ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ----------------------

DƯƠNG ĐÌNH SƠN

Tên chuyên đề:

“THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG

VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON

THEO MẸ TẠI TRẠI THANH VÂN, XÃ THANH VÂN, HUYỆN TAM DƯƠNG, TỈNH VĨNH PHÚC”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chuyên ngành: Khoa: Khóa học: Chính quy Dược thú y Chăn nuôi Thú y 2015 - 2019

Thái Nguyên, 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ----------------------

DƯƠNG ĐÌNH SƠN

Tên chuyên đề:

“THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG

VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN VÀ LỢN CON

THEO MẸ TẠI TRẠI THANH VÂN, XÃ THANH VÂN, HUYỆN TAM DƯƠNG, TỈNH VĨNH PHÚC”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chính quy Dược thú y K47 - DTY Chăn nuôi Thú y 2015 - 2019

Hệ đào tạo: Chuyên ngành: Lớp: Khoa: Khóa học: Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Đức Trường

Thái Nguyên, 2019

i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông lâm -

Đại học Thái Nguyên, được sự dạy bảo tận tình của các thầy cô giáo, em đã

nắm được những kiến thức cơ bản ngành học của mình. Với 6 tháng thực tập

tốt nghiệp tại trại lợn nái Trại Thanh Vân - Xã Thanh Vân - Huyện Tam

Dương - Tỉnh Vĩnh Phúc và công ty TNHH Japfa Comfeed Việt Nam đã tạo

điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập tốt nghiệp đã giúp em cũng cố

lại kiến thức chuyên môn, cũng như đức tính cần có của cán bộ nông nghiệp.

Từ đó, đã giúp em có lòng tin vững bước em xin tỏ lòng biết ơn chân thành

tới: Ban Giám hiệu trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên. Ban

Chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y và tập thể các thầy, cô giáo trong khoa

chăn nuôi thú y, những người đã tận tụy dạy dỗ và dìu dắt em trong suốt quá

trình học tập, cũng như trong thời gian thực tập.

Tập thể lớp K47 - DTY - Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã luôn

sát cánh bên em trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường.

Các bác, các cô chú và các anh chị, toàn thể công nhân viên, cán bộ kĩ

thuật trong trại lợn nái Trại Thanh Vân - Xã Thanh Vân - Huyện Tam Dương

- Tỉnh Vĩnh Phúc đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ trong thời gian thực tập để giúp

em hoàn thành tốt khóa thực tập.

Đặt biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự quan tâm, chỉ bảo

tận tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Đức Trường.

Nhân dịp này, em cũng xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã tạo mọi điều kiện

vật chất cũng như tinh thần, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập.

Em xin trân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày ....tháng ...năm 2019

Sinh viên

Dương Đình Sơn

ii

LỜI NÓI ĐẦU

Để hoàn thành chương trình đào tạo trong nhà trường, thực hiện phương

châm “Học đi đôi với hành”, “Lý thuyết gắn liền với thực tiễn sản xuất”, thực tập

tốt nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình học tập của sinh viên.

Giai đoạn thực tập là khoảng thời gian để sinh viên củng cố và hệ thống

hóa toàn bộ kiến thức đã học, làm quen với thực tế sản xuất, từ đó nâng cao trình

độ chuyên môn, nắm được phương pháp tổ chức và tiến hành công việc nghiên

cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, tạo cho mình

có tác phong làm việc đứng đắn, sáng tạo để khi ra trường trở thành một người

cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu thực

tiễn góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển của đất nước.

Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, theo sự phân công của khoa

Chăn nuôi - Thú y, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, được sự đồng ý

của thầy giáo hướng dẫn và sự tiếp nhận của cơ sở, em đã về thực tập tại trại

lợn nái Trại Thanh Vân - Xã Thanh Vân - Huyện Tam Dương - Tỉnh Vĩnh

Phúc từ ngày 18/05/2017 đến ngày 18 /11/2017.

Nhờ sự nỗ lực của bản thân, sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của lãnh đạo và

cán bộ, nhân viên ở trại, sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, đến nay em

đã hoàn thành nhiệm vụ thực tập tốt nghiệp và hoàn thành bản báo cáo tốt nghiệp

với đề tài “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho

lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ trại Thanh Vân - Xã Thanh Vân - Huyện

Tam Dương - Tỉnh Vĩnh Phúc”. Do bước đầu làm quen với thực tiễn sản xuất và

nghiên cứu khoa học nên bản báo cáo này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu

sót. Vậy, em kính mong nhận được sự đóng góp quý báu của các thầy, các cô, các

bạn đồng nghiệp để bản báo cáo được hoàn chỉnh hơn.

Thái Nguyên, ngày… tháng…năm 2019

Người viết khóa luận

Dương Đình Sơn

iii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... 2

LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. ii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iii

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ vi

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT ...................................................... vii

PHẦN 1. MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1

1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1

1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề .......................................................... 2

1.2.1. Mục đích .................................................................................................. 2

1.2.2. Yêu cầu .................................................................................................... 3

PHẦN 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ....................................................... 4

2.1. Điều kiện cơ sở thực tập ............................................................................. 4

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở thực tập ............................ 4

2.1.2. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở .......................................... 7

2.1.3. Đánh giá chung ....................................................................................... 9

2.2. Cơ sở khoa học của chuyên đề ................................................................... 9

2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái ................................................... 9

2.2.2. Quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản giai đoạn chửa, đẻ, nuôi con ....... 15

2.2.3. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản ...................................... 18

2.2.4. Một số hiểu biết về lợn con ................................................................... 30

2.2.5. Kỹ thuật chăm sóc lợn con theo mẹ ...................................................... 31

2.2.6. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ................................................... 35

2.2.7. Cai sữa cho lợn con ............................................................................... 38

2.2.8. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn conError! Bookmark

not defined.

iv

2.2.9. Một số biện pháp phòng bệnh cho lợn con theo mẹ ............................. 39

2.3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước ..................................... 41

2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 41

2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ......................................................... 44

PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH ... 46

3.1. Đối tượng và phạm vi thực hiện ............................................................... 46

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ............................................................... 46

3.3. Nội dung thực hiện ................................................................................... 46

3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện ...................................... 46

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi .............................................................................. 46

3.4.2. Phương pháp thực hiện.......................................................................... 47

3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu ..................................................................... 53

PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ...................................................... 53

4.1. Tình hình chăn nuôi nuôi tại trại lợn Thanh Vân - huyện Tam Dương -

tỉnh Vĩnh Phúc từ 2017 - 6/2019 ..................................................................... 54

4.1.1. Kết quả sản xuất của cơ sở (từ 2017 - 6/2019) ..................................... 54

4.2. Kết quả áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho lợn nái sinh sản

tại trại ....................................................................................................... 55

4.2.1. Số lượng lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong 6 tháng thực tập ... 55

4.2.2. Công tác chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn con trong 6 tháng thực tập ..... 56

4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho đàn lợn giai đoạn từ sơ

sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tập tại trại .................................... 57

4.3.1. Công tác vệ sinh phòng bệnh ................................................................ 57

4.3.2. Phòng bệnh bằng vắc xin ...................................................................... 58

4.4. Kết quả chẩn đoán và điều trị một số bệnh cho lợn con giai đoạn từ sơ

sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tập................................................ 60

4.4.1. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi 60

v

4.4.2. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi

tại trại trong thời gian thực tập ........................................................................ 64

4.4.3. Kết quả chẩn đoán và điều trị một số bệnh sản khoa trên đàn lợn nái

tại trại ....................................................................................................... 65

4.5. Kết quả thực hiện một số công việc khác trong thời gian thực tập .. Error!

Bookmark not defined.

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ........................................................... 68

5.1. Kết luận .................................................................................................... 68

5.2. Đề nghị ..................................................................................................... 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO

vi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Lịch phòng bệnh của trại lợn nái .................................................... 41

Bảng 3.1: Lịch sát trùng trại lợn nái ............................................................... 51

Bảng 4.1: Cơ cấu sản xuất của trại lợn Thanh Vân (2017 - 6/2019) .............. 54

Bảng 4.2: Số lượng nái trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng tại trại trong 6 tháng

thực tập ............................................................................................ 55

Bảng 4.3: Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại .................................... 57

Bảng 4.4: Kết quả tiêm phòng vắc xin cho lợn con theo mẹ .......................... 59

Bảng 4.5: Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con nuôi tại trại ......................... 60

Bảng 4.6: Triệu chứng chủ yếu của một số bệnhError! Bookmark not

defined.

Bảng 4.7: Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đoạn từ sơ sinh .................. 64

đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tại trại .................................................. 64

Bảng 4.8: Tỷ lệ mắc bệnh Sản Khoa trên đàn lợn nái .................................... 65

Bảng 4.9. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái ................................................ 67

vii

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Cn : Chủ nhật

cs : Cộng sự

Nxb : Nhà xuất bản

P : Thể trọng

Pr : Protein

SS : Sơ sinh

STT : Số thứ tự

TNHH : Trách nhiệm hữu hạn

TS : Tiến Sĩ

1

PHẦN 1

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Ở nước ta, trồng trọt và chăn nuôi có vai trò rất quan trọng trong cơ cấu

nông nghiệp, chúng có quan hệ gắn bó hỗ trợ nhau cùng phát triển. Ngành

chăn nuôi đã đem lại lợi nhuận kinh tế đáng kể cho đất nước đặc biệt là chăn

nuôi lợn.

Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những bước phát

triển mạnh mẽ. Song song với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau

thì ngành chăn nuôi giữ một vị trí rất quan trọng, đóng góp một phần rất lớn

trong sự nghiệp phát triển đất nước. Trong đó, chăn nuôi lợn là một bộ phận

rất quan trọng trong ngành chăn nuôi. Hàng năm, ngành chăn nuôi lợn đã

cung cấp một khối lượng lớn thịt, mỡ làm thực phẩm cho con người. Ngoài

ra, chăn nuôi lợn còn cung cấp một lượng lớn phân bón cho ngành trồng trọt

và một số sản phẩm phụ của nó làm nguyên liệu cung cấp cho ngành công

nghiệp chế biến.

Thịt lợn không chỉ cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của con người mà

còn phù hợp với khẩu vị của đại đa số người sử dụng nó. Thịt lợn chiếm 75 -

80% so với các loại thịt trong chăn nuôi. Để đáp ứng được nhu cầu bức thiết

này, Đảng và Nhà nước đang hết sức chú ý đến việc phát triển chăn nuôi lợn.

Đồng thời các nhà khoa học nước ta cũng đã lai tạo đàn lợn nội và các giống

lợn ngoại có tầm vóc lớn, sinh trưởng nhanh, tỷ lệ nạc cao. Cùng với đó là

việc áp dụng phương thức chăn nuôi theo hướng công nghiệp, mô hình chăn

nuôi lợn, áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng tiên tiến, chế

biến thức ăn chất lượng cao với các loại thức ăn thay thế, thức ăn bổ sung, phối

hợp khẩu phần ăn có đầy đủ các chất dinh dưỡng và không ngừng quan tâm đầu

tư phát triển ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng. Để phát triển

2

chăn nuôi lợn cần thực hiện tốt các khâu chăm sóc nuôi dưỡng và phòng bệnh,

góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi lợn, đảm bảo lợn con sinh trưởng nhanh,

khỏe mạnh và cung cấp con giống có chất lượng tốt cho xã hội.

Tuy nhiên, một trong những trở ngại lớn nhất của chăn nuôi lợn nái

sinh sản là dịch bệnh còn xảy ra phổ biến gây nhiều thiệt hại cho đàn lợn nái

nuôi trong các trang trại cũng như nuôi nhỏ lẻ tại các hộ gia đình. Đối với lợn

nái nhất là lợn ngoại được chăn nuôi theo phương thức công nghiệp cho nên

tỷ lệ mắc bệnh sinh sản ngày càng nhiều hơn do khả năng thích nghi của đàn

lợn nái với điều kiện ngoại cảnh nước ta còn kém. Mặt khác trong quá trình

sinh đẻ lợn nái dễ bị nhiễm các vi khuẩn như Streptococcus, E.coli… xâm

nhập và gây nhiễm trùng và dễ mắc các bệnh như viêm tử cung, hội chứng

mất sữa, bại liệt đây là các loại bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh

sản của lợn mẹ. Bệnh tuy không xảy ra ồ ạt nhưng gây thiệt hại lớn cho lợn

nái: gây chết thai, lưu thai, sẩy thai…nghiêm trọng hơn bệnh vẫn âm thầm

làm hạn chế khả năng sinh sản của đàn lợn nái ở các lứa tiếp theo, ảnh hưởng

đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của toàn ngành chăn nuôi lợn.

Xuất phát từ thực tế trên, được sự đồng ý của khoa Chăn nuôi Thú y,

trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và giáo viên hướng dẫn, tôi tiến hành

thực hiện chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và

phòng trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Thanh Vân - Xã Thanh Vân

- Huyện Tam Dương - Tỉnh Vĩnh Phúc ”.

1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề

1.2.1. Mục đích

Tìm hiểu tình hình chăn nuôi tại trại lợn Thanh Vân - Xã Thanh Vân -

Huyện Tam Dương - Tỉnh Vĩnh Phúc.

Hiểu biết về quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản.

3

Biết được các loại thức ăn dành cho lợn nái sinh sản, khẩu phần ăn và

cách cho lợn nái ăn qua từng giai đoạn mang thai.

Xác định được các bệnh thường xảy ra đối với lợn nái sinh sản và

phương pháp phòng trị bệnh hiệu quả nhất

Đánh giá việc áp dụng được quy trình chăm sóc nuôi dưỡng cho lợn

con theo mẹ

Xác định tình hình nhiễm bệnh, cách phòng và trị bệnh cho lợn con

nuôi tại trại.

1.2.2. Yêu cầu

Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại trại Thanh Vân, Tam Dương,

Vĩnh Phúc.

Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái và đàn lợn con theo

mẹ tại trại.

Xác định được phác đồ điều trị có hiệu quả một số bệnh cho lợn nái

sinh sản và đàn lợn con nuôi tại trại.

Xác định được tình hình nhiễm bệnh của lợn nái và đàn lợn con nuôi

tại trại.

4

PHẦN 2

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

2.1. Điều kiện cơ sở thực tập

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở thực tập

2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý

Trại lợn Thanh Vân được xây dựng trên địa bàn huyện Tam Dương,

tỉnh Vĩnh Phúc. Huyện Tam Dương có vị trí địa lý được xác định như sau:

Tam Dương là huyện nằm ở khu vực trung tâm tỉnh Vĩnh Phúc, tổng

diện tích tự nhiên năm 2009 là 10.718,55 ha.

Phía Bắc giáp huyện Tam Đảo, huyện Lập Thạch, huyện Sông Lô.

Phía Nam giáp Thành phố Vĩnh Yên và huyện Yên Lạc.

Phía Đông giáp huyện Bình xuyên.

Phía Tây giáp huyện Lập Thạch và Vĩnh Tường.

- Huyện hiện có 13 đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn: Thị trấn Hợp

Hòa, các xã: Đồng Tĩnh, Hoàng Hoa, Hướng Đạo, An Hòa, Đạo Tú, Kim

Long, Duy Phiên, Hoàng Đan, Thanh Vân, Hợp Thịnh, Vân Hội và xã

Hoàng Lâu.

Là đơn vị hành chính của tỉnh có địa thế chuyển tiếp giữa đồng bằng

trung du và miền núi; nằm trên trục phát triển quan trọng, kết nối Sơn Dương

- Tam Đảo - Việt Trì - Vĩnh Yên - Phúc Yên và thủ đô Hà Nội. Tam Dương

giáp ranh với Thành phố Vĩnh Yên - là trung tâm chính trị kinh tế xã hội của

tỉnh đồng thời cũng tiếp giáp với huyện Tam Đảo; gần kề với nhiều trung tâm

phát triển; khu công nghiệp, khu nghỉ mát; có nhiều di tích lịch sử và danh

lam thắng cảnh.

5

Điều kiện khí hậu

Tam Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, được

chia thành 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 230C, nhiệt độ cao

nhất vào tháng 6, tháng 7 là 29,40C, nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1 là 100C

thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng. Bình quân số giờ nắng trong năm là 1400

- 1600 giờ/năm. Lượng mưa trung bình hàng năm 1400 - 1500 mm, phân bố

không đều, tập trung vào tháng 6, 7, 8 và 9. Độ ẩm không khí trung bình cao

từ 80 - 84%, tương đối đều các tháng trong năm.

Nhìn chung, điều kiện khí hậu, thủy văn của huyện thuận lợi cho sự

phát triển hệ sinh thái động, thực vật đa dạng cũng như các hoạt động sản

xuất nông lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên khí hậu thủy văn ở

Tam Dương cũng có nét riêng biệt là do dãy núi Tam Đảo chắn hướng gió

mùa Đông Bắc nên thường xảy ra mưa nhiều, thỉnh thoảng có gió xoáy, tạo

lốc, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống dân sinh.

2.1.1.2. Điều kiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng của cơ sở thực tập

Trại lợn Thanh Vân - huyện Tam Dương - tỉnh Vĩnh Phúc được thành

lập năm 2012. Trang trại sản xuất lợn giống nằm trên địa phận xóm Trại, xã

Thanh Vân, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Trại thuộc quản lý công ty

TNHH Japfa Comfeed Việt Nam.

Cơ sở vật chất của trang trại

Trại lợn Thanh Vân có khoảng 10ha đất để xây dựng trang trại, nhà

điều hành, nhà ở cho công nhân, bếp ăn và các công trình phụ phục vụ cho

công nhân và các hoạt động khác của trại.

Khu nhà ở của công nhân được xây ở đầu hướng gió; nhà ở được lợp

mái tôn lạnh, có một dãy nhà ở có 8 phòng ở.

Khu nhà ăn xây dựng khang trang, sạch sẽ. Khu nấu ăn được trang bị tủ

lạnh, bếp ga để thuận tiện cho việc bảo quản và chế biến thức ăn.

6

Trong khu chăn nuôi được quy hoạch bố trí xây dựng hệ thống chuồng

trại cho hơn 1200 nái bao gồm: 6 chuồng đẻ mỗi chuồng có 60 ô kích thước

2,4m × 1,6m/ô, hai chuồng bầu mỗi chuồng có 576 ô kích thước 2,4m ×

0,65m/ô, một chuồng đực giống + nái hậu bị có 50 ô kích thước 5m × 6m.

Cùng một số công trình phụ phục vụ cho chăn nuôi như: kho thức ăn, phòng

sát trùng, phòng pha tinh, kho thuốc.

Hệ thống chuồng xây dựng khép kín hoàn toàn. Mỗi chuồng đều có hệ

thống dàn mát được đặt ở đầu chuồng, đảm bảo cho chuồng lợn luôn mát mẻ.

Mỗi chuồng được lắp đặt 3 quạt thông gió (đối với chuồng đẻ), 12 quạt (đối

với chuồng bầu) đặt ở cuối chuồng, tùy theo điều kiện thời tiết, khí hậu, nhiệt

độ chuồng nuôi mà ta điều chỉnh quạt cho hợp lý.

Phòng pha tinh của trại được trang bị các dụng cụ hiện đại như: máy

đếm mật độ tinh trùng, kính hiển vi, thiết bị cảm ứng nhiệt, các dụng cụ đóng

liều tinh, nồi hấp cách thủy dụng cụ và một số thiết bị khác.

Bên ngoài là hệ thống đường đi để đuổi lợn qua các khu chuồng. Lợn

được phối và được chăm sóc ở chuồng bầu 1 sau khi bắt lốc và siêu âm thai

thì được đuổi sang chuồng bầu 2 để chăm sóc. Trước ngày đẻ dự kiến từ 5 - 7

ngày thì đuổi sang chuồng đẻ. Khu chuồng đẻ gồm 6 chuồng: 1 chuồng chờ

đẻ, chuồng 1 tuần sau đẻ, chuồng 2 tuần sau đẻ, chuồng 3 tuần sau đẻ, chuồng

cai sữa và 1 chuồng vệ sinh.

Hệ thống nước trong trại chăn nuôi cho lợn uống là nước giếng khoan.

Nước tắm cho lợn, nước xả gầm, rửa chuồng được bơm từ hồ gần trang trại

lên bể chứa và theo hệ thống ống nước dẫn tới các chuồng khác nhau.

Cơ cấu tổ chức của trang trại

Cơ cấu tổ chức của trại được tổ chức như sau:

01 trưởng trại

02 kỹ thuật trại

7

01 kế toán

12 công nhân và 3 sinh viên thực tập

02 bảo vệ chịu trách nhiệm bảo vệ tài sản chung của trại

Với đội ngũ công nhân trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau như tổ

chuồng đẻ, tổ chuồng nái chửa. Mỗi tổ thực hiện công việc hàng ngày một

cách nghiêm túc, đúng quy định của trại.

2.1.2. Đối tượng và các kết quả sản xuất của cơ sở

2.1.2.1. Công tác chăn nuôi

Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất con giống và chuyển giao tiến

bộ khoa học kỹ thuật.

Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,0 - 2,3 lứa/ năm.

Số con sơ sinh là 12 con/đàn, số con cai sữa: 11,5 con/đàn.

Tại trại, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26

ngày thì tiến hành cai sữa, sau đó được chuyển sang trại gia công cho công ty

hoặc cung cấp giống cho các trại chăn nuôi nhỏ lẻ.

Trong trại có 25 lợn đực giống, các lợn đực giống này được nuôi nhằm

mục đích kích thích động dục cho lợn nái và khai thác tinh để thụ tinh nhân tạo,

một số cho phối giống trực tiếp. Tinh lợn được khai thác chủ yếu từ giống lợn

Duroc. Lợn nái được phối 3 lần và được luân chuyển giống cũng như con đực.

Thức ăn cho lợn là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao của

công ty TNHH Japfa ComFeed Việt Nam cho từng đối tượng lợn của trại.

2.1.2.2. Công tác thú y

Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn tại trang trại sản xuất lợn giống luôn

thực hiện nghiêm ngặt, với sự giám sát chặt chẽ của kỹ thuật viên công ty

TNHH Japfa Comfeed Việt Nam.

Công tác vệ sinh: Hệ thống chuồng trại luôn đảm bảo thoáng mát về

mùa hè, ấm áp về mùa đông. Hàng ngày luôn có công nhân quét dọn vệ sinh

8

chuồng trại, thu gom phân, nước tiểu, đường đi trong trại được quét dọn và

rắc vôi theo quy định.

Công tác sát trùng: Gồm sát trùng trước cổng khi vào trại và khu sát

trùng khi lên chuồng. Trang trại cách ly nghiêm ngặt với bên ngoài, đối với

khu chăn nuôi khi có người vào trại thì phải sát trùng lần 1 ở cổng trại, quần

áo tư trang và những vật dụng, đồ cá nhân mang vào trại đều được sát trùng

bằng tia UV và cách ly ít nhất 2 ngày mới được qua khu sát trùng 2 trước khi

lên chuồng.

Công tác phòng bệnh: Trong khu vực chăn nuôi, hạn chế đi lại giữa các

chuồng, hành lang giữa các chuồng và bên ngoài chuồng đều được rắc vôi

bột, các phương tiện ra vào trại sát trùng một cách nghiêm ngặt ngay tại cổng.

Với phương châm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh” nên tất cả lợn ở đây đều

được cho uống thuốc, tiêm phòng vắc xin đầy đủ. Quy trình phòng bệnh bằng

vắc xin luôn được trại thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với

từng loại lợn có quy trình tiêm riêng, từ lợn nái, lợn hậu bị, lợn đực, lợn con.

Lợn được tiêm vắc xin ở trạng thái khỏe mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng

tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh mãn tính khác để tạo được

trạng thái miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn. Tỷ lệ tiêm phòng vắc xin cho đàn

lợn luôn đạt 100%.

Công tác trị bệnh: Cán bộ kỹ thuật của trại có nhiệm vụ theo dõi, kiểm

tra đàn lợn thường xuyên, các bệnh xảy ra ở lợn nuôi tại trang trại luôn được

kỹ thuật viên phát hiện sớm, cách li, điều trị ngay ở giai đoạn đầu của bệnh

nên điều trị đạt hiệu quả từ 80 - 90% trong một thời gian ngắn. Vì vậy, không

gây thiệt hại lớn về số lượng đàn lợn.

9

2.1.3. Đánh giá chung

Thuận lợi

Trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi: xa khu dân cư, thuận tiện đường

giao thông.

Chuồng trại có trang thiết bị hiện đại, điện lưới và hệ thống nước sạch

luôn cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt và chăn nuôi.

Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn

quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân.

Kèm theo đó là đội ngũ kỹ thuật với chuyên môn vững vàng, công nhân

nhiệt tình, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Do đó

đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trang trại.

Khó khăn

Đội ngũ công nhân trong trại còn thiếu, do đó ảnh hưởng đến tiến độ

công việc.

Trang thiết bị vật tư, hệ thống chăn nuôi còn thiếu chưa đáp ứng được

nhu cầu sản xuất.

Trong những năm gần đây, thời tiết diễn biến phức tạp kèm theo dịch

bệnh xảy ra khó kiểm soát gây khó khăn cho chăn nuôi. Do đó đòi hỏi phải

đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh và nâng cao sức đề kháng cho đàn

lợn tại trại.

2.2. Cơ sở khoa học của chuyên đề

2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái

2.2.1.1. Sự thành thục về tính

Tuổi thành thục về tính là tuổi con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và

khả năng sinh sản. Khi gia súc đã hoàn thiện về tính, bộ máy sinh dục đã phát

triển hoàn thiện. Dưới tác dụng của thần kinh và nội tiết con vật bắt đầu có

những phản xạ về sinh dục. Con cái có hiện tượng động dục, con đực có phản

10

xạ giao phối. Tuy nhiên lần động dục này chỉ là báo hiệu cho khả năng có thể

sinh sản của lợn cái

Biểu hiện của lợn cái khi thành thục về tính

Cơ thể đã phát triển đầy đủ, bộ máy sinh dục tương đối hoàn thiện, con

cái xuất hiện chu kỳ động dục lần đầu, con đực sinh tinh. Lúc này, tinh trùng

và trứng gặp nhau có khả năng thụ thai.

Xuất hiện các đặc điểm sinh dục thứ cấp: bẹ vú phát triển và lộ rõ hai

hàng vú, âm hộ to lên hồng hào.

Xuất hiện các phản xạ sinh dục: lợn có biểu hiện nhảy lên nhau, con cái

động dục, con đực có phản xạ giao phối.

Thời điểm thành thục về tính: lợn cái bắt đầu khoảng 6 tháng tuổi (từ 4

- 8 tháng tuổi).

Đối với các giống gia súc khác nhau thời gian thành thục về tính là

khác nhau, ở lợn nội thường từ 4 - 5 tháng (120 - 150 ngày), lợn ngoại 6 - 7

tháng (180 - 210 ngày).

Sự thành thục về tính của lợn nái sớm hay muộn phụ thuộc vào: giống,

chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, khí hậu, chuồng trại ...

Giống

Các giống khác nhau thì thành thục về tính cũng khác nhau: những

giống thuần hóa sớm hơn thì tính thành thục sớm hơn những giống thuần hóa

muộn, những giống có tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn những giống có

tầm vóc lớn. Theo Phạm Hữu Doanh và cs (2003) [7] cho rằng: Tuổi động dục

đầu tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm từ 4 - 5 tháng khi khối lượng đạt từ

20 - 25 kg. Ở lợn nái lai tuổi động dục lần đầu muộn hơn sơ với lợn nội thuần,

ở lợn lai F1 (có sẵn máu nội) động dục bắt đầu lúc 6 tháng tuổi khi khối lượng

cơ thể đạt 50 - 55 kg. Ở lợn ngoại động dục muộn hơn so với lợn lai, tức là

lúc động dục 6 - 7 tháng khi lợn có khối lượng 60 - 80 kg. Tuỳ theo giống,

11

điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý mà có tuổi động dục lần đầu khác

nhau. Lợn Ỉ, Móng Cái có tuổi động dục lần đầu vào 4 - 5 tháng tuổi (121 -

158 ngày tuổi) các giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace) có tuổi động dục

lần đầu muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi.

Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng

Theo Dwane và cs (1992) [10], mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng là yếu tố

ảnh hưởng rõ rệt tới tuổi động dục. Mùa Hè lợn nái hậu bị thành thục chậm

hơn so với mùa Thu - Đông. Điều này có thể là do ảnh hưởng của nhiệt độ

trong chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng của cơ thể.Những con được

chăn thả tự do thì xuất hiện thành thục sớm hơn những con nuôi nhốt trong

chuồng 14 ngày (mùa xuân) và 17 ngày (mùa thu). Mùa đông thời gian chiếu

sáng trong ngày thấp hơn so với các mùa khác trong năm, bóng tối làm chậm

tuổi thành thục về tính so với những biến động ánh sáng tự nhiên hoặn ánh

sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày.

Chế độ dinh dưỡng

Chế độ dinh dưỡng: John Nichl (1992) [17], chỉ rõ chế độ dinh dưỡng

ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn cái. Thường những lợn

được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì tuổi thành thục về tính sớm hơn những

lợn được nuôi trong điều kiện dinh dưỡng kém. Lợn nái được nuôi trong điều

kiện dinh dưỡng tốt sẽ thành thục ở độ tuổi trung bình 188,5 ngày (6 tháng

tuổi) với khối lượng cơ thể trung bình là 80kg. Nếu hạn chế thức ăn thì sự

thành thục về tính sẽ xuất hiện lúc 234,8 ngày (trên 7 tháng tuổi) và khối

lượng cơ thể trng bình là 48kg. Dinh dưỡng thiếu làm chậm sự thành thục về

tính, tác động xấu lên tuyến yên và sự tiết kích tố hướng dục, nếu thừa dinh

dưỡng cũng ảnh hưởng không tốt tới sự thành thục do sự tích luỹ mỡ xung

quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục làm giảm chức năng bình thường của

chúng, mặt khác béo quá, ảnh hưởng tới hàm lượng các hormone oestrogen và

12

progesterone trong máu, làm cho trong cơ thể không đạt mức cần thiết để thúc

đẩy sự thành thục.

Mật độ nuôi nhốt

Mật độ nuôi nhốt đông trên 1 đơn vị diện tích trong suốt thời gian phát

triển sẽ làm chậm tuổi động dục. Nhưng cần tránh nuôi lợn cái hậu bị tách

biệt đàn trong thời kỳ phát triển. Kết quả nghiên cứu của Hughes và James

(1996) [41], cho thấy việc nuôi nhốt lợn cái hậu bị riêng từng cá thể sẽ làm

chậm lại thành thục tính so với lợn cái được nuôi nhốt theo nhóm. Bên cạnh

những yếu tố trên thì đực giống cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng

đến tuổi động dục của lợn cái hậu bị. Nếu lợn cái hậu bị thường xuyên tiếp

xúc với đực giống sẽ nhanh động dục hơn lợn cái hậu bị không tiếp xúc với lợn đực giống. Theo Hughes và cs (1996) [41], lợn cái hậu bị ngoài 90 kg thể trọng ở 165 ngày tuổi cho tiếp xúc 2 lần/ngày với lợn đực, mỗi lần tiếp xúc 15

- 20 phút thì tới 83 % lợn cái hậu bị động dục lần đầu

Tuổi thành thục về tính thường sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc,

nghĩa là sau khi con vật đã thành thục về tính thì vẫn tiếp tục sinh trưởng lớn lên. Đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi. Theo Phạm Hữu Doanh và cs (2003) [7] cho rằng: Không nên cho phối giống ở lần động dục đầu tiên vì ở

thời kỳ này cơ thể lợn chưa phát triển đầy đủ, chưa tích tụ được chất dinh

dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách hoàn chỉnh. Để đạt được hiệu quả

sinh sản tốt và duy trì con cái lâu bền cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục lần

đầu rồi mới cho phối giống.

2.2.1.2. Sự thành thục về thể vóc

Theo Nguyễn Đức Hùng và cs (2003) [16], tuổi thành thục về thể vóc là

tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể chất đạt mức độ hoàn chỉnh, tầm vóc

ổn định. Tuổi thành thục về thể vóc thường chậm hơn so với tuổi thành thục

về tính. Thành thục về tính được đánh dấu bằng hiện tượng động dục lần đầu

13

tiên. Lúc này sự sinh trưởng và phát dục của cơ thể vẫn còn tiếp tục, trong

giai đoạn lợn thành thục về tính mà ta cho giao phối ngay sẽ không tốt,vì lợn

mẹ có thể thụ thai nhưng cơ thể mẹ chưa đảm bảo cho bào thai phát triển tốt,

nên chất lượng đời con kém, đồng thời cơ quan sinh dục, đặc biệt là xương

chậu vẫn còn hẹp dễ gây hiện tượng khó đẻ. Điều này ảnh hưởng đến năng

suất sinh sản của lợn nái sau này. Do đó không nên cho phối giống quá sớm.

Đối với lợn cái nội khi được 7 - 8 tháng tuổi khối lượng đạt 40 - 50 kg nên

cho phối, đối với lợn ngoại khi được 8 - 9 tháng tuổi, khối lượng đạt 100 -

110 kg mới nên cho phối.

2.2.1.3. Chu kỳ động dục

Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp sau khi toàn bộ cơ

thể đã phát triển hoàn hảo, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có

hiện tượng bệnh lý thì bên trong buồng trứng có quá trình phát triển của noãn

bao, noãn bao thành thục, trứng chín và thải trứng. Song song với quá trình

thải trứng thì toàn bộ cơ thể nói chung đặc biệt là cơ quan sinh dục có hàng

loạt các biến đổi về hình thái cấu tạo và chức năng sinh lý. Tất cả các biến đổi

đó được lặp đi, lặp lại có tính chất chu kỳ nên gọi là chu kỳ tính.

Theo Trần Thanh Vân và cs (2017) [37] , lợn nái sau khi thành thục về tính

thì bắt đầu biểu hiện động dục, lần thứ nhất biểu hiện không rõ ràng, cách sau

đó 15 - 16 ngày động dục trở lại, lần này biểu hiện rõ ràng hơn và sau đó đi

vào quy luật mang tính chu kỳ.

Theo Nguyễn Thiện và cs (1993) [32], chu kỳ tính của lợn nái thường

diễn ra trong phạm vi 19 - 21 ngày. Thời gian động dục thường kéo dài

khoảng 3 - 4 ngày (lợn nội) hoặc 4 - 5 ngày (lợn lai, lợn ngoại), và được chia

làm ba giai đoạn: giai đoạn trước khi chịu đực (bắt đầu), giai đoạn chịu đực

(phối giống), giai đoạn sau chịu đực (kết thúc).

14

Giai đoạn trước khi chịu đực: Lợn nái kêu rít, âm hộ xung huyết, chưa

cho phối và lợn chưa chịu đực. Thời gian rụng trứng khi có hiện tượng trên

đối với lợn ngoại và lợn nái lai là 35 - 40 giờ, với lợn nội là 25 - 30 giờ.

Giai đoạn chịu đực: Lợn kém ăn, mê ì, lợn đứng yên khi ấn tay lên lưng

gần mông, âm hộ giảm độ sưng, nước nhờn chảy ra, dính, đục, đứng yên khi

có đực đến gần và cho đực nhảy. Giai đoạn này kéo dài 2 ngày, nếu được phối

giống lợn sẽ thụ thai, lợn nội có thời gian ngắn hơn 28 - 30 giờ.

Giai đoạn sau chịu đực: Lợn trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở,

đuôi cụp và không chịu đực

Thời điểm phối giống thích hợp: Theo Nguyễn Thiện và cs (1993) [32], trứng rụng tồn tại trong tử cung 2 - 3 giờ và tinh trùng sống trong âm đạo lợn cái 30 - 48 giờ. Thời

điểm phối giống thích hợp nhất đối với lợn nái ngoại và lợn nái lai cho

phối vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4, tính từ lúc bắt đầu động dục.

Đối với lợn nái nội hơn một ngày vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3

do thời gian động dục ở lợn nái nội ngắn hơn. Thời điểm phối giống có ảnh

hưởng đến tỷ lệ đậu thai và sai con. Phối sớm hoặc phối chậm đều đạt kết

quả kém nên cho nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm tối ưu.

2.2.1.4. Sinh lý quá trình mang thai và đẻ

Sau thời gian lưu lại ở ống dẫn trứng khoảng 3 ngày để tự dưỡng (noãn

hoàng và dịch thể do ống dẫn trứng tiết) hợp tử bắt đầu di chuyển xuống tử

cung, tìm vị trí thích hợp để làm tổ, hình thành bào thai. Sự biến đổi nội tiết tố

trong cơ thể mẹ trong thời gian có chửa như sau: Progesterone trong 10 ngày

đầu có chửa tăng rất nhanh cao nhất vào ngày chửa thứ 20 rồi nó hơi giảm

xuống một chút ở 3 tuần đầu, sau đó duy trì ổn định trong thời gian có chửa

để an thai, ức chế động dục 1 - 2 ngày trước khi đẻ progesterone giảm đột

ngột. Estrogen trong suốt thời kỳ có chửa duy trì ở mức độ thấp, cuối thời

15

kỳ có chửa khoảng 2 tuần thì bắt đầu tăng dần, đến khi đẻ thì tăng cao nhất. Thời gian có chửa của lợn nái bình quân là 114 ngày (Jose Bento và cs, 2013) [42]. 2.2.2. Quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản giai đoạn chửa, đẻ, nuôi con

2.2.2.1. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái đẻ

Mục đích chăn nuôi lợn nái đẻ nhằm đảm bảo cho lợn đẻ an toàn, lợn

con có tỷ lệ sống cao, lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con.

Chính vì vậy quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng có vai trò rất quan trọng và ảnh

hưởng trực tiếp đến sức khỏe lợn mẹ và lợn con.

Quy trình nuôi dưỡng

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [27]: thức ăn dùng cho lợn nái đẻ

phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Không cho lợn

nái ăn thức ăn có hệ số choáng cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó,

hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng

sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với

những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức

ăn, đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức

khỏe yếu thì không giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng

cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải

căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ

dinh dưỡng cho hợp lý. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh

(0,5kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ

có thể không cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn

cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột

ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần

chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn

cho lợn nái.

16

Quy trình chăm sóc

Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp

đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Theo Trần Văn Phùng và

cs ( 2004) [27] cần phải theo dõi thường xuyên sức khỏe lợn mẹ, quan sát bầu

vú, thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện các

trường hợp bất thường để có biện pháp xử lý kịp thời. Trước khi lợn đẻ 10 -

15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô

chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu

chuồng phải khô ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu

độc nên để trống chuồng từ 3 - 5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Trước khi đẻ

1 tuần, cần vệ sinh lợn nái sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân

bám dính trên người, dùng khăn thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm

hộ. Làm như vậy tránh được nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp

xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho

lợn nái, chúng ta chuyển nhẹ nhàng từ chuồng chửa sang chuồng đẻ để lợn

quen dần với chuồng mới.

Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan

trọng đó là việc chuẩn bị ô úm lợn cho lợn con. Theo Trần Thanh Vân và cs

(2004) [27], ổ úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa

lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt,

mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ổ úm tạo điều

kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào

những tháng mùa đông. Ngoài ra, ổ úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn

sớm cho lợn con (để máng ăn vào ổ úm cho lợn con lúc 7 - 10 ngày tuổi ) mà

không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức ăn của lợn con. Vào ngày dự kiến đẻ của

lợn nái, cần chuẩn bị xong ổ úm cho lợn con. Kích thước ổ úm: 1,2m x 1,5m.

Ổ úm được cọ rửa sạch, phun khử trùng và để trống từ 3 - 5 ngày trước khi

đón lợn con sơ sinh.

17

2.2.2.2. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con

Quá trình nuôi dưỡng

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [27]: thức ăn cho lợn nái nuôi con

phải là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó

là các loại thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ,

cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn

bổ sung đạm động, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin... Không cho lợn

nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn

hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ

protein, năng lượng và các thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn

quy định như năng lượng trao đổi 3100 Kcal, protein 15 %, Ca từ 0,9 - 1,0 %,

phospho 0,7 %.

Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và

ảnh hưởng trưc tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ,

chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng

cho lợn mẹ. Trong quá trình nuôi con, lợn nái được cho ăn như sau:

Ngày cắn ổ đẻ cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg)

hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do.

Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ

1- 2- 3 kg tương ứng.

Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4 kg thức ăn hỗn

hợp/nái/ngày

Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức ăn/nái/ngày

= 2 kg + ( số con x 0,35 kg/con ). Cho ăn 2 bữa/ngày ( sáng và chiều )

Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg

thức ăn/ngày.

18

Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 - 2 kg rau xanh/ ngày sau bữa ăn tinh ( nếu

có rau xanh)

Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30 %

Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước.

Quy trình chăm sóc

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [27] vận động tắm nắng là điều

kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa

của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 - 7 ngày, trong điều kiện chăn

nuôi có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời

gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên.

Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các

cũi đẻ, không được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng

của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin.

Ngoài ra yêu cầu đối với chuồng trại của lợn nái nuôi con là phải đảm

bảo luôn khô ráo, sach sẽ, không ẩm ướt, vì vậy hàng ngày phải vệ sinh

chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004)

[27] chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho

lợn con. Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 - 20oC, độ ẩm 70 - 75 %.

2.2.3. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản

Bệnh viêm tử cung

Bệnh viêm tử cung xảy ra trên các giống lợn nội, ngoại khác nhau. Lợn

nái đẻ ít lứa, nhiều lứa hay đang nuôi con đều có thể mắc bệnh song tỷ lệ mắc

bệnh phụ thuộc vào yếu tố vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng. Khi gia súc sinh đẻ

nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm

mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây

viêm. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó

thương hàn, bệnh lao… thường gây viêm tử cung.

19

Nguyên nhân

Theo Nguyễn Hoài Nam và cs (2016) [25], thời gian đẻ càng dài thì cổ

tử cung của lợn nái mở càng lâu, cơ hội xâm nhập của vi khuẩn từ các bộ

phận khác của hệ sinh dục và tiết niệu vào tử cung càng lớn. Hơn nữa, lợn có

thời gian đẻ lâu thường là do để khó và được can thiệp bằng tay nên làm tắng

nguy cơ xây sát đường sinh dục và do đó nguy cơ mắc bệnh viêm tử cung

cũng tăng lên. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [9], viêm tử cung là một

quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm

phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh

sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở

gia súc cái. Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [1], Phạm Sỹ Lăng (2002) [18],

bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau:

Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng

phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn

tinh không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái

gây viêm.

Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật

hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm

đạo truyền sang cho lợn khoẻ.

Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc

tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.

Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm

tử cung.

Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sảy thai truyền nhiễm,

phó thương hàn, bệnh lao… gây viêm.

Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ

không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để

xâm nhập vào gây viêm.

20

Theo Đoàn Kim Dung và Lê Thị Tài (2002) [8], nguyên nhân gây viêm

tử cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), Liên cầu dung

huyết (Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais, Klebriella,

E.coli….

Theo Lê Văn Năm (1999) [26], có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại cảnh

gây bệnh như: do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ bằng dụng cụ

hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến các cơ quan sinh dục bị phá hủy hoặc

kết tủa, kết hợp với việc chăm sóc nuôi dưỡng bất hợp lý và thiếu vận động đã

làm chậm quá trình thu teo sinh lý của dạ con (trong điều kiện cai sữa bình

thường dạ con trở về khối lượng kích thước ban đầu khoảng 3 tuần sau đẻ). Đây

là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung gây bệnh. Biến chứng nhiễm

trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động dục (vì lúc

đó tử cung mở) và do thụ tinh nhân tạo sai kỹ thuật.

Triệu chứng

Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể:

Thể cấp tính: con vật sốt 41 - 42oC trong vài ngày đầu âm môn sưng tấy

đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ lờ.

Thể mãn tính: không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch

nhầy trắng đục tiết ra từ âm đạo, dịch nhầy thường không liên tục mà chỉ chảy

ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả

hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo

tử cung lan sang thai làm chết thai.

Hậu quả

Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [9], Trần Thị Dân (2004) [5], khi

lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:

Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai.

21

Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử

cung tiết nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở

buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây

co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi

đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm

lượng progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử

cung tăng, nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.

Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu.

Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để

giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng

progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung

giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ

mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu.

Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong

giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.

Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có

mặt của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân

tiết kích thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn

sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị

tiêu chảy, còi cọc.

Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục

trở lại.

Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể

vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone.

Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự

phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở

lại được và không thải trứng được.

22

Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi

sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau

là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các

nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống

thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh

hưởng tới hoạt động của buồng trứng.

Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung

Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu

hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động dục, vì đây là thời gian cổ tử cung mở

nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml

cho tới 200 ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung

dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu

máu cá. Người ta thấy rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp

tính, viêm tử cung mạn tính thường gặp trong thời kì cho sữa. Hiện tượng

chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung.

Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có

những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết

tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn

nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra.

Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ

chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động đực thì

có thể bị nhầm lẫn.

Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối.

Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ

nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt

khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho

chính xác.

23

Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ

ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu

hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm từ

đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất,

thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất.

Điều trị

Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [12] cho biết: cần ức chế và tiêu diệt vi

khuẩn thâm nhập vào máu đồng thời tăng sức đề kháng cho con vật. Do đặc

điểm phát triển của bệnh nhanh nên phải kịp thời điều trị nhanh chóng.

Dùng kháng sinh liều cao tiêm bắp. Có thể sử dụng penicillin tiêm tĩnh

mặc, sulfathiazol tiêm tĩnh mạch.

Tăng cường sức đề kháng, trợ tim, trợ lực cho con vật bằng glucose,

cafein, vitamin B1, vitamin C.

Theo Phùng Quang Trường và cs (2016) [36], lợn bị viêm tử cung

ngoài được tiêm dưới da 1 mũi 2ml lutalyse (25mg PGF2) còn được thụt rửa

tử cung với 100ml dung dịch lugol 0,1 % và sau đó là 100ml dung dịch

neomycin (5mg/kg). Việc thụt rửa được tiến hành ngày 1 lần. Sau khi tiêm

thuốc và thụt rửa, lợn được theo dõi 2 lần/ ngày, nếu sau 2 lần theo dõi liên

tục mà không còn dịch viêm chảy ra thì lợn được coi là khỏi. Nếu lợn chưa

khỏi thì liệu trình được tiếp tục cho tới hết ngày thứ 7. Đến hết ngày thứ 8 mà

lợn vẫn thải dịch thì được coi là không khỏi.

Bệnh viêm vú

Nguyên nhân

Christensen và cs (2007) [39] khi nghiên cứu về môn học và vi khuẩn

học từ mẫu mô vú bị viêm cho thấy: vi khuẩn chính gây viêm vú là

Staphylococcus spp. và Arcanobacterium pyogenes.

24

Khi lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn

Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây viêm vú.

Một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm vú ở lợn nái là thức ăn

không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần thức ăn cho lợn nái trước

khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày

đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập

và gây viêm.

Do kế phát từ một số bệnh: Sót nhau, viêm tử cung, bại liệt sau đẻ,

viêm bàng quang… khi lợn nái bị những bệnh này vi khuẩn theo máu về

tuyến vú cư trú tại đây và gây bệnh.

Lợn nái tốt sữa, lợn con bú không hết hoặc lợn nái cho con bú một hàng

vú, hàng vú còn lại căng sữa. Lợn con bú làm xây xát bầu vú hoặc lợn con bị

bệnh không bú, sữa xuống nhiều bầu vú căng dễ dẫn đến viêm.

Do quá trình chăm sóc nuôi dưỡng kém, chất độn chuồng và ổ đẻ bẩn,

sau khi đẻ bầu vú không được vệ sinh sạch, hàng ngày không vệ sinh bầu vú,

thời tiết quá ẩm kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột dẫn đến viêm.

Triệu chứng

Theo White và cs (2013) [45], biểu hiện rõ tại vú viêm với các đặc

điểm: vú căng cứng, nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa,

nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều lợn cợn lẫn máu; sau 1 - 2 ngày thấy có

mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,5oC.

Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [31], viêm vú thường xuất hiện ở một vài

vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu hồng, sưng đỏ, sờ vào

thấy nóng, hơi cứng ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn nái giảm ăn, trường

hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt thời gian viêm, sản

lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn, ít cho con bú. Lợn

con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con ỉa chảy, xù lông,

25

gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 - 100 % (Lê Hồng Mận, 2002) [22]. Vắt sữa ở những

vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục sữa vón lại, xuất

hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có máu.

Hậu quả

Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó

sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ.

Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [21], bệnh viêm tử cung và viêm vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn

nái nuôi con.

Nguyễn Xuân Bình (2000) [1] cũng khẳng định: Mất sữa sau khi đẻ là

do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường sốt

cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng

đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong

đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng

tiết sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo.

Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có

nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con

bú sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và

trọng lượng cai sữa thấp.

Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó

chữa, lợn nái có thể chết.

Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh

hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau.

Thực hiện phòng bệnh

Vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng ngày bằng dung dịch sát

trùng. Bấm răng sữa cho lợn con mới sinh, nên cho lợn con bú sữa đầu và

phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ chất cho lợn mẹ

26

trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ thừa sữa. Khi

lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vùng bị viêm. Dùng

các phương pháp nhân tạo như chườm nóng, xoa bóp nhẹ lên vùng vú bị sưng

(Duy Hùng, 2011) [15].

Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [14] cho biết: trước khi đẻ cần lau vú,

xoa vú, tắm cho lợn nái. Cho con bú mẹ sau 1 giờ đẻ, cắt răng nanh lợn con.

Tiêm kháng sinh 1,5 - 2 triệu đơn vị với 100 ml nước cất tiêm quanh vú, tiêm liên

tục trong 3 ngày.

Chườm đá lạnh vào bầu vú viêm. Tiêm thuốc chống viêm như

prednizolon, hydro - cortizone (Hồng Mận và cs, 2004) [23].

Dùng novocain tiêm ven tai, tiêm chỗ giáp nhau giữa hai bầu vú và

phần sườn của lợn, tiêm nhắc lại sau một ngày.

Dùng kháng sinh streptomycin, penicillin, ampicillin, lincomycin…

liều đạt trên 200.000 - 500.000 UI, mỗi loại trên một lần tiêm cho 1 - 2 lần/ngày

trong 3 - 5 ngày.

Bệnh sát nhau

Nguyên nhân

Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can

thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái

quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra.

Theo Trịnh Đình Thâu và cs (2010) [30], sau khi đẻ tử cung co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được vận động

thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là canxi và photpho.

Hoặc tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều

thai, thai quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức.

Kế phát sau các bệnh khó đẻ khác.

27

Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền

nhiễm đặc biệt bệnh Brucellosis (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của nhau.

Triệu chứng

Sát nhau hoàn toàn: toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc

thường là có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn.

Sát nhau không hoàn toàn: ở động vật đơn thai một phần màng nhau

còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra

ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ.

Điều trị

Trịnh Đình Thâu và cs (2010) [30] cho biết, can thiệp kịp thời ngay khi

nái có biểu hiện bệnh, không để quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp

đúng kỹ thuật, không quá mạnh tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytocin

dưới da để kích thích co bóp tử cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết.

Sau khi nhau thai ra dùng nước muối sinh lý 0,9 % để rửa tử cung trong ba

ngày liên tục.

Hiện tượng đẻ khó

Lợn đẻ mà thời gian sổ thai kéo dài nhưng thai vẫn không được đẩy ra

ngoài. Bệnh biểu hiện dưới nhiều hình thức, diễn biến khác nhau. Nó không

những gây tổn thương cho cơ quan sinh dục mà còn dẫn đến hiện tượng vô

sinh, thậm chí cả lợn mẹ và lợn con có thể chết.

Nguyên nhân

Đẻ khó do nguyên nhân cơ thể mẹ: khi chăm sóc, nuôi dưỡng không

tốt, thức ăn không đầy đủ, chất dinh dưỡng thiếu so với nhu cầu của lợn mang

thai dẫn đến cơ thể mẹ suy nhược, sức khỏe kém. Trong quá trình đẻ, sức rặn

đẻ của lợn yếu, thậm trí không rặn đẻ, cổ tử cung co bóp yếu nên không đẩy

thai ra ngoài.

28

Lợn ăn quá nhiều tinh bột, protein dẫn đến béo cũng gây ra đẻ khó. Lợn

quá gầy cũng dẫn đến đẻ khó.

Do cấu tạo tổ chức các phần mềm như: cổ tử cung, âm đạo giãn nở

không bình thường có chỗ giãn quá mạnh, chỗ lại không giãn nên việc đẩy

con ra ngoài gặp khó khăn.

Khung xoang chậu bị biến dạng, khớp bán động háng phát triển không

bình thường, vôi hóa cột sống hay xoang chậu hẹp. Trong quá trình đẻ độ giãn

nở kém, thai bị mắc trước cửa xoang chậu không ra được. Khi quá trình rặn

đẻ kéo dài, sức co bóp lớn ép lợn con bị chết.

Ở thời gian có thai kỳ cuối, thai quá to, lợn nái vận động mạnh, chèn ép

tử cung làm tử cung bị xoắn vặn lại, tư thế tử cung thay đổi, đường sinh dục

trở nên không bình thường cũng gây đẻ khó.

Do rối loạn hormone tuyến sinh dục cái: kích tố nhau thai relaxin lúc đẻ

tiết ra ít nên không làm mất lớp canxi ở bán động háng, không giãn dây chằng

xương chậu (không sụt mông) hoặc prostagladin tiết ít không đủ gây co bóp

tử cung nên không tống thai ra ngoài được.

Chế độ dinh dưỡng không phù hợp hoặc do quá ít thai, làm thai quá to

không phù hợp với kích thước của xương chậu và đường sinh dục của lợn mẹ.

Thai bị dị hình hay quái thai.

Đẻ khó do nguyên nhân bào thai thường chiếm 3/4, những nguyên nhân

và loại hình đẻ khó có thể xảy ra đơn độc hoặc kết hợp lại với nhau như bào

thai quá to mà xương chậu lại quá nhỏ, thai to cộng với tư thế thai không bình

thường… khi rặn đẻ thai bị kẹt không ra được.

Triệu chứng

Lợn nái đến ngày đẻ, nước ối vỡ ra, trong nước ối có lẫn phân su nhưng

không thấy thai ra. Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn

nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng

29

thai vẫn không ra. Do thời gian rặn đẻ mạnh và kéo dài mà thai vẫn không ra

làm cho lợn nái mệt mỏi. Nếu để lâu có thể dẫn đến hiện tượng thai bị ngạt

mà chết. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to

hoặc ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu.

Hậu quả

Tử cung co bóp mạnh mà thai không ra, thai bị chèn ép, bị ngạt thở dẫn

đến lợn con bị chết.

Nếu mổ để lấy thai ra ngoài thì lợn mẹ hay bị chết hoặc không thể dùng

sinh sản lứa sau.

Do lợn nái rặn đẻ mạnh và kéo dài làm lợn nái mệt mỏi, kéo dài thời

gian đẻ, sức co bóp của tử cung giảm, gây ra hiện tượng sót nhau, sót con dẫn

đến viêm đường sinh dục.

Khi dùng biện pháp can thiệp không đúng cách, gây xây xát niêm mạc

tử cung, hoặc dụng cụ thủ thuật không đảm bảo vệ sinh làm lợn bị nhiễm một

số bệnh: viêm tử cung, viêm vú, sảy thai truyền nhiễm… khi đó, niêm mạc sẽ

có những vết sẹo gây cản trở cho quá trình thụ thai, thai làm tổ… dẫn đến xảy

thai, tiêu thai, đẻ non ở những lần sinh sản tiếp theo, thậm trí là vô sinh.

Bệnh bại liệt sau sinh

Là bệnh mà lợn mẹ mất khả năng vận động sau thời gian sổ thai.

Nguyên nhân

Do thai quá to, tư thế và chiều hướng của thai không bình thường.

Quá trình thủ thuật kéo thai quá mạnh hay không đúng thao tác…

Từ đó gây tổn thương thần kinh tọa hoặc ảnh hưởng đến đám rối hông

khum, làm cho → lợn mẹ bại liệt.

Biểu hiện bệnh

Lúc đầu lợn mẹ đi lại khó khăn, về sau không đứng lên được mà nằm

bẹp 1 chỗ.

30

Bệnh thường kế phát với 1 số bệnh ở hệ tiêu hóa, hô hấp như: chướng

bụng đầy hơi, viêm phế quản cấp.

Nếu bệnh kéo dài, con vật dễ bị loét từng mảng da phía tiếp xúc với nền

chuồng.

Sau 3 - 4 tuần con vật gầy dần và chết.

Biện pháp khắc phục

Thao tác can thiệp kịp thời, đúng kỹ thuật.

Hằng ngày trở mình cho lợn mẹ, tránh bần huyết, hoại tử da và kế phát

với chướng bụng, đầy hơi.

Tăng cường thức ăn có bổ sung nguyên tố vi lượng nhất là canxi và photpho.

Tiêm Mg - calcium cho lợn. Đồng thời kết hợp với châm cứu.

2.2.4. Một số hiểu biết về lợn con

Đặc điểm về sinh trưởng, phát triển của lợn con

Đối với chăn nuôi lợn con nói riêng và gia súc nói chung, thời kỳ gia

súc mẹ mang thai được chăm sóc chu đáo, bào thai sẽ phát triển tốt sinh con

khỏe mạnh.

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [27], so với khối lượng sơ sinh thì

khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp

4 lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần,

lúc 50 ngày tuổi tăng gấp 10 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần.

Lợn con bú sữa sinh trưởng và phát triển nhanh nhưng không đồng đều

qua các giai đoạn, nhanh nhất trong 21 ngày đầu sau đó giảm dần. Sở dĩ có sự

giảm này là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do lượng sữa mẹ bắt đầu

giảm và hàm lượng hemoglobin trong máu của lợn con bị giảm. Thời gian bị

giảm sinh trưởng kéo dài khoảng 2 tuần hay còn gọi là giai đoạn khủng hoảng

của lợn con. Chúng ta hạn chế sự khủng hoảng này bằng cách tập cho ăn sớm.

Do lợn con sinh trưởng nhanh nên quá trình tích lũy các chất dinh dưỡng mạnh.

31

Các thời kỳ quan trọng của lợn con

Thời kỳ từ sơ sinh đến 1 tuần tuổi: Là thời kỳ khủng hoảng đầu tiên của

lợn con do sự thay đổi hoàn toàn về môi trường sống, bởi vì lợn con chuyển

từ điều kiện sống ổn định trong cơ thể lợn mẹ, chuyển sang điều kiện tiếp xúc

trực tiếp với môi trường bên ngoài. Do vậy, nếu nuôi dưỡng chăm sóc không

tốt lợn con dễ bị mắc bệnh, còi cọc, tỷ lệ nuôi sống thấp. Mặt khác, lúc này

lợn con mới đẻ còn yếu ớt, chưa nhanh nhẹn. Lợn mẹ vừa đẻ xong, cơ thể còn

mệt mỏi, đi đứng còn nặng nề vì sức khỏe chưa hồi phục, nên dễ đè chết lợn

con. Vì vậy, cần nuôi dưỡng chăm sóc chu đáo lợn con ở giai đoạn này.

Thời kỳ 3 tuần tuổi là thời kỳ khủng hoảng thứ 2 của lợn con, do quy

luật tiết sữa của lợn mẹ gây nên. Sản lượng sữa của lợn nái tăng dần từ sau đẻ

và đạt cao nhất ở giai đoạn 3 tuần tuổi, sau đó sản lượng sữa của lợn mẹ giảm

nhanh. Trong khi đó, nhu cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng tăng do lợn

con sinh trưởng và phát dục nhanh, đây là mâu thuẫn giữa cung và cầu. Để giải

quyết mâu thuẫn này, cần tập cho lợn con ăn sớm vào 7 - 10 ngày tuổi.

Thời kỳ ngay sau khi cai sữa là thời kỳ khủng hoảng thứ 3 do môi

trường sống thay đổi hoàn toàn, do yếu tố cai sữa gây nên. Mặt khác, thức ăn

thay đổi, chuyển từ thức ăn chủ yếu là sữa lợn mẹ sang thức ăn hoàn toàn do

con người cung cấp. Nên giai đoạn này, nếu nuôi dưỡng, chăm sóc không chu

đáo, lợn con sẽ bị còi cọc, rất dễ mắc bệnh đường hô hấp, tiêu hóa.

Trong chăn nuôi lợn nái ngoại, cai sữa bắt đầu lúc 21 ngày, kết thúc lúc

23 ngày thì thời kỳ khủng hoảng 2 và 3 trùng nhau, hay nói cách khác ta đã

làm giảm được 1 thời kỳ khủng hoảng của lợn con.

2.2.5. Kỹ thuật chăm sóc lợn con theo mẹ

Chăm sóc là khâu quan trọng nhất trong việc nuôi dưỡng lợn con ở thời

kỳ bú sữa vì đây là thời kỳ lợn con chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện ngoại

cảnh. Nếu điều kiện ngoại cảnh bất lợi sẽ dẫn đến tỷ lệ hao hụt cao ở lợn con.

32

Chuồng nuôi: Chuồng nuôi phải được vệ sinh trước khi lợn mẹ đẻ. Nền

chuồng phải luôn sạch sẽ và khô ráo, ấm về mùa đông, mát về mùa hè, đảm

bảo nhiệt độ và độ ẩm thích hợp cho lợn con, vào ban đêm cần phải có đèn

sưởi để đảm bảo chống lạnh cho lợn con. Ngoài ra, chuồng nuôi phải có

máng tập ăn và máng uống cho lợn con riêng.

Nền cứng hoặc sàn thưa khu vực cho lợn con mới sinh cần giữ ấm ở 32

- 35oC trong mấy ngày đầu, sau đó giữ 21 - 27oC cho đến lúc cai sữa 3 - 6

tuần tuổi. Nhiệt độ, độ ẩm và tốc độ gió làm thành một hệ thống tác nhân

stress đối với gia súc.

Theo Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [14], nhiệt độ môi trường ảnh

hưởng đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của lợn. Nhu cầu nhiệt độ của lợn tùy

vào từng giai đoạn sinh trưởng, lợn sữa giai đoạn 1 - 7 ngày tuổi cần nhiệt độ

30 - 31oC, lợn trên 20 ngày tuổi cần nhiệt độ 20 - 24oC. Trong mùa đông ở

các tỉnh phía Bắc nhiều ngày giá lạnh, nhiệt độ có thể hạ xuống dưới 10oC

ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống và khả năng sinh trưởng của lợn con.

Theo Hồ Văn Nam (1997) [24], khi gia súc bị lạnh ẩm kéo dài sẽ làm

giảm khả năng đáp phản ứng miễn dịch, giảm tác động thực bào, do đó gia

súc dễ bị vi khuẩn cường độc gây bệnh.

Cắt đuôi, bấm răng nanh, thiến:

Việc cắt đuôi thường tiến hành ngay sau đẻ hoặc trong tuần đầu sau đẻ.

Dùng kìm điện cắt sát khấu đuôi sao cho để lại 2,5 - 3 cm. Cắt xong dùng cồn

iod 70o để sát trùng.

Ngoài ra lợn con mới đẻ đã có răng nanh, nên việc mài răng nanh cũng

tiến hành ngay sau đẻ để tránh tình trạng gây tổn thương bầu vú cho lợn mẹ

khi bú, làm giảm tỷ lệ gây viêm vú cho lợn mẹ. Khi mài răng nanh, người mài

tránh không gây tổn thương phần lợi hoặc lưỡi của lợn con, ngoài ra người

mài cũng nên cẩn thận không để nanh gẫy bắn vào mắt mình.

33

Trong thời kỳ này cũng phải thực hiện thiến cho những lợn đực không

dùng làm giống. Có thể thiến trong khoảng từ 3 - 7 ngày tuổi. Cần sát trùng

bằng cồn iod trước và sau thiến.

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2013) [19], bệnh phó thương hàn là bệnh

truyền nhiễm chủ yếu xảy ra ở lợn con giai đoạn 2 - 4 tháng tuổi. Đặc trưng

của bệnh là do vi khuẩn tác động vào bộ máy tiêu hóa gây nên triệu chứng

nôn mửa, ỉa chảy, phân khắm, vết loét lan tràn ở ruột già.

+ Tiêm phòng:

Khi lợn con được 20 ngày tuổi nên tiêm phòng những loại vắc xin:

- Salmonella (2 ml/con) phòng bệnh phó thương hàn.

- Giai đoạn lợn được 45 ngày tuổi nên tiêm phòng vắc xin dịch tả.

- Giai đoạn 60 - 70 ngày tuổi nên tiêm phòng vắc xin tụ huyết trùng và

đóng dấu.

Quản lý lợn con: Đối với những lợn con có dự định chọn làm giống thì

cần phải có kế hoạch quản lý tốt. Những con này sẽ được cân và đánh số ở

các giai đoạn sơ sinh, lúc cai sữa, lúc 50, 60 hay 70 ngày tuổi. Đây chính là cơ

sở giúp cho việc lựa chọn để làm giống sau này.

Giai đoạn từ sơ sinh đến 3 ngày tuổi

Bình thường khoảng thời gian giữa lợn con đẻ trước và lợn con đẻ liền

kề 5 - 10 phút, cũng có khoảng cách nái đẻ kéo dài hơn. Lợn con đẻ ra phải

được lau khô bằng vải màn xô mềm sạch theo trình tự miệng, mũi, đầu, mình,

rốn, bốn chân, cho vào ổ úm sau khi nhiệt độ môi trường thấp hơn 35oC. Lợn

nái đẻ xong con cuối cùng tiến hành bấm nanh, cắt rốn, cố định đầu vú cho

lợn con mục đích là tạo điều kiện để đàn lợn con phát triển đồng đều.

Giai đoạn 3 ngày tuổi đến 3 tuần tuổi

Trong thời gian này nói chung lợn con đã bú thành thạo và rõ ràng đã

bước vào giai đoạn khởi động tốt trong thời gian này việc chăm sóc quản lý

34

rất quan trọng bao gồm cả phòng chống thiếu máu khống chế tiêu chảy, thiến

lợn đực con và cắt đuôi. Trong giai đoạn này sữa lợn mẹ đủ đáp ứng nhu cầu

của lợn con trong mọi vấn đề, trừ sắt. Sắt cần thiết cho việc hình thành

hemoglobin trong máu nó vận chuyển oxygen đến các bộ phận cơ thể. Thiếu

sắt sẽ gây thiếu máu nhưng có thể phòng ngừa bằng cách tiêm sắt.

Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [11], một trong các yếu tố làm cho

lợn con dễ mắc bệnh đường tiêu hóa là do thiếu sắt. Nhiều thực nghiệm đã

chứng minh, trong cơ thể sơ sinh phải cần 40 – 50 mg sắt nhưng lợn con chỉ

nhận được lượng sắt qua sữa mẹ là 1 mg. Vì vậy phải bổ sung một lượng sắt

tối thiểu 200 - 250 mg/con/ngày. Khi thiếu sắt, lợn con dễ sinh bần huyết, cơ

thể suy yếu, sức đề kháng giảm nên dễ mắc hội chứng tiêu chảy.

Nhu cầu sắt cho lợn con mỗi ngày cần 7 - 16 mg hoặc 21 mg/kg tăng

khối lượng duy trì hemoglobin (hồng cầu) trong máu, sắt dự trữ cho cơ thể

tồn tại và phát triển. Lượng sắt trong sữa mẹ không đủ cho nhu cầu sắt của

nhu cầu lợn con, triệu chứng điển hình của thiếu sắt ở lợn con là thiếu máu,

hàm lượng hemoglobin giảm, da lợn con màu trắng xanh, đôi khi tiêu chảy,

phân trắng, chậm lớn, có khi chết.

Từ 3 tuần tuổi đến cai sữa

Thời gian này lợn con đã lớn nhanh hơn, lợn khỏe mạnh hơn và có khả

năng chống chịu tốt hơn với môi trường ngoại cảnh. Vào thời gian này, phần

lớn lợn con theo mẹ đã được 3 - 4 tuần tuổi, chúng bắt đầu ăn thức ăn và lớn

nhanh, sự tăng khối lượng này là tăng khối lượng có hiệu quả, do đó ta cần

phải hạn chế và tránh những yếu tố stress cho lợn con.

Để đạt năng suất chăn nuôi cần tối đa là tập cho lợn con ăn càng sớm

càng tốt.

Cho thuốc vào nước uống nếu tiêu chảy.

35

2.2.6. Kỹ thuật nuôi dưỡng lợn con theo mẹ

Cho lợn con bú sữa đầu và cố định đầu vú cho lợn con

Lợn con đẻ ra cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Thời gian tiết

sữa đầu của lợn nái là 1 tuần kể từ khi đẻ nhưng có ý nghĩa lớn nhất đối với

lợn con là trong 24 giờ đầu. Sau khoảng 2 giờ, nếu lợn mẹ đẻ xong thì cho cả

đàn con bú cùng lúc. Nếu lợn mẹ chưa đẻ xong thì nên cho những con đẻ

trước bú trước.

Theo Vũ Đình Tôn và cs (2006) [35], lợn con khi mới sinh ra trong

máu hầu như không có kháng thể. Song lượng kháng thể trong máu lợn con

được tăng rất nhanh sau khi lợn con bú sữa đầu.

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [27], lợn con mới đẻ lượng kháng

thể tăng nhanh ngay sau khi bú sữa đầu của lợn mẹ, cho nên khả năng miễn

dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng thể hấp

thu được nhiều hay ít từ lợn mẹ.

Theo Trần Thị Dân (2008) [6], lợn con mới đẻ trong máu không có

globulin nhưng sau khi bú sữa đầu lại tăng lên nhanh chóng do truyền từ mẹ

sang qua sữa đầu. Lượng globulin sẽ giảm sau 3 - 4 tuần, rồi đến tuần thứ 5 -

6 lại tăng lên và đạt giá trị bình thường 65 mg/100ml máu. Các yếu tố miễn

dịch như bổ thể, lyzozyme, bạch cầu… được tổng hợp còn ít, khả năng miễn

dịch đặc hiệu của lợn con kém. Vì vậy, cho lợn con bú sữa đầu rất cần thiết để

tăng khả năng bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh nhất là hội chứng tiêu chảy.

Sữa đầu có hàm lượng các chất dinh dưỡng rất cao. Hàm lượng protein

trong sữa đầu gấp 2 lần so với bình thường, vitamin A gấp 5 - 6 lần, vitamin

C gấp 2,5 lần, vitamin B1 và sắt gấp 1,5 lần. Đặc biệt trong sữa đầu có hàm

lượng γ-globulin mà sữa thường không có. γ -globulin có tác dụng giúp cho

lợn con có sức đề kháng đối với bệnh tật. Ngoài ra, M++ trong sữa đầu có tác

dụng tẩy các chất cặn bã (phân su) trong quá trình tiêu hóa phát triển thai để

36

hấp thu chất dinh dưỡng mới. Nếu không nhận được Mg++ thì lợn con sẽ bị rối

loạn tiêu hóa, gây tiêu chảy, tỷ lệ chết cao.

Việc cố định đầu vú cho lợn con nên bắt đầu ngay từ khi cho chúng bú

sữa đầu, theo quy luật tiết sữa của lợn nái thì lượng sữa tiết ra ở các vú phần

ngực nhiều hơn vú ở phần bụng, mà lợn con trong ổ thường có con to, con nhỏ

không đều nhau. Nếu để lợn con tự bú thì những con to khỏe thường tranh bú ở

những vú ngực, có nhiều sữa hơn và dẫn tới tỷ lệ đồng đều của đàn lợn con rất

thấp, có trường hợp những con lợn yếu không tranh được bú sẽ bị đói, làm tỷ lệ

chết của lợn con cao. Khi cố định đầu vú, nên ưu tiên những con lợn nhỏ yếu

được bú phía trước ngực. Công việc này đòi hỏi phải kiên trì, tỷ mỉ bắt từng

con cho bú nhiều lần trong một ngày (7 - 8) lần, làm liên tục trong 3 - 4 ngày để

chúng quen hẳn với vị trí mới thôi. Cũng có trường hợp số lợn con đẻ ra ít hơn

số vú thì những lợn vú phía sau có thể cho mỗi con làm quen 2 vú, để vừa tăng

cường lượng sữa cho lợn con, vừa tránh bị teo vú cho lợn mẹ.

Nếu cố định đầu vú tốt thì sau 3 - 4 ngày lợn con sẽ quen tự bú ở các vú

quy định cho nó, lợn con quen nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào thế nằm

của lợn mẹ, nếu lợn mẹ thường xuyên nằm quay về một phía khi cho con bú

thì lợn con nhận biết vú quy định của nó sớm hơn. Ngược lại, nếu lợn mẹ nằm

thay đổi vị trí liên tục thì lợn con sẽ chậm nhận biết hơn.

Theo Duy Hùng (2011) [15], vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng

ngày bằng dung dịch sát trùng. Bấm nanh cho lợn con mới sinh, nên cho lợn

con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống đủ

chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm để hạn chế nguy cơ

thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những vú bị

viêm. Dùng các phương pháp chườm nóng, xoa bóp nhẹ lên vùng bị sưng.

37

Nếu ghép lợn con với lợn mẹ khác mẹ thì trước khi ghép phải phun

erezyl cho cả đàn con cũ và mới mới không để lợn mẹ phát hiện, những con

mới ghép cũng phải cố định vú bú.

Bổ sung sắt cho lợn con

Trong những ngày đầu, khi lợn con chưa ăn được, lượng sắt mà lợn con

tiếp nhận từ nguồn sữa mẹ không đủ nhu cầu của cơ thể, vì vậy lợn con cần

được bổ sung thêm sắt.

Nhu cầu sắt cần cung cấp cho lợn con 30 ngày đầu sau đẻ là 210 mg.

Trong đó, lượng sắt cung cấp từ sữa chỉ đạt 1 - 2 mg/ngày (36 - 60 mg/30

ngày), lượng sắt thiếu hụt cho một lợn con khoảng 150 - 180 mg, vì vậy mỗi

lợn con cần cung cấp thêm lượng sắt thiếu hụt. Trong thực tế thường cung cấp

thêm 200 mg.

Nên tiêm sắt cho lợn con trong 3 - 4 ngày sau khi sinh. Việc tiêm sắt

thường làm với các thao tác khác để tiết kiệm công lao động. Nếu cai sữa lúc

3 tuần tuổi, tiêm 1 lần 200 mg là đủ. Nếu cai sữa sau 3 tuần tuổi, nên tiêm 200

mg sắt tiêm 2 lần. Lần 1: 3 ngày tuổi tiêm 100 mg, lần 2: 10 - 12 ngày tuổi

tiêm 100 mg.

Tập cho lợn ăn sớm

Mục đích: Bù đắp phần dinh dưỡng thiếu hụt cho nhu cầu sinh trưởng

phát triển của lợn con khi sản lượng sữa mẹ giảm sau 3 tuần tiết sữa; Rèn

luyện bộ máy tiêu hóa của lợn con sớm hoàn thiện về chức năng, đồng thời

kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển nhanh hơn về kích thước và khối lượng;

Giảm bớt sự nhấm nháp thức ăn rơi vãi của lợn con để hạn chế được các bệnh

đường ruột của lợn con; Giảm bớt sự khai thác sữa mẹ kiệt quệ và giảm tỷ lệ

hao mòn của lợn mẹ, từ đó lợn mẹ sớm động dục trở lại sau khi cai sữa lợn

con; Tránh sự cắn xé bầu vú lợn mẹ, hạn chế bệnh viêm vú; Có điều kiện để

cai sữa sớm cho lợn con, tăng hệ số quay vòng lứa đẻ/nái/năm.

38

Phương pháp tập ăn sớm: Khi lợn con được 4 - 5 ngày tuổi, ta nên tiến

hành cho lợn con làm quen với thức ăn. Thức ăn tập ăn phải đảm bảo có tính

kích thích thèm ăn cao. Cần lựa chọn loại thức ăn, các chất phụ gia, cũng như

phương pháp chế biến sao cho kích thích sự thu nhận thức ăn của lợn con.

Lợn con thường rất thích ăn thức dạng viên hay bột nhỏ khô, những thức ăn

này thường là các loại tấm, bắp, đậu nành được rang xay để tạo mùi thơm.

Phải cho lợn con làm quen với nguồn glucid, lipid và protid của các loại thực

liệu thông thường để hệ tiêu hóa của lợn con sớm bài tiết các enzyme tiêu hóa

thích hợp.

2.2.7. Cai sữa cho lợn con

Điều kiện cai sữa cho lợn con

Phải chủ động nguồn thức ăn. Thức ăn cần phải có phẩm chất tốt, giá

trị dinh dưỡng cao và cân đối.

Sức khỏe của lợn con và lợn mẹ phải tốt.

Lợn con phải ăn tốt và tiêu hóa tốt các loại thức ăn.

Cần phải có trang thiết bị đầy đủ, đúng kỹ thuật.

Người chăn nuôi phải có tay nghề, tinh thần trách nhiệm cao.

Các hình thức cai sữa

Cai sữa thông thường: Cai sữa từ 42 - 60 ngày tuổi. Ưu điểm: Lợn con

biết ăn tốt, thức ăn yêu cầu không cao lắm, lợn con khỏe mạnh hơn, khả năng

điều tiết thân nhiệt tốt hơn nên chăm sóc dễ dàng hơn. Nhược điểm: Khả năng

sinh sản thấp, chi phí cho 1kg khối lượng lợn con cao, tỷ lệ hao mòn lợn mẹ

lớn hơn.

Cai sữa sớm: Cai sữa từ 21 đến 28 ngày tuổi. Ưu điểm: Nâng cao sức sinh

sản của lợn nái (nâng cao số lứa đẻ lên 2,33 lứa/ năm so với 2,19 lứa/ năm),

tránh được một số bệnh truyền nhiễm từ mẹ sang con, giảm chi phí thức ăn/1kg

tăng khối lượng lợn con (20% so với cai sữa thông thường), giảm tỷ lệ hao mòn

39

lợn mẹ. Nhược điểm: Đòi hỏi thức ăn phải có chất lượng tốt, người chăm sóc

nuôi dưỡng phải nhiệt tình với công việc và có nhiều kinh nghiệm.

Kỹ thuật cai sữa

Ngày đầu: Tách mẹ từ 7 giờ sáng, buổi trưa cho về với lợn con, 13 giờ

tách lợn mẹ đến 17 giờ lại cho lợn mẹ về với lợn con.

Ngày thứ 2: Buổi sáng tách lợn mẹ đi, buổi chiều 17 giờ cho lợn mẹ về

với lợn con.

Ngày thứ 3: Buổi sáng tách hẳn lợn mẹ với lợn con, không gây ảnh

hưởng tới lợn con.

Trước cai sữa 2 - 3 ngày cần giảm số lần bú của lợn con.

Giảm thức ăn cho lợn mẹ trước khi cai sữa 1 - 2 ngày.

Phương pháp cho lợn con ăn

Cho ăn nhiều bữa trong ngày, 5 - 6 bữa/ngày thì có tốc độ tăng trọng

cao hơn 3 bữa/ngày. Tuy nhiên, cho ăn nhiều bữa trong ngày sẽ tốn công lao

động trong chăn nuôi. Từ đó người chăn nuôi cần lựa chọn số bữa thích hợp

để cho lợn con ăn.

Cho lợn con ăn đúng giờ quy định và tập cho lợn con những phản xạ có

điều kiện về tiêu hóa.

Cho lợn con ăn từ từ để tránh vung vãi ra ngoài và hạn chế được lợn

con mắc các bệnh về đường tiêu hóa.

Cho lợn con ăn đúng tiêu chuẩn và khẩu phần ăn. Theo dõi sức khỏe để

điều chỉnh khẩu phần và tiêu chuẩn cho chúng.

2.2.8. Một số biện pháp phòng bệnh cho lợn con theo mẹ

Vệ sinh phòng bệnh

- Vệ sinh chuồng trại

Ngăn cách khu vực chăn nuôi lợn với các súc vật khác như: chó, mèo…

40

Rửa và phun thuốc sát trùng chuồng trại sạch sẽ ít nhất 3 - 7 ngày trước

khi thả lợn vào chuồng.

Hàng ngày phải quét phân trong chuồng, giữ cho chuồng luôn khô ráo,

sạch sẽ.

Xử lý xác chết gia súc nghiêm ngặt: chôn sâu hoặc đốt...

Nên có kế hoạch rửa chuồng, phun thuốc sát trùng và diệt ruồi, muỗi 2

lần/ tuần.

- Vệ sinh thức ăn và nước uống

Thường xuyên kiểm tra thức ăn trước khi cho lợn ăn, thức ăn phải đảm

bảo chất lượng, không bị mốc...

Nếu sử dụng thức ăn trộn thì định kỳ phải trộn kháng sinh để phòng

bệnh cho lợn.

Nước uống phải đủ, sạch, không bị nhiễm bẩn.

Tiêm Vaccine phòng bệnh

Bên cạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, cần phòng những bệnh thông

thường như dịch tả, cầu trùng, khô thai, giả dại… lịch tiêm phòng tại trại cụ

thể như sau:

41

Bảng 2.1: Lịch phòng bệnh của trại lợn nái

Vắc xin/

Đường

Liều

Phòng

Loại lợn

Tuần tuổi

thuốc/chế

đưa

lượng

bệnh

phẩm

thuốc

(ml/con)

2 - 3 ngày

Thiếu sắt

Fe + B12

Tiêm

1

Lợn con

3 - 6 ngày

Cầu trùng

Totrazil

Uống

1

16 - 18 ngày

Dịch tả

Coglapest Tiêm bắp

2

24 tuần tuổi

Tai xanh

PRRS

Tiêm bắp

2

25, 29 tuần tuổi Khô thai

Pavo

Tiêm bắp

2

Lợn hậu bị

26 tuần tuổi

Dịch tả

Coglapest Tiêm bắp

2

27, 30 tuần tuổi Giả dại

Begonia

Tiêm bắp

2

28 tuần tuổi

LMLM

Aftopor

Tiêm bắp

2

10 tuần chửa

Dịch tả

Coglapest Tiêm bắp

2

Lợn nái

sinh sản

12 tuần chửa

LMLM

Aftopor

Tiêm bắp

2

(Nguồn: phòng kỹ thuật công ty TNHH Japfa ComFeed Việt Nam)

Định kỳ hàng năm vào tháng 4, 8, 12 tiêm phòng bệnh tổng đàn vắc xin

giả dại Begonia, tiêm bắp 2 ml/con.

Đối với lợn đực: Lợn đực hậu bị mới nhập về: 3 tuần tiêm phòng vắc

xin dịch tả Coglapest, 4 tuần tiêm phòng vắc xin lở mồng long móng Aftopor,

vắc xin giả dại Begonia. Lợn đực đang khai thác tiêm phòng vào tháng 5,

tháng 11 vắc xin dịch tả Coglapest. Tháng 4, 8, 12 tiêm phòng vắc xin lở

mồng long móng Aftopor, vắc xin giả dại Begonia.

2.3. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước

2.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Việc nghiên cứu về giai đoạn lợn con theo mẹ và sau cai sữa được

nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Giai đoạn lợn con theo mẹ có đặc

điểm là lợn con sinh ra không được cung cấp nguồn dinh dưỡng trực tiếp như

42

khi còn là bào thai. Bộ máy tiêu hóa chưa hoàn thiện, môi trường sống thay

đổi, lượng sắt do mẹ cung cấp giảm dần, lợn con dễ mắc bệnh đặc biệt là bệnh

đường tiêu hóa.

Theo Trần Cừ (1996) [4], cần tập cho lợn con ăn sớm, vừa bổ sung

thêm chất dinh dưỡng, vừa có tác dụng bổ sung thêm chất tiết dịch vị, tăng

hàm lượng HCl và enzyme vừa kích thích sự phát triển của dạ dày và ruột để

thích ứng kịp thời với chế độ ăn sau cai sữa.

Theo Nguyễn Quang Linh (2005) [20], lợn con trong giai đoạn bú sữa

có khả năng sinh trưởng và phát dục rất nhanh. Từ lúc sơ sinh đến khi cai sữa

trọng lượng của lợn con tăng 10 - 12 lần. So với các gia súc khác thì tốc độ

sinh trưởng của lợn con tăng nhanh hơn gấp nhiều lần.

Tốc độ sinh trưởng của lợn con là không đồng đều. Lợn sinh trưởng

nhanh nhất trong 21 ngày đầu sau đó tốc độ sinh trưởng giảm dần. Sở dĩ như

vậy là do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do lượng sữa của lợn mẹ bắt

đầu giảm. Sản lượng sữa mẹ tăng dần từ khi mới đẻ ra cho tới khi lợn con 15

ngày tuổi, lúc này hàm lượng sữa mẹ đạt cao nhất và ổn định cho tới ngày thứ

20, sau đó thì giảm dần. Lợn con trong giai đoạn này sinh trưởng và phát dục

nhanh nhất, do đó nhu cầu dinh dưỡng yêu cầu ngày càng cao trong khi hàm

lượng sữa mẹ thì giảm dần, dẫn tới lợn con thiếu dinh dưỡng nếu không có

thức ăn bổ sung.

Theo Trần Cừ (1992) [3], song song với sự phát triển của cơ thể thì các

cơ quan bộ phận, hàm lượng các chất dinh dưỡng, các thành phần của cơ thể

cũng có sự thay đổi nhanh chóng. Hàm lượng nước trong cơ thể giảm dần,

biểu thị bằng tỷ lệ giữa nước so với trọng lượng sống như sau: Lúc sơ sinh tỷ

lệ này là 77,88%, lúc 7 ngày tuổi là 68,52%, lúc 14 ngày tuổi là 63,94%. Tỷ lệ

nước giảm nhưng tỷ lệ các chất dinh dưỡng so với trọng lượng cơ thể lại tăng.

43

Tỷ lệ Pr với trọng lượng cơ thể sống lúc mới sinh là 11,2%, đến lúc 7

ngày tuổi là 13,57%, đến 14 ngày tuổi là 14,37%.

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [27], lợn con cho bú sữa có tốc độ

sinh trưởng phát triển nhanh nhưng không đều qua các giai đoạn, tốc độ

nhanh nhất là 21 ngày đầu, sau 21 ngày tốc độ giảm xuống có sự giảm này là

do nhiều nguyên nhân song chủ yếu là do lượng sữa của lợn mẹ bắt đầu giảm

xuống, hàm lượng trong máu của lợn con bị giảm. Bị giảm tốc độ phát triển

thường kéo dài 2 tuần và còn là giai đoạn khủng hoảng của lợn con tập ăn

sớm để bổ sung thức ăn cho lợn con trong giai đoạn này.

Lê Văn Thọ (2007) [34] cho rằng, việc sử dụng kích tố có khả năng kích

thích quá trình tạo máu để duy trì và thúc đẩy quá trình phát triển của gia súc.

Theo Đặng Minh Phước và cs (2006) [28], bổ sung chế phẩm axit hữu

cơ có thành phần axit lactic, formic, photphoric với tỷ lệ 0,3 - 0,5% vào thức

ăn lợn con sau cai sữa ở giai đoạn 42 - 56 ngày tuổi đã có tác dụng cải thiện

tăng khối lượng từ 4,75% - 10,29%. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng giảm

từ 7,57% - 8,11%. Tỷ lệ tiêu chảy giảm từ 33,78% - 49,23% so với đối chứng.

Công ty Pig Việt Nam (1998) [29], đã khẳng định rằng: Dù cho lợn nái

ăn tốt và nhiều sữa thì vẫn nên cho lợn con dùng cám tập ăn sớm để tăng khối

lượng sau cai sữa, thêm vào đó giúp lợn con làm quen với cám khô sau khi

cai sữa 3 - 4 tần tuổi. Cho lợn con tập ăn sớm ở 7 ngày tuổi, dùng loại máng

ăn nhỏ, nhẹ, dễ cọ rửa. Cho lợn con ăn bằng cách rải một ít cám phía trước,

tạo cho chúng niềm vui thích và mong muốn được ăn, không để máng ăn trực

tiếp dưới bóng đèn sưởi và gần vòi uống.

Cho lợn tập ăn 3 - 4 lần/ ngày, dần tăng lượng cám lên, cung cấp nước

uống thường xuyên cho lợn con.

Công ty Cargill tại Việt Nam (2003) [2], đưa ra lý do mà các nhà chăn

nuôi cần phải cho lợn tập ăn sớm từ 7 - 10 ngày là: Sau 21 ngày tiết sữa,

44

lượng sữa mẹ bắt đầu giảm dần. Nên chỉ đáp ứng được 95% nhu cầu dinh

dưỡng cho lợn con; Cho lợn tập ăn sớm, thức ăn tập ăn sớm sẽ kích thích hệ

tiêu hóa lợn con sớm phát triển. Điều đó giúp lợn con khi cai sữa sẽ ăn, tiêu

hóa và hấp thu tốt thức ăn và làm giảm được sự hao hụt lợn mẹ; Tránh được

nguy cơ lợn mẹ bị yếu chân, bại liệt và giảm số con đẻ ở những lứa đẻ tiếp

theo; Rút ngắn được thời gian chờ phối của lợn nái, làm giảm chi phí thức ăn

cho lợn nái trong thời gian này; Tăng nhanh lứa đẻ, số lợn con thu được của

một nái trên năm.

2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Sokol (1981) [44], cho rằng, vi khuẩn E. coli cộng sinh có mặt thường

trực trong đường ruột của người và động vật, trong quá trình sống vi khuẩn có

khả năng tiếp nhận các yếu tố gây bệnh như: yếu tố bám dính (K88, K99), yếu tố

dung huyết (Hly), yếu tố cạnh tranh (Colv), yếu tố kháng kháng sinh (R) và các

độc tố đường ruột. Các yếu tố gây bệnh này không được di truyền qua ADN

của chromosome mà được di truyền qua ADN nằm ngoài chromosome gọi là

plasmid. Những yếu tố gây bệnh này đã giúp cho vi khuẩn E. Coli bám dính

vào nhung mao ruột non, xâm nhập vào thành ruột, phát triển với số lượng lớn.

Sau đó vi khuẩn thực hiện quá trình gây bệnh của mình bằng cách sản sinh độc

tố, gây hội chứng tiêu chảy, phá huỷ tế bào niêm mạc ruột.

Smith (1967) [43], thông báo có 2 loại độc tố là thành phần chính của

Enterotoxin được tìm thấy ở các vi khuẩn gây bệnh. Sự khác biệt của độc tố

này là độc tố chịu nhiệt (Heat Stabletoxin - ST) chịu được nhiệt lớn hơn

1000C trong 15 phút, còn độc tố không chịu nhiệt (Heat labiletoxin - LH) bị

vô hoạt ở nhiệt độ 600C trong 15 phút.

Glawisching E. và cs (1992) [40], xác định Clostridium perfringens

type A và type C là một trong những nguyên nhân gây tiêu chảy và đã gây

thiệt hại kinh tế lớn cho người chăn nuôi.

45

Akita (1993) [38], đã nghiên cứu sản xuất kháng thể đặc hiệu qua lòng

đỏ trứng gà dùng trong phòng và chữa bệnh tiêu chảy ở lợn con. Cùng với sự

phân lập và nghiên cứu các yếu tố gây bệnh của E. Coli, việc nghiên cứu và

sản xuất các chế phẩm phòng tiêu chảy ở lợn cũng được các nhà khoa học

trên thế giới đặc biệt quan tâm.

46

PHẦN 3

ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH

3.1. Đối tượng và phạm vi thực hiện

Đối tượng: Lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ nuôi tại trang trại

Thanh Vân, Tam Dương, Vĩnh Phúc.

Phạm vi nghiên cứu: Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị các

bệnh gặp trên lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ.

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành

Địa điểm: Trại Thanh Vân, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc

Thời gian: 18/05/2017 đến 18/11/2019

3.3. Nội dung thực hiện

Đánh giá tình hình chăn nuôi lợn tại trại lợn giống Thanh Vân - huyện

Tam Dương - tỉnh Vĩnh Phúc.

Thực hiện quy trình và đánh giá kết quả áp dụng quy trình chăm sóc,

nuôi dưỡng cho lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ.

Đánh giá kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho lợn nái sinh

sản và lợn con theo mẹ.

Đánh giá kết quả chẩn đoán và điều trị một số bệnh cho lợn nái sinh sản

và lợn con theo mẹ tại trại.

Thực hiện một số công việc khác của trại.

3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi

Các chỉ tiêu theo dõi

Cơ cấu đàn lợn của trại trong 3 năm (2017 - 6/2019).

Số lượng lợn con trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trong 6 tháng thực tập.

Công tác chăm sóc nuôi dưỡng lợn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ.

47

Công tác phòng bệnh bằng vệ sinh thú y.

Công tác phòng bệnh bằng vắc xin.

Tình hình mắc bệnh ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi.

Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh ở lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi.

Kết quả thực hiện các công tác khác..

3.4.2. Phương pháp thực hiện

3.4.2.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại.

Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, chúng tôi tến hành thu thập

thông tin từ trại kết hợp với kết quả điều tra, theo dõi của bản thân.

3.4.2.2. Phương pháp áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái

Chúng tôi sử dụng quy trình đang được áp dụng cho đàn lợn nuôi tại

trại và theo dõi, đánh giá hiệu quả.

Hằng ngày trước khi vào chuồng làm việc công nhân cũng như sinh

viên tất cả mọi người đều phải đi qua phòng sát trùng và tắm rửa sạch sẽ mặc

quần áo lao động, đi ủng rồi mới vào chuồng. Tất cả các dụng cụ, thuốc,...

trước khi mang lên chuồng phải được hấp qua tia uv.

Kiểm tra bóng đèn, quạt, lợn con, lợn nái khi nhận bàn giao ca giữa ca

ngày với ca đêm.

Phun sát trùng 2 lượt/ ngày. Phun bằng thuốc khử trùng GPC8

(Glutaraldehyde 12%, Nonionic Surfactant 8%, Quaternary Ammonium 4%,

Phosphoric Acid 0,8%), tỷ lệ 1:400

Thu phân, rắc vôi hành lang và khu vực quanh chuồng.

Đối với nái chửa

Đánh thức lợn, thu dọn tránh lợn nằm đè phân.

Vệ sinh máng ăn bằng nước pha thuốc sát trùng tỷ lệ 1: 500

Cho ăn cám 150F, giảm khẩu phần ăn.

Lau sàn nhựa, làm ổ úm lợn con sẵn.

48

Lau vú và tắm bằng chế phẩm sinh học.

Đối với lợn đẻ

Lợn nái chửa được chuyển lên chuồng đẻ trước ngày đẻ dự kiến 7 - 10

ngày. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được dọn dẹp, sát

trùng và cọ, rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên

bảng ở đầu mỗi ô chuồng. Thức ăn của lợn chờ đẻ được cho ăn với tiêu chuẩn

ăn 3 kg/ngày, chia làm 2 bữa sáng, chiều.

Đánh thức lợn, cào phân tránh lợn nằm đè phân. Nếu lợn bị đè phân phải

cọ mông, tắm sạch sẽ và lau sàn bằng nước pha thuốc sát trùng tỷ lệ 1:500.

Vệ sinh máng ăn.

Lợn nái chửa trước ngày đẻ dự kiến 3 ngày, ăn thức ăn 160 - O với tiêu

chuẩn ăn xuống 1,5 kg/ con/ bữa.

Đỡ đẻ cho lợn nái đang đẻ.

Vắt sữa đầu nái đẻ cho lợn còi uống, 100% các nái đẻ phải được vắt sữa

đầu để kích thích tiết oxytocine.

Thường xuyên lau vú cho lợn nái bằng nước ấm pha sát trùng để tránh

viêm vú tắc sữa.

Lợn đang đẻ không cho ăn, sau đẻ tăng dần khẩu phần ăn.

Cho ăn cám 160F và bổ sung thuốc bổ vào khẩu phần.

Lau vú và cọ mông lợn mẹ bằng nước pha thuốc sát trùng GPC8

(Glutaraldehyde 12%, Nonionic Surfactant 8%, Quaternary Ammonium 4%,

Phosphoric Acid 0,8%) theo tỷ lệ 1:500.

Lau sàn ngày 2 lần sáng/chiều.

Khi lợn nái đẻ được 2 ngày tăng dần lượng thức ăn 160 - F từ 0,5 - 1

kg/ con/ ngày chia làm hai bữa sáng, chiều. Đối với nái nuôi con quá gầy hoặc

nuôi nhiều con có thể cho ăn tăng lượng thức ăn lên 2 kg/ con/ ngày.

49

Kỹ thuật đỡ đẻ cho lợn

Sau khi lợn mẹ đẻ, lấy lợn con từ trong chuồng ra.

Vuốt hết dịch vùng đầu và mặt. Vuốt hết màng bọc và nhớt ở phần thân

và chân lợn. Sau đó thả lợn vào khay bột mistra lăn qua cơ thể giúp lợn con

giữ ấm và chống lại một số mầm bệnh từ môi trường.

Cầm lợn con và dây buộc rốn, thắt dây rốn ở vị trí cách cuống rốn

2,5cm, dùng kéo cắt phần bên ngoài nút thắt một đoạn bằng 1/2 bên trong nút

buộc khoảng 1,5 cm. Sát trùng dây rốn, vùng cuống rốn bằng cồn iod.

Cho lợn con vào lồng úm, nhiệt độ lồng úm phải để ở mức 33 - 350C.

Trước khi cho lợn con ra bú cần lau sạch vú lợn mẹ, lót thảm cho lợn

con ra bú.

Phải trực liên tục cho đến khi lợn nái đẻ xong hoàn toàn, nhau ra hết,

lợn nái trở về trạng thái yên tĩnh và cho con bú.

Truyền dịch cho nái

Dùng 3 chai muối sinh lý 0,9% pha với 25ml Calphoject + 20ml

DunFafosfan 10% + 20 ml Gentamycine + 10 ml metabol truyền cho nái khi

đẻ. Thao tác nhẹ nhàng, tìm tĩnh mạch tai, luồn kim vào tĩnh mạch khi máu

lên thì cắm dây truyền vào rồi điều chỉnh đảm bảo khi truyền không bị phồng

mạch, lợn không bị sốc.

Khi thao tác trên lợn con em đã rút ra được một số kinh nghiệm như:

đỡ đẻ phải thao tác nhanh để không làm lợn con đau đớn, kêu la gây ảnh

hưởng tới con nái đang đẻ, lợn con buộc dây rốn phải chắc, vì nếu buộc chưa

chắc sau khi cắt dây rốn máu sẽ chảy ra, gây thiếu máu cho lợn con. Khi mài

nanh, bấm số tai, thiến lợn đực phải tiến hành nhẹ nhàng vì lợn con còn rất

nhỏ và yếu, nên tiến hành mài nanh, bấm số tai ngay sau khi đẻ 1 ngày và

thiến lợn đực sau đẻ 3 ngày vì nếu mài nanh, bấm số tai và thiến quá muộn thì

lợn con dễ mất máu nhiều, vết thương khó lành hơn và lợn con quá to gây khó

khăn cho việc cố định.

50

Mài nanh, xăm số tai, cắt đuôi và tiêm chế phẩm Fe - Dextran - B12 cho lợn

con

Lợn con sau khi bú mẹ sức khỏe tốt hơn, cứng cáp hơn sẽ được tiến hành

mài nanh, bấm số tai, cắt đuôi, tiêm kháng sinh và chế phẩm Fe - Dextran -

B12. Thường thì chế phẩm Fe - Dextran - B12 sẽ được tiêm vào 3 ngày tuổi

sau khi lợn con sinh với liều lượng 1 - 2 ml/con, nhưng để tránh gây strees cho

lợn con và tiện cho các thao tác kỹ thuật thì trại thực hiện các công việc đó

cùng một lúc. Sắt sẽ được tiêm bổ sung lần 2 vào 7 - 10 ngày tuổi nếu thấy cần

thiết. Số tai của lợn con sẽ được bấm theo mã số của trại.

Thiến lợn đực

Đối với lợn đực nuôi thịt ta cần thiến càng sớm càng tốt. Thông thường

trong chăn nuôi lợn nái sinh sản thường thiến lợn vào 7 - 10 ngày tuổi. Nhưng

thực tế trại thực hiện thiến lợn đực vào ngày thứ 3 - 5 sau khi sinh.

Trước khi thiến lợn đực cần chuẩn bị dụng cụ thiến đầy đủ gồm: dao

thiến, cồn sát trùng, panh kẹp, bông gòn, khăn vải sạch, xi - lanh tiêm và

thuốc kháng sinh.

Thao tác: đầu tiên là tiêm cho lợn con 1ml/ con kháng sinh (pendistrep

LA). Sau đó người thiến ngồi ghế cao và kẹp lợn con vào giữa 2 đùi sao cho

đầu của lợn con hướng xuống dưới. Một tay nặn sao cho dịch hoàn nổi rõ, tay

còn lại cầm dao rạch hai vết đứt vào chính giữa của mỗi bên dịch hoàn. Dùng

2 tay nặn dịch hoàn ra ngoài rồi lấy panh kẹp thừng dịch hoàn vào giật dịch

hoàn ra, dùng khăn sạch lau vùng dịch hoàn, bôi cồn vào vị trí thiến.

3.4.2.3. Công tác vệ sinh

Chuồng nuôi luôn được vệ sinh sạch sẽ, chuồng được tiêu độc bằng

thuốc sát trùng GPC8 2 lần/ngày, pha với tỷ lệ 1:200 (1 lít GPC8

Glutaraldehyde 12%, Nonionic Surfactant 8%, Quaternary Ammonium 4%,

Phosphoric Acid 0,8%) trong 200 lít nước, 200 ml cho 10 lít nước) hoặc sử

51

dụng nước vôi trong để xịt gầm 1 lần/ ngày tùy thuộc vào loại tác nhân gây

bệnh của trại.

Ở các chuồng đẻ sau khi cai sữa, lợn mẹ được chuyển lên chuồng bầu

(khu vực cai sữa). Sau khi xuất lợn con, các tấm đan chuồng này được tháo ra

ngâm ở hố sát trùng bằng dung dịch NaOH 10%, ngâm trong 1 ngày sau đó

được cọ sạch, phơi khô. Khung chuồng cũng được cọ sạch, xịt bằng dung dịch

NaOH pha với nồng độ loãng, sau đó xịt lại bằng dung dịch vôi xút. Gầm

chuồng cũng được vệ sinh sạch sẽ, tiêu độc khử trùng kĩ, sau đó rắc vôi bột.

Để khô 1 ngày rồi tiến hành lắp đan vào, sau đó đuổi lợn chờ đẻ từ chuồng

bầu xuống. Lịch sát trùng mà tôi đã tiến hành được trình bày qua bảng 3.1.

Bảng 3.1: Lịch sát trùng trại lợn nái

Trong chuồng Ngoài Ngoài khu vực Thứ Chuồng Chuồng chuồng Chuồng đẻ chăn nuôi cách ly Bầu

Phun sát CN Phun sát trùng trùng

Quét Phun sát Phun sát Phun sát trùng Phun sát Thứ 2 hoặc rắc trùng toàn trùng toàn + rắc vôi trùng vôi đường đi bộ khu vực bộ khu vực

Quét hoặc Phun sát Phun sát trùng + Thứ 3 rắc vôi trùng quét vôi đường đi đường đi

Xả vôi Thứ 4 Phun sát trùng Rắc vôi Rắc vôi xút gầm

Phun sát trùng Thứ 5 Phun ghẻ Phun ghẻ + Xả vôi, xút gầm

52

Phun sát Phun sát trùng Phun sát Phun sát Phun sát Thứ 6 trùng + Rắc vôi trùng trùng trùng

Vệ sinh Vệ sinh Vệ sinh tổng Vệ sinh Thứ 7 tổng tổng chuồng chuồng tổng khu chuồng

(Theo hướng dẫn của Phòng kỹ thuật công ty Japfa Comfeed Vietnam)

3.4.2.4. Chẩn đoán và điều trị bệnh gặp trên đàn lợn con theo mẹ nuôi tại trại

Để xác định được tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con từ sơ sinh dến

21 ngày tuổi nuôi tại trại, hằng ngày em và cán bộ kỹ thuật tiến hành theo dõi,

quan sát những biểu hiện của đàn lợn con thông qua các bước sau:

Kiểm tra tình trạng ăn uống

Bằng cách trực tiếp quan sát, theo dõi con vật hằng ngày.

Trạng thái cơ thể bình thường: con vật ăn uống bình thường, vận động

nhanh nhẹn.

Trạng thái bệnh lý: Ăn uống giảm hoặc bỏ ăn, bỏ bú, kém vận động,

nằm một chỗ.

Kiểm tra thân nhiệt

Quan sát cảm nhận bằng tay

Trạng thái bình thường: Toàn thân lợn con có màu trắng hồng bình

thường không đỏ, lông mượt, dùng mu bàn tay sờ không thấy nóng.

Trạng thái bệnh lý: Toàn thân đỏ ửng, dùng mu bàn tay sờ thấy nóng

ran, lợn con ủ rủ.

Đo thân nhiệt qua trực tràng bằng nhiệt kế 430C. Trước khi đo nhiệt độ

phải vẩy nhiệt kế cho cột thủy ngân tụt xuống hết thang độ. Dùng bông tẩm

cồn lau nhiệt kế trước và sau khi sử dụng. Cho từ từ nhiệt kế vào trực tràng

theo hướng hơi xiên xuống dưới để tránh niêm mạc bị tổn thương. Để nhiệt kế

ở trực tràng từ 5 - 10 phút, rồi lấy ra xem nhiệt độ trên thang nhiệt kế. Trạng

53

thái bình thường: Thân nhiệt bình thường, ổn định 38 - 400C. Trạng thái bệnh

lý hơi sốt hoặc sốt cao 41 - 420C.

3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu

- Tỷ lệ lợn mắc bệnh: ∑ số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100 ∑ số con theo dõi

Số liệu được xử lý theo phương pháp nghiên cứu trong công nghiệp của

Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quốc, Nguyễn Duy Hoan (2008) [33].

- Tỷ lệ lợn khỏi:

∑ số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%)= x 100 ∑ số con điều trị

- Tỷ lệ tiêm phòng:

∑ số con được tiêm phòng Tỷ lệ tiêm phòng (%)= x100 ∑ số con lợn

- Tỷ lệ lợn con được thực hiện thao tác phẫu thuật:

∑ số con thực hiện phẫu thuật Tỷ lệ thực hiện (%)= x100 ∑ lợn con

PHẦN 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

54

4.1. Tình hình chăn nuôi nuôi tại trại lợn Thanh Vân - huyện Tam Dương

- tỉnh Vĩnh Phúc từ 2017 - 6/2019

Qua điều tra từ số liệu sổ sách theo dõi của trại thì cơ cấu đàn lợn nái

của trại 3 năm từ (2017 - 6/2019) gần đây được thể hiện ở bảng 4.1.

4.1.1. Kết quả sản xuất của cơ sở (từ 2017 - 6/2019)

Các chỉ tiêu và kết quả sản xuất của trang trại được trình bày chi tiết ở

Bảng 4.1.

Bảng 4.1: Cơ cấu sản xuất của trại lợn Thanh Vân (2017 - 6/2019)

Số lượng lợn qua các năm (con)

Loại lợn Năm 2019 Năm 2017 Năm 2018 (6 tháng đầu năm)

Nái hậu bị 320 280 200

Nái được phối 3120 3276 1664

Tổng lợn con sinh ra 35282 36972 18798

Tổng số lợn con 31000 34300 17800 cai sữa/ năm

(Nguồn: Bộ phận thống kê của trại Thanh Vân, Tam Dương, Vĩnh Phúc)

Số liệu bảng 4.1 cho thấy: số lượng lợn nái hậu bị nhập vào của trại

năm 2018 giảm so với năm 2017 do giá lợn năm 2018 giảm và cơ cấu đàn

đang dần ổn định. Mỗi năm trại nhập nái hậu bị 2 đợt, mỗi đợt từ 150 - 200

nái. Năm 2018 số lợn con tăng lên so với năm 2017 là 1690 con. Số lượng lợn

con chết và loại giảm đáng kể qua từng năm. Năm 2018 tổng số lợn con cai

sữa/ năm tăng so với năm 2017. Tổng số lượng con sinh của năm 2017 là

35282 con, trong khi đó 6 tháng của năm 2019 đạt 18798 con. Cũng như thế,

55

đối với lượng con cai sữa của năm 2017 là 31000 con trong khi đó 6 tháng

của năm 2019 đạt mức 17800 con.

4.2. Kết quả áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho lợn nái sinh

sản tại trại

Trong thời gian thực tập em đã trực tiếp chăm sóc đàn lợn, kết quả

được trình bày ở bảng 4.2.

4.2.1. Số lượng lợn con trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trong 6 tháng thực tập

Bảng 4.2: Số lượng nái trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng tại trại

(Đơn vị: con)

trong 6 tháng thực tập

Nái đẻ, Lợn con Lợn con Tháng nuôi con đẻ ra cai sữa

6 58 682 661

7 58 687 664

8 60 720 689

9 59 708 680

10 58 707 681

11 60 720 696

Tổng 353 4224 4071

Qua bảng 4.2 cho thấy, số lượng lợn nái và số lượng lợn con mà em

trực tiếp chăm sóc trong 6 tháng là 353 con lợn nái, đây là những lợn nái chửa

ở giai đoạn cuối 100 - 114 ngày, đã được chuyển lên chuồng nái đẻ để chờ đẻ

và tập làm quen với chuồng đẻ. Khi lợn chuyển lên chuồng đẻ thì thẻ nái được

gắn vào mỗi bảng theo dõi đầu ô chuồng, ghi ngày đẻ dự kiến, ghi bảng theo

dõi để tiện cho ăn và chuẩn bị đỡ đẻ.

Khi chăm sóc lợn nái bầu giai đoạn 1 tuần trước khi đẻ phải chú ý về

chế độ ăn của từng con lợn, khi cho lợn ăn phải nhìn vào bảng theo dõi của

56

từng con, nếu cho ăn quá nhiều hoặc quá ít đều ảnh hưởng tới bào thai. Tổng

số lợn con em trực tiếp chăm sóc trong 6 tháng tại chuồng đẻ là 4071 con.

4.2.2. Công tác chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn con trong 6 tháng thực tập

Mục đích của việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn con là đạt khối lượng cai

sữa cao. Sau khi sinh ra, lợn con chịu sự thay đổi môi trường sống, vì vậy cần

tạo điều kiện tốt nhất cho lợn con để tránh các yếu tố stress và giảm tỷ lệ chết

lúc sơ sinh.

Chuồng lợn đẻ phải ấm áp, sạch sẽ, khô ráo tránh gió lùa.

Lợn con mới đẻ, đỡ đẻ, thả vào khay bột mistra (đất sét, các lợi khuẩn

lactobacillus, quế) cho nhanh khô và giữ nhiệt cơ thể, cắt rốn. Sau đó thả vào

lồng úm, lợn khô bắt ra cho bú sữa đầu.

Mài nanh, bấm đuôi, xăm số tai, nhỏ octamix (kháng sinh phòng bệnh

tiêu chảy cho lợn con) liều 2ml/con, nhỏ 1 - 3 ngày tuổi để phòng các bệnh

đường hô hấp và tiêu hóa.

Chú ý đuổi lợn con vào lồng úm khi lợn mẹ ăn để giảm tỷ lệ chết do mẹ đè.

Thiến cho lợn đực con 3 ngày tuổi, tiêm sắt liều 1,5 ml/con, nhỏ cầu

trùng liều 1ml/con.

Thay thảm ướt, bẩn vào đầu buổi sáng và chiều.

Tập ăn cho lợn con từ 4 ngày tuổi bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh

Milac A, của công ty TNHH Japfa Comfeed Việt Nam.

Lợn con 4 ngày tuổi tiêm ADE để kích thích sinh trưởng.

Lợn con 10 - 14 ngày tuổi tiêm phòng Mycoplasma để phòng bệnh

xuyễn, tiêm bắp liều lượng 1ml/con.

Lau sàn 2 lần/ngày bằng nước pha với thuốc sát trùng GPC8

(Glutaraldehyde 12%, Nonionic Surfactant 8%, Quaternary Ammonium 4%,

Phosphoric Acid 0.8%) theo tỷ lệ 1:400.

Ghép lợn con theo ngày đẻ và tầm vóc khối lượng cho cân đối.

57

Lợn con 21 - 26 ngày tuổi tiến hành cai sữa.

Sau khi tách mẹ, cho lợn con ăn cám Milac A trộn men tiêu hóa, cho

uống điện giải.

4.3. Kết quả thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho đàn lợn giai đoạn

từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tập tại trại

4.3.1. Công tác vệ sinh phòng bệnh

Sau đây là kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng trong 6 tháng thực tập tại

trại của em:

Bảng 4.3: Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại

Số lần Tỷ lệ Số Đơn vị Số lần Stt Công việc thực thực hiện lượng tính yêu cầu làm (%)

Vệ sinh chuồng trại 1 Lượt/ngày 156 156 100 1 hàng ngày

Phun sát trùng định

2 kỳ xung quanh 1 Lượt/tuần 24 19 79,16

chuồng trại

Phun sát trùng trong 3 2 Lượt/ngày 312 312 100 chuồng

Quét và rắc vôi 4 1 Lượt/ngày 156 156 100 đường đi

5 1 Tắm sát trùng Lượt/ngày 156 156 100

Kết quả bảng 4.3 cho thấy việc áp dụng quy trình vệ sinh, sát trùng

Phát quang cây, khơi 6 1 Lượt/tuần 24 11 45,8 thông cống rãnh

chuồng trại luôn được trại quan tâm và làm thường xuyên hàng ngày.

58

Theo quy trình của công ty thì khâu vệ sinh chuồng nuôi tại trại, phun

sát trùng chuồng nuôi được thực hiện 2 lần/ ngày. Vệ sinh tất cả phân, chất

thải hữu cơ trong chuồng, xịt gầm và đưa ra ngoài kho chứa phân, quét dọn

đường lấy phân và đường tra cám, quét mạng nhện xung quanh, lau sạch

máng ăn máng của lợn mẹ và lợn con. Trong thời gian thực tập 6 tháng tại cơ

sở, em đã trực tiếp tham gia làm công tác vệ sinh chuồng nuôi, phun sát trùng

trong chuồng được 312 lần.

Hàng ngày ngoài việc vệ sinh chuồng nuôi, em còn tiến hành rắc vôi và

quét đường đi: dùng vôi bột lấy rồi rắc đường lấy phân và đường tra cám từ

phía dưới quạt gió ngược lên giàn mát sau đó lấy chổi quét sạch.

Vào ngày thứ 7 hàng tuần, trại thường quy định cán bộ, nhân viên, công

nhân của toàn trại phải tham gia vào công việc phát quang bụi rậm, khơi thông

cống rãnh và phun sát trùng định kỳ toàn bộ khu vực chăn nuôi. Trong thời

gian thực tập em cũng đã tham gia thực hiện tổng số 11 lần. Trong trường hợp

nếu trại có dịch bệnh thì sẽ được tăng cường việc phun sát trùng lên hàng ngày.

Qua việc thực hiện nghiêm ngặt quy trình vệ sinh sát trùng chuồng trại,

và vệ sinh sát trùng đối với người chăn nuôi trước khi vào chuồng lợn, em nhận

thức được tầm quan trọng của việc vệ sinh sát trùng chuồng trại. Nếu người

chăn nuôi thực hiện tốt công việc này sẽ hạn chế được dịch bệnh cũng như

nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi, đồng thời bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng.

Tuy nhiên, hiệu quả của việc vệ sinh sát trùng chuồng trại đạt hiệu quả hay

không, còn phụ thuộc rất nhiều vào ý thức của người thực hiện, cũng như việc

lựa chọn phương pháp, cách thức thực hiện việc vệ sinh sát trùng chuồng trại.

4.3.2. Phòng bệnh bằng vắc xin

Quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lợn của trang trại được thực

hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra

trong cơ thể chúng miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của mầm

bệnh, tăng sức đề kháng cho cơ thể.

59

Ngoài việc phòng bệnh bằng công tác vệ sinh thú y, trại còn chủ động

tiêm phòng vắc xin cho lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi để tạo miễn dịch

chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh, tăng sức đề kháng cho cơ thể.

Quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lợn con theo mẹ của trang

trại được thực hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn

lợn con theo mẹ nhằm tạo ra trong cơ thể chúng miễn dịch chủ động, chống

lại sự xâm nhập của vi khuẩn, tăng sức đề kháng cho cơ thể.

Với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh, việc tiêm phòng vắc xin

là một việc làm bắt buộc. Tiêm vắc xin cho đàn lợn con theo mẹ sẽ tạo miễn

dịch đặc hiệu chủ động trong cơ thể chúng để chống lại sự xâm nhập của

mầm bệnh (vi rút, vi khuẩn), tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.

Nhận thức rõ vấn đề này, trại luôn luôn thực hiện quy trình tiêm phòng

vắc xin thường xuyên, nghiêm túc nhằm ngăn chặn dịch bệnh.

Thời gian tổ chức tiêm phòng thường vào buổi sáng khi thời tiết mát

mẻ. Công tác chuẩn bị và tiêm phòng được thực hiện một cách nghiêm túc,

cẩn thận. Trong thời gian thực tập, em đã cùng cán bộ kỹ thuật của trại tiến

hành tiêm phòng cho đàn lợn con theo mẹ đúng quy định. Kết quả được trình

bày qua bảng 4.4.

Bảng 4.4: Kết quả tiêm phòng vắc xin cho lợn con theo mẹ

Tổng số Số lợn được Tỷ lệ STT Ngày tuổi Vắc xin lợn theo phòng (%) dõi (con) (con)

Cầu trùng (uống) 4224 4224 1 100 3 – 4 Thiếu sắt 4224 4224 2 100

4 – 5 ADE 4224 4224 3 100

10 – 14 Hyogen 4071 4071 4 100

60

Kết quả bảng 4.4 cho thấy, trong thời gian thực tập số lợn con giai đoạn

từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi được nhỏ cầu trùng và tiêm phòng vắc xin suyễn,

100% số lợn con theo dõi đều được phòng bệnh theo đúng quy trình. Quá

trình sử dụng vắc xin phòng bệnh cho 4071 lợn con đều an toàn.

4.4. Kết quả chẩn đoán và điều trị một số bệnh cho lợn con giai đoạn từ

sơ sinh đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tập

4.4.1. Kết quả chẩn đoán bệnh trên đàn lợn con từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi

Trong thời gian thực tập chúng tôi đã tiến hành theo dõi chẩn đoán

bệnh cho lợn con theo mẹ. Kết quả được trình bày ở bảng 4.5.

Bảng 4.5: Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con nuôi tại trại

Số lợn con Số lợn con Triệu chứng điển hình Tỷ lệ Tên STT theo dõi mắc bệnh (%) bệnh (con) (con)

Ủ rũ, kém ăn, ỉa chảy phân

Phân lỏng, màu trắng có mùi hôi

trắng tanh, khắm, bụng hóp, gầy, 1 4224 559 13,23 lợn phân dính bết ở đít và khoeo.

con

Lợn con 3 đến 4 ngày tuổi

đi khập khiễng, khớp chân

sưng lên vào ngày 7 - 15 sau Viêm khi sinh, chết thường xảy ra 2 4224 60 1,42 khớp lúc 2 đến 5 tuần tuổi. Xảy ra

ở các vị trí như cổ chân, khớp

háng và khớp bàn chân.

61

Lợn con chậm lớn, lông xù,

hở xương sống, khi thở hóp Viêm 3 4224 320 7,58 bụng lại. Khi bị xua đuổi lợn phổi mới ho hoặc ho vào lúc sáng

sớm hay chiều tối.

Da đỏ ửng lên chủ yếu ở

vùng da mỏng như nách, bẹn, Viêm 4 4224 237 5,61 da bụng. Tiếp đến xuất hiện da các nốt màu nâu. Có dịch rỉ

viêm ở vùng da đầu và mặt.

5 Tổng 4224 1176 27,84

Qua bảng 4.5 cho thấy tình hình mắc bệnh trên đàn lợn con từ sơ sinh

đến 21 ngày tuổi tại trại ở mức độ thấp. Qua kết quả theo dõi 4224 con thì có

con mắc bệnh chiếm tỷ lệ 27,84%. Trong đó:

Bệnh phân trắng lợn con, số con theo dõi 4224 con thì có 559 con mắc

bệnh chiếm tỷ lệ 13,23%.

Đối với bệnh viêm khớp, số con theo dõi 4224 con thì có 60 con mắc

bệnh chiếm tỷ lệ 1,42%.

Đối với bệnh viêm phổi, số con theo dõi là 4224 con thì có 320 con mắc

bệnh chiếm tỷ lệ 7,58%.

Đối với bệnh viêm da, số con theo dõi là 4224 thì số con mắc bệnh là

237 chiếm tỷ lệ 5,61 %.

Như vậy trong 4 bệnh mà đàn lợn con bị mắc, cho thấy bệnh phân trắng

lợn con có tỷ lệ mắc cao nhất.

Sở dĩ tỷ lệ lợn con mắc bệnh phân trắng cao hơn các bệnh khác là do

khâu hộ lý sau khi lợn sinh chưa tốt, công nhân chưa có kinh nghiệm trong

62

chăm sóc lợn con, lợn mẹ trước và sau khi sinh chưa được tốt, bên cạnh đó

thời tiết thay đổi cũng ảnh hưởng rất lớn đến sức đề kháng của lợn con. Theo

Trần Đức Hạnh (2013) [13], lợn con ở một số tỉnh phía Bắc mắc tiêu chảy và

chết với tỷ lệ trung bình là 31,84 % và 5,37 %, tỷ lệ mắc tiêu chảy và chết

giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21- 40 ngày (30,97 %

và 4,93 %) và giảm ở giai đoạn từ 41- 60 ngày (30,27 % và 4,75 %). Như vậy

kết quả theo dõi về tỷ lệ mắc bệnh phân trắng của tôi là 34,6% phù hợp với

kết quả nghiên cứu của tác giả.

Bệnh viêm khớp cũng xảy ra nhưng với tỷ lệ thấp chiếm 1,42%. Bệnh

này được điều trị kịp thời thì kết quả khỏi bệnh rất cao. Nhưng nếu bệnh

không được điều trị sớm sẽ trở nên trầm trọng làm ảnh hưởng tới khả năng

sinh trưởng và phát triển của lợn con. Lợn con mắc bệnh khớp là 60 con

chiếm 1,42%. Do vệ sinh chuồng trại kém, khung chuồng sàn chuồng không

tốt gây tổn thương, do heo mẹ ít sữa heo con phải tranh bú, do nhiệt độ

chuồng lạnh, heo con nhiễm vi khuẩn Steptococcus hoặc Staphylococcus.

Bệnh viêm phổi hàng năm vẫn xảy ra nhưng với tỷ lệ rất thấp. Tỷ lệ

mắc bệnh ở lợn con theo mẹ thấp chủ yếu là do chế độ chăm sóc và vệ sinh

thú y tốt hơn, lợn con ít bị tiếp xúc trực tiếp với mầm bệnh xâm nhập từ ngoài

vào qua nhập lợn nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó trại đã thực hiện đầy đủ và

nghiêm túc lịch tiêm phòng bệnh bị Mycoplasma cho lợn con. Bệnh viêm

phổi lợn con chủ yếu do nhiệt độ úm, nhiệt độ chuồng nuôi không tốt để lạnh,

thời tiết thay đổi thất thường, do bị gió lùa liên tục trực tiếp vào lợn con,

chuồng nuôi thiếu thông thoáng hàm lượng khí amoniac quá cao, do lợn con

bú sữa đầu kém, do lợn mẹ sữa mẹ không có kháng thể phòng bệnh liên quan

đến hội chứng hô hấp, do mầm bệnh nhập vào theo lợn đực giống, hoặc do

công nhân không chủ động đưa lợn vào quây úm...

63

Trong quá trình chẩn đoán bệnh trên đàn lợn, em đã chú ý quan sát

những triệu chứng lâm sàng của những lợn mắc bệnh từ đó phân tích, trao đổi

để đưa ra kết luận về nguyên nhân mắc bệnh. Các triệu chứng lâm sàng chính

của một số bệnh trên đàn lợn tại trang trại được tổng hợp ở bảng 4.5.

Bệnh viêm da cũng là một trong những bệnh khó điều trị hay xảy ra

trên đàn lợn con sơ sinh nuôi tại trại, nguyên nhân do lợn mất cân bằng dinh

dưỡng, chuồng trại không khô thoáng, ẩm độ cao dẫn đến lợn con bị stress,

giảm miễn dịch hoặc do lợn con cắn nhau gây trầy da cơ học, vệ sinh kém nên

lợn bị nhiễm khuẩn từ môi trường. Bệnh do vi khuẩn Staphylococcus hyicus

gây ra chủ yếu. Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể làm tổn thương da, gây viêm

da, nhiễm trùng và nặng có thể dẫn đến chết.

64

4.4.2. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày

tuổi tại trại trong thời gian thực tập

Chúng tôi đã tiến hành điều trị cho những lợn con bị mắc bệnh trong

thời gian thực tập. Kết quả được trình bày ở bảng 4.6.

Bảng 4.6: Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn giai đoạn từ sơ sinh

đến 21 ngày tuổi trong thời gian thực tại trại

Số con

Số

Cách dùng

điều

con

Tỷ lệ

STT Tên bệnh

Thuốc

trị

khỏi

(%)

Liều lượng

(con)

(con)

Tiêm phúc mạc dung dịch

Phân trắng

muối sinh lý 0,9% + 10ml

10 - 20 ml/ con

559

542 96,96

1

lợn con

Syvaquinol + 5ml Atropin

+ 10ml Metabol

0,5ml/con,

Bệnh viêm

60

40

66,66

Pendistrep LA

2

tiêm bắp

khớp

Bệnh viêm

3

Dynamutilin

1ml/con, tiêm bắp

320

287 89,68

phổi

Pendistrep LA kết hợp

Bệnh viêm

tắm sát trùng, tắm phèn

0,5ml/ con,

4

da do tiết

237

169 71,30

+ chấm cồn Iod 10% vào

tiêm bắp

dịch

các vết viêm loét trên da

Bảng 4.6 cho thấy: Tiến hành điều trị 559 con lợn con mắc bệnh phân

trắng từ 3 – 5 ngày tuổi: nhỏ Octamic AC (thành phần Amocycillin và

colistin), dùng dung dịch tiêm phúc mạc Syvaquinol kết hợp Atropin liều 10 -

20 ml/con, không khỏi tiêm 0,2 – 0,3 ml Hyopen (thành phần penicillin) sau 3

ngày tiêm nhắc lại 1 lần (tác dụng của thuốc trong 72 tiếng), kết quả có

542/559 con khỏi đạt tỷ lệ 96,96%; sử dụng Pendistrep L.A liều 0,5 ml/con trị

65

bệnh viêm khớp 60 con thì có 40 con khỏi bệnh đạt tỷ lệ 66,66%; Điều trị 320

con mắc bệnh viêm phổi bằng Dynamutiline thì có 287 con khỏi bệnh chiếm

89,68%; Điều trị 237 con viêm da bằng phác đồ tắm phèn kết hợp tiêm

Pendistrep L.A thì 169 con khỏi chiếm 71,30%, 68 con chết hoặc bắt buộc

loại bỏ vì bị viêm mức độ quá nặng.

Như vậy, kết quả điều trị một số bệnh cho đàn lợn con từ sơ sinh đến 21

ngày tuổi đạt khá cao từ 66,66% đến 96,96%. Trong đó bệnh phân trắng lợn con

đạt kết quả cao nhất 96,96% và thấp nhất là bệnh viêm khớp đạt 66.66%.

4.4.3. Kết quả chẩn đoán và điều trị một số bệnh sản khoa trên đàn lợn nái

tại trại

Bảng 4.7: Tỷ lệ mắc bệnh sản khoa trên đàn lợn nái

Bệnh Số nái theo dõi Số nái bị Tỷ lệ % Biểu hiện quan sát được của bệnh

Bệnh Tử cung tiết ra dịch nhờ có mùi tanh.

viêm tử 353 60 16,99 Viêm nặng tiết dịch mủ đặc màu trắng

cung sữa hoặc mủ có lẫn máu có mùi tanh.

Lợn nái rặn đẻ nhiều lần.

Thời gian lâu không đẻ được. Bệnh đẻ 353 29 8,21 Cơn co bóp rặn đẻ thưa dần. khó Lợn nái mệt mỏi khó chịu.

Nước ối ra nhiều kèm theo máu.

Từ bảng 4.8 cho thấy: Nguyên nhân của 2 bệnh này là:

Bệnh viêm tử cung:

Bệnh xảy ra do nhiều nguyên nhân như:

Can thiệp không đúng kỹ thuật khi lợn đẻ khó; lợn bị nhiễm trùng từ

chuồng trại do chuồng trại kém vệ sinh.

66

Tỷ lệ mắc bệnh sẽ tăng lên nếu trong khẩu phần thức ăn bị thiếu

vitamin A,D,E gây khô niêm mạc, dễ xây xước, nhiễm khuẩn.

Cơ quan sinh dục ngoài bẩn.

Lợn đực bị viêm niệu quản và dương vật khi nhảy trực tiếp.

Bệnh xảy ra do dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát, hoặc không

sạch đã đưa các vi khuẩn gây nhiễm vào bộ phận sinh dục.

Bệnh đẻ khó:

Bệnh đẻ khó ở lợn xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Sau đây là

những nguyên nhân chủ yếu:

Do lợn nái không được chăm sóc tốt trong suốt quá trình nuôi từ hậu bị

đến khi lợn chửa, đẻ, như ít vận động, cơ bụng, cơ hoành, cơ liên sườn yếu và

xương chậu hẹp. Trong quá trình chăm sóc chúng ta nên lưu ý đến chế độ ăn,

bổ sung đầy đủ các khoáng chất, vitamin, cân đối chất đạm, chất xơ... chúng

ta có thể bổ sung chế phẩm sinh học Vườn Sinh thái vào trong thức ăn, pha

trộn theo tỷ lệ như HD, trong chế phẩm chứa đầy đủ và cân bằng các chất

khoáng vi lượng, đa lượng, men, vitamin,acid amin...sẽ làm cho lợn mẹ tăng

sức đề kháng.

Do xương chậu hẹp bẩm sinh, do thai quá to vì chế độ ăn uống cho lợn

nái khi có chửa không đúng quy trình kỹ thuật. Khi lợn chửa bị sốt cao do

mắc các bệnh truyền nhiễm đã điều trị trong thời gian khá dài.

Do lợn nái quá già, nội tiết tố mất cân bằng hay nồng độ hoormon kích

đẻ quá thấp trong thời gian đẻ. Do lợn nái bị liệt 1/3 thân sau; nơi đẻ, cách đỡ

đẻ không đúng kỹ thuật hoặc chưa phù hợp và do đẻ ngược thai...

67

Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh ở đàn lợn nái

Phác đồ điều trị và biện pháp can Số nái Số nái khỏi Tỷ lệ Bệnh thiệp điều trị bệnh %

Tiêm oxytocin 2ml, tiêm vetrimocin Bệnh

1ml/10kg P, 2 ngày tiêm nhắc lại 1 viêm 60 57 95,00 lần đến khi khỏi tử

cung

Tiêm oxytocin 2ml

Xoa bụng, xoa vú nái kích thích lợn

nái dặn đẻ

Bệnh Lợn vẫn không đẻ sau khi dùng

khó thuốc, xoa bụng thì cần can thiệp 29 27 93,10

đẻ bằng tay móc lợn con ra ngoài.

Đối với trường hợp xương chậu hẹp

không đưa tay vào móc, bị xoắn tử

cùng cần can thiệp mổ đẻ gấp.

Từ kết quả bảng 4.8 cho thấy: Đối với công tác điều trị bệnh trong thời

gian thực tập tại trại tôi đã tham gia điều trị 2 bệnh xảy ra trên đàn lợn nái đó

là bệnh viêm tử cung, số con điều trị 60 con, số con khỏi bệnh là 57 con, tỷ lệ

khỏi bệnh đạt 95,00%. Can thiệp đẻ khó 29 con, số con khỏi bệnh là 27 con,

tỷ lệ khỏi đạt 93,10%.

68

PHẦN 5

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

5.1. Kết luận

Qua thời gian thực tập tại trại lợn Thanh Vân - huyện Tam Dương -

tỉnh Vĩnh Phúc em đã được học hỏi và được chỉ dạy rất nhiều điều về kiến

thức cũng như thao tác kỹ thuật trong chăm sóc nuôi dưỡng, phòng trị bệnh

cho đàn lợn và có một số kết luận sau:

Đàn lợn con giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi nuôi tại trại lợn

Thanh Vân - huyện Tam Dương - tỉnh Vĩnh Phúc được tiêm phòng đầy đủ,

đạt tỷ lệ 100%.

Kết quả chẩn đoán bệnh cho thấy, lợn con ở giai đoạn từ sơ sinh đến 21

ngày tuổi lợn chủ yếu mắc bệnh viêm phổi 7,58%, bệnh phân trắng lợn con

chiếm 13.23%, bệnh viêm khớp là 1,42%, bệnh viêm da do tiết dịch là 5,61%.

Sử dụng phác đồ điều trị bệnh viêm khớp cho lợn, thuốc Pendistrep

LA, tỷ lệ khỏi bệnh là 66,66%.

Dùng syvaquinol hoặc tiêm truyền xoang phúc mạc bằng dung dịch

muối pha Syvaquinol 10ml + Atropin 5ml + metabol 10ml điều trị bệnh phân

trắng lợn con, kết quả khỏi 96,96%.

Sử dụng phác đồ điều trị bệnh viêm phổi cho lợn, thuốc Dynamutilin,

tỷ lệ khỏi bệnh là 89,68%.

Sử dụng phác đồ diều trị bệnh viêm da, thuốc pendistrep LA kết hợp

tắm phèn và sát trùng, tỷ lệ khỏi 71,30%.

Kết quả thực hiện các công việc khác như tiêm phòng vắc xin cho lợn

nái đạt hiệu quả an toàn 100%; điều trị bệnh viêm tử cung kết quả đạt

95,00%, can thiệp đẻ khó kết quả đạt 93,10% và các công việc khác kết quả

đạt an toàn 100%.

69

5.2. Đề nghị

Trong thời gian thực tập tại trại lợn Thanh Vân - huyện Tam Dương -

tỉnh Vĩnh Phúc em thấy có một số tồn tại cần phải khắc phục, vì vậy em có

một số ý kiến đề xuất như

Tiếp tục áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

Công tác tiêm phòng và vệ sinh phòng bệnh cần thực hiện tốt hơn nữa.

Kết thúc đợt thực tập tại trại em đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao

năng suất chăn nuôi cũng như giảm tỷ lệ mắc bệnh trên lợn con theo mẹ như sau:

Cần có kỹ thuật chuyên theo dõi, phát hiện và điều trị bệnh cho lợn con

nhằm đem lại kết quả điều trị cao nhất.

Nên tiến hành tiêm phòng vắc xin E. coli phòng bệnh phân trắng lợn

trước khi đẻ 2 - 4 tuần.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu trong nước

1. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái,heo con,heo thịt, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 29 - 35.

2. Công ty Cargill tại Việt Nam (2003), Sổ tay kỹ thuật chăn nuôi lợn, Sách

tham khảo, lưu hành nội bộ.

3. Trần Cừ (1992), Cơ sở sinh lý nuôi dưỡng lợn con, Nxb Nông nghiệp,

Hà Nội.

4. Trần Cừ (1996), Giáo trình sinh lý học gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

5. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông

nghiệp, Tp.HCM.

6. Trần Thị Dân (2008), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông

nghiệp, TP Hồ Chí Minh.

7. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

8. Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sản xuất

lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

9. Trần Tiến Dũng , Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinh sản

gia súc, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội.

10. Dwane R.Zimmernan Edepurkhiser (1992), Quản lý lợn nái, lợn hậu bị để

có hiệu quả, Nxb, Bản đồ.

11. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng

(1996), Bệnh ở lợn nái và lợn con. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

12. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái

sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ.

13. Trần Đức Hạnh (2013). Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli,

Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn tại 3 tỉnh phía

Bắc và biện pháp phòng trị. Luận án tiến sĩ Nông nghiệp.

14. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc gia cầm,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

15. Duy Hùng (2011), “Bệnh viêm vú ở lợn nái”, Báo nông nghiệp Việt Nam,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

16. Nguyễn Ðức Hùng, Nguyễn Mạnh Hà, Trần Huê Viên, Phan Vãn Kiểm

(2003), Giáo trình Truyền giống nhân tạo vật nuôi, Nxb. Nông nghiệp,

Hà Nội.

17. John Nichl (1992), Quản lý lợn nái và hậu bị để sinh sản có hiệu quả,

Hà Nội.

18. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dũng (2002), Bệnh phổ biến ở

lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 44 -52.

19. Phạm Sĩ Lăng, Nguyễn Bá Hiên (2013), Bệnh của lợn tại Việt Nam, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

20. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

21. Nguyễn Ðức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

22. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông

nghiệp Hà Nội.

23. Hồng Mận, Bùi Đức Lũng (2004), Kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

24. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Giáo

trình bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

25. Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Văn Thanh (2016), Một số yếu tố liên quan

đến viêm tử cung sau đẻ ở lợn, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam,

số 5, tập 14.

26. Lê Văn Năm (1999), Cẩm nang bác sĩ thú y hướng dẫn phòng và trị bệnh

lợn cao sản, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

27. Trần Văn Phùng, Hà Thị Hảo, Trần Thanh Vân, Từ Quang Hiển (2004),

Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.

28. Đặng Minh Phước, Dương Thanh Liêm (2006), “Nghiên cứu sử dụng axit

hữu cơ bổ sung vào thức ăn để kích thích tăng trưởng và phòng bệnh lợn

con tiêu chảy trên lợn con sau cai sữa”, Tạp chí khoa học chăn nuôi số 10.

29. Công ty Pig Việt Nam (1998), Kỹ thuật chăn nuôi lợn, Sách tham khảo,

lưu hành nội bộ.

30. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), “Tình hình bệnh viêm tử

cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí Khoa học

kỹ thuật thú y, tập 17.

31. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn,

Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

32. Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993), Thụ tinh nhân tạo cho lợn ở Việt

Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quốc, NGuyễn Duy Hoan (2008), Số

liệu xử lý theo phương pháp nghiên cứu trong Công Nghiệp.

34. Lê Văn Thọ (2007), Một số bệnh truyền nhiễm thường gặp ở lợn và biện

pháp phòng trị, Nxb Lao Động Xã Hội.

35. Vũ Đình Tôn, Trần Thị Thuận (2006), Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội

36. Phùng Quang Trường và cs (2016), Một số bệnh sinh sản thường gặp và

cách điều trị bệnh viêm tử cung lợn rừng trong điều kiện nuôi nhốt, Tạp

chí Khoa học Nông Nghiệp Việt Nam, số 6, tập 11,19.

37. Trần Thanh Vân, Nguyễn Thị Thúy Mỵ, Mai Anh Khoa, Bùi Thị Thơm,

Nguyễn Thu Quyên, Hà Thị Hảo, Nguyễn Đức Trường (2017), Giáo trình

chăn nuôi chuyên khoa, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

II. Tài liệu nước ngoài

38. Akita (1993), “Comparison of four purification methols for the production

of immunoglobulins from eggs laid by hens immunological methols”, Vet

160(1993), P.207 - 214.

39. Christensen R. V., Aalbaek B., Jensen H. E. (2007), “Pathology of udder

lesions in sows”, J. Vet. Med. A Physiol, Patho.l Clin, Med, 2007 Nov., 54(9),

tr. 491.

40. Glawisching E., Bacher H., (1992). The Efficacy ofE costat on E.

Coliinfected weaning pigg, 12th IPVS Congress, August.

41. Hughes, James (1996), “Maximising pigs production and reproduction”,

Compus, hue University of Agriculture and Forestry, September.

42. Jose Bento S., Ferraz and Rodger K., Johnson (2013), Animal Model

Estimation of Genetic Parameters and Response to Selection for Litter

Size and Weight, Growth, and Backfat in Closed Seedstock Populaions of

Large White and Landrace Swine, Department of Animal Science,

December 4, 2013, University of Nebraska, Lincoln 68583 – 0908.

43. Smith (1976). “Observations by the ligated segment and oral inoculation

methods on Escherichia coli infections in pigs, calves, lamb and rabbits”.

Journal of Pathology and Bacteriology 93, 499.

44. Soko (9/1981). Neonatal coli - infecie laboratoriana diagnostina a

prevencia UOLV - Kosice.

45. White B. R., Mc Laren D. G., Dzink P. J., Wheeler M. B. (2013), “Attain

ment of puberty and the mechanism of large litter size in Chinese Meishan

females versus Yorkshire females”, Biology of Reproduction 44 (Suppl.

1), 160 (abstract). ..

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG THỜI GIAN THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

Hành lang vôi trước chuồng đẻ Rác vôi quanh trại

Nhỏ cỏ, thu dọn rác toàn trại Đỡ đẻ cho lợn nái đang đẻ

Can thiệp khi đẻ khó Truyền tĩnh mạch tai

Thủ thuật mài nanh, xăm tai

Phun sát trùng, rác vôi trong chuồng đẻ

Tra cám cho lợn nái Xịt rửa, vệ sinh gầm chuồng