thuyết Thiên mệnh trong triết lý đạo
Nho của Khổng Tử quan niệm sự sống chết của các loài đều do Ngọc hoàng
Thƣợng đế nắm quyền. Trong xã hội phong kiến, nhà vua tự xƣng là con của
Ngọc hoàng Thƣợng đế, đƣợc gọi là Thiên tử cho nên mệnh lệnh của nhà vua
là tuyệt đối. Thuyết thiên mệnh của Khổng Tử có bốn yếu tố chính:
- Tri mệnh: Biết mệnh Trời mà tuân theo, không nên chống trả.
- Phối mệnh: Phải luôn luôn trau dồi đức hạnh để luôn xứng đáng là
con của Trời.
- Sĩ mệnh: Không nên than vãn trách cứ mà nên an nhiên chờ đợi mệnh
Trời.
- Úy mệnh: Phải kính sợ mệnh Trời, chớ cãi lại.
Học thuyết Nho giáo đề cao tuyệt đối ngôi vua chuyên chế và dùng
mệnh trời làm cơ sở lý giải đế quyền. Vua hay chính là hoàng đế - danh hiệu
tôn quý của ngƣời có địa vị làm chủ. Sự tồn tại của địa vị hoàng đế có tính
phủ định toàn bộ các nhân cách độc lập khác. Thiên mệnh nằm trong mối
quan hệ với thiên hạ và thiên tử. Thiên hạ (dƣới trời) thuộc quyền sở hữa của
hoàng đế, mọi cá thể không ai không là bề tôi, không ai là không chịu sự chi
29
phối của thiên mệnh. Để trở thành một ngƣời nắm thiên mệnh anh minh, đƣợc
dân chúng tin phục thì phải có “chí đức”, có một số phẩm chất nhất định nhƣ:
chí hiếu, chí nhân, chí minh, chí thành chí kính…
Hồng Đức quốc âm thi tập là tác phẩm đƣợc viết dƣới sự chủ súy của
nhà vua, dƣới thời Nho giáo phát triển rực rỡ nên chắc chắn tác phẩm mang
nặng tƣ tƣởng thiên mệnh. Thuyết Thiên mệnh trong Hồng Đức quốc âm thi
tập thể hiện ở chỗ tác giả khẳng định vị trí vai trò của vua Lê Thánh Tông qua
đó ngợi ca công đức nhà Lê. Bất kì một quyền lực chính trị nào trong lịch sử
nhân loại đều là sản phẩm của một quá trình tranh đấu giành giật giữa các
nhóm, các tập đoàn xã hội và đƣợc duy trì, bảo vệ, củng cố bằng sức mạnh vật
chất mà đỉnh cao là bạo lực. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo
chống lại ách đô hộ của nhà Minh giành thắng lợi mở ra kỉ nguyên độc lập
cho dân tộc, nhà Lê đƣợc thành lập. Trong lịch sử các triều đại phong kiến
Việt Nam, nhà Lê đƣợc suy tôn ca ngợi không chỉ bởi dƣ âm vẻ vang của
chiến thắng lịch sử mà còn bởi sự thịnh trị no ấm kéo dài suốt 10 thập kỉ độc
lập đó. Các cải cách xã hội của nhà vua đều rất tích cực và tiến bộ về mọi
mặt. Điểm đáng lƣu ý nhất là Lê Thánh Tông đã suy tôn Nho giáo lên thành
quốc giáo, dùng những nguyên tắc trong Nho giáo để thiết lập trật tự kỉ cƣơng
xã hội. Để ca ngợi cuộc sống ấm no của nhân dân, đất nƣớc, dƣới triều Lê có
câu:
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông,
Lúa tốt đầy đồng trâu chẳng buồn ăn
Tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập đã phản ánh rất rõ về thời đại mà
dân tộc nào cũng mơ ƣớc. Nhiều trang thơ đƣợc dành để ca ngợi vị vua anh
minh tài giỏi rất mực yêu thƣơng dân, đem lại cho nhân dân cuộc sống an vui,
hạnh phúc. Nho giáo đề cao và coi trọng vị trí tối cao của Thiên tử - nhà vua.
Có vị vua nhờ vào đó mà cậy thế, lộng hành độc tài độc đoán. Lê Thánh
30
Tông dùng Nho giáo để thắt chặt kỉ cƣơng trị quốc nhƣng không dựa vào Nho
giáo để lộng hành mà trái lại, đức vua lấy Nho giáo để răn mình, để tu thân và
sau đó tề, trị, bình, làm gƣơng cho các đấng quân tử trong thiên hạ:
Lòng vì thiên hạ những sơ âu,
Thay việc trời, dám trễ đâu.
Trống dời canh còn đọc sách,
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.
Nhân khi cơ biến xem ngƣời biết,
Chứa thuở kinh quyền xét lẽ mầu,
Mƣa biểu áo vàng chăng có việc,
Đã muôn sự nhiệm trƣớc vào tâu.
(Tự thuật, bài 1, Nhân đạo môn)
“Thay việc trời” “vì thiên hạ” chính là trách nhiệm của đấng quân vƣơng.
Trong bài Tự thuật này, ta nhận thấy rõ đây là lời của nhà vua qua khẩu khí,
ngôn ngữ lời thơ. Nhà vua ý thức đƣợc trọng trách mình đang mang, ý thức
đƣợc mình là ngƣời phải lo trƣớc nỗi lo thiên hạ chứ đâu nhƣ ngƣời ta vẫn
tƣởng: “áo vàng chăng có việc”. Dƣới chế độ quân chủ phong kiến, coi vua là
trời, coi mệnh vua là thiên mệnh, ngƣời ta thƣờng ám ảnh về một ông vua sa
đọa, cậy quyền thác loạn làm khổ dân chúng. Nhƣng ông vua ở trong bài thơ
hay chính là vị vua dƣới thời Hồng Đức lại mang trong mình nỗi ƣu tƣ canh
cánh lo cho dân cho nƣớc. Ông đặt cuộc sống của mình vào cuộc sống của
nhân dân, coi cuộc sống của nhân dân là cuộc sống của mình. Theo quan niệm
của Nho giáo, mệnh trời là vô thƣờng đối với những kẻ hôn quân bạo chúa:
“duy mệnh bất vu thƣờng, đạo thiện tắc đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỹ (chỉ
mệnh là không có định, thiện thì đƣợc, không thiện thì mất). Nho giáo cũng
chỉ rõ rằng muốn giữ đƣợc thiên mệnh thì phải có “chí đức”. Lê Thánh Tông
31
chính là một ông vua có “chí đức” mà Nguyễn Trãi khao khát một đời: “ƣớc
một tôi hiền, chúa thánh minh”.
Đấng quân vƣơng mà tập thơ hết lòng ca ngợi chính là vị vua lý tƣởng
thời Hồng Đức. Mặc dù đất nƣớc đang trong cảnh thái bình nhƣng ngƣời vẫn
ý thức rất rõ rằng nƣớc ta là một đất nƣớc nhỏ bé luôn bị giặc nhòm ngó nên
nhà vua không cho phép mình hƣởng lạc an nhàn mà còn dốc sức xây dựng
một giang sơn giàu mạnh. Nhƣ vậy, “thiên mệnh” ở đây đặt đúng ngƣời,
ngƣời dùng thiên mệnh mà tạo phúc cho dân, ngƣời ý thức đƣợc trọng trách
của hai từ “thiên mệnh”. Chính bởi đức vua anh minh nhƣ thế, nên dân chúng
đã dành rất nhiều lời ngợi ca cho ngài. Rất nhiều bài thơ đã nói thay cho lòng
dân:
Từ thuở Đông Hoàng chịu lấy quyền
Thiều quang làm cảnh rạng xuân thiên
(Lại vịnh cảnh mùa xuân, bài 6, Thiên địa môn)
Câu thơ nói về mùa xuân của đất trời hay chính là mùa xuân của đất
nƣớc Đại Việt. Khi Lê Thánh Tông lên ngôi, đất nƣớc bƣớc vào một mùa
xuân của hạnh phúc ấm no. Thật đúng với lời ca ngợi của học sĩ Đào Cử: “Từ
khi đức vua lên ngôi, trong ngoài đều phục, mƣa nắng thuận hòa, dân vật yên
thịnh” [3, tr.13.14]. Hồng Đức quốc âm thi tập là sáng tác của nho sĩ mà chủ
yếu là của Hội Tao đàn, đều là quân thần của vua, họa thơ của vua và làm thơ
dƣới sự chủ súy của nhà thơ nên lời thơ có phần khuôn sáo, gò bó, thiên về ca
tụng. Tuy nhiên bên cạnh sự hạn chế đó, trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi
tập ta vẫn thấy những bài thơ ca ngợi minh quân một cách chân thành, cảm
phục, xuất phát từ đáy lòng. Điều này thể hiện rõ trong chùm thơ Vịnh tết
Nguyên đán:
Ba dƣơng đã gặp thuở thì vần,
Bốn bể đều mừng một chúa xuân.
32
Nức ngai vàng, hƣơng mấy hộc,
Trang cửa phƣợng ngọc mƣời phân.
Trời lồng lộng hay lòng thánh,
Gió hây hây khắp muôn dân.
Nhờ ấm nhân khi hênh bóng nắng,
Ƣớc dâng muôn tuổi chúc ngô quân.
(Họa vần bài Vịnh tết Nguyên đán, bài 3, Thiên địa
môn)
Những lời ca chúc tụng ấy cứ trở đi trở lại:
Tƣợng mở thái hòa Ngiêu vỗ trị,
Ơn nhiều chẩn thải Hán nuôi dân.
Đài xuân bốn bể đều vây họp,
Tuổi tám ngàn tôi chúc thánh quân.
(Vịnh cảnh ngày xuân, bài 5, Thiên địa môn)
Phải là một ông vua anh minh và hết lòng vì dân chúng thì mới nhận
đƣợc những lời chúc tụng nhƣ vậy. Ví vua nƣớc ta nhƣ vua Nghiêu, vua
Thuấn, chúc vua ta thọ “muôn tuổi”, “tám ngàn tuổi” hay tuổi thọ cao nhƣ núi
Nam sơn là ƣớc mong vua sống đời đời để gây dựng một xã hội yên ấm thịnh
trị nhƣ bấy giờ. Đọc những vần thơ mới thấy ơn vua lớn nhƣờng nào. Vua là
thiên tử, nắm trong tay thiên mệnh nhƣng thiên tử và thiên mệnh ấy lại suốt
đời phục vụ và lo lắng cho nhân dân thật đúng là “chí đức”! Lời thơ là lời
ngợi ca, biết ơn và còn là sự khẳng định vị trí tối cao, quan trọng của nhà vua
trong thiên hạ. Vị trí ấy thu phục đƣợc tất cả lòng dân và bền vững là do tài
đức của nhà vua.
Để đề cao vị trí của quân vƣơng, của ngƣời nắm thiên mệnh, tác giả còn
đi ngợi ca các vua trung Quốc. Đó là vua Cao tổ nhà Hán:
…Sục vào núi trĩ hƣơu chùn cổ
33
Đuổi đến sông Ô khỉ ƣớt đuôi….
Bốn trăm nghiệp Hán dài lâu bấy,
Quá Lỗ vì chƣng chút đãi buôi.
(Vịnh vua Cao tổ nhà Hán, bài 2, Nhân đạo môn)
Bất cứ một vị vua nào lên nắm thiên mệnh đều trải qua quá trình tranh
đấu và gây dựng nghiệp lớn nhƣng nắm đƣợc thiên mệnh bền vững hay không
là do phẩm chất hợp muôn lòng ngƣời:
Cất quân nhân nghĩa yên đòi chốn,
Lấy đức khoan hòa trị bốn phƣơng.
Choi chói gây lên công nghiệp Hán,
Vì hay thâu đãi kẻ hiền lƣơng.
(Lại vịnh vua Cao tổ nhà Hán, bài 3, Nhân đạo môn)
Sau bài Tự thuật về Lê Thánh Tông là bài Vịnh vua Cao tổ nhà Hán, cả
hai đều là những ngƣời nắm thiên mệnh sáng suốt, tác giả có ý đặt vị trí của
bậc quân vƣơng nƣớc Đại Việt ta sánh ngang tầm với vị vua đã dựng nên
“bốn trăm nghiệp Hán”. Tuy hình thức thể hiện và hình ảnh sử dụng có phần
khuôn sáo song các nhân sĩ thời Hồng Đức đều rất chân thành trong nội dung
biểu hiện, đó là sự ngợi ca đƣơng kim hoàng thƣợng trên cơ sở thực tế, vị vua
ấy xứng đáng là niềm tự hào của dân tộc.
Không chỉ ngợi ca bậc quân vƣơng, khẳng định vai trò của nhà vua một
cách trực tiếp, mà nhiều bài thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập còn nói về
điều đó một cách gián tiếp thông qua việc khẳng định sự thịnh trị của triều đại
Lê Thánh Tông bằng cách ngợi ca cuộc sống thái bình dƣới sự trị vì của nhà
vua. Nho giáo quan niệm đặc quyền của hoàng đế - thiên tử là vô hạn độ và
Nho giáo chú trọng nhấn mạnh vào việc tu thân của bậc đế vƣơng để làm
gƣơng cho thiên hạ. Thiên hạ là của thiên tử, nhận đƣợc từ trời nhƣng nƣớc
phải có dân. Vua là ngƣời nắm thiên mệnh nhƣng không phải vua không chịu
34
sự ràng buộc nào. Vua đƣợc đặt trong mối quan hệ với dân, Nho giáo quan
niệm theo Mạnh Tử là: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” hay “ý dân
là ý trời”, “làm lật thuyền mới biết dân nhƣ nƣớc”. Thế mới nói hoàng đế
nhận thiên mệnh từ trời, nhƣng vị hoàng đế sáng suốt là ngƣời nắm thiên
mệnh anh minh để phục vụ dốc lòng vì dân chúng, đƣợc dân chúng tin yêu.
Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế nhƣ vậy. Đất nƣớc trong cảnh thái bình và
phát triển, dân chúng không quên nhớ về công lao của nhà vua. Điều đó trƣớc
hết đƣợc thể hiện qua chùm thơ vịnh cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rất
tuyệt mỹ mà vô cùng yên ả. Đó là tiết xuân:
Hiu hiu gió thổi hƣơng lồng áo
Phơi phới mƣa sa ngọc đƣợm chân.
(Vịnh cảnh ngày xuân, bài 13, Thiên địa môn)
Từ xuân chuyển sang hè với những hình ảnh rất quen thuộc mà ta đã
bắt gặp trong Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi:
Lầu cao gió mát ngƣời vô sự,
Khúc Nam huân văng vẳng nghe.
(Vịnh cảnh mùa hè, bài 14, Thiên địa môn)
Bức tranh thu vốn đã bình yên từ muôn đời trƣớc, nay gặp chốn nƣớc
nhà độc lập lại càng trở nên yên ả:
Thảnh thơi đêm có vầng trăng giãi,
Tỏ làu làu khắp chín châu.
(Vịnh cảnh mùa thu, bài 9, Thiên địa môn)
Mùa đông mà vẫn ấm áp nhƣờng nào:
Điểm tuyết nào non đầu chẳng bạc,
Hóng lò có khách mặt thêm hồng.
Một mai sang đến xuân đầm ấm,
Đƣờng tía xem hoa diễu ngựa rong.
35
(Vịnh cảnh mùa đông, bài 11,Thiên địa môn)
Hơi thở về cuộc sống thanh bình còn đƣợc thổi vào trong nhóm bài thơ
vịnh năm trống canh. Trong năm canh, âm thanh có lúc động lúc tĩnh nhƣng
cái nền âm thanh bao giờ cũng là yếu tố động. Màu sắc cũng vậy, có lúc đậm
lúc nhạt nhƣng cái nền chung luôn chan hòa ánh sáng. Mặc dù cảnh vật đƣợc
miêu tả vào ban đêm nhƣng lại rất sống động, và tràn đầy sức sống. Từ canh
một cho tới canh năm, không bao giờ ngƣời dân phải giật mình hoang mang:
Lầu treo cung nguyệt ngƣời êm giấc,
Đƣờng quanh nhà thôn cửa chặt cài.
Cảnh vật chòm chòm bay lửa đóm,
Cỏ hoa gốc gốc đƣợm hƣơng trang.
(Nhị canh, bài 34, Thiên địa môn)
Cảnh vật đƣợc miêu tả vào ban đêm nhƣng không hề tiêu sơ ảm đạm
mà rất thanh sáng. Khung cảnh hoàn toàn khác với tình cảnh loạn lạc thời
phong kiến khiến ngƣời dân không một đêm nào yên giấc. Chƣa bao giờ hơi
thở cuộc sống lại bình yên và gần gũi đến nhƣ vậy. Phải chăng đây là những
lời thơ đẹp nhất Hồng Đức quốc âm thi tập – những lời thơ xuất phát từ tấm
lòng ngợi ca và biết ơn sâu sắc cuộc sống bình yên:
Nhà Nam, nhà Bắc đều no mặt,
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
(Nhất canh, bài 33, Thiên địa môn)
Hai câu thơ chính là khúc ca trong lòng tất cả mọi ngƣời: khúc ca thái bình
ca ngợi cuộc sống và công lao của ngƣời đã đem lại cuộc sống thái bình đó.
Cuộc sống thái bình còn đƣợc thể hiện qua nhóm bài thơ Vịnh mƣời hai
tháng. Từ tháng giêng cho tới tháng mƣời hai, đâu đâu cũng ngập tràn sức
sống và niềm hân hoan phơi phới. Mỗi tháng có một vẻ đẹp thanh bình riêng.
36
Họa thêm vào bức tranh thanh bình của đất nƣớc bốn mùa là rất nhiều bài thơ
vịnh trăng. Vầng trăng vốn đã đẹp, nhƣng chỉ tuyệt mỹ khi cảnh vật yên ả:
Suốt nhân gian, khắp mọi tình,
Cao vòi vọi, sáng thanh thanh.
(Họa vần bài vịnh trăng II, bài 20, Thiên địa môn)
Nhƣ vậy, trong tập thơ ở phần Thiên địa môn, đã dành rất nhiều trang
viết về cuộc sống thái bình thịnh trị. Ca ngợi về cuộc sống ấy là cách gián tiếp
các tác giả gửi gắm tấm lòng biết ơn của nhân dân tới nhà vua và triều đại Lê
sơ. Khi ca ngợi nhà vua, ca ngợi cuộc sống thái bình thịnh trị, các tác giả luôn
có ý thức đồng nhất triều đại phong kiến với đất nƣớc với dân tộc. Và quả thật
ở nửa cuối thế kỷ XV, giai cấp phong kiến đang nắm quyền lãnh đạo quốc gia
đã đƣa đất nƣớc phát triển tới đỉnh cao thịnh vƣợng. Lê Thánh Tông và vƣơng
triều của ông đã làm nên lịch sử cho giai đoạn này của dân tộc.
Để đạt đƣợc thành công rực rỡ nhƣ thế, Lê Thánh Tông - vị vua anh
minh đứng đầu triều đại đã vận dụng tích cực những tƣ tƣởng của Nho giáo
để cai trị đất nƣớc. Cũng vì lẽ đó nên các bài thơ trong Hồng Đức quốc âm thi
tập khi nói về tƣ tƣởng thiên mệnh, về đấng quân vƣơng, về thời thái bình
thịnh trị đều toát lên tƣ tƣởng Nho giáo. Tác giả trong Hồng Đức quốc âm thi
tập đã thay lời nhân dân, đề cao vị trí vai trò của nhà vua đồng thời ca ngợi
vua Lê Thánh Tông thông qua việc ngợi ca cuộc sống dân ấm dân yên của
triều Lê sơ. Rất nhiều lần cụm từ “chúc thánh quân”, “đội đức hồng quân”,
“nhớ chúa” trở đi trở lại trong các bài thơ. Thậm chí, trong phần Phẩm vật
môn, khi nói về ngƣời bù nhìn trong bài Cảo nhân cũng nhắc tới “nhà chúa”;
trong bài Cú (cái đó) cụm từ “ơn chúa” lại xuất hiện; viết về cái ấm đất, bài
thơ Thổ vu không quên có câu: “Hôm mai ninh nƣớc vì nhà chúa”; mở đầu
bài thơ Tân lang (cây cau) là hai từ “ơn chúa”; bài thơ Phiến (cái quạt) nói về
công dụng của cái quạt: “Một mình thờ chúa thuở hè thiên”; viết về quả dƣa
37
với đặc điểm ruột đỏ vỏ xanh, bài thơ Qua không quên so sánh đặc điểm ấy
với “lòng son thờ chúa”. Làm thơ về cổ thành xƣa, tác giả không quên ngợi ca
công đức của ngƣời xây thành giữ thành:
Khen ai gây đặng thành đô ấy,
Ấy của tiên vƣơng của quốc gia.
(Cổ thành, bài 1, Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập)
Dù làm bất cứ điều gì, nhân dân luôn biết ơn vua chúa:
Tay giũ tơ vàng, ngờ ấy chiếu,
Lƣng đeo tuyết trắng ngỡ rằng đai
(Lại vịnh thuyền ngƣời đánh cá, bài 64, Phong cảnh
môn)
Ngƣời đánh cá thả lƣới tơ mà ngỡ rằng lời vua tinh tế nhƣ sợi tơ. Để có
đƣợc lòng dân nhƣ vậy là do Lê Thánh Tông đã hiểu đƣợc sức mạnh bản thể
của “dân” trong quan niệm của Nho giáo. Ông nắm trong tay thiên mệnh
nhƣng “dân” có thể “cách mệnh” nếu sống dƣới ánh cai trị của một ông vua
tàn bạo ngu dốt. Lê Thánh Tông đã tiếp nối tƣ tƣởng: “việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân” của Nguyễn Trãi. Ở thời loạn, muốn “yên dân” thì phải lo “trừ bạo”
còn ở thời bình, nhà vua hiểu “yên dân” theo một lớp nghĩa tiến bộ hơn đó là:
ổn định trật tự kỉ cƣơng đạo đức xã hội và phát triển đất nƣớc.
Nho giáo bắt nguồn từ Trung quốc, và đất nƣớc này đã có rất nhiều vị
vua cũng đã vận dụng thành công Nho giáo để tu thân và trị quốc. Hồng Đức
quốc âm thi tập không quên dành những trang văn để ca ngợi họ. Đó là vua
thứ tám triều nhà Hán:
Viêm Lƣu trời mở vận trùng quang,
Ngôi báu xƣa giày vỗ bốn phƣơng…
Trong triều rủ áo đền phong thẳm,
Ngoài cõi nghiêng tai tiếng đức vang.
38
(Nguyên đế tức vị, bài 27, Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập)
Đức độ của vua rạng rỡ nhƣ ánh mặt trời, mặt trăng, chỉ cần rủ áo chắp
tay là đất nƣớc thái bình thịnh trị, tất cả đều vểnh tai nghe giáo hóa của triều
đình. Lời lẽ mà các tác giả ca ngợi một vị vua đức độ không dừng lại ở đó:
Thụy ứng điềm lành thuận mƣa gió
Đƣờng, Ngu đem lại thái hòa xƣa.
Giữa trời chăm chắm âu vàng đặt,
Tám cõi làu làu đuốc ngọc đƣa…”
(Thiên hạ thái bình, bài 28, Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập)
Nhƣ vậy, có thể nói, Hồng Đức quốc âm thi tập đã dành rất nhiều trang
viết trực tiếp hoặc gián tiếp nói về nhà vua gắn liền với tƣ tƣởng thiên mệnh.
Các tác giả dùng ngòi bút thấm nhuần tƣ tƣởng Nho giáo để làm rõ về trách
nhiệm đúng đắn của hai từ “thiên mệnh” trong xã hội dùng Nho giáo để cai trị
đất nƣớc. Những trang viết ấy đã lý giải tại sao thời Hồng Đức xã hội lại phát
triển đến vậy. Viết về vấn đề tƣởng nhƣ khô khan ấy nhƣng nội dung thơ ca
lại đậm tính trữ tình bởi cách thể hiện gián tiếpvà tình cảm chân thành xuất
phát từ nhân dân và tác giả.
2.2.2. Mối quan hệ xã hội trong nền nếp tam cương, ngũ thường
Một khía cạnh khác của Nho giáo đƣợc phản ánh trong Hồng Đức quốc
âm thi tập đó chính là các mối quan hệ xã hội đƣợc đặt trong nền nếp tam
cƣơng ngũ thƣờng. Nhiều bài thơ mang nội dung đó đã phản ánh đƣợc tinh
thần thời đại Hồng Đức, phản ánh đƣợc kỉ cƣơng trật tự xã hội mà nhà vua Lê
Thánh Tông thiết lập để xây dựng nên một thời kì phong kiến thịnh trị.
Giƣờng mối trong nƣớc đã hợp với giƣờng mối của trời đất nhƣ một lẽ tự
nhiên:
Quyền cƣơng thẩy đã hợp thiên cƣơng
(Tháng mƣời hai, bài 50, Thiên địa môn)
39
Trƣớc hết, tƣ tƣởng “tam cƣơng” của Nho giáo chi phối tới nội dung
nhiều bài thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Nhƣ đã giới thiệu ở phần
“những tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo” trong chƣơng một, tam cƣơng là ba
mối quan hệ chủ chốt trong xã hội: quân thần cƣơng, phụ tử cƣơng, phu phụ
cƣơng. Hay nói cách khác nó là chuẩn mực đạo đức phép tắc cƣ xử giữa: vua
– tôi; cha – con; vợ - chồng. Theo lẽ đó ngƣời trên (vua, cha, chồng) phải
thƣơng yêu, chăm sóc và bao dung ngƣời dƣới (bề tôi, con, vợ); ngƣợc lại bề
dƣới phải kính nhƣờng, thƣơng yêu, phục tùng và biết ơn ngƣời trên. Ban đầu,
Nho giáo coi giữa ngƣời và ngƣời có năm quan hệ (ngũ luân): vua - tôi, cha -
con, anh - em, vợ - chồng, bạn bè.Về sau ba quan hệ cơ bản đƣợc nhấn mạnh
là "Tam cƣơng". Cách ứng xử đúng mực nhƣ vậy thiết lập kỉ cƣơng từ gia
đình đến xã hội, lấy gia đình thuận hòa làm hạt nhân để xây dựng xã hội thái
bình, trật tự và ổn định.
Tuy nhiên, trong ba quan hệ này, quan hệ "vua - tôi" là quan trọng và
đƣợc đề cao nhất, trung quân (lòng trung với vua) cũng là ái quốc (yêu nƣớc).
Thật đúng nhƣ vậy, trong Hồng Đức quốc âm thi tập các tác giả đã tập trung
rất nhiều vào việc khai thác mối quan hệ vua – tôi. Theo quy tắc, bề tôi phải
nhất mực trung thành với vua, phục tùng tuyệt đối mệnh lệnh của vua. Bài thơ
Quân thần (bài 38, Nhân đạo môn) biểu hiện rõ nhất tƣ tƣởng “trung quân”
theo quan niệm của Khổng Tử: “quân quân, thần thần” (vua ra vua, tôi ra tôi).
“Tôi hiền chỉ thờ vua sáng, tƣớng tài chỉ giúp chúa thánh minh” là điều mà
Nguyễn Trãi thể hiện xuyên suốt trong Quốc âm thi tập, đến Hồng Đức quốc
âm thi tập nó lại đƣợc tiếp thu và phát triển. Chƣa bao giờ, chữ “trung” lại
đƣợc đề cao nhƣ ở Nho giáo. Tấm lòng trung thành, có thể chết vì bề trên mà
không hề do dự thật đáng cảm phục. Chữ “trung” ấy đem lại bao tình cảm tốt
đẹp và cao quý giữa bề dƣới và bề trên. Thứ tình cảm dƣờng nhƣ có khoảng
cách bởi địa vị xã hội nhƣng lại chuyển sang tình nghĩa khó quên. Trong bài
40
thơ Bình sa lạc nhạn (chim nhạn đáp xuống bãi cát phẳng) mƣợn hình ảnh về
loài chim nhạn nằm ở trên bãi cát, chim nhỏ nằm ngoài bảo vệ để tỉnh táo đề
phòng ngƣời hoặc cầy cáo đến bắt chim lớn nằm bên trong. Từ đó ý nói tình
nghĩa vua tôi khăng khít. Một bầy tôi trung thành là bầy tôi biết cùng vua,
giúp vua gánh vác giang sơn. Bài Sở hành hồng liễu nhất ngƣ châu:
Mựa nói giang hồ yên mỗ thú,
Chạnh lòng ngụy khuyết tiếng chuông sơ.
Và bài Lại bài trên họa vần lại bài thơ đó:
Dẽ có nơi khôn mạc đƣợc,
Ái ƣu khăn khắn một lòng sơ.
Ý thơ đều đến cuối bài mới bộc lộ kể về câu chuyện ngƣời thuyền chài
vui thú giang hồ nhƣng lúc nào cũng canh cánh hƣớng về vua, về nƣớc. Ở
đây, tƣ tƣởng “ái ƣu” xuất hiện. “Ái ƣu” là ái quân trung quốc, yêu vua lo
việc nƣớc. Nguyễn Trãi cả một đời canh cánh tấm lòng ái ƣu ấy. Và giờ đến
Lê Thánh Tông, vị vua đƣợc lòng dân nên có biết bao triều thần, bề tôi
hƣớng tấm lòng ái ƣu đó về ngƣời. Cụm từ “nghĩa chúa tôi” trong bài Táo
(bài 42, Phẩm vật môn) đến bài Thừa đang (bài 44, Phẩm vật môn) lại xuất
hiện, nó trở đi trở lại nhƣ một điệp khúc. Chƣa bao giờ tình cảm này lại gần
gũi và thân thiết đến vậy. Nguyên tắc “quân – thần” của Nho giáo là kỉ
cƣơng khắt khe nhƣng đồng thời nó lại là nền tảng để thiết lập tạo ra mối
quan hệ tình nghĩa đúng mực. Tấm lòng của bề tôi dành cho vua còn đƣợc
thể hiện một cách rất thú vị khi nói về đặc điểm của loài kiến trong bài Nghĩ:
“Đạo biết quân thần tôn nhƣợng”. Loài kiến có kiến chúa, kiến quân. Kiến
chúa phần nhiều ở trong tổ, kiến quân đi kiếm mồi về nuôi dƣỡng kiến chúa.
Điều đó khiến ta liên tƣởng đến bề tôi cả một đời cống hiến tận tụy cho nhà
vua. Nhƣ vậy, mối quan hệ vua – tôi theo tƣ tƣởng Nho giáo đã chi phối tới
ngòi bút và cách lựa chọn thể hiện hình ảnh của nhiều bài thơ trong Hồng
41
Đức quốc âm thi tập. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả tiếp tục mƣợn đặc
điểm của loài rận để nói về tấm lòng son trung thành sâu sắc của bề tôi dành
cho đấng quân vƣơng:
Hết lòng uống máu vì nhà chúa
Khăn khắn trong lòng một điểm đan.
(Bạch rận, bài 49, Phẩm vật môn)
Có thể nói đây là những vần thơ đạt tới độ đỉnh điểm có phần hơi cực
đoan và phiến diện khi nói về mối quan hệ vua – tôi. Đặc điểm của loài rận là
chuyên đi hút máu ngƣời và máu các loài động vật khác để sống. “Hết lòng
uống máu” một mặt chỉ tấm lòng son, tấm lòng trung thành đến tột độ vì bề
trên nhƣng mặt khác lại mang tính tiêu cực khi đặt vào mối quan hệ vua – tôi.
Trong lịch sử dân tộc, bên cạnh những ông vua tốt thì vẫn có những kẻ tàn
bạo cầm quyền. Vua sáng thì tôi hiền, nghe theo vua là tạo phúc cho nhân
dân. Ngƣợc lại những kẻ hôn quân bạo chúa làm chủ đất nƣớc, vua có độc ác
hay ngu dốt đến đâu thì bầy tôi vẫn phải nhất mực phục tùng. Nói nhƣ thái tử
Phù Tô: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Vậy nên dù vua có tàn độc
đến mức nào thì bầy tôi vẫn phải: “hết lòng uống máu vì nhà chúa” là ở chỗ
đó. Chữ “trung” có tính chất một chiều trong xã hội phong kiến chuyên chế.
Tuy nhiên, cũng giống nhƣ muốn giữ đƣợc thiên mệnh thì nhà vua phải có chí
đức, muốn bề tôi trung thành bền lâu thì nhà vua phải anh minh phải tu thân
để giữ mình. Nho giáo tƣởng nhƣ đặt ra các tƣ tƣởng chuyên chế độc quyền
nhƣng không, tất cả các tƣ tƣởng đó đều đƣợc đặt trên nền tảng đạo đức
cƣơng thƣờng. Vận dụng Nho giáo một cách tích cực sẽ khiến cho xã hội trở
nên tốt đẹp nhƣ cách Lê Thánh Tông đã làm và đƣợc lòng bề tôi:
Vua ơn nặng, thầy ơn nặng,
Dầu thác thì còn tạc đến xƣơng
(Tạ lại bài trên, bài 17, Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập)
42
Bên cạnh đó là mối quan hệ trong gia đình. Nho giáo quan niệm xã hội
tốt đẹp chỉ khi gia đình tốt đẹp bởi vậy mà kỉ cƣơng nề nếp đƣợc thiệt lập từ
trên xuống dƣới, từ gia đình cho tới ngoài xã hội. Mối quan hệ phụ - tử (cha –
con) gắn liền với đạo hiếu – đạo mà bất cứ thời đại nào cũng cần, tôn giáo nào
cũng phải có. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập, mối quan hệ giữa cha mẹ và
con cái có tính chất hai chiều: cha mẹ đối với con cái, con cái đối với cha mẹ.
Bài Giáo tử, bậc cha mẹ băn khoăn về cách dạy con sao cho bảo toàn cái
nghĩa cha con:
Lời năng nói, là lời năng oán,
Biết đổi cho ai dạy dỗ con
Bài Ái tử, tác giả nói về cách yêu con, dạy con của cha mẹ:
Dạy: chớ quên nghề cử tử,
Răn: mựa tới cửa quyền môn.
Thế khoa đời có năng phen kịp,
Ngõ phỉ lòng mừng thuở mặt còn.
Cha mẹ luôn mong muốn con đỗ đạt, lúc còn sống đƣợc trông thấy con
thành đạt là niềm hạnh phúc của cha mẹ. Nói về công dƣỡng dục mà cha mẹ
dành cho con, các tác giả không quên viết Tử đạo để nói về đạo làm con:
Đạo cha đức mẹ chất tầy non,
Lấy thảo mà thờ ấy đạo con.
Con đƣờng Nho giáo đƣa ta tới bổn phận và trách nhiệm. Trong bài thơ,
để trọn đạo làm con là không đƣợc quên ơn cúc dục của cha mẹ, là phải nối
nghiệp cha để “rạng sở tông môn”. Còn bài Lăng mẫu tống sứ giả trong lời
ngƣời mẹ dặn con ta bắt gặp chữ “trung” gắn liền với chữ “hiếu”:
Niềm trung hiếu khôn hai vẹn
Hội công danh dễ mấy lần.
Mệnh thiếp già này bao nỡ tiếc,
43
Về thì khuyên nó nghĩa quân thần
Trong hoàn cảnh hiểm nguy của vòng vây giặc, ngƣời mẹ vẫn dặn con
lấy “trung” làm “hiếu”. Trong phần thơ quốc âm về truyện chiêu quân cống
Hồ tác giả viết một loạt bài thơ kể về việc nàng Vƣơng Tƣờng đƣợc đƣa ra để
hứa thôn gả đi làm dâu nhà Hồ. Bài thơ Vƣơng Tƣờng tạ mẫu là sự giằng xé
giữa chữ “trung” và chữ “hiếu”:
Quân thần hai gánh nặng bằng non,
Phải đạo tôi thì lỗi đạo con
Có lẽ chƣa bao giờ chữ “hiếu” lại mang trọng trách lớn lao đến nhƣ vậy.
Nhƣ vậy, đạo trung hiếu của Nho giáo có ảnh hƣởng tích cực góp phần xây
dựng phẩm chất của ngƣời tri thức tiến bộ dƣới thời phong kiến.
Cùng với “phụ tử”, mối quan hệ “phu phụ” cũng đƣợc nhắc tới trong
Hồng Đức quốc âm thi tập. Quan hệ vợ chồng trong Ngũ luân đòi hỏi phải
thủy chung son sắc. Ngƣời chồng quan trọng là chữ “nghĩa” với vợ mà vợ
phải giữ tiết với chồng. Bài Phu xuất (chồng bỏ) kể việc ngƣời chồng bỏ vợ
do ngƣời vợ đã không giữ đúng mực đạo làm vợ theo quan niệm “tam tòng”
dẫn tới “thất xuất”:
Nguyệt lão xƣa kia khéo vụng cân,
Làm cho lẽo đẽo nhọc tinh thần.
Tam tòng trƣớc nàng đã lỗi,
Thất xuất rày anh mới phân.
(Phu xuất, bài 25, Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập)
Tƣ tƣởng Nho giáo trong xã hội phong kiến rất khắt khe với đạo làm vợ
của ngƣời phụ nữ. Lẽ tam tòng và tứ đức tạo ra chuẩn mực cho ngƣời phụ nữ
xƣa và buộc họ phải tuân theo. Nó góp phần tích cực trong việc giáo dục các
phẩm chất đạo đức cá nhân tốt đẹp cho phụ nữ, làm nên những phẩm chất đạo
đức truyền thống quý báu của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên mặt tiêu
44
cực của Nho giáo tạo ra sản phẩm là những ngƣời đàn ông chuyên quyền độc
đoán để rồi có những ngƣời đàn bà chính chuyên nhƣ Vũ Nƣơng mà vẫn chết
oan khuất. Tập thơ không quên dành những trang viết về những ngƣời phụ nữ
đức hạnh nhƣ Vũ Nƣơng. Đó là bài Hoàng Giang điếu Vũ Nƣơng, Lại bài
viếng Vũ Thị.
Quân thần, phu tử, phu phụ là ba mối quan hệ chính từ gia đình cho tới
xã hội bên cạnh đó tập thơ còn đề cập tới mối quan hệ anh em bạn bè. Bài
Huynh đệ trong phần Nhân đạo môn là bài ca về tình nghĩa anh em máu mủ.
Mƣợn tích ba anh em Điền Chân coi trong tình anh em khăng khít nhƣ cành
gắn với cây mà ăn ở chung cả đời với nhau, tích Tào Thực làm bài thơ về hạt
đậu mà nói về sự bất công của Tào Phi đối với mình,… bài thơ Huynh đệ răn
dạy về thứ tình cảm anh em máu mủ thiêng liêng và đúc kết lại: “Anh em thảo
thuận phúc nhà lành”.
Mối quan hệ bạn bè nằm trong quan niệm Ngũ luân của Đổng Trọng
Thƣ cũng đƣợc nhắc tới trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Tha hƣơng ngộ cố
chi (Đất khách gặp bạn cũ) kể về tình nghĩa “kim lan” của những ngƣời bằng
hữu thân thiết lâu ngày không đƣợc gặp nhau.
Nhƣ vậy, tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập đã lấy Nho giáo làm nền
tảng tƣ tƣởng. Từ cơ sở đó các tác giả xây dựng nội dung phản ánh mối quan
hệ tam cƣơng trong xã hội. “Với Nho giáo, không có con ngƣời cá nhân nhƣ
một hữu thể tồn tại độc lập mà chỉ có con ngƣời đặt trong mối quan hệ luân
thƣờng…sống theo trật tự đẳng cấp…giá trị của con ngƣời là ở đạo đức…đạo
đức trở thành một tiêu chuẩn cơ bản để phân loại con ngƣời trong văn chƣơng
nhà nho” [21, tr.123]. Nói đến tƣ tƣởng Nho giáo ngƣời ta không thể không
nhắc đến năm chữ Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Dù đã trải qua nhiều giai đoạn
lịch sử, cho đến bây giờ những yếu tố nhân văn thể hiện qua năm chữ trên vẫn
không mất đi giá trị. Để con ngƣời giữ đƣợc tam cƣơng thì phải đạt đƣợc năm
45
phẩm chất đó. Năm chữ đó, đƣợc khái quát lại trong một chữ “đạo” – cách
hành xử của con ngƣời trong cuộc sống. Chữ “đạo” ấy trở đi trở lại trong
Hồng Đức quốc âm thi tập:
Bảo rằng: Nhân nghĩa lấy làm sơ
(Tiến trung thôn tục, bài 10, Phong cảnh môn)
Xuất xử đòi thì đều phải đạo
(Lại vịnh thuyền ngƣời đánh cá, bài 65, Phong
cảnh môn)
Cửa Trình chăm chăm lòng cầu đạo
(Tuyết, bài 2, Phẩm vật môn)
Họ Chu từ thuở dƣỡng nên thân,
Năm đức gồm no: trí, dũng, nhân
(Kê, bài 61, Phẩm vật môn)
Nƣớc non dễ phụ ngƣời nhân trí
Nọ nọ Nam – dƣơng cũng có lều
(Lại bài trên, bài 10, Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập)
Vẹn chữ trung cần cho trọn đạo,
Chớ chơi trống bỏi trẻ xem khinh
(Lại bài trên, bài 14, Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập)
Chỉ với một phép liệt kê ta thấy tƣ tƣởng đạo đức của Nho giáo đã trở
thành nội dung của nhiều bài thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập.
Các tác giả của Hồng Đức quốc âm thi tập đã đem văn chƣơng của
mình truyền bá tƣ tƣởng Nho giáo cụ thể hóa nó bằng những lời răn dạy đạo
đức qua mối quan hệ xã hội với những nguyên tắc khắt khe; qua mối quan hệ
gia đình ràng buộc thứ bậc và bổn phận; qua đức tính con ngƣời với nhân lễ
nghĩa lễ trí tín:
Trời phó tính, ở thân ta,
46
Đạo cả cƣơng thƣờng năm lẫn ba,
Tôi gìn ngay phù rập chúa,
Con lấy thảo kính thờ cha.
Anh em chớ lời hơn thiệt
Bầu bạn ở nết thực thà,
Nghĩa đạo vợ chồng xem rất trọng,
Làm đầu phong hóa phép chƣng nhà
(Vi nhân tử, bài 37, Nhân đạo môn)
Có thể coi Vi nhân tử chính là tuyên ngôn đạo đức theo quan niệm Nho
giáo của cả một xã hội phong kiến phát triển giàu đẹp, nhân dân yên vui bấy
giờ. Phải chăng đó cũng là một cách trị vì thiên hạ của Lê Thánh Tông? Nho
giáo có nguồn gốc từ Trung Hoa khi truyền vào Việt Nam, đƣợc ngƣời Việt
Nam biến hóa đã trở thành văn hóa Nho giáo của ngƣời Việt. Vì thế mà
những tính chất hà khắc khuôn mẫu của giáo lý đã giảm bớt nhẹ nhàng lập
thành tôn ti trật tự tự nhiên. Nó trở thành nét đẹp ứng xử giữa ngƣời với ngƣời
trong xã hội.
Lật lại lịch sử xã hội thời bây giờ kết hợp cùng những trang thơ trong
Hồng Đức quốc âm thi tập, ta hiểu vì sao thời Hồng Đức đạo đức và nhân
cách con ngƣời lại tốt đẹp đến thế. Tất cả bắt nguồn từ việc nhà vua đã vận
dụng tƣ tƣởng Nho giáo để cai trị xã hội. Lê Thánh Tông tuyệt đối hóa vai trò
của Nho giáo – quốc giáo trong việc giáo dục đạo đức con ngƣời. Có lẽ vì vậy
mà Phật, Đạo mất dần địa vị. Khảo sát ở một tác phẩm tiêu biểu khác dƣới
thời Lê Thánh Tông, tƣ tƣởng hạ bệ Phật giáo của triều đại Lê Thánh Tông
đƣợc thể hiện rõ qua Truyện hai Phật cãi nhau trong cuốn Thánh Tông di
thảo (bản thảo đƣợc ghi chép lại thời Thánh Tông). Trong Truyện hai Phật
cãi nhau, tƣợng Phật bằng đất đƣợc miêu tả không khác nào một kẻ phàm phu
tục tử: “chân đạp lên đầu một con thú, tay cầm kiếm râu ria tua tủa nhƣ ngọn
47
kích…sắc mặt giận dữ…chỉ thẳng vào mặt một tƣợng Phật gỗ”, cho rằng Phật
gỗ “là chỗ để cho bọn áo nâu tay chùng nấp bóng”. Phật gỗ đƣợc mô tả trong
trạng thái “phát khùng”. Phật Thích Ca xuất hiện để giảng hòa thì: “tay xách
bầu rƣợu, dáng say lảo đảo”. Nhƣ vậy, đối lập với sự tôn kính thiêng liêng của
Nho giáo, ở đây, câu chuyện về Phật cãi nhau đƣợc ghi chép nhƣ một sự hạ bệ
đạo Phật rất tầm thƣờng. Văn học phản ánh lịch sử, văn học mang hơi thở thời
đại là ở đó. Và Hồng Đức quốc âm thi tập chính là một minh chứng – điều đó
lý giải vì sao tác phẩm kết tinh toàn bộ giá trị đặc biệt của nền văn học thời
Hồng Đức.
2.3. Ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo trong bút pháp nghệ thuật tác phẩm
Tƣ tƣởng Nho giáo không chỉ chi phối tới nội dung mà nó còn ảnh
hƣởng tới bút pháp nghệ thuật của Hồng Đức quốc âm thi tập. Nội dung mà
tác phẩm phản ánh ít nhiều quyết định đến hình thức nghệ thuật mà tác giả
chọn lựa để thể hiện nội dung đó. Nó lý giải vì sao tác giả lại dùng hình thức
nghệ thuật này mà không phải hình thức nghệ thuật khác. Đối tƣợng đƣợc
chọn để thể hiện trong Hồng Đức quốc âm thi tập là các nhân vật nổi tiếng
trong lịch sử, cảnh trí thiên nhiên và những địa danh lịch sử, vịnh các thú vui
tao nhã nhƣ cầm kì thi tửu, phản ánh cuộc sống thái bình khắp muôn dân…
Những đối tƣợng cao quý ấy đƣợc dùng để phát biểu cho quan niệm triết học,
đạo đức, thẩm mỹ… của Nho giáo nên chắc chắn văn chƣơng trong Hồng
Đức quốc âm thi tập chịu ảnh hƣởng bởi chữ “Lễ” của Nho giáo. Bởi vậy nó
mang tính trang nhã của ngôn từ, tính quy phạm ƣớc lệ lấy cổ xƣa làm mẫu
mực, và sử dụng bút pháp vịnh… đây cũng là đặc điểm chung của văn học
trung đại. Các tác giả của Hồng Đức quốc âm thi tập là vua quan là những trí
thức Nho học chịu ảnh hƣởng của văn chƣơng bác học, văn chƣơng sách vở
nên hình thức nghệ thuật chắc chắn nằm trong khuôn khổ của “văn học Nho
giáo”. Các cách thức miêu tả, biểu hiện mà ngƣời viết phải tuân thủ nghiêm
48
ngặt trong quá trình sáng tác chính là biểu hiện của chữ “Lễ”, là những khuôn
phép mang tính chất quy ƣớc. Tính chất quy phạm ấy của văn học trung đại
có nguồn gốc sâu xa từ ý thức sùng cổ, tập cổ, tôn trọng các chuẩn mực mà xã
hội đã quy định. Điều này còn đƣợc thể hiện qua ý thức phục tùng các nguyên
tắc, luật lệ nghiêm ngặt của xã hội trọng lễ.
2.3.1. Ngôn từ cao nhã
Trƣớc hết ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo tới bút pháp nghệ thuật
trong Hồng Đức quốc âm thi tập thể hiện ở việc tác giả sử dụng ngôn từ cao
nhã. Tuy tập thơ đƣợc viết bằng chữ Nôm và các tác giả đang có xu hƣớng
sử dụng ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ đời sống vào việc phản ánh cuộc sống
của nhân dân, thậm chí làm thơ về những vật đời thƣờng bình dị nhƣ: quả
dƣa, củ khoai, cái rế, con cóc,… nhƣng khi để tải đạo, nói chí, ngôn từ trang
nhã vẫn xuất hiện để phù hợp với nội dung mà nó thể hiện. Ngôn từ trang
nhã đƣợc sử dụng trong bài thơ thƣờng là những từ Hán Việt. Các tác giả đã
sử dụng số lƣợng lớn các từ Hán Việt, các từ cổ trong những bài thơ, sau đó
chúng đƣợc giải nghĩa trong phần chú thích. “Chúa xuân”, “thánh quân”,
“hồng quân”, “thiên hạ”, “kinh quyền”,.. là những từ ngữ cao quý và tôn
kính nhà vua anh minh:
Ba dƣơng đà gặp thuở thì vần,
Bốn bể đều mừng một chúa xuân.
Nức ngai vàng, hƣơng mấy hộc,
Trang cửa phƣợng, ngọc mƣời phân.
Trời lồng lộng hay lòng thánh,
Gió hây hây khắp muôn dân.
Nhờ ấm nhân khi hênh bóng nắng,
Ƣớc dâng muốn tuổi chúc ngô quân.
(Họa vần bài vịnh tết Nguyên đán, bài 3, Thiên địa môn)
49
Ngợi ca về cuộc sống thái bình khắp bốn mùa có các từ: “Thiều
quang”, “chu minh”, “nhục thu”, “hàn phong”… cùng với đó là thơ vịnh
mƣời hai tháng, điển hình nhƣ bài Tháng mƣời hai với các từ Hán Việt đƣợc
sử dụng dày đặc:
Trải xem lịch kỷ vốn tinh tƣờng,
Nhân nhẩn xoay nên thuở nhị dƣơng.
Mai chiếm phau phau màu điểm ngọc,
Thông khoe đột ngột chí lăng sƣơng.
Muôn phƣơng cống khoản dâng kì vật,
Một áng thanh điềm đƣợm dị hƣơng.
Tuy biết bốn mùa tin pháp lệnh,
Quyền cƣơng thẩy đã hợp thiên cƣơng.
Không thể không nhắc đến thơ vịnh năm canh, và chùm thơ về trăng
với các từ ngữ đƣợc sử dụng mang tính chất cung đình quý tộc khiến hình ảnh
thơ tranh nhã cao quý:
Lầu ngọc gƣơng giơ soi mọi nƣớc,
Tán vàng xe gác ruổi năm canh.
(Họa vần bài vịnh trăng I, bài 20, Thiên địa môn)
Chủ đề tuyết nguyệt phong hoa, cầm kì thi tửu, tùng cúc trúc mai, ngƣ
tiều canh mục hiện lên nhƣ những bức tranh tứ quý cũng là nhờ ngôn ngữ bác
nhã cầu kì đƣợc sử dụng. Mỗi bài thơ là một bức tranh và ở mỗi bức tranh ấy
ta đều tìm thấy sự cao quý đƣợc tạo ra bởi cách sử dụng ngôn ngữ:
Kỳ - viên dƣỡng dục nẻo sơ đông,
Dạn mặt dầu cành thuở gió rung.
Giá chẳng xâm, hay tiết cứng,
Trăng những tỏ, biết lòng không.
Đài Vƣơng – tử vắng nhàn xoang phƣợng,
50
Chầm cát pha thanh dễ hóa rồng.
Thiên hạ tri âm hay có mấy,
Mai thì ngự sử, đại phu tùng.
(Trúc thụ, bài 24, Phong cảnh môn)
Chƣa kể đến, nói về tƣ tƣởng tam cƣơng ngũ thƣờng, khi văn học đƣợc
sử dụng với chức năng “văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí” thì chắc chắn ngôn từ
biểu đạt rất trang trọng. Các từ “trung khoản”, “nghĩa nhân”, “nhân nghĩa”,
“ái ƣu”, “trung”, “nhân trí” đặc biệt là chữ “đạo” cứ trở đi trở lại và có lẽ đó
là những từ ngữ cao quý nhất trong xã hội bấy giờ. Có thể nói số lƣợng các từ
ngữ trang nhã trong tác phẩm là vô kể bởi lẽ tác phẩm nằm trong dòng chảy
văn học trung đại chịu ảnh hƣởng bởi thi pháp văn chƣơng thời kì đó, các tác
giả là tầng lớp quý tộc cung đình và nội dung mà nó phản ánh phần lớn là nói
chí nói đạo. Cùng với lớp từ ngữ dung dị, đời thƣờng hƣớng về cuộc sống, số
lƣợng từ ngữ trang nhã đã góp phần làm phong phú ngôn từ và góp phần rất
lớn vào việc biểu đạt nội dung tác phẩm, làm nên sự thành công của tác phẩm
thơ Nôm Đƣờng luật. Sự xuất hiện của tập thơ Nôm Hồng Đức quốc âm thi
tập là một minh chứng sắc nét cho tinh thần tự tôn của dân tộc ta mặc dù chịu
áp chế nặng nề của phong kiến phƣơng Bắc với sự nô dịch nặng nề về văn hóa
– tinh thần, đặc biệt ngôn ngữ dân tộc bị coi rẻ. Tập thơ còn là sự khẳng định
cho sức sống tiềm tàng, bất diệt của ngôn ngữ Việt trong lòng dân tộc Việt
với bản sắc riêng của mình.
2.3.2. Lấy cổ xưa làm mẫu mực
Lấy cổ xƣa làm mẫu mực đây chính là tính quy phạm - một đặc điểm
nổi bật trong văn chƣơng trung đại. Do quan niệm thời gian phi tuyến tính nên
trong văn chƣơng cổ của dân tộc ta, các nhà văn luôn có xu hƣớng tìm về quá
khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn mực cho cái đẹp, cho lẽ phải, đạo đức. Chân
lý đạo đức là chân lý có sức sáng tỏa muôn đời. Vì thế văn chƣơng thƣờng lấy
51
tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của cổ nhân của lịch sử xa xƣa. Các nhà văn
đời sau thƣờng “tập cổ” vay mƣợn văn liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của
các nhà thơ nhà văn đời trƣớc mà không bị đánh giá là “đạo văn”. Ngƣợc lại,
họ đƣợc đánh giá là cây bút đạo đức, trang trọng, tác phẩm của họ rất giàu giá
trị. Hồng Đức quốc âm thi tập là một tác phẩm nhƣ thế. Cụ thể ở đây, rất
nhiều bài thơ sử dụng điển tích điển cố và thi liệu Hán học. Điển cố, điển tích
là những tích chuyện xƣa, thƣờng kể về tấm gƣơng hiếu thảo, anh hùng, đạo
đức, hoặc những chuyện có triết lý nhân văn trong lịch sử (thƣờng là của
Trung Quốc). Trong văn hóa truyền thống, ngƣời ta cho rằng nhìn ngƣời
chính là một cách để tự soi xét mình, lấy những điển tích kinh điển trong lịch
sử làm tham chiếu để luận giải làm sáng tỏ ý mình muốn biểu đạt. Do vậy rất
nhiều điển cố đƣợc nhắc đến trong Hồng Đức quốc âm thi tập và đƣợc xem
nhƣ một chuẩn mực. Ta có thể dễ dàng liệt kê một loạt những điển cố trong
tập thơ nhƣ: “Ba dƣơng” (Họa vần bài vịnh tết Nguyên đán); “Ả Ngụy, nàng
Diêu” (Lại vịnh cảnh mùa xuân); “Nam ngoa”, “Ngu Thuấn”, “Hy Hòa”
(Vịnh cảnh mùa hè); “Quy Ƣng”, “Tống Ngọc” (Lại Vịnh Cảnh mùa thu);
“Thanh Vũ” (Lại vịnh cảnh mùa đông); “Chức Nữ”, “Khai Nguyên” (Lại vịnh
trăng non); “Ông nọ ví đâu xe chỉ đỏ/ Nàng nào chơi đấy rẽ may xanh”
(Trăng); “Uyên Minh”, “Phạm Lãi”, “khách tinh” (Họa vần bài vịnh trăng);
“Thiềm cung”, “Củi hát tƣ mùa Ngô” (Nguyệt trung đan quế); “Họ Tô”, “Gã
Lý”, “Tống hoàng” (Tháng mƣời); “núi Trĩ”, “hƣơu chùn cổ”, “khỉ ƣớt đuôi”,
“ngƣời chực giỏ”, “kẻ cầm muôi” (Vịnh vua Cao tổ nhà Hán); “Thành Cốc”,
“Ngũ Hồ” (Vịnh Trƣơng Lƣơng); “Thơm tho dòng Đậu cành đan quế/ Đầm
ấm sân Điền khóm tử kinh/ Chớ chớ phen lê khi chử đậu” (Huynh đệ); “Dâng
canh” (Tử đạo); “Chiêu hầu”, “Vƣơng Mãnh” (Bạch sắt); “Báo ơn”, “Xuyên
ngọc” (Nghĩ),… Việc sử dụng các điển cố này khiến cho lời thơ cô đọng, hàm
súc tuy vậy lại giàu tính hình tƣợng và gợi liên tƣởng. Khảo sát bất kỳ bài thơ
52
nào có điển tích điển cố trong tập thơ, ta đều dễ dàng nhận ra những ƣu điểm
trong việc biểu đạt nội dung và nghệ thuật mà nó mang lại. Ví dụ nhƣ:
Tề Khƣơng, Tống Tử gạ nào xong
Chàng lại hƣơng quan đoái thiếp.
(Lãng ngâm, bài 3, Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập)
“Tề Khƣơng, Tống Tử” là điển đƣợc dẫn trong sách Mao thi đại ý nói:
“lấy vợ không cần phải kén chọn con nhà quyền quý, mà cốt lấy đƣợc ngƣời
có đức trinh thuận là hơn. Cũng ví nhƣ vua dùng bầy tôi, không cứ phải bậc
thánh hiền, mà cốt dùng ngƣời có trung hiếu là hơn” [3, tr.216]. Nhƣ vậy, chỉ
với một điển tích nằm vẻn vẹn trong bốn chữ mà ý nghĩa đạo đức Nho giáo
đƣợc truyền tải một cách sâu sắc. Sử dụng điển cố đƣợc xem nhƣ là một đặc
trƣng cơ bản của văn học trung đại, thể hiện đầy đủ quan niệm thẩm mĩ và
triết học cổ của ngƣời phƣơng Đông. Khi chữ Nôm chƣa hình thành, văn học
chữ Hán của Việt Nam phần lớn mƣợn dùng các điển gốc Hán, đọc theo âm
đọc Hán Việt. Bên cạnh đó tập thơ sử dụng rất nhiều các thi liệu Hán học cổ
đƣợc lấy từ Sử ký, Mao thi, Hán quan nghi, Luận ngữ, Hoài Nam tử… Điều
này khiến các bài thơ tuy ngắn gọn mà nhƣ chứa đựng cả một câu chuyện lịch
sử dài. Điển hình nhƣ:
Nhiều phen làm bạn trong song Tống,
Mấy phút đƣa ngƣời khỏi đỗi Tần.
Dầu nhẫn hôm nào phong vũ nữa,
Ắt chăng chẳng phụ chức tƣ thần.
(Kê, bài 61, Phẩm vật môn)
Bốn câu thơ mà nhắc đƣợc đến chuyện Tống Xử Tông nuôi gà trong U
minh lục, Mạnh Thƣờng quân trốn thoát khỏi nƣớc Tần đƣợc ghi trong Sử ký,
thậm chí dẫn điển câu thơ trong sách Mao thi: “Phong vũ nhƣ hối, kế minh
bất di”. Tất cả những điều đó mở ra một không gian cổ xƣa đầy triết lý khi nói
53
về đạo, về cảnh, về cuộc sống… Hồng Đức quốc âm thi tập đƣợc viết bằng
chữ Nôm nhƣng lại sử dụng và khai thác triệt để các thi liệu của Trung Quốc.
Phải chăng đây là bút pháp không thể thiếu khi các tác giả trung đại muốn
biểu đạt “chí”, “đạo” theo tƣ tƣởng Nho giáo, thậm chí, cảnh vật thiên nhiên
cũng đều đƣợc miêu tả mang hơi hƣớng Đƣờng thi.
2.3.3. Bút pháp vịnh
Bút pháp vịnh là bút pháp quen thuộc thƣờng đƣợc các nhà Nho sử
dụng khi muốn mƣợn cớ vịnh một đối tƣợng nào đó để thuyết minh, giáo
huấn về đạo đức và bày tỏ quan điểm của bản thân về cuộc đời và xã hội. Đề
tài lịch sử có vị trí nổi bật trong Hồng Đức quốc âm thi tập và hầu hết là vịnh
về nhân vật lịch sử. Đó là những nhân vật ở cả Việt Nam và Trung Quốc:
Ngƣu Lang Chức Nữ (3 bài), Thánh Gióng (1 bài), Chử Đồng Tử (1 bài),
Triệu Ân (1 bài), Trƣng Vƣơng (1 bài), Lý Ông Trọng (1 bài), Lê Du (1 bài),
Lƣơng Thế Vinh (1 bài), Nguyễn Trực (1 bài), Vũ Nƣơng (2 bài), Mỵ Ê (1
bài), chùm thơ về Lƣu Nguyễn (12 bài), Vƣơng Chiêu Quân (3 bài), Tô Vũ (2
bài), Khổng Tử (3 bài), Quan Vân Trƣờng (6 bài), Gia Cát Lƣợng (1 bài),
Triệu Tử Lang (1 bài), Tào Tháo (1 bài), Điêu Thuyền (1 bài), Hán Cao Tổ (1
bài), Hạng Vũ (1 bài), Trƣơng Lƣơng (1 bài), Tiêu Hà (1 bài), Hàn Tín (1
bài), Mẹ Vƣơng Bằng (1 bài). Bên cạnh đó có một bài vịnh về địa danh lịch
sử là Bạch Đằng giang nằm trong phần Phong cảnh môn. Nhƣ vậy, cảm hứng
về lịch sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập chủ yếu bắt nguồn từ “nhân kiệt”
chứ không bắt nguồn từ “địa linh”. Các nhân vật lịch sử Trung Quốc chiếm số
lƣợng đông đảo và trở thành đối tƣợng chính trong các bài thơ vịnh. Đó là
những nhân vật lịch sử tập trung ở hai thời đại: thời Xuân Thu và thời Hán.
Thời Xuân Thu chỉ có nhân vật Khổng Tử với 3 bài vịnh còn lại là các nhân
vật thời Hán. “Cảm hứng về các nhân vật lịch sử thời Hán vẫn là cảm hứng
mang đậm dấu ấn thời đại. Văn học thời Lê sơ không thiếu những bài văn, bài
54
thơ so sánh sự nghiệp Lê Thái Tổ với sự nghiệp Lƣu Bang, so sánh những anh
tài thời khởi nghĩa Lam Sơn với thời Hán tam kiệt. Tác giả thời Hồng Đức đã
khai thác đề tài vịnh các nhân vật lịch sử thời Hán để đề cao đạo đức, lý tƣởng
Nho giáo, phục vụ cho triều đại Lê Thánh Tông và chế độ phong kiến nói
chung” [7, tr.152]. Mỗi nhân vật trở thành đối tƣợng vịnh đều mang ý đồ sáng
tác, tiêu biểu cho một tƣ tƣởng đạo đức nào đó của Nho giáo.
Đáng lƣu ý là những bài thơ vịnh về địa danh và nhân vật lịch sử Việt
Nam. Về địa danh lịch sử, chỉ với một bài thơ viết về sông Bạch Đằng cũng
đủ nói lên đƣợc niềm tự hào trƣớc chiến công huy hoàng trong quá khứ và ý
thức của con ngƣời thời đại về cuộc sống thanh bình trong hiện tại:
Lẻo dẻo doành xanh nƣớc tựa dầu,
Trăm ngòi, ngàn lạch chảy về chầu.
Rửa không thay thảy thằng Ngô dại,
Dịa mọi lâng lâng khách Việt hầu.
Nọ đỉnh Thái – sơn rành rạch đó,
Nào hồn Ô mã lạc loài đâu?
Bốn phƣơng phẳng lặng kình bằng thóc,
Thong thả dầu ta bủa lƣới câu.
(Bạch Đằng giang, bài 34, Phong cảnh môn)
Với nhân vật lịch sử, tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập đề cao những
tấm gƣơng cứu nƣớc thời Hùng Vƣơng nhƣ Phù Đổng thiên vƣơng, Chử
Đồng Tử; thời nghìn năm đấu tranh giành quyền tự chủ nhƣ Lí Ông Trọng,
Trƣng Vƣơng, Triệu Trinh nƣơng. Đặc biệt một số nhân vật đƣơng thời nhƣ
Lê Khôi, Lƣơng Thế Vinh, Nguyễn Trực cũng đƣợc các tác giả ngợi ca và
bày tỏ lòng tiếc thƣơng khi họ thành ngƣời thiên cổ. Cảm hứng chung bao
trùm đề tài, chủ đề viết về nhân vật lịch sử Việt Nam là cảm hứng yêu nƣớc
và niềm tự hào dân tộc. Vịnh các nhân vật lịch sử Việt Nam, các tác giả có ý
55
thức về sự gắn bó chặt chẽ giữa họ với đất nƣớc, nhân dân, dân tộc. Phù
Đổng thiên vƣơng “âm phù quốc thế vững bằng non”, Chử Đồng Tử giúp
“Triệu Việt nạn xong nên nghiệp cả”. Họ đã làm nên lịch sử dân tộc và lịch sử
dân tộc đời đời ghi ơn họ:
Anh linh miếu dõi lừng hƣơng khói
Còn nƣớc, còn non, tiếng hãy còn
(Chử Đồng Tử, bài 85, Nhàn ngâm chƣ phẩm
thi tập)
Thơ vịnh sử bên cạnh gửi gắm tâm trạng chủ quan của tác giả thì chủ
yếu là giải quyết những vấn đề của lịch sử. Khác với những thể loại văn học
phản ánh hiện thực lịch sử, thơ vịnh sử đặt nặng vấn đề suy tƣ lịch sử. Trƣớc
Hồng Đức quốc âm thi tập đã có nhiều bài thơ vịnh các nhân vật lịch sử
Trung Quốc và đƣợc viết bằng chữ Hán. Đề tài, chủ đề vịnh sử Nôm chỉ thực
sự đƣợc khai mở từ Hồng Đức quốc âm thi tập. Do thái độ sùng cổ và mục
đích giáo hóa của văn chƣơng, văn học mới có đề tài vịnh sử. Lê Thánh Tông
và những văn thần thời ông hiểu rõ sự tồn tại của thời đại mình bắt nguồn từ
đâu. Ông đã kế tục sự nghiệp dựng nƣớc trên những thành quả đổi bằng
xƣơng máu của các thế hệ trƣớc. Mục đích giáo huấn của Nho giáo và những
chiêm nghiệm về lịch sử trong Hồng Đức quốc âm thi tập đã đƣợc các tác giả
thể hiện thành công qua bút pháp vịnh sử - bút pháp đắc địa khi muốn truyền
đạt tƣ tƣởng này.
56
Tiểu kết chƣơng 2
Nhƣ vậy có thể thấy tƣ tƣởng Nho giáo ảnh hƣởng tới toàn bộ nội dung
tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập và nội dung lại quyết định bút pháp nghệ
thuật thể hiện. Ngôn từ trang nhã, lấy cổ xƣa làm mẫu mực, sử dụng bút pháp
vịnh theo định hƣớng Nho giáo là nghệ thuật quen thuộc ta bắt gặp trong văn
học trung đại khi các giả dùng văn chƣơng với mục đích “văn dĩ tải đạo, thi dĩ
ngôn chí”. Việc sử dụng nhiều thi liệu Hán học để biểu đạt khiến cho các bài
thơ mang tính chất khuôn sáo, trùng lặp. Tuy nhiên, đó là đặc điểm nghệ thuật
chung của văn học thời kì này. Đặt vào bối cảnh thời đại, bối cảnh văn học
thời bấy giờ thì tập thơ đƣợc coi là tuyên ngôn đạo đức của cả một triều đại
dân tộc, là thứ văn chƣơng lịch sử cao quý. Đó chính là kết quả của cuộc sinh
hoạt nghệ thuật cung đình mang tính công dân đầy trang trọng và nghiêm túc.
57
KẾT LUẬN
Có thể nói, ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm
thi tập là rất mạnh mẽ và rõ rệt trên cả hai phƣơng diện nội dung và nghệ
thuật. Để lý giải điều này, chúng ta tìm về bối cảnh xã hội thế kỉ XV khi tác
phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập ra đời. Đó là thời kì Nho học đạt tới mức
cực thịnh còn Phật, Đạo mất dần địa vị. Để suy tôn Nho giáo lên thành quốc
giáo, chủ trƣơng thiết lập kỉ cƣơng xã hội thời bình theo nguyên tắc đạo đức
của Nho giáo, Lê Thánh Tông cấm in sách Phật, cấm tự tiện xây chùa, tô
tƣợng đúc chuông. Điều đó chứng tỏ một điều: Thời đại nào thì văn học đó.
Thời đại Hồng Đức thế kỉ XV, Nho giáo phát triển, hơn nữa tác giả của Hồng
Đức quốc âm thi tập là vua, quan, là môn đệ của Nho giáo nên tác phẩm
mang nặng tƣ tƣởng Nho giáo là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên đôi khi tác phẩm nhìn
Nho giáo với thái độ quá tôn sùng và tuyệt đối hóa tƣ tƣởng Nho giáo khiến
một số bài thơ có tƣ tƣởng hơi cực đoan nhƣ: “Hết lòng uống máu vì nhà
chúa”. Song có thể nói, các tƣ tƣởng đạo đức mà thơ ca Hồng Đức thể hiện
đều tích cực bằng chứng cụ thể là nhà vua đã xây dựng đƣợc triều đại phong
kiến hoàng kim trong lịch sử dân tộc dựa trên nền tảng các tƣ tƣởng đó. Hồng
Đức quốc âm thi tập nói riêng và các tác phẩm chữ Hán của Lê Thánh Tông
nói chung đã đảm nhiệm đúng chức năng của văn học thời bấy giờ: tải đạo,
nói chí, truyền bá tƣ tƣởng đạo đức mong muốn cho xã hội phát triển tốt đẹp.
Văn chƣơng dùng để nói đạo thƣờng khô khan và các thủ pháp nghệ thuật
thƣờng đi theo một khuôn mẫu, kìm nén sự sáng tạo của các tác giả - đó là
đặc điểm chung không thể tránh khỏi của dòng chảy văn học này. Tuy nhiên
mục đích sáng tác của tập thơ vẫn đƣợc hoàn thành một cách xuất sắc. Ở đây,
con ngƣời từ đấng quân vƣơng đến dân thƣờng đều đƣợc nhìn ở phƣơng diện
đạo đức, ý thức trách nhiệm bổn phận trong mối quan hệ với những ngƣời
xung quanh theo quy chuẩn của Nho giáo.
58
Hồng Đức quốc âm thi tập đã đóng góp một thành tựu to lớn vào văn
hiến Đại Việt, làm khởi sắc cho nền văn học dân tộc. Tác phẩm là sự kế thừa
và phát triển thành công về cả nội dung tƣ tƣởng và hình thức nghệ thuật
trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Lần đầu tiên ở nƣớc ta, thơ Nôm
đƣợc nâng lên địa vị cung đình, mang tầm vóc quốc gia, sánh ngang với thơ
chữ Hán. Tập thơ mang một giá trị mới vì nó đƣợc sáng tác bởi Nhị thập bát
tú – những thi nhân kiệt xuất của thời đại, đƣợc sáng tác bởi bút pháp nghệ
thuật trang nhã cổ xƣa. Và hơn hết, giá trị của tập thơ nằm ở nội dung và
mục đích nó phản ánh – tƣ tƣởng đạo đức Nho giáo. Nhìn chung, có thể nói
nghiên cứu về sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc
âm thi tập khiến cho tác phẩm đƣợc nhìn nhận một cách phong phú hơn, nó
khiến cho sự nghiên cứu về tập thơ đƣợc toàn diện, tƣơng xứng với tầm vóc,
giá trị và vị trí tác phẩm trong tiến trình văn học sử dân tộc. Khóa luận đóng
góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu giá trị của Hồng Đức quốc âm thi tập
trong nền văn học Việt Nam trung đại. Cũng từ đây, ta lý giải đƣợc tại sao
thời đại Hồng Đức lại là thời kì phong kiến thịnh trị bậc nhất trong lịch sử
dân tộc ta, nó minh chứng cho quan niệm: “Văn học là tấm gƣơng phản ánh
chân thực lịch sử”.
59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quỳnh Cƣ, Đỗ Đức Hùng (2006), Các triều đại Việt Nam, Nxb. Thanh
Niên, Hà Nội.
2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử , Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
3. Hồng Đức quốc âm thi tập (1982), Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn
Nguyên( phiên âm – chú giải – giới thiệu ), Nxb. Văn học, Hà Nội.
4. Nguyễn Phạm Hùng (1999), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỷ
XX, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Trần Đình Hƣợu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
6. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chƣơng (1998),
Giáo trình văn học Việt Nam (Thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Đăng Na, Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang (2005), Văn học
trung đại Việt Nam tập 1, Nxb. Đại học sƣ phạm, Hà Nội.
8. Bùi Văn Nguyên (chủ biên), Nguyễn Sĩ Cẩn, Hoàng Ngọc Trì (1989),
Giáo trình văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XVIII, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
9. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ƣớc tân biên - tập 2 -
văn học lịch triều Việt văn, Nxb. Đồng Tháp.
10. Nguyễn Tá Nhí, Mai Xuân Hải (1998), Những giai thoại về vua Lê
Thánh Tông, Nxb. Văn học dân tộc, Hà Nội.
11. Vũ Dƣơng Ninh, Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Định Ngọc
Bảo (2010), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
12. Vũ Đức Phúc (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam tập 6, Nxb.
Văn học, Hà Nội.
13. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vƣơng,
Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con ngƣời cá nhân trong
văn học cổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
14. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học Việt Nam trung đại, quan niệm con
ngƣời và tiến trình phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Phạm Văn Sĩ (1968), Lịch sử văn học Việt Nam tập II, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
16. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
17. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
18. Bùi Duy Tân (2000), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (TK X –
XIX) tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
19. Lê Sĩ Thắng (1999), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
20. Thánh Tông Di Thảo (2001), Nguyễn Bích Ngô (dịch và chú thích),
Phạm Văn Thắm(giới thiệu), Nxb. Văn học, Hà Nội.
21. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại việt Nam dƣới góc nhìn văn
hóa, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Tính (2014), “Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ”, Tạp chí khoa học, ĐHSP Hà Nội.