ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM --------------o0o--------------

ĐỖ THỊ HUẾ

Tên chuyên đề:

THỰC HIỆN QUY TRÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG

VÀ PHÒNG TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI SINH SẢN TẠI

TRẠI VIỆT ANH, XÃ HỆP HÒA, HUYỆN VĨNH BẢO,

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy Chuyên ngành: Chăn nuôi thú y Lớp: K47 - CNTY - N02 Khoa: Chăn nuôi Thú y Khóa học: 2015 - 2019 Giảng viên hướng dẫn: GS.TS. Từ Quang Hiển

THÁI NGUYÊN - 2019

i

LỜI CẢM ƠN

Qua một thời gian học tập rèn luyện tại Trường Đại học Nông Lâm Thái

Nguyên và sau 6 tháng thực tập tốt nghiệp tại cơ sở em đã luôn nhận được sự

giúp đỡ tận tình của thầy, cô giáo và bạn bè. Đến nay em đã hoàn thành chương

trình học và thực tập tốt nghiệp.

Nhân dịp này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu

Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Ban Chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú

y cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình giảng

dạy và giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập tại trường.

Đặc biệt em xin cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của thầy giáo GS-TS Từ

Quang Hiển người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt thời gian thực

tập, giúp em hoàn thành bản khóa luận này.

Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Trại chăn nuôi lợn Việt Anh

cùng toàn thể các anh chị cán bộ kỹ thuật, công nhân trong trang trại đã tạo điều

kiện giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt thời gian em thực tập tại trang trại vừa

qua.

Qua đây, em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, người thân

và bạn bè đã giúp đỡ và động viên em trong suốt thời gian học tập và rèn luyện

tại trường

Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019

Sinh viên

Đỗ Thị Huế

ii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i

MỤC LỤC ......................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC BẢNG............................................................................... iv

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT ................................................. v

Phần 1 MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1

1.1. Đặt vấn đề ................................................................................................ 1

1.2. Mục đích, mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề .......................................... 2

1.2.1. Mục đích .................................................................................................. 2

1.2.2. Yêu cầu .................................................................................................... 2

Phần 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU .......................................................... 3

2.1 Điều kiện cơ sở thực tập .............................................................................. 3

2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội ...................................... 3

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trại ............................................................................ 4

2.1.3. Cơ sở vật chất của trại ............................................................................. 4

2.1.4 Tình hình sản xuất của trang trại .............................................................. 6

2.1.5 Thuận lợi và khó khăn của trại ................................................................. 8

2.2. Tổng quan tài liệu liên quan đến chuyên đề .............................................. 9

2.2.1. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi .................................... 9

2.2.2. Những hiểu biết về những bệnh gặp tại cơ sở....................................... 13

2.2.3. Đặc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ .............................................. 26

2.2.4. Một số bệnh thường gặp ở lợn con ....................................................... 30

2.2.5. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và lợn

nái nuôi con ..................................................................................................... 33

2.3. Tình hình các nghiên cứu trong và ngoài nước ........................................ 37

2.3.1. Nghiên cứu trong nước.......................................................................... 37

2.3.2. Nghiên cứu ngoài nước ......................................................................... 40

iii

Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH 42

3.1. Đối tượng ................................................................................................. 42

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ............................................................... 42

3.3. Nội dung thực hiện ................................................................................... 42

3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện ...................................... 42

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi .............................................................................. 42

3.4.2. Phương pháp thực hiện.......................................................................... 42

Phần 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN.......................................................... 44

4.1. Kết quả đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại ........................................... 44

4.2. Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn ................ 45

4.3. Kết quả thực hiện quy trình phòng và trị bệnh tại trại ............................. 48

4.3.1. Phòng bệnh tại trại ................................................................................ 48

4.3.2 Kết quả công tác chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn tại trại ......... 49

Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................. 57

5.1. Kết luận .................................................................................................... 57

5.2. Đề nghị ..................................................................................................... 57

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 58

iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1 Bảng quy định cám chuồng đẻ ........................................................ 37

Bảng 4.1 Tình hình chăn nuôi của trại năm 2017-5/2018............................... 44

Băng 4.2. Số lượng lớn nái, lợn con chăm sóc trong 6 tháng tại trại .............. 45

Bảng 4.3. Một số chỉ tiêu về quá trình sinh đẻ của đàn lợn nái nuôi tại trại . 47

Bảng 4.4. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại .................................... 49

Bảng 4.5. Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại ....... 50

Bảng 4.6. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại ........... 52

Bảng 4.7. Kết quả thực hiện phẫu thuật trên đàn lợn con ............................... 54

Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên lợn con .................................................. 56

v

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

CP

Charoen Pokphand

cs

Cộng sự

Kg

Kilogam

MMA Hội chứng viêm tử cung, viêm vú

Nxb

Nhà xuất bản

STT

Sỗ thứ tự

TT

Thể trọng

UBND Ủy ban nhân dân

VAC

Vườn ao chuồng

VTM

Vitamin

1

Phần 1

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Trong những năm gần đây kinh tế Việt Nam đang phát triển rất mạnh

mẽ, chất lượng và nhu cầu cuộc sống tăng lên không ngừng, kéo theo nhu cầu

về số lượng và chất lượng thịt cũng tăng cao. Để đáp ứng nhu cầu đó, ngành

chăn nuôi đang phát triển mạnh mẽ, sản phẩm của ngành không ngừng phục vụ

nhu cầu trong nước mà còn mở rộng xuất khẩu.

Trước đây, năng suất chăn nuôi còn thấp là do người chăn nuôi chỉ quen

với tập quán chăn nuôi lợn nội và tận dụng các phụ phẩm trong nông nghiệp để

nuôi. Hiện nay năng suất chăn nuôi lợn tăng lên gấp nhiều lần là do người chăn

nuôi đã biết nuôi lợn ngoại theo phương thức chăn nuôi công nghiệp. Để lợn

ngoại đạt hiệu quả kinh tế cao, bên cạnh yếu tố về thức ăn, chuồng trại, kỹ thuật

chăn nuôi… thì yếu tố đầu tiên cần đảm bảo là có đàn giống tốt. Điều này phụ

thuộc rất lớn vào năng suất sinh sản của đàn lợn nái. Theo tính toán của các nhà

kinh tế, năng suất của lợn nái đực tính bằng số lợn con sinh ra, số lợn con còn

sống đến lúc cai sữa, thời gian tái sản xuất của lợn nái nhất là do không thụ

thai.

Để đạt được hiệu quả kinh tế cao cần phải có quy trình chăn nuôi phù

hợp với từng giống vật nuôi, từng thời điểm và từng giai đoạn cụ thể khác

nhau. Xuất phát từ thực tế trên, được sự đồng ý của ban chủ nhiệm khoa chăn

nuôi thú y cùng giảng viên hướng dẫn và cơ sở thực tập, chúng em đã tiến

hành thực hiện đề tài: “Thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng

trị bệnh cho lợn nái sinh sản tại trại Việt Anh,xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh

Bảo, TP. Hải Phòng”.

2

1.2. Mục đích, mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề

1.2.1. Mục đích

- Đánh giá được tình hình chăn nuôi tại cơ sở.

- Thực hiện được quy trình phòng, trị bệnh và nuôi dưỡng, chăm sóc đàn

lợn nái nuôi con tại cơ sở.

- Rèn luyện tay nghề nâng cao hiểu biết kinh nghiệm thực tế.

- Góp phần giúp cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng chăn nuôi.

1.2.2. Yêu cầu

- Nắm vững quy trình phòng, trị bệnh trên đàn lợn nái nuôi con.

- Nắm vững quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con.

- Thực hiện tốt các yêu cầu, quy định tại cơ sở.

- Chăm chỉ, học hỏi để nâng cao kỹ thuật, tay nghề của cá nhân.

3

Phần 2

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

2.1 Điều kiện cơ sở thực tập

2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội

- Vị trí địa lý:

Hiệp Hòa là một xã thuộc huyện Vĩnh Bảo với diện tích tự nhiên 5,05km2.

Địa hình Vĩnh Bảo là đồng bằng đất nông nghiệp chiếm 67% tổng diện

tích. Quốc lộ 37 và quốc lộ 5B chạy qua địa bàn huyện.

Khoảng cách giữa huyện Vĩnh Bảo đến các địa điểm khác:

+ Cách TP. Hải Phòng khoảng 50 km

+ Cách Hà Nội, Sân bay quốc tế Nội Bài khoảng 102 km.

+ Cách TP. Thái Nguyên khoảng 190 km.

Vị trí địa lí tiếp giáp của trang trại:

+ Phía đông giáp xã Hồng Hưng, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng.

+ Phía tây giáp xã Lê Lợi, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng.

+ Phía nam giáp Đoàn Thượng, huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng.

+ Phía bắc giáp TT Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng.

+ Điều kiện địa hình, đất đai:

Địa hình huyện Vĩnh Bảo là đồng bằng không có đồi núi, địa hình tương

đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ nhìn trung địa hình nghiêng từ Tây – Tây Bắc

– Đông – Đông Nam.

Huyện có một số tài nguyên khoáng sản như: than, cát, muối.

- Giao thông vận tải: Huyện Vĩnh Bảo có đường giao thông thuận lợi đi

qua các tỉnh lân cận như Thái Bình, Hải Dương. Huyện có 2 quốc lộ đi qua

(quốc lộ 10 và quốc lộ 37), giao cắt tại thị trấn Vĩnh Bảothuận lợi trong phát

triển kinh tế, xã hội và giao lưu hàng hóa.

4

- Văn hóa và xã hội

Có nhiều sự đổi mới và có tiến bộ khoa học trong các lĩnh vực như: giáo

dục và đào tạo, công tác y tế, truyền thanh, truyền hình, bưu chính viễn thông,

điện lưới quốc gia.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trại

Cơ cấu tổ chức gồm 3 nhóm:

+ Nhóm quản lý: 1 chủ trại

+ Nhóm kỹ thuật: 1 kỹ sư

+ Nhóm công nhân:

01: nhà bếp

01: làm vườn

02: kĩ thuật điện,nước

02: tổ trưởng (1 chuồng bầu, 1 chuồng đẻ)

07: công nhân

06: sinh viên thực tập

Với đội ngũ nhân công trên, trại phân ra làm các tổ khác nhau

như tổ chuồng nái đẻ, tổ chuồng nái chửa. Các tổ có bảng chấm công riêng cho

từng công nhân trong tổ, ngoài ra các tổ trưởng có nhiệm vụ đôn đốc, quản lý

các thành viên trong tổ nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm và thúc đẩy sự

phát triển của trang trại.

2.1.3. Cơ sở vật chất của trại

+ Tổng diện tích trại khoảng 46.000 m2 .

Trong đó:

- Diện tích chuồng: 13.000 m2

- Diện tích đất trồng cây: 5.000 m2

- Diện tích đất xây dựng: 2.000 m2

- Ao hồ chứa nước và nuôi cá: 25.000 m2

5

Trang trại đã dành 2.000m2 đất để xây dựng nhà điều hành, nhà ở cho

công nhân, bếp ăn và các các công trình phục vụ cho công nhân và các hoạt

động khác của trang trại..

Trang trại nằm trên địa bàn xã Hiệp Hòa, có địa hình chủ yếu là đồng

bằng đường giao thông đã được nâng cấp, thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển.

Để đảm bảo công tác phát triển sản xuất chăn nuôi và sinh hoạt của công

nhân, trại được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật gồm:

Khu nhà điều hành, khu nhà ở cho công nhân, bếp ăn tập thể, các công

trình phục vụ cho công nhân và các hoạt động khác của trại.

Khu chăn nuôicó hàng rào bao bọc xung quanh và có cổng vào riêng.

Chuồng trại được quy hoạch, bố trí xây dựngphù hợp với hướng chăn nuôi công

nghiệp, hệ thống chuồng nuôi lồng, nền sàn bê tông cho lợn nái, lợn đực, sàn

nhựa cho lợn con cùng với hệ thống vòi nước tự động và máng ăn.Chuồng nuôi

được xây dựng đảm bảo đủ cho 600 nái cơ bản, bao gồm:

+ 3 chuồng nái đẻ: mỗi chuồng gồm khu A và khu B, mỗi khu có 2 dãy,

mỗi dãy có 28 ô chuồng được thiết kế sàn nhựa cho lợn con và sàn bê tông cho

lợn mẹ.

+ 1 chuồng nái chửa: Chuồng gồm 6 dãy, mỗi dãy có 89 ô để nuôi và

chăm sóc lợn nái trong thời gian mang thai, được sắp xếp theo các kỳ mang thai

khác nhau: Dãy 1 được thiết kế cho lợn nái chờ phối, có khu thử lợn, ép lợn và

dãy 2 có khu làm nơi thụ tinh nhân tạo cho lợn nái.

+ 1chuồng cách ly: dùng để nuôi lợn hậu bị được nhập từ các trại gia

công lợn hậu bị của công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam, mỗi ô chuồng có

thể nuôi được từ 30 - 40 lợn hậu bị.Lợn được nuôi ở đây trong thời gian 3 tháng,

thời gian này lợn được sử dụng vắc xin đầy đủ trước khi được đưa lên làm lợn

nái sinh sản.

6

Hệ thống chuồng được xây dựng khép kín hoàn toàn. Phía đầu chuồng

là hệ thống giàn mát, cuối chuồng được thiết kế quạt hút gió, cóhệ thống điện

chiếu sáng và bóng đèn hồng ngoại để sưởi ấm, úm lợn con, đảm bảo thoáng

mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông bằng cách điều chỉnh hệ thống quạt, giàn

mát và bóng đèn sưởi ấm trong chuồng. Mỗi chuồng được lắp đặt máy bơm

nước để tắm cho lợn và vệ sinh chuồng trại hằng ngày, cuối chuồng có hệ thống

thoát phân và nước thải. Bên cạnh chuồng lợn đực có xây dựng phòng pha chế

tinh, với đầy đủ dụng cụ và thiết bị như: kính hiển vi, nhiệt kế, đèn cồn, máy

ép ống tinh, tủ lạnh bảo quản tinh, nồi hấp, panh, kéo… Trong khu chăn nuôi,

đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều được đổ bê tông và có các

chậu nước sát trùng để trước cửa ra vào chuồng. Nhìn chung khu vực chuồng

nuôi được xây dựng khá hợp lý, thuận lợi cho việc chăm sóc, đi lại, đuổi lợn

giữa các dãy chuồng.

Ngay tại cổng vào khu chăn nuôi có xây dựng 3 phòng tắm sát trùng cho

cá n bộ kỹ thuật và công nhân trước khi ra, vào chuồng chăm sóc lợn, 1 kho

thuốc, 1 kho cám, 1 phòng ăn và 2 phòng nghỉ trưa cho công nhân.

Một số thiết bị khác cũng được trang bị đầy đủ: tủ lạnh bảo quản vắc xin,

tủ thuốcđể bảo quản và dự trữ thuốc của trại, xe chở cám từ nhà kho xuống các

dãy chuồng, máy nén khí phun sát trùng di động khu vực trong và ngoài chuồng

nuôi.

2.1.4 Tình hình sản xuất của trang trại

. * Công tác chăn nuôi

Nhiệm vụ chính của trang trại là sản xuất con giống và chuyển giao tiến

bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45

lứa/năm. Số con sơ sinh là 12,69 con/đàn, số con cai sữa là 11,56 con/đànlợn

con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26 ngày thì tiến hành cai

sữa và chuyển sang các trại chăn nuôi lợn giống của công ty CP. Theo đánh giá

7

của công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam thì mức độ sản xuất của trại vào

loại trung bình khá

Trang trại có 13 con lợn đực giống. Các lợn đực giống này được nuôi

nhằm mục đích kích thích động dục cho lợn nái và khai thác tinh để thụ tinh

nhân tạo. Tinh lợn được khai thác từ 2 giống lợn là Landrace và Yorkshire. Lợn

nái được phối 3 lần và được luân chuyển giống cũng như lợn đực.

Thức ăn cho lợn nái là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có chất lượng cao,

được công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam cung cấp cho từng đối tượng

lợn của trại.

* Công tác vệ sinh thú y của trại: Quy trình phòng bệnh cho đàn lợn tại

trang trại luôn được thực hiện nghiêm ngặt, với sự giám sát chặt chẽ của kỹ

thuật viên Công ty Chăn nuôi CP.

- Công tác vệ sinh:

Chuồng trại được xây dựng thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông,

xung quanh các chuồng nuôi được trồng cây xanh nhằm tạo sự thoáng mát tự

nhiên. Hằng ngày luôn có công nhân quét dọn vệ sinh chuồng trại, thu gom

phân, nước tiểu, khơi thông cống rãnh, đường đi trong trại được quét dọn, phun

thuốc khử trùng tiêu độc, hành lang đi lại được quét dọn và rắc vôi theo quy

định. Công nhân, kỹ sư, khách tham quan trước khi vào khu chăn nuôi đều phải

sát trùng tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo bảo hộ lao động.

- Công tác phòng bệnh: Trong khu vực chăn nuôi, hành lang giữa các

chuồng và bên ngoài chuồng đều được rắc vôi bột, các phương tiện vào trại

được sát trùng một cách nghiêm ngặt ngay tại cổng trại.

Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin luôn được trang trại thực hiện nghiêm

túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Đối với từng loại lợn có quy trình tiêm riêng, từ

lợn nái, lợn hậu bị, lợn đực và lợn con. Lợn được tiêm vắc xin ở trạng thái khỏe

mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và các

8

bệnh mãn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất cho đàn lợn. Tỷ

lệ tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn luôn đạt 100%.

- Công tác trị bệnh: Cán bộ kỹ thuật có nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra đàn

lợn thường xuyên, các bệnh xảy ra ở lợn nuôi tại trại luôn được kỹ thuật viên

phát hiện sớm, cách ly, điều trị ngay ở giai đoạn đầu, vì vậy hiệu quả điều trị

thường cao (80 - 90%) trong một thời gian ngắn, không gây thiệt hại nhiều cho

trang trại.

2.1.5 Thuận lợi và khó khăn của trại

* Thuận lợi

Được sự quan tâm, tạo điều kiện và có các chính sách hỗ trợ đúng đắn

của UBND xã Hiệp Hòa, Trạm Thú y huyện Vĩnh Bảo.

Được công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam cung cấp về con giống,

thức ăn và thuốc thú y có chất lượng tốt.

Chuồng trại được trang bị bằng các thiết bị hiện đại, điện lưới và hệ thống

nước sạch luôn cung cấp đầy đủ cho sinh hoạt và chăn nuôi.

Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn

quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân.

Đội ngũ cán bộ kỹ thuật có chuyên môn vững vàng; đội ngũ công nhân

rất nhiệt tình, năng động và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Do

đó đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trang trại.

* Khó khăn

Đội ngũ công nhân trại còn thiếu về số lượng, do đó ảnh hưởng đến tiến

độ công việc.

Trang thiết bị, vật tư, hệ thống chăn nuôi còn thiếu, chưa đáp ứng được

nhu cầu sản xuất.

Trong những năm gần đây, thời tiết diễn biễn phức tạp kèm theo dịch

bệnh khó kiểm soát, gây khó khăn cho chăn nuôi. Những khó khăn trên đòi hỏi

9

trại phải đẩy mạnh công tác phòng, chống dịch bệnh và nâng cao sức đề kháng

cho đàn lợn tại trại.

2.2. Tổng quan tài liệu liên quan đến chuyên đề

2.2.1. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi

2.2.1.1. Phòng bệnh

Như ta đã biết ‘‘Phòng bệnh hơn chữa bệnh’’‚ nên khâu phòng bệnh được

đặt lên hàng đầu, nếu phòng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn chặn được

bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay

quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Do vậy, việc phòng bệnh

cũng như trị, bệnh phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau.

- Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt:

Theo Nguyễn Ngọc Phụng (2004) [20] bệnh xuất hiện trong một đàn lợn

thường do nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm, hoặc không

truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra

áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh trên đàn lợn. Phần lớn các

biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh

và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn.

Theo Lê Văn Tạo và cs (1993) [22], vi khuẩn E.coli gây bệnh ở lợn là vi

khuẩn tồn tại trong môi trường, đường tiêu hoá của vật chủ. Khi môi trường

quá ô nhiễm do vê ̣sinh chuồng trại kém, nước uống thức ăn bi ̣nhiễm vi khuẩn,

điều kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bi ̣cảm nhiễm E.coli,

bệnh sẽ nổ ra vì vậy mà khâu vê ̣sinh, chăm sóc có một ý nghĩa to lớn trong

phòng bệnh. Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều rất

cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khoẻ mạnh, có khả

năng chống đỡ bệnh tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái phải được vê ̣sinh tiêu

độc trước khi vào đẻ. Nhiệt độ trong chuồng phải đảm bảo 27 – 300C đối với

lợn sơ sinh và 28 – 300C với lợn cai sữa. Chuồng phải luôn khô ráo, không

10

thấm ướt. Việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ kín, ấm áp vào mùa đông và đầu

xuân. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn hồng ngoại trong những ngày

thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con phân trắng mang lại hiệu quả cao

trong chăn nuôi.

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [21] từ 3 – 5 ngày trước dự kiến đẻ,

ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như crezin

5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn nái trước

khi đẻ.

Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi, chuồng trại phải đảm bảo phù

hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng mát mùa hè, ấm áp mùa đông, đảm bảo

cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng

phương pháp: rửa sạch, để khô sau đó phun sát trùng bằng các loại thuốc sát

trùng và trống chuồng ít nhất 15 ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối

với vật nuôi sinh sản. Với những chuồng nuôi lưu cữu hoặc chuồng nuôi có vật

nuôi bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để: Sau khi đưa

hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý theo hướng dẫn của thú y, cần phun sát trùng

kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch) toàn bộ

chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô và dọn,

rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh học; chất

thải lỏng, nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, không thải trực tiếp ra môi

trường. Cần phun sát trùng 1-2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít

nhất trong 30 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát

trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng

nuôi.

Phòng bệnh bằng vaccin:

Phòng bệnh bằng vaccin là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu

quả nhất.

11

Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [12] vaccin là một

chế phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh

truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật

liệu di truyền như ARN, AND…) đã được làm giảm độc lực hay vô hoạt bằng

các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vaccin

thế hệ mới – vaccin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng gây

bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra

đáp ứng miễm dịch làm cho động vật có miễm dịch chống lại sự xâm nhiễm

gây bệnh của mầm bệnh tương ướng.

Khi đưa vaccin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay

mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vaccin) mới có miễn dịch.

2.2.1.2. Điều trị bệnh

Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [12] nguyên tắc để

điều trị bệnh là:

+ Toàn diện:phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng

thuốc.

+ Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn

chế lây lan.

+ Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng.

+ Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ

thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị tái

phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền.

+ Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể

chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém

vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa.

+ Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì

không nên chữa.

12

Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [12] các biện pháp

chữa bệnh truyền nhiễm là:

+ Hộ lý: cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ

sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp,

phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối

phó. Cho gia súc ăn, uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh.

+ Dùng kháng huyết thanh: chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy

thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh

bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn,

có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng

độc tố).

+ Dùng hóa dược: phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng,

một số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm

bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi

khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và

tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối

hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị,vì nếu một loại thuốc chưa có

tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn.

+ Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng

ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng

kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng,

do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm

giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây

nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng

sinh,vì vậy khi dùng thuốc cần theo những nguyên tắc sau đây:

- Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa

không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn.

13

- Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác

định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng.

- Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để

phát huy tác dụng của kháng sinh.

- Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và

độc tính của từng loại, tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị

và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc.

- Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt,

dung thêm vitamin, tiêm nước sinh lý…

2.2.2. Những hiểu biết về những bệnh gặp tại cơ sở

2.2.2.1. Bệnh viêm tử cung

Bệnh viêm tử cung xảy ra trên các giống lợn nội, ngoại khác nhau. Lợn

nái đẻ ít lứa, nhiều lứa hay đang nuôi con đều có thể mắc bệnh song tỷ lệ mắc

bệnh phụ thuộc vào yếu tố vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng. Khi gia súc sinh đẻ

nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm

mạc tử cung bị xây xát, bị tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây

viêm. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm như sảy thai truyền nhiễm, phó

thương hàn, bệnh lao… thường gây viêm tử cung (Đỗ Quốc Tuấn, 2005) [27].

* Nguyên nhân bệnh viêm tử cung

Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [9], viêm tử cung là một quá trình

bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các

tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc

cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.

Theo các tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [3]; Phạm Sỹ Lăng và cs

(2002) [17], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau:

Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng

phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh

14

không được vô trùng khi phối giống có thể từ ngoài vào tử cung lợn nái gây

viêm.

Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc

mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo

truyền sang cho lợn khoẻ.

Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc

tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.

Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm

tử cung.

Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, Phó

thương hàn, bệnh Lao… gây viêm.

Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ

không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm

nhập vào gây viêm.

Theo Đoàn Kim Dung và cs (2002) [7] cho biết, nguyên nhân gây viêm tử

cung là do vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), Liên cầu dung huyết

(Streptococcus hemolitica) và các loại Proteus vulgais,Klebriella, E.coli….

Theo Lê Văn Năm và cs (1999) [19] cho rằng, có rất nhiều nguyên nhân

từ ngoại cảnh gây bệnh như: Do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ

bằng dụng cụ hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến phá hủy hoặc kết tủa của

chất nhày muxin cơ quan sinh dục, kết hợp với việc chăm sóc nuôi dưỡng bất

hợp lý và thiếu vận động đã làm chậm quá trình thu teo sinh lý của dạ con (trong

điều kiện cai sữa bình thường dạ con trở về khối lượng kích thước ban đầu

khoảng 3 tuần sau đẻ). Đây là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm nhập vào tử cung

gây bệnh. Biến chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây lên

trong thời gian động đực (vì lúc đó tử cung mở) và do thụ tinh nhân tạo sai kỹ

thuật.

15

Bệnh còn xảy ra do thiếu sót về dinh dưỡng và quản lý: Khẩu phần thiếu

hay thừa protein, trong thời kỳ mang thai có ảnh hưởng đến viêm tử cung. Lợn

nái sử dụng quá nhiều tinh bột gây đẻ khó, viêm tử cung do xây xát. Khoáng

chất, vitamin cũng ảnh hưởng đến viêm tử cung.

Theo Lê Thị Tài và cs, (2002) [41] đây là một bệnh khá phổ biến ở gia súc

cái. Nếu không được chữa trị kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản

của gia súc cái.

* Triệu chứng:

Sản dịch của lợn nái bình thường kéo dài trong vòng 4-5 ngày cá biệt tới

6-7 ngày, sản dịch có màu sắc hơi đỏ do lẫn máu, sau chuyển dần sang vàng

hay trắng và trong. Trong trường hợp viêm thì sản dịch có thể có màu đen hôi

thối, mùi tanh rất khó chịu.

Bệnh viêm tử cung ở lợn nái được chia làm hai thể:

+ Thể cấp tính: Con vật sốt 41-420C trong vài ngày đầu âm môn sưng

tấy đỏ, dịch xuất tiết từ trong âm đạo chảy ra trắng đục đôi khi có máu lờ nhờ.

+ Thể mãn tính: Không sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn có dịch

nhầy trắng đục tiết ra từ âm đạo, dịch nhầy thường không liên tục mà chỉ chảy

ra từng đợt từ vài ngày đến 1 tuần. Lợn nái thường thụ tinh không có kết quả

hoặc khi đã có thai sẽ bị tiêu thai vì quá trình viêm nhiễm niêm mạc âm đạo tử

cung lan sang thai làm chết thai.

* Hậu quả của bệnh viêm tử cung

Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh

dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh

hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển

của lợn con.

Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [9]; Trần Thị Dân (2004) [5], khi lợn

nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:

16

- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai.

Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co

thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có

thể bám chặt vào tử cung.

Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung

tiết nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2αgây phân huỷ thể vàng ở buồng

trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch

hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể

vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng

progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung

tăng, nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.

- Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết

lưu.

Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để

giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng progesterone

giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào

thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển

kém hoặc chết lưu.

- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong

giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.

Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt

của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích

thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng

sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi

cọc.

- Lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục

trở lại.

17

Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2αgiảm, do đó thể vàng

vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone.

Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự

phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở

lại được và không thải trứng được.

- Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi

sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là

nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các

nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống

thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng

tới hoạt động của buồng trứng.

* Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung

Xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện

vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động đực, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch

viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml cho tới 200

ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng

loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu máu cá. Người ta

thấy rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung

mãn tính thường gặp trong thời kì cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể

cho phép nghi viêm nội mạc tử cung.

Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có

những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết

tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái

còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra.

Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy

ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động đực thì có thể

bị nhầm lẫn.

18

Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối.

Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ

nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt

khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho

chính xác.

Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ

ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu

hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viêm từ

đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời

gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất.

* Điều trị

Bơm rửa tử cung ngày 1 - 2 lần, mỗi lần 2 - 4 lít nước đun sôi để nguội

pha cồn iod 10% hoặcbơm rửa bằng nước muối sinh lí.

Tiêm oxytocin 2 ml/con/ngày, amoxinjectla 24 ml/con/ngày

Tiêm thuốc trợ sức: B - complex, vitamin ADE.

Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [10], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị

bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày.

Tiêm amoxicillin 15% 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng

viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao

2.2.2.2. Bệnh viêm vú

* Nguyên nhân gây bệnh viêm vú

Christensen và cs, (2007) [42] khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ

mẫu mô vú bị viêm cho thấy: Vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus spp.

và Arcanobacterium pyogenes.

Theo Trần Minh Châu (1996) [4] cho biết, khi lợn nái đẻ nếu nuôi không

đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn

đường ruột xâm nhập gây viêm vú. Một trong những nguyên nhân chính gây ra

19

bệnh viêm vú ở lợn nái là thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu

phần thức ăn cho lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá

nhiều gây tắc sữa. Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi

trường tốt cho vi khuẩn xâm nhập và gây viêm.

+ Do kế phát từ một số bệnh: Sót nhau, viêm tử cung, bại liệt sau đẻ,

viêm bàng quang… khi lợn nái bị những bệnh này vi khuẩn theo máu về tuyến

vú cư trú tại đây và gây bệnh.

+ Lợn nái tốt sữa, lợn con bú không hết hoặc lợn nái cho con bú một

hàng vú, hàng vú còn lại căng sữa. Lợn con bú làm xây xát bầu vú hoặc lợn con

bị bệnh không bú, sữa xuống nhiều bầu vú căng dễ dẫn đến viêm (Trương Lăng,

2000) [14].

+ Do quá trình chăm sóc nuôi dưỡng kém, chất độn chuồng và ổ đẻ bẩn,

sau khi đẻ bầu vú không được vệ sinh sạch, hàng ngày không vệ sinh bầu vú,

thời tiết quá ẩm kéo dài, nhiệt độ thay đổi đột ngột dẫn đến viêm.

* Triệu chứng

Theo White (2013) [43], biểu hiện rõ tại vú viêm với các đặc điểm: Vú

căng cứng, nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống sữa, nếu vắt

mạnh sữa chảy ra có nhiều lợn cợn lẫn máu; sau 1 - 2 ngày thấy có mủ, lợn mẹ

giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,50C.

Bình thường bệnh viêm vú xảy ra ngay sau khi đẻ 4 - 5 giờ cho đến 5 - 7

ngày có khi đến một tháng. Theo Ngô Nhật Thắng (2006) [24], viêm vú thường

xuất hiện ở một vài vú nhưng đôi khi cũng lan ra toàn bộ các vú. Vú có màu

hồng, sưng đỏ, sờ vào thấy nóng, hơi cứng,ấn vào lợn nái có phản ứng đau. Lợn

nái giảm ăn, trường hợp nặng thì bỏ ăn, sốt cao 40,5 - 42oC kéo dài trong suốt

thời gian viêm, sản lượng sữa giảm, lợn nái thường nằm úp đầu vú xuống sàn,

ít cho con bú. Lợn con thiếu sữa kêu la chạy vòng quanh lợn mẹ đòi bú, lợn con

ỉa chảy, xù lông, gầy tọp, tỷ lệ chết cao 30 – 100% (Lê Hồng Mận, 2002) [18].

20

Vắt sữa ở những vú bị viêm thấy sữa loãng, trong sữa có những cặn hoặc cục

sữa vón lại, xuất hiện những mảnh cazein màu vàng, xanh lợn cợn, đôi khi có

máu.

* Hậu quả của bệnh viêm vú:

Khi lợn nái bị viêm vú sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa, từ đó

sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con theo mẹ.

- Theo Nguyễn Đức Lưu và cs (2004) [17], bệnh viêm tử cung và viêm

vú là hai nguyên nhân trực tiếp gây ra sự giảm và mất sữa ở lợn nái nuôi con.

- Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [3] cũng khẳng định: Mất sữa sau khi

đẻ là do kế phát từ bệnh viêm tử cung và viêm vú. Do khi bị viêm cơ thể thường

sốt cao liên tục 2 - 3 ngày, nước trong máu và trong mô bào bị giảm ảnh hưởng

đến quá trình trao đổi chất, nhất là quá trình hấp thu chất dinh dưỡng trong

đường tiêu hóa bị giảm dần dẫn đến mất sữa, khả năng phục hồi chức năng tiết

sữa sẽ bị hạn chế thường xảy ra ở lứa đẻ tiếp theo.

Khi bị viêm vú, sản lượng sữa của lợn nái nuôi con giảm, trong sữa có

nhiều chất độc, sữa không đủ đáp ứng nhu cầu của lợn con hoặc khi lợn con bú

sữa sẽ dẫn đến tiêu chảy, ốm yếu, sức đề kháng giảm, dễ mắc bệnh và trọng

lượng cai sữa thấp.

Nếu viêm vú nặng dẫn đến huyết nhiễm trùng, huyết nhiễm mủ thì khó

chữa, lợn nái có thể chết.

Viêm vú kéo dài dẫn đến teo đầu vú, vú hóa cứng, vú bị hoại tử ảnh

hưởng đến khả năng tiết sữa của lợn nái ở lứa đẻ sau.

-Theo Nguyễn Hùng Nguyệt (2007) [40] cho biết, điều trị viêm vú bằng

phương pháp châm cứu cho kết quả tốt.

Bằng châm cứu

+ Đơn huyệt: Bách hội, dương minh, vĩ căn, hội âm, túc tam lý, hải môn,

khai phong.

21

+ Châm theo phương pháp tả, thời gian điều trị 7 - 10 ngày liên tục, nghỉ

2 - 3 ngày sau đó điều trị tiếp.

+ Thủy châm

+ Đơn huyệt: Bách hội, dương minh, hội âm, túc tam lý, khai phong

+ Đơn thuốc: Vitamin B1 2,5%: 20 ml

Cafein natribenzoat 20%: 10 - 20 ml

Novocain 0,5: 10 - 30 ml

Natriclorua 0,9%: 20 - 3 ml

Thủy châm vào các huyệt ngày một lần, điều trị 5 - 7 ngày liên tục, nghỉ 2-

3 ngày sau đó điều trị tiếp.

Hội chăn nuôi Việt Nam (2002) [12] cho biết: Trước khi đẻ cần lau vú,

xoa vú, tắm cho lợn nái. Cho con bú mẹ sau 1 giờ đẻ, cắt răng nanh lợn con.

Tiêm kháng sinh 1,5 - 2 triệu đơn vị với 100 ml nước cất tiêm quanh vú, tiêm

liên tục trong 3 ngày.

2.2.2.3. Bệnh sót nhau

Lợn nái bị viêm niêm mạc tử cung nên sau khi đẻ nhau không ra hết, can

thiệp vội vàng, thô bạo, không đúng kỹ thuật nên nhau bị đứt và sót lại. Lợn nái

quá già, đẻ nhiều đuối sức, tử cung co bóp kém không đẩy được nhau ra.

* Nguyên nhân: Trịnh Đình Thâu và cs (2010) [26]: Sau khi để tử cung

co bóp yếu trong thời gian mang thai nhất là giai đoạn cuối con vật không được

vận động thỏa đáng. Trong thức ăn thiếu các chất khoáng, nhất là Ca và P. Hoặc

tử cung bị sa liệt, con vật quá gầy yếu hoặc quá béo, chửa quá nhiều thai, thai

quá to, khó đẻ, nước ối quá nhiều làm tử cung giãn nở quá mức.

+ Kế phát sau các bệnh khó đẻ khác.

+ Nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau do con vật mắc các bệnh truyền

nhiễm đặc biệt bệnh Brucellaloes (sẩy thai truyền nhiễm), hoặc do cấu tạo của

nhau.

22

- Triệu chứng: Căn cứ vào mức độ sát nhau người ta chia ra làm 2 loại:

+ Sót nhau hoàn toàn: Toàn bộ nhau thai nằm lại trong tử cung. Khi mắc

thường là có một phần treo lơ lửng ở mép âm môn.

+ Sót nhau không hoàn toàn: Ở động vật đơn thai một phần màng nhau

còn dính lại trong tử cung con mẹ. Đối với động vật đa thai một số nhau ra

ngoài, một số nhau còn sót lại trong tử cung con mẹ.

Theo Đỗ Quốc Tuấn (2005) [27]: Biểu hiện triệu chứng khi lợn nái bị sót

nhau: Con vật đứng nằm không yên, nhiệt độ hơi tăng, thích uống nước, sản

dịch chảy ra màu nâu. Để dễ phát hiện có sót nhau hay không khi đỡ đẻ cho lợn

người ta thường gom toàn bộ nhau lại cho đến khi lợn đẻ xong, đếm số nhau ra

và số lợn con sẽ phát hiện lợn con có sót nhau hay không.

- Điều trị: Can thiệp kịp thời ngay khi nái có biểu hiện bệnh, không để

quá muộn sẽ gây ra viêm tử cung, can thiệp đúng kỹ thuật, không quá mạnh

tay, tránh những tổn thương. Tiêm oxytoxin dưới da để kích thích co bóp tử

cung cho nhau còn sót lại đẩy ra ngoài hết. Sau khi nhau thai ra dùng nước muối

sinh lý 0,9% để rửa tử cung trong ba ngày liên tục (Trịnh Đình Thâu và cs

2010[26])

2.2.2.4. Hiện tượng đẻ khó

* Nguyên nhân

- Đẻ khó do nguyên nhân cơ thể mẹ: Khi chăm sóc, nuôi dưỡng không

tốt, thức ăn không đầy đủ, chất dinh dưỡng thiếu so với nhu cầu của lợn mang

thai dẫn đến cơ thể mẹ suy nhược, sức khỏe kém.

Lợn ăn quá nhiều tinh bột, protein dẫn đến béo cũng gây ra đẻ khó. Lợn

quá gầy cũng dẫn đến đẻ khó.

Do cấu tạo tổ chức các phần mềm như: Cổ tử cung, âm đạo giãn nở không

bình thường có chỗ giãn quá mạnh, chỗ lại không giãn nên việc đẩy con ra

ngoài gặp khó khăn.

23

Khung xoang chậu bị biến dạng, khớp bán động háng phát triển không

bình thường, vôi hóa cột sống hay xoang chậu hẹp. Trong quá trình đẻ độ giãn

nở kém, thai bị mắc trước cửa xoang chậu không ra được.

Ở thời gian có thai kỳ cuối, thai quá to, lợn nái vận động mạnh, chèn ép

tử cung làm tử cung bị xoắn vặn lại, tư thế tử cung thay đổi, đường sinh dục trở

nên không bình thường cũng gây đẻ khó.

Do rối loạn hormone tuyến sinh dục cái: Kích tố nhau thai Relaxin lúc

đẻ tiết ra ít nên không làm mất lớp canxi ở bán động háng, không giãn dây

chằng xương chậu (không sụt mông) hoặc Prostagladin tiết ít không đủ gây co

bóp tử cung nên không tống thai ra ngoài được.

- Đẻ khó do nguyên nhân bào thai.

Chiều hướng, tư thế của thai lúc đẻ không bình thường. các trường hợp

lợn con nằm không đúng tư thế.

Chế độ dinh dưỡng không phù hợp hoặc do quá ít thai, làm thai quá to

không phù hợp với kích thước của xương chậu và đường sinh dục của lợn mẹ.

Thai bị dị hình hay quái thai.

* Triệu chứng

Lợn nái đến ngàyđẻ, nước ối vỡ ra, trong nước ối có lẫn phân su nhưng

không thấy thai ra. Lợn nái có biểu hiện rặn nhiều lần, rặn mạnh, thậm chí lợn

nái còn rặn căng bụng, cong lưng, chân đạp vào thành chuồng để rặn nhưng

thai vẫn không ra. Do thời gian rặn đẻ mạnh và kéo dài mà thai vẫn không ra

làm cho lợn nái mệt mỏi. Nếu để lâu có thể dẫn đến hiện tượng thai bị ngạt mà

chết. Khi đưa tay vào đường sinh dục thấy khung xoang chậu hẹp, thai to hoặc

ở tư thế không bình thường nằm kẹt ở trước cửa xoang chậu.

Rặn đẻ yếu: Đặc trưng các cơn co thắt cơ tử cung và thành bụng của gia

súc mẹ vừa yếu vừa ngắn. Có 3 dạng cơn co thắt và rặn đẻ yếu:

- Cơn co thắt yếu nguyên phát bắt đầu từ khi mở cổ tử cung và xảy ra trùng

với cơn rặn đẻ nguyên phát.

24

- Cơn co thắt và rặn đẻ yếu thứ phát xảy ra sau khi co thắt và rặn đẻ mạnh

nhưng không có kết quả.

- Cơn co thắt và rặn đẻ yếu thứ phát xảy ra do bào thai không di chuyển

được. Các cơn co thắt và rặn đẻ yếu nguyên phát, thông thường, quan sát thấy

khi vi phạm chế độ chăm sóc nuôi dưỡng gia súc chửa và thiếu vận động, cũng

như khi bị bệnh làm suy yếu sức khỏe của con mẹ. Cần can thiệp để cứu lợn

con và mẹ (Trần Văn Bình, 2010) [36]

* Hậu quả

Tử cung co bóp mạnh mà thai không ra, thai bị chèn ép, bị ngạt thở dẫn

đến lợn con bị chết.

Nếu mổ để lấy thai ra ngoài thì lợn mẹ hay bị chết hoặc không thể dùng

sinh sản lứa sau.

Do lợn nái rặn đẻ mạnh và kéo dài làm lợn nái mệt mỏi, kéo dài thời gian

đẻ, sức co bóp của tử cung giảm, gây ra hiện tượng sót nhau, sót con dẫn đến

viêm đường sinh dục.

Lợn bị nhiễm một số bệnh: viêm tử cung, viêm vú, sảy thai truyền

nhiễm,…khi đó, niêm mạc sẽ có nhữngvết sẹo gây cản trở cho quá trình thụ

thai, thai làm tổ,…dẫn đến xảy thai, tiêu thai, đẻ non ở những lần sinh sản tiếp

theo, thậm trí là vô sinh.

* Cách can thiệp

Xác định nguyên nhân đẻ khó để đề ra biện pháp can thiệp thích hợp.

- Do khô đường sinh dục: dùng vaseline, nước xà phòng ấm đặc bôi trơn

âm đạo.

- Do hẹp âm môn: giải phẫu mở rộng âm môn lôi thai ra.

- Do rặn đẻ yếu: tiêm VTM B1, VTM C, cafein trợ sức, đồng thời tiêm

oxytoxin kích thích co bóp.

- Do vị trí, tư thế thai không thuận: dùng tay đẩy thai vào trong, xoay

thai đúng tư thế từ từ lôi thai ra theo nhịp rặn của lợn nái.

25

Viêm âm môn, tiền đình và âm đạo

Trong quá trình sinh đẻ, niêm mạc âm môn, tiền đình và âm đạo bị xây

xát, tổn thương do bào thai hay do can thiệp các trường hợp đẻ khó. Do trong

quá trình đỡ đẻ thao tác kỹ thuật không đúng, dụng cụ đỡ đẻ không vô trùng

gây tổn thương các bộ phận sinh dục bên ngoài. Ngoài ra, bệnh có thể kế phát

từ hiện tượng sảy thai, thai thối rữa trong tử cung hoặc từ bệnh sát nhau.

Lúc đầu niêm mạc bộ phận bị viêm xung huyết nhẹ, có nhiều dịch thẩm

xuất. Kiểm tra âm đạo bằng mỏ vịt, con vật không có phản xạ đau, không có

triệu chứng toàn thân. Con vật rặn vặt, đi đái rắt. Nhiều dịch viêm lẫn tổ chức

hoại tử màu trắng chảy ra ngoài.

2.2.2.6. Bệnh viêm phổi

Tìm hiểu nguyên nhân lợn triệu chứng và kinh nghiệm chăm sóc ta phân

lập viêm phổi của lợn do đâu và nguyên nhân gì, kiểm tra lại hệ thống thức ăn,

các vận hành: quạt, giàn mát, nhiệt độ, vệ sinh, độ đồng đều... nhằm đưa ra biện

pháp điều trị đúng bệnh, đúng thuốc, khắc phục kịp thời, tránh tình trạng bệnh

của lợn kéo dài làm nặng thêm đi đến nhờn thuốc khó điều trị. Khống chế, cách

ly khoanh vùng từ công nhân giữa các chuồng, dụng cụ chăm sóc giữa các

chuồng tránh lây lan bệnh trong trại và giữa các trại. Tìm mọi biện pháp nâng

cao sức đề kháng của lợn kích ăn cho lợn.

Nguyên nhân là do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra, bệnh xâm nhập

chủ yếu qua đường hô hấp. Bệnh cũng có thể do điều kiện chăn nuôi vệ sinh

chuồng trại kém, thời tiết thay đổi,... do sức đề kháng của con lợn giảm. Bệnh

thường lây lan do nhốt chung với gia súc nhiễm bệnh.

Triệu chứng: Lợn bệnh sốt nhẹ 40,1 – 41°C, bắt đầu từ những hắt hơi

chảy nước mũi, sau đó chuyển thành dich nhầy. Lợn thở khó, ho nhiều, sốt ngắt

quãng, ăn kém. Lúc đầu ho khan từng tiếng, ho chủ yếu về đêm, sau đó chuyển

thành ho cơn, ho ướt nghe rõ nhất là vào sáng sớm đặc biệt là các buổi khi trời

se lạnh, gió lùa đột ngột, nước mũi nước mắt chảy ra nhiều. Vì phổi bị tổn

26

thương nên lợn thở thể ngực phải chuyển sang thở thể bụng, nhiều con thở ngồi

như chó. Rõ nhất là sau khi bị xua đuổi.

2.2.3. Đặc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ

 Đặc điểm về sinh trưởng, phát dục:

Đối với chăn nuôi lợn con nói riêng và gia súc nói chung, thời kỳ gia súc

mẹ mang thai được chăm sóc chu đáo, bào thai sẽ phát triển tốt sinh con khỏe

mạnh.

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [21] so với khối lượng sơ sinh thì

khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp 4

lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần, lúc

50 ngày tuổi tăng gấp 10 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần.

Lợn con bú sữa sinh trưởng và phát triển nhanh nhưng không đồng đều

qua các giai đoạn, nhanh trong 21 ngày đầu sau đó giảm dần. Có sự giảm này

là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do lượng sữa mẹ bắt đầu giảm và

hàm lượng hemoglobin trong máu của lợn con bị giảm. Thời gian bị giảm sinh

trưởng kéo dài khoảng 2 tuần hay còn gọi là giai đoạn khủng hoảng của lợn

con. Chúng ta hạn chế sự khủng hoảng này bằng cách cho ăn sớm. Do lợn con

sinh trưởng nhanh nên quá trình tích lũy các chất dinh dưỡng mạnh.

Lợn con sau 3 tuần tuổi mỗi ngày có thể tích lũy được 9 – 14gam protein/1kg

khối lượng cơ thể, trong khi đó lợn trưởng thành chỉ tích lũy được 0,3 - 0,4gam

protein/1kg khối lượng cơ thể theo (Trần Văn Phùng và cs (2004) 21).

Hơn nữa, để tăng 1kg khối lượng cơ thể, lợn con cần ít năng lượng nghĩa

là tiêu tốn năng lượng ít hơn lợn trưởng thành. Vì vậy, cơ thể của lợn con chủ

yếu là nạc, mà để sản xuất ra 1kg thịt nạc cần ít năng lượng hơn để tạo ra 1kg

mỡ.

 Đặc điểm phát triển của cơ quan tiêu hóa

Đặc điểm chung về giải phẫu cơ quan tiêu hóa của lợn: Miệng, hầu, thực

quản, dạ dày, ruột non, ruột già, hậu môn.

27

Cơ quan tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh nhưng chưa hoàn chỉnh,

các tuyến tiêu hóa phát triển chưa đồng bộ, dung tích của bộ máy tiêu hóa còn

nhỏ, thời kỳ bú sữa cơ quan phát triển hoàn thiện dần.

Dung tích bộ máy tiêu hóa tăng nhanh trong 60 ngày đầu: Dung tích dạ

dày lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần, lúc 20 ngày tuổi gấp 8 lần và lúc 60 ngày tuổi

tăng gấp 60 lần so với lúc sơ sinh (dung tích dạ dày lúc sơ sinh khoảng 0,03

lít). Dung tích ruột non lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi

gấp 6 lần, lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích lúc sơ sinh khoảng 0,12 lít).

Còn dung tích ruột già lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 50 lần so với lúc sơ sinh. Sự

tăng về kích thước cơ quan tiêu hóa giúp lợn con tích lũy được nhiều thức ăn

và tăng khả năng tiêu hóa các chất.

Mặc dù vậy, ở lợn con, các cơ quan chưa thành thục về chức năng, đặc

biệt là hệ thần kinh. Do đó, lợn con phản ứng rất chậm đối với các yếu tố tác

động lên chúng. Do chưa thành thục nên cơ quan tiêu hóa của lợn con cũng rất

dễ mắc bệnh, dễ rối loạn tiêu hóa.

Một đặc điểm cần lưu ý ở lợn con là có giai đoạn không có axit HCl trong

dạ dày. Giai đoạn này được coi như một tình trạng thích ứng tự nhiên. Nhờ vậy

nó tạo được khả năng thẩm thấu các kháng thể có trong sữa đầu của lợn mẹ.

Trong giai đoạn này dịch vị không có khả năng phân giải protein mà chỉ có khả

năng làm vón sữa đầu và sữa. Còn huyết thanh chứa albumin và globulin được

chuyển xuống ruột và thẩm thấu vào máu.

Ở lợn con từ 14 - 16 ngày tuổi, tình trạng thiếu axit HCl ở dạ dày không

còn gọi là trạng thái bình thường nữa. Việc tập cho lợn con ăn sớm có tác dụng

thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn thiện. Vì

thế sẽ rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl. Bởi vì khi được bổ sung thức ăn thì

thức ăn sẽ kích thích tế bào vách dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do sớm hơn và

tăng cường phản xạ tiết dịch vị (giai đoạn con non khác với con trưởng thành

là chỉ tiết dịch vị khi thức ăn vào dạ dày).

28

Hoàng Toàn Thắng và cs (2005) [25] cho rằng: Lợn con dưới 1 tháng

tuổi, dịch vị không có HCl tự do, lúc này lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng

kết hợp với dịch nhày của dạ dày, hiện tượng này gọi là hypohydric. Do dịch

vị chưa có HCl tự do nên men pepsin trong dạ dày lợn chưa có khả năng tiêu

hóa protein của thức ăn. Vì HCl tự do có tác dụng kích hoạt men pepsinnogen

không hoạt động thành men pepsin hoạt động và men này mới có khả năng tiêu

hóa protein.

Enzym trong dịch vị dạ dày lợn con đã có từ lúc mới đẻ, tuy nhiên lợn

trước 20 ngày tuổi không thấy khả năng tiêu hóa thực tế của dịch vị có enzym,

sự tiêu hao của dịch vị tăng theo tuổi một cách rõ rệt khi cho ăn các loại thức

ăn khác nhau, thức ăn hạt kích thích tiết ra dịch vị mạnh. Hơn nữa dịch vị thu

được khi cho thức ăn hạt kích thích HCl nhiều hơn và sự tiêu hóa nhanh hơn

dịch vị thu được khi cho uống sữa. Đây là cơ sở cho việc bổ sung sớm thức ăn

và cai sữa sớm cho lợn con.

Thực nghiệm còn xác nhận rằng nhiều loại vi khuẩn đường ruột đã sinh

ra các chất kháng sinh ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh, khi lợn con

sinh ra hệ vi sinh vật đường ruột chưa phát triển đầy đủ số lượng vi khuẩn có

lợi, chưa có khả năng kháng lại vi khuẩn gây bệnh nên rất dễ nhiễm bệnh đường

tiêu hóa. Vi khuẩn gây bệnh phó thương hàn, vi khuẩn gây thối rữa ở lợn con

mới sinh.

 Đặc điểm về cơ năng điều tiết của lợn con

Cơ năng điều tiết thân nhiệt của lợn con chưa hoàn chỉnh vì vỏ đại não

của lợn con chưa phát triển hoàn thiện. Do đó việc điều tiết thân nhiệt và năng

lực phản ứng kém, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường (nhiệt độ, độ ẩm).

Theo Từ Quang Hiển và cs (2001) [13] ở lợn con, khả năng sinh trưởng

và phát triển nhanh, yêu cầu về dinh dưỡng ngày càng tăng cao. Trong khi đó

sản lượng sữa của lợn mẹ tăng dần đến 2 tuần sau khi đẻ và sau đó giảm dần cả

29

về chất và lượng. Đây là mâu thuẫn giữa nhu cầu dinh dưỡng của lợn con và

khả năng cung cấp sữa của lợn mẹ. Nếu không kịp thời bổ sung thức ăn cho lợn

con thì lợn thiếu dinh dưỡng dẫn đến sức đề kháng yếu, lợn con gầy còm, nhiều

lợn con mắc bệnh. Vì vậy, nên tiến hành cho lợn con tập ăn sớm để khắc phục

tình trạng khủng hoảng trong thời kỳ 3 tuần tuổi và giai đoạn sau cai sữa.

Lợn con dưới 3 tuần tuổi cơ năng điều tiết thân nhiệt chưa hoàn chỉnh

nên thân nhiệt chưa ổn định, nghĩa là sự thải nhiệt và sinh nhiệt chưa cân

bằng.

Khi còn là bào thai, các chất dinh dưỡng được mẹ cung cấp qua nhau

thai, điều kiện sống tương đối ổn định. Lợn con sơ sinh gặp điều kiện sống hoàn

toàn mới, nếu chăm sóc không tốt rất dễ mắc bệnh còi cọc và chết.

Ngoài ra lớp mỡ dưới da của lợn con còn mỏng, lượng mỡ glycogen dự

trữ trong cơ thể lợn còn thấp, trên cơ thể lợn con lông còn thưa, mặt khác diện

tích bề mặt cơ thể so với khối lượng cơ thể chênh lệch tương đối cao nên lợn

con dễ bị mất nhiệt và khả năng cung cấp nhiệt cho lợn con chống rét còn thấp

dẫn đến lợn con rất dễ mắc bệnh khi thời tiết thay đổi.

Ở điều kiện nhiệt độ thấp, độ ẩm không khí cao gây ra hiện tượng tăng

tỏa nhiệt ở lợn con bằng phương thức bức xạ. Vì thế ở nước ta vào cuối mùa

đông đầu mùa xuân, khí hậu lạnh và ẩm, lợn con sẽ bị toả nhiệt theo phương

thức này, làm cho nhiệt lượng cơ thể mất đi, lợn bị lạnh. Đây là điều kiện thuận

lợi dẫn đến phát sinh bệnh, nhất là bệnh đường tiêu hoá.

 Đặc điểm về khả năng miễn dịch của lợn con

Phản ứng miễn dịch là khả năng đáp ứng của cơ thể. Phần lớn các chất

lạ là mầm bệnh. Mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể lợn con tương đối dễ dàng, do

chức năng của các tuyến chưa hoàn chỉnh. Ở lợn con lượng enzym tiêu hoá và

lượng HCl tiết ra còn ít, chưa đủ để đáp ứng cho quá trình tiêu hoá, gây rối loạn

trao đổi chất, dẫn tới khả năng tiêu hoá kém, hấp thu kém. Trong giai đoạn này

30

mầm bệnh (Salmonella spp, E.coli) dễ dàng xâm nhập vào cơ thể qua đường

tiêu hoá và gây bệnh.

Lợn con mới đẻ ra trong cơ thể hầu như chưa có kháng thể. Lượng kháng

thể tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu của lợn mẹ. Cho nên khả

năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào lượng kháng

thể hấp thu được nhiều hay ít từ sữa đầu của lợn mẹ.

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [21] trong sữa đầu của lợn mẹ hàm

lượng protein rất cao. Những ngày đầu mới đẻ, hàm lượng protein trong sữa

chiếm 18 - 19%, trong đó lượng  - globulin chiếm số lượng khá lớn (30 - 35%).

Nó có tác dụng tạo sức đề kháng, vì vậy sữa đầu có vai trò quan trọng đối với

khả năng miễn dịch của lợn con. Lợn con hấp thu lượng  - globulin bằng con

đường ẩm bào. Quá trình hấp thu nguyên vẹn nguyên tử  - globulin giảm đi

rất nhanh theo thời gian. Nó chỉ có khả năng hấp thu qua ruột non của lợn con

rất tốt trong 24 giờ đầu sau khi đẻ ra nhờ trong sữa đầu có kháng men antitripsin

làm mất hoạt lực của men tripsin tuyến tụy và nhờ khoảng cách tế bào vách

ruột của lợn con khá rộng, cho nên 24 giờ sau khi được bú sữa đầu, hàm lượng

 - globulin trong máu lợn con đạt tới 20,3mg/100ml máu. Sau 24 giờ, lượng

kháng men trong sữa đầu giảm dần và khoảng cách giữa các tế bào vách ruột

của lợn con hẹp dần, sự hấp thu - globulin kém hơn, hàm lượng - globulin

trong máu lợn con tăng lên chậm hơn. Đến 3 tuần tuổi chỉ đạt khoảng

24mg/100ml máu (máu bình thường của lợn trưởng thành có khoảng

65mg/100ml máu), do đó lợn con cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Nếu

lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi mới có khả năng tự tổng

hợp kháng thể, những lợn con không được bú sữa đầu thì sức đề kháng kém,

dễ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao.

2.2.4. Một số bệnh thường gặp ở lợn con

* Tiêu chảy

31

Phạm Ngọc Thạch (1996) [23] cho biết tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng

của quá trình bệnh lý ở đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật đi ỉa nhanh, nhiều

lần trong ngày, phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu hóa, ruột tăng

cường co bóp và tiết dịch hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay đổi tạm thời của

phân gia súc đang thích ứng với những thay đổi trong khẩu phần ăn. Tiêu chảy

xảy ra ở nhiều bệnh và bản thân nó không phải là bệnh đặc thù (Archie H.,

2000) [1].

Theo Trần Đức Hạnh (2013) [11]: lợn con ở 1 số tỉnh phía bắc mắc tiêu

chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84 % và 5,37 %, tỷ lệ mắc tiêu chảy và

chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ 21 – 40 ngày (30,97

và 4,93 %) và giảm ở giai đoạn 41 - 46 ngày.

Nguyễn Chí Dũng (2013) [8] kết luận: Tháng có nhiệt độ thấp và ẩm độ

cao (12,1,2 %) tỷ lệ mắc tiêu chảy cao (26,98 – 38,18 %).

Nguyên nhân:

- Do thời tiết khí hậu: các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay

đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ

thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích

nghi của cơ thể (Đoàn Kim Dung, 2002) [7].

- Lợn con bị nhiễm khuẩn: Theo Phạm Sỹ Lăng (2009) [16], bệnh tiêu

chảy ở lợn có nguyên nhân do vi khuẩn E.coli, Salmonella,...trong đó

Salmonella là vi khuẩn có vai trò quan trọng trong quá trình gây ra hội chứng

tiêu chảy.

- Theo Glawisschning E, Bacher H. (1992) [31], nguyên nhân gây bệnh

phân trắng lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu dinh

dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt.

- Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung.

- Lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần.

32

- Bệnh tiêu chảy trên lợn con do E.coli có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi theo

mẹ nào nhưng thường có hai thời kỳ cao điểm là 0-5 ngày tuổi và 7-14 ngày

tuổi (Nagy B và Fekete PZS, 2005) [32].

Theo Lê Thị Hoài (2008) [38], tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý có

liên quan đến nhiều yếu tố. Vì vậy, việc phân biệt giữa các nguyên nhân gây

tiêu chảy là rất khó khăn. Môi trường ngoại cảnh là yếu tố quan trọng ảnh hưởng

đến sức đề kháng của cơ thể gia súc. Khi có sự thay đổi các yếu tố như nhiệt

độ, độ ẩm, mưa, nắng, điều kiện chuồng nuôi đều ảnh hưởng đến sức khỏe của

lợn đặc biệt là lợn con theo mẹ, do cấu tạo và chức năng sinh lý chưa ổn định

và hoàn thiện, khi gặp các yếu tố bất lợi dễ gây stress dẫn đến nhiều bệnh trong

đó có tiêu chảy.

Triệu chứng:

Sàn chuồng có phân lợn lỏng, màu vàng hoặc màu trắng

Trong chuồng có hiện tượng lợn nôn ra sữa

Người lợn con bị bẩn do dính phân

Vú lợn mẹ dính phân lợn con

* Viêm phổi

Tìm hiểu nguyên nhân, triệu chứng và kinh nghiệm chăm sóc ta phân lập

viêm phổi của lợn do đâu và nguyên nhân gì, kiểm tra lại hệ thống thức ăn, cách

vận hành: Quạt, nhiệt độ, vệ sinh, độ đồng đều… nhằm đưa ra biện pháp điều

trị đúng bệnh, đúng thuốc, khắc phục kịp thời, tránh tình trạng bệnh của lợn

kéo dài làm nặng thêm đi đến nhờn thuốc khó điều trị. Khống chế, cách ly

khoanh vùng từ công nhân giữa các chuồng, dụng cụ chăm sóc giữa các chuồng

tránh lây lan bệnh trong trại và giữa các trại. Tìm mọi biện pháp nâng cao sức

đề kháng của lợn, kích ăn cho lợn.

Nguyên nhân là do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra, bệnh xảy ra

trên lợn con ngay từ khi mới sinh ra, bệnh xâm nhập chủ yếu qua đường hô

33

hấp. Bệnh cũng có thể do điều kiện chăn nuôi vệ sinh chuồng trại kém, thời

tiết thay đổi…, do sức đề kháng của lợn giảm. Bệnh thường lây lan do nhốt

chung với con nhiễm bệnh.

* Viêm khớp

Nguyên nhân: Streptococcus suis là vi khuẩn gram (+), Streptococcus

suis gây viêm khớp lợn cấp và mãn tính ở mọi lứa tuổi. Bệnh này thường gây

ra trên lợn con 1 - 6 tuần tuổi. Vi khuẩn xâm nhập qua đường miệng, cuống

rốn, vết thương khi cắt đuôi, bấm nanh, các vết thương trên da, đầu gối khi chà

sát trên nền chuồng, qua vết thiến (Nagy B. và cs, 1994) [40].

Triệu chứng: Lợn con đi khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi, khớp chân sưng

lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh nhưng tử vong thường xảy ra lúc 2 - 5 tuần

tuổi. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn chân. Lợn ăn ít,

hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ khớp viêm tấy đỏ,

sưng, sờ nắn vào có phản xạ đau.

2.2.5. Những hiểu biết về quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ và

lợn nái nuôi con

2.2.5.1. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái đẻ

Mục đích chăn nuôi lợn nái đẻ nhằm đảm bảo cho lợn đẻ an toàn, lợn

con có tỷ lệ sống cao, lợn mẹ có sức khỏe tốt, đủ khả năng tiết sữa nuôi con

Chính vì vậy quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng có vai trò rất quan trọng và ảnh

hưởng trực tiếp đến sức khỏe lợn mẹ và lợn con.

- Quy trình nuôi dưỡng

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [21] thức ăn dùng cho lợn nái đẻ phải

là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao,dễ tiêu hóa. Không cho lợn nái ăn

thức ăn có hệ số choán cao gây chèn ép thai sinh ra đẻ non, đẻ khó, hoặc ép thai

chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cụ thể

của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có

sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức ăn, đẻ trước 2 – 3

34

ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức khỏe yếu thì không

giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng cách tăng cường cho ăn

các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải căn cứ vào thể trạng của

lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ dinh dưỡng cho hợp lý.

Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh (0,5kg) hoặc không cho thức

ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ có thể không cho lợn nái ăn mà

chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn cháo loãng. Sau khi đẻ 2 -3 ngày

không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 -5

thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm

ngon để kích thích tính thèm ăn cho lợn nái.

- Quy trình chăm sóc

Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến

năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Theo Trần Văn Phùng và cs

(2004) [21] cần phải theo dõi thường xuyên sức khỏe lợn mẹ, quan sát bầu vú,

thân nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện các trường

hợp bất thường để có biện pháp xử lý kịp thời. Trước khi lợn đẻ 10 -15 ngày

cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ. Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng toàn bộ ô chuồng,

nền chuồng, sàn chuồng dùng cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khô

ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống

chuồng từ 3 -5 ngày trước khi lợn nái vào đẻ. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh

lợn nái sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người,

dùng khăn thấm nước muối lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy tránh được

nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có

vi khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái,chúng ta chuyển nhẹ

nhàng từ chuồng chửa sang chuồng đẻ để lợn quen dần với chuồng mới.

Trong quá trình chăm sóc lợn nái đẻ, công việc cần thiết và rất quan trọng

đó là việc chuẩn bị ô úm lợn cho lợn con. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004)

[21] ô úm rất quan trọng đối với lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè

35

chết lợn con, đặc biệt những ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu, mà lợn mẹ

mới đẻ xong sức khỏe còn rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống

chế nhiệt độ thích hợp cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào những tháng mùa

đông. Ngoài ra, ô úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con

(để máng ăn vào ô úm cho lợn con lúc 7 -10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc

đẩy và ăn thức ăn của lợn con. Vào ngày dự kiến đẻ của lợn nái, cần chuẩn bị

xong ô úm cho lợn con. Kích thước ô úm: 1,2m x 1,5m. Ô úm được cọ rửa sạch,

phun khử trùng và để trống từ 3 – 5 ngày trước khi đón lợn con sơ sinh.

2.2.5.2. Quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc lợn nái nuôi con

- Quá trình nuôi dưỡng

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [21] thức ăn cho lợn nái nuôi con phải

là những thức ăn có ảnh hưởng tốt đến sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại

thức ăn xanh non như các loại rau xanh, các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ.

Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám gạo, bột mỳ, các loại thức ăn bổ sung đạm động

vật, đạm thực vật, các loại khoáng, vitamin... Không cho lợn nái nuôi con ăn các

loại thức ăn thối mốc, biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con

dùng trong chăn nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các

thành phần vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao

đổi 3100 Kcal, protein 15%, Ca từ 0,9 – 1,0 %, phospho 0,7 %.

Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con cũng đóng vai trò quan trọng và ảnh

hưởng trưc tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ, chính vì

vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng cho lợn mẹ.

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [21] trong quá trình nuôi con, lợn nái được

cho ăn như sau:

- Đối với lợn nái ngoại:

+ Ngày cắn ổ đẻ: cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (0,5 kg)

hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do.

36

+ Sau ngày đẻ thứ 1, 2 và 3 cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ

1- 2- 3kg tương ứng.

+ Ngày nuôi con thứ 4 đến ngày thứ 7: cho ăn 4kg thức ăn hỗn

hợp/nái/ngày.

+ Từ ngày thứ 8 đến cai sữa cho ăn theo công thức: Lượng thức

ăn/nái/ngày = 2kg +(số con x 0,35kg/con)

+ Số bữa ăn trên ngày: 2 (sáng và chiều)

+ Nếu lợn mẹ gầy thì cho ăn thêm 0,5 kg, lợn mẹ béo thì giảm 0,5 kg

thức ăn/ngày.

+ Ngoài ra cho lợn nái ăn từ 1 – 2 kg rau xanh/ngày sau bữa ăn tinh (nếu

có rau xanh).

+ Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 – 30%

+ Ngày cai sữa cho lợn mẹ nhịn ăn, hạn chế uống nước.

- Quy trình chăm sóc

Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [21] vận động tắm nắng là điều kiện

tốt giúp cho lợn nái nhanh phục hồi sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của

lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ 3 -7 ngày, trong điều kiện chăn nuôi có

sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể cho lợn nái vận động, thời gian vận

động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần số giờ vận động lên. Trong chăn

nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con đều bị nhốt trong các cũi đẻ, không

được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến thành phần dinh dưỡng của thức ăn,

đặc biệt các chất khoáng và vitamin.

Ngoài ra yêu cầu đối với chuồng trại của lợn nái nuôi con là phải đảm

bảo luôn khô ráo, sach sẽ, không ẩm ướt, vì vậy hàng ngày phải vệ sinh chuồng

trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [21]

chuồng lợn nái nuôi con phải có ô úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con.

Nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp là 18 – 200C, độ ẩm 70 – 75%.

37

Bảng 2.1 Bảng quy định cám chuồng đẻ

(Nguồn: Phòng kĩ thuật heo)

Đối với nái dạ Đối với nái hậu bị

Khẩu phần Khẩu phần Trước /sau

ngày đẻ Sáng Trưa Chiều Tối Tổng Sáng Trưa Chiều Tối Tổng

Trước đẻ 1.0 0,5 0,5 0,5 2,5 0,7 0,5 0,5 0,5 2,2 4 ngày

Trước đẻ 0,5 0,5 0,5 0,5 2,0 0,5 0,5 0,5 0,5 2,0 3 ngày

Trước đẻ 0,5 0,5 0,2 0,5 1,7 0,5 0,5 0,2 0,5 1,7 2 ngày

Trước đẻ 0,5 0,3 0,2 0,5 1,5 0,5 0,3 0,2 0,5 1,5 1 ngày

Ngày đẻ 0,3 0,2 0,2 0,3 1,0 03 0,2 0,2 0,3 1,0

Đẻ được 1 ngày 0.3 0,2 0,2 0,3 1,0 0,3 0,2 0,2 0,3 1,0

Đẻ được 2 ngày 0,5 0,5 0,5 0,5 2,0 0,5 0,5 0,5 0,5 2,0

Đẻ được 3 ngày 1,0 0,5 0,5 1,0 3,0 1,0 0,5 0,5 1,0 3,0

Đẻ được 4 ngày 1,0 1,0 1,0 1,0 4,0 1,0 1,0 1,0 1,0 4,0

Đẻ được 5 ngày 1,5 1,0 1,0 1,5 5,0 1,5 1,0 1,0 1,5 5,0

2.3. Tình hình các nghiên cứu trong và ngoài nước

2.3.1. Nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết

về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng

suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà

còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả

năng sống sót của lợn con.

38

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [15] thì: bệnh viêm tử cung do vi khuẩn

Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do

đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát

tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo.

Theo tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [3], cho biết: ở những nái bị viêm

tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt

nặng).

Theo tác giả Trần Tiến Dũng và cs (2002) [9], khi gia súc bị bệnh viêm

tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa bằng

các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung co bóp

yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh nặng

thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết hợp với

kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ.

Theo Phạm Hữu Doanh và cs (2003) [6] cho biết: Trước khi đẻ lau, xoa

vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1h đẻ, cắt răng nanh lợn

con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh:

Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú

bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các

vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục.

Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [9], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn

chiếm tỷ lệ cao từ 30 – 50%, trong đó viêm cơ quan bên ngoài ít, chiếm tỷ lệ

20%, còn lại 80% là viêm tử cung.

Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [9] cho biết: viêm tử cung là một quá

trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy

các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia

súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.

Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị

nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy

39

thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn

nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử

cung (Nguyễn Đức Lưu và cs 2004 [17]).

- Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [22], tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử

cung là tương đối cao, bệnh thường tập trung ở đàn lợn nái đẻ lứa đầu hoặc đã

đẻ nhiều lứa, khi thử nghiệm điều trị tác giả nhận thấy dùng PGF2α liều 25 mg

tiêm dưới da kết hợp với dung dịch Lugol 0,1 % thụt rửa tử cung cho kết quả

điều trị cao.

Theo Trần Ngọc Bích và cs, (2016) [37] khảo sát tình hình viêm nhiễm

đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng

sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm

đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13 %.

Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh viêm tử cung của nái là do: thiếu về

dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, tuổi, lứa đẻ,

tình trạng sức khỏe, kích dục tố, nhiễm trùng sau khi sinh. Từ những yếu tố đó

ta có thể đề ra phương pháp phòng bệnh viêm tử cung. Nguyên nhân chính

dẫn đến bệnh viêm tử cung của nái là do: Thiếu về dinh dưỡng, chăm sóc,

quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe,

kích dục tố, nhiễm trùng sau khi sinh. Từ những yếu tố đó ta có thể đề ra

phương pháp phòng bệnh viêm tử cung (Đặng Thanh Tùng, 2011) [7].

Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [10], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị

bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày.

Tiêm Amoxi 15 % 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm

có kết quả điều trị khỏi bệnh cao

Do nhiễm vi khuẩn Staphylococcus, Streptococcus vì các nguyên nhân

như lợn con có răng nanh làm xây xát vú mẹ tạo điều kiện vi trùng xâm nhập.

Lợn nái nhiều sữa con bú không hết làm sữa đọng nhiều tạo môi trường cho

40

vi trùng sinh sản gây viêm vú. Lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng còn lại

căng sữa quá nên viêm

2.3.2. Nghiên cứu ngoài nước

Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thê giới đang rất phát triển, các nước

không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp

khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Tuy nhiên vấn

đề hạn chế bệnh sinh sản là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết, đặc biệt là

bệnh viêm đường sinh dục. Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh

viêm đường sinh dục và đã đưa ra các kết luận giúp cho người chăn nuôi lợn

nái sinh sản hạn chế được bệnh này. Tuy vậy, tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh

dục trên đàn lợn nái sinh sản vẫn rất cao.

Theo Zaneta, Laureckiene (2006) [25]: Để phòng bệnh viêm đường sinh

dục cần: Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ một tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc

nước vôi 20% sau đó rửa sạch bằng nước thường, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ

sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú. Trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát

trùng kỹ bằng cồn, xoa trơn tay bằng vaselin hoặc dầu lạc. Sau khi lợn đẻ xong

cần phải bơm rửa bằng nước đun sôi để nguội pha thuốc tím 0,1% hay nước

muối sinh lý 0,9%. Sau đó bơm hoặc đặt kháng sinh như: Penicilin 2-3 triệu

UI; Tetramycine hay Sulfanilamid 2-5g hoặc Clorazol 4-6 viên vào tử cung để

chống viêm.

- Cho lợn nái chửa thường xuyên vận động, đảm bảo ăn uống đầy đủ, vệ

sinh sạch sẽ.

- Kiểm tra nghiêm ngặt dụng cụ thụ tinh đúng quy định và không để

nhiễm khuẩn.

- Không sử dụng lợn đực bị nhiễm khuẩn đường sinh dục để nhảy trực

tiếp hoặc lấy tinh.

- Phòng bệnh truyền nhiễm Leptospirosis, Brucellosis,... bằng cách dùng

41

vaccine đúng quy định, đúng thời gian cho đàn lợn sinh sản tránh những trường

hợp bị sốt đột ngột gây sảy thai.

Theo Bilkei (1994) [2], viêm tử cung thường sảy ra trong lúc sinh do

nhiễm vi khuẩn E.coli gây dung huyết và các vi khuẩn gram dương.

Theo Urban (1983) [34]; Bilkei (1994) [2], các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử

cung có nguồn gốc từ nước tiểu, các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước

tiểu lợn nái sắp sinh thường có chứa các vi khuẩn E.coli, Staphylococcusaureus,

Streptococcus spp. Tuy nhiên, các nghiên cứu của các tác giả khác lại ghi nhận

các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm vi

sinh vật hiếu khí có mặt ở nền chuồng, lúc lợn nái sinh cổ tử cung mở, vi khuẩn

xâm nhập và gây bệnh. Do đó theo Gardner (1990) [30], Smith (1995) [33];

Taylor (1995) [35], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là

yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh. Winson khi

mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh

sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi

bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ.

Ở Pháp các tác giả Pierre brouillt và Bernarrd faroult (2003) [29] đã

nghiên cứu và kết luận: Điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu

tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú. Nó phải được tiến hành sớm và đạt

kết quả, xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải

tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của 30 phòng thí

nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học

và dược động học cho phép đáp ứng tốt hơn cách điều trị.

42

Phần 3

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH

3.1. Đối tượng

- Lợn nái đẻ và lợn nái nuôi con.

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành

- Địa điểm:Trại lợn Việt Anh, xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải

Phòng

- Thời gian: 18/05/2018 đến ngày 25/11/2018.

3.3. Nội dung thực hiện

- Khảo sát tình hình chăn nuôi của trại.

- Thực hiện quy trình chăm sóc nuôi dưỡng trên đàn lợn nái sinh sản

- Áp dụng các biện pháp phòng và trị bệnh trên đàn lợn nái sinh sản nuôi

tại trại.

- Tham gia các công tác khác trong thời gian thực tập tại cơ sở.

3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi

- Cơ cấu đàn lợn tại thời điểm thực tập.

- Khối lượng công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại.

- Tình hình sinh sản của lợn nái tại cơ sở.

- Một số chỉ tiêu kỹ thuật của đàn lợn nái tại trại.

- Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại.

- Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn nái của trại.

3.4.2. Phương pháp thực hiện

 Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại

Để đánh giá được tình hình chăn nuôi của trại em đã phải hỏi thông tin

từ bác chủ trại, đồng thời tự tìm hiểu và tìm kiếm số liệu từ các sổ sách ghi chép

của trại trong 2 năm gần đây.

43

 Tình hình sinh sản của đàn lợn nái tại trại

Để khảo sát tình hình sinh sản của đàn lợn nái tại trại em đã thu thập thông tin

từ chủ trại, đồng thời lấy thông tin từ sổ sách và hỏi cán bộ kĩ thuật của trại

kết hợp với theo dõi đàn lợn nái trong quá trình thực tập tại cơ sở.

 Tình hình mắc bệnh của đàn lợn nái tại trại

Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, chúng em xem sổ sách theo

dõi bệnh của đàn lợn đồng thời tiến hành theo dõi hàng ngày, thông qua

phương pháp chẩn đoán lâm sàng. Quan sát các biểu hiện như: trạng thái cơ

thể, bộ phận sinh dục ngoài, dịch rỉ viêm, phân.... ghi chép vào nhật ký thực

tập hàng ngày. Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều

 Điều trị lợn mắc bệnh.

trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại.

Sau khi xác định được bệnh, chúng em sử dụng phác đồ điều trị của trại kết

hợp tham khảo thêm các tài liệu khác và cùng cán bộ kĩ thuật của trại để điều

trị lợn mắc bệnh.

 Phương pháp tính một số chỉ tiêu.

- Tỉ lệ lợn mắc bệnh: ∑ số lợn mắc bệnh Tỷ lệ lợn mắc bệnh (%) = x 100

∑ số lợn theo dõi

- Tỷ lệ lợn khỏi: ∑ số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi (%) = x 100 ∑ số con điều trị

- Tỷ lệ lợn con được thực hiện thao tác phẫu thuật:

∑ số con thực hiện phẫu thuật Tỷ lệ thực hiện (%)= x100 ∑ lợn con

44

Phần 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. Kết quả đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại

Hiện nay trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45 - 2,50 lứa/năm.

Số con sơ sinh là 12,69 con/đàn, số con cai sữa: 11,56 con/đàn.

Tại trại, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26

ngày thì tiến hành cai sữa và xuất bán.

Bảng 4.1 Tình hình chăn nuôi của trại năm 2017-5/2018

Số lượng (con) STT Chỉ tiêu Tháng 1-11/2018 2017

1 Lợn đực giống 10 13

2 Lợn nái sinh sản 575 617

3 Lợn hậu bị 120 150

4 Lợn con 14.400 14.755

(Nguồn: cán bộ kỹ thuật trại)

Số liệu bảng 4.1 cho thấy: số lượng các loại lợn được nuôi ở trại là rất

khác nhau và có sự chênh lệch rõ rệt. Số lợn con và lợn nái sinh sản là cao nhất,

vì do trạng trại chỉ sản xuất lợn giống, do đó cơ cấu của trại chủ yếu là lợn nái

và lợn con theo mẹ. Số lượng lợn nái có xu hướng tăng lên, đặc biệt lợn nái hậu

bị tăng lên nhằm thay thế cho các lợn nái sinh sản không đủ tiêu chuẩn và phải

loại thải. Từng lợn nái được theo dõi tỉ mỉ, các số liệu liên quan của từng nái

như số tai, ngày phối giống, ngày đẻ dự kiến,... được ghi trên thẻ gắn tại chuồng

nuôi. Số lợn đực giống cũng tăng từ10 lên 13 con là do số lợn nái tăng khiến

nhu cầu về khai thác tinh dịch để phối giống cho lợn nái tăng

Để đạt được những kết quả như trên ngoài việc áp dụng khoa học kĩ thuật

, đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất..., trang trại đã tuân thủ nghiêm ngặt các

yêu cầu vệ sinh thú y, với phương châm “ phòng dịch hơn dập dịch”

45

4.2. Kết quả thực hiện quy trình nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn

Chăm sóc, nuôi dưỡng là một quy trình không thể thiếu của bất kỳ trại

chăn nuôi nào, chính vì vậy trong suốt 6 tháng thực tập tại trại chúng em đã

được tham gia và làm các công việc về nuôi dưỡng, chăm sóc cho đàn lợn tại

trạiChúng em đã được học hỏi và mở mang kiến thức rất nhiều về cách cho ăn,

thức ăn nào dành cho những loại lợn nào, các thao tác kỹ thuật để chăm sóc lợn

mẹ tốt… Và sau đây là kết quả em đã thực hiện được.

Để thực hiện được các biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nái

sinh sản của trại em được phân công chăm sóc, nuôi dưỡng 336 lợn nái. Kết

quả được thể hiện ở bảng 4.2.

Băng 4.2. Số lượng lớn nái, lợn con chăm sóc trong 6 tháng tại trại

Nái nuôi Lợn con Lợn con Tháng Nái chửa con đẻ ra cai sữa

55 56 6 687 653

53 56 7 662 647

56 56 8 700 672

56 56 9 728 689

55 56 10 742 713

56 56 11 728 691

Tổng 336 331 4.247 4.065

Số liệu bảng 4.2 cho thấy: số lượng lợn nái chửa, nái đẻ nuôi con và số

lượng lợn con mà em trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc trong 6 tháng thực tập.

Số lượng lợn nái chửa mỗi tháng em chăm sóc trung bình là 56 con, đây là

những lợn nái chửa ở giai đoạn cuối 100 – 114 ngày, đã được chuyển lên chuồng

nái đẻ để chờ đẻ và tập làm quen với chuồng đẻ.Khi lợn chuyển lên chuồng đẻ

thì thẻ nái được gắn vào mỗi bảng cám đầu ô chuồng, ghi ngày đẻ dự kiến, ghi

bảng cám để tiện cho ăn và chuẩn bị đỡ đẻ.

46

Khi chăm sóc lợn nái bầu giai đoạn 2 tuần trước khi đẻ phải chú ý về

khẩu phần ăn của từng con lợn, khi tra cám lợn phải nhìn vào bảng cám của

từng con, nếu cho ăn quá nhiều hoặc quá ít đều ảnh hưởng tới bào thai. Khi

thực hiện tra cám, qua theo dõi 1 số con lợn nái được ăn nhiều hơn theo tiêu

chuẩn thì em thấy lợn nái dễ béo, lợn con đẻ ra nặng hơn khối lượng trung bình,

lợn mẹ thường khó đẻ. Đặc biệt phải chú ý đến khẩu phần ăn của những con

lợn hậu bị mới lên đẻ 1 - 2 lứa. Khi cho ăn nên cho ăn buổi sáng lúc 6 giờ 30

phút ngay sau khi vào chuồng và buổi chiều lúc 4 giờ. Buổi sáng nên cho ăn

sớm vì con lợn mẹ đã không được ăn suốt một đêm dài nên rất đói, buổi chiều

nên cho ăn lúc 4 giờ vì khi này thời tiết đã hạ nhiệt độ lợn mẹ thu nhận được

nhiều thức ăn hơn. Khẩu phần ăn được chia làm 3 bữa với lợn nái đẻ vì sau khi

đẻ lợn mệt mỏi, nên cho ăn nhiều bữa để tăng thu nhận thức ăn, cho ăn nhiều

vào bữa sáng và chiều, bữa tối lúc 9 giờ cho ăn ít hơn. Thường xuyên xịt cọ sàn

chuồng sạch sẽ, khi lợn đẻ sẽ tránh nhiễm trùng cho lợn con và tránh được vi

khuẩn xâm nhập vào tử cung gây viêm.

Lợn nái trước khi sinh thường có những biểu hiện sau: Trước khi sinh 3

ngày bầu vú căng, có tiết vài giọt sữa. Đối với nái tơ thường sinh sau 2 – 3 giờ

tiết sữa. Ngoài ra nái còn tăng nhịp thở, thải phân lắt nhắt. Sau khi sinh được

vài con nếu nhận thấy nái khó đẻ có thể dùng oxytocin 2 ml/nái. Khi lợn sắp đẻ

thì chuẩn bị đỡ đẻ gồm các công việc em trực tiếp làm là: chuẩn bị lồng úm cho

lợn con, lồng úm phải được nhúng nước sát trùng, phơi khô. Chuẩn bị đỡ đẻ:

với lợn chuẩn bị đẻ cần vệ sinh âm hộ và mông cho sạch sẽ, vệ sinh sàn chuồng,

chuẩn bị bóng điện úm cho lợn con, chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ như vải màn hoặc

vải mềm khô, sạch, cồn iod để sát trùng, kéo để cắt dây rốn, chỉ để buộc.

Hàng ngày em tham gia vào vệ sinh chuồng trại, sát trùng chuồng nuôi,

em thấy sát trùng thường xuyên chuồng nuôi rất tốt cho lợn mẹ và lợn con, tạo

được môi trường ít vi khuẩn, lợn mẹ và lợn con ít bị bệnh. Cách một ngày phải

rắc vôi ở đường tra cám và đường lấy phân để tiêu diệt mầm bệnh, vi khuẩn.

47

Khi lau máng ăn của lợn mẹ phải chú ý vét hết cám thừa, lau thật sạch để tránh

cám thừa còn trên máng bị thiu, mốc, con mẹ ăn phải sẽ ảnh hưởng sức khỏe,

nếu lợn bầu ăn phải thức ăn mốc, ôi thiu dễ bị sảy thai. Phải xịt gầm hàng ngày

để tránh mùi hôi bốc lên và giữ chuồng trại sạch sẽ hơn, khi xịt gầm cần chú ý

không để nước bắn lên trên, làm ẩm ướt chuồng nuôi, không nên xịt gầm quá

sớm vào mùa đông, nên xịt gầm sau 9 giờ để tránh lợn con bị lạnh sẽ dễ mắc

bệnh hô hấp, tiêu chảy.

4.2.2. Tình hình sản xuất của đàn lợn nái nuôi tại trại

Để đánh giá về quá trình sinh đẻ của đàn lợn nái nuôi tại cơ sở, chúng em

đã thu thập số liệu thông tin của đàn lợn nái sinh sản tại trại. Kết quả trình bày

tại bảng 4.3.

Bảng 4.3. Một số chỉ tiêu về quá trình sinh đẻ của đàn lợn nái nuôi

tại trại

Tháng

Số con đẻ

Đẻ bình thường

Tỷ lệ (%)

Số con đẻ khó phải can thiệp

Tỷ lệ (%)

56

53

94,64

3

5,35

6

56

51

91,07

5

8,92

7

56

54

96,42

2

3,57

8

56

56

100

0

0

9

56

53

94,64

3

5,35

10

56

56

100

0

0

11

336

323

96,12

13

3,86

Tổng

Số liệu bảng 4.3 cho thấy: em đã theo dõi 336 nái đẻ trong đó 323 nái đẻ

bình thường chiếm tỷ lệ 96,12%, có 13 nái đẻ khó phải can thiệp chiếm tỷ lệ

3,86%.

Tỷ lệ lợn nái đẻ phải can thiệp thấp chỉ từ 0 – 10%, trung bình là 3,86%.

Lợn nái đẻ khó phải can thiệp là do lợn đẻ ở những lứa đầu, do lợn ăn nhiều

vào giai đoạn cuối của thai kì làm thai quá to, do ngôi thai không thuận, do

lợn mẹ ít được vận động và do sức khỏe của con mẹ không tốt. Số lợn nái đẻ

48

phải can thiệp với tỉ lệ thấp là do trong quá trình chăm sóc đã thực hiện đúng

quy trình về thức ăn cho lợn nái mang thai. Tỉ lệ đẻ khó cao nhất chỉ 8,92%

cho thấy sự chăm sóc thực hiện tốt quy trình kỹ thuật cho lợn nái sinh sản.

Trong đỡ đẻ em rút được kinh nghiệm là cần chuẩn bị tốt ô úm, vệ sinh

vùng mông và âm hộ con nái trước khi đẻ. Khi lợn đẻ phải chú ý từng con một

để nhận biết con nào đẻ khó, con nào đẻ dễ, chú ý thời gian đẻ của mỗi con để

biết nhanh hay chậm. Nếu con mẹ đẻ khó cần can thiệp sớm bằng cách dùng

oxytocin để kích thích co bóp cơ trơn tử cung, xoa bầu vú. Nếu thai quá to, con

mẹ rặn đẻ không được phải nhanh chóng can thiệp đưa con con ra ngoài để

tránh ngạt, làm chết những con còn lại trong tử cung. Khi can thiệp phải chú ý

sát trùng tay vệ sinh vùng mông, âm hộ, phải tiến hành nhẹ nhàng tránh gây đứt

nhau, xây sát niêm mạc tử cung con nái. Những người trực tiếp đỡ đẻ và can

thiệp đẻ khó phải cắt móng tay, nếu để móng tay dài có thể làm tổn thương lợn

con mới sinh, khi can thiệp đẻ khó có thể làm xây sát niêm mạc tử cung lợn nái.

Phải theo dõi ngày phối giống và ngày đẻ dự kiến để chuẩn bị kế hoạch đỡ đẻ.

4.3. Kết quả thực hiện quy trình phòng và trị bệnh tại trại

4.3.1. Phòng bệnh tại trại

Việc vệ sinh sát trùng chuồng trại có vai trò rất quan trọng trong chăn

nuôi. Vê ̣sinh bao gồm nhiều yếu tố: vê ̣sinh môi trường xung quanh, vê ̣sinh

đất, nước, vê ̣sinh chuồng trại… Trong thời gian thực tâp ̣ chúng em đã thưc ̣ hiện tốt quy trình vê ̣sinh trong chăn nuôi. Hàng ngày, chúng em tiến hành thu

gom phân thải, rửa chuồng, quét lối đi giữa các dãy chuồng. Định kỳ tiến hành

phun thuốc sát trùng, quét vôi, phun thuốc diệt muỗi, quét mạng nhện trong

chuồng và rắc vôi bột ở cửa ra vào chuồng, đường đi nhằm đảm bảo vệ sinh.

Sau đây là kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại.

49

Bảng 4.4. Kết quả thực hiện vệ sinh, sát trùng tại trại

Số lượng thực Số lần đạt Tỷ lệ Stt Công việc hiện được yêu cầu (%) (lần) (lần)

1 Vệ sinh chuồng trại hàng ngày 185 100 185

Phun sát trùng định kỳ xung 2 110 110 100 quanh chuồng trại

3 Quét và rắc vôi đường đi 183 100 183

Số liệu bảng 4.4 cho thấy: việc vệ sinh, sát trùng luôn được trại quan tâm

và làm thường xuyên. Theo quy định của trại việc vệ sinh chuồng sẽ được thực

hiện ít nhất 1 lần/ngày và trong 6 tháng thực tập tại trại em đã thực hiện được

185 lần (đạt tỷ lệ 100% so với số lần phải vệ sinh trong 6 tháng) vệ sinh chuồng

và 183 lần rắc vôi bột đường đi (đạt tỷ lệ 100% so với số lần phải rắc vôi chuồng

trong 6 tháng tại trại). Phun sát trùng xung quanh chuồng trại được phun định

kỳ 4 lần/tuần. Nếu trại có tình hình nhiễm dịch bệnh thì sẽ được tăng cường

việc phun sát trùng lên hàng ngày. Qua đó, em đã biết được cách thực hiện việc

vệ sinh, sát trùng trong chăn nuôi như thế nào cho hợp lý nhằm hạn chế được

dịch bệnh cũng như nâng cao sức đề kháng cho vật nuôi.

4.3.2 Kết quả công tác chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn tại trại

4.3.2.1 Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại

Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại em đã được tham gia vào công

tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái cùng với các anh kỹ sư của trại.

Qua đó chúng em đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán

một số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây ra bệnh và cách khắc phục, điều trị

bệnh. Sau đây là kết quả của công tác chẩn đoán và điều trị bệnh trên đàn lợn

nái tại trại.

50

Bảng 4.5. Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái của trại

Chỉ tiêu theo dõi Số nái Số nái Tỷ lệ theo dõi mắc bệnh (%) (con) (con) Tên bệnh

336 3 0,89 Bại liệt sau sinh

336 13 3,86 Đẻ khó

336 19 5,36 Viêm tử cung

336 2 0,55 Sót nhau

336 2 0,55 Viêm vú

Số liệu bảng 4.5 cho biết: trong 336 con lợn nái theo dõi có 19 con mắc

bệnh viêm tử cung, 2 con mắc bệnh sót nhau, 13 con có hiện tượng đẻ khó, 2

con mắc bệnh viêm vú và 2 con mắc bệnh bại liệt sau sinh. Tỷ lệ lợn nái mắc

bệnh viêm tử cung cao chiếm 5,36% , do đàn lợn nái ở đây thuộc các dòng nái

giống ngoại có năng suất sinh sản cao, nhưng lại chưa thích nghi được hoàn

toàn với điều kiện của nước ta, bên cạnh đó quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc

chưa tốt kết hợp với khí hậu không thuận lợi. Mặt khác, do trong quá trình phối

giống và quá trình can thiệp khi lợn đẻ khó phải sử dụng thủ thuật để móc lấy

thai không đúng kỹ thuật đã làm sây sát niêm mạc tử cung, tạo điều kiện cho vi

khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh. Tỷ lệ mắc bệnh đẻ khó chiếm 3,86%

do lợn nái ít được vận động, ngôi thai không thuận, thai quá to, sức khỏe lợn

mẹ yếu. Tỷ lệ mắc bệnh sót nhau là 0,55%,do các nguyên nhân sau đây:Do

khẩu phần ăn của lợn nái giai đoạn mang bầu thiếu dinh dưỡng: protein, khoáng,

vitamin trong thời gian dài làm cho cơ thể gầy yếu, nên khi đẻ xong không còn

đủ sức đẩy nhau ra bên ngoài. Khẩu phần ăn của lợn nái giai đoạn cuối quá

nhiều so với tiêu chuẩn, heo nái quá mập, thai quá to, dẫn đến đẻ khó. Lợn nái

mang nhiều thai (15-17 con), khi rặn đẻ bị kiệt sức nên không đủ sức rặn đẩy

51

nhau ra ngoài.Lợn nái bị mắc các chứng bệnh truyền nhiễm, bệnh nội khoa mã

tính, dẫn đến nái bị suy nhược cơ thể, sức khỏe yếu. Lợn nái bị viêm niêm mạc

tử cung trước khi đẻ. Lợn nái bị rối loạn nội tiết tố sinh dục. Bản thân người

chăn nuôi chưa có kinh nghiệm nên xử lý vội vàng làm cho nhau thai bị đứt sót

lại trong tử cung: heo con vừa mới sinh ra đã dùng tay kéo mạnh ra bên ngoài,

nhau thai vừa mới nhú một tý ra khỏi mép âm hộ đã vội vàng dùng tay kéo ra.

Lợn nái quá già (> 8 lứa) sức khỏe không còn được dẻo dai nên khi đẻ bị đuối

sức, tử cung co bóp yếu, không đẩy được nhau ra bên ngoài. Tỷ lệ mắc bệnh

viêm vú là 0,55%, do kế phát từ bệnh viêm tử cung, do nền chuồng bẩn, vú bị

tổn thương… Tỷ lệ mắc bệnh bại liệt sau sinh là 0,89% có thể là do những

nguyên nhân sau: Do dinh dưỡng: Thường là do sự thiếu hụt Calci so với bình

thường. Trong trường hợp này cần phải theo dõi kỹ các triệu chứng lâm sàng

và phân tích máu mới có thể chẩn đoán được chính xác bệnh. Bệnh này xảy ra

thường do không cung cấp đầy đủ nhu cầu Calci, Phosho, thiếu vitamin D trong

thời gian mang thai làm rối loạn quá trình vận chuyển Calci vào máu và Calci

từ xương vào máu. Do tác nhân cơ học: Trong quá trình mang thai, sự di chuyển

heo lên chuồng đẻ khiến heo dễ bị trượt ngã gây liệt chân. Do thời tiết: Nhiệt

độ môi trường quá nóng trong thời gian nái gần sinh hay vừa sinh xong dễ xảy

ra bại liệt, heo có biểu hiện không đứng lên được, chân sau run khi đứng, thở

nhanh, sốt rất cao và chết rất nhanh do cảm nhiệt. Do nhiễm khuẩn như nhiễm

Clostridium perfigers, Listera monocytogenes, Streptocoocus suis. Do vậy,

trong thời gian mang thai cần bỏ sung đầy đủ các vitamin và cung cấp đầy đủ

nhu cầu canxi photpho cho heo nái mang thai.Cẩn thận trong việc di chuyển

heo trong giai đoạn mang thai, nền chuồng phải sạch, tránh trơn trượt dễ gây

liệt chân trong thời gian mang thai. Nên có ánh sáng vào chuồng trại. Tiêm

phòng đầy đủ các bệnh do virus và vi trùng.

52

4.3.2.2. Kết quả theo dõi và điều trị bệnh cho đàn lợn nái

Bảng 4.6. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản tại trại

Kết quả

Thời

Chỉ tiêu

gian

Thuốc

Liều

Đường

Số con

Số con

dùng

Tỷ lệ

điều trị

lượng

tiêm

điều trị

khỏi

thuốc

Tên

(%)

(con)

(con)

(ngày)

bệnh

Oxytocin

2ml/con

Tiêm

Viêm tử

3-5

15

11

73,33

Amoxinject

24ml/con/

bắp

cung

LA

ngày

Oxytocin

2ml/con

Tiêm

3

Sát nhau

3-5

2

66,66

Amoxinject

24ml/con/

bắp

LA

ngày

Amoxinject

24ml/con/

Tiêm

2

3

1

50

Viêm vú

ngày

bắp

LA

Tiêm

Bệnh bại

Mg -

3

60 ml/con

2 – 3

1

33,33

bắp

liệt

Calcium

1,7 - 1,8

Tiêm

Đẻ khó

oxytocin

1

13

11

84,61

ml

bắp

Số liệu bảng 4.6 cho thấy: trong 15 con mắc bệnh viêm tử cung chúng

em đã tham gia điều trị khỏi 11 con đạt 73,33%. Bên cạnh đó có 3 con mắc

bệnh bại liệt sau sinh chúng em đã tham gia điều trị khỏi 1 con đạt tỷ lệ điều

trị là 33,33% do khi lợn đã mắc bệnh khả năng phục hồi cơ xương rất khó nên

khả năng đi lại, vận động kém hoặc mất khả năng vận động dẫn đến bị hoại tử

phần tiếp xúc với nền sàn chuồng, nếu để lâu lợn mẹ gầy yếu dẫn đến chết. Có

3 con mắc bệnh sát nhau em đã điều trị khỏi 2 con đạt tỷ lệ 66,66%. Đẻ khó có

13 con mắc em đã điều trị khỏi 11 con, tỷ lệ khỏi đạt 84,61% do có 2 con phải

53

mổ vì phát hiện muộn, thai quá to, ngôi thai không thuận, lợn nái không được

vận động làm cho thai to khó đẻ, sức khỏe lợn mẹ yếu và 2 con mắc bệnh viêm

vú em đã điều trị khỏi 1 con đạt tỷ lệ 50% do việc chẩn đoán bệnh thường khó

khăn hơn, khi chúng ta phát hiện ra bệnh thì bệnh đã ở thể viêm nặng và điều

trị khó khăn hơn.

Đối với bệnh sót nhau, viêm tử cung sau đẻ trại dùng oxytocin liều 2

ml/con để tăng cường co bóp cơ trơn tử cung, giúp đẩy nhau thai, sản dịch ra

ngoài nhanh hơn. Kết hợp dùng kháng sinhđể điều trị và phòng viêm nhiễm tái

phát bằng Amoxinject LA với liều lượng là 24 ml/con/ngày đối với nái dạ và

20ml/con/ngày đối với nái hậu bị. Điều trị trong 3-5 ngày. Sau khi nhau thai, dịch

tử cung ra hết em dùng nước muối sinh lý 0,9 % để rửa tử cung trong ba ngày

liên tục. Bệnh viêm vú trại em dùng amoxinject LA liều 24ml /con/ngày điều trị

trong 3 ngày kết hợp vệ sinh sạch sẽ sàn chuồng và vệ sinh sát trùng vùng vú

bị viêm.

Với bệnh bại liệt sau sinh trại dùng Mg - calcium với liều 60 ml/con,

tiêm bắp, điều trị trong 2 - 3 ngày kết hợp với kiểm tra thức ăn, hỗ trợ con vật

trở mình thường xuyên và vệ sinh sạch sẽ nền chuồng để tránh chỗ nằm lâu bị

thối loét

Những con nái sau quá trình điều trị nhưng không có kết quả tốt trại em

thường loại thải theo lịch loại thải của công ty, những con chết trại xử lý nhiệt

và tận dụng làm nguồn thức ăn cho cá trê lai. Đảm bảo không gây ô nhiễm môi

trường.

4.3.2.3 Kết quả thực hiện biện pháp phẫu thuật trên đàn lợn con tại trại

Trong thời gian thực tập tại trại chúng em vừa tham gia chăm sóc, nuôi

dưỡng đàn lợn vừa được học và làm một số các thao tác trên lợn con như đỡ

lợn đẻ, bấm nanh, bấm số tai, thiến lợn đực và mổ hecni:

54

Bảng 4.7. Kết quả thực hiện phẫu thuật trên đàn lợn con

Kết quả Số Thực hiện (con) STT Công việc lượng Số lượng Tỷ lệ (con) (con) (%)

1 Đỡ lợn đẻ 2379 2315 98,55

2 Bấm nanh, bấm số tai , cắt đuôi 2117 2117 100

3 Thiến lợn đực 1197 1197 100

4 Mổ hecni 24 19 79,16

5 Tiêm sắt 2117 2117 100

6 Uống phòng cầu trùng 2051 2051 100

Trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn con em đã đỡ đẻ 2379 con kết

quả an toàn là 98,55%. Công việc việc mài nanh, bấm số tai, cắt đuôivà tiêm sắt

thực hiện được 2117 con kết quả an toàn đạt 100%. Vì lợn con sau khi sinh ra phải

mài nanh luôn nếu không sẽ làm tổn thương vú lợn mẹ khi bú, cũng như tránh việc

lợn con cắn nhau, bấm số tai sớm để vết thương mau lành, ít chảy máu và làm

giảm stress cho lợn con. Lợn con 1 ngày tuổiđược phòng thiếu máu bằng chế phẩn

nova-Fe +B12. Lợn 3 ngày tuổi cho uống cầu trùng bằng chế phẩn Diacoxin 5%

trong đó số con cho uống là 2051 con, số con an toàn 100%. Đồng thời thiến lợn

đực khi lợn con được 3 ngày tuổi. Trong quá trình thực tập em đã trực tiếp thiến

1197 con, kết quả an toàn đạt 100%.

Công việc mổ hecni với số ca thực hiện ít, trong 6 tháng thực tập em có

theo dõi và phát hiện được 24 lợn con bị hecni và tiến hành mổ thành công 19

con và đạt tỷ lệ 76,16%. Nguyên nhân dẫn đến lợn con bị hecni chủ yếu là do

di truyền khi đẻ ra lợn con đã bị, một phần là do trong quá trình tao tác thiến

lợn đực do không đúng kỹ thuật làm rách lỗ bẹn dẫn đến ruột theo lỗ bẹn thoát

ra ngoài âm nang.

55

Lợn con sau khi đẻ ra nếu nằm trong bọc thì cần xé bọc ngay để tránh

lợn con bị ngạt, nếu lợn bị ngạt thì dùng tay vỗ nhẹ vào lưng lợn để kích thích

hô hấp hoặc nâng 2 chân trước và 2 chân sau con lợn lại, gập bụng để kích thích

hô hấp. Lợn con sau khi đẻ, rắc bột mistral để lợn nhanh khô, giữ ấm và tăng

cường sức đề kháng. Lợn con sau khi khô thì cho ra bú mẹ càng sớm càng tốt,

con nhỏ, yếu cho bú ở những vú đầu, những con to khỏe hơn cho bú ở những

vú sau. Nếu lợn mẹ không cho lợn con bú, cắn con thì cố định lợn mẹ để cho

lợn con bú sữa. Lợn con được 3 ngày tuổi, tiến hành lắp máng tập ăn và cho

lợn con tập ăn. Vì lợn con mới sinh nên sức đề kháng yếu với điều kiện môi

trường nên cần chú ý thắp bóng sưởi để giữ ấm, tránh các bệnh về hô hấp và

phòng ngừa tiêu chảy ở lợn con.

Khi thao tác trên lợn con em đã rút ra được một số kinh nghiệm như: Đỡ

đẻ phải thao tác nhanh để không làm lợn con đau đớn, kêu la gây ảnh hưởng

tới con nái đang đẻ, lợn con buộc dây rốn phải chắc vì một số trường hợp em

buộc chưa chắc sau khi cắt dây rốn máu còn chảy thành tia, lợn con bị mất máu

nhiều. Khi mài nanh, bấm số tai, thiến lợn đực phải tiến hành nhẹ nhàng vì lợn

con còn rất nhỏ và yếu, nên tiến hành bấm nanh, bấm số tai ngay sau khi đẻ 1

ngày và thiến lợn đực sau đẻ 3 ngày vì nếu bấm nanh, bấm số tai và thiến quá

muộn thì lợn con dễ mất máu nhiều, vết thương khó lành hơn và lợn con quá to

gây khó khăn cho việc cố định.

Lợn bị hecni có thể do di truyền hoặc do thực hiện thiến lợn có vết cắt

quá rộng, do không đảm bảo vệ sinh sát trùng,…dễ gây viêm nhiễm tạo điều

kiện thuận lợi cho sự sa ruột. Vì vậy khi thiến cần đảm bảo vệ sinh sát trùng,

và không nên để vết cắt quá to, khi thao tác phải nhẹ nhàng, dứt khoát. Khi mổ

hecni thì cần chú ý đảm bảo sát trùng theo đúng kỹ thuật, và tiêm kháng sinh

phòng ngừa viêm nhiễm, sau khi mổ phải khâu vết mổ kín, buộc chặt chỉ, tránh

để tuột chỉ thì ruột sẽ lòi ra ngoài.

56

4.3.2.4. Điều trị một số bệnh trên lợn con

Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên lợn con

Kết quả (khỏi) Số

STT Nội dung công việc lượng Tỷ lệ Số lượng

(con) (%) (con)

1 Bệnh phân trắng 670 603 90

70,49 2 Bệnh viêm phổi 61 43

85,36 3 Bệnh viêm khớp 41 35

Số liệu bảng 4.8 cho thấy: lợn con ở trại mắc bệnh phân trắng là cao nhất

670 con và tỷ lệ điều trị khỏi bệnh cao 90% nguyên nhân là do lợn con mới đẻ

ra sức đề kháng còn yếu dễ bị ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như vi sinh

vật xâm hại hay nhiệt độ chuồng nuôi không thích hợp đặc biệt vào những ngày

mùa đông nhiệt độ xuống thấp cần phải có ô úm và bóng điện sưởi cho lợn

con. Cách khắc phục tốt nhất để hạn chế lợn con mắc bệnh tiêu chảy là cho lợn

con bú sữa đầu ngay sau khi đẻ và giữ ấm cơ thể cho lợn con. Bên cạnh đó,

việc thời tiết lạnh mà lợn con không được giữ ấm sẽ khiến lợn mắc một số bệnh

về đường hô hấp như viêm phổi, số lợn con mắc bệnh viêm phổi là 61 con tỷ lệ

điều trị khỏi bệnh 70,49%. Một số ít lợn con bị viêm da do vệ sinh chuồng tại

kém làm cho vi khuẩn xâm nhập vào da gây bệnh. Trong thời gian thực tập em

đã gặp 41 lợn con bị viêm khớp và tỷ lệ chữa khỏi bệnh chiếm 85,36%.

Theo PGS.TS Phạm Ngọc Thạch (1996) [23] chẩn đoán về bệnh viêm khớp ở

lợn con. Đây là một bệnh thường gặp ở lợn con và bệnh thường kéo dài, hiệu

quả điều trị thường không cao.

57

Phần 5

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

5.1. Kết luận

- Năm 2018 trại lợn Việt Anh có 13 lợn đực giống, 617 lợn nái sinh sản,

150 lợn cái hậu bị và 14.755 lợn con, nái đẻ trung bình 12,6 con/nái/lứa

- Đã trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng 336 lợn nái đẻ, 4.247 lợn con đẻ

ra và 4.065 lợn con cai sữa.

- Lợn nái của trang trại đẻ rất tốt có tỷ lệ đẻ bình thường đạt 96,12% và

chỉ có 3,86% lợn nái đẻ khó phải có sự can thiệp.

- Lợn nái của trang trại mắc các bệnh sinh sản như viêm tử cung có tỷ lệ

là 5,36%, sót nhau là 0,55%, viêm vú là 0,55%, bại liệt sau đẻ là 0,89% và đẻ

khó với tỷ lệ 3,86%

- Kết quả điều trị các bệnh sinh sản của lợn nái đạt từ 50 – 84,61%.

- Kết quả chăm sóc lợn con sơ sinh như đỡ đẻ, cắt rốn, mài nanh, cắt đuôi,

săm tai, tiêm sắt, cho uống thuốc phòng bệnh cầu trùng và thiến lợn đực đạt an

toàn từ 79,16 – 100%.

- Lợn con theo mẹ mắc 3 bệnh là phân trắng lợn con, viêm phổi và viêm

khớp đã được điều trị kịp thời và tỷ lệ khỏi bệnh đạt từ 70,49 – 90%.

5.2. Đề nghị

- Công tác vệ sinh thú y cần được nâng cao hơn nữa, đặc biệt trong việc

vệ sinh chuồng trại và chăm sóc cho lợn mẹ và lợn con.

- Cần có cán bộ kỹ thuật chuyên theo dõi, phát hiện và điều trị bệnh cho

lợn con kịp thời nhằm đem lại kết quả điều trị cao nhất.

-Với Khoa Chăn nuôi thú y: Tiếp tục cử sinh viên về các trại liên kết với

công ty CP để thực tập, tạo điều kiện tốt cho sinh viên nâng cao tay nghề và

học hỏi kinh nghiệm tổ chức sản xuất chăn nuôi lợn nái quy mô lớn.

58

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Archie (2000), Sổ tay dịch bệnh động vật, Phạm Gia Ninh, Nguyễn Đức

Tâm dịch, Nxb Bản đồ, Hà Nội, tr. 53, 204 – 207.

2. Bilken và cs (1994), Quản lý lợn nái và lợn cái hậu bị để sinh sản có hiệu quả.

3. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt, Nxb

Nông nghiệp - Hà Nội, Trang 29 - 35.

4. Trần Minh Châu (1996), Một trăm câu hỏi về bệnh trong chăn nuôi gia súc,

gia cầm, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.

5. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản heo nái và sinh lý heo con, Nxb Nông nghiệp

TpHCM.

6. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

7. Đoàn Kim Dung, Lê Thị Tài (2002), Phòng và trị bệnh lợn nái để sảnxuất

lợn thịt siêu nạc xuất khẩu, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội.

8. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E.coli

trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện pháp

phòng trị, Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp.

9. Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Sinhsản gia

súc, Nxb Nông nghiệp - Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái

sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ.

11. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli,

Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn nái tại 3 tình

phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp.

12. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), Giáo trình bệnh truyền nhiễm

thú y, Nhà xuất bản Đại học Nông Nghiệp, Hà Nội.

59

13. Từ Quang Hiển, Phan Đình Thắm, Ngôn Thị Hoán (2001), Giáo trình thức ăn

và dinh dưỡng học gia súc – gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội

14. Trương Lăng (2000), Hướng dẫn điều trị các bệnh lợn, Nxb Đà Nẵng.

15. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), Bệnh phổ biến ở

lợn và biện pháp phòng trị, tập II, Nxb Nông nghiệp, Trang 44 - 52.

16. Phạm Sỹ Lăng (2009), “Bệnh tiêu chảy do vi khuẩn ở lợn và biện pháp

phòng trị”, Tạp chí khoa học thú y, tập XVI (số 5), tr. 80 - 85.

17. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

18. Lê Hồng Mận (2002), Chăn nuôi lợn nái sinh sản ở nông hộ, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

19. Lê Văn Năm (1999), Cẩm nang bác sĩ thú y hướng dẫn phòng và trị bệnh

lợn cao sản. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

20. Nguyễn Ngọc Phụng (2004), Công tác vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn,

Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

21. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Trần Thanh Vân, Hà Thị Hảo (2004),

Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

22. Lê Văn Tạo, Khương Bích Ngọc, Nguyễn Thị Vui, Đoàn Băng Tâm (1993),

“Nghiên cứu chế tạo vacxin E. coli uống phòng bệnh phân trắng lợn con”,

Tạp chí Nông nghiệp Thực phẩm, số 9, Trang 324 - 325.

23. Phạm Ngọc Thạch (1996), Một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng ở gia súc,

viêm ruột ỉa chảy và biện pháp phòng trị, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp,

Hà Nội, tr. 20 - 32.

24. Ngô Nhật Thắng (2006), Hướng dẫn chăn nuôi và phòng trị bệnh cho lợn,

Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

25. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2005), Giáo trình sinh lý học động vật, Nxb

Nông nghiệp Hà Nội.

60

II. Tài liệu tiếng nước ngoài

26. Gardner J.A.A., Dunkin A.C., Lloyd L.C. (1990), “Metritis - Mastitis -

Agalactia”, in Pig production in Autralia. Butterworths, Sydney, pp.

Hughes, P.E. (2000), “Feed sows by their backfat”, Feed international,

Kotowski, K. (1990), “The efficacy of wisol-T in pig production”,

Medycyna weterynaryjna, 46(10).

27. Glawisschning E., Bacher H (1992), “The Efficacy of Costat on E.coli

infectedweaning pigs”. 12th IPVS congress, August 17 - 22, tr. 182.

28. Nagy B, Fekete PZS (2005), “Enterotoxigenic Escherichia coli in

veterinary medicine”, Int J Med Microbiol,p 295, tr. 443 - 454.

29. Smith, B.B. Martineau, G., Bisaillon, A. (1995), “Mammary gland and lactaion

problems”, In disease of swine, 7thedition, Iowa state university press, pp. 40- 57.

III. Tài liệu bổ sung.

36. Trần Văn Bình (2010), http://pharmavet.vn/?tab=forum&id=1350

37. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016),

“Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu

quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y,

tập XXIII (số 5), tr. 51 - 56..

38. Lê Thị Hoài (2008), Xác định vai trò gây bệnh của vi khuẩn E.coli, C.

Perfringens trong hội chứng tiêu chảy ở lợn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi tại

tỉnh Hưng Yên và thử nghiệm phác đồ điều trị, Luận văn thạc sĩ khoa học

Nông nghiệp, tr4.

39. . Hội chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc, gia cầm,

Nxb Nông nghiệp Hà Nội.

40. Nguyễn Hùng Nguyệt (2007), Châm cứu chữa bệnh vật nuôi, Nxb Khoa

c và kỹ thuật Hà Nội.

61

PHỤ LỤC

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC TẬP

Hình 1: Thuốc NOVA Fe + B12 Hình 2: Oxytocin

(Phòng trị thiếu máu do sắt) (Kích thích co bóp tử cung, kích thích

đẻ nhanh)

Hình 3: Kháng sinh Pendistrep LA Hình 4: Diacoxin

(Phòng và điều trị viên tử cung heo nái, (Thuốc nhỏ phòng cầu trùng)

heo con điều trị khớp)

62