ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM -----------------------

PHẠM THỊ BIÊN

Tên đề tài:

NGHIÊN CỨU BỆNH DO ẤU TRÙNG CYSTICERCUS CELLULOSAE

GÂY RA Ở LỢN (BỆNH GẠO LỢN) TẠI HUYỆN ĐIỆN BIÊN,

TỈNH ĐIỆN BIÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Chuyên ngành: Thú y

Khoa: Chăn nuôi Thú y

Khóa học: 2014 - 2018

Thái Nguyên - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM -----------------------

PHẠM THỊ BIÊN

Tên đề tài:

NGHIÊN CỨU BỆNH DO ẤU TRÙNG CYSTICERCUS CELLULOSAE GÂY RA Ở LỢN (BỆNH GẠO LỢN) TẠI HUYỆN ĐIỆN BIÊN,

TỈNH ĐIỆN BIÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo Chuyên ngành Lớp Khoa Khóa học : Chính quy : Thú y : K46 - TY - N02 : Chăn nuôi Thú y : 2014 - 2018

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đỗ Thị Lan Phương Bộ môn Bệnh động vật - Khoa Chăn nuôi Thú y

Thái Nguyên - 2018

i

LỜI CẢM ƠN

Thực tập tốt nghiệp là giai đoạn quan trọng nhất đối của sinh viên các

trường Đại học, Cao đẳng nói chung và trường Đại học Nông Lâm Thái

Nguyên nói riêng. Từ đó sinh viên hệ thống hóa lại kiến thức đã học, nhằm

phục vụ chuyên môn sau này.

Trong thời gian thực tập tốt nghiệp, với sự nỗ lực phấn đấu của bản

thân và sự giúp đỡ của các thầy, các cô, các cô chú cán bộ ở Trạm thú y huyện

Điện Biên em đã hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp của mình.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu Nhà trường, Ban chủ

nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, đặc biệt cô giáo ThS. Đỗ Thị Lan Phương đã

trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài

tốt nghiệp.

Em xin chân thành cảm ơn Trạm thú y huyện Điện Biên đã giúp đỡ và

tạo điều kiện cho em trong suốt thời gian thực tập.

Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè đã

chia sẻ, giúp đỡ, động viên em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn

thành tốt Khóa luận tốt nghiệp của mình.

Do thời gian có hạn, năng lực và kinh nghiệm của bản thân còn nhiều

hạn chế nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong

nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để Khoá luận tốt

nghiệp được hoàn thiện tốt hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày .... tháng .... năm 2018

Sinh viên

Phạm Thị Biên

ii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1. Tỷ lệ lợn nhiễm cysticercus cellulosae ở lò mổ các tỉnh................ 15

Bảng 2.2. Tỷ lệ nhiễm cysticercus cellulosae ở lò mổ các tỉnh ...................... 23

Bảng 4.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn ....................................... 31

Bảng 4.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo theo tuổi lợn ........................... 32

Bảng 4.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn qua các tháng ................ 34

Bảng 4.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo theo giống lợn ........................ 35

Bảng 4.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn theo phương thức chăn nuôi .. 37

Bảng 4.6. Thực trạng tập quán, sinh hoạt của người dân ở huyện Điện Biên,

tỉnh Điện Biên ................................................................................. 38

Bảng 4.7. Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium tại huyện ................ 40

Bảng 4.8. Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium theo tuổi ................. 41

Bảng 4.9. Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium theo giới tính ......... 42

Bảng 4.10. Bệnh tích đại thể của lợn nhiễm bệnh gạo ở các xã ..................... 43

Bảng 4.11.Tổn thương vi thể của lợn nhiễm bệnh gạo ................................... 45

iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CDC : Centers for Disease Control

Cs : Cộng sự

Cys. Cellulosae : Cysticercus cellulosae

NĐ - CP : Nghị Định - Chính Phủ

Nxb : Nhà xuất bản

QĐ - BNN : Quyết Định - Bộ Nông Nghiệp

SR - KST : Sốt rét ký sinh trùng

T. solium : Taenia solium

iv

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i

DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................. iii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iv

Phần 1. MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1

1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1

1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài .................................................................. 2

1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2

1.3.1. Ý nghĩa khoa học .................................................................................... 2

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................... 2

Phần 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ......................................................... 3

2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên .......... 3

2.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................... 3

2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội ......................................................................... 5

2.2. Cơ sở khoa học của đề tài .......................................................................... 6

2.2.1. Đặc điểm sinh học của sán dây Taenia solium ký sinh ở người và ấu

trùng Cysticercus cellulosae ký sinh ở lợn ....................................................... 6

2.2.2. Bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae (bệnh gạo) ở lợn .................. 13

2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về bệnh do ấu trùng

Cysticercus cellulosae và bệnh sán dây ở người ............................................ 23

2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 23

2.3.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ........................................................ 24

Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 26

3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 26

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................ 26

v

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 26

3.2. Vật liệu nghiên cứu .................................................................................. 26

3.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 27

3.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh gạo lợn ở một số xã của

huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên .................................................................... 27

3.3.2. Nghiên cứu nguy cơ nhiễm sán dây ở người ........................................ 27

3.3.3. Nghiên cứu bệnh gạo ở lợn ................................................................... 27

3.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 27

3.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh gạo lợn ở một số xã

của huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên ............................................................. 27

3.4.2. Phương pháp nghiên cứu bệnh gạo ở lợn .............................................. 29

3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu ..................................................................... 30

Phần 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................. 31

4.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus

cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại một số xã của huyện Điện Biên, tỉnh

Điện Biên ......................................................................................................... 31

4.1.1. Tình hình nhiễm bệnh gạo ở lợn tại một số xã ..................................... 31

4.1.2. Nghiên cứu nguy cơ nhiễm sán dây Taenia solium ở người tại huyện

Điện Biên, tỉnh Điện Biên ............................................................................... 38

4.1.3. Nghiên cứu bệnh tích của bệnh gạo ở lợn ............................................. 43

Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................. 46

5.1. Kết luận .................................................................................................... 46

5.2. Đề nghị ..................................................................................................... 47

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 48

MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA ĐỀ TÀI

1

Phần 1

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Bệnh gạo lợn là một bệnh truyền lây giữa người và động vật. Bệnh do

ấu trùng Cysticercus cellulosae ký sinh ở cơ của lợn gây ra. Đây là ấu trùng

của sán dây Taenia solium trưởng thành, sán dây này ký sinh ở ruột non của

người. Khi lợn mắc bệnh gạo thì thịt lợn không thể sử dụng làm thực phẩm

cho con người, gây tổn thất cho ngành chăn nuôi. Người ăn thịt lợn gạo chưa

nấu chín sẽ bị bệnh sán dây Taenia solium.

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5] ấu trùng Cysticercus

cellulosae là một bọc màu trắng, trong có nước trong suốt, dài 8 - 10 mm, có

khi chỉ 5 mm, giống hình hạt gạo. Trên màng bên trong dính một đầu sán màu

trắng, cấu tạo giống đầu sán dây trưởng thành.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [7] lợn ở miền núi mắc bệnh gạo

cao hơn ở đồng bằng, vì ở miền núi thường nuôi lợn thả rông. Một số vùng,

người có tập quán ăn thịt lợn sống hoặc chưa nấu chín. Đó là nguyên nhân

làm cho lợn dễ mắc bệnh gạo và người cũng dễ mắc bệnh sán dây.

Hiện nay, bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra rất khó phát

hiện, việc chẩn đoán bệnh trên con vật sống rất khó khăn do triệu chứng bệnh

không điển hình. Đặc biệt, không thể tìm thấy ấu trùng bằng cách xét nghiệm

phân do ấu trùng ký sinh trong cơ của lợn.

Trong những năm gần đây, lợn được nuôi phổ biến ở nhiều tỉnh thành

trong cả nước, trong đó có tỉnh Điện Biên. Tuy nhiên, nhiều hộ gia đình vẫn

nuôi lợn theo phương thức thả rông, đồng thời một số hộ gia đình vẫn chưa có

nhà tiêu. Vì vậy, khi người phóng uế ra môi trường thì đốt và trứng sán dây

phát tán, lợn nuôi thả rông dễ ăn phải trứng sán dây và dễ mắc bệnh gạo.

2

Những vấn đề trên cho thấy, việc tìm hiểu đặc điểm bệnh gạo lợn do ấu

trùng Cysticercus cellulosae gây ra là vấn đề cần thiết, từ đó có biện pháp

phòng trị để hạn chế tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở lợn, từ đó góp phần phòng chống

bệnh sán dây và bệnh gạo ở người.

Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, chúng tôi tiến hành đề tài

"Nghiên cứu bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây ra ở lợn

(bệnh gạo lợn) tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên”

1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài

Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm bệnh gạo ở lợn tại một số xã của huyện Điện

Biên, tỉnh Điện Biên.

Tình hình nhiễm sán dây Taenia solium ở người

1.3. Ý nghĩa của đề tài

1.3.1. Ý nghĩa khoa học

Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ

bệnh gạo ở lợn tại số xã của huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, có một số đóng

góp mới cho khoa học.

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi lợn

áp dụng các biện pháp phòng, trị bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae gây

ra ở lợn, từ đó phòng bệnh sán dây Taenia solium ở người,nhằm bảo vệ sức

khỏe cộng đồng.

3

Phần 2

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lí

Điện Biên là huyện biên giớ Việt – Lào, nằm ở phía Tây Bắc của Tổ

quốc; chia thành 25 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã: Hẹ Muông,

Hua Thanh, Mường Lói, Mường Nhà, Mường Phăng, Mường Pồn, Nà Tấu,

Nà Nhạn, Na Tông, Na Ư, Noong Luống, Noong Hẹt, Núa Ngam, Pá Khoang,

Pa Thơm, Phu Luông, Pom Lót, Sam Mứn, Thanh An, Thanh Hưng, Thanh

Chăn, Thanh Luông, Thanh Nưa, Thanh Xương, Thanh Yên. Có chung đường

biên giới với tỉnh Phoong Sa Ly và tỉnh Luông Pra Bang (Lào) dài 154 km, có

cửa khẩu Quốc tế Tây Trang, cửa khẩu Quốc gia Huổi Puốc và một số đường

tiểu mạch sang Lào; huyện có diện tích tự nhiên 163.985 ha (đất Nông nghiệp

13.544 ha, đất Lâm nghiệp 36.956 ha, còn lại là đất khác và đồi núi tự nhiên).

- Phía Bắc giáp huyện Mường Chà, huyện Mường Ảng tỉnh Điện Biên.

- Phía Nam giáp huyện Mường Nói, huyện Viêng Khăm tỉnh Luông Pra

Bang (Lào).

- Phía Đông giáp huyện Điện Biên Đông tỉnh Điện Biên, huyện Sốp

Cộp tỉnh Sơn La.

- Phía Tây giáp huyện Mường Mày tỉnh Phoong Sa Ly (Lào).

* Đặc điểm khí hậu.

Khí hậu Điện Biên mang đầy đủ những đặc điểm cơ bản của khí hậu vùng

núi Tây Bắc Việt Nam, đó là khí hậu nhiệt đới núi cao, có hai mùa rõ rệt:

+ Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.

+ Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 tới tháng 10.

4

+ Nhiệt độ trung bình đạt khoảng 22 - 23oC.

+ Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm đạt khoảng 84 - 85%.

Điều kiện khí hậu ở Điện Biên thích hợp với nhiều loại cây trồng vật

nuôi, đây là một trong những điều kiện thuận lợi để huyện có thể đẩy mạnh

phát triển sản xuất đa dạng các loại sản phẩm hàng hoá.

* Đặc điểm về thuỷ văn:

Là một huyện có hệ thống sông và suối tương đối ít và khá đơn giản.

Trên toàn huyện không có sông lớn. Hệ thống sông của Điện Biên có sông

Nậm Rốn

Hệ thống suối của Điện Biên có đặc điểm đều bắt nguồn từ các đỉnh núi

cao, có độ dốc lớn, do vậy về mùa mưa thường dễ gây lũ đột ngột.

* Địa hình và đất đai.

Địa hình Điện Biên bị chia cắt phức tạp, hình thành bởi các dãy núi

cao, sườn dốc, phần lớn các đỉnh núi có độ dốc cao từ 1.200-1.600m so với

mặt nước biển. Nằm xen với các dãy núi đá vôi là những thung lũng hẹp, khá

bằng phẳng phân bổ dọc theo các sông, suối trên địa bàn.

+ Tổng diện tích (ha): 163.985

+ Đất nông nghiệp (ha): 13.544

+ Đất Lâm nghiệp (ha): 36.956

+ Đất chưa khai thác (ha): 91

* Đặc điểm về môi trường và thiên tai

Hiện nay môi trường của Điện Biên đã và đang bị xâm hại, diện tích

rừng bị suy giảm trong một thời gian dài, hiện tượng sói mòn, sạt lở đất đai

thường xảy ra vào mùa mưa, gây thiệt hại lớn đến sản xuất và cơ sở hạ tầng

trên địa bàn huyện. Là một huyện vùng cao của khu vực Tây Bắc, Điện Biên

cũng như nhiều huyện khác thường xuyên chịu ảnh hưởng của hiện tượng

dông, mưa đá, sương muối.

5

2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội

Toàn huyện có 25 xã và 1 thành phố, trong đó: Có 20 xã vùng III

hưởng chính sách 135, 03 xã vùng II (có 4 bản được hưởng chính sách 135)

và 02 xã vùng I. Tỷ lệ đói nghèo: 56,33%.

Dân số của toàn huyện là: 108.389 người, trong đó: Dân tộc Thái: 53,72%;

Kinh: 27,86%; Mông: 8,51%; Khơ Mú 5%; Lào 3,17% dân tộc khác: 1,74%.

Nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.

Trình độ dân trí thấp và không đồng đều giữa các vùng. Cơ sở vật chất trang

thiết bị còn nhiều thiếu thốn và chưa được đầu tư đồng bộ 100% số xã cơ sở

hạ tầng còn gặp nhiều khó khăn. Đa số đường giao thông đi từ trung tâm

huyện đến xã đa số chỉ đi được vào mùa khô.

- Dân số

Dân số trung bình của huyện năm 2016 là 45,095 người, trong đó dân

số nông thôn có 40,586 người chiếm 90% tổng dân số của huyện. Mật độ dân

số đạt 101 người/km2, phân bố không đều ở các xã trong huyện, phần lớn dân

số tập trung đông ở các xã nằm ven trục quốc lộ 279 và các tuyến đường liên

xã. Trong thời gian qua Điện Biên đã thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch

hoá gia đình, tỷ lệ tăng tự nhiên đã đạt mức 1,78% ở năm 2016. Là huyện mới

thành lập nên số lượng dân cư ở các vùng chưa được ổn định.

Điện Biên là đơn vị hành chính mới thành lập từ lâu, nền kinh tế của

huyện phát triển khá ổn định, điểm xuất phát còn khá cao so với một số huyện

khác trong tỉnh Điện Biên. Do vậy, để góp phần tạo điều kiện cho nền kinh tế

phát triển một cách bền vững, ngay từ bây giờ Điện Biên cần phải đẩy mạnh

công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt việc sinh đẻ có kế

hoạch, đồng thời phải tiến hành việc bố trí dân cư một cách hợp lý trên cơ sở

gắn với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Phấn đấu từng bước

giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, đảm bảo đến năm 2018 tỷ lệ tăng dân số ở

6

mức khoảng từ 1,65- 1,66%/năm và đến năm 2020 sẽ đạt mức 1,53-

1,55%/năm với qui mô dân số vào năm 2017 đạt khoảng 46 - 47 ngàn người,

đến năm 2018 sẽ đạt khoảng 48 - 49,5 ngàn người và đến năm 2020 đạt mức

50 - 51 ngàn người.

Trên cơ sở phát triển qui mô dân số ở từng giai đoạn, huyện cần có kế

hoạch bố trí dân cư theo hướng tập trung có gắn với việc bố trí phát triển đô

thị cùng các trung tâm thành phố và các vùng sản xuất hàng hóa tập trung.

Đối với khu vực thành phố Điện Biên cần được triển khai và giám sát việc

thực hiện theo qui hoạch một cách nghiêm túc ngay từ bây giờ đối với tất cả

các lĩnh vực như: Bố trí tổ chức không gian lãnh thổ, bố trí các điểm dân cư,

các cơ sở sản xuất, các cơ quan hành chính, khu vui chơi giải trí… Dự báo

đến năm 2025 qui mô dân số ở đây sẽ đạt khoảng 14,000 - 15,000 người. Đối

với các khu vực: Thành Phố Điện Biên cần phải có qui hoạch phát triển cụ thể

ở từng thời kỳ để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển và tạo sự ổn định về đời

sống cho người dân.

2.2. Cơ sở khoa học của đề tài

2.2.1. Đặc điểm sinh học của sán dây Taenia solium ký sinh ở người và ấu

trùng Cysticercus cellulosae ký sinh ở lợn

2.2.1.1. Vị trí của sán dây Taenia soliumtrong hệ thống phân loại động vật học

Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [20]. Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [13]

cho biết, sán dây Taenia solium có vị trí trong hệ thống phân loại như sau:

Lớp sán dây Cestoda Rudolphi, 1808

Phân lớp CestodaCarus, 1863

Bộ CyclophyllidaeBeneden in Braun, 1900

Phân bộ Taeniata Skjabin et Schulz, 1973

Họ Taeniidae Ludwig, 1886

Giống Taenia Liunaeus, 1758

7

2.2.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của sán dây Taenia solium và ấu trùng

Cysticercus cellulosae ký sinh ở lợn

- Đặc điểm, hình thái, cấu tạo của sán dây Taenia solium

+ Đặc điểm, hình thái của sán dây Taenia solium.

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5]; Chu Thị Thơm và cs

(2006) [18] sán trưởng thành là Taenia solium dài 2 - 7m. Đốt sán hình cầu,

có 4 giác bám, có đỉnh đầu và hai hàng móc đỉnh gồm 22 - 23 móc.

Theo Phan Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001) [11] sán dây Taenia

solium dài 2 - 8m ×7 - 10 mm. Đầu 0,6 - 1 mm đường kính, giác 0,4 - 0,5

mm. Mõm mang 2 vòng ít nhất 26 - 32 móc, hàng đầu móc dài 0,16 - 0,18

mm, hàng thứ hai móc dài 0,11 - 0,14 mm. Cổ dài và mảnh.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2015) [8] sán trưởng thành là Taenia

solium kích thước lớn dài 2 - 7 m, sán có 700 - 1000 đốt, đầu sán hình tròn,

đỉnh đầu có mỏm hút, có hai hàng móc 22 - 32 móc, đầu cổ ngắn và hẹp, chứa

4 giác bám hình tròn.

Theo Lê Bách Quang và cs (2008) [14] Sán dây lợn dài từ 2 - 3 m (có

thể dài 8 mét), thường có 300 - 900 đốt. Đầu nhỏ hơi tròn, đường kính khoảng

1mm, có bộ phận nhô lên ở giữa với hai hàng móc, có khoảng 22 - 23 móc,

thường thấy 26 - 28 móc. Có 4 giác tròn ở bốn góc. Đốt cổ mảnh, dài 5 - 10

mm. Đốt thân ngang có bề ngang dài hơn bề dọc, đốt trưởng thành hình

vuông, đốt già bề ngang nhỏ hơn bề dọc.

+ Cấu tạo của sán dây Taenia solium.

Theo Nguyễn Văn Đề (2013) [3]; Phan Anh Tuấn (2013) [19] sán dải

heo trưởng thành có thân dẹp, màu trắng đục, dài từ 2 - 4 m, có khoảng 800-

1000 đốt. Cấu tạo cơ thể gồm có đầu, cổ và thân đốt sán. Đầu nhỏ, hình cầu,

kích thước khoảng 1mm, có 4 giác bám. Trên đầu có chùy và chân chùy có

hai vòng móc, mỗi vòng từ 25 - 35 móc.

8

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5]; Chu Thị Thơm và cs

(2006) [18] Sán có 700 - 1000 đốt. Đốt cổ ngắn, hẹp. Đốt chưa thành thục, có

chiều dài lớn hơn chiều rộng. Đốt già, hình chữ nhật, tử cung phân 7 - 12

nhánh.Trứng hình tròn hoặc bầu dục, đường kính 31 - 43 µm.

Theo Phan Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001) [11] sán dây Taenia

solium không có túi chứa tinh, cũng không có cơ bóp âm hộ. Túi dương vật

dài 0,5 - 0,7 mm, đường kính 0,12 - 0,50 mm. Tử cung có 7 - 10 nhánh ngang

chính. Trứng 0,042 mm.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2015) [8] đốt chưa thành thục có chiều dài

ngắn hơn chiều rộng, tử cung chứa đầy trứng, tử cung chia thành 7 - 12

nhánh. Trứng có hình tròn hoặc bầu dục, vỏ dày có gờ phóng xạ, đường kính

31 - 43 µm, bên trong chứa cơ quan hình lê và ấu trùng phôi 6 móc.

Theo Phan Anh Tuấn (2013) [19]; Lê Thị Xuân (2013) [21]; Nguyễn

Văn Đề (2013) [3]; Lê Bách Quang và cs (2008) [14] cổ của sán mảnh khảnh

nối tiếp với đầu, là nơi sản sinh ra đốt sán bằng cách nảy chồi. Thân gồm các

đốt sán, đốt sán non ở gần cổ, đốt sán càng xa cổ thì càng to và già, ở gần cổ

đốt sán chiều ngang rộng hơn chiều dài, chỉ có cơ quan sinh dục đực. Đốt

trưởng thành có chiều ngang bằng chiều dài chứa cơ quan sinh dục đực và cái.

Các đốt già cơ quan sinh dục đực tiêu biến chỉ còn thấy tử cung phân nhánh.

Các đốt sán già của sán dải lợn có 7 - 12 nhánh chứa 30.000 đến 50.000 trứng.

Mỗi đốt sán có lỗ sinh dục xen kẽ hai bên hông khá đều, chiều dài đốt sán gấp

rưỡi chiều ngang (1 - 2 cm x 0,5 - 0,7 cm), các đốt sán thường rụng thành

từng khúc, mỗi khúc 5 đến 6 đốt liền nhau theo phân ra ngoài.

+ Sức đề kháng của sán dây Taenia solium.

Đối với trứng sán dây nằm trong đốt sán nên khó phá vỡ, chỉ khi nào

đốt sán thối rữa mới giải phóng trứng, cũng như trứng giun đũa, trứng sán dây

ra môi trường nhiệt độ ánh sáng trên 70oC mới có khả năng diệt trứng.

9

- Đặc điểm, hình thái, cấu tạo của ấu trùng Cysticercus cellulosae.

+ Đặc điểm, hình thái của ấu trùng Cysticercus cellulosae.

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5] ấu trùng là bọc màu

trắng, đường kính 8 – 10 mm, có hình hạt gạo bên trong chứa dịch thể trong

suốt và một đầu sán lộn ngược ra phía ngoài, vỏ ngoài bọc là lớp mô liên kết.

Đầu sán trong bọc có cấu tạo như đầu sán trưởng thành.

Theo Phan Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001) [11] ấu trùng Cysticercus

cellulosae là một hạt nước hình cầu hay bầu dục trong, dài 6 - 10 mm, rộng 5

- 10 mm, chứa đầy nước. Trên mặt nó có một điểm trắng đục, bằng hạt gạo,

đó chính là đầu sán tụt vào. Hạt nước bọc một màng kén do phản ứng các tổ

chức ký chủ.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2015) [8] ấu trùng có dạng bọc màu trắng,

trong có nước trong suốt, đường kính 8 - 10 mm, có khi chỉ 5 mm, giống hình

hạt gạo. Trên màng bên trong dính một đầu sán màu trắng, cấu tạo giống đầu

sán dây trưởng thành.

Theo Phan Anh Tuấn (2013) [19]; Lê Thị Xuân (2013) [21] và Nguyễn

Văn Đề (2013) [3] ấu trùng sán dải lợn (tên khoa học là Cysticercus

cellulosae) được gọi là “gạo lợn” (phổ biến và dễ nhận biết). Ấu trùng chứa

dịch và đầu sán rất giống với đầu sán trưởng thành. Dịch gồm nước, albumin

và các thành phần khác nên có màu trắng đục, kích thước từ 0,5 - 1,5 cm. Tuy

nhiên, cũng có những ấu trùng lớn, kích thước từ 3 - 4 cm, nhưng loại này

hiếm. Hình dạng ấu trùng cũng khác nhau tùy thuộc vị trí: ở não hình dạng ấu

trùng tùy thuộc vào áp suất, ở cơ có hình bầu dục giống như hạt gạo, ở mô

dưới da có hình hạt đậu, ở thủy tinh dịch - não thất có hình cầu.

+ Cấu tạo của ấu trùng Cysticercus cellulosae.

Theo Chu Thị Thơm và cs (2006) [18] ấu trùng Cysticercus cellulosae

màu trắng đục bên trong có 1 đầu sán, có 4 giác bám và 2 hàng móc như đầu

sán dây trưởng thành.

10

Theo Lê Bách Quang và cs (2008) [14] ấu trùng có màu trắng đục, kích

thước 17 - 20 × 7 - 10 mm. Nang chứa nước và có một đầu sán cùng với đốt

cổ lộn vào bên trong, đầu có 4 giác và 2 vòng móc.

+ Sức đề kháng của ấu trùng Cysticercus cellulosae.

Ấu trùng sán dây lợn bị giết chết ở dưới -20oC, nhưng ở 0oC đến -20oC

ấu trùng sống được gần 2 tháng, ở nhiệt độ phòng thí nghiệm ấu trùng sống

được 26 ngày. Nếu ở - 100oC, ấu trùng chết sau 4 ngày mới bảo đảm, ấu trùng

bị giết chết ở 45 - 50oC, trên 1 giờ.

Ấu trùng Cysticercus cellulosae có thể sống nhiều năm ở ký chủ trung

gian, người ăn phải ấu trùng cùng với thịt lợn, vào trong cơ thể phát triển

thành sán trưởng thành, thời gian hoàn thành vòng đời sau 3 tháng.

Theo Zirintunda G., Ekou J. (2015) [25] ấu trùng sán dây lợn có thể

sống hơn 70 ngày ở nhiệt độ từ 1 - 4oC, nhưng lại bị diệt trong 5 ngày ở nhiệt

độ từ - 5oC đến - 8oC (thịt ướp lạnh có thể diệt được gạo).

2.2.1.3. Chu kỳ sinh học của sán dây Taenia solium

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5] sán trưởng thành có đầu

cắm sâu vào niêm mạc ruột non người để ký sinh. Những đốt sán già được

thải theo phân ra ngoài trong chứa đầy trứng. Nếu ký chủ trung gian (lợn, lợn

rừng, chó, mèo, người nuốt phải trứng, ở ruột non thai 6 móc (onchosphere)

được giải phóng. Sau 24 - 72 giờ thai này chui vào mạch máu, ống lâm ba

ruột và theo hệ tuần hoàn về các cơ, lúc đầu hình thành bọc nước, sau 60 ngày

trong bọc hình thành một đầu sán có đủ móc, giác và bọc này gọi là gạo lợn

(Cysticercus cellulosae). Gạo này có thể sống nhiều năm ở lợn và người. Số

lượng gạo ở lợn có khi tới hàng nghìn, do lợn nuốt phải đốt sán có nhiều

trứng. Khi người ăn phải gạo lợn ở trong đường tiêu hoá, đầu sán nhô ra và

cắm vào niêm mạc ruột non, tiếp tục phát triển sau 2 - 3 tháng, hình thành sán

trưởng thành. T.solium và lại tiếp tục thải đốt già theo phân đi ra ngoài. Sán

dây T.solium có thể tồn tại 25 năm ở người.

11

Theo Chu Thị Thơm và cs (2006) [18] sán trưởng thành kí sinh trong

ruột non của người do ăn phải thịt lợn gạo. Ấu trùng vào ruột non của người,

đầu sán cắm vào niêm mạc ruột, các đốt cổ sinh ra các đốt thân. Sau 2 - 3

tháng, ấu trùng phát triển thành sán trưởng thành, lại tiếp tục thải các đốt sán

già theo phân ra ngoài. Khi lợn ăn phải trứng sán, ấu trùng 6 móc vào ruột

non, xuyên qua thành ruột theo đường tuần hoàn đến các cơ bắp, tim,

não…Sau 3 - 4 tháng hình thành gạo (Cysticercus cellulosae). Người mắc

bệnh gạo (ấu trùng sán dây) do ăn phải trứng sán qua đường tiêu hoá, hoặc do

tự nhiễm (đốt sán già trong ruột người, do nhu động được di chuyển từ ruột

non lên dạ dày, ở đó đốt sán tiêu đi, trứng phát triển thành gạo).

Nguyễn Thị Kim Lan (2015) [8] sán trưởng thành ký sinh ở ruột non

người. Đốt sán già theo phân ra ngoài vỡ ra, giải phóng trứng sán. Nếu đốt sán

hoặc trứng sán lẫn vào thức ăn, nước uống, lợn (hoặc chó, mèo, người) ăn

phải thì nhiễm bệnh. Ở ruột non, trứng sán nở ra ấu trùng 6 móc. Sau 24 - 72

giờ, ấu trùng vào mạch máu, ống lâm ba ruột, rồi theo máu tuần hoàn về vị trí

ký sinh và phát triển dần thành một bọc có nước, sau 60 ngày có móc và giác

bám ở trên đầu, lúc đó hình thành “hạt gạo lợn” hoàn chỉnh. “Gạo” có thể

sống ở lợn nhiều năm. Người ăn thịt lợn gạo chưa nấu chín, vào đường tiêu

hoá, dịch dạ dày phân huỷ màng ngoài, đầu sán sẽ nhô ra và bám vào niêm

mạc ruột non, lấy dinh dưỡng của ký chủ bằng cách thẩm thấu để phát triển

thành sán dây T. solium trưởng thành. Hoàn thành vòng đời cần 2 - 3 tháng.

Tuổi thọ của sán ở người tới 2,5 năm.

Theo Lê Bách Quang và cs (2008) [14] vòng đời sinh học của sán dây

lợn như sau:

- Người là vật chủ chính.

Sán trưởng thành ký sinh ở ruột non của người, đầu bám vào màng

nhầy ruột nhờ 4 giác và những hàng móc. Đốt già thường rụng từng đoạn 5 -

12

6 đốt theo phân ra ngoại cảnh. Vật chủ phụ là lợn. Lợn ăn phải đốt sán, hoặc

trứng sán từ đốt sán vỡ ra. Trứng sán qua dạ dày đến ruột non. Ấu trùng thoát

ra chui qua thành ruột vào hệ thống tuần hoàn đi khắp cơ thể. Sau 24 - 72 giờ

kể từ khi ăn phải, ấu trùng vào cư trú ở mô liên kết giữa các cơ, ở đây sau hai

tháng, ấu trùng tạo thành một nang có vỏ bọc ngoài, có kích thước 17 - 20 × 7

- 10 mm, còn gọi là “gạo lợn” (cysticercus cellulosae). Trong nang có dịch

màu trắng, có một đầu sán với 4 giác và 2 móc. Ngoài lợn ra, các loài lợn

rừng, chó, mèo đều có thể là vật chủ phụ của sán dây lợn.

Hình 2.1: Chu kì phát triển của sán dây (Nguồn: DCD)

Người ăn phải thịt lợn chứa nang ấu trùng còn sống, dưới tác động của

dịch tá tràng, đầu sán thoát ra khỏi nang bám vào niêm mạc ruột, lớn lên phát

triển thành sán trưởng thành, khoảng 67 - 72 ngày sán đã có những đốt già.

Sán trưởng thành có thể sống tới 25 năm. Trường hợp này người là vật chủ

chính của sán dây lợn (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996 [5])

- Người là vật chủ phụ.

Người còn có thể là vật chủ phụ của sán dây lợn (trong trường hợp

người ăn phải trứng sán dây lợn từ ngoại cảnh theo thực phẩm, rau quả sống)

theo đường tiêu hoá, dưới tác động của dịch tiêu hoá, ấu trùng thoát khỏi

13

nang, xuyên qua thành ruột lại vào vòng tuần hoàn tiếp tục chu du khắp cơ thể

rồi cuối cùng đến cư trú tại các mô liên kết. Ở đây ấu trùng không thể phát

triển thành thể trưởng thành được mà tạo thành nang ấu trùng sán. Người có

nang ấu trùng sán còn gọi là “người gạo”.

- Người vừa là vật chủ chính vừa là vật chủ phụ của sán dây lợn.

Những người đã mắc sán trưởng thành ký sinh ở ruột non (người là vật

chủ chính), vì một lí do nào đấy như say tàu, say xe, say sóng, phụ nữ có thai,

sốt cao…bị nôn oẹ, những đốt sán già rụng ra ở ruột non theo nhu động ngược

chiều lên dạ dày, dưới tác dụng của dịch dạ dày, trứng của các đốt sán già

được giải phóng xuống tá tràng, ấu trùng trong trứng thoát ra, chui qua thành

ruột và vào hệ thống tuần hoàn theo các mạch máu đi khắp cơ thể, rồi lại vào

các cơ, các mô khác và phát triển thành nang ấu trùng sán như trên (người là

vật chủ).

2.2.2. Bệnh do ấu trùng Cysticercus cellulosae (bệnh gạo) ở lợn

2.2.2.1. Đặc điểm dịch tễ học của bệnh gạo lợn

- Phân bố

Lợn ở miền núi mắc bệnh gạo cao hơn ở đồng bằng, vì ở miền núi

thường nuôi lợn thả rông, một số vùng có tập quán ăn thịt sống hoặc thịt tái,

không có hố xí hai ngăn hoặc hố xí tự hoại. Miền Nam và khu vùng đồng

bằng thường ít mắc hơn.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2015) [8] lợn ở miền núi mắc bệnh gạo

cao hơn ở đồng bằng, vì ở miền núi thường nuôi lợn thả rông, một số vùng có

tập quán ăn thịt sống và tái, không có hố xí hai ngăn hoặc hố xí tự hoại.

Phan Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001) [11] cho biết: Theo kinh

nghiệm khám thịt lợn, bệnh gạo lợn khá phổ biến, nhất là ở vùng núi và trung

du thường thả rông và lợn ăn phải phân người.

Theo Lê Bách Quang và cs (2008) [14] sự phân bố sán dây lợn không

đồng đều. Thường thấy ở những nơi nuôi lợn thả rông, lợn thả rông ăn phân

người và những nơi có phong tục ăn thịt lợn sống, chưa nấu chín.

14

- Đường lây truyền.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2015) [8] người có thể bị nhiễm bệnh gạo

do nuốt phải trứng sán lẫn vào trong thức ăn, nước uống hoặc do người có sán

dây trưởng thành ký sinh, khi người nôn mửa, đốt sán già đã rụng theo nhu

động ngược mà lên dạ dày nhưng không nôn ra ngoài. Ở dạ dày, thai 6 móc

nở ra, theo máu đến các cơ, não, mắt...mà thành gạo.

Theo Lê Thị Xuân (2013) [21] đường truyền bệnh thông qua thức ăn,

nước uống. Trên thế giới có khoảng 2,5 triệu người mắc bệnh sán dây, bệnh

gặp khắp nơi trên thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào thói quen ăn nhất là

ở những nơi có tập tục ăn thịt lợn sống, chưa nấu chín. Việc quản lý phân thải

chưa tốt như sử dụng các loại hố xí không hợp vệ sinh, nuôi lợn thả rông.

Ngoài ra, chưa có chế độ quy định về kiểm tra an toàn thực phẩm chặt chẽ

cũng làm bệnh có thể lưu hành.

Bệnh sán dây và ấu trùng sán dây lợn phân bố rải rác nhiều nước trên

thế giới, với khoảng 100 triệu người nhiễm bệnh. Riêng bệnh ấu trùng sán dây

lợn và tổn thương neurocysticercosis lưu hành tại châu Mỹ La Tinh, Châu Á,

Châu Phi và đặc biệt ở Mỹ thì bệnh bắt đầu tăng mạnh vào những năm 1980.

Một số quốc gia ở Châu Âu có số ca mắc cao là Tây Ban Nha, Mexico.

Trong đó, Mexico tỷ lệ dương tính trên xét nghiệm huyết thanh học là 3,6% người

trưởng thành và qua giải phẩu tử thi có tỷ lệ nhiễm là 1,9%. (Bộ Y tế 2004 [1])

Theo Lê Bách Quang và cs (2008) [14] bệnh thường lây qua đường tiêu

hoá do ăn phải thịt lợn có ấu trùng chưa nấu chín hoặc còn sống. Ở nước ta

tập quán ăn nem chua, một số vùng miền núi có tập quán ăn thịt sống.

- Tác hại của bệnh

Theo Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) [5] bệnh gạo lợn gây tác hại

lớn cho cả người và vật nuôi.

+ Tác hại sức khoẻ con người: Người có thể nhiễm sán trưởng thành và cả

ấu trùng, rất nguy hiểm khi ấu trùng vào mắt, não làm người bị mù hoặc chết.

+ Tổn thất trong ngành chăn nuôi: Khi lợn bị gạo ảnh hưởng đến sức

15

khoẻ, con vật chậm lớn, gày còm, trọng lượng xuất chuồng khoảng 25 - 35kg.

Khi mổ thịt có gạo phải huỷ bỏ hoặc luộc. Ở lò mổ Hà Nội trong 6 tháng đầu

năm 1970, qua khám nghiệm 73753 lợn, có 138 con bị gạo trong đó 116 con

phải huỷ bỏ, 2905 kg thịt lợn, 22 con luộc trọng lượng 460kg, lỗ khoảng

763.500đ chiếm tỷ lệ 0,136% tổng số thu nhập của lò mổ. Lò mổ thái nguyên

cũng phải chôn và luộc 667kg thịt, lỗ 1173đ (Phạm Văn Khuê và Phan Lục,

1996 [5])

- Tỷ lệ mắc bệnh

Theo Nguyễn Quốc Doanh và cs (2002) [2] điều tra tình hình nhiễm

sán dây T. solium ở người tại Bắc Ninh, tỷ lệ nhiễm sán dây là 1 - 12,6%, tỷ lệ

nhiễm ấu trùng là 2,2 - 7,2%. Kiểm tra ấu trùng C. cellulosae trên lợn ở Bắc

Ninh và Bắc Kạn bằng phương pháp ELISA, tỷ lệ nhiễm là 9,91%.

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5] nghiên cứu và tổng hợp,

bệnh gạo lợn xuất hiện ở nhiều tỉnh. Tỷ lệ lợn nhiễm C.cellulosae ở lò mổ các

tỉnh như sau:

Bảng 2.1. Tỷ lệ lợn nhiễm cysticercus cellulosae ở lò mổ các tỉnh

Số lợn kiểm ra % nhiễm gạo Tỉnh

Lạng Sơn 1445 3,98

Vĩnh Phúc 3067 1,49

Thái Nguyên 3051 0,524

Hoà Bình 2237 0,178

Hà Nội 73753 0,187

Nam Hà 7858 -

Hải Dương 119 -

2.2.2.2. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh gạo lợn

- Đặc điểm bệnh lý

Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Định Lân (2001) [11] khi lợn mắc bệnh gạo

có triệu chứng không điển hình, khi mổ khám mới thấy những tổn thương bệnh

16

lý. Nếu gạo ở não thì con vật bị co giật, sùi bọt mép giống như cơn động kinh ở

người. Mổ khám lợn bị bệnh thường thấy ấu trùng ký sinh ở tổ chức cơ vân,

chèn ép các mao mạch gây trở ngại tuần hoàn, chèn ép thần kinh gây bại liệt. Ấu

trùng cũng gây ra các ổ viêm xơ hóa ở các tổ chức nội quan của vật chủ.

Theo Phạm Sỹ Lăng và Hoàng Văn Năm (2012) [12] ấu trùng phát triển,

chèn ép làm cho các mô bị teo, hoại tử và thoái hóa, mô bào và các cơ bị tổn

thương, bên trong có bạch cầu ái toan, bạch cầu trung tính và các tổ chức xơ.

- Đặc điểm lâm sàng

Lợn bệnh có triệu chứng không rõ rệt và thay đổi theo chỗ ký sinh của

gạo: Nếu ở lưỡi có thể thấy liệt lưỡi và hàm dưới; Nếu ở cơ chân thì thấy con

vật đi lại khó khăn; nếu ở lão thấy triệu chứng thần kinh (con vật co giật hoặc

quay vòng tròn); Nếu nhiễm nhiều ở toàn thân thì có triệu chứng viêm ruột và

viêm gan, sau đó viêm hệ cơ tuần hoàn. Lúc này con vật lờ đờ, thở dốc, không

ăn, ỉa chảy, gầy rạc, bại liệt và có thể chết.

Thường thấy ấu trùng ký sinh ở các cơ lưỡi, cơ tim, cơ thịt và ở gốc lưỡi.

+ Ở người.

Thường thấy có nang ấu trùng ký sinh ở mô dưới da, não, mắt, cơ bắp,

tim, gan, phổi, các hốc trong bụng...Nang ấu trùng dưới da tạo thành các nốt,

có thể sờ thấy được, di động.

Thông thường khi mới nhiễm sán thì một số có biểu hiện các dấu hiệu

như chán ăn, buồn nôn, đau bụng, rối loạn tiêu hóa nhưng phần lớn lại diễn ra

âm thầm, lặng lẽ với các triệu chứng mờ nhạt. Tuy nhiên khi ấu trùng gây

bệnh heo gạo cho người thì các triệu chứng thể hiện tùy thuộc vào cơ quan

chúng gây bệnh như:

Gạo lợn ở não: Nếu ấu trùng sán định cư tại não thì chúng có thể gây ra

tăng áp lực nội sọ gây nhức đầu, động kinh cục bộ, suy giảm trí tuệ, yếu, liệt chi

thậm chí có thể rối loạn tâm thần. Tất cả các triệu chứng trên ở mức độ nào còn

tùy thuộc vào số lượng và vị trí định cư của ấu trùng sán trong não người.

17

Gạo lợn ở mắt: Ấu trùng có thể định cư tại hốc mắt, mí mắt, kết mạc

mắt hoặc trong mắt chúng có thể gây ra những rối loạn thị giác và tùy vào vị

trí của ấu trùng định cư ở mắt.

Gạo lợn ở trong tế bào cơ: Ít có biểu hiện lâm sàng trừ khi với số lượng

nhiều chúng có thể gây đau cơ và sau thời gian dài chúng sẽ bị vôi hóa ngay

trong cơ, nơi chúng định cư.

Gạo lợn ở dưới da: Gây đau nhức khó chịu, đôi khi chúng gây ngứa.

Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [7] cho biết nếu ấu trùng ở não người thì

chèn ép não, cản trở tuần hoàn máu, gây tụ máu, nếu ở mắt thì mờ mắt, chảy

nước mắt, có khi bị mù. Triệu chứng thường thấy là: Đau đầu dữ dội, bại liệt,

co giật, nôn mửa, rối loạn thị giác, suy nhược toàn thân. Nếu ấu trùng ở cơ thì

bệnh nhân bị mỏi và đau cơ, nếu gạo ở dưới da gây đau nhức rất khó chịu.

Theo Bùi Quý Huy (2006) [4] bệnh ấu trùng sán dây (gạo) ở người có

triệu chứng rõ rệt, kéo dài từ vài tuần đến vài năm sau khi bị nhiễm sán.

2.2.2.3. Chẩn đoán bệnh gạo ở lợn.

Chẩn đoán bệnh gạo lợn không thể căn cứ vào triệu chứng lâm sàng vì

triệu chứng lâm sang thường biểu hiện không rõ rệt, ngay cả khi con vật

nhiễm bệnh ở giai đoạn nặng. Vì vậy, để chẩn đoán được bệnh gạo lợn, cần

mổ khám con vật tìm ấu trùng sán ký sinh trong các tổ chức cơ, hoặc chẩn

đoán bằng phương pháp huyết thanh học.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan và Nguyễn Văn Quang (1999) [6], Phạm Sỹ

Lăng và cs (2009) [9], Phạm Sỹ Lăng (2009) [10], Nguyễn Thị Kim Lan

(2012) [7] cho biết: Khi con vật còn sống, có thể tìm gạo ở lưỡi, mắt. Nếu

không thấy gạo ở những nơi đó thì khó chẩn đoán. Có thể chẩn đoán bằng

phương pháp miễn dịch học: lấy các đốt sán dây T.solium để chế kháng

nguyên, tiêm nội bì 0,2ml. Sau khi tiêm 15 - 45 phút, nếu nơi tiêm sưng và đỏ

thì dương tính. Tuy nhiên, phương pháp này có độ chính xác thấp vì có thể

18

gây ra phản ứng dương tính chéo với một số ấu trùng sán dây khác như

Cys.tenuicollis… Có thể ứng dụng kỹ thuật ELISA phát hiện lợn bị gạo. Đối

với con vật chết: Mổ khám, tìm gạo ở cơ đùi, cơ lưỡi và cơ tim.

Theo Bùi Quý Huy (2006) [4] phát hiện dễ dàng “gạo” ở lợn khi rạch

lưỡi dao vào các thớ cơ, đặc biệt là cơ tim. Ở người, cũng có thể tìm thấy gạo

qua chụp X quang hoặc chụp cắt lớp. Chẩn đoán có độ tin cậy khá cao khi

làm các xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu.

2.2.2.4. Phòng và điều trị bệnh gạo lợn

*Phòng bệnh

Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001) [11] để phòng được

bệnh gạo lợn yêu cầu: Một mặt không cho lợn nhiễm ấu trùng, mặt khác bảo

vệ người chống lây nhiễm sán. Đối với lợn, không nên nuôi trả rông. Người

không nên đi vệ sinh bừa bãi, cần có hố xí. Người có sán phải chữa ngay, sán

bị tống ra ngoài phải đốt ngay. Không cho người ăn thịt lợn sống hay chưa

chín kỹ. C.cellulosae có thể sống hơn 70 ngày trong thịt ở nhiệt độ từ 1 - 4oC.

Nhưng ướp lạnh ở - 5oC - 8oC trong 5 ngày, thì nó chết và không có hại nữa,

đó là cách khử trùng tốt nhất.

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5] Áp dụng biện pháp

phòng trừ tổng hợp sau:

Xây dựng củng cố và thực hiện nghiêm túc quy định kiểm nghiệm thịt.

Để bảo vệ sức khoẻ cho người, phòng cho người không nhiễm sán lợn, cần

kiểm nghiệm thịt nghiêm túc lúc trong nhà máy chế biến thịt, lò mổ tinh, luyện.

Nếu thấy gạo thì tùy mức độ mà xử lý: Trên 40 cm2 thịt có trên 6 hạt gạo (ấu

trùng) thì thì phải huỷ ngay, chế biến làm thức ăn cho gia cầm hoặc đem chôn.

Nếu 40 cm2 chỉ có 6 hạt gạo thì xử lý bằng 1 trong 3 biện pháp sau:

+ Luộc chín: Cắt thành miếng 1 - 2 kg, dày 5 - 6 cm, luộc trong 45 phút

đến 1 giờ (ấu trùng chết ở 60 - 70oC hoặc -10 - 15oC, nếu thịt cắt to và dày

quá thì nhiệt độ bên trong không đủ để diệt ấu trùng).

19

+ Ướp muối: ngâm thịt trong nước muối đặc, sau 3 tuần thì gạo chết.

+ Ướp lạnh ở nhiệt độ -10oC đến - 15oC từ 10 - 15 ngày. Sau đó phải thử

sức sống của gạo trước khi dùng thịt này làm thực phẩm. Cách làm: bóc một số

hạt gạo ở thịt đã ướp lạnh, cho vào đĩa lồng chứa dịch mật bò (80 %) pha với

nước sinh lý (20 %), để ở tủ ấm 39 - 40oC khoảng 15 phút. Kết quả: màng

ngoài của gạo bị phân hủy giải phóng đầu sán dây, nếu thấy đầu sán dây không

chuyển động thì gạo đã chết.

- Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh cho người và gia súc

+ Xây dựng hố xí hai ngăn hoặc hố xí tự hoại để ngăn ngừa không cho

lợn ăn phải đốt hoặc trứng sán dây trong phân người.

+ Nâng cao ý thức vệ sinh của nhân dân, tuyên truyền giáo dục cho mọi

người hiểu những kiến thức cơ bản và tác hại của bệnh, chỉ ăn thức ăn đã

được rửa sạch, nấu chín, không ăn thịt lợn nghi là lợn gạo. Trước khi ăn và sau

khi đại tiện phải rửa tay bằng xà phòng.

- Chẩn đoán và điều trị bệnh sán dây lợn cho người.

Phải chẩn đoán cho nhân dân ở vùng có dịch bằng cách hỏi bệnh nhân

và kết hợp kiểm tra phân tìm đốt sán. Sau khi chẩn đoán chính xác phải tẩy

sán dây.

Theo Phan Anh Tuấn (2013) [19] Biện pháp chung là tuyên truyền,

giáo dục sức khỏe về phòng chống bệnh cho cộng đồng.

Có thể phòng ngừa bệnh hiệu quả bằng vệ sinh cá nhân và cải thiện

điều kiện vệ sinh. Việc phòng ngừa bao gồm: Nấu thịt lợn chín kỹ, nhà vệ

sinh hợp quy cách và tăng cường khả năng tiếp cận được nguồn nước sạch.

Điều quan trọng để phòng ngừa lây lan là điều trị những người mắc bệnh sán

lợn trưởng thành. Bệnh mà không ảnh hưởng đến hệ thần kinh có thể không

cần điều trị.

Ấu trùng gạo lợn chết ở -2oC, nhưng nếu ở 0oC đến -2o C ấu trùng sống

20

được gần 2 tháng và ở nhiệt độ phòng thí nghiệm cũng sống được 26 ngày.

Nếu muốn dùng thịt lợn sống, phải để thịt ở -10oC trong 4 ngày mới đảm bảo.

Ấu trùng bị giết chết ở 45 - 50oC. Để đảm bảo an toàn ½ kg thịt phải đun sôi 1

giờ. Ấu trùng sán dây sống sau 22 ngày ngâm trong nước muối bão hòa.

* Điều trị bệnh gạo ở lợn

Theo Phan Anh Tuấn (2013) [19] Có thể điều trị bệnh gạo lợn theo

nguyên tắc và một số loại thuốc đặc hiệu sau:

- Nguyên tắc điều trị

+ Điều trị sớm: Cần thiết chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời ngay khi

phát hiện có đốt sán ra theo phân để tránh những biến chứng do sán dây (bệnh

ấu trùng sán lợn).

+ Không nên điều trị bằng thuốc đông y, thuốc nam hoặc các thuốc cổ

truyền đối với bệnh sán dây lợn vì dễ xảy ra biến chứng nguy hiểm.

+ Điều trị bệnh ấu trùng sán dây nên thực hiện ở cơ sở y tế trang bị

phương tiện cấp cứu tốt, có bác sĩ chuyên khoa theo dõi.

- Thuốc điều trị

Một số thuốc đặc hiệu cho bệnh sán dây và ấu trùng sán như

praziquantel, niclosamide và albendazole.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2015) [8] Bệnh gạo lợn được điều trị

như sau:

Đối với người: Diệt ấu trùng sán dây (gạo) ở người bằng một trong hai

phác đồ sau:

Praziquantel: Liều 30mg/kg TT/ngày × 15 ngày, chia thành 2 - 3 đợt

(mỗi đợt cách nhau 10 - 20 ngày)

Praziquantel: Liều 15 - 20 mg/kg TT ngày đầu, những ngày sau dùng

albendazole 15mg/kg TT/ngày × 30 ngày, chia thành 2 - 3 đợt (mỗi đợt cách

nhau 20 ngày).

21

Tuy nhiên, nếu đã chẩn đoán chính xác lợn bị bệnh gạo thì nên loại thải

và sử lý đúng theo quy định kiểm tra vệ sinh thú y.

Theo Nguyễn Văn Đề (2013) [3]; Bộ Y tế (2004) [1]: Phác đồ điều trị

bệnh ấu trùng cysticercus cellulosae như sau:

- Điều trị bệnh ấu trùng sán, chúng ta có thể dùng 1 trong 2 phác đồ sau đây:

+ Praziquantel 30mg/kg/ngày x 15 ngày x 2-3 đợt (mỗi đợt cách nhau

10-20 ngày).

+ Hoặc Praziquantel 15-20mg/kg, liều duy nhất ngày đầu. Những ngày sau

dùng albendazole 15mg/kg/ngày x 30 ngày x 2-3 đợt (đợt cách đợt 20 ngày).

Theo Lê Bách Quang và cs (2008) [14]: Hiện nay điều trị bệnh ấu trùng

sán dây lợn vẫn là vấn đề nan giải. Trước khi điều trị bệnh ấu trùng sán dây

lợn phải điều trị bệnh sán dây lợn trưởng thành ở ruột (nếu có) để loại trừ khả

năng tiếp tục chuyển thành bệnh ấu trùng.

- Thuốc điều trị:

+ Praziquantel (Distocid): 10 - 15mg/kg cân nặng/ngày × 7 ngày/đợt,

nghỉ 3 ngày sau uống tiếp 3 đợt như vậy. Tuy nhiên cũng có tác giả dùng liều

cao hơn 20 -30mg/ngày.

+ Albendazole 20 mg/kg/24 giờ chia 2 lần trong ngày. Điều trị 20 ngày.

- Có thể phối hợp các thuốc trên với corticoid, dùng trước khi điều trị 5

ngày và tiếp tục duy trì trong suốt quá trình điều trị.

Chỉ định điều trị ngoại khoa bệnh ấu trùng sán dây lợn: Có thể phẫu

thuật lấy bỏ nang ấu trùng án dây lợn ở mắt, ở tổ chức dưới da, cơ, có nguy cơ

chèn ép thần kinh…Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp.

- Đối với người.

Theo Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) [5] có nhiều loại thuốc nhưng

hiện nay thường dùng loại thuốc nam sau:

Hạt bí ngô (bỏ vỏ): 50g

22

Hạt cau: 70 - 100g

MgSO4: 20 - 30g

Sáng sớm còn đói cho ăn hạt bí, sau 1 - 2 giờ cho uống nước sắc hạt cau

(hạt cau nghiền thành bột cho uống thêm 500ml nước, đun sôi 1 giờ, nước cạn

còn độ 100ml gạn qua vải màn lại sắc lại lần 2 nữa, cuối cùng lấy lại 300ml

nước sắc đun lại, còn lại 100ml lọc và uống) sau nửa giờ thì uống thuốc tẩy

MgSO4. Sau khi uống 40 phút đến 4 giờ, đầu sán và các đốt thân sẽ ra.

+ Ở người:

Theo Nguyễn Văn Đề (2013) [3]; Bộ Y tế (2004) [1] Phác đồ điều trị

bệnh sán trưởng thành ở người.

- Điều trị bệnh sán dải trưởng thành: Praziquantel 15-20mg/kg cân

nặng liều duy nhất hoặc niclosamide liều 2 gam cho người lớn liều duy nhất

hoặc có thể lặp lại liều trong vòng 7 ngày nếu cần thiết.

-Với trẻ em, khi điều trị bằng thuốc niclosamide, cần cho liều theo cân

nặng cơ thể và được chỉ định bởi bác sĩ:

+ Với những trẻ từ 11-34 kg: Liều cho 1 g, liều duy nhất, điều trị có thể

lặp lại trong vòng 7 ngày nếu cần thiết.

+ Với trẻ > 34 kg: Liều cho 1,5g, liều duy nhất, điều trị có thể lặp lại

trong vòng 7 ngày nếu cần thiết.

Theo Lê Bách Quang và cs (2008) [14] Cách điều trị bệnh sán dây lợn

trên người:

- Hạt bí, hạt cau.

+ Hạt bí đỏ (Semina cucurbitae decortica): Bóc vỏ giã nhỏ, liều: 100 - 200g.

+ Hạt cau: Dùng hạt cau sống độ 50 - 100g (tuỳ theo độ tuổi và thể

trọng). Trẻ em < 10 tuổi dùng 30g hoặc ít hơn. Đổ vào 50ml nước lã, đun cạn

còn 150 - 200ml. Nên nhỏ thêm getanin 2,5% hoặc dùng 5 lòng trắng trứng

thay cho getanin để đỡ chát, đỡ kích thích dạ dày.

23

Cách uống: Uống hạt bí trước, 2 giờ sau uống nước sắc hạt cau, ½ giờ sau

uống thuốc tẩy 60 ml magiê sunfat 50%. Chú ý: Khi áp dụng phương pháp này

cần tôn trọng đúng thứ tự của thời gian, thuốc sử dụng như vậy mới đảm bảo kết

quả tốt. Phương pháp này đạt hiệu quả từ 90 - 100% ra cả đầu sán.

- Quinacrin (atebrin): Người lớn uống từ 0,9g - 1,2g chia liều nhỏ. Một

ngày trước khi uống cần dùng thuốc nhuận tràng để giảm bớt chất nhầy bám ở

thân sán, để thuốc dễ ngấm vào thân sán hơn. Hiện này ít dùng vì thuốc độc.

- Niclosamide (yomesan): Một liều 4 - 6 viên 0,5g. Buổi sáng nhai từng

viên một, nhai thật kĩ (nhai 10 phút) uống với một ít nước, thuốc không độc,

hiệu quả cao. Cần tích cực phát hiện và điều trị bệnh sán dây lợn trưởng thành

là biện pháp tích cực nhất để phòng nhiễm bệnh ấu trùng sán lợn.

- Praziquantel (distocid): 75mg/kg cân nặng/lần/liều duy nhất.

2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về bệnh do ấu trùng

Cysticercus cellulosae và bệnh sán dây ở người

2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

- Tình hình nghiên cứu về bệnh gạo.

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5] Nghiên cứu và tổng hợp,

bệnh gạo lợn xuất hiện ở nhiều tỉnh. Tỷ lệ lợn nhiễm C.cellulosae ở lò mổ các

tỉnh như sau:

Bảng 2.2. Tỷ lệ nhiễm cysticercus cellulosae ở lò mổ các tỉnh

Số lợn kiểm tra % nhiễm gạo Tỉnh

Lạng Sơn 1445 3,98

Vĩnh Phúc 3067 1,49

Thái Nguyên 3051 0,524

Hoà Bình 2237 0,178

Hà Nội 73753 0,187

Nam Hà 7858 -

Hải Dương 119 -

24

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục, (1996) [5] Tỷ lệ lợn nhiễm ấu

trùng Cysticercus cellulosae ở lò mổ ở các tỉnh như sau: Tỉnh Lạng Sơn, tỷ lệ

nhiễm 3,89%; Tỉnh Thái Nguyên (1,49%); Tỉnh Hòa Bình (0,524%); Thành

phố Hà Nội (0,187%); Tỉnh Hà Nam không có lợn nhiễm sán dây tại thời

điểm điều tra.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6], (2012) [7] Lợn ở miền núi

mắc bệnh gạo cao hơn ở đồng bằng vì ở miền núi thường nuôi lợn thả rông,

đồng thời người dân hay ăn thịt sống hoặc tái, không có hố xí hai ngăn. Phạm

Văn Khuê và Phan Lục (1996) [5] cho biết: Lợn ở Việt Nam nhiễm gạo với tỷ lệ

0,3%, tỷ lệ lợn nhiễm gạo phân bố ở vùng miền núi cao hơn vùng đồng bằng.

- Tình hình nghiên cứu về bệnh sán dây ở người

Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục, (1996) [5] tổng hợp Dinon (1961)

đã thống kê 450 trường hợp người bị bệnh gạo lợn thì có 21,6% có sán dây

T.solium trưởng thành ký sinh. Kiểm tra 164 người bị sán trưởng thành ký

sinh thì có 16,4 % bị gạo. Như vậy người bị sán dây trưởng thành ký sinh cần

được tẩy sớm để tránh bệnh gạo lợn.

Điều tra tình hình nhiễm sán dây T.solium ở người tại Bắc Ninh, tỷ lệ

nhiễm sán dây là 1 - 12,6%, tỷ lệ nhiễm ấu trùng 2,2 - 7,2%. Kiểm tra ấu

trùng Cysticercus cellulosae trên lợn ở Bắc Ninh và Bắc Kạn bằng phương

pháp ELISA, tỷ lệ nhiễm là 9,91%, biến động từ 6,06 - 15,49% (Nguyễn

Quốc Doanh và cộng sự, 2002 [2], trích theo Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [7]).

Kết quả điều tra của Phạm Hoàng Thể và Phạm Trí Tuệ cho thấy: ở

vùng núi và cao nguyên, tỷ lệ người mắc bệnh sán lợn cao từ 3,8 - 4% có nơi

lên đến 6%, tỷ lệ nhiễm của người các tỉnh đồng bằng thấp hơn 0,5 - 2%

(Viện SR - KST, 1993).

2.3.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Theo Lê Thị Xuân (2013) [21]; Phan Anh Tuấn (2013) [19] Trên thế

giới có khoảng 2,5 triệu người mắc bệnh sán dải lợn, bệnh gặp khắp nơi trên

25

thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào thói quen ăn nhất là ở những nơi có

tập tục ăn thịt lợn sống, chưa nấu chín. Việc quản lý phân thải chưa tốt như sử

dụng các loại hố xí không hợp vệ sinh, nuôi heo thả rông. Ngoài ra, chưa có

chế độ quy định về kiểm tra an toàn thực phẩm chặt chẽ cũng làm bệnh có thể

lưu hành.

Ở Mexico, tỷ lệ người bị mắc bệnh sán dây Taenia solium là 7,1%

(Euzeby J., 1894). Theo Khaing T.A. và cs (2015) [24] Để điều tra tỷ lệ và

các yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng sán dây Taenia solium, tác giả đã tiến hành

kiểm tra 300 lợn ở 3 cơ sở giết mổ và 364 lợn ở 203 hộ gia đình từ 3 thị trấn

trong khu vực Nay Pry Taw của Myanma, kết quả cho thấy: Tỷ lệ nhiễm giun

sán ở lợn là 26,67% (71/300 mẫu kiểm tra); tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán dây

Taenia solium là 15,93% (58/364 lợn kiểm tra).

Theo Zhang Y và cs. (2016) [25] Thì Taenia solium, một cestode ký

sinh có ảnh hưởng đến con người và lợn, là nguyên nhân hàng đầu của bệnh

động kinh ngăn chặn được các nước đang phát triển trên thế giới. Trứng sán

dây. T. solium được giải phóng ra ngoài môi trường theo phân của người

nhiễm bệnh. Nếu lợn ăn phải trứng sán dây sẽ mắc bệnh gạo.

Aung A.K., Spelman D.W (2016) [22] Cho biết ấu trùng Cysticerci ký

sinh trong não người, người khi nhiễm bệnh có biểu hiện động kinh.

Theo Hiroyuki Miura, MD và cs (2000) [23]: Ở Singapore, kiểm tra rất

cẩn thận thịt lợn khi mổ khám để cung cấp cho người tiêu dùng. Trong 4 năm

đã kiểm tra 894,316 lợn mổ khám, có 3,630 lợn mắc bệnh ấu trùng

cysticercus cellulosae.

Theo Zirintunda G. và Ekou J. (2015) [26] Xử lý tốt chất thải của con

người bằng cách xây dựng nhà vệ sinh đạt yêu cầu, nuôi lợn trong chuồng,

chuồng nuôi phải cách xa khu nhà ở là các biện pháp phòng bệnh gạo cho lợn.

26

Phần 3

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu

- Lợn các lứa tuổi nuôi ở nông hộ tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

- Bệnh ấu trùng cysticercus cellulosae (bệnh gạo) ở lợn.

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài được thực hiện ở một số xã của huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

- Địa điểm xét nghiệm mẫu:

+ Phòng thí nghiệm Bộ môn Bệnh động vật - Khoa Chăn nuôi Thú y -

Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

3.2. Vật liệu nghiên cứu

* Động vật thí nghiệm:

- Lợn các lứa tuổi nuôi ở nông hộ tại một số xã thuộc huyện Điện Biên,

tỉnh Điện Biên (mổ khám xác định tỷ lệ nhiễm Cysticercus cellulosae ở lợn).

* Bệnh phẩm.

- Mẫu cơ, lưỡi, não, mắt, gan, phổi, thận, lá lách, tim, ruột của lợn mắc

bệnh ấu trùng Cysticercus cellulosae.

* Dụng cụ, thiết bị và hóa chất

- Máy cắt tế bào Microtom.

- Kính lúp

- Kính hiển vi quang học

- Thùng bảo ôn để bảo quản bệnh phẩm

- Bộ hóa chất làm tiêu bản xác định bệnh tích vi thể.

- Formol 10%.

- Các hóa chất và dụng cụ thí nghiệm khác.

- Thuốc nhuộm Hematoxilin - Eosin.

27

3.3. Nội dung nghiên cứu

3.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh gạo lợn ở một số xã của

huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn tại một số xã của huyện

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn theo tuổi

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn theo tháng trong năm

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn theo giống

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn theo phương thức chăn nuôi

3.3.2. Nghiên cứu nguy cơ nhiễm sán dây ở người

- Điều tra tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của người dân ở vùng núi

của huyện Điện Biên

- Tỷ lệ người nhiễm sán dây ở một số xã

- Tỷ lệ người nhiễm sán dây theo tuổi

- Tỷ lệ người nhiễm sán dây theo giới tính

3.3.3. Nghiên cứu bệnh gạo ở lợn

- Tổn thương đại thể của lợn nhiễm bệnh gạo

- Tổn thương vi thể của lợn nhiễm bệnh gạo

3.4. Phương pháp nghiên cứu

3.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh gạo lợn ở một số

xã của huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

3.4.1.1. Phương pháp nghiên cứu tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn

* Phương pháp nghiên cứu tỷ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng

cysticercus cellulosae

Bố trí thu thập mẫu theo phương pháp lấy mẫu chùm nhiều bậc.

- Dung lượng mẫu và một số diễn giải về các chỉ tiêu nghiên cứu dịch tễ.

* Phương pháp thu thập ấu trùng Cysticercus cellulosae và đánh giá tỷ

lệ mắc bệnh gạo lợn

28

Để xác định được tình hình mắc bệnh ấu trùng Cysticercus cellulosae ở

lợn, tiến hành mổ khám lợn. Phương pháp mổ khám lợn theo hướng dẫn của

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn năm 2016, về Quy trình kiểm soát

giết mổ động vật (QĐ số 09/2016/TT- BNNPTNT ngày 01/06/2016) kiểm tra

các cơ của lợn, thu thập ấu trùng sán dây (gạo) trong cơ.

Việc mổ khám lợn và thu thập ấu trùng Cysticercus cellulosae được

tiến hành tại các nông hộ và các cơ sở giết mổ.

Ấu trùng thu thập được để trong lọ nhựa có nắp, có dán nhãn ghi các

thông tin: giống lợn, tuổi, địa điểm mổ khám, thời mổ khám, tình trạng sức

khoẻ của lợn trước khi giết mổ (ăn uống, vận động niêm mạc, phân…).

* Phương pháp đánh giá tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh cysticercus

celluosae ở lợn.

Những lợn có ấu trùng ký sinh ở cơ thì đánh giá là mắc bệnh gạo, nếu

không có ấu trùng ở cơ là không mắc bệnh gạo.

Cường độ nhiễm ấu trùng được xác định bằng số luợng ấu trùng ký

sinh/40cm2 lát cắt cơ của lợn.

3.4.1.2. Phương pháp nghiên cứu về nguy cơ nhiễm sán dây Taenia solium ở người

- Phát phiếu điều tra để thu thập thông tin từ các hộ chăn nuôi lợn.

+ Phương thức chăn nuôi lợn Có nuôi lợn không?

+ Nuôi nhốt/thả rông/bán chăn thả? Thức ăn cho lợn là gì?

+ Tuổi lợn đang nuôi?

Trong mấy năm gần đây lợn nuôi tại gia đình có con nào bị gạo không?

+ Tập quán sinh hoạt của người

Giết mổ lợn tại nhà hay bán cho người khác giết mổ?

Gia đình có bao nhiêu người?

Gia đình có nhà vệ sinh không, nhà vệ sinh xây dựng theo phương thức nào?

Có ăn thịt sống/thịt tái không? Có ăn thịt hun khói không?

29

Có ăn rau sống không?

Có đi xét nghiệm xem có bị bệnh sán dây không? Gia đình có ai bị

bệnh sán dây không?

Người mắc bệnh sán dây bao nhiêu tuổi?

Những người trong gia đình có được tẩy sán dây định kỳ không?

+ Tổng hợp qua phiếu điều tra: Kết quả tổng hợp tập trung vào 2 nội

dung: Một là, xác định được nhóm người có hoặc không có phương thức chăn

nuôi và tập quán sinh hoạt tốt, hai là, xác định tỷ lệ người bị nhiễm sán dây

Taenia solium trong tổng số người được điều tra.

* Dự kiến số lợn mổ khám theo các chỉ tiêu nghiên cứu dịch tễ học

như sau:

Bố trí lợn mổ khám và thu thập mẫu theo phương pháp lấy mẫu chùm

nhiều bậc. Mổ khám lợn ở mỗi huyện 5 xã, mỗi xã 5 thôn, số lợn mỗi thôn

được mổ khám ngẫu nhiên.

Số lượng lợn mổ khám được tính trên phần mềm win epicope 2.0.

Chúng tôi đã mổ khám ở huyện 650 con.

- Số lợn mổ khám đối với các giống:

+ Lợn lai (là con lai giữa một số giống lợn ngoại với lợn Móng Cái

hoặc với lợn địa phương).

+ Lợn địa phương (gồm tất cả những giống lợn nội được nuôi tại địa phương).

- Số lợn nhiễm theo phương thức chăn nuôi:

+ Nuôi nhốt hoàn toàn: (lợn được nuôi hoàn toàn trong chuồng).

+ Nuôi bán chăn thả: (lợn vừa được trong chuồng, vừa thả ra ngoài).

+ Nuôi thả rông: (lợn hoàn toàn nuôi ở bên ngoài không có chuồng nuôi).

3.4.2. Phương pháp nghiên cứu bệnh gạo ở lợn

Tổn thương đại thể: Quan sát những tổn thương bằng mắt thường và

kính lúp, chụp ảnh vùng có tổn thương điển hình.

30

Tổn thương vi thể: Nghiên cứu bằng phương pháp làm tiêu bản tổ chức

học theo quy trình tẩm đúc parafin, nhuộm Hematoxilin - Eosin, đọc kết quả

dưới kính hiển vi quang học và chụp ảnh.

3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu thu được được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh học theo

tài liệu của Nguyễn Văn Thiện (2008) [16], trên phần mềm Excel 2010 và

phần mềm Minitab 16.0.

31

Phần 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh do ấu trùng Cysticercus

cellulosae gây ra ở lợn (bệnh gạo lợn) tại một số xã của huyện Điện Biên,

tỉnh Điện Biên

4.1.1. Tình hình nhiễm bệnh gạo ở lợn tại một số xã

4.1.1.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn tại một số xã của huyện Điện

Biên, tỉnh Điện Biên

Bảng 4.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn

Địa phương (xã) Số lợn mổ khám (con) Cường độ nhiễm (Số ấu trùng/40 cm2) Số lợn nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%)

Pa Thơm 130 5 3,85 8,20

Na Ư 135 4 2,96 6,75

Pom Lót 130 1 0,77 4,00

Thanh Hưng 120 3 2,50 6,67

Thanh Chăn 135 2 1,48 6,28

650 15 2,31 6,38 Tính chung

Qua bảng 4.1 chúng tôi thấy:

Ở xã Pa Thơm, mổ khám 130 lợn, có 5 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ

3,85%, cường độ nhiễm trung bình 8,20 ấu trùng/40 cm2.

Ở xã Na Ư, mổ khám 135 lợn, có 4 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 2,96%,

cường độ nhiễm trung bình 6,75 ấu trùng/40 cm2.

Ở xã Pom Lót, mổ khám 130 lợn, có 1 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ

0,77% cường độ nhiễm 4 ấu trùng/40 cm2.

Ở xã Thanh Hưng, mổ khám 120 lợn, có 3 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ

32

2,5%, cường độ nhiễm trung bình 6,67 ấu trùng/40 cm2.

Ở xã Thanh Chăn, mổ khám 135 lợn, có 2 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ

1,48%, cường độ nhiễm trung bình 6,28 ấu trùng/40 cm2.

Qua kết quả trên chúng tôi thấy: Mổ khám 650 lợn, có 15 con nhiễm

bệnh, chiếm tỷ lệ 2,31%, cường độ nhiễm trung bình 6,38 ấu trùng/40 cm2.

Theo chúng tôi có tỷ lệ nhiễm bệnh gạo chênh lệch giữa các xã là do

những nguyên nhân sau: Lợn nuôi ở tại một số xã của huyện Điện Biên, tỉnh

Điện Biên là những xã vùng sâu vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn. Lợn

được nuôi theo phương pháp thả rông, bán chăn thả, nuôi nhốt, tập quán sinh

hoạt lạc hậu. Chính vì vậy mà tỷ lệ nhiễm ở các xã trong huyện có sự chênh lệch. Cường độ nhiễm trung bình 6,38 ấu trùng/40 cm2. Tỷ lệ và cường độ

nhiễm gạo lợn những năm gần đây đã giảm so với những năm trước là do điều

kiện kinh tế xã hội phát triển, nhận thức cũng như ý thức của người dân cũng

cao hơn, do đó tỷ lệ và cường độ nhiễm cũng theo đó giảm dần.

Theo Nguyễn Quốc Doanh và cs (2002) [2] điều tra tình hình nhiễm

sán dây trên lợn ở Bắc Ninh là 2,2 – 2,7%.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ nhiễm bệnh gạo ở lợn có thấp

hơn so với tác giả trên.

4.1.1.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo theo tuổi lợn

Bảng 4.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo theo tuổi lợn

Cường độ nhiễm (Số ấu trùng/40 cm2) Tuổi lợn (tháng) Số lợn mổ khám (con) Số lợn nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%)

≤ 2 55 0 0 0

> 2 – 6 150 1 0,67 4

> 6 – 12 215 6 2,79 7,29

> 12 230 8 3,48 7,85

650 15 2,31 6,38 Tính chung

33

Qua bảng 4.2 chúng tôi thấy: Mổ khám 650 lợn ở giai đoạn ≤ 2 tháng

tuổi đến > 12 tháng tuổi, có 15 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 2,31%, cường độ

nhiễm trung bình 6,38 ấu trùng/40 cm2.

Ở lợn giai đoạn ≤ 2 tháng tuổi, mổ khám 55 lợn không có lợn nhiễm bệnh.

Ở lợn giai đoạn > 2 - 6 tháng tuổi, mổ khám 150 lợn, có 1 lợn nhiễm

bệnh chiếm tỷ lệ 0,67%, cường độ nhiễm trung bình 4 ấu trùng/40 cm2.

Ở lợn giai đoạn > 6 -12 tháng tuổi, mổ khám 215 lợn, có 6 lợn nhiễm

bệnh chiếm tỷ lệ 2,79%, cường độ nhiễm trung bình 7,29 ấu trùng/40 cm2.

Ở lợn giai đoạn > 12 tháng tuổi, mổ khám 230 lợn, có 8 lợn nhiễm bệnh

chiếm tỷ lệ 3,48%, cường độ nhiễm 7,85 ấu trùng/40 cm2.

Qua kết quả trên chúng tôi thấy: Tỷ lệ lợn nhiễm bệnh gạo cao ở giai

đoạn > 12 tháng tuổi, chiếm tỷ lệ 3,48%, cường độ nhiễm trung bình 7,85 ấu

trùng/40 cm2, tỷ lệ nhiễm bệnh thấp hơn ở giai đoạn ≤ 2 - 6 tháng tuổi, chiếm

tỷ lệ 0,67%, cường độ nhiễm 4 ấu trùng/40 cm2.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm bệnh của

lợn ở các tháng tuổi là: Lợn ≤ 2 tuổi không có tỷ lệ nhiễm là do lợn mới sinh,

còn nhỏ nên ít có cơ hội tiếp xúc với đốt sán, trứng sán ở ngoài môi trường.

Mặt khác, nếu lợn ăn phải đốt sán, trứng sán ngay từ khi mới sinh thì lợn sẽ

mắc bệnh ấu trùng sán dây. Vì thời gian hoàn thành vòng đời của ấu trùng sán

dây là 60 ngày, nếu trước thời gian này thì ấu trùng đã ký sinh ở trong cơ,

nhưng chưa hoàn chỉnh. Lợn >12 thời gian nuôi dài hơn, nên lợn có nguy cơ

nhiễm bệnh từ thức ăn, nước uống và môi trường xung quanh nhiều hơn, do

đó tỷ lệ nhiễm bệnh cũng cao hơn.

34

4.1.1.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn qua các tháng theo dõi

Bảng 4.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn qua các tháng

Số lợn Số lợn mổ Tỷ lệ nhiễm Tháng nhiễm khám (con) Cường độ nhiễm (Số ấu trùng/40 cm2 ) (%) (con)

0 0 0 12 57

4,00 1 1,37 1 73

6,10 2 1,90 2 105

6,67 2 1,74 3 115

6,75 3 2,14 4 140

8,38 7 4,38 5 160

6,38 15 2,31 650 Tính chung

Qua bảng 4.3 chúng tôi thấy: Mổ khám 650 lợn từ tháng 12 đến tháng

5, có 15 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 2,31%, cường độ nhiễm trung bình 6,38

ấu trùng/40 cm2.

Ở tháng 12: Mổ khám 57 lợn, không có lợn nhiễm bệnh.

Ở tháng 1: Mổ khám là 73 lợn, có 1 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ

1,37%, cường độ nhiễm trung bình là 4 ấu trùng/40 cm2

Ở tháng 2: Mổ khám là 105 lợn, có 2 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ

1,90% , cường độ nhiễm trung bình là 6,10 ấu trùng/ 40 cm2,

Ở tháng 3: Mổ khám là 115 lợn, có 2 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ

1,74%, cường độ nhiễm trung bình là 6,67 ấu trùng/40 cm2.

Ở tháng 4: Mổ khám là 140 lợn, có 3 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ

2,14%, cường độ nhiễm trung bình 6,75 ấu trùng/ 40 cm2.

Ở tháng 5: Mổ khám là 160 con, có 7 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ

4,38%, cường độ nhiễm trung bình là 8,38 ấu trùng/ 40 cm2.

35

Qua kết quả trên chúng tôi thấy tỷ lệ nhiễm bệnh gạo ở lợn cao nhất là

tháng 5, tỷ lệ nhiễm thấp nhất ở tháng 1 và tháng 3, không có lợn nhiễm bệnh

ở tháng 12 .

Theo chúng tôi lợn nhiễm bệnh gạo cao ở tháng 5 là do thời gian này

thời tiết thay đổi thất thường, nóng, độ ẩm cao, mưa nhiều. Đây là điều kiện

thuận lợi cho trứng sán dây phát triển và phát tán ra ngoài môi trường. Nếu

lợn ăn phải đốt sán, trứng sán thì nguy cơ mắc bệnh gạo cao hơn.

Theo Lê Bách Quang và cs (2008) [14] Lớp ngoài của vỏ trứng rất

mỏng, khi ra bên ngoài bị vỡ ngay, lớp vỏ sát ngay ấu trùng rất dày, có khía

ngang như lan hoa. Một đốt sán có tới 55.000 trứng. Những đốt già ở cuối

thân thường rụng thành từng đoạn 5 - 6 đốt liền nhau theo phân ra ngoài.

Theo Theo Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) [15] Trứng của

sán dây lợn có vỏ dày và nhiều vỏ nên dễ tồn tại ở ngoại cảnh khoảng vài tháng.

Kết quả của chúng tôi phù hợp với những nghiên cứu của các tác giả trên.

4.1.1.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo theo giống lợn

Bảng 4.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo theo giống lợn

Giống

Địa phương (xã)

Số lợn mổ khám (con)

Số lợn nhiễm (con)

Tỷ lệ nhiễm (%)

Cường độ nhiễm (Số ấu trùng/40 cm2)

Pa Thơm

Na Ư

Pom Lót

Thanh Hưng

Thanh Chăn

Tính chung

68 62 80 50 65 65 51 79 55 75 319 331 650

4 1 3 1 1 0 2 1 2 0 12 3 15

5,88 1,61 3,75 2,0 1,54 0 3,92 1,26 3,63 0 3,74 0,97 2,31

Lợn địa phương Lợn lai Lợn địa phương Lợn lai Lợn địa phương Lợn lai Lợn địa phương Lợn lai Lợn địa phương Lợn lai Lợn địa phương Lợn lai Tính chung

8,60 5,00 8,25 4,50 6,75 0 7,75 4,00 6,19 0 7,49 4,5 6,38

36

Qua bảng 4.4 chúng tôi thấy: Mổ khám 319 lợn địa phương, có 12 con

nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 3,74 %; mổ khám 331 lợn lai,có 3 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 0,79 %:cường độ nhiễm trung bình 6,38 ấu trùng/40 cm2.

Ở xã Pa Thơm: Mổ khám 68 lợn địa phương, có 4 con nhiễm bệnh,chiếm tỷ lệ 5,88 %,cường độ nhiễm trung bình 8,60 ấu trùng/40 cm2; mổ

khám 62 lợn lai, có 1 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ 1,61%, cường độ nhiễm trung bình 5,00 ấu trùng/40 cm2.

Ở xã Na Ư: Mổ khám 80 lợn địa phương, có 3 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 3,75 %, cường độ nhiễm trung bình 8,25 ấu trùng/40 cm2; mổ khám 50

lợn lai, có 1 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 2,0 %, cường độ nhiễm trung bình 4,50 ấu trùng/40 cm2.

Ở xã Pom Lót: Mổ khám 65 lợn địa phương,có 1 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 1,54%, cường độ nhiễm trung bình 6,75 ấu trùng/40 cm2; mổ

khám 65 lợn lai, không có lợn nhiễm bệnh.

Ở xã Thanh Hưng: Mổ khám 51 lợn địa phương, có 2 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 3,92%, cường độ nhiễm trung bình 7,75 ấu trùng/40 cm2; mổ

khám 79 lợn lai, có 1 con nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 1,26%, cường độ nhiễm trung bình 4,00 ấu trùng/40 cm2.

Ở xã Thanh Chăn mổ khám 55 địa phương, có 2 lợn nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ 3,63%, cường độ nhiễm trung bình 6,19 ấu trùng/40 cm2; mổ khám 75

lợn lai, không có lợn nhiễm bệnh.

Qua kết quả trên chúng tôi thấy: Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo cao ở

giống lợn địa phương, tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh thấp ở giống lợn lai. Theo

chúng tôi, lợn địa phương có tỷ lệ nhiễm bệnh cao là do giống lợn này chủ yếu

được nuôi bằng phương thức nuôi thả rông do chúng có đặc tính phù hợp với

địa hình và thời tiết khắc nghiệt. Vì vậy lợn địa phương có nguy cơ nhiễm ấu

trùng sán dây cao hơn lợn lai.

37

4.1.1.5. Tỷ lệ nhiễm bệnh gạo ở lợn theo phương thức chăn nuôi

Bảng 4.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo ở lợn theo phương thức

chăn nuôi

Số lợn mổ Số lợn Tỷ lệ Cường độ nhiễm Phương thức (Số ấu trùng/40 khám nhiễm nhiễm chăn nuôi (con) cm2/con) (%) (con)

2 Nuôi nhốt hoàn toàn 220 0,91 4

5 Nuôi bán chăn thả 210 2,38 7,29

8 Nuôi thả rông 220 3,64 7,85

15 650 2,31 6,38 Tính chung

Qua bảng 4.5 chúng tôi thấy: Mổ khám 650 lợn, có 15 con nhiễm bệnh,

chiếm tỷ lệ 2,31%, cường độ nhiễm trung bình 6,38 ấu trùng/40 cm2.

Ở phương thức nuôi nhốt hoàn toàn, mổ khám 220 lợn, có 2 con nhiễm

bệnh, chiếm tỷ lệ 0,91%, cường độ nhiễm trung bình 4 ấu trùng/40 cm2.

Ở phương thức nuôi bán chăn thả, mổ khám 210 lợn, có 5 con nhiễm

bệnh, chiếm tỷ lệ 2,38%, cường độ nhiễm trung bình 7,29 ấu trùng/40 cm2.

Ở phương thức nuôi thả rông, mổ khám 220 lợn, có 8 con nhiễm bệnh,

chiếm tỷ lệ 3,64%, cường độ nhiễm trung bình 7,85 ấu trùng/40 cm2.

Qua kết quả trên chúng tôi thấy tỷ lệ nhiễm bệnh gạo cao ở phương

thức nuôi thả rông, thấp hơn ở phương thức nuôi bán chăn thả, tỷ lệ nhiễm

thấp nhất ở phương thức nuôi nhốt.

Theo chúng tôi tỷ lệ nhiễm bệnh gạo có sự chênh lệch giữa các phương

thức chăn nuôi là do những nguyên nhân sau: Lợn nuôi theo phương thức thả

rông và bán chăn thả thường tự kiếm thức ăn ngoài môi trường nên khả năng

ăn phải đốt sán dây từ phân người phóng uế ra cao hơn. Lợn nuôi theo

phương thức nuôi nhốt, thức ăn, nước uống do con người cung cấp, nên tỷ lệ

nhiễm bệnh cũng thấp hơn.

38

Nhiều gia đình ở huyện, nông hộ không có điều kiện xây chuồng trại

kiên cố để chăn nuôi lợn. Chuồng trại thường được làm tạm bợ, không kiên cố

chắc chắn. Tận dụng một một phần trống nào đó trong vườn để làm chuồng

tạm thời.

Ở vùng sâu, vùng xa, do điều kiện khó khăn nên lợn thường được thả

rông và không có chuồng trại. Lợn tự kiếm thức ăn trong khu vực xung quanh

của gia đình và các hộ dân lân cận.

Vì vậy, lợn nuôi thả rông và nuôi bán chăn thả đều có nguy cơ tiếp xúc

với sán dây và trứng sán dây của người nhiễm sán dây khi thải phân ra ngoài

môi trường. Do đó, lợn nuôi thả rông và nuôi bán chăn thả thường nhiễm

bệnh gạo cao hơn lợn nuôi nhốt.

Lê Thị Xuân (2013) [21]; Phan Anh Tuấn (2013) [19] cho rằng: Việc

quản lý phân của người chưa tốt, do chưa có hố xí hợp vệ sinh, nuôi lợn thả

rông là nguyên nhân làm cho lợn mắc bệnh gạo.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của các tác giả trên.

4.1.2. Nghiên cứu nguy cơ nhiễm sán dây Taenia solium ở người tại huyện

Điện Biên, tỉnh Điện Biên

4.1.2.1. Điều tra về tập quán chăn nuôi lợn và sinh hoạt của người dân ở

huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Bảng 4.6. Thực trạng tập quán, sinh hoạt của người dân

ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Số hộ Số hộ Tỷ lệ Tập quán chăn nuôi và sinh hoạt điều tra áp dụng (%)

Nuôi lợn thả rông 250 138 55,20

Nuôi lợn bán chăn thả 250 105 42,00

Không nhà vệ sinh cho người 250 189 75,60

Người ăn thịt sống/tái 250 186 74,40

Người không được xét nghiệm và tẩy sán dây 250 239 95,60

39

Kết qủa bảng 4.6 cho thấy qua điều tra 250 hộ về tập quán chăn nuôi

sinh hoạt của người dân ở địa phương, có 138 hộ nuôi lợn thả rông, chiếm tỷ

lệ 55,20%. Số hộ áp dụng phương thức nuôi lợn bán chăn thả là 105 hộ,

chiếm tỷ lệ 42,00%.

Trong đó, số hộ gia đình không có nhà vệ sinh cho người là 189 hộ,

chiếm tỷ lệ 75,60%.

Trong 250 hộ điều tra, có 186 hộ ăn thịt tái, sống chiếm tỷ lệ là

74,40%. Số hộ có người không được xét nghiệm và tẩy sán dây là 239 hộ,

chiếm tỷ lệ là 95,6%.

Qua kết quả trên chúng tôi thấy: Hầu hết các hộ gia đình ở huyện Điện

Biên, tỉnh Điện Biên chưa quan tâm và đầu tư cho chăn nuôi cũng chưa quan

tâm đến sinh hoạt của gia đình. Phần lớn các hộ gia đình vẫn còn nuôi lợn thả

rông, nhà vệ sinh chưa được chú trọng.

Do kinh tế khó khăn, đất rộng, đặc biệt là các xã vùng núi nên các hộ

gia đình không có điều kiện xây dựng chuồng trại, lợn thường được thả rông.

Do phong tục, tập quán từ lâu đời nên người dân có thói quen ăn thịt

sống, tái. Trong hộ gia đình có người mắc bệnh sán dây cũng không có điều

kiện đi xét nghiệm và tẩy sán dây do điều kiện kinh tế khó khăn, xa các trung

tâm y tế. Một phần, ngại khi biết bản thân nhiễm bệnh và không biết được hết

tác hại của bệnh do sán dây gây ra.

40

4.1.2.2. Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium ở một số xã của huyện

Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Bảng 4.7. Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium tại huyện

Tỷ lệ hộ có người nhiễm sán dây Tỷ lệ người nhiễm sán dây

Địa phương

Số hộ

Số hộ có

Số người

Số người

Tỷ lệ

Tỷ lệ

(xã)

điều tra

người nhiễm

điều tra

nhiễm

(%)

(%)

(hộ)

sán (hộ)

(người)

sán dây

50

Pa Thơm

4

8,0

125

4

3,20

50

Na Ư

3

6,0

140

3

2,14

50

Pom Lót

1

2,0

135

1

0,74

50

Thanh Hưng

2

4,0

130

2

1,54

50

Thanh Chăn

1

2,0

120

1

0,83

4,4

650

11

250

11

1,69

Tính chung

Qua bảng 4.7 chúng tôi thấy: Điều tra 250 hộ, có 11 hộ có người nhiễm

bệnh sán dây chiếm tỷ lệ 4,4%. Trong đó, điều tra 650 người, có 11 người

nhiễm bệnh sán dây chiếm tỷ lệ 1,69% và bình quân mỗi hộ có ít nhất một

người nhiễm bệnh sán dây.

Qua kết quả ở bảng trên chúng tôi thấy, ở xã Pa Thơm có số hộ gia đình

nhiễm sán dây lợn cao nhất chiếm tỷ lệ 8,0% và có số người nhiễm cao nhất

chiếm tỉ lệ 3,2%. Xã có tỷ lệ hộ gia đình và người nhiễm sán dây thấp nhất là

xã Pom Lót chiếm tỷ lệ là (2,0% và 0,74%).

Theo chúng tôi ở xã Pom Lót và Thanh Chăn có tỷ lệ hộ gia đình và

người nhiễm bệnh thấp vì đây là một xã vùng đồng bằng, trình độ dân trí cao,

giao thông thuận lợi. Người dân ít ăn thịt sống/tái.

Xã có hộ gia đình và người nhiễm bệnh sán dây cao là do những

nguyên nhân sau:

Đây là xã vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế, giao thông khó khăn, xa

cơ sở y tế.

Do phong tục tập quán cũng như trình độ dân trí còn thấp, khi lợn

41

nhiễm bệnh gạo người dân cũng không phát hiện được để báo cán bộ thú y

đến tiêu hủy mà chia cho các hộ sử dụng.

Người dân thường xuyên ăn thịt sống/tái do phong tục, tập quán từ lâu

đời không thể bỏ được.

Khi người dân biết mình nhiễm bệnh sán dây cũng không có điều kiện

đi xét nghiệm và tẩy sán dây.

Nguyễn Văn Đề và cs (2001) [3] cho biết: Điều tra tình hình nhiễm sán

dây T. solium ở người tại Bắc Ninh tỉ lệ nhiễm sán dây từ 1 - 12,6%

Kết quả điều tra của Phạm Hoàng Thể và Phạm Trí Tuệ cho thấy: Ở

vùng núi và cao nguyên, tỷ lệ người mắc bệnh sán lợn cao từ 3,8 - 4% có nơi

lên đến 6%; tỷ lệ nhiễm của người các tỉnh đồng bằng thấp hơn 0,5 - 2%

(Viện SR - KST, 1993).

Theo Lê Bách Quang và cs (2008) [14] Bệnh thường lây qua đường

tiêu hoá do ăn phải thịt lợn có ấu trùng chưa nấu chín hoặc còn sống. Ở nước

ta tập quán ăn nem chua, một số vùng miền núi có tập quán ăn thịt sống.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6], (2012) [7] Người dân ở

miền núi hay ăn thịt sống hoặc tái, không có hố xí hai ngăn, nên thường mắc

bệnh cao hơn so với vùng đồng bằng.

4.1.2.3. Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium theo tuổi ở một số xã

của huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên

Bảng 4.8. Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium theo tuổi

Số người điều tra Số người nhiễm Tỷ lệ nhiễm Tuổi (người) (người) (%)

< 15 tuổi 15 0 0

16 - 30 tuổi 240 4 1,67

>31 - 50 tuổi 395 7 1,71

Tính chung 650 11 1,69

42

Qua bảng 4.8 chúng tôi thấy: Điều tra 650 người, có 11 người nhiễm

bệnh, chiếm tỷ lệ 1,69%.

Độ tuổi <15 tuổi: Điều tra 15 người, không có người mắc bệnh.

Độ tuổi 16 - 30 tuổi: Điều tra 240 người thì có 4 người mắc bệnh chiếm

tỷ lệ 1,67%

Độ tuổi > 31 - 50 tuổi: Điều tra 395 người thì có 7 người mắc bệnh

chiếm tỷ lệ 1,71%.

Qua kết quả trên chúng tôi thấy tỷ lệ người mắc bệnh sán dây cao ở độ

tuổi > 31 - 50 tuổi, tỷ lệ thấp hơn ở độ tuổi 16 - 30 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh không

có ở độ tuổi< 15 tuổi.

Nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch tỷ lệ nhiễm bệnh ở các lứa tuổi là do:

ở lứa tuổi > 31 – 50, đây là lứa tuổi trưởng thành và trung niên, nhân dân miền

núi thường có phong tục,tập quán từ lâu đời là ăn thịt tái, chưa nấu chín, ăn rau

sống…. Chính vì vậy lứa tuổi này có nguy cơ nhiễm bệnh cao nhất.

Nguyễn Hữu Thọ, Đỗ Nguyên Thanh, (1968) [17] Người mắc bệnh sán

dây chủ yếu là do thói quen ăn uống. Nếu người dân ăn rau sống, thịt lợn

tái/sống, thịt hun khói, thịt treo gác bếp có nguy có nhiễm sán dây cao. Do vậy

tuổi nhiễm sán dây ở huyện tập trung vào lứa tuổi > 31 - 50 tuổi là cao nhất.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả của nghiên cứu trên.

4.1.2.4. Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium theo giới tính ở một số

xã của huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên

Bảng 4.9. Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium theo giới tính

Số người điều tra Số người nhiễm Giới tính Tỷ lệ nhiễm (người) (người)

335 6 1,79 Nam

315 5 1,59 Nữ

Tính chung 650 11 1,69

43

Qua bảng 4.9. chúng tôi thấy: điều tra 650 người, trong đó điều tra 335

nam giới, số người nhiễm là 6, chiếm tỷ lệ nhiễm 1,79 % và điều tra 315 nữ

giới, số người nhiễm là 5, chiếm tỷ lệ nhiễm 1,59 %.

Kết quả cho thấy nam giới có tỷ lệ nhiếm sán dây cao hơn nam giới do

thói quen ăn thịt tái, thịt sống chưa qua chế biến. Nguyễn Hữu Thọ, Đỗ

Nguyên Thanh, (1968) [17] Người mắc bệnh sán dây chủ yếu là do thói quen

ăn uống. Nếu người dân ăn rau sống, thịt lợn tái/sống, thịt hun khói, thịt treo

gác bếp có nguy có nhiễm sán dây cao.

4.1.3. Nghiên cứu bệnh tích của bệnh gạo ở lợn

4.1.3.1. Bệnh tích đại thể của lợn mắc bệnh gạo ở các địa phương

Bảng 4.10. Bệnh tích đại thể của lợn nhiễm bệnh gạo ở các xã

Số lợn

Các bệnh tích đại thể của lợn

Số lợn

Tỷ lệ có

mổ

có bệnh

Số

Bệnh tích

Tỷ lệ

khám

tích

Các bệnh tích chủ yếu

lợn

(%)

(%)

(con)

(con)

(con)

Não:xung huyết, xuất huyết, có gạo

9

60

ký sinh

Cơ: có gạo ký sinh

15

100

Cơ lưỡi: có gạo ký sinh

15

100

Tim: xung huyết có gạo ký sinh

8

53,33

6

40

Gan:xuất huyết, thoái hóa

650

15

2,31

5

33,33

Phổi:xung huyết, xuất huyết

Thận:xung huyết

5

33,33

Lách:xung huyết

6

40

Ruột:niêm mạc ruột non xung huyết

4

26,67

Mắt:xung huyết

7

46,67

44

Qua bảng 4.10. chúng tôi thấy: Mổ khám 650 lợn, có 15 lợn có biểu

hiện bệnh tích đại thể, tỷ lệ lợn có bệnh tích chiếm 2,31%. Trong đó:

Có 15/15 lợn mổ khám có gạo ký sinh trong cơ, cơ lưỡi.

Có 9/15 lợn có bệnh tích ở não: Xung huyết, xuất huyết, có gạo ký sinh.

Có 8/15 lợn có gạo ký sinh ở trong và ngoài cơ tim, cơ tim xung huyết.

Có 7/15 lợn có bệnh tích ở mắt: xung huyết.

Có 6/15 lợn có bệnh tích ở gan, lách với biểu hiện: Xuất huyết. gan thoái

hóa, xung huyết.

Có 5/15 lợn mổ khám có bệnh ở phổi, thận: Xung huyết, xuất huyết.

Có 4/15 lợn, niêm mạc ruột non xung huyết.

Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Định Lân (2001) [11] Khi lợn mắc bệnh

gạo có triệu chứng không điển hình, khi mổ khám mới thấy những tổn thương

bệnh lý. Mổ khám lợn bị bệnh thường thấy ấu trùng ký sinh ở tổ chức cơ vân,

chèn ép các mao mạch gây trở ngại tuần hoàn, chèn ép thần kinh gây bại liệt.

Ấu trùng cũng gây ra các ổ viêm xơ hóa ở các tổ chức nội quan của vật chủ.

Ấu trùng có thể có ở nhiều vị trí khác nhau trong cơ thể, nhưng nhiều

nhất là ở bắp thịt, cơ lưỡi, cổ, vai, mông, cơ liên sườn, cơ tim...

Kết quả mổ khám lợn nhiễm bệnh gạo của chúng tôi cũng phù hợp với

vị trí mô tả bệnh tích của Phạm Sỹ Lăng và Phan Định Lân (2001) [11].

4.1.3.2. Bệnh tích vi thể của lợn mắc bệnh gạo

Để biết được tổn thương vi thể của lợn nhiễm bệnh gạo, chúng tôi đã

lấy bệnh tích điển hình của 15 lợn mổ khám để làm tiêu bản vi thể. Kết quả về

tổn thương vi thể được thể hiện ở bảng 4.11.

45

Bảng 4.11.Tổn thương vi thể của lợn nhiễm bệnh gạo

Loại mẫu

Số tiêu bản nghiên cứu 15 Số tiêu bản có tổn thương vi thể 13 Não Tỷ lệ (%) 86,67

Mắt 15 80,00 12

Cơ 15 100 15

Cơ lưỡi 15 93,33 14

Tim 15 80 12

Gan 15 66,67 10

Phổi 15 73,33 11

Thận 15 66,67 10

Lách 15 53,33 8

Ruột 15 66,67 10

Qua bảng 4.11 chúng tôi thấy:

Có 15/15 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích ở cơ.

Có 14/15 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích ở cơ lưỡi.

Có 13/15 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích ở não.

Có 12/15 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích tim và mắt.

Có 11/15 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích ở phổi.

Có 10/15 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích ở gan, thận, ruột.

Có 8/15 tiêu bản vi thể có biểu hiện bệnh tích ở lách.

Theo Phạm Sỹ Lăng và Hoàng Văn Năm (2012) [12] Ấu trùng phát triển,

chèn ép làm cho các mô bị teo, hoại tử và thoái hóa, ô bào và các cơ bị tổn

thương, bên trong có bạch cầu ái toan, bạch cầu trung tính và các tổ chức xơ.

Nghiên cứu về tồn thương vi thể trên lợn nhiễm bệnh gạo của chúng tôi

phù hợp với nghiên cứu của Phạm Sỹ Lăng và Hoàng Văn Năm (2012) [12].

46

Phần 5

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

5.1. Kết luận

Sau thời gian thực hiện đề tài tốt nghiệp từ tháng 11/2017 đến tháng

5/2018 tại huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên em thu được kết quả như sau:

- Về đặc điểm dịch tễ của bệnh:

+ Tỷ lệ nhiễm bệnh gạo cao nhất là xã Pa Thơm 3,85 %, thấp nhất là xã

Pom Lót 0,77 %. Cường độ nhiễm bệnh gạo ở xã Pa Thơm trung bình 8,20 ấu

trùng/40 cm2 và xã Pom Lót trung bình 4,00 ấu trùng/40 cm2.

+ Tỷ lệ nhiễm bệnh gạo cao nhất ở giai đoạn > 12 tháng tuổi, chiếm tỷ

lệ 3,48%, cường độ nhiễm trung bình 7,85 ấu trùng/40 cm2 thấp hơn là giai

đoạn ≤ 2 - 6 tháng tuổi, chiếm tỷ lệ 0,67%, cường độ nhiễm trung bình 4 ấu

trùng/40 cm2.

+ Tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhất là tháng 5, chiếm tỷ lệ 4,38%, thấp nhất là

tháng 12 không có con nhiễm bệnh. Cường độ nhiễm bệnh gạo ở các tháng

trung bình là 6,38 ấu trùng/40 cm2.

+ Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo cao nhất là ở lợn địa phương 3,74 %,

cường độ nhiễm trung bình 7,49 ấu trùng/40 cm2; thấp nhất ở lợn lai 0,97%,

cường độ nhiễm trung bình 4,50 ấu trùng/40 cm2.

+ Tỷ lệ và cường độ nhiễm bệnh gạo lợn cao ở phương thức chăn nuôi

thả rông, chiếm tỷ lệ 3,64%, cường độ nhiễm trung bình 7,85 ấu trùng/40 cm2,

và nhiễm thấp ở phương thức nuôi nhốt hoàn toàn, chiếm tỷ lệ 0,91%, cường

độ nhiễm trung bình 4 ấu trùng/40 cm2.

- Nguy cơ nhiễm sán dây ở người

+ Thực trạng tập quán chăn nuôi và sinh hoạt của người dân ở địa phương

thường chưa được quan tâm, lợn vẫn được nuôi thả rông chiếm 55,20%.

47

+ Tỷ lệ người mắc bệnh sán dây Taenia solium: Điều tra là 250 hộ, có

11 hộ nhiễm bệnh, chiếm tỷ lệ là 4,4%; điều tra là 650 người, trong đó có 11

người bị nhiễm sán dây chiếm tỷ 1,69%.

+ Lợn nhiễm bệnh gạo mổ khám ở các xã trong huyện đều biểu hiện

bệnh tích từ 22,67% - 100%.

+ Các tiêu bản của lợn nhiễm bệnh gạo có tổn thương vi thể từ

53,33% - 100%.

5.2. Đề nghị

- Tăng cường thực hiện vệ sinh phòng bệnh và công tác tuyên truyền,

giáo dục nâng cao ý thức phòng bệnh cho người chăn nuôi cũng như các biện

pháp kiểm dịch nhằm kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh bùng phát, lây lan ở

địa phương nghiên cứu.

- Không ăn thịt lợn, gan lợn hoặc thịt trâu bò chưa nấu chín như nem,

thính, nem chua, thịt lợn tái, gan tái, thịt trâu, bò tái kết hợp với các ngành

chức năng kiểm tra chặt chẽ các lò mổ lợn, trâu bò và loại bỏ các con vật

mang ấu trùng sán, quản lý phân tốt luôn sử dụng hố xí hợp vệ sinh, tốt nhất

không nuôi lợn thả rông.

- Không ăn rau sống, không uống nước lã, quản lý phân tốt, nhất là phân

của người nhiễm ấu trùng sán dây lợn T.solium. Phát hiện và điều trị sớm

những người mắc bệnh sán dây và xử lý những con sán được tẩy ra, đặc biệt sán

dây lợn để ngăn ngừa mắc bệnh ấu trùng sán lợn theo cơ chế tự nhiễm.

48

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ Y tế (2004), Quyết định số 1450/2004/QĐ-BYT ngày 26 – 4 của Bộ

trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh

sán lá gan nhỏ, sán lá phổi, sán dây và bệnh ấu trùng sán lợn.

2. Nguyễn Quốc Doanh, Nguyễn Trọng Kim, Nguyễn Văn Đề, Nguyễn Nhân

Lừng (2002), “Kết quả điều tra bệnh sán dây (taeniasis) và ấu trùng sán

dây (cysticercosis) ở lợn và người tại Bắc Ninh, Bắc Kạn và quy trình

phòng bệnh”, Tạp trí Khoa học kỹ thuật thú y, tập IX, số 1, tr.46 - 49.

3. Nguyễn Văn Đề (2013), Ký sinh trùng trong lâm sàng, Nxb Y học, tr.88- 94.

4. Bùi Quý Huy (2006), Phòng chống các bệnh ký sinh trùng từ động vật lây

sang người, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 78 - 81.

5. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng Thú y, NxB Nông nghiệp,

Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999),

Giáo trình ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 72 - 76,

83 - 85.

7. Nguyễn Thị Kim Lan (2012), Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y (dùng

cho đào tạo bậc Đại học), Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, tr. 115 - 120.

8. Nguyễn Thị Kim Lan (2015), Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y,

Nxb nông nghiệp Hà Nội, tr.100-105.

9. Phạm Sỹ Lăng, Phạm Ngọc Đình, Nguyễn Bá Hiên, Phạm Quang Thái,

Văn Đăng Kỳ (2009), 8 bệnh chung quan trọng truyền lây giữa người

và động vật, tr. 91 - 98.

10. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Ngọc Mỹ, Nguyễn Thị Kim

Thành, Nguyễn Văn Thọ, Chu Đình Tới (2009), Ký sinh trùng và bệnh

49

ký sinh trùng ở vật nuôi, Nxb giáo dục Việt Nam, tr. 221 - 227.

11. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2001), Bệnh ký sinh trùng ở gia súc và

biện pháp phòng trị, Nxb nông nghiệp, Hà Nội.

12. Phạm Sỹ Lăng, Hoàng Văn Năm (2012), Bệnh truyền lây từ động vật sang

người, Nxb Nông Nghiệp Hà Nội, tr. 254 - 256.

13. Nguyễn Thị Lê, Phan Văn Lực, Hà Duy Ngọ, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn

Thị Minh (1996), Giun sán ký sinh ở gia súc Việt Nam, Nxb Khoa học

Kỹ Thuật Hà Nội.

14. Lê Bách Quang, Nguyễn Khắc Lực, Phạm Văn Minh, Lê Trần Anh, Lê

Quốc Tuấn, Nguyễn Ngọc San, Ký sinh trùng và côn trùng y học, Nxb

Quân đội nhân dân Hà Nội - 2008.

15. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh

trùng ở Việt Nam, tập 1, Giun sán ở người, Nxb khoa học và kỹ thuật,

Hà Nội, tr. 206 - 210.

16. Nguyễn Văn Thiện (2008), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi,

Nxb Nông nghiệp Hà Nội.

17. Nguyễn Hữu Thọ và Đỗ Nguyên Thanh (1968)“ Công trình nghiên cứu ký

sinh trùng ở Việt Nam”.

18. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó, (2006), Phương pháp

phòng chống bệnh giun sán ở vật nuôi, Nxb Lao động.

19. Phan Anh Tuấn (2013), Ký sinh trùng Y học, Nxb Y học, tr.253-261 và

tr.273-276.

20. Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1977), Giun sán ký sinh

ở động vật Việt Nam, Nxb KHKT Hà Nội, tr. 153 - 221.

21. Lê Thị Xuân (2013), Ký sinh trùng thực hành, Nxb Giáo dục Việt Nam,

tr.143-145.

50

II. Tài liệu tiếng Anh

22. Aung A.K., Spelman D.W. (2016), “Taenia solium Taeniasis and

Cysticercosis in Southeast Asia”,Am. J. Trop. Med. Hyq: 15 - 068.

23. Hiroyuki Miura, MD, Yuka Itoh, MD, and Takehito Kozuka, MD, PhDa

Osaka, Japan “A case of subcutaneous cysticercosis (Cysticercus

cellulosaecutis) J AM CAD DERMATOL SEPTEMBER 2000: 138 – 540.

24. Khaing T.A., Bawm S., Wai S.S., Htut Y., Htun L.L. (2015),

“Epidemiological Survey on Porcine Cysticercosis in Nay Pyi Taw

Area, Myanmar”, J. Vet. Med., 2015: 340828.

25. Zhang Y., Bae Y.A., Zong H.Y., Kong Y., Cai G.B. (2016), “Functionally

Expression of Metalloproteinase in Taenia solium Metacestode and Its

Evaluation for Serodiagnosis of Cysticercosis” 11 (1): 35 – 45

26. Zirintunda G., Ekou J. (2015), “Occurrence of porcine cysticercosis in

free-ranging pigs delivered to slaughter points in Arapai, Soroti district,

Uganda”, Onderstepoort: 82 (1):888.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA ĐỀ TÀI

Hình 1: Lợn địa phương thả rông Hình 2: Lợn lai thả rông

Hình 3: Lợn địa phương thả rông Hình 4: Lợn nuôi không hợp vệ sinh

Hình 5: Lợn địa phương thả rông Hình 6: Lợn địa phương nuôi nhốt

Hình 7: Nhà vệ sinh không đạt tiêu chuẩn

Hình 8: Thịt lợn nhiễm bệnh gạo Hình 9: Ấu trùng tách ra từ cơ của lợn

Hình 11: Ấu trùng cysticercus cellulosae xâm nhập cơ lưỡi (Tiêu bản nhuộm HE độ phóng đại 200 lần) Hình 10: Tổ chức gan viêm mãn tính, xơ hóa (Tiêu bản nhuộm HE độ phóng đại 100 lần)