BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------
Lê Thị Vân Anh
NHẬN THỨC VỀ BẮT NẠT TRỰC TUYẾN CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------
Lê Thị Vân Anh
NHẬN THỨC VỀ BẮT NẠT TRỰC TUYẾN CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
THS. ĐOÀN BẮC VIỆT TRÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2018
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt bốn năm trên giảng đường Đại học, em đã nhận được sự quan tâm và
hướng dẫn tận tình từ các Thầy Cô, các anh chị và các bạn bè. Từ những ngày đầu còn
bỡ ngỡ xa lạ cho đến ngày hôm nay, em đã có thể tự tin hơn nhờ hành trang kiến thức
và vốn sống mà các Thầy Cô chỉ dạy. Em xin gửi lời tri ân sâu sắc và chân thành nhất
đến tất cả các Thầy Cô của trường Đại học Sư phạm và cụ thể hơn là các Thầy Cô khoa
Tâm lý học, nơi đã nuôi dưỡng và chắp cánh cho ước mơ của em. Từ những bài học đại
cương vỡ lòng cho đến những kiến thức chuyên ngành làm em vững tin hơn vào con
đường em đã chọn.
Đặc biệt, em muốn bày tỏ sự biết ơn sâu sắc nhất đối với Cô Đoàn Bắc Việt Trân,
người Cô đầy tận tụy đồng hành cùng em trong suốt chặng đường một năm vừa qua.
Nhờ có sự hướng dẫn cặn kẽ, dễ hiểu và sự quan tâm hết mực đến từ Cô mà em đã có
thể hoàn thành tốt nhất khóa luận tốt nghiệp của em. Em xin trân trọng cảm ơn Cô!
Một lần nữa, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả các Thầy Cô của trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, những người lái đò đã luôn tận tụy với ngành
giáo dục!
Cuối cùng, em muốn muốn gởi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, các anh chị cũng như
gia đình đã luôn bên cạnh để động viên và giúp đỡ em trong những thời khắc khó khăn
nhất để em có thêm động lực để bước tiếp trên con đường mình đã chọn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm 2018
SV. Lê Thị Vân Anh
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
CƠ SỞ VỀ BẮT NẠT TRỰC TUYẾN ....................................................................... 13
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................ 13
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ............................................................ 13
1.1.2. Một số công trình nghiên cứu tại Việt Nam ................................................ 16
1.2. Hệ thống khái niệm ............................................................................................ 18
1.2.1. Nhận thức .................................................................................................... 18
1.2.2. Học sinh trung học cơ sở và một số nét tâm lý đặc trưng ............................ 24
1.2.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh trung học cơ sở ...................................... 27
1.2.4. Bắt nạt ......................................................................................................... 31
1.2.5. Bắt nạt trực tuyến ........................................................................................ 35
1.2.6. Nhận thức về bắt nạt trực tuyến ở học sinh trung học cơ sở ........................ 45
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .............................................................................................. 47
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC VỀ BẮT NẠT TRỰC TUYẾN
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........... 48
2.1. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 48
2.1.1. Tổ chức nghiên cứu ........................................................................................ 48
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 48
2.2. Thực trạng nhận thức về bắt nạt trực tuyến của học sinh trung học cơ sở tại thành
4
phố Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 52
2.2.1. Thực trạng có biết về bắt nạt trực tuyến của học sinh trung học cơ sở tại thành
phố Hồ Chí Minh ..................................................................................................... 52
2.2.2. Thực trạng tiếp cận nguồn thông tin về bắt nạt trực tuyến của học sinh trung
học có sở tại thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................... 53
2.2.3. Kết quả nhận thức về bắt nạt trực tuyến của học sinh trung học cơ sở tại thành
phố Hồ Chí Minh ..................................................................................................... 54
2.2.3.1. Thực trạng nhận thức về bắt nạt trực tuyến của học sinh trung học cơ sở tại
thành phố Hồ Chí Minh trên phương diện giới tính ................................................. 59
2.2.3.2. Thực trạng nhận thức về bắt nạt trực tuyến của học sinh trung học cơ sở trên
phương diện khối lớp ............................................................................................... 67
2.3. Những biện pháp nâng cao nhận thức của học sinh về bắt nạt trực tuyến ............. 74
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .............................................................................................. 76
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 82
5
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt Tên đầy đủ
BGH Ban giám hiệu
BNTT Bắt nạt trực tuyến
CVTL Chuyên viên tâm lý
ĐH Đại học
ĐTB Điểm trung bình
FHI Tổ chức Sức khỏe Gia đình Thế giới
THCS Trung học cơ sở
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
NCPC Hội đồng phòng chống tội phạm quốc gia
NXB Nhà xuất bản
CDC Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ
PHHS Phụ huynh học sinh
6
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
DANH MỤC CÁC BẢNG
quả thống kê thông tin cá nhân của khách Bảng 1. Kết
thể ......................................................................................................................................
52
Bảng 2. Kết quả thống kê thông tin cá nhân của nhóm khách thể trả lời “Không biết/Chưa
nghe nói” về từng
BNTT. ................................................................................................................................
53
Bảng 3. Các nguồn cung cấp thông tin về BNTT cho học sinh
THCS .................................................................................................................................
54
Bảng 4. Kết quả nhận thức các khía cạnh tổng quan về BNTT ở học sinh THCS TP.HCM
...........................................................................................................................................
57
Bảng 5. Kết quả nhận thức về biểu hiện của BNTT ở học sinh THCS
TP.HCM ............................................................................................................................
57
Bảng 6. Kết quả nhận thức về cách ứng phó đối với BNTT ở học sinh THCS
TP.HCM ............................................................................................................................
.
...........................................................................................................................................
57
Bảng 7. Kết quả nhận thức các khía cạnh tổng quan về BNTT ở học sinh THCS TP.HCM
theo phương diện giới tính và khối
lớp ......................................................................................................................................
58
Bảng 8. Kết quả nhận thức về biểu hiện của BNTT ở học sinh THCS TP.HCM theo
7
phương diện giới tính và khối
lớp ......................................................................................................................................
58
Bảng 9. Kết quả nhận thức về cách ứng phó đối với BNTT ở học sinh THCS TP.HCM
theo phương diện giới tính và khối
lớp ......................................................................................................................................
59
Bảng 10. Kết quả nhận thức về mức độ nguy hiểm của BNTT so với bắt nạt ngoài đời
thực ....................................................................................................................................
59
Bảng 11. Bảng so sánh sự tỉ lệ % nhận thức những khía cạnh tổng quan về BNTT trên
phương diện giới
tính .....................................................................................................................................
60
Bảng 12. Bảng so sánh sự tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về biểu hiện của BNTT
phương diện giới trên
tính .....................................................................................................................................
62
Bảng 13. Xếp hạng lựa chọn các ứng phó tức thời với BNTT của học sinh THCS trên
phương diện giới
tính .....................................................................................................................................
64
Bảng 14. So sánh tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về cách ứng phó tức thời đối với
BNTT trên phương diện giới
tính. ....................................................................................................................................
65
Bảng 15. Xếp hạng lựa chọn các ứng phó phòng ngừa BNTT của học sinh THCS trên
phương diện giới
tính .....................................................................................................................................
8
66
Bảng 16. So sánh tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về cách ứng phó phòng ngừa
BNTT trên phương diện giới với
tính .....................................................................................................................................
67
Bảng 17. Bảng so sánh sự tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về các khía cạnh tổng
quan về BNTT trên phương diện khối
lớp ......................................................................................................................................
68
Bảng 18. Bảng so sánh sự tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về biểu hiện của BNTT
phương diện khối trên
lớp ......................................................................................................................................
70
Bảng 19. Xếp hạng lựa chọn các ứng phó tức thời với BNTT của học sinh THCS trên
diện phương khối
lớp ......................................................................................................................................
73
Bảng 20. Xếp hạng lựa chọn ứng phó phòng ngừa với BNTT của học sinh THCS trên
diện phương khối
lớp ......................................................................................................................................
74
Bảng 21. Kết quả nhận thức về mức độ cần thiết trong việc nâng cao hiểu biết về BNTT
học sinh THCS ở
TP.HCM ............................................................................................................................
75
Bảng 22. Xếp hạng lựa chọn các biện pháp nâng cao nhận thức về BNTT của học sinh
THCS
TP.HCM ............................................................................................................................
9
75
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở nhiều nước trên thế giới cũng như tại Việt Nam, tình trạng học sinh bắt nạt
nhau trong trường học diễn ra rất phổ biến và càng trở nên đáng báo động khi có nhiều
hậu quả đáng tiếc xảy ra. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở các hành vi bắt nạt truyền
thống chủ yếu xảy ra trong khuôn viên nhà trường, sự phát triển của công nghệ đã đưa
hành vi bắt nạt tới không gian mạng, qua các thiết bị như điện thoại di động và máy tính
bảng, trên những trang mạng xã hội…
Theo trang Reuters Health, nhóm chuyên gia Trường ĐH Alberta (Canada) đã
phân tích chi tiết 36 nghiên cứu ở Mỹ về nạn bắt nạt trên mạng xã hội. Kết luận đưa ra
là trong những năm qua, nạn bắt nạt trên mạng lan truyền cùng sự bùng nổ của các trang
mạng xã hội. Chuyên gia Michele Hamm của ĐH Alberta cho biết, khoảng 25% thiếu
niên tại Mỹ cho biết bị bắt nạt và đe dọa trên mạng. Khoảng 15% thừa nhận từng bắt nạt
bạn bè qua mạng. Người liên quan đến các vụ bắt nạt chủ yếu là học sinh cấp II và cấp
III, từ 12 - 18 tuổi [45]. Tại Việt Nam, một nghiên cứu của TS. Trần Văn Công và cộng
sự chỉ ra rằng 35,7% tổng số khách thể nghiên cứu là nạn nhân của BNTT, trong đó, tỉ
lệ nạn nhân thường xuyên bị bắt nạt bởi ít nhất một hành vi (chiếm 20,7%) lớn hơn tỉ lệ
nạn nhân thỉnh thoảng bị bắt nạt bởi ít nhất một hành vi (chiếm 15%). [1]
Kiểu bắt nạt này có lẽ là kiểu bắt nạt nguy hiểm nhất vì nó có thể được thực hiện
một cách vô danh thông qua việc tạo tên và hồ sơ giả trên các thiết bị công nghệ và mạng
xã hội [46]. Trong khi ở lứa tuổi thiếu niên, các em đòi hỏi, mong muốn mọi người đối
xử với mình bình đẳng như đối xử với người lớn, không can thiệp sâu vào một số mặt
trong đời sống riêng mình nên người lớn thường khó giám sát việc sử dụng thiết bị công
nghệ và các trang mạng xã hội của các em, điều đó khiến việc nhận biết và can thiệp kịp
thời khi tình huống bắt nạt xảy ra trở nên càng khó khăn hơn. Chính vì những điều trên,
ngay chính bản thân các em cần có những hiểu biết đúng đắn về những biểu hiện, hậu
quả cũng như những cách thức ứng phó với BNTT, từ đó những tác động tiêu cực của
hình thức bắt nạt này có thể được giảm nhẹ đến một mức độ nào đó. Vì vậy, việc phân
tích nhận thức về BNTT ở các em học sinh có ý nghĩa quan trọng giúp chúng ta có thể
10
định hướng và đưa ra những giải pháp cụ thể.
Tuy nhiên, trên thực tế tại Việt Nam chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về BNTT,
đặc biệt chưa có nghiên cứu nào liên quan đến nhận thức về BNTT của các em học sinh
trung học TP.HCM. Vì thế với bối cảnh và những lý do trên, người nghiên cứu quyết
định chọn đề tài “Nhận thức về bắt nạt trực tuyến của học sinh trung học cơ sở trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài cho Khóa luận tốt nghiệp ngành Tâm lý học.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định nhận thức về BNTT của học sinh THCS TP.HCM, từ đó đưa ra một số
biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của học sinh về BNTT.
3. Giới hạn đề tài
3.1. Giới hạn về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu nhận thức về BNTT ở học sinh THCS.
3.2. Giới hạn về khách thể
433 học sinh lớp 6, lớp 7, lớp 8, lớp 9 trên địa bàn TP.HCM.
3.3. Giới hạn về thời gian
Nghiên cứu trong vòng 7 tháng (tháng 9/2017 – tháng 4/2018).
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
433 học sinh THCS khối lớp 6, lớp 7, lớp 8, lớp 9 trên địa bàn TP.HCM.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức về BNTT của học sinh THCS.
5. Giả thuyết khoa học
Học sinh THCS trên địa bàn TP.HCM có nhận thức đúng nhưng chưa đầy đủ về
BNTT.
Về biểu hiện của BNTT ở học sinh nữ có nhận thức ở mức cao nhiều hơn học sinh
nam. Học sinh lớp 9 nhận thức đầy đủ hơn học sinh lớp 6 về cách ứng phó với BNTT.
11
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận cho nhận thức về BNTT ở học sinh THCS.
- Khảo sát thực trạng nhận thức về BNTT của học sinh THCS TP.HCM.
- Đề ra những biện pháp nâng cao nhận thức về BNTT cho học sinh THCS.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này sử dụng những phương pháp nghiên cứu:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phân tích và tổng hợp lý thuyết:
- Thu thập tài liệu (sách, báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu...) có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu nhằm làm rõ những lý luận cơ bản của đề tài.
- Đọc, đánh giá, chọn lọc, phân tích, tổng hợp nội dung của các tài liệu cần thiết
phục vụ cho việc nghiên cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phiếu hỏi sẽ được sử dụng đề điều tra thực trạng nhận thức về BNTT của học
sinh THCS TP.HCM.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
- Phỏng vấn GVCN, CVTL học đường (nếu có) về những trường hợp BNTT trong
học sinh và những biện pháp giáo dục nhằm phòng chống BNTT cho học sinh tại nhà
trường.
- Phỏng vấn học sinh nhằm tìm hiểu nhận thức của học sinh về BNTT.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Phần mềm SPSS sẽ được dùng để xử lí những dữ kiện thu thập được, phục vụ cho
12
việc phân tích số liệu cũng như đảm bảo tính khách quan của quá trình nghiên cứu.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH TRUNG
HỌC CƠ SỞ VỀ BẮT NẠT TRỰC TUYẾN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Từ năm 1970, vấn đề bắt nạt học đường đã trở thành trung tâm của nhiều nghiên
cứu. Nhưng phải đến những năm 90, sự phát triển bùng nổ của internet cùng sự ra đời
của World Wide Web (www) (1991), Yahoo! (1994), Google (1998) với các dịch vụ
tiện ích như tìm kiếm, danh bạ, nội dung số, hộp thư điện tử và tin nhắn nhanh (Instant
Messenger) tạo điều kiện cho hành vi bắt nạt giữa học sinh với nhau không chỉ dừng lại
ở môi trường học đường mà lan rộng qua cả không gian mạng với sự tinh vi và tiềm ẩn
nhiểu tác động tiêu cực khiến cho việc kiểm soát trở nên khó khăn hơn. Chính vì vậy,
hình thức bắt nạt này ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm cũng như một lượng lớn
các nghiên cứu được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới như Anh, Mỹ, Pháp, Đài Loan,
Úc, Canada, Hà Lan, Tây Ban Nha...
Những năm cuối của thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, BNTT là một chủ đề vẫn còn trong
giai đoạn sơ khai về kiến thức và nghiên cứu, dẫn đến một số bất cập nhất định. Chủ đề
này quá mới mẻ, thậm chí khiến các nhà nghiên cứu dường như khó xác định một thuật
ngữ chính xác. Sự bất đồng ý kiến đi xa đến việc xác định từ chính tả cho thuật ngữ và
đưa ra một định nghĩa cuối cùng. Kowalski và cộng sự (2008) đã chỉ ra rằng mười năm
trước, những tài liệu nghiên cứu về chủ đề BNTT có lẽ đã được coi là vô nghĩa và không
liên quan. Trong năm 2008, thông tin và nghiên cứu liên quan đến BNTT đã xuất hiện
quá nhanh đến nỗi các nhà nghiên cứu thấy khó có thể hoàn thành các nghiên cứu đang
được tiến hành do mong muốn đưa các kết quả nghiên cứu mới (Shariff, 2008). Ngay cả
với những bất đồng trên bề mặt, phạm vi khám phá và nghiên cứu về chủ đề BNTT
dường như xảy ra trong một số lĩnh vực nhất định. [24]
Những nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này đề cập đến những nguy cơ mà giới trẻ
phải đối mặt trong không gian mạng. “Nạn nhân trực tuyến: Một báo cáo về Thanh niên
Quốc gia” – Một nghiên cứu được thực hiện năm 2000 của nhóm tác giả Finkelhor, D.,
Mitchell, K. 1., & Wolak, J. báo cáo rằng Quấy rối (Harassment) là một trong ba mối
13
nguy hại mà trẻ em, đặc biệt là thanh thiếu niên, có thể gặp phải trong không gian mạng
bên cạnh sự tiếp cận, dọa dẫm về tình dục và sự tiếp xúc với những thông tin tình dục
không mong muốn. Ngoài ra vấn đề BNTT còn được đề cập đến trong một số nghiên
cứu như “Cuộc sống trực tuyến của thanh thiếu niên: Sự gia tăng của thế hệ tin nhắn
nhanh và ảnh hưởng của internet lên tình bạn và mối quan hệ trong gia đình” (Lenhart
và cộng sự, 2000), “Trẻ em và các phương tiện truyền thông ở thiên niên kỷ mới: Một
phân tích toàn diện về sử dụng phương tiện truyền thông ở trẻ em” (Roberts và cộng sự,
1999) ...
Được xem như một vấn nạn học đường, hình thức BNTT thu hút sự quan tâm
nghiên cứu trên nhiều khía cạnh của nhiều nhà giáo dục, nhà xã hội học, nhà tâm lý học
với nỗ lực tạo ra một không gian mạng an toàn và lành mạnh cho giới trẻ. Các nghiên
cứu luôn nhận thấy rằng mối đe dọa của BNTT là đáng kể và liên tục phát triển qua các
cuộc bắt nạt đồng lứa. Các nguồn tài liệu đang thiếu về các mức độ của bắt nạt, nhưng
một điều có thể thấy rõ số lượng học sinh bị ảnh hưởng bởi đe doạ trực tuyến đang ở
mức nguy hiểm hiện nay. Tỉ lệ trẻ em bị BNTT trong phạm vi từ 4% đến 53% trong
những năm gần đây (Kowalski, 2008). Với các vấn đề về sự khác biệt trong các nghiên
cứu khác nhau, từ 6,5% (Ybarra, 2004) đến tỉ lệ rất cao là 71% (Juvoven & Gross, 2008),
rất khó cho các nhà nghiên cứu giải thích về sự chênh lệch. Các nhà nghiên cứu đi vào
tìm hiểu sự bất đồng về những phát hiện của họ, mặc dù không chắc chắn về lý do chính
xác của các mức độ bắt nạt mà dường như thay đổi từ các nghiên cứu khác nhau, nhưng
nguyên nhân có thể được tìm thấy trong việc thiếu một định nghĩa súc tích và nhất quán
(Tokunaga, 2010).
Trong một nghiên cứu lớn nhất cho đến nay, Patchin và Hinduja (2006) cho thấy
29% là nạn nhân của BNTT. Mason (2008) đã hỗ trợ cho Patchin và Hindjua (2006)
bằng cách xác nhận rằng các nghiên cứu lớn đã thống nhất đặt tỉ lệ phần trăm của các
nạn nhân bị bắt nạt rực tuyến lên đến 20% - 40%. Ngay cả khi các nhà lãnh đạo giáo
dục cho rằng các cuộc điều tra cho thấy rằng 30% trẻ vị thành niên đang bị BNTT, các
chuyên gia giáo dục phải xem xét vấn đề này đủ lớn để được chú trọng giải quyết về sức
khỏe tâm thần của học sinh và có thể là những mối quan tâm về học thuật (Li, 2006).
Nhận thức về BNTT cũng được các nhà nghiên cứu tìm hiểu trên nhiều đối tượng
14
có liên quan. Năm 2010, Varjas và cộng sự thực hiện một nghiên cứu khảo sát nhằm tìm
hiểu nhận thức của học sinh trung học về động cơ BNTT. Kết quả cho thấy những học
sinh trung học xác định rằng BNTT xuất phát từ những lý do nội tại (chuyển hướng cảm
xúc; trả thù; làm cho bản thân cảm thấy tốt hơn; sự buồn chán; bị xúi giục; bảo vệ; ganh
tỵ; tìm kiếm sự đồng thuận; thử một cá tính mới; nặc danh/ức chế) hơn là từ những động
cơ bên ngoài (không có hậu quả, không cần đối đầu, mục tiêu khác nhau) [18]. Cũng
tìm hiểu về nhận thức của học sinh trung học, nghiên cứu “Nhận thức của học sinh trung
học về cách ứng phó với BNTT” của Parris và cộng sự (2012) chỉ ra rằng ba chủ đề ứng
phó chính bao gồm: ứng phó tức thời, ứng phó phòng ngừa và không có cách nào ngăn
ngừa bắt trực tuyến [24]. Khác với việc chỉ tìm hiểu nhận thức của học sinh về BNTT
trên một khía cạnh như hai nghiên cứu trên, nghiên cứu “Nhận thức của học sinh trung
học cơ sở về BNTT” của Surabhi Negi (2016) đưa ra một cái nhìn tổng quan nhận thức
của học sinh về BNTT thông qua các khía cạnh: Thế giới BNTT từ quan điểm của học
sinh; Các lý do có thể dẫn tới BNTT; Đặc điểm của nạn nhân bị bắt nạt; Tác động của
BNTT đến nạn nhân; Các phương pháp và chính sách được xây dựng chống lại sự bắt
nạt trên mạng [16]. Ngoài ra, nhận thức về BNTT trên đối tượng là giáo viên và phụ
huynh cũng được quan tâm nghiên cứu. Beringer (2015) chỉ ra rằng giáo viên quan ngại
về BNTT trong trường học của họ, nhưng không rõ cách xác định và quản lý nó và họ
tin rằng các nhân viên tư vấn, quản trị viên và giáo viên của trường phải đóng một vai
trò trong việc thực hiện các chương trình về BNTT trong trường học [42]. Còn theo
Francine Dehue và cộng sự (2008), hầu hết phụ huynh đặt ra các quy tắc cho con mình
về cách sử dụng internet nhưng không thực sự ý thức được những quấy rối mà trẻ có thể
gặp phải trên mạng. Họ đánh giá thấp hành vi bắt nạt của những đứa trẻ và không có ý
niệm con cái của mình là nạn nhân của bắt nạt. [41]
Giới tính là một phạm vi tranh luận lớn trong hiện tượng bắt nạt nói chung và
BNTT nói riêng. Ngoài các cuộc tấn công về tình dục, một số nghiên cứu đã phát hiện
ra rằng phụ nữ thường có nguy cơ bị BNTT nhiều hơn và theo thống kê họ cũng có
nhiều khả năng là thủ phạm của hình thức bắt nạt này. Một nghiên cứu của Shariff (2008)
chỉ ra rằng nữ giới phải chịu đựng sự BNTT nhiều hơn trên cơ sở của các cuộc tấn công
tình dục. Ngược lại với những phát hiện cho thấy phụ nữ thường là những nạn nhân của
BNTT, Li (2006) không nhận thấy sự khác biệt về khả năng xảy ra bắt nạt, nhưng phát
15
hiện ra rằng nam giới có nhiều khả năng là thủ phạm BNTT hơn về mặt ý nghĩa thống
kê. Trong một nghiên cứu trường hợp, Smith (2008) đã thực hiện trên hai nhóm nghiên
cứu và tìm ra rằng một nhóm có ý nghĩa thống kê cho nạn nhân nữ, trong khi nhóm còn
lại không có sự khác biệt. Không có lời giải thích nào được đưa ra về lý do cho những
phát hiện khác biệt này, có thể vì không có lời giải thích rõ ràng. Với những kết quả
tương phản, Smith và cộng sự (2008) chỉ đơn giản chọn để thảo luận về giới với một
niềm tin rằng những phát hiện cho giới tính có rất nhiều sự không chắc chắn.
Không dừng lại ở đó, BNTT còn được quan tâm nghiên cứu trong mối quan hệ
với sức khỏe tâm thần, những hậu quả về mặt tâm lý xã hội mà nạn nhân có thể gặp
phải. Một số nghiên cứu có thể kể đến như:
- “Bắt nạt cùng lứa và các triệu chứng trầm cảm: Những chiến lược ứng phó cụ thể
có thể làm giảm tác động tiêu cực của bắt nạt qua không gian mạng?” của Machmutowa
và cộng sự thực hiện tại 12 trường học ở Thụy Sỹ năm 2008. [26]
- Nghiên cứu của Sourander (2010) “Các yếu tố nguy cơ về mặt tâm lý xã hội liên
quan đến BNTT ở thanh thiếu niên: Một nghiên cứu dựa trên dân số” được thực hiện
trên 2215 thanh thiếu niên Phần Lan từ 13 đến 16 tuổi. [31]
- “BNTT và bắt nạt truyền thống và yếu tố nguy cơ đối với các vấn đề về sức khỏe
tâm thần và ý nghĩ tự tử ở thanh thiếu niên” thực hiện năm 2014 bởi nhóm tác giả
Bannink R, Broeren S, van de Looij-Jansen PM, de Waart FG và Raat H. [30]
- “Ảnh hưởng của BNTT lên sức khỏe tâm thần của giới trẻ” của hai tác giả Niamh
O’Brien và Tina Moules được thực hiện tại hai thành phố ở Anh năm 2014. [29]
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về BNTT trên thế giới mặc dù còn nhiều
tranh cải về thuật ngữ cũng như một định nghĩa cuối cùng nhưng không thể phủ nhận
sự đa dạng trong những nghiên cứu trên đã gây dựng nên một lượng tri thức khổng lồ
làm cơ sở và tạo điều kiện thuận lợi cho các nghiên cứu tại Việt Nam.
1.1.2. Một số công trình nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, những nghiên cứu mới đầu về hiện tượng bắt nạt từ năm 2009 đã
16
có ít nhiều đề cập đến BNTT có thể kể đến:
- “Bị bắt nạt bởi bạn cùng lứa và mối liên hệ với nhận thức bản thân, trầm cảm ở
học sinh phổ thông” nghiên cứu trên học sinh ở Mỹ của Trần Văn Công và cộng sự,
nghiên cứu sinh, Trường Đại học Venderbilt của Hoa Kỳ. [11]
- “Tìm hiểu hiện tượng bắt nạt ở học sinh trung học phổ thông” luận văn Thạc sĩ
của tác giả Nguyễn Thị Nga, năm 2011. [14]
- “Nghiên cứu mối liên hệ giữa đặc điểm nhân cách và hiện tượng bắt nạt ở học
sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Thị Duyên thực hiện trên
303 học sinh từ lớp 6 đến lớp 12 Trường THCS Tân Hồng và Trường THPT Lý Thái
Tổ, tỉnh Bắc Ninh năm 2012. [13]
Nhưng phải đến năm 2015, nghiên cứu về hiện tượng BNTT được mở đầu bằng
nghiên cứu Xây dựng thang đo BNTT cho học sinh Việt Nam của tác giả Trần Văn Công
và cộng sự làm cơ sở cho một loạt các nghiên cứu được thực hiện sau này. Dưới nền
tảng của thang đo đã có, Trần Văn Công và cộng sự tiếp tục thực hiện một số nghiên
cứu về BNTT như Chiến lược ứng phó của học sinh với BNTT (2015) hay Hậu quả của
BNTT ở học sinh trung học phổ thông (2016).
Ngoài ra, một số ít nghiên cứu về BNTT được thực hiện trong vài năm gần đây,
đặc biệt là trong lĩnh vực y học. Năm 2016, hai tác giả Phạm Thị Thu Ba và Trần Quỳnh
Anh thực hiện nghiên cứu “Bắt nạt qua mạng ở học sinh trung học phổ thông và một số
yếu tố liên quan” nhằm tìm hiểu mối liên quan giữa hiện tượng bắt nạt qua mạng và các
yếu tố dân số học, một số đặc điểm cá nhân của vị thành niên được phân tích từ số liệu
thu được của 1609 học sinh trung học phổ thông thuộc 6 trường tại Hà Nội, Thừa Thiên
- Huế và Cần Thơ. Kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh bị bắt nạt qua mạng là 13,5%. Học
sinh nam có xu hướng bị bắt nạt qua mạng nhiều hơn học sinh nữ. Học sinh ở thành phố
trải nghiệm bị bắt nạt qua mạng nhiều hơn học sinh nông thôn. Học sinh được bạn bè
yêu mến hơn có xu hướng ít bị bắt nạt hơn học sinh ít được yêu mến. Học sinh dành
nhiều thời gian chơi game online cũng bị bắt nạt nhiều hơn các học sinh khác. Cũng một
nghiên cứu về BNTT và các yếu tố liên quan thực hiện ở học sinh trường trung học phổ
thông Đức Huệ, tỉnh Long An năm 2017 của tác giả Nguyễn Thanh Thoảng cho thấy
học sinh có thời gian truy cập internet nhiều hơn 2 giờ mỗi ngày sẽ bị nắt nạt trực tuyến
17
nhiều hơn nhóm học sinh còn lại; học sinh sống trong khu vực kinh tế nghèo sẽ bị BNTT
nhiều hơn những học sinh sống trong khu vực kinh tế giàu và học sinh thường xuyên bị
người thân trong gia đình la mắng, đánh đập sẽ bị BNTT nhiều hơn nhóm học sinh
không bao giờ bị hay mức độ bị la mắng, đánh đập ít hơn.
Bên cạnh đó, vấn đề BNTT đang dần nhận được sự quan tâm của các phương tiện
truyền thông. Với tiêu đề “Nguy hiểm đáng sợ từ bắt nạt trên mạng”, Tuổi Trẻ online đã
đưa ra những hậu quả nghiêm trọng của BNTT với những số liệu được lấy từ trang
Reuters Health kèm theo đó là những trường hợp thương tâm là nạn nhân của BNTT khi
không thể vượt qua và cuối cùng là tìm đến cái chết. Trang Baomoi.com cũng có bài
viết “BNTT những thách thức trong thời kỳ online” cũng đã đưa ra một cái nhìn khái
quát về biểu hiện, nguyên nhân của hiện tượng BNTT trong sự phát triển nhanh chóng
của các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter, Instagram, Zalo...
Có thể thấy dù nhận được sự quan tâm chú ý như một vấn nạn trong học đường
trong sự bùng nổ của công nghệ điện tử và các trang mạng xã hội, nhưng các nghiên cứu
về BNTT được thực hiện tại Việt Nam vẫn còn khá ít, chưa thực sự đồng bộ và mang
tính toàn diện.
1.2. Hệ thống khái niệm
1.2.1. Nhận thức
1.2.1.1. Khái niệm chung
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người: nhận thức,
tình cảm, hành động. Nhận thức có mối quan hệ chặt chẽ với tình cảm và hành động
cũng như các hiện tượng tâm lý khác của con người.
Theo quan điểm của triết học Mac – Lenin, nhận thức là quá trình phản ánh biện
chứng hiện thực khác quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động,
sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn. Mục tiêu của nhận thức là đạt đến chân lý khách quan.
Quá trình nhận thức: thu thập kiến thức, hình thành khái niệm về hiện tượng thực tế giúp
con người hiểu biết về thế giới xung quanh. Quá trình nhận thức là để tích lũy tri thức,
tích lũy kinh nghiệm từ đó cải tạo thế giới. V.I. Lenin đã tổng kết quy luật chung nhất
của hoạt động nhận thức như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ
tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của
18
sự nhận thức thực tại khách quan”.
Theo Từ điển Tâm lý học do tác giả Nguyễn Khắc Viện chủ biên năm 2001, nhận
thức (tiếng pháp: “Connaissance”) là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện
thực vào trong tư duy, nhận biết và hiểu biết về thế giới khách quan. Quá trình ấy đi từ
cảm giác đến tri giác, từ tri giác đến tri thức diễn ra ở mức độ kinh nghiệm hàng ngày
về các đồ vật và người khác, mang tính tự phát, thường hỗn hợp với tình cảm, thành
kiến, thiếu hệ thống và mức độ khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt
chẽ, có hệ thống, với ý thức về phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng
nghiệm đúng – sai. [7]
Còn theo từ điển Tâm lý học của tác giả Vũ Dũng (2012): “Nhận thức là hiểu
được điều gì đó, tiếp thu được những kiến thức về điều nào đó, hiểu biết những quy luật
về hiện tượng, quá trình nào đó”. [5]
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn: “Nhận thức là một hoạt động chủ thể hướng
vào đối tượng nhằm mục đích biết và hiểu đối tượng cũng như biết và điều chỉnh chính
mình”. [6]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực xung
quanh, hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động
với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình” [6]
Như vậy dưới góc độ Tâm lý học thì nhận thức là một quá trình tâm lý, bao gồm
khởi đầu, diễn biến và kết thúc. Quá trình này thường gắn với mục đích nhất định nên
nhận thức của con người cũng là một hoạt động. Đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động
nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan. Không chỉ phản ánh hiện thực chung quanh
ta mà còn phản ánh hiện thực của bản thân ta, nó không chỉ phản ánh cái bên ngoài mà
còn phản ánh cái bên trong, không chỉ phản ánh cái thực tại mà còn phản ánh cái đã qua
và sẽ tới trong hiện thực khách quan.
1.2.1.2. Các mức độ của quá trình nhận thức
Căn cứ vào tính chất phản ánh, hoạt động nhận thức được chia thành hai mức độ:
mức độ nhận thức cảm tính và mức độ nhận thức lý tính.
19
a. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu, sơ đằng trong toàn bộ hoạt động nhận thức
của con người. Đặc điểm chủ yếu của hoạt động nhận thức là quá trình tâm lý, phản ánh
những thuộc tính bên ngoài, cụ thể của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào
giác quan của con người. Trong đó, cảm giác là hình thức phản ánh tâm lý khởi đầu, là
hình thức định hướng đầu tiên của cơ thể trong thế giới. Hình thức phản ánh cao hơn
trong cùng một bậc thang nhận thức cảm tính là tri giác. Cảm giác và tri giác có mối
quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau trong mức độ nhận thức “trực quan sinh động” về
thế giới.
Cảm giác
Là hình thức phản ánh tâm lý đơn giản nhất, sơ khởi nhất. Điều này thể hiện ở
chỗ, cảm giác chỉ phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính cụ thể, từng thuộc tính bên
ngoài của sự vật, hiện tượng. Và cảm giác chỉ nảy sinh, diễn biến khi sự vật, hiện tượng
khách quan hoặc một trạng thái nào đó của cơ thể đang trực tiếp tác động vào giác quan
của chúng ta. Mỗi kích thích cho ta một cảm giác tương ứng, khi kích thích ngừng tác
động thì quá trình cảm giác cũng ngừng lại.
Cảm giác là mắt xích đầu tiên trong mối quan hệ con người – môi trường; là các
kênh thu nhận các loại thông tin phong phú và sinh động từ thế giới bên ngoài, cung cấp
cho quá trình nhận thức cao hơn sau này. Không có nguyên liệu của cảm giác thì không
thể có quá trình nhận thức cao hơn. Chính vì vậy, cảm giác giúp con người làm giàu cho
tâm hồn, thưởng thức thế giới kỳ diệu xung quanh chúng ta.
Tri giác
Tri giác được hình thành và phát triển trên cơ sở những cảm giác. Khi các thông
tin về các thuộc tính của sự vật, hiện tượng có được nhờ cảm giác được chuyển tới vỏ
não thì ngay lập tức chúng được tổ chức sắp xếp tạo nên một hình ảnh đầy đủ, có ý nghĩa
về chính sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. Như vậy,
cũng như cảm giác, quá trình tri giác bắt đầu từ khi có tác động trực tiếp của sự vật hiện
tượng đến các giác quan của con người. Kết thúc quá trình tri giác, sản phẩm thu được
20
là tổng hợp các thuộc tính bên ngoài của sự vật. Nhưng khác với cảm giác, tri giác có
sự tham gia của tư duy, ngôn ngữ và nhiều chức năng tâm lý khác để có thể phản ánh
một cách đầy đủ nhất, toàn diện nhất những thuộc tính bên ngoài của sự vật hiện tượng.
Với tư cách là một mức độ nhận thức cảm tính cao hơn cảm giác, tri giác có vai
trò quan trọng đối với con người, là thành phần chính của nhận thức cảm tính, nhất là ở
người trưởng thành. Tri giác tạo điều kiện quan trọng cho định hướng hành vi và hoạt
động của con người trong môi trường xung quanh. Hình ảnh của tri giác thực hiện chức
năng điều chỉnh các hành động. Gần giống với cảm giác, tri giác cũng cung cấp nguyên
liệu để tiến hành các bước nhận thức cao hơn, nhưng ở mức độ đầy đủ và trọn vẹn hơn.
Như vậy, nội dung phản ánh nhận thức cảm tính là những thuộc tính trực quan,
cụ thể, bề ngoài của sự vật, hiện tượng, những mối liên hệ và quan hệ về không gian,
thời gian chứ chưa phải là những thuộc tính bên trong, bản chất, những mối liên hệ, quan
hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Đồng
thời phương thức phản ánh của nhận thức cảm tính là phản ánh trực tiếp bằng các giác
quan của cơ thể để cho ra những hình ảnh cụ thể, trực quan chứ chưa phải là những khái
niệm, quy luật về thế giới. Từ những điều trên cho thấy, nhận thức cảm tính mới chỉ là
mức độ nhận thức ban đầu, sơ đẳng trong toàn bộ hoạt động nhận thức của con người.
b. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của nhận thức cảm tính. Nhận thức lý tính
phản ánh những yếu tố thuộc về bản chất, hướng đến cái mới của sự vật hiện tượng trong
hiện thực khách quan mà con người chưa biết. Do vậy nhận thức lý tính có vai trò quan
trọng trong việc hiểu biết bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật hiện
tượng tạo điều kiện để con người làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Nhận thức
lý tính bao gồm hai quá trình có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau: tư duy và tưởng
tượng.
Tư duy
Tư duy là một mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác và tri giác. Khác
với cảm giác và tri giác, tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong, bản chất, những
mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Quá trình phản ánh này
21
mang tính gián tiếp và khái quát nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực tiễn, từ nhận thức
cảm tính nhưng vượt xa giới hạn của nhận thức cảm tính. Như vậy, tư duy là một quá
trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ có
tính quy luật của sự vật, hiện tượng khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Vì là một quá trình, nên tư duy cũng có ba giai đoạn là mở đầu, diễn biến và kết
thúc. Mở đầu của quá trình tư duy là sự bắt gặp hoàn cảnh có vấn đề, những cái chúng
ta chưa biết, những cái mâu thuẫn với kinh nghiệm của chúng ta, đòi hỏi phải giải quyết,
phải phản ánh. Bước sang giai đoạn diễn biến sẽ diễn ra các thao tác của tư duy như
phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa... để giải quyết tình huống
(bài toán) đặt ra. Và kết thúc quá trình này sẽ cho ta sản phẩm là những khái niệm mới,
những suy lý, phán đoán.
Nhưng không dừng lại ở đó, sản phẩm của tư duy lại tiếp tục có thể trở thành
những tài liệu để có thể tiếp tục tư duy nữa, rút ra những phán đoán, suy lý, khái niệm
mới hơn, đầy đủ hơn, hoàn chỉnh hơn, đúng đắn hơn. Cứ như thế, tư duy giúp cho ta
hiểu biết ngày càng sâu sắc sự vật hiện tượng, hiểu biết vô hạn về sự vật hiện tượng.
Đây chính là điều nhận thức cảm tính không đạt đến được. Tuy nhiên không phải tư duy
luôn luôn phản ánh đúng về sự vật, hiện tượng. Nhiều trường hợp có thể tư duy sai, do
đó kết quả nhận thức cũng bị sai.
Tưởng tượng
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới dựa trên cơ sở những biểu
tượng đã có.
Từ định nghĩa trên, ta thấy nội dung phản ánh của tưởng tượng là phản ánh cái
mới, những cái chưa có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc của xã hội. Cái mới ấy
được tưởng tượng tạo ra dưới hình thức biểu tượng mới bằng cách sáng tạo ra nó, xây
dựng nên nó trên cơ sở những biểu tượng đã có. Khác với tư duy là quá trình vạch ra
những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng, những mối liên hệ, quan hệ thông qua
sự vận hành của các thao tác tư duy, tưởng tượng tạo ra những hình ảnh mới trên cơ sở
những biểu tượng đã biết nhờ các phương thức hành động: chắp ghép, liên hợp, nhấn
22
mạnh, điển hình hóa, loại suy... Từ đó cho ra sản phẩm của tưởng tượng là các biểu
tượng của tưởng tượng. Đó là một hình ảnh mới do con người tạo ra trên cơ sở những
biểu tượng của trí nhớ mang tính khái quát hơn.
Tưởng tượng cần thiết cho bất kỳ hoạt động nào của con người. Tưởng tượng cho
phép con người hình dung ra được kết quả cuối cùng của lao động trước khi bắt đầu lao
động và quá trình đi đến kết quả đó. Đồng thời, tưởng tượng giúp con người tạo nên
những hình mẫu tươi sáng, rực rỡ, hoàn hảo mà con người mong đợi và vươn tới (lý
tưởng).
Như vậy hoạt động nhận thức giúp con người nhận biết được những thuộc tính
bên ngoài và những thuộc tính bên trong của sự vật, hiện tượng. Nói cách khác, hoạt
động nhận thức giúp con người hiểu biết về các sự vật hiện tượng trong thế giới khách
quan. Sự hiểu biết ấy có thể diễn tả ở nhiều mức độ khác nhau.
Lý thuyết của Benjamin Bloom được ứng dụng rộng rãi, đặc biệt là trong lĩnh
vực dạy học và giáo dục gồm 6 mức độ nhận thức:
1. Biết: chủ yếu là ghi nhớ các dữ liệu (khái niệm, câu trả lời) đã học được trước
đây. Điều đó có nghĩa là một người có thể nhắc lại một loạt dữ liệu, từ các sự kiện đơn
giản đến các lý thuyết phức tạp, tái hiện trong trí nhớ những thông tin cần thiết. Biểu
hiện bằng việc có thể xác định, miêu tả, gọi tên, phân loại, nhận biết một sự vật, hiện
tượng, khái niệm, hoặc mô phỏng, bắt chước một thao tác.
2. Hiểu: là khả năng nắm được ý nghĩa của tài liệu. Điều đó có thể thể hiện bằng
việc chuyển tài liệu từ dạng này sang dạng khác (từ các từ sang số liệu), bằng cách giải
thích tài liệu (diễn giải hoặc tóm tắt) hay chứng minh sự hiểu biết về các sự kiện và ý
tưởng bằng cách đối chiếu, so sánh, nêu ví dụ minh họa.
3. Vận dụng: là khả năng sử dụng các tài liệu đã học vào một hoàn cảnh cụ thể mới
và có thể dự báo xu hướng tương lai dựa trên các dữ kiện đã có. Điều đó có thể bao gồm
việc áp dụng các quy tắc, phương pháp, khái niệm, nguyên lý, định luật và lý thuyết.
4. Phân tích: là sự phân chia một tài liệu ra thành các phần sao cho có thể hiểu được
các cấu trúc tổ chức của nó. Điều đó có thể bao gồm việc chỉ ra đúng các bộ phận, phân
tích môí quan hệ giữa các bộ phận, và nhận biết được các nguyên lý tổ chức được bao
23
hàm.
5. Tổng hợp: sắp xếp các bộ phận lại với nhau, khái quát hóa hoặc tái cấu trúc để
hình thành một tổng thể mới, kết hợp các thông tin với nhau theo những cách khác nhau
hoặc đề xuất các giải pháp thay thế
6. Đánh giá: có thể nhận xét, nhận định, phê bình ý nghĩa hoặc giá trị của sự vật,
hiện tượng dựa trên sự xem xét lược sử trình tự vấn đề, có thể lượng định các dữ kiện
để khẳng định hoặc bác bỏ một luận điểm.
Dựa trên tính trọn vẹn và đầy đủ của bản chất sự vật, hiện tượng có thể chia thành
4 mức độ nhận thức như sau:
1. Nhận thức đúng, đầy đủ về sự vật, hiện tượng
2. Nhận thức đúng nhưng chưa đầy đủ về sự vật hiện tượng
3. Nhận thức được một phần về sự vật, hiện tượng nhưng chưa phản ánh đúng bản
chất của sự vật, hiện tượng.
4. Nhận thức sai về sự vật, hiện tượng.
Đề tài này không đi sâu vào bản chất của quá trình nhận thức mà chỉ dựa trên nền
tảng những tri thức đã có về nhận thức làm cở sở cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài là
tìm hiểu nhận thức của nhóm khách thể về một vấn đề cụ thể. Đối tượng và nội dung
của nhận thức trong phạm vi của đề tài bao gồm: nhận thức về biểu hiện của BNTT,
nhận thức về ảnh hưởng của BNTT và nhận thức về những cách ứng phó đối với BNTT.
1.2.2. Học sinh THCS và một số nét tâm lý đặc trưng
Tuổi thiếu niên được xác định vào khoảng 11, 12 tuổi đến 14, 15 tuổi. Ở nước ta,
lứa tuổi này gần trùng với thời điểm trẻ học ở bậc THCS, vì vậy tuổi thiếu niên được
gọi là tuổi học sinh THCS. Đây là lứa tuổi diễn ra nhiều biến động về mặt tâm sinh lý
của trẻ.
Sự phát triển về mặt sinh lý ở học sinh THCS có đặc điểm là độ phát triển cơ thể
nhanh, mạnh nhưng không đồng đều về mọi mặt, đồng thời xuất hiện hiện tượng dậy thì
đánh dấu sự trưởng thành về hệ sinh dục. Ở lứa tuổi này diễn ra sự cải tổ rất mạnh mẽ
về mặt sinh lý, cơ thể như hệ cơ xương, tim mạch, tuyến sinh dục... Trọng lượng não
phát triển bằng người lớn, đặc biệt các vùng chức năng phát triển mạnh mẽ. Các vùng 24
thái dương, vùng đỉnh, vùng trán, các tua, các nhánh noron phát triển nhanh, tạo điều
kiện nối liền các vùng này với vỏ naxom các noron thần kinh được liên kết với nhau,
hình thành các phản xạ có điều kiện phức tạp giúp hình thành chức năng trí tuệ bậc cao,
là tiền đề cho sự phát triển các loại tư duy trừu tượng, tư duy logic, tư duy sáng tạo. Hoạt
động của hệ thần kinh ở học sinh THCS chưa cân bằng, hưng phấn thường mạnh hơn
ức chế nên các em thường có biểu hiện ham hoạt động hoặc dễ bị kích động....
Sự phát triển “nhảy vọt” về mặt thể chất, sự thay đổi điều kiện sống và hoạt động
học tập, giao tiếp... nhất là sự trưởng thành về mặt sinh dục và sự thay đổi vị thế trong
gia đình, nhà trường xã hội cùng sự chín muồi về tâm lý trong giai đoạn chuyển tiếp từ
tuổi nhi đồng sang tuổi thiếu niên đã tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển nhảy
vọt về chất, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển tâm lý cá
nhân.
Một số nét tâm lý đặc trưng ở lứa tuổi thiếu niên có thể kể đến qua các khía cạnh
sau:
a. Về hoạt động giao tiếp
Giao tiếp của thiếu niên với người lớn được cải tổ lại, hình thành kiểu quan hệ
mới dựa trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng. Ở thiếu niên xuất hiện một cảm giác mới rất
độc đáo: “cảm giác mình là người lớn”, các em cảm thấy mình không còn là trẻ con nữa
nhưng cũng chưa là người lớn thực sự. Các em có xu hướng vươn lên làm người lớn và
cố gắng được mọi người công nhận rằng mình đã lớn, vì thế trong suy nghĩ và hành
động của các em thường bộc lộ rõ nhu cầu độc lập và tự khẳng định mình. Nhu cầu này
của các em trong quan hệ với người lớn được thể hiện rất cao. Các em mong muốn người
lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính độc lập và quyền hạn ở
các em. Và một điều đáng lưu ý, trong tương tác với người lớn thiếu niên thường có xu
hướng cường điệu hóa những tác động của người lớn mà bản thân cho là không phù hợp.
Các em trở nên nhạy cảm hơn, dễ suy diễn, thổi phòng và có những phản ứng tiêu cực
với cường độ mạnh với những tác động từ người lớn. Quan hệ xung đột giữa các em với
người lớn có thể làm này sinh những hành vi tương ứng ở các em như: xa lánh người
25
lớn, không tin tưởng vào người lớn, cho rằng người lớn không hiểu và không chịu hiểu
các em, khó chịu với những yêu cầu, lời nhận xét, đánh giá từ người lớn... Từ đó tác
động giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút.
Chính vì nhu cầu tách mình ra khỏi người lớn, các em tìm đến những người bạn
mà mình tin cậy để chia sẻ những vướng mắc, băn khoăn, cùng trao đổi những tâm tư
thầm kín mà các em khó giải bày với người lớn. Mặc khác, đây là lứa tuổi có nhu cầu
kết bạn rất mạnh, khao khát tìm kiếm một chỗ đứng trong lòng bạn bè, một vị trí xã hội
nhất định trong lòng tập thể, muốn được mọi người thừa nhận và tôn trọng mình. Các
em không muốn người lớn can thiệp vào quan hệ bạn bè của mình và thường coi trọng
những đánh giá của bạn bè hơn là của cha mẹ. Tình bạn của thiếu niêm có thể trở nên
rất sâu sắc, gắn bó với nhau, từ đó hình thành những nhóm bạn thân. Nhưng việc không
có bạn thân, hoặc những mối bất hòa trong tình bạn có thể dẫn đến việc giận nhau, hoặc
phá vỡ tình bạn, có thể kèm theo đó là những lời phê bình, những hành vi, cử xử tiêu
cực dẫn đến sự tẩy chay trong quan hệ bạn bè.
b. Về đặc điểm đời sống xúc cảm – tình cảm
Đời sống xúc cảm – tình cảm của thiếu niên phát triển mạnh, dần hình thành
những loại tình cảm cấp cao đa dạng, phong phú, có chiều sâu. Các loại tình cảm trí tuệ,
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tập thể đặc biệt là tình bạn được cũng cố
và phát triển sâu sắc theo năm tháng. Thiếu niên nhận biết được các xúc cảm – tình cảm
của bản thân, có thái độ nhất định đối với những xúc cảm – tình cảm đó. Từ việc ý thức
được những tình cảm của bản thân mình, các em có thể dùng ngôn ngữ để mô tả lại các
trải nghiệm đó một cách chính xác. Tuy nhiên xúc cảm – tình cảm của đa số thiếu niên
có cường độ khá mạnh, chưa ổn định, còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn và dễ thay đổi.
Vì vậy, các em thường dễ mất cân bằng, dễ kích động và có thể có những hành động
bồng bột, quyết liệt khi không được đáp ứng nhu cầu.
c. Về đặc điểm hoạt động nhận thức
Khi chập chững bước vào thế giới người lớn, một thế giới với những điều mới lạ
với bao điều mà các em chưa biết, các em trở nên tò mò, thích khám phá và tính ham
26
hiểu biết tăng lên rõ rệt. Đặc trưng nổi bật trong hoạt động nhận thức của các em là tính
mục đích, tính chủ định phát triển mạnh mẽ trong tất cả các quá trình nhận thức: tri giác,
trí nhớ, chú ý, tư duy, tưởng tượng. Những điều này sẽ được làm rõ hơn trong phần sau.
d. Về đặc điểm nhân cách
Xu hướng vươn lên làm người lớn, cảm giác mình là người lớn đã tác động mạnh
mẽ đến thiếu niên làm các em nảy sinh nhận thức mới. Nội dung và mức độ nhận thức
về bản thân của thiếu niên không diễn ra cùng lúc. Ban đầu các em chỉ nhận thức về vẻ
bề ngoài và hành vi của mình, sau đó là nhận thức những phẩm chất đạo đức, tính cách
và năng lực của bản thân trong những phạm vi khác nhau, những phẩm chất thể hiện
thái độ đối với bản thân và người khác, cuối cùng các em mới nhận thức những phẩm
chất phức tạp thể hiện mối quan hệ nhiều mặt của nhân cách (tinh thần trách nhiệm, lòng
tự trọng cá nhân…).
Từ sự nhận thức về bản thân và người khác, ở thiếu niên xuất hiện nhu cầu đánh
giá bản thân, đánh giá người khác và so sánh mình với người khác. Đầu tuổi thiếu niên
(lớp 6 – 7), các em thường đánh giá dựa vào chuẩn từ nguời khác, thường là những
người có uy tín và gần gũi với các em. Đến cuối tuổi thiếu niên (lớp 8 – 9), các em đã
hình thành khả năng độc lập phân tích, tự đánh giá bản thân và người khác. Khả năng tự
đánh giá bản thân của thiếu niên còn nhiều hạn chế. Các em nhạy cảm với những nhận
xét của người khác, đặc biệt là những nhận xét về khả năng, sự thành công hay thất bại
của các em. Đồng thời, đánh giá về người khác cũng phát triển mạnh ở thiếu niên. Sự
đánh giá thường thể hiện một cách kín đáo, bí mật, khắt khe và thường phiến diện thông
qua các hành vi đơn lẻ.
1.2.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh THCS
Trong sự phát triển cấu trúc nhận thức của học sinh THCS là sự hình thành và
phát triển các tri thức lý luận với các mệnh đề. Các em đã hình thành và phát triển các
khái niệm khoa học có tính khái quát dựa trên khả năng suy luận logic. Sự hình thành
các tri thức không còn ràng buộc vào các sự việc được quan sát trực tiếp mà áp dụng
phương pháp logic.
Sự phát triển các hành động nhận thức:
27
a. Tri giác
Tri giác có chủ định chiếm ưu thế hớn tri giác không chủ định. Khối lượng, chất
lượng khi tri giác đối tượng tăng rõ rệt và các loại tri giác không gian, thời gian, tri giác
vận động phát triển mạnh. Tri giác của các em có trình tự, có kế hoạch, có mục đích và
hoàn thiện hơn. Các em sử dụng thông tin cảm tính linh hoạt, tùy thuộc vào nhiệm vụ
tư duy. Khả năng quan sát phát triển, trở thành thuộc tính ổn định của cá nhân. Tuy
nhiên tri giác của các em còn một số hạn chế như thiếu kiên trì, còn vội vàng, hấp tấp
trong tri giác, tính tổ chức, tính hệ thống trong tri giác còn yếu.
b. Trí nhớ
Trí nhớ của các em so với tuổi nhi đồng có những biến đổi căn bản. Tính có chủ
định và tính có hệ thống tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ được cải tiến, hiệu suất ghi
nhớ được nâng cao. Các em biết chọn cách ghi nhớ phù hợp với từng bài học, từng môn
học và đặc biệt là khả năng ghi nhớ tài liệu trừu tượng tăng lên rất nhiều.
Ghi nhớ có ý nghĩa, ghi nhớ logic đang dần chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ máy
móc. Các em có khả năng sử dụng các loại trí nhớ một cách hợp lý, biết tìm ra các
phương pháp ghi nhớ, nhớ lại thích hợp, có hiệu quả, biết cách phát huy vai trò của tư
duy trong quá trình ghi nhớ. Như vậy, kỹ năng tổ chức các hoạt động tư duy của các em
để ghi nhớ tài liệu, kỹ năng nắm vững những phương tiện ghi nhớ được phát triển ở mức
độ cao hơn.
Tuy nhiên ghi nhớ ở các em còn thiếu sót, các em thường mâu thuẫn trong việc
ghi nhớ, vẫn còn tùy tiện trong ghi nhớ, khi gặp khó khăn lại từ bỏ ghi nhớ có ý nghĩa,
các em vẫn còn chưa hiểu đúng vai trò ghi nhớ máy móc nên không nhớ được tài liệu
một cách chính xác.
c. Chú ý
Chú ý có chủ định được tăng cường, các phẩm chất của chú ý các em mang nội
dung mới như: Sức tập trung chú ý cao hơn, khối lượng chú ý nhiều hơn, khả năng di
chuyển chú ý được tăng cường rõ rệt, khả năng duy trì chú ý được lâu bền hơn, chú ý
các em thể hiện tính có lựa chọn rất rõ. Sự lựa chọn phụ thuộc vào tính chất của đối
tượng và hứng thú của các em đối với nó. Tuy nhiên chú ý của các em diễn ra phức tạp,
28
có mâu thuẫn. Chú ý có chủ định phát triển mạnh nhưng mặc khác, những ấn tượng và
rung động mạnh mẽ, phong phú lại làm cho chú ý của các em thiếu bền vững. Điều này
phụ thuộc vào hứng thú nhận thức, vào tài liệu cần lĩnh hội, vào tâm trạng và trạng thái
của các em.
d. Tư duy
Ở đầu cấp THCS, tư duy hình tượng – cụ thể vẫn còn phát triển và giữ vai trò
quan trọng trong cấu trúc tư duy. Sang cuối cấp, tư duy trừu tượng phát triển mạnh và
các em có khả năng phân tích tài liệu tương đối đầy đủ, sâu sắc, biết phân tích các yếu
tố bản chất những mối liên hệ và quan hệ của tài liệu. Khả năng khái quát hóa, trừu
tượng hóa phát triển, các em biết tóm tắt những đặc điểm chung, bản chất của nhiều sự
vật, hiện tượng, biết trừu xuất những yếu tố không bản chất để lĩnh hội các khái niệm.
Khả năng suy luận tương đối hợp lý và có cơ sở. Các em phân tích những nhiệm
vụ trí tuệ bằng cách tạo ra những giả định khác nhau, những mối liên hệ giữa chúng và
kiểm tra những giả thuyết này và từ đó, muốn độc lập lĩnh hội tri thức, muốn giải quyết
bài tập, nhiệm vụ theo những quan điểm, lập luận, cách diễn đạt riêng. Đồng thời, các
em vận dụng các thao tác tư duy một cách linh hoạt, biết lập luận giải quyến vấn đề một
cách có cơ sở, biết vấn dụng lý thuyết vào thực tiễn, có khả năng phân biệt đúng sai, có
khả năng hiểu vấn đề, đi sâu vào bản chất của vấn đề.
Tính phê phán, tính độc lập và sáng tạo trong tư duy được hình thành và phát
triển. Các em thích tìm hiều những vấn đề mang tính chất phức tạp, khó khăn cao trong
tư duy, không thích các tri thức khuôn mẫu, bày sẵn. Muốn tham gia các hoạt động giải
trí cần sử dụng khả năng trí tuệ và thích những tính chất có tính phản đề. Tuy nhiên mức
độ và chất lượng tư duy không được hình thành như nhau ở mọi thiếu niên.
Trên thực tế, tư duy các em hạn chế khi nắm bắt những dấu hiệu bề ngoài của
khái niệm khoa học dễ hơn các dấu hiệu bản chất của nó. Các em hiểu dấu hiệu bản chất
của khái niệm nhưng không phải lúc nào các em cũng phân biệt được các dấu hiệu đó
trong mọi trường hợp hay gặp khó khăn trong khi phân tích mối liên hệ nhân quả.
Ngoài ra đối với một số thiếu niên, hoạt động nhận thức chưa trở thành hoạt động
29
độc lập, tinh thần kiên trì trong hoạt động học tập còn yếu, các em thích học nhanh
nhưng ngại suy nghĩ, không có nhu cầu tìm hiểu các vấn đề phức tạp, chỉ thích những
vấn đề nhanh chóng đưa lại kết quả.
e. Tưởng tượng
Tưởng tượng có chủ định ở thiếu niên phát triển mạnh. Khả năng sáng tạo ra hình
ảnh mới đa dạng và trí tưởng tượng vô cùng linh hoạt và phong phú. Lứa tuổi này có
nhiều ước mơ, nhiều hoài bão đẹp nhưng chúng còn mang tính viễn vông và xa rời so
với thực tế. Các em đã có thể xây dựng riêng cho mình những hình mẫu lý tưởng mà
mình mong muốn đạt đến nhưng phải đến những năm cuối tuổi thiếu niên, những hình
mẫu lý tưởng này mới trở nên thiết thực hơn, dễ có khả năng đạt được hơn và trở thành
động lực thúc đẩy cho sự phát triển ở các em.
f. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ các em được mở rộng, vốn từ tăng lên rõ rệt, vốn từ phức tạp hơn, từ
vựng phong phú hơn đặc biệt là vốn từ khoa học. Khả năng viết, nói lưu loát và dùng
đúng ngữ pháp hơn, tính hình tượng và trình độ logic chặt chẽ trong ngôn ngữ. Tuy
nhiên, ngôn ngữ của các em còn nhiều hạn chế như dùng từ chưa chính xác, chưa chú ý
đến cách diễn đạt theo cấu trúc chặt chẽ, một số em còn dùng từ cầu kì nhưng sáo rỗng
do ý muốn bắt chước người lớn hoặc sử dụng những thành ngữ không phù hợp.
Nhìn chung, tuổi thiếu niên là thời kỳ quá độ, thời kỳ chuyển tiếp từ thế giới trẻ
con sang thế giới của người lớn. Đây là thời kỳ phát triển đầy biến động, có sự nhảy vọt
về mặt thể chất, sự thay đổi điểu kiện sống và hoạt động (học tập, giao tiếp...), nhất là
sự trưởng thành về mặt sinh dục và sự thay đổi vị thế trong gia đình nhà trường, xã hội.
Nhận thức học sinh THCS có sự phát triển rõ rệt. Tư duy trừu tượng phát triển mạnh
mẽ, tạo điều kiện cho HS THCS lĩnh hội những tri thức lý luận mang tính khái quát hóa
cao không những trong sách vở mà còn từ các nguồn tri thức bên ngoài.
Trong đề tài này, khách thể nghiên cứu là học sinh THCS, nằm ở độ tuổi thiếu
niên từ 11 – 15 tuổi. Với những thành tựu nổi bật trong sự phát triển tâm lý, tuổi thiếu
niên có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển tâm lý cá
nhân. Đây là một thời kỳ phát triển đầy khó khăn, phức tạp, nhiều biến động và khủng
30
hoảng, dễ dàng chịu sự ảnh hưởng từ những tác động và kích thích bên ngoài. Vì vậy,
các em ở độ tuổi này cần có sự quan tâm, giúp đỡ và định hướng từ những người lớn
xung quanh, đặc biệt là các bậc cha mẹ và thầy cô giáo trong hoạt động học tập, tương
tác xã hội và cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
Như vậy, những đặc điểm nổi bật của học sinh THCS tham gia vào nghiên cứu
này bao gồm những điểm sau:
- Tốc độ phát triển cơ thể rất nhanh, mạnh nhưng không đồng đều về mọi mặt,
đồng thời xuất hiện hiện tượng dậy thì đánh dấu sự trưởng thành về mặt sinh dục.
- Xu hướng vươn lên làm người lớn, nhu cầu được độc lập và tự khẳng định mình
trong quan hệ với người lớn được thể hiện rất cao.
- Phạm vi giao tiếp được mở rộng trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Tình
bạn cùng giới và tình bạn khác giới phát triển mạnh mẽ. Nhu cầu kết bạn tâm tình, tìm
kiếm một chỗ đứng trong lòng bạn bè trở thành động cơ chủ lực thúc đẩy các hoạt động
của thiếu nên.
- Đời sống xúc cảm – tình cảm phát triển mạnh, hình thức biểu hiện đa dạng nhưng
nhiều mâu thuẫn, chưa ổn định, dễ thay đổi, kích động và mất cân bằng.
- Nhận thức về sự trưởng thành, những phẩm chất, năng lực, những xúc cảm – tình
cảm của bản thân, về mối quan hệ giữa người với người và vị thế của mình trong xã hội.
- Quan điểm cá nhân, lý tưởng niềm tin bắt đầu được hình thành; có khả năng nhận
xét, đánh giá về hệ thống giá trị, về các chuẩn mực đạo đức, so sánh nó với những trải
nghiệm thực tế.
1.2.4. Bắt nạt
1.2.4.1. Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, bắt nạt được hiểu là cậy thế, cậy quyền
dọa dẫm để làm cho phải sợ, ví dụ như bắt nạt trẻ con, ma mới bắt nạt ma cũ.
Theo CDC, bắt nạt là bất kì hành vi hung hăng giữa những đứa trẻ ở độ tuổi đi
học, mà trong đó quan sát hoặc cảm nhận có liên quan đến sự mất cân bằng quyền lực
31
giữa hai bên. Hành vi này được lặp lại, hoặc có khả năng được lặp lại, theo thời gian.
Bắt nạt bao gồm các hành động như đe dọa, lan truyền tin đồn, tấn công người khác về
thể chất hoặc bằng miệng, và loại trừ một người nào đó khỏi nhóm. Bắt nạt có thể xảy
ra trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua công nghệ [27].
Mỗi tác giả có những quan niệm cũng như cách hiểu khác nhau về bắt nạt. Olweus
(1994) định nghĩa bắt nạt hoặc hành hung theo cách chung: Một học sinh đang bị bắt
nạt hoặc bị trừng phạt khi người này bị đặt vào tình thế nguy hiểm, lặp đi lặp lại và theo
thời gian với các hành vi tiêu cực của một hoặc nhiều học sinh khác. Vailancourt (2010)
đưa ra khái niệm bắt nạt là một hành vi gây hấn liên quan đến sự gây tổn hại cố ý cho
một người khác trong một mối quan hệ đặc trưng bởi sự không cân bằng về quyền lực.
Batsche & Knoff và Olweus (1994) cho rằng thành tố then chốt của bắt nạt, kể cả trực
tiếp hay gián tiếp, là những hăm dọa về cơ thể và tâm lý xuất hiện lặp lại có thể tạo ra
những mẫu hành vi quấy rầy và lạm dụng nạn nhân. Rigby (1998) cho rằng bắt nạt là
bất cứ hành vi nào có ý định làm tổn thương người khác về cơ thể hay cảm xúc. Nó bao
gồm không chỉ những hành động nhìn thấy được như đấm, đá, gọi tên và trêu chọc mà
còn phát tán tin đồn, chế nhạo các khuyết tật về cơ thể, giễu cợt về sắc tộc, ngăn không
cho chơi với nhóm bạn, làm nhục, hoặc kể cho người khác chuyện mà nạn nhân muốn
giấu (Salmon, James, Cassidy & Javolyoes, 2000). Bắt nạt xuất hiện khi một học sinh
ngoan cố và lặp lại việc thể hiện sức mạnh đối với người khác với mục đích thù địch và
có ý làm hại (Lumsden, 2002). Thuật ngữ "bắt nạt" chứa đựng một diện rộng các hành
vi cơ thể và lời nói theo cách gây hấn hoặc chống đối xã hội. Bắt nạt có thể bao gồm sỉ
nhục, trêu chọc, lạm dụng về từ ngữ hay cơ thể, đe dọa, làm nhục, quấy rầy và tấn công.
Tóm lại, bắt nạt là những hành vi hung hăng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong
một khoảng thời gian nhằm gây tổn hại về mặt cơ thể hoặc tâm lý cho người khác dựa
trên sự mất cân bằng về quyền lực và vị thế xã hội.
1.2.4.2. Phân loại
Bắt nạt được phân loại theo nhiều cách khác nhau dưới quan điểm riêng của từng
tác giả, nhưng nhìn chung sự khác biệt này chỉ mang tính tương đối thiên về mặt từ ngữ.
Cách phân loại phổ biến và được áp dụng trong hầu hết các nghiên cứu thường dựa theo
sự phân loại của tổ chức NCAB (National Centre Against Bullying), bắt nạt được chia
32
thành 4 loại: bắt nạt về thể chất, bắt nạt bằng lời nói, bắt nạt mang tính xã hội và bắt nạt
trên mạng. Theo một nghiên cứu của Jing Wang (2010), tỉ lệ về bắt nạt hoặc bị bắt nạt
tại trường ít nhất một lần trong 2 tháng là 20,8% về thể chất, 53,6% bằng lời nói, 51,4%
về mặt xã hội và 13,6% qua thiết bị điện tử. Ta có thể hiểu các kiểu bắt nạt như sau:
- Bắt nạt về thể chất bao gồm các hành vi như ngáng chân, xô ngã, đá, phá hoại tài
sản hoặc đánh đập dữ dội vào người khác... kiểu bắt nạt này gây ra những thiệt hại cả
ngắn hạn và dài hạn.
- Bắt nạt bằng lời nói được biểu hiện bằng cách chửi rủa (name calling), đặt biệt
danh xấu, chế giễu, trêu chọc, kỳ thị giới tính, phân biệt chủng tộc hoặc có thể đe dọa
bằng lời nói. Mặc dù việc bắt nạt bằng lời có thể bắt đầu không có hại, nó có thể leo
thang đến mức ảnh hưởng đến mục tiêu cá nhân.
- Bắt nạt mang tính xã hội hay còn gọi là bắt nạt ẩn thường khó nhận ra và được
thực hiện sau lưng người bị bắt nạt. Nó được thiết kế để gây tổn hại cho danh tiếng xã
hội và/hoặc làm nhục một ai đó. Bắt nạt mang tính xã hội bao gồm:
Nói dối và phát tán tin đồn.
Làm những trò đùa thô tục nhằm gây xấu hổ và làm nhục.
Cổ vũ, khuyến khích những người khác loại bỏ một ai đó ra khỏi nhóm,
tập thể.
Phá hoại danh tiếng hoặc sự chấp nhận về mặt xã hội của ai đó.
Bắt chước, nhại thiếu thiện chí.
Những điệu bộ, cử chỉ, nét mặt mang tính tiêu cực, những cái nhìn đe dọa
và khinh thường.
- Bắt nạt trên mạng có thể là hành vi bắt nạt kín đáo hoặc trực tiếp đe dọa qua việc
sử dụng các công nghệ kỹ thuật số như máy tính, điện thoại thông minh hoặc qua các
phần mềm như mạng xã hội, tin nhắn nhanh, tin nhắn văn bản, các trang web hoặc các
diễn đàn trực tuyến khác. Kiểu bắt nạt này có thể xảy ra bất cứ lúc nào, được thực hiện
một cách công khai hoặc ẩn danh.
33
1.2.4.3. Đặc điểm
Về độ tuổi. Hành vi bắt nạt dường như có xu hướng thay đổi theo độ tuổi (Olweus,
1991; Perry và cộng sự, 1988; Rivers và Smith, 1994; Whitney và Smith, 1993). Hiện
tượng bắt nạt phổ biến ở trẻ em từ tiểu học đến THPT. Tuy nhiên, hiện tượng này cũng
có ở trẻ mẫu giáo nhưng ít phổ biến hơn. Tỉ lệ về giới tính ở các dạng bắt nạt đều phù
hợp cho cả trường tiểu học và THCS (Rivers và Smith, 1994). Các nhà nghiên cứu như
Perry và cộng sự (1988) cho rằng có hai loại bắt nạt là bắt nạt thể chất và bắt nạt lời nói.
Ông cũng chỉ ra rằng bắt nạt trực tiếp về mặt thể chất giảm đi theo độ tuổi; tuy nhiên bắt
nạt lời nói không giảm mà còn tăng lên ở mọi độ tuổi. Nhưng các báo cáo đã chỉ ra rằng
bắt nạt giảm đi theo độ tuổi, tức là trẻ càng lớn thì càng ít bị bắt nạt. Genta và cộng sự
(1996) chỉ ra rằng tỉ lệ bắt nạt giảm đi theo độ tuổi ở tất cả các dạng bắt nạt: bắt nạt thể
chất, bắt nạt lời nói trực tiếp và bắt nạt gián tiếp.
Về giới tính. Các nghiên cứu đều khẳng định bắt nạt có ở cả nam và nữ. Tuy
nhiên, ở nữ giới thì phổ biến về hình thức bắt nạt về lời nói, trong khi đó, ở nam giới thì
lại bắt nạt về thể chất nhiều hơn. Điều đó có nghĩa là, học sinh nam có xu hướng sử dụng
những hành vi bạo lực như: đấm, đá, đẩy…làm người khác bị thương về mặt thể chất.
Trong khi đó, nữ giới lại có xu hướng làm tổn thương người khác bằng lời nói.
Về hành vi. Các nghiên cứu chỉ ra rằng những nhóm học sinh bắt nạt thường có
xu hướng quấy rối và sử dụng những kiểu bạo lực khác để dành vị thế xã hội đối với
những nhóm bạn cùng trang lứa và sự thừa nhận của nhóm (Baldry, 1998). Sự đồng tình
của những người bạn cùng trang lứa cho những hành vi bắt nạt có ý nghĩa như là dấu
hiệu bắt đầu cho những cuộc chiến và phá vỡ lớp học (Boulton& Smith, 1994).
Menesini, Melan và Pignatti (2000) đã quan sát sự tương tác giữa những học sinh bắt
nạt với những học sinh bị bắt nạt và quyền lực trong các trò chơi liên quan đến sự cạnh
tranh và sự hợp tác. Các nhà nghiên cứu quan sát thấy rằng những đứa trẻ bắt nạt có xu
hướng chỉ huy nhiều hơn những đứa trẻ bị bắt nạt, đồng thời chúng cũng có cảm giác tự
mãn nhiều hơn. Một điều thú vị nữa là, Menesini và cộng sự (2000) đã phát hiện ra rằng
những đứa trẻ bắt nạt không biểu lộ những hành vi hung tính; đúng hơn là những hành
vi hung tính hầu như thể hiện rất ít trong suốt trò chơi. Byrne (1994) đã nêu lên rằng
những đứa trẻ bắt nạt có xu hướng bốc đồng hơn những đứa trẻ bị bắt nạt và chúng
34
không ý thức được về những chuẩn mực xã hội.
Về gia đình. Nghiên cứu của Bowers, Smith và Binney năm 1992 cũng như
nghiên cứu của Berdondini và Smith năm 1996 đã chỉ ra những đứa trẻ bắt nạt thường
sống trong gia đình thường thiếu vắng sự có mặt của người bố. Những đứa trẻ này, cả
nam và nữ, chúng có khuynh hướng ít được khuyến khích, ủng hộ trong gia đình của
mình (Bower và cộng sự, 1992). Mức độ giao tiếp thấp có xu hướng tương quan với
mức độ bắt nạt cao ở trẻ nam, nhưng không có xu hướng tương quan với mức độ bắt nạt
cao ở trẻ nữ ở cùng một độ tuổi (Rigby, 1994). Hơn nữa, Rigby đã chỉ ra rằng những đứa
trẻ bắt nạt có nhiều khả năng được sinh ra ở những gia đình mà ít có sự quan tâm chăm
sóc về mặt tâm lý. Similary, Baldry và Farrington (2000) cho biết những đứa trẻ bắt nạt
có xu hướng thiếu sự động viên khuyến khích của bố mẹ, mặt khác, những bậc cha mẹ
này thường là những người độc đoán và rất nghiêm khắc.
1.2.5. Bắt nạt trực tuyến
1.2.5.1. Khái niệm
BNTT là khái niệm với rất nhiều tên gọi khác nhau. Những nghiên cứu đầu tiên
về vấn đề này đã sử dụng những khái niệm như quấy rối trên mạng (Online harassment),
quấy rối trực tuyến (Cyber – harassment).
Nhóm tác giả David Finkelhor, Kimberly J. Mitchell và Janis Wolak (2000) đã
định nghĩa quấy rối trên mạng là mối đe dọa hoặc các hành vi công kích bằng cách gửi
trực tuyến cho thanh thiếu niên hoặc đăng trên mạng về họ cho người khác xem. [32]
Tanya Beran và Qing Li (2005) đã đề cập đến quấy rối trực tuyến là một hình
thức của quấy rối xảy ra thông qua việc sử dụng những thông tin liên lạc điện tử như
hộp thư điện tử và điện thoại di động. [34]
Bill Belsey (2005) là người đầu tiên đưa ra một cách khái quát nhất khái niệm
BNTT (Cyberbullying) là sử dụng thông tin và sự kết nối công nghệ thông tin như là
thư điện tử, điện thoại di động hay tin nhắn văn bản, trang mạng cá nhân với ý định làm
hại đến danh dự ai đó một cách cố ý, lặp đi lặp lại, hành vi mang tính thù địch bởi một
cá nhân hay một nhóm. [9]
Kế thừa từ những nghiên cứu trước đó, khái niệm BNTT được đưa ra cụ thể hơn
35
về cách thức và phương tiện sử dụng để bắt nạt. Bauman (2007) và một số nhà nghiên
cứu đã định nghĩa BNTT là bắt nạt bằng lời nói hoặc quan hệ thực hiện bằng cách sử
dụng phương tiện truyền thông điên tử hoặc thiết bị công nghệ không dây; là gửi hoặc
đăng tải những tin nhắn hay hình ảnh có hại hoặc ác ý bằng cách sử dụng mạng internet
hoặc các phương tiện kết nối kỹ thuật số khác (Willard, 2007); là bắt nạt thông qua các
công cụ liên lạc điện tử như thư điện tử, điện thoại, tin nhắn hoặc các trang web (Qing
Li, 2008); là việc sử dụng công nghệ truyền thông hiện đại để xúc phạm hoặc đe dọa
bằng tin nhắn trực tiếp cho nạn nhân hoặc gián tiếp cho người khác, để chuyển thông tin
liên lạc bí mật hoặc hình ảnh của nạn nhân cho người khác xem một cách công khai
(Privitera, 2009 và Rogers, 2010).
Theo CDC thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ, BNTT là bất kỳ loại
quấy rối hoặc bắt nạt nào như trêu ghẹo, bịa chuyện, châm chọc, đưa ra bình luận thô lỗ
hoặc xúc phạm, truyền bá tin đồn, hoặc đưa ra các lời đe dọa hoặc cảnh cáo, xảy ra thông
qua thư điện tử (email), phòng trò chuyện (chat room), nhắn tin nhanh, trang điện tử
(web bao gồm cả blog), hoặc tin nhắn văn bản. [10]
Về phía FHI, BNTT là việc sử dụng internet để nói những điều gây hại cho người
khác. [33]
Theo tác giả Trần Văn Công và cộng sự (2015), BNTT nằm trong hình thức bắt
nạt gián tiếp xảy ra khi một người hoặc một nhóm người (thủ phạm) thực hiện hành vi
bắt nạt thông qua các tiện ích và ứng dụng trên internet hướng tới việc làm tổn thương
tinh thần, tâm lý của người khác (nạn nhân) một cách có chủ ý, lặp đi lặp lại và có thái
độ đe dọa, thù địch. [9]
1.2.5.2. Phân loại BNTT
Theo tác giả Willard (2007) có 7 loại BNTT thông thường:
- Khiêu khích (Flaming): Là sự xâm phạm trực tuyến thông qua việc sử dụng ngôn
từ khiếm nhã, thô tục về một người đến nhóm trực tuyến hoặc đến chính người đó.
- Quấy rối (Harassment): là hành vi gửi các thông điệp công kích, thô lỗ, và tin
nhắn xúc phạm hay lăng mạ. Viết những bình luận thô lỗ, gây xấu hổ trong những bài
đăng, những hình ảnh hoặc trong các phòng trò chuyện trên mạng. Hay công kích rõ
36
ràng cho người chơi khác trên các trang mạng chơi game.
- Bám đuổi trên mạng (Cyberstalking): Đây là hành động lặp đi lặp lại việc gửi các
thông điệp, tin nhắn bao gồm: các mối đe dọa gây hại, quấy rối, đe dọa sự an toàn, hoặc
tham gia vào các hoạt động trực tuyến khác nhằm tạo ra sự sợ hãi đáng kể cho ai đó.
- Bôi nhọ (Denigration/put-downs): “chửi” một ai đó trên mạng. Gửi hoặc đăng
những lời bàn tán hoặc tin đồn về một người để gây tổn hại đến danh tiếng hoặc mối
quan hệ của họ.
- Nặc danh (Impersonation/Masquerade): Đột nhập vào tài khoản email hoặc tài
khoản mạng xã hội và sử dụng nhận dạng trực tuyến của người đó để gửi hay đăng các
tin không đúng sự thật hoặc gây xấu hổ. Nó cũng có thể là việc lập một trang hoặc hồ
sơ giả mạo trên các trang mạng xã hội, ứng dụng và những nơi trên mạng khác.
- Phát tán và lừa đảo (Outing and Trickery): Chia sẻ bí mật của ai đó hay gửi hoặc
đăng tài liệu về một người có chứa thông tin nhạy cảm, riêng tư hoặc xấu hổ, bao gồm
chuyển tiếp tin nhắn hoặc hình ảnh cá nhân. Nó cũng bao gồm việc một người bị lừa để
tiết lộ bí mật hoặc thông tin xấu hổ, sau đó chúng được chia sẻ ra ngoài.
- Loại trừ (Exclusion): Cố ý loại bỏ một ai đó ra khỏi nhóm trực tuyến như các tin
nhắn nhóm, các ứng dụng trực tuyến, các trang web chơi game...
Art Wolinsky của WiredSafety.org đã đưa ra năm loại thủ phạm của BNTT:
- “Những thủ phạm không chủ tâm” (Inadvertent cyberbully): Những người này
không xem họ là thủ phạm BNTT. Họ có thể giả vờ đóng vai, hoặc là phản ứng với
những thông điệp thù hằn hoặc khiêu khích mà họ nhận được. Họ có thể cảm thấy tổn
thương, hoặc giận dữ vì một thông tin được gửi cho họ, hoặc một cái gì đó họ đã thấy
trên mạng. Và họ có khuynh hướng phản ứng giận dữ hoặc thất vọng. Họ không suy
nghĩ trước khi nhấp vào "gửi." Họ chỉ phản ứng mà không bận tâm về hậu quả cho hành
động của họ. Đôi khi, trong khi trong trải nghiệm sắm vai trên mạng, họ có thể gửi thông
tin liên lạc trực tuyến hoặc hướng đến một ai đó mà không hiểu mức độ nghiêm trọng
có thể xảy ra. Họ làm điều đó "bởi vì tôi có thể" và vì niềm vui của họ. Họ cũng có thể
làm điều đó đối với một người bạn của họ với suy nghĩ là đùa giỡn với nhau. Nhưng bạn
37
của họ có thể không nhận ra điều đó và làm cho nó trở nên nghiêm trọng. Họ có khuynh
hướng làm điều này khi ở một mình, và hầu hết đều ngạc nhiên khi có ai đó buộc tội
họ.
- “Những cô nàng xấu tính” (mean girl): Loại hình thức bắt nạt này xảy ra khi thủ
phạm cảm thấy buồn chán hoặc đang tìm kiếm sự giải trí. Thủ phạm thường là những
cô gái nhưng cũng có thể là những chàng trai và nó có thể là một nhóm hoạt động. Hành
vi bắt nạt thường được thực hiện hoặc ít nhất là được lên kế hoạch trong một nhóm (có
thể là bạn cùng phòng với nhau) và đòi hỏi phải có khán giả. Loại thủ phạm này chưa
thật sự chín chắn, là những kẻ bắt nạt ngoài đời thực và thường không ẩn danh. BNTT
trong trường hợp của “những cô nàng xấu tính” muốn người khác biết họ là ai và họ có
quyền để bắt nạt người khác. Loại BNTT này phát triển khi được nuôi dưỡng bằng sự
ngưỡng mộ nhóm, hoặc bởi sự im lặng và để cho nó xảy ra của những người ngoài
cuộc. Nó nhanh chóng chấm dứt nếu họ không có được giá trị giải trí mà họ đang tìm
kiếm.
- “Sự trả đũa của những mọt sách” (Revenge of the nerds): thường là là những nạn
nhân của bắt nạt ngoài đời thực, thực hiện một cách ẩn danh. Họ nhắm trực tiếp vào nạn
nhân và hành động một cách mạnh bạo trên mạng nhưng họ giữ bí mật về hành động
của họ với bạn bè, hoặc nếu có làm điều này thì họ chỉ chia sẻ nó với những người mà
họ cảm thấy sẽ được thông cảm. Họ rất hiếm khi đánh giá về mức độ nghiêm trọng của
vấn đề và bằng việc sử dụng những kỹ năng công nghệ có thể làm cho BNTT trở nên
nguy hiểm hơn.
- “Ham muốn quyền lực” (Power hungry): Loại thủ phạm này muốn sử dụng sức
mạnh của họ, chỉ ra rằng họ đủ mạnh để sai khiến người khác và kiểm soát những người
đó bằng sự sợ hãi. Đôi khi họ không thích những đứa trẻ khác và muốn làm tổn thương
chúng. Thông thường sức mạnh mà họ cảm nhận khi chỉ BNTT một ai đó không đủ nuôi
dưỡng nhu cầu được xem là mạnh mẽ và đáng sợ của họ. Họ thường khoe khoang về
hành động của mình, muốn có những phản ứng từ người khác và cho rằng không ai có
thể đạt được như họ.
- “Thiên thần báo thù” (Vengeful angel): Trong loại hình này, người BNTT không
xem mình là một thủ phạm mà là người đại diện cho công lý. Họ thấy việc làm của họ
38
là chính đáng, bảo vệ mình và người khác khỏi những “kẻ xấu” (người đang là nạn nhân
của họ). Điều này bao gồm các trường hợp khi nạn nhân của BNTT và bắt nạt ngoài đời
thực trả đủa và tự trở thành người đi bắt nạt. Họ có thể tức giận vào việc gì đó mà nạn
nhân đã làm với họ và có lý do chính đáng để trả thù và dạy cho những người đó một
bài học. Những “thiên thần báo thù” này thường cố gắng tham gia bảo vệ một người bạn
đang bị bắt nạt hoặc nạn nhân của BNTT. Họ thường làm việc một mình, nhưng cũng
có thể chia sẻ các hoạt động và động cơ của họ với bạn bè thân thiết và những người mà
họ cho là nạn nhân của người mà họ đang bắt nạt.
Ngoài ra, căn cứ vào phương tiện để BNTT, Smith và các cộng sự đã đưa ra 7
loại hình của BNTT bao gồm:
• Tin nhắn văn bản bắt nạt
• Hình ảnh/video clip bắt nạt (thông qua camera điện thoại di động)
• Cuộc gọi bắt nạt (qua điện thoại di động)
• Email bắt nạt
• Bắt nạt trong phòng trò chuyện (chat room)
• Bắt nạt qua tin nhắn nhanh
• Bắt nạt qua trang web.
1.2.5.3. Biểu hiện của BNTT
Sự phát triển của khoa học công nghệ tạo điều kiện cho những cách thức BNTT
trở nên đa dạng và khó kiểm soát hơn. Vì vậy để nhận biết về hành vi BNTT, cá nhân
có thể dựa vào những biểu hiện sau:
- Dựa vào internet, một hình ảnh có thật hoặc được chắp ghép mang tính chế giễu
được đăng và chia sẻ trên mạng, những thứ này có thể gây hại hoặc làm xấu hổ nạn nhân
và khiến cho nó lan truyền đến phạm vi những mối quan hệ của người này.
- Có những hành vi quá trớn bằng cách tạo ra những cuộc bầu chọn hoặc tính điểm
để người khác cùng làm như chọn ra người xấu xí nhất, người kém thông minh nhất...
(có thể kèm theo hình ảnh) và làm cho nó xuất hiện một cách công khai. Hoặc trực tiếp
39
đặt và gọi nạn nhân bằng những biệt danh xấu trong các bình luận trên mạng.
- Tạo ra tiểu sử hoặc không gian ảo giả danh nạn nhân trên các trang mạng xã hội
hoặc diễn đàn, những nơi có thể viết lời thú nhận (confession) những điều không đúng
sự thật về nạn nhân như sự kiện cụ thể của cá nhân hay những yêu cầu về sự tiếp xúc
tình dục (gạ tình) nhằm mục đích bêu xấu nạn nhân.
- Để lại các bình luận tiêu cực như những lời nói xấu, chửi rủa nạn nhân, chế giễu
những điểm xấu trong bài đăng của nạn nhân trên các trang mạng xã hội, diễn đàn... Hay
tham gia tích cực vào các phòng trò chuyện (chat room) để có những phản ứng theo sau
nhằm vào việc hạ thấp nhân cách của nạn nhân.
- Đăng địa chỉ hộp thư điện tử (email) trên các trang web phổ biến để nạn nhân
phải nhận các thư rác hoặc sự liên lạc (quấy rối) của những người lạ...
- Chiếm mật khẩu hộp thư điện tử (email) và thay đổi mật khẩu theo cách mà chủ
sở hữu hợp pháp của nó không thể tìm lại được, sau đó xâm phạm quyền riêng tư của
nạn nhân thông qua việc đọc thư cá nhân và chia sẻ chúng một cách công khai cho mọi
người.
- Tố cáo hoặc chứng minh để nạn nhân bị giám sát, kiểm duyệt hoặc có thể bị loại
trừ trên các dịch vụ web như trò chuyện (chats), trò chơi trực tuyến (game online), các
cộng đồng ảo (virtual community)...
- Lan truyền các tin đồn về nạn nhân trên các trang mạng xã hội, diễn đàn... hoặc
gián tiếp thông qua việc gửi đường dẫn (link) những chuyện xấu, lời đồn về nạn nhân
cho mọi người đọc.
- Khủng bố và bám đuổi bằng cách gửi các tin ác ý để trêu chọc, đe dọa qua hộp
thư điện tử (email), SMS... hoặc ở những trang mạng có liên đến nạn nhân nhằm gây ra
cho họ những cảm giác nặng nề.
1.2.5.4. Ảnh hưởng của BNTT
Những nạn nhân của BNTT có thể gặp nhiều ảnh hưởng tương tự như trẻ em bị
bắt nạt truyền thống, chẳng hạn như giảm điểm số, lòng tự trọng thấp, thay đổi sở thích
hoặc trầm cảm. Tuy nhiên, theo Smith và cộng sự [50], đe doạ trực tuyến có thể có vẻ
40
cực đoan hơn đối với các nạn nhân của nó vì nhiều yếu tố:
- Nó có thể xảy ra trong chính ngôi nhà của trẻ. Bị bắt nạt ở nhà có thể lấy đi nơi
mà trẻ em cảm thấy an toàn nhất.
- Nó có thể khắc nghiệt hơn. Thường thì trẻ nói ở trên mạng những điều mà họ
không thể nói trực tiếp, chủ yếu là vì họ không thể nhìn thấy phản ứng của người kia.
- Nó có thể xảy ra trong phạm vi rộng. Trẻ em có thể gửi email đùa nghịch một ai
đó cho lớp học hoặc trường học của mình chỉ với vài cú nhấp chuột hoặc đăng lên trang
web để cả thế giới thấy.
- Nó có thể được ẩn danh. Thủ phạm BNTT thường ẩn tên phía sau màn hình và
địa chỉ email không thể xác định họ là ai. Việc không biết ai chịu trách nhiệm về các
hành vi bắt nạt có thể làm tăng tính không an toàn cho nạn nhân.
- Nó dường như không thể tránh khỏi. Có vẻ như dễ dàng thoát khỏi BNTT bằng
cách không sử dụng mạng, nhưng đối với một số trẻ em không sử dụng mạng đã lấy đi
một trong những nơi mà các em có thể giao tiếp.
Patchin và Hinduja (2007) viết rằng giới trẻ đang bị BNTT theo nhiều cách mà
có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thể chất, xã hội, tình cảm và nhận thức của họ,
sự phát triển và niềm hạnh phúc. BNTT có phạm vi ảnh hưởng rộng đến thanh thiếu
niên. Không giống như bắt nạt truyền thống, ảnh hưởng của BNTT rất khó thoát khỏi.
Beran và Li (2005) đã điều tra các phản ứng đối với quấy rối qua mạng, tập trung vào
những cảm xúc khác nhau và hành vi theo sau của nạn nhân liên quan đến quấy rối trên
mạng. Cảm xúc của nạn nhân thường là tức giận, buồn bã, lo lắng, lúng túng, khóc, sợ
hãi và tự đổ lỗi. Các ảnh hưởng khác cũng được phát hiện: sự tập trung, thành tích học
tập trở nên tệ hơn, và sự vắng mặt của trường. Rõ ràng, BNTT có thể có ảnh hưởng tiêu
cực đến điểm số ở trường khi trẻ trải nghiệm với những cảm xúc tiêu cực do BNTT gây
ra. Cũng theo Nishina, Juvonen, & Witkow (2005), sự chủ quan về mặt cảm xúc có thể
làm cho các em rời bỏ trường học, từ đó cũng gây ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập.
Mặc dù nạn nhân của BNTT có thể bị miễn nhiễm một cách dễ dàng đối với một số cô
gái, nhưng đối với những người khác, trải nghiệm thực tế là khá đau đớn (Pellegrini &
41
Bartini, 2000).
BNTT là sản phẩm kèm theo không mong muốn của sự kết hợp giữa sự gây hấn
ở thanh thiếu niên và truyền thông điện tử, và sự phát triển của nó gây ra những quan
ngại. Theo quan điểm lâm sàng, những hậu quả có thể đoán trước được đối với các học
sinh phải chịu cách xư sử đáng xấu hổ đó (BNTT) là trầm cảm, tuyệt vọng và thu mình
(Assuras, 2004). Ybarra, Mitchell, Wolak, và Finkelhor, (2006) cho biết trầm cảm có
thể có mối tương quan gần nhất với bắt nạt. Rigby (2005) giải thích rằng nạn nhân của
sự đe doạ trực tuyến có tỉ lệ trầm cảm cao, cô đơn, lòng tự trọng thấp, có ý tưởng tự sát,
lo lắng thường trực và các vấn đề tổng thể (cả cảm xúc lẫn hành vi). Cũng liên quan đến
những vấn đề về tâm thần, nạn nhân của BNTT có các triệu chứng như đau đầu, rối loạn
giấc ngủ, đau dạ dày lặp đi lặp lại nhiều lần. Nạn nhân cũng có nguy cơ cao về việc sử
dụng rượu và thuốc lá cũng như những dấu hiệu tâm lý căng thẳng (Mesch, 2009).
Willard (2007) nghiên cứu sâu vào sự phát triển của bộ não ở tuổi thiếu niên. Tác
giả chỉ ra rằng vỏ não trán của não được tái cấu trúc và phần não này hỗ trợ ra quyết
định lý trí và hợp lý. Hơn nữa, học cách đưa ra những quyết định tốt cần đến sự chú ý
vào hành động và hậu quả. Thật không may là việc sử dụng các công nghệ truyền thông
cản trở quá trình này. Theo Pasternak và Kroth (2003), sự phát triển tâm lý ở thanh thiếu
niên từ 10 đến 15 tuổi đầy những đổi thay. Thanh thiếu niên đang tìm kiếm sự gia tăng
về quyền tự chủ và tập trung vào việc tìm kiếm sự bình đẳng và các mối quan hệ ngang
hàng; cảm thấy lúng túng, lạ lẵm, và vùng vẫy với ý thức về hình ảnh bản thân. Trong
giai đoạn phát triển này, có thể kết luận rằng thanh thiếu niên sử dụng công nghệ như
một hình thức truyền thông có thể làm lung lay cách nhìn nhận về những gì là quan trọng
đối với họ.
Dựa vào những ảnh hưởng của BNTT có thể tác động tới thanh thiếu niên, một
nghiên cứu về ngăn chặn BNTT của NCPC đã đưa ra những dấu hiệu nhận biết ở nạn
nhân bị BNTT, bao gồm những dấu hiệu về cảm xúc, học tập và xã hội/hành vi.
Về cảm xúc:
- Trở nên thu rút hoặc nhút nhát
- Thường xuyên chán nản, buồn rầu hoặc dễ kích động
42
- Lo lắng, căng thẳng hoặc hốt hoảng (đặc biệt là khi sử dụng thiết bị công nghệ)
- Có những dấu hiệu của trầm cảm
Về xã hội/hành vi:
- Dừng sử dụng máy tính một cách đột ngột
- Thay đổi thói quen ăn hoặc ngủ
- Không còn muốn tham gia vào hoạt động mà trước đó hứng thú
- Tự thương tổn bản thân hoặc hành vi tự sát
- Tránh xa những người bạn một cách bất thường hoặc đột nhiên thay đổi bạn bè.
Về học tập
- Không muốn đến trường
- Gặp rắc rối ở trường
- Bỏ học
- Mất hứng thú ở trường
- Giảm thành tích
1.2.5.5. Những cách ứng phó với BNTT
Nạn nhân của BNTT thường phải đối mặt với nhiều tình huống khó khăn, thường
là khó tránh khỏi, cho thấy nhiều phản ứng đa dạng và mỗi cá nhân sẽ có từng cách ứng
phó khác nhau. Cách ứng phó được coi là hiệu quả nằm ở khả năng giảm căng thẳng
ngay lập tức cũng như để ngăn ngừa các hậu quả lâu dài của nó, chẳng hạn như, ảnh
hưởng đến sức khoẻ tinh thần, hoặc phát triển bệnh tật.
Parris và cộng sự (2011) chỉ ra rằng ba chủ đề ứng phó chính bao gồm: ứng phó
tức thời, ứng phó phòng ngừa và không có cách nào ngăn ngừa bắt trực tuyến. Ứng phó
tức thời bao gồm tránh né, chấp nhận, biện minh, tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội. Các ứng
phó phòng ngừa nhằm mục đích ngăn ngừa và tránh các tình huống bắt nạt trực tuyên
xảy ra bao gồm nói chuyện trực tiếp hoặc tăng cường bảo mật và nhận thức. Cũng tương
tự như những phát hiện của Parris (2011), Dalgleish (2010) đưa ra những chiến lược
43
ứng phó để quản lý BNTT bao gồm tin tưởng vào bạn bè và giáo viên, ở trạng thái ngoại
tuyến, không sử dụng trang web hoặc phần mềm do kẻ bắt nạt sử dụng, không làm gì
quá cụ thể, chặn kẻ bắt nạt...
Theo Perren và cộng sự (2012) có thể phân loại ứng phó đối với BNTT trên cơ
sở những phản ứng là: hướng mục tiêu vào thủ phạm BNTT (trả đũa, tiếp xúc mang tính
xây dựng...), phớt lờ kẻ tấn công (không làm gì cả, cố tình bỏ qua hành vi BNTT, hành
vi tránh né, cải thiện nhận thức hoặc các hình thức điều chỉnh cảm xúc), tìm kiếm sự hổ
trợ từ các công cụ hoặc sự giúp đỡ về mặt cảm xúc (từ người lớn, giáo viên, bạn bè hoặc
từ các tổ chức bên ngoài). Ngoài các cách ứng phó truyền thống, nạn nhân của BNTT
có thể giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng các giải pháp công nghệ cụ thể trong
không gian mạng như báo cáo bằng nút lạm dụng quyền, chặn người gửi... (Aricak và
cộng sự, 2008; Juvonen & Gross, 2008; Kowalski, Limber, & Agatston, 2008,
Livingstone và cộng sự, 2011, Smith và cộng sự, 2008, Stacey, 2009).
Tóm lại, trên cơ sở các tài liệu hiện tại, ta có thể thấy có nhiều cách phân loại về
cách ứng phó của nạn nhân đối với BNTT, đồng thời chúng ta nên lưu ý rằng:
- Nạn nhân bị BNTT sử dụng nhiều cách ứng phó phục vụ cho nhiều mục đích và
được điều chỉnh cho một tình huống cụ thể của BNTT.
- Các cách ứng phó có thể có khả năng là cả vấn đề và cảm xúc đều tập trung vào
cùng một thời điểm.
- Không hành động có thể là một loại ứng phó riêng (không thể phân loại rõ ràng
như sự tiếp cận hoặc tránh né, hoặc cảm xúc hoặc tập trung vào vấn đề).
NCPC đưa ra một số gợi ý giúp nạn nhân ứng phó với BNTT như sau:
- Không trả lời, hưởng ứng bất kỳ tin nhắn hoặc bài đăng nào viết về bạn, cho dù
có gây tổn thương hay không đúng sự thật. Việc đối phó sẽ chỉ làm cho tình huống tồi
tệ hơn và kích động một phản ứng từ bạn là chính xác những gì mà những kẻ bắt nạt
muốn, vì vậy đừng làm họ hài lòng.
- Đừng tìm cách trả thù người bắt nạt bằng cách tự biến mình thành một kẻ BNTT.
Một lần nữa, nó sẽ chỉ làm cho vấn đề tồi tệ hơn và có thể dẫn đến hậu quả pháp lý
44
nghiêm trọng cho bạn.
- Lưu các bằng chứng về hành vi BNTT, lưu giữ các tin nhắn văn bản từ thủ phạm
hoặc ảnh chụp màn hình của trang web, và sau đó báo cáo cho người lớn. Nếu bạn không
báo cáo sự cố, hành vi BNTT sẽ trở nên hung dữ hơn.
- Báo cáo các mối đe dọa nguy hại và những thông điệp liên quan đến tình dục khi
bị BNTT cho cảnh sát. Trong nhiều trường hợp, các hành động của thủ phạm có thể bị
truy tố theo luật pháp.
- Ngăn chặn các liên hệ từ kẻ bắt nạt, bằng cách chặn địa chỉ email của họ, số điện
thoại di động và xóa chúng khỏi các địa chỉ liên hệ trên mạng xã hội. Báo cáo hoạt động
của họ cho nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) hoặc bất kỳ phương tiện truyền thông xã
hội hoặc các trang web khác mà họ sử dụng để nhắm mục tiêu vào bạn.
- Tìm sự hỗ trợ từ những người đáng tin cậy. Khi bạn đang bị bắt nạt, có những
người đáng tin cậy mà bạn có thể nhận được sự khuyến khích và hỗ trợ, giúp làm giảm
căng thẳng của bạn và tăng cả lòng tự trọng và sự kiên cường của bạn. Tiếp cận để kết
nối với gia đình và bạn bè thực (những người không tham gia vào bất kỳ hình thức bắt
nạt nào).
1.2.6. Nhận thức về bắt nạt trực tuyến ở học sinh THCS
Hiểu, biết về BNTT là một trong những bước đầu tiên và cơ bản giúp các em học
sinh nhận diện về hiện tượng bắt nạt này, khi đạt được những điều trên, việc rèn luyện
và nâng cao các kỹ năng ứng phó, phòng ngừa đối với BNTT mới thật sự trở nên đúng
lúc và hiệu quả. Vì vậy, các nghiên cứu nhận thức về BNTT của các em học sinh được
quan tâm và chú trong ngay từ lúc đầu trước khi có sự can thiệp vào môi trường học
đường đó. Tuy nhiên, các nghiên cứu về BNTT chưa thật sự phổ biến và được tiến hành
rộng rãi tại Việt Nam, đặc biệt là các nghiên cứu liên quan đến vấn đề nhận thức. Bên
cạnh đó, nhiều nghiên cứu ở nước ngoài, kể cả ở các nước phát triển, đã chỉ ra rằng hầu
hết các em học sinh chưa thật sự nhận thức về các khía cạnh của BNTT một cách đúng
đắn và đầy đủ. Kris Varjas và cộng sự (2010) phát hiện rằng các em học sinh trung học
thường xác định các lý do nội tại (chuyển hướng cảm xúc, trả thù, buồn chán...) thúc
đẩy hành vi BNTT hơn là các động cơ bên ngoài (không đối đầu, mục tiêu khác nhau...)
[18]. Một nghiên cứu của Leandra Parris và cộng sự (2012) thực hiện phỏng vấn trên 20
tình nguyện viên về cách ứng phó với BNTT, ngoài hai chủ đề ứng phó bao gồm ứng 45
phó tức thời (xóa, bỏ qua tin nhắn...) và ứng phó phòng ngừa (tăng cường an toàn mạng
và nhận thức) thì có tới 9 học sinh trả lời rằng không có cách nào để ngăn chặn BNTT
[24].
Đề tài này tìm hiểu nhận thức của học sinh THCS về các nội dung của hiện tượng
BNTT. Do điều kiện có giới hạn, đề tài tập trung tìm hiểu mức độ biết và một phần mức
độ hiểu của học sinh THCS về BNTT trong phạm vi những nội dung sau:
- Những khía cạnh tổng quan về BNTT
- Biểu hiện của BNTT
- Những cách ứng phó của nạn nhân đối với BNTT bao gồm những ứng phó tức
thời khi đối mặt với tình huống BNTT và những ứng phó phòng ngừa nhằm giảm khả
46
năng xảy ra của BNTT.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Tại các nước trên thế giới, BNTT được quan tâm và nghiên cứu trên nhiểu khía
cạnh từ lý luận cho tới thực tiễn. Mặc dù còn nhiều tranh cãi, các công trình nghiên cứu
về BNTT vẫn là nguồn tài nguyên quý báu cho những nghiên cứu sau này, đặc biệt là
trong thời đại phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, hiện tượng bắt nạt xảy
ra càng dễ dàng hơn, với tốc độ nhanh hơn và trong phạm vi rộng hơn. Tại Việt Nam,
các nghiên cứu về BNTT tuy chưa thật sự nhiều nhưng với những ảnh hưởng nặng để
lại, BNTT ngày càng được quan tâm và chú ý nhiều hơn.
BNTT là hành động gây hấn cố ý, lặp đi lặp lại do một nhóm hoặc cá nhân thực
hiện bằng cách sử dụng các hình thức liên lạc điện tử, các tiện ích và ứng dụng trên
Internet nhằm làm cho nạn nhân, người mà không thể tự bảo vệ chính mình, bị tổn
thương về mặt tinh thần, tâm lý.
BNTT được phân chia thành nhiều loại khác nhau, dù biểu hiện ở bất kỳ loại nào,
ảnh hưởng của BNTT đối với học sinh được thể hiện trên ba phương diện: cảm xúc, xã
hội/hành vi, học tập.
BNTT có thể trở nên cực đoan hơn đối với nạn nhân vì nhiều yếu tố:
- Có thể xảy ra bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu dù trong chính ngôi nhà của trẻ.
- Có thể được thực hiện dưới hình thức ẩn danh, nạn nhân không biết thủ phạm là
ai.
- Có thể xảy ra trong phạm rộng và có sức lan tỏa nhanh chóng.
- Thường khó tránh khỏi vì rất khó khi không sử dụng mạng – một công cụ giao
tiếp của các em.
Mỗi học sinh sẽ có cách ứng phó khác nhau nhưng để đạt được hiệu quả cần thiết
cần dựa trên tính bền vững của từng cách ứng phó. Bên cạnh đó, ngoài việc tích cực ứng
phó khi BNTT xảy ra, học sinh cần trao dồi cho bản thân những cách phòng ngừa giúp
ngăn chặn và tránh những tình huống BNTT có thể xảy đến.
Nhận thức về BNTT là nền tảng cho việc thực hiện các hành vi về an toàn mạng.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức về BNTT của học sinh. Xác định được các
yếu tố ảnh hưởng này là điều quan trọng để đề xuất các phương hướng và biện pháp tác
động nhằm nâng cao nhận thức về BNTT cho học sinh THCS nói chung và học sinh
47
THCS TP.HCM nói riêng.
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC VỀ BẮT NẠT TRỰC
TUYẾN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
2.1. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Tổ chức nghiên cứu
Bước khảo sát thăm dò được thực hiện nhằm phát hiện vấn đề nghiên cứu, từ đó
xác định đối tượng nghiên cứu, xây dựng mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp
nghiên cứu.
Bước khảo sát thăm dò được thực hiện qua các giai đoạn sau:
- Tìm hiểu tài liệu, thông tin thời sự có nội dung phản ánh thực tế về vấn đề BNTT
trong môi trường học đường. Đồng thời, phân tích, tổng hợp và đánh giá những công
trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và ngoài nước xung quanh các vấn đề có
liên quan đến BNTT và chỉ ra những vấn đề còn để ngỏ trong các nghiên cứu trước đó
để tiếp tục tiến hành nghiên cứu. Bước đầu nhận thấy được tính cấp thiết của vấn đề
nghiên cứu, từ đó đi đến việc xác định khái quát khách thể và phạm vi nghiên cứu.
- Kết hợp đọc các tài liệu có liên quan đến bắt nạt, BNTT, các tài liệu về tâm lý
học đại cương, tâm lý học phát triển, tâm lý học xã hội. Từ đó xác định đối tượng và nội
dung nghiên cứu.
- Từ các nội dung của tài liệu, tiến hành xây dựng khái niệm công cụ. các khái
niệm có liên quan. Đồng thời, xác định phương pháp nghiên cứu.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Sau khi đã có mô hình nghiên cứu với các thành tố bộ phận cụ thể, lập kế hoạch
tổ chức nghiên cứu và chỉ ra những phương pháp được sử dụng để thu thập thông tin và
cách thức tiến hành công tác nghiên cứu thực tiễn.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài.
Các phương pháp nghiên cứu khác có vai trò là phương pháp hỗ trợ, bao gồm phương
48
pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp phỏng vấn, phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc, chọn lọc, phân tích, tổng hợp tài liệu để
xây dựng cơ sở lý luận và xác lập cơ sở để xây dựng bảng liên quan đến nhận thức về
BNTT của học sinh THCS.
- Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn học sinh, giáo viên nhằm phục vụ cho mục
đích nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Thu thập dữ liệu sơ cấp nhằm có những dữ
liệu phù hợp để nghiên cứu định lượng mức độ nhận thức về BNTT của học sinh THCS
thông qua 4 nội dung: những khía cạnh tổng quan về BNTT, biểu hiện của BNTT, cách
ứng phó và biện pháp nâng cao nhận thức về BNTT.
Quy trình xây dựng bảng hỏi bao gồm:
+ Xác định mục tiêu
+ Xác định nội dung và hình thức câu hỏi
+ Xây dựng và sắp xếp các câu hỏi trong bảng hỏi
+ Chọn mẫu
+ Xác định cách thức thu thập dữ liệu
+ Phỏng vấn thử
+ Điều chỉnh lại bảng hỏi
+ Điều tra chính thức
Cấu trúc bảng hỏi
Bảng hỏi dành cho khách thể chính của đề tài là học sinh THCS, gồm 4 phần với
cấu trúc như sau:
- Phần 1: Một số thông tin cá nhân gồm: Giới tính, Khối lớp, Học lực, Hạnh kiểm,
Thời gian sử dụng mạng.
- Phần 2 (từ câu 1 đến câu 3): Nhằm tìm hiểu mức độ biết của học sinh THCS về
BNTT:
+ Câu 1: Khảo sát thực trạng có biết về BNTT hay cụm từ có liên quan (bắt nạt
qua mạng, quấy rối qua mạng) của học sinh THCS qua 3 mức độ đánh giá: “Biết rõ”,
“Biết chút ít”, “Không biết/Chưa từng nghe nói”.
+ Câu 2: Nhằm tìm hiểu các nguồn cung cấp thông tin về BNTT.
49
+ Câu 3: Khảo sát trực trạng có biết về một người từng bị BNTT.
- Phần 3 (từ câu 4 đến câu 8): Câu 4 đến câu 8 có chức năng thu thập dữ liệu để
khảo sát thực trạng nhận thức của khách thể về một số nội dung của BNTT, cụ thể:
+ Câu 4: Khảo sát mức độ hiểu của khách thể về các khía cạnh tổng quan về
BNTT qua 6 khía cạnh được đánh giá qua 3 mức độ “Không đồng ý”, “Phân vân”,
“Đồng ý” với điểm số lần lượt là 1, 2, 3.
+ Câu 5: Khảo sát mức độ hiểu của khách thể về các biểu hiện của BNTT qua 3
mức độ “Đồng ý”, “Phân vân”, “Không đồng ý” điểm số lần lượt là 1, 2, 3.
+ Câu 6: Khảo sát thực trạng nhận thức về tính nguy hại của BNTT so với bắt nạt
ngoài đời thực qua 3 mức độ “Ít nguy hiểm hơn”, “Cũng nguy hiểm tương tự”, “Nhiều
nguy hiểm hơn”.
+ Câu 7: Khảo sát thực trạng nhận thức về những cách ứng phó tức thời sau khi
bị BNTT. Trong 12 ý lựa chọn, dựa theo tính bền vững của các cách ứng phó có thể
phân chia như sau:
Những cách ứng phó tức thời có tính bền vững: ý 5, 6, 7, 11, 12.
Những cách ứng phó tức thời ít có tính bền vững: ý 1, 2, 3, 9.
Những cách ứng phó tức thời không bền vững: ý 4, 8, 10.
+ Câu 8: Khảo sát thực trạng nhận thức về những cách ứng phó phòng ngừa các
tình huống BNTT có thể xảy ra. Trong đó có 4 ý đúng (từ ý 1 đến ý 4) và 1 ý sai (ý 5).
- Phần 4 (câu 9, câu 10): có chức năng thu thập dữ liệu để khảo sát ý kiến của học
sinh về các biện pháp nâng cao nhận thức về BNTT.
+ Câu 9: Khảo sát ý kiến của học sinh về mức độ cần thiết của việc nâng cao
hiểu biết về BNTT với 3 lựa chọn “Rất cần thiết”, “Cần thiết”, “Không cần thiết”.
+ Câu 10: Khảo sát ý kiến của học sinh về các biện pháp giúp nâng cao nhận
thức về BNTT với 9 ý lựa chọn.
Cách xử lý số liệu
Câu 4, câu 5 đánh giá mức độ nhận thức về 2 nội dung của BNTT gồm các khía
cạnh tổng quan về BNTT (câu 4) và biểu hiện của BNTT (câu 5) theo thang bậc 3 ứng
với 3 mức độ. Theo đó, ta có thang điểm như sau:
+ Mức nhận thức cao
+ Mức nhận thức trung bình
50
+ Mức nhận thức thấp
Câu 7, câu 8 đánh giá mức độ nhận thức về cách ứng phó gồm các ứng phó tức
thời (câu 7) và ứng phó phòng ngừa (câu 8) đối với BNTT theo thang bậc 3 ứng với 3
mức độ. Ta có thang đánh giá mức độ như sau:
+ Nhận thức đúng, đầy đủ về đối tượng
+ Nhận thức có phần đúng nhưng chưa đầy đủ về đối tượng.
+ Nhận thức sai về bản chất của đối tượng.
2.1.3. Mô tả mẫu khách thể của đề tài
Các học sinh từ lớp 6 đến lớp 9 được chọn thuận tiện từ ba trường THCS trên địa
bàn TP.HCM gồm THCS Nguyễn Tri Phương, THCS Lý Phong, THCS Tân Túc. 489
bảng hỏi (phiếu) được phát ra, kết quả thu đươc 433 phiếu. Bảng 1 thể hiện kết quả
thống kê số liệu thông tin cá nhân của khách thể phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Khách thể được đưa vào nghiên cứu là học sinh THCS từ lớp 6 đến lớp 9, nằm
trong độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi. Lý do chọn nhóm tuổi này làm khách thể cho đề tài đã
được trình bày trong phần 1.2.3 của chương 1.
Yếu tố thời gian vào mạng (Internet) nhằm khảo sát mối liên hệ giữa thời gian sử
dụng mạng với việc nhận thức được nạn nhân của BNTT và những nội dung của BNTT
ở học sinh THCS. Vì theo nghiên cứu của Park và cộng sự, ĐH Canberra (Úc), những
người dùng Internet và mạng xã hội thường xuyên có nhiều khả năng tham gia, trở thành
nạn nhân và chứng kiến hành vi BNTT. Mốc thời gian 2 giờ được chọn vì cứ mỗi 2 giờ
tiếp xúc với Internet sẽ có sự tác động lên 4 thước đo về sự phát triển thời thơ ấu của
trẻ, bao gồm luôn luôn hoặc thường xuyên chú ý đạt thành tích tốt ở trường, hoàn thành
các nhiệm vụ phát sinh, thể hiện sự quan tâm học hỏi những cái mới và giữ bình tĩnh
khi đối diện với các thách thức (Học viện Nhi khoa Mỹ và Trường Y tế cộng đồng, Đại
học Brown).
Bảng 1 dưới đây cho biết những ý nghĩa như sau:
- Có sự tương đương về tỉ lệ giữa các khối lớp.
- Có sự tương đương về tỉ lệ giữa nam và nữ.
- Tỉ lệ học sinh học lực khá cao hơn gấp đôi so với tỉ lệ của học sinh học lực giỏi
và học sinh học lực trung bình. Có rất ít học sinh có học lực yếu và kém (8,8%
51
và 1,6%).
- Khoảng hai phần ba khách thể trong mẫu có hạnh kiểm tốt, có rất ít học sinh có
hạnh kiểm trung bình và hạnh kiểm yếu (6,5% và 1,6 %).
- Chỉ có 4,6% khách thể trong mẫu không sử dụng mạng. Có sự tương đương về
thời gian sử dụng mạng ở nam và nữ. Tỉ lệ học sinh lớp 8 và lớp 9 có thời gian
vào mạng từ 2 giờ/ngày trở lên cao hơn gấp 2 lần nhóm có thời gian vào mạng ít
hơn 2 giờ/ngày.
Bảng 1: Kết quả thống kê thông tin cá nhân của khách thể
Khối lớp
Giới tính
Học lực
Hạnh kiểm
Thời gian vào mạng
Tiêu chí phân loại học sinh Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9 Tổng Nữ Nam Tổng Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Tổng Tốt Khá Trung bình Yếu Tổng Không sử dụng mạng Ít hơn 2 giờ/ngày Từ 2 giờ/ngày trở lên Tổng Tần số 119 110 98 106 433 209 224 433 94 205 89 38 37 433 296 102 28 7 433 20 172 241 433 Tỉ lệ (%) 27,5 25,4 22,6 24,5 100 48,3 51,7 100 21,7 47,3 20,6 8,8 1,6 100 68,4 23,6 6,5 1,6 100 4,6 39,7 55,7 100
2.2. Thực trạng nhận thức về BNTT của học sinh THCS TP.HCM
2.2.1. Thực trạng có biết về BNTT của học sinh THCS TP.HCM
Trả lời câu 1 trong bảng hỏi “Bạn có biết hoặc nghe nói về hiện tượng BNTT
(còn gọi là bắt nạt trên mạng, quấy rối trên mạng)?” với 3 ý lựa chọn “Biết rõ”, “Biết
chút ít”, “Không biết/Chưa từng nghe nói”, 61.9% học sinh THCS trả lời “Biết chút ít”,
52
15.5% khách thể trả lời “Biết rõ” và 22.6 % trả lời “Không biết/Chưa từng nghe nói”.
Như vậy, có thể nói 22.6% khách thể của đề tài chưa có nhận thức về BNTT, những
khách thể này không tham gia trả lời tiếp trong bảng hỏi. Bảng 2 mô tả kết quả thống kê
thông tin cá nhân của nhóm khách thể này.
Kiểm định Chi – bình phương với mức ý nghĩa 0.05, kết luận các yếu tố giới tính,
khối lớp có mối liên hệ với yếu tố có biết về BNTT. Cụ thể, trong số những học sinh
THCS không biết về BNTT, tỉ lệ học sinh nam nhiều gấp đôi so với tỉ lệ học sinh nữ,
nhóm học sinh lớp 6, lớp 7 chiếm tỉ lệ nhiều hơn nhóm học sinh lớp 8, lớp 9.
Từ nội dung tiếp theo trở đi, tần số và tỉ lệ được tính dựa trên 335 phiếu trả lời
“Biết rõ”, “Biết chút ít” về BNTT. Đây là nhóm khách thể đã có nhận thức ở mức độ
nào đó về BNTT và nhiệm vụ tiếp theo của đề tài là tìm hiểu sâu hơn nhận thức về
BNTT của nhóm khách thể này.
Bảng 2: Kết quả thống kê thông tin cá nhân của nhóm khách thể trả lời “Không
biết/Chưa từng nghe nói” về BNTT.
Trả lời “Không biết/Chưa từng nghe nói về BNTT Thông tin cá nhân Tần số Tỉ lệ (%)
32 32.7 Nữ
66 67.3 Giới tính Nam
Tổng 98 100
39 39.8 Lớp 6
27 27.5 Lớp 7
13 13.3 Khối lớp Lớp 8
19 19.4 Lớp 9
Tổng 98 100
2.2.2. Thực trạng tiếp cận nguồn thông tin về BNTT của học sinh THCS TP.HCM
Bảng 3: Các nguồn cung cấp thông tin về BNTT cho học sinh THCS
Nguồn cung cấp thông tin Tần số Thứ hạng Tỉ lệ
Mạng Internet (mạng xã hội, diễn đàn...) 270 32.6 1
53
Chương trình truyền hình 137 16.5 2
Bạn bè 113 13.6 3
Báo (báo giấy, báo mạng), tạp chí 104 12.5 4
Gia đình 69 8.3 5
Thầy, cô 65 7.6 6
Bảng tin trường 37 4.5 7
Chuyên đề do trường tổ chức 34 4.1 8
Trong số những học sinh THCS có biết về BNTT, quan sát bảng 3 theo tỉ lệ trong
8 nguồn cung cấp thông tin liên quan đến BNTT đối học sinh THCS cho thấy đứng đầu
là “Mạng Internet (mạng xã hội, diễn đàn...)” chiếm tỉ lệ 32.6 %, sau đó là “Chương
trình truyền hình” rồi mới tới “Bạn bè” và “Báo (báo giấy, báo mạng), tạp chí” lần lượt
là 16.5 %, 13.6 % và 12.5%. Chỉ có 4.5 % học sinh cho biết các em được biết các thông
tin liên quan đến hiện tượng BNTT thông qua bảng tin trường và 4.1 % là qua các chuyên
đề do trường tổ chức, điều này cho thấy các vấn đề liên quan đến BNTT chưa được quan
tâm và chú trọng trong trường học. Đa phần các em học sinh được biết hoặc tự tìm hiểu
những thông tin về BNTT thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trên mạng
Internet.
2.2.3. Kết quả nhận thức về BNTT của học sinh THCS TP.HCM
Trong đề tài, người nghiên cứu tập trung tìm hiểu nhận thức về BNTT của học
sinh THCS TP.HCM xét trên phương diện giới tính và khối lớp. Những nội dung về
BNTT được đưa vào khảo sát bao gồm những khía cạnh tổng quan về BNTT, biểu hiện
và cách ứng phó với BNTT. Trong cách ứng phó gồm có ứng phó tức thời là những phản
ứng chủ động, kịp thời của nạn nhân nhằm đáp lại các tình huống của BNTT và ứng phó
phòng ngừa bao gồm những hoạt động làm giảm khả năng của các tình huống BNTT có
thể xảy ra. Bảng 7, bảng 8 và bảng 9 trình bày kết quả nhận thức về 3 nội dung trên của
BNTT ở học sinh THCS TP.HCM qua 3 mức độ nhận thức và được phân tích dựa trên
hai phương diện giới tính và khối lớp.
Là một hình thức bắt nạt còn khá mới, BNTT được thực hiện thông qua việc sử
dụng sử các hình thức liên lạc điện tử, các tiện ích và ứng dụng trên Internet nên so với
các hình thức bắt nạt đã có trước đây, BNTT xảy ra nhanh chóng, dễ dàng và có tính lan
54
rộng hơn về cả không gian lẫn thời gian. Hình thức bắt nạt này trở nên nguy hiểm và
khó kiểm soát khi có thể được thực hiện dưới hình thức ẩn danh, nạn nhân không biết
thủ phạm là ai và có khả năng lôi kéo rất đông người tham gia vào hành động này. Có
tới 63.2% học sinh THCS TP.HCM có nhận thức cao các khía cạnh tổng quan về BNTT.
Trong khi đó chỉ 7.8% học sinh có mức nhận thức thấp còn lại gần một phần ba học sinh
có nhận thức ở mức trung bình. Đối với 4 khía cạnh đúng trong các khía cạnh tổng quan
về BNTT mà người nghiên cứu đưa ra (khía cạnh số 1, 2, 3, 4), hầu hết câu trả lời của
học sinh đều nằm trong mức đồng ý với điểm trung bình dao động từ 2.47 đến 2.54. Hai
khía cạnh BNTT “có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào (nhà, trường học...)” và BNTT “có thể
xảy ra dưới hình thức ẩn danh, nạn nhân không biết được thủ phạm là ai” có được sự
đồng thuận cao từ các em học sinh với điểm trung bình lần lượt là 2.54 và 2.52. Xét trên
phương diện giới tính, tỉ lệ học sinh nữ có nhận thức các khía cạnh tổng quan về BNTT
cao hơn với học sinh nam (68.4% so với 57.3%). Xét trên khối lớp, 20.3% học sinh khối
lớp 6 nhận thức ở mức thấp – đạt tỉ lệ cao nhất trong 4 khối. Biết và hiểu rõ nhất các
khía cạnh tổng quan về BNTT là học sinh khối lớp 9 với tỉ lệ nhận thức ở mức cao là
82.4%, tiếp theo sau là khối lớp 8, lớp 7 với tỉ lệ lần lượt là 76.5% và 60.2% (Bảng 7).
Trong đề tài này người nghiên cứu đưa ra 10 biểu hiện khác nhau của BNTT. Có
46.4% học sinh THCS có nhận thức cao về biểu hiện của BNTT, tuy nhiên cũng có học
sinh vẫn chưa nhận biết được những biểu hiện thuộc về BNTT khi có tỉ lệ nhận thức ở
mức thấp là 18.3%, còn lại 35.3% học sinh nhận thức ở mức trung bình. Kết quả bảng 8
cho thấy học sinh nữ có nhận thức cao hơn học sinh nam về biểu hiện của BNTT (52.0%
so với 40.2%). Xét về phương diện khối lớp, có hơn một nửa học sinh khối lớp 8 và lớp
9 chiếm tỉ lệ cao nhất trong mức độ nhận thức cao về biểu hiện của BNTT. Với ĐTB
lần lượt là 2.57 và 2.45, hai biểu hiện của BNTT gồm “Gửi tin nhắn đe dọa hoặc xúc
phạm qua hộp thư điện tử (email), SMS... hoặc trên những trang mạng có liên quan” và
“Viết, đăng những tin đồn, chuyện xấu về một người trên các trang mạng xã hội, diễn
đàn... hoặc gửi đường dẫn (link) cho người khác đọc” được học sinh trả lời ở mức độ
đồng ý. Học sinh tỏ ra phân vân với các biểu hiện còn lại của BNTT.
Ứng phó với BNTT là sự tương tác, đối mặt, giải quyết vấn đề của nạn nhân khi
bị một người hoặc một nhóm người thực hiện hành vi bắt nạt thông qua các hình thức
55
liên lạc điện tử hoặc các tiện ích và ứng dụng trên Internet một cách có chủ ý và có thái
độ đe dọa, thù địch. Ngoài những ứng phó tức thời khi bị BNTT, những ứng phó phòng
ngừa có thể giúp ngăn chặn và tránh các tình huống BNTT có thể xảy ra.
Đối với những cách ứng phó tức thời, có rất ít học sinh THCS có biết về BNTT
xác định đúng và đầy đủ 5 cách ứng phó BNTT mang tính bền vững – những cách ứng
phó có tính duy trì hiệu quả lâu dài. Đồng thời trong số 96.1% học sinh nhận thức có
phần đúng, nhưng chưa đầy đủ, có những học sinh chỉ chọn 1 đến 4 cách ứng phó đạt
tính bền vững hoặc cùng đồng thời chọn những cách ứng phó kém bền vững hơn. Xét
về phương diện giới tính cũng như khối lớp, cả nam và nữ, học sinh từ khối lớp 6 cho
đến khối lớp 9, có tỉ lệ nhận thức đúng, đầy đủ về cách ứng phó BNTT mang tính bền
vững dưới 10%. Đối với các ứng phó phòng ngừa nhằm ngăn chặn hoặc tránh các tình
huống BNTT có thể xảy ra, có 26.0% học sinh THCS có biết về BNTT xác định đúng
cả 4 cách phòng ngừa BNTT đúng mà người nghiên cứu đưa ra và chỉ có 3.0% học sinh
trả lời rằng không có cách nào ngăn chặn BNTT, 71% học sinh còn lại chỉ lựa chọn được
từ 1 đến 3 cách phòng ngừa đúng. Quan sát bảng 9 có thể thấy xét về phương diện giới
tính hay khối lớp, tỉ lệ học sinh nhận thức đúng và khá đầy đủ về các cách ứng phó
phòng ngừa BNTT đều nằm trong khoảng 20% – 35%.
Nhìn chung, học sinh THCS TP.HCM đều có hiểu biết một phần nào đó về hiện
tượng BNTT, đặc biệt là trong các khía cạnh tổng quan thuộc về bản chất của BNTT với
tỉ lệ nhận thức cao là 63.2%, đồng thời đối với các biểu hiện của BNTT các em chỉ nhận
biết được một vài biểu hiện đặc trưng. Tuy nhiên, dù nhận thức có nhận thức nhất định
về một số nội dung của BNTT và các cách phòng ngừa giúp ngăn chặn và tránh các tình
huống BNTT có thể xảy ra nhưng khi đối mặt với tình huống bị BNTT, các em thường
chọn những cách ứng phó mang tính kém bền vững hơn khi chỉ có 3% học sinh nhận
thức đúng và đầy đủ những cách ứng phó tức thời có tính bền vững cao. Và càng đáng
quan tâm hơn đối với nhận thức về mức độ nguy hiểm của BNTT, gần một phần hai các
em học sinh cho rằng BNTT để lại hậu quả tượng tự như các hình thức bắt nạt thông
thường và một phần mười học sinh khác lại cho rằng nó ít nguy hiểm hơn. Theo Cô V
– CVTL tại trường THCS Lý Phong, đối với những học sinh là nạn nhân của BNTT,
chính các em cũng không nhận thức rõ là mình đang bị bắt nạt, còn với học sinh thực
hiện hình thức bắt nạt này cũng không biết đây là một dạng bắt nạt, đôi lúc, các em chỉ
56
xem đây là một trò đùa của mình và chúng bạn.
Bảng 4: Kết quả nhận thức các khía cạnh tổng quan về BNTT ở học sinh THCS
TP.HCM
Tỉ lệ %
Nội dung
Mức nhận thức cao Mức nhận thức trung bình Nhận thức thấp
Các khía cạnh tổng quan về BNTT 63.2 29.0 7.8
Bảng 5: Kết quả nhận thức về biểu hiện của BNTT ở học sinh THCS TP.HCM
Tỉ lệ %
Nội dung
Mức nhận thức cao Mức nhận thức trung bình Nhận thức thấp
Biểu hiện của BNTT 46.4 35.3 18.3
Bảng 6: Kết quả nhận thức về cách ứng phó đối với BNTT ở học sinh THCS
TP.HCM
Tỉ lệ %
Nội dung
Nhận thức sai Nhận thức đúng, đầy đủ Nhận thức có phần đúng, nhưng chưa đầy đù
Ứng phó tức thời đối với BNTT 3.0 96.1 0.9
Ứng phó phòng ngừa đối với BNTT 26.0 71.0 3.0
Bảng 7: Kết quả nhận thức các khía cạnh tổng quan về BNTT ở học sinh THCS
TP.HCM theo phương diện giới tính và khối lớp
Tỉ lệ % Tỉ lệ %
Nội dung Giới tính Khối lớp Mức nhận thức TB Mức nhận thức TB
Mức nhận thức cao Mức nhận thức thấp Mức nhận thức cao Mức nhận thức thấp
57
68.4 26.0 5.6 30.4 49.4 20.3 Nữ 6
60.2 31.3 8.4 7
76.5 22.4 1.2 8 32.5 10.2 Nam 57.3 Những khía cạnh tổng quan về BNTT 82.8 14.9 2.3 9
Bảng 8: Kết quả nhận thức về biểu hiện của BNTT ở học sinh THCS TP.HCM
theo phương diện giới tính và khối lớp
Tỉ lệ % Tỉ lệ %
Nội dung Giới tính Khối lớp Mức nhận thức TB Mức nhận thức TB
Mức nhận thức cao Mức nhận thức thấp Mức nhận thức thấp Mức nhận thức cao
41.8 27.8 30.4 6 52.0 33.9 14.1 Nữ 31.3 24.1 44.6 7
Biểu hiện của BNTT 36.5 11.8 51.8 8 36.9 22.9 Nam 40.2 32.2 10.3 57.5 9
Bảng 9: Kết quả nhận thức về cách ứng phó đối với BNTT ở học sinh THCS
TP.HCM theo phương diện giới tính và khối lớp
Tỉ lệ % Tỉ lệ %
Nội dung Giới tính Khối lớp Mức nhận thức TB Mức nhận thức TB
Mức nhận thức cao Mức nhận thức thấp Mức nhận thức cao Mức nhận thức thấp
58
Ứng phó 4.0 96.0 0.0 2.5 96.2 1.3 Nữ 6
tức thời 2.4 97.6 0.0 7
1.2 97.6 1.2 8 1.9 96.2 1.9 Nam 5.7 93.1 1.1 9
Nữ 23.2 73.4 3.4 6 20.3 78.5 1.3
Ứng phó phòng ngừa 33.7 62.7 3.6 7
68.2 2.5 21.2 76.5 2.4 Nam 29.3 8
28.7 66.7 4.6 9
Bảng 10: Kết quả nhận thức về mức độ nguy hiểm của BNTT so với bắt nạt ngoài đời thực
Mức độ Tần số Tỉ lệ %
Ít nguy hiểm hơn 35 10.5
Nguy hiểm tương tự 162 48.5
Nhiều nguy hiểm hơn 137 41
2.2.3.1. Thực trạng nhận thức về BNTT của học sinh THCS TP.HCM trên phương
diện giới tính
a. Nhận thức các khía cạnh tổng quan về BNTT của học sinh THCS trên phương diện
giới tính
Nam và nữ học sinh THCS TP.HCM có nhận thức ở mức cao các khía cạnh tổng
quan đến BNTT với tỉ lệ lần lượt là 57.3% và 68.4% (bảng 7). Quan sát bảng 11 ta thấy
khía cạnh BNTT “Là một hình thức của bắt nạt xảy ra thông qua việc sử dụng công nghệ
liên lạc điện tử, mạng Internet để làm nhục, hăm dọa, quấy rối, phỉ báng ai đó” với tỉ lệ
“Đồng ý” cao (70.6% ở nữ và 64.3% ở nam). Ngoài ra, hai khía cạnh BNTT “Có thể
xảy ra ở bất cứ nơi nào (nhà, trường học...)” và “Có thể xảy ra dưới hình thức ẩn danh,
nạn nhân không biết được thủ phạm là ai” cũng đạt tỉ lệ “Đồng ý” khá cao từ 64% -
67%. Việc các học sinh có tỉ lệ lựa chọn khá cao như vậy cho thấy các em có hiểu biết
nhất định về bản chất của hiện tượng BNTT, nó không chỉ đơn thuần là học sinh bắt nạt
nhau bằng sức mạnh, bằng lời nói mà việc bắt nạt có thể xảy dễ dàng hơn thông qua một
bài đăng, một bình luận... bất kể người đó ở đâu. Khi được hỏi về suy nghĩ đối với hình
thức bắt nạt này, Cô V cho biết, đây là loại bặt nạt khó bị phát hiện vì nó không để lại
bất cứ một dấu hiệu nào ở nạn nhân về mặt thân thể. Những dấu hiệu như buồn bã, lo 59
lắng, sợ hãi nếu không quá nghiêm trọng thì không thể phát hiện hoặc khi đã phát hiện
những dấu hiệu kể trên, nạn nhân thường không dám chia sẻ về chuyện bị bắt nạt. Những
khủng hoảng về mặt tinh thần này dẫn đến những hậu quả rất lớn cho nạn nhân.
Bảng 11: Bảng so sánh sự tỉ lệ % nhận thức những khía cạnh tổng quan về BNTT trên
phương diện giới tính
Lựa chọn (%)
TT Những khía cạnh tổng quan Sig. Giới tính Không đồng ý Phân vân Đồng ý
Nữ 19.2 10.2 70.6
.449 1
Nam 22.3 13.4 64.3 Là một hình thức của bắt nạt xảy ra thông qua việc sử dụng công nghệ liên lạc điện tử, mạng Internet để làm nhục, hăm dọa, quấy rối, phỉ báng ai đó.
Nữ 11.3 35.6 53.1 2 .028 Xảy ra một cách dễ dàng, bất cứ khi nào, dù ngày hay đêm. Nam 21.7 35.0 43.3
Nữ 9.0 24.9 66.1 .245 3 Có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào (nhà, trường học...). Nam 14.6 21 64.3
Nữ 12.4 20.9 66.7 .829 4 Nam 14.6 21.0 64.3 Có thể xảy ra dưới hình thức ẩn danh, nạn nhân không biết được thủ phạm là ai.
Nữ 13.6 36.7 49.7 5 .029 Có khả năng lôi kéo rất đông người tham gia hành động này. Nam 24.2 28.0 47.8
Nữ 28.2 46.3 25.4 .141 6 Là một phần rất khó thoát khỏi của thế giới trực tuyến. Nam 34.4 35.7 29.9
Kiểm nghiệm Chi – bình phương kiểm tra sự khác biệt ý nghĩa giữa nam và nữ
về nhận thức các khía cạnh tổng quan về BNTT, kết quả bảng 11 cho thấy có sự khác
biệt ở một số khía cạnh sau đây:
Với khía cạnh BNTT “Xảy ra một cách dễ dàng, bất cứ khi nào, dù ngày hay
đêm” (Sig. = 0.028 < 0.05), học sinh nữ có nhận thức cao hơn học sinh nam với tỉ lệ %
học sinh nữ chọn “Đồng ý” là 53.1% và học sinh nam là 43.3 %.
Học sinh nữ có nhận thức cao hơn học sinh nam trong việc nhận thức khía cạnh
BNTT “Có khả năng lôi kéo rất đông người tham gia hành động này”, tỉ lệ chọn “Không
60
đồng ý” ở nam là 24.6% cao gần gấp hai so với tỉ lệ của nữ là 13.6%.
b. Nhận thức về biểu hiện của BNTT của học sinh THCS trên phương diện giới tính
Đối với nhận thức về biểu hiện của BNTT, nữ học sinh có mức độ nhận thức cao
hơn so với của nhóm nam học sinh, 52.0% so với 40.2% (Bảng 8). Trong các biểu hiện
của BNTT được người nghiên cứu đưa ra, biểu hiện “Gửi tin nhắn đe dọa hoặc xúc phạm
qua hộp thư điện tử (email), SMS... hoặc trên những trang mạng có liên quan” được cả
học sinh nữ và học sinh nam nhận thức rõ nhất, có tỉ lệ lựa chọn “Đồng ý” với khá cao
lần lượt là 75.7% và 68.2%, cao hơn so với các biểu hiện còn lại. Chỉ khoảng một phần
ba học sinh nam và học sinh nữ xác định đúng được 3 biểu hiện của BNTT bao gồm
“Tìm cách loại bỏ một người ra khỏi nhóm trực tuyến hay không cho người đó biết hoặc
tham gia vào nhóm trên mạng (danh sách bạn bè, diễn đàn, hội...)”, “Tạo một cuộc bầu
chọn hoặc tính điểm công khai trên mạng về những khiếm khuyết của một người như
chọn ra người xấu xí nhất, người kém thông minh nhất...” và “Giả danh một người gửi
tin nhắn, email hoặc đăng bài trên các trang mạng xã hội, diễn đàn... để nói những điều
không đúng sự thật”. Có thể thấy BNTT được thực hiện qua nhiều con đường khác nhau,
nhưng các em học sinh chỉ nhận biết được một vài biểu hiện thường dễ bắt gặp và có
thể đã từng xảy ra trên chính bản thân các em hoặc những trường hợp mà các em có biết.
Bảng 12: Bảng so sánh sự tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về biểu hiện của
BNTT trên phương diện giới tính
TT Biểu hiện Sig. Giới tính Lựa chọn (%) Phân vân Không đồng ý Đồng ý
Nữ 12.4 11.9 75.7
1 .275 Nam 17.8 22.0 68.2
Nữ 57.6 19.2 23.2
2 .002
61
44.6 14.0 Nam 41.4 Gửi tin nhắn đe dọa hoặc xúc phạm qua hộp thư điện tử (email), SMS... hoặc trên những trang mạng có liên quan. Tìm cách loại bỏ một người ra khỏi nhóm trực tuyến hay không cho người đó biết hoặc tham gia vào nhóm trên mạng (danh sách bạn bè, diễn đàn, hội...).
Nữ 16.9 70.6 12.4 3 .097
59.9 14.6 Nam 25.5
Nữ 21.5 53.1 25.4 4 .378 46.5 26.1 Nam 27.4
Nữ 32.2 41.2 26.6
5 .041
27.4 33.1 Nam 39.5
Nữ 39.0 41.1 16.9
6 .000
21.0 43.9 Nam 35.1
16.9 61.6 21.5 Nữ 7 .367 Nam 28.0 16.6 55.4
26.0 53.1 Nữ 20.9 8 .009 26.3 40.8 Nam 35.7
9 .298 Nữ 22.6 Nam 28.7 27.7 21.7 49.7 49.7
42.4 30.5 27.1 Nữ
10 .952 Nam 28.7 41.4 29.9
Viết, đăng những tin đồn, chuyện xấu về một người trên các trang mạng xã hội, diễn đàn... hoặc gửi đường dẫn (link) cho người khác đọc. Để lại bình luận mang tính chế giễu, nói xấu, chê bai... trên bài đăng của một người. Tạo một cuộc bầu chọn hoặc tính điểm công khai trên mạng về những khiếm khuyết của một người như chọn ra người xấu xí nhất, người kém thông minh nhất... Đăng những thông tin liên lạc cá nhân (địa chỉ email, số điện thoại, tài khoản cá nhân...) trên các trang web phổ biến để người đó phải nhận các thư rác hoặc sự liên lạc (quấy rối) của những người lạ... Tìm cách lấy tài khoản email, mạng xã hội và phát tán (lan truyền) những bí mật của một người cho mọi người đọc. Giả danh một người gửi tin nhắn, email hoặc đăng bài trên các trang mạng xã hội, diễn đàn... để nói những điều không đúng sự thật. Ghép/chế ảnh và đưa lên mạng để gây xấu hổ cho một người. Tìm cách tố cáo hoặc chứng minh để một người bị giám sát, kiểm duyệt hoặc có thể bị loại trừ trên các dịch vụ web. Kết quả kiểm nghiệm Chi – bình phương về mức độ nhận thức biểu hiện của
BNTT giữa nam và nữ với sig = 0.044 < 0.05, cho phép kết luận có sự khác biệt ý nghĩa
giữa nam và nữ về kết quả nhận thức biểu hiện của BNTT. Điểm khác biệt rõ ràng trong
kết quả được thể hiện qua các biểu hiện của BNTT sau:
Với biểu hiện “Tìm cách loại bỏ một người ra khỏi nhóm trực tuyến hay không
cho người đó biết hoặc tham gia vào nhóm trên mạng (danh sách bạn bè, diễn đàn,
hội...)”, điểm khác biệt nằm ở việc có 41.4% các học sinh nam cho rằng đây không phải
là biểu hiện của BNTT khi tỉ lệ này ở học sinh nữ chỉ là 23.3%.
Biểu hiện “Tạo một cuộc bầu chọn hoặc tính điểm công khai trên mạng về những
62
khiếm khuyết của một người như chọn ra người xấu xí nhất, người kém thông minh
nhất...”, điểm khác biệt nằm ở kết quả 39.5% học sinh nam lựa chọn “Không đồng ý”
với biểu hiện này và chỉ có 26.6% ở học sinh nữ.
Biểu hiện “Đăng những thông tin liên lạc cá nhân (địa chỉ email, số điện thoại,
tài khoản cá nhân...) trên các trang web phổ biến để người đó phải nhận các thư rác hoặc
sự liên lạc (quấy rối) của những người lạ...” điểm khác biệt nằm ở việc có tới 35.1% học
sinh nam cho rằng đây không phải là biểu hiện của BNTT hơn gấp đôi so với tỉ lệ của
học sinh nữ là 16.9%.
Tương tự như các biểu hiện trên, biểu hiện “Giả danh một người gửi tin nhắn,
email hoặc đăng bài trên các trang mạng xã hội, diễn đàn... để nói những điều không
đúng sự thật” cũng có đến 35.7 % học sinh nam và 20.9% học sinh nữ cho rằng đây
không phải là biểu hiện của BNTT.
Đúng như giả thuyết nghiên cứu đưa ra, học sinh nữ có nhận thức về biểu hiện
của BNTT ở mức cao hơn học sinh nam. Có thể lý giải sự khác biệt này xuất phát từ sự
khác biệt ở một số đặc điểm tâm lý giữa nam và nữ. So với nam giới, nữ giới thường
chú ý và nhạy cảm với chi tiết trong sự việc hơn.
c. Nhận thức về cách ứng phó với BNTT của học sinh THCS trên phương diện giới tính
Bảng 13: Xếp hạng lựa chọn các ứng phó tức thời với BNTT của học sinh THCS trên phương diện giới tính
Ứng phó tức thời Giới tính Tần số Tỉ lệ % Xếp hạng
Kể cho cha mẹ biết để tìm Nữ 145 14.1 1
cách ngăn chặn Nam 123 13.6 1
Tìm lời khuyên từ bạn Nữ 132 12.8 3
bè/người lớn Nam 114 12.6 2
Chặn tài khoản để người bắt Nữ 130 12.3 4
nạt không thể liên lạc được Nam 114 12.6 2
Thông báo cho giáo viên để Nữ 135 13.1 2
63
tìm cách ngăn chặn Nam 103 11.4 5
Báo công an hoặc các cơ quan Nữ 127 12.4 5
có liên quan Nam 113 12.5 4
Thông báo cho nhà quản lý Nữ 123 12.0 6
mạng Nam 103 11.4 5
Xóa tin nhắn, xóa tên người Nữ 99 9.6 7
bắt nạt ra khỏi danh sách liên Nam 93 10.3 7 lạc.
Phớt lờ, không quan tâm đến Nữ 57 5.5 8
tình huống bắt nạt. Nam 51 5.6 9
Tìm lời khuyên trên mạng Nữ 44 4.3 9
Nam 56 6.2 8
Lưu lại bằng chứng của việc Nữ 21 2.0 10
bắt nạt để trả thù sau này Nam 20 2.2 10
Làm điều tương tự với người Nữ 8 0.8 11
đó qua mạng hoặc qua điện Nam 8 0.9 11 thoại
Làm điều gì đó tương tự với Nữ 7 0.7 12
người bắt nạt trong cuộc sống Nam 8 0.9 11 thực
Trong những cách ứng phó tức thời khi BNTT xảy ra, cả nam và nữ học sinh
THCS đều chọn cách “Kể cho ba mẹ biết để tìm cách ngăn chặn” là cách ứng phó bền
vững với tỉ lệ % lựa chọn lần lượt là 14.1% và 13.6%. Đối với những cách phó sai là
“Lưu lại bằng chứng của việc bắt nạt để trả thù sau này”, “Làm điều tương tự với người
đó qua mạng hoặc qua điện thoại” và “Làm điều gì đó tương tự với người bắt nạt trong
cuộc sống thực”, các em có sự đồng thuận khi tỉ lệ lựa chọn là rất ít. Tuy nhiên hầu hết
các em (96.1%) nhận thức về cách ứng phó tức thời với BNTT ở mức độ có phần đúng
nhưng chưa đầy đủ, các em học sinh vẫn còn nhầm lẫn với những cách ứng phó mang
64
tính kém bền vững hơn (Bảng 9).
Kiểm nghiệm Chi – bình phương nhận thức của học sinh THCS về ứng phó tức
thời với BNTT giữa nam và nữ học sinh, kết quả cho thấy sự khác biệt ở một số cách
ứng phó sau:
Có sự khác biệt ý nghĩa về cách ứng phó “Thông báo cho giáo viên để tìm cách
ngăn chặn” giữa nam và nữ học sinh THCS (sig = 0.032 < 0.05), đây là cách ứng phó
có tính bền vững cao, điểm khác biệt nằm ở chỗ có 76.3% học sinh nữ lựa chọn cách
ứng phó này trong khi đó tỉ lệ % ở nam học sinh là 65.6%.
“Tìm lời khuyên trên mạng” là cách ứng phó kém bền vững đối với BNTT. Có
sự khác biệt ý nghĩa trong cách ứng phó này giữa nam và nữ học sinh (sig = 0.031 <
0.05) khi tỉ lệ “Có chọn” của nam học sinh cao hơn tỉ lệ của nữ học sinh (35.7% so với
24.9%).
Bảng 14: So sánh tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về cách ứng phó tức
thời đối với BNTT trên phương diện giới tính.
Lựa chọn (%) Giới Sig Nội dung tính Có chọn Không chọn
Nữ 76.3 23.7 .032 Thông báo cho giáo viên để tìm cách ngăn chặn Nam 65.6 34.4
Nữ 24.9 75.1 Tìm lời khuyên trên mạng .031 Nam 35.7 64.3
Đối với những cách ứng phó phòng ngừa, có 26.0 % học sinh THCS nhận thức
đúng và đầy đủ, tức lựa chọn đúng cả 4 cách phòng ngừa BNTT mà người nghiên cứu
đưa ra và có đến 71% học sinh chọn được từ 1 – 3 cách ứng phó phòng ngừa đúng (bảng
5). Chỉ có 1.3 % học sinh nữ và 1.0% học sinh nam chọn “Không có cách nào phòng
tránh BNTT”, các cách ứng phó phòng ngừa còn lại đều được lựa chọn với các thứ hạng
ngang nhau giữa nam và nữ học sinh, được lựa chọn với tỉ lệ nhiều nhất là cách ứng phó
“Tăng cường các biện pháp bảo mật (bảo vệ mật khẩu, giới hạn thông tin nhận dạng...)”.
Cách ứng phó “Giải quyết các vấn đề mâu thuẫn bằng cách đối thoại trực tiếp với thông
điệp thiện chí” đạt tỉ lệ lựa chọn ít nhất trong 4 cách ứng phó phòng ngừa đúng. Điều
này có thể lý giải do ở giai đoạn lứa tuổi này có biến đổi về mặt tâm lý, sinh lý mà các
em không kiểm soát và thích nghi được, điều này gây khó khăn trong việc quản lý bản 65
thân đặc biệt là quản lý về mặt cảm xúc, nhất là khi phải đối thoại trong tình huống có
mâu thuẫn, chính vì vậy mẫu thuẫn dễ xảy ra giữa các em học sinh là điều dễ hiểu. Nhìn
chung, nhận thức về cách ứng phó phòng ngừa ở nam và nữ học sinh THCS đều ở mức
có phần đúng nhưng chưa thật sự đầy đủ.
Bảng 15: Xếp hạng lựa chọn các ứng phó phòng ngừa BNTT của học sinh THCS trên phương diện giới tính
Giới tính Tần số Tỉ lệ % Xếp hạng
Nữ 73 15.4 4
Nam 84 20.1 4
Nữ 140 29.5 1
Nam 124 29.7 1
Nữ 131 27.6 2 Ứng phó phòng ngừa Giải quyết các vấn đề mâu thuẫn bằng cách đối thoại trực tiếp với thông điệp thiện chí Tăng cường các biện pháp bảo mật (bảo vệ mật khẩu, giới hạn thông tin nhận dạng...) Nhận biết và tránh tiếp xúc với các trang web không an toàn. Nam 105 25.1 2
Nữ 124 26.2 3
Nam 101 24.2 3
Nữ 6 1.3 5
Tăng cường nhận thức về các tình huống nguy hiểm, các sự cố liên quan đến BNTT Không có cách nào phòng tránh BNTT Nam 4 1.0 5
Bảng 16: So sánh tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về cách ứng phó phòng ngừa
với BNTT trên phương diện giới tính
Lựa chọn (%) Sig Nội dung Giới tính Có chọn Không chọn
Nữ 41.2 58.8
.025 Nam 53.5 46.5 Giải quyết các vấn đề mâu thuẫn bằng cách đối thoại trực tiếp với thông điệp thiện chí
Kết quả kiểm nghiệm Chi – bình phương nhằm so sánh nhận thức của học sinh
THCS về cách ứng phó phòng ngừa BNTT theo giới tính cho thấy có sự khác biệt ý
nghĩa về mặt thống kê giữa nam và nữ ở cách ứng phó “Giải quyết các vấn đề mâu thuẫn
bằng cách đối thoại trực tiếp với thông điệp thiện chí” với sig = 0.025 < 0.05. Cụ thể, tỉ
66
lệ lựa chọn cách ứng phó này ở nam là 53.5% cao hơn so với tỉ lệ của nữ là 41.2%.
2.2.3.2. Thực trạng nhận thức về BNTT của học sinh THCS trên phương diện khối
lớp
a. Nhận thức các khía cạnh tổng quan về BNTT ở học sinh THCS trên phương diện khối
lớp
Chỉ có khoảng một phần ba học sinh khối lớp 6 có mức nhận thức cao các khía
cạnh tổng quan về BNTT, còn lại 3 khối lớp 7, 8, 9 đạt tỉ lệ khá cao lần lượt là 60.2%,
76.5% và 82.8% (bảng 7). Cả 4 khối lớp đều xác định đúng được hai khía cạnh đặc trưng
về BNTT, gồm có BNTT “Là một hình thức của bắt nạt xảy ra thông qua việc sử dụng
công nghệ liên lạc điện tử, mạng Internet để làm nhục, hăm dọa, quấy rối, phỉ báng ai
đó” và “Có thể xảy ra dưới hình thức ẩn danh, nạn nhân không biết được thủ phạm là
ai”. Có thể thấy ngoại trừ khía cạnh BNTT “Là một phần rất khó thoát khỏi của thế giới
trực tuyến.” mà các em vẫn còn phân vân, lưỡng lự khi chỉ có khoảng một phần ba học
sinh 4 khối lớp đồng ý với khía cạnh này, thì với tất cả các khía cạnh còn lại các em học
sinh cũng đã hiểu và xác định được, khối lớp càng lớn thì nhận thức của các em càng
cao và rõ ràng hơn.
Bảng 17: Bảng so sánh sự tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về các khía cạnh tổng
quan về BNTT trên phương diện khối lớp
TT Những khía cạnh tổng quan Sig. Khối lớp Lựa chọn (%) Phân vân Không đồng ý Đồng ý
6 38.0 11.4 50.6
7 26.5 9.6 63.9 1 .000 8 14.1 5.9 80.0
Là một hình thức của bắt nạt xảy ra thông qua việc sử dụng công nghệ liên lạc điện tử, mạng Internet để làm nhục, hăm dọa, quấy rối, phỉ báng ai đó. 9 5.7 19.5 74.7
2 .000 Xảy ra một cách dễ dàng, bất cứ khi nào, dù ngày hay đêm.
3 .000 Có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào (nhà, trường học...).
67
6 7 8 9 6 7 8 9 27.8 20.5 4.7 12.6 24.1 14.5 4.7 4.6 49.4 33.7 30.6 28.7 27.8 26.5 23.5 14.9 22.8 45.8 64.7 58.6 48.1 59 71.8 80.5
4 .146
Có thể xảy ra dưới hình thức ẩn danh, nạn nhân không biết được thủ phạm là ai.
5 .000 Có khả năng lôi kéo rất đông người tham gia hành động này.
6 .088 Là một phần rất khó thoát khỏi của thế giới trực tuyến.
6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 20.3 15.7 10.6 8.0 40.5 16.9 10.6 8.0 32.9 39.8 21.2 31.0 25.3 19.3 22.4 17.2 35.4 32.5 32.9 29.9 45.6 28.9 48.2 42.5 54.4 65.1 67.1 74.7 24.1 50.6 56.5 62.1 21.5 31.3 30.6 26.4
Kiểm nghiệm Chi – bình phương nhằm so sánh mức độ nhận thức của học sinh
THCS về các khía cạnh tổng quan về BNTT theo khối lớp cho thấy có sự khác biệt ý
nghĩa về mặt thống kê giữa các khối lớp (sig = 0.00 < 0.05), điểm khác biệt này được
thể hiện rõ qua từng khía cạnh về BNTT như sau:
Khía cạnh BNTT “Là một hình thức của bắt nạt xảy ra thông qua việc sử dụng
công nghệ liên lạc điện tử, mạng Internet để làm nhục, hăm dọa, quấy rối, phỉ báng ai
đó” với sig = 0.00 < 0.05, cho phép kết luận có sự khác biệt ý nghĩa giữa các khối lớp
về kết quả nhận thức khía cạnh này. Cụ thể, có thể nhìn thấy ở lựa chọn “Không đồng
ý” đây là khía cạnh đúng về BNTT thì khối lớp 6 và lớp 7 có lựa chọn cao nhất là 38.0%
và 26.5%. Trong khi đó đây chính là một khía cạnh đúng về BNTT thì khối lớp 8 có tỉ
lệ đồng ý cao nhất với 80.0%, kế tiếp là khối lớp 9 với 74.7%. Theo kết quả trên cho
thấy có sự khác biệt giữa các khối lớp về việc nhận thức khía cạnh này, khối lớp 8, lớp
9 nhận thức đúng và đầy đủ hơn so với học sinh khối lớp 6, lớp 7.
Kiểm nghiệm Chi – bình phương cho thấy sự khác biệt ý nghĩa giữa các khối lớp
về nhận thức khía cạnh BNTT “Xảy ra một cách dễ dàng, bất cứ khi nào, dù ngày hay
đêm” với sig = 0.00 < 0.05, khối lớp 8 chiếm tỉ lệ cao nhất là 64.7%, kế tiếp là khối lớp
9 với 58.6%, thấp nhất là khối lớp 6 với 48.1%.
Khía cạnh BNTT “Có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào (nhà, trường học...)” được học
sinh lớp 9, lớp 8 nhận thức đúng và đầy đủ hơn học sinh lớp 7, lớp 6 (sig = 0.00 < 0.05)
68
với tỉ lệ % chọn “Đồng ý” lần lượt các khối lớp là 80.5%, 71.8%, 59.0%, 48.1%. Tuy
nhiên đối với khía cạnh BNTT “Có khả năng lôi kéo rất đông người tham gia hành động
này” (sig = 0.00 < 0.05), riêng khối lớp 6 có tới 40.5% học sinh cho rằng đây không
phải là một khía cạnh đúng của BNTT, còn lại khối lớp 7, lớp 8, lớp 9 đều “Đồng ý” ở
tỉ lệ % là 50.6%, 56.5%, 62.1%.
Như vậy, ta thấy rằng có sự khác biệt trong nhận thức các khía cạnh tổng quan
về BNTT ở các khối lớp và khối lớp lớn hơn thì có nhận thức cao hơn. Điều này có thể
lý giải, khi vào cuối tuổi thiếu niên (học sinh lớp 8 – 9), khả năng phân tích, tổng hơp,
đánh giá của các em phát triển mạnh hơn so với đầu tuổi thiếu niên (học sinh lớp 6 – 7),
đồng thời có thể phân biệt được dấu hiệu bản chất và không bản chất, có khả năng hiểu
vấn đề và đi sâu vào bản chất của vấn đề.
b. Nhận thức về biểu hiện của BNTT của học sinh THCS trên phương diện khối lớp
Bảng 18: Bảng so sánh sự tỉ lệ % nhận thức của học sinh THCS về biểu hiện của BNTT trên phương diện khối lớp
Sig.
TT
Biểu hiện
Khối lớp
1
.000
Gửi tin nhắn đe dọa hoặc xúc phạm qua hộp thư điện tử (email), SMS... hoặc trên những trang mạng có liên quan.
.515
2
3
.001
Tìm cách loại bỏ một người ra khỏi nhóm trực tuyến hay không cho người đó biết hoặc tham gia vào nhóm trên mạng (danh sách bạn bè, diễn đàn, hội...). Viết, đăng những tin đồn, chuyện xấu về một người trên các trang mạng xã hội, diễn đàn... hoặc gửi đường dẫn (link) cho người khác đọc.
4
.051
Để lại bình luận mang tính chế giễu, nói xấu, chê bai... trên bài đăng của một người.
5
.164
Tạo một cuộc bầu chọn hoặc tính điểm công khai trên mạng về những khiếm khuyết của
6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7
Lựa chọn (%) Phân vân 6.3 9.6 17.6 17.2 49.4 50.6 54.1 51.7 11.4 13.3 18.8 10.3 22.8 22.9 32.9 32.9 46.8 37.3
Không đồng ý 31.6 18.1 4.7 6.9 39.2 32.5 29.4 26.4 35.4 25.3 9.4 14.9 36.7 25.3 16.5 19.5 35.4 31.3
Đồng ý 62.0 72.3 77.6 75.9 11.4 16.9 16.5 21.8 53.2 61.4 71.8 74.7 40.5 51.8 50.6 50.6 17.7 31.3
69
6
.662
8 9 6 7 8
32.9 31.1 30.4 28.9 20.0
35.3 31.0 31.6 26.5 34.1
31.8 37.9 38.0 44.6 45.9
9
23.0
29.9
47.1
một người như chọn ra người xấu xí nhất, người kém thông minh nhất... Đăng những thông tin liên lạc cá nhân (địa chỉ email, số điện thoại, tài khoản cá nhân...) trên các trang web phổ biến để người đó phải nhận các thư rác hoặc sự liên lạc (quấy rối) của những người lạ...
7
.000
Tìm cách lấy tài khoản email, mạng xã hội và phát tán (lan truyền) những bí mật của một người cho mọi người đọc.
8
.006
Giả danh một người gửi tin nhắn, email hoặc đăng bài trên các trang mạng xã hội, diễn đàn... để nói những điều không đúng sự thật.
9
.026
Ghép/chế ảnh và đưa lên mạng để gây xấu hổ cho một người.
.317
10
Tìm cách tố cáo hoặc chứng minh để một người bị giám sát, kiểm duyệt hoặc có thể bị loại trừ trên các dịch vụ web.
6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9
40.5 26.5 18.8 13.8 44.3 27.7 16.5 24.1 38.0 26.5 16.5 21.8 32.9 32.6 27.0 19.5
21.5 14.5 10.6 20.7 22.8 26.5 27.1 23.0 26.6 26.5 25.9 20.7 41.8 33.7 42.4 49.4
38.0 59.0 70.6 65.5 32.9 45.8 56.5 52.9 35.4 47.0 57.6 57.5 25.3 33.7 30.6 31.0
Nhìn chung, khoảng hơn một phần hai học sinh khối lớp 8, lớp 9 có nhận thức
cao về các khía cạnh tổng quan về BNTT, còn khối lớp 6, lớp 7 chỉ đạt mức dưới 50%
(bảng 5). Tuy nhiên, quan sát bảng 13 ta thấy có một vài biểu hiện của BNTT mà các
em học sinh vẫn chưa xác định được khi tỉ lệ lựa chọn “Đồng ý” dưới 50% ở cả 4 khối
lớp, cụ thể là biểu hiện “Tạo một cuộc bầu chọn hoặc tính điểm công khai trên mạng về
những khiếm khuyết của một người như chọn ra người xấu xí nhất, người kém thông
minh nhất...” hay “Đăng những thông tin liên lạc cá nhân (địa chỉ email, số điện thoại,
tài khoản cá nhân...) trên các trang web phổ biến để người đó phải nhận các thư rác hoặc
sự liên lạc (quấy rối) của những người lạ...”; riêng hai biểu hiện “Tìm cách loại bỏ một
người ra khỏi nhóm trực tuyến hay không cho người đó biết hoặc tham gia vào nhóm
trên mạng (danh sách bạn bè, diễn đàn, hội...)” và “Tìm cách tố cáo hoặc chứng minh
để một người bị giám sát, kiểm duyệt hoặc có thể bị loại trừ trên các dịch vụ web” chỉ
có khoảng một phần ba học sinh ở các khối lớp xác định đúng chúng là biểu hiện của
BNTT.
Kết quả kiểm nghiệm Chi – bình phương kiểm tra sự khác biệt ý nghĩa giữa các
70
khối lớp về mức độ nhận thức biểu hiện của BNTT với sig = 0.004 < 0.05, cho phép kết
luận có sự khác biệt ý nghĩa giữa học sinh lớp 6, lớp 7, lớp 8 và lớp 9 về kết quả nhận
thức biểu hiện của BNTT, cụ thể:
Có sự khác biệt ý nghĩa trong nhận thức về biểu hiện “Gửi tin nhắn đe dọa hoặc
xúc phạm qua hộp thư điện tử (email), SMS... hoặc trên những trang mạng có liên quan”
với sig = 0.00 < 0.05, tỉ lệ học sinh lớp 6 cho rằng đây không phải là biểu hiện của BNTT
chiếm tỉ lệ cao nhất là 31.6%. Trong khi khối lớp 8 có tỉ lệ đồng ý cao nhất là 77.6%, kế
đến là khối lớp 9, lớp 7 với tỉ lệ lần lượt là 75.9% và 72.3%.
Kiểm nghiệm Chi – bình phương cho thấy sự khác biệt ý nghĩa giữa các khối lớp
về nhận thức trong biểu hiện “Viết, đăng những tin đồn, chuyện xấu về một người trên
các trang mạng xã hội, diễn đàn... hoặc gửi đường dẫn (link) cho người khác đọc” với
sig = 0.001 < 0.05, các lớp càng lớn càng nhận thức đúng và đầy đủ hơn, cụ thể tỉ lệ
chọn “Đồng ý” của các khối lớp đối với biểu hiện này lần lượt là 53.2%, 61.4%, 71.8%,
74.7%.
Biểu hiện “Tìm cách lấy tài khoản email, mạng xã hội và phát tán (lan truyền)
những bí mật của một người cho mọi người đọc” có sự khác biệt ý nghĩa giữa các khối
lớp (sig = 0.00 < 0.05), có 38.0% học sinh khối lớp 6 lựa chọn “Không đồng ý” ở biểu
hiện này, trong khi đó khối lớp 9, lớp 8 có tỉ lệ “Đồng ý” khá cao với biểu hiện này, tỉ
lệ lần lượt là 65.5% và 70.6%.
Với sig = 0.006 < 0.05 có sự khác biệt ý nghĩa về nhận thức biểu hiện “Giả danh
một người gửi tin nhắn, email hoặc đăng bài trên các trang mạng xã hội, diễn đàn... để
nói những điều không đúng sự thật” giữa các khối lớp, khối lớp 9, lớp 8 có nhận thức
đúng và đầy đủ về biểu hiện này hơn so với học sinh khối lớp 6, lớp 7. Tương tự, biểu
hiện “Ghép/chế ảnh và đưa lên mạng để gây xấu hổ cho một người” (sig = 0.026 < 0.05)
cũng có sự khác biệt ý nghĩa giữa các khối lớp trong nhận thức về biểu hiện của BNTT
này, ở khối lớp 8, lớp 9 có tỉ lệ chọn “Đồng ý” cao hơn cao hơn 7, lớp 6, tỉ lệ lần lượt là
57.6%, 57,5%, 47.0%, 35.4%.
c. Nhận thức về cách ứng phó với BNTT của học sinh THCS trên phương diện khối lớp
Nhìn chung nhận thức về ứng phó tức thời với BNTT giữa 4 khối lớp phần lớn
nằm ở mức độ có phần đúng nhưng chưa đầy đủ, chiếm tỉ lệ từ 93% - 96% (bảng 5).
Các em vẫn chưa nhận biết được hoàn toàn đâu là những cách ứng phó có tính bền vững 71
lâu dài, đâu là những cách giải quyết thiếu tính bền vững vì có khả năng dẫn đến những
hệ quả leo thang hoặc các nguy cơ phát sinh sau đó. Cụ thể, đối với cách ứng phó thiếu
tính bền vững “Chặn tài khoản để người bắt nạt không thể liên lạc được”, được các em
học sinh khối lớp 7 lựa chọn nhiều nhất trong số các cách ứng phó đưa ra, kế tiếp là khối
lớp 8 với số lượng lựa chọn xếp thứ 2. Ngoài ra, các học sinh ở 4 khối lớp cũng có xu
hướng lựa chọn những cách ứng phó có sự trợ giúp từ phía bên ngoài. Cụ thể, cách ứng
phó được các em học sinh lựa chọn nhiều nhất là “Kể cho cha mẹ biết để tìm cách ngăn
chặn”, “Tìm lời khuyên từ bạn bè/người lớn” cũng nằm trong nhóm 3 lựa chọn được
xếp hạng cao nhất. Đây là những cách ứng phó có tính bền vững.
Kết quả kiểm nghiệm Chi – bình phương cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa
giữa các khối lớp trong việc nhận thức về các cách ứng phó tức thời khi BNTT xảy ra.
Bảng 19: Xếp hạng lựa chọn các ứng phó tức thời với BNTT của học sinh THCS trên phương diện khối lớp
Nội dung
Phớt lờ, không quan tâm đến tình huống bắt nạt
Xóa tin nhắn, xóa tên người bắt nạt ra khỏi danh sách liên lạc.
Chặn tài khoản để người bắt nạt không thể liên lạc được.
Lưu lại bằng chứng của việc bắt nạt để trả thù sau này.
Kể cho cha mẹ biết để tìm cách ngăn chặn.
Tìm lời khuyên từ bạn bè/người lớn.
Khối lớp 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6
Tần số 28 22 28 30 48 47 50 47 51 62 69 62 9 12 11 9 59 69 67 73 54 61 62 69 53
Tỉ lệ 6.3 4.5 5.7 5.8 10.8 9.6 10.3 9.1 11.5 12.7 14.2 12.1 2.0 2.5 2.3 1.8 13.3 14.1 13.8 14.2 12.2 12.5 12.7 13.4 11.9
Xếp hạng 8 9 8 8 7 7 7 7 6 2 1 5 10 10 10 10 1 1 2 1 3 3 3 2 5
72
Thông báo cho giáo viên để tìm cách ngăn chặn
Làm điều tương tự với người đó qua mạng hoặc qua điện thoại
Tìm lời khuyên trên mạng
Làm điều gì đó tương tự với người bắt nạt trong cuộc sống thực
Báo công an hoặc các cơ quan có liên quan
Thông báo cho nhà quản lý mạng
7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9
59 58 68 5 4 6 1 20 31 20 29 5 4 4 2 54 61 60 65 58 57 52 59
12.1 11.9 13.2 1.1 0.8 1.2 0.2 4.5 6.3 4.1 5.6 1.1 0.8 0.8 0.4 12.2 12.5 12.3 12.6 13.1 11.7 10.7 11.5
5 5 3 11 11 11 12 9 8 9 9 11 11 12 11 3 3 4 4 2 6 6 6
Đối với ứng phó phòng ngừa với BNTT, khoảng gần một phần ba học sinh khối
lớp 7, lớp 9 có nhận thức đúng, đầy đủ với tỉ lệ cao nhất là khối lớp 7 với 33.7%, tiếp
đến là khối lớp 9 với 28.7% và tỉ lệ này chỉ đạt 21.2% và 20.3% ở khối lớp 8 và lớp 6.
Gần hai phần ba học sinh các khối lớp nhận thức có phần đúng nhưng chưa đầy đủ, các
em chỉ xác định được từ 1 – 3 cách ứng phó phòng ngừa đúng. “Tăng cường các biện
pháp bảo mật (bảo vệ mật khẩu, giới hạn thông tin nhận dạng...)” là cách ứng phó giúp
ngăn chặn và tránh BNTT được các em học sinh từ cả 4 khối lớp lựa chọn nhiều nhất và
có rất ít các em cho rằng “Không có cách nào phòng tránh BNTT”, con số này chỉ chiếm
khoảng từ 1% - 5% tính theo từng khối lớp.
Kết quả kiểm nghiệm Chi – bình phương cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa
về mặt thống kê giữa các khối lớp trong việc nhận thức về các ứng phó phòng ngừa
những tình huống BNTT có thể xảy ra.
Bảng 20: Xếp hạng lựa chọn ứng phó phòng ngừa với BNTT của học sinh THCS trên
phương diện khối lớp
73
Nội dung Giải quyết các vấn đề mâu thuẫn bằng cách đối thoại Khối lớp 6 7 Tần số 32 41 Tỉ lệ 40.5 49.4 Xếp hạng 4 4
trực tiếp với thông điệp thiện chí Tăng cường các biện pháp bảo mật (bảo vệ mật khẩu, giới hạn thông tin nhận dạng...)
Nhận biết và tránh tiếp xúc với các trang web không an toàn.
Tăng cường nhận thức về các tình huống nguy hiểm, các sự cố liên quan đến BNTT.
Không có cách nào phòng tránh BNTT 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 6 7 8 9 38 46 59 63 75 67 57 64 58 57 49 59 60 59 1 3 2 4 44.7 52.9 74.7 79.4 88.2 77.0 72.2 77.1 68.2 65.5 62 68.7 70.6 67.8 1.3 3.6 2.4 4.6 4 4 1 1 1 1 2 2 3 3 3 3 2 2 5 5 5 5
2.3. Những biện pháp nâng cao nhận thức của học sinh về BNTT
Khảo sát về mức độ cần thiết của việc nâng cao nhận thức về BNTT ở học sinh
THCS, có 96.7% học sinh THCS có biết về BNTT cho rằng nâng cao hiểu biết về BNTT
là điều cần thiết và chỉ có 3.3% học sinh còn lại lựa chọn đó là việc không cần thiết.
Mặc dù đây là hình thức bắt nạt còn khá mới và chưa được phổ biến nhiều trong môi
trường học đường, nhưng theo cô M, giáo viên tại trường THCS Hùng Vương cho biết
học sinh quan tâm đến hiện tượng này khá nhiều.
Bảng 21: Kết quả nhận thức về mức độ cần thiết trong việc nâng cao hiểu biết
về BNTT ở học sinh THCS TP.HCM
Mức độ Tần số Tỷ lệ %
Rất cần thiết 229 68.6
Cần thiết 94 28.1
Không cần thiết 11 3.3
Bảng 22: Xếp hạng lựa chọn các biện pháp nâng cao nhận thức về BNTT của
học sinh THCS TP.HCM
Nội dung
Tần số
Tỉ lệ
Xếp hạng
74
237
18.1
1
150
11.4
5
167
12.6
4
167
12.7
3
75
5.7
9
109
8.3
6
99
7.5
8
108
8.2
7
2
202
15.4
Tham gia các chuyên đề tâm lý do trường tổ chức, đặc biệt là các chuyên đề liên quan đến BNTT. Chia sẻ những kiến thức về BNTT với bạn bè. Vận dụng các kiến thức về BNTT trong các môn học như Giáo dục công dân, Ngữ văn... Tìm hiểu, theo dõi những thông tin về BNTT trên các phương tiện truyền thông. Tìm hiểu những thông tin về BNTT thông qua việc hỏi bạn bè. Tìm hiểu những thông tin về BNTT thông qua việc hỏi gia đình. Tìm hiểu những thông tin về BNTT thông qua việc hỏi thầy cô. Phát động và tổ chức các hoạt động tuyên truyền về BNTT ở các buổi sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ. Tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ có hoạt động tuyên truyền về BNTT.
Quan sát bảng 22 nhận thấy “Tham gia các chuyên đề tâm lý do trường tổ chức,
đặc biệt là các chuyên đề liên quan đến BNTT” là biện pháp nâng cao nhận thức về
BNTT được học sinh THCS lựa chọn nhiều nhất, tiếp theo sau lần lượt là các biện pháp
“Tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ có hoạt động tuyên truyền
về BNTT”, “Tìm hiểu, theo dõi những thông tin về BNTT trên các phương tiện truyền
thông” và “Vận dụng các kiến thức về BNTT trong các môn học như Giáo dục công
dân, Ngữ văn...”. Trong những biện pháp được lựa chọn nhiều nhất này có thể thấy học
sinh THCS nhận thức được rằng việc nâng cao hiểu biết về BNTT không chỉ là trách
nhiệm thuộc về nhà trường mà bản thân các em cũng phải tự trao dồi kiến thức về BNTT
75
cho mình.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Qua khảo sát thực trạng nhận thức về BNTT của 433 học sinh THCS TP.HCM,
người nghiên cứu ghi nhận được kết quả như sau:
Khát quát chung về nhận thức của học sinh THCS TP.HCM đối với BNTT cho
thấy một bộ phận không nhỏ học sinh THCS chưa có nhận thức về BNTT khi các em
chưa từng nghe qua về hiện tượng BNTT. Đây là nhóm cần sớm được quan tâm và có
những biện pháp giáo dục nhận thức phù hợp nhằm hạn chế những nguy cơ có thể xảy
ra từ việc thiếu kiến thức.
Về các khía cạnh tổng quan về BNTT, phần lớn học sinh THCS có những hiểu
biết nhất định về hiện tượng BNTT, tuy nhiên sự hiểu biết này có sự khác nhau giữa các
khối lớp, khối lớp càng lớn càng có nhận thức cao hơn, riêng phương diện giới tính,
nhận thức về một vài khía cạnh của BNTT có sự khác biệt ý nghĩa giữa nam và nữ.
Đúng như giả thuyết nghiên cứu của đề tài, có sự khác biệt ý nghĩa trong nhận
thức về các biểu hiện của BNTT ở nam và nữ, học sinh nữ có nhận thức cao hơn học
sinh nam. Và sự khác biệt ý nghĩa này cũng được tìm thấy giữa học sinh ở các khối lớp,
học sinh khối lớp 8, lớp 9 có nhận thức cao hơn về các biểu hiện của BNTT so với học
sinh khối lớp 6, lớp 7.
Đối với ứng phó với BNTT, nhìn chung học sinh THCS nhận thức có phần đúng
nhưng chưa thật sự đầy đủ. Về cả học sinh nam và nữ, học sinh từ khối lớp 6 đến khối
lớp 9 vẫn chưa nhận thức về các cách ứng phó với BNTT một cách đầy đủ. Trong nhận
thức ứng phó tức thời với BNTT, các em chỉ xác định được một vài cách ứng phó bền
vững mà người nghiên cứu đưa ra hoặc đồng thời nhầm lẫn với những cách ứng mang
tính kém bền vững hơn. Còn với những ứng phó phòng ngừa giúp tránh và ngăn chặn
các tình huống BNTT có thể xảy ra, phần lớn các em cũng không nhận diện được đầy
đủ tất cả các ứng phó phòng ngừa đúng.
Mặc dù kết quả thống kê không tương ứng với giả thuyết nghiên cứu đã đưa ra
khi không có sự khác biệt ý nghĩa trong nhận thức về cách ứng phó với BNTT giữa học
sinh khối lớp 6 và khối lớp 9, nhưng qua kết quả phân tích nhận thức về BNTT của học
sinh THCS TP.HCM trên hai phương diện giới tính và khối lớp có thể thấy các em học
sinh có những hiểu biết nhất định về BNTT, đặc biệt là về các khía cạnh tổng quan, biểu
76
hiện cũng như phần nào về những cách ứng khó phòng ngừa với BNTT, tuy nhiên khi
đặt các em trong tình huống có BNTT xảy ra, các em thường chọn những cách ứng phó
thiếu tính bền vững. Điều này cho thấy sự thiếu hụt về kỹ năng ứng phó, đặc biệt là
những kỹ năng về quản lý cảm xúc khi có tình huống BNTT xảy ra. Vì vậy, khi chính
bản thân các em trở thành nạn nhân của BNTT, các em có thể không đủ tỉnh táo và bình
tĩnh để đưa ra một chiến lược phù hợp để chấm dứt và tránh sự leo thang của BNTT từ
đó giảm thiểu sự thương tổn về mặt tinh thần ở mức thấp nhất.
Về biện pháp nâng cao nhận thức về BNTT cho học sinh THCS, hầu hết các em
đều có nhu cầu tìm hiểu và trao dồi cũng kiến thức về BNTT. “Tham gia các chuyên đề
tâm lý do trường tổ chức, đặc biệt là các chuyên đề liên quan đến BNTT” và “Tham gia
các buổi sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ có hoạt động tuyên truyền về BNTT”
77
là những biện pháp được các em học sinh lựa chọn nhiều nhất.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Dựa trên toàn bộ kết quả nghiên cứu lý luận, thực trạng của đề tài, chúng tôi rút
ra một vài kết luận như sau:
1. Tại Việt Nam đã có một vài công trình nghiên cứu về vấn đề BNTT và một số
yếu tố liên quan đến BNTT, tuy nhiên có rất hiếm những nghiên cứu của ngành tâm lý
học về BNTT ở học sinh THCS – lứa tuổi có những biến đổi về cả sinh lý lẫn tâm lý. Vì
vậy, việc nghiên cứu về khía cạnh nhận thức về BNTT ở học sinh THCS là điều cần
thiết, thông qua đó có những biện pháp tác động thích hợp nhằm nâng cao nhận thức
cho học sinh, góp phần phòng ngừa các vấn đề liên quan đến BNTT.
2. Lý luận về BNTT được trình bày qua các nội dung bao gồm khái niệm, phân
loại, biểu hiện, ảnh hưởng của BNTT và cách ứng phó với BNTT. Do điều kiện có hạn,
đề tài tập trung nghiên cứu nhận thức về BNTT của học sinh THCS trên những khía
cạnh tổng quan về BNTT, biểu hiện cũng như cách ứng phó với BNTT, từ đó đưa ra
những biện pháp nâng cao nhận thức về BNTT cho học sinh.
3. Nhận thức ở mức độ cao về các khía cạnh tổng quan về BNTT là hiểu rõ các
bản chất đặc trưng thuộc về BNTT. Bản chất của BNTT là hành vi gây hấn cố ý, lặp đi
lặp lại thực hiện bằng cách sử dụng các hình thức liên lạc điện tử, các tiện ích và ứng
dụng trên Internet nhằm làm tổn thương tinh thần và tâm lý của nạn nhân. BNTT rất khó
thoát khỏi, trở nên nguy hiểm và khó kiểm soát khi có thể được thực hiện dưới hình thức
ẩn danh, nạn nhân không biết thủ phạm là ai và có khả năng lôi kéo rất đông người tham
gia vào hành động này. Về biểu hiện của BNTT, học sinh có nhận thức ở mức cao khi
có thể nhận biết được 10 biểu hiện về BNTT mà người nghiên cứu đưa ra. Đối với cách
ứng phó với BNTT, biểu hiện của nhận thức đúng và đầy đủ là khi học sinh có thể xác
định được tất cả các cách ứng phó tức thời có tính bền vững và cách ứng phó phòng
ngừa đúng.
4. Học sinh THCS TP.HCM trong đề tài có nhận thức nhất định về các khía cạnh
tổng quan thuộc về bản chất của BNTT, biểu hiện cũng như các cách ứng phó làm giảm
khả năng BNTT có thể xảy ra. Tuy nhiên trong cách ứng phó với BNTT, học sinh THCS
TP.HCM chỉ nhận thức ở mức có phần đúng nhưng chưa đầy đủ, đặc biệt là trong ứng
phó tức thời khi có tình huống BNTT, các em vẫn còn nhầm lẫn với những cách ứng 78
phó kém bền vững hoặc đồng thời chỉ xác định được một vài cách ứng phó tức thời
mang tính bền vững. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ học sinh THCS vẫn chưa có
nhận thức về BNTT.
5. Về nguồn cung cấp thông tin về BNTT, vì còn là hình thức bắt nạt còn khá
mới, BNTT vẫn chưa được chú trọng và quan tâm trong trường học, các em học sinh
chủ yếu tự tìm hiểu những thông tin về BNTT thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng hoặc trên mạng Internet. Vì vậy, đối với việc nâng cao nhận thức về BNTT cho
học sinh THCS nói chung và học sinh THCS TP.HCM nói riêng, nhà trường cần thường
xuyên tổ chức các chuyên đề tâm lý, đặc biệt là các chuyên đề liên quan đến BNTT và
có sự lồng ghép các kiến thức về BNTT trong các môn học như ngữ văn, giáo dục công
dân... Đây là những biện pháp đạt sự chọn lựa cao ở học sinh.
Kiến nghị
Dựa và toàn bộ kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng của đề tài cũng như việc
lấy ý kiến từ BGH, GVCN, CVTL từ các trường THCS TP.HCM, chúng tôi trình bày
một vài kiến nghị như sau nhằm góp phần nâng cao nhận thức về BNTT cũng như hướng
đến lợi ích cao hơn là phòng ngừa các nguy cơ gặp phải các tình huống BNTT ở học
sinh THCS TP.HCM nói riêng và học sinh THCS nói chung:
1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Đưa nội dung về bắt nạt, BNTT, giáo dục kỹ năng sống vào chương trình
học và giảng dạy hiệu quả.
- Từng bước xây dựng phòng tham vấn học đường cho tất cả các trường
THCS.
- Tổ chức biên soạn các tài liệu, sổ tay đơn giản, dễ hiểu về bắt nạt nói
chung cũng như hình thức BNTT nói riêng để kiến thức về BNTT có thể đến gần học
sinh, phụ huynh và giáo viên hơn.
2. Đối với BGH
- Tổ chức các chuyên đề, hoạt động tuyên truyền và phổ biến kiến thức liên
quan đến BNTT.
- Lồng ghép các chuyên đề, nội dung về BNTT trong các môn học, hoạt
79
động ngoài giờ lên lớp.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, hội PHHS cũng như chuyên viên
tâm lý trao đổi kiến thức liên quan đến BNTT cho thầy cô và phụ huynh.
- Đưa các kiến thức về BNTT vào các buổi sinh hoạt ngoại khóa thông qua
các hình thức như các cuộc thi, xem tranh ảnh,...
3. Đối với cán bộ Đoàn Đội
- Chủ động phát động những chương trình hành động như tổ chức các hội
thi, những cuộc vận động phòng chống BNTT trên quy mô rộng cho học sinh; đưa nội
dung về phòng chống BNTT vào sinh hoạt hè cho học sinh.
- Tạo các diễn đàn, sân chơi để các em được nâng cao hiểu biết về BNTT.
Đồng thời từ đây, các em có thể bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về xây dựng những chương
trình hỗ trợ phòng chống BNTT một cách hiệu quả.
4. Đối với CVTL
- Thực hiện tư vấn và giáo dục tâm lý cho học sinh bao gồm cả nạn nhận và
người thực hiện hình thức bắt nạt này.
- Bên cạnh nâng cao hiểu biết về BNTT cho học sinh, CVTL cần chú trọng
đến các kỹ năng ứng phó đối với BNTT dành cho học sinh, đặc biệt là các kỹ năng quản
lý về mặt cảm xúc để học sinh có thể bình tĩnh đối mặt và lựa chọn cách ứng phó phù
hợp từ đó tránh sự leo thang của tình huống BNTT.
5. Đối với giám thị
- Tìm hiểu, theo sát và ghi nhận các tình huống về BNTT có thể đang diễn
ra ở các em học sinh từ đó đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp.
- Có sự phối hợp chặt chẽ với GVCN trong việc giáo dục về BNTT cho học
sinh THCS.
6. Đối với GVCN
- Trao đổi, cung cấp những kiến thức về BNTT với học sinh.
- Có những biện pháp giáo dục phù hợp đối với những học sinh có hành vi
BNTT với người khác. Bên cạnh đó có sự phối hợp với phụ huynh trong việc nâng cao
nhận thức về BNTT cho học sinh cũng như có những hỗ trợ kịp thời đối với những học
sinh là nạn nhân của BNTT.
80
7. Đối với PHHS
- Chủ động tìm hiểu những kiến thức về BNTT, tham dự các buổi tọa đàm,
thảo luận, nói chuyện về BNTT để có kiến thức để hướng dẫn cho con.
- Phụ huynh thường xuyên lắng nghe, quan tâm, chia sẻ và chủ động hỏi
thăm về những điều diễn ra trong cuộc sống của con.
- Chú ý, theo dõi, hướng dẫn việc sử dụng Internet và giao tiếp của con với
người khác.
- Định hướng và nhắc nhở về những biểu hiện liên quan đến BNTT mà trẻ
có thể gặp phải.
- Cần có những cách ứng xử phù hợp và các biện pháp can thiệp có hiệu
quả khi trẻ có biểu hiện bị BNTT.
8. Đối với học sinh
- Bản thân mỗi học sinh phải có ý thức nâng cao hiểu biết về BNTT để có
thể dễ dàng giúp đỡ bản thân hoặc bạn bè của mình. Bên cạnh đó tìm hiểu các thông tin
về BNTT, cách thức phòng tránh và xử lý khi bị BNTT.
- Tham gia các hoạt động tuyên truyền, tìm hiểu về BNTT, đồng thời tuyên
truyền và nhắc nhở bạn bè xung quanh về các tác hại của BNTT.
- Nhận biết và tránh tiếp xúc với các trang web không an toàn. Tăng cường
bảo mật thông tin cá nhân đối với những diễn đàn, trang mạng xã hội... mà các em tham
gia.
- Tìm đến sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và các cơ quan có chuyên
81
môn khi gặp các vấn đề về BNTT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Huỳnh Văn Sơn và Lê Thị Hân (chủ biên), Trần Thị Thu Mai, Nguyễn Thị Uyên
Thi (2013), Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Đại học Sư phạm TP. HCM.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang (2004), Giáo
trình Tâm lý học đại cương, NXB Đại học Sư Phạm Hà Nội.
3. Nguyễn Xuân Thức (chủ biên – 2006), Tâm lý học đại cương, NXB Đại học Sư
phạm Hà Nội.
4. Lý Minh Tiên và Nguyễn Thị Tứ (chủ biên), Bùi Hồng Hà, Huỳnh Lâm Anh
Chương (2016), Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học Sư phạm, NXB Đại học Sư phạm
TP. HCM.
5. Vũ Dũng (chủ biên – 2012), Từ điển thuật ngữ Tâm lý học, NXB Từ điển Bách
khoa.
6. Trần Lý Ngọc Thanh (2015), Thực trạng nhận thức về sức khỏe tâm thần của học
sinh ở một số trường THCS tại thành phố Hồ Chí Minh, khóa luận tốt nghiệp, trường
Đại học Sư phạm TP. HCM.
7. Đoàn Bắc Việt Trân (2012), Nhận thức, thái độ về an toàn tình dục của nữ thanh
niên công nhân khu công nghiệp Sóng Thần tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ Tâm lý
học, trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
8. Trần Văn Công, Nguyễn Phương Hồng Ngọc, Ngô Thùy Dương, Nguyễn Thị
Thắm (2015), “Xây dựng thang đo BNTT cho học sinh Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học cán bộ trẻ các trường đại học Sư phạm toàn quốc lần thứ V, tr 537 – 548, Nxb Giáo
dục Việt Nam.
9. Trần Văn Công, Nguyễn Phương Hồng Ngọc, Ngô Thùy Dương, Nguyễn Thị
Thắm (2015) “Chiến lược ứng phó của học sinh với BNTT”, Tạp chí khoa học
82
ĐHQGHN, tập 31, (3), tr 11 – 24.
10. Nguyễn Thanh Thoảng (2017), Bị BNTT và các yếu tố liên quan ở học sinh
trường trung học phổ thông Đức Huệ tỉnh Long An, Khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ Y học
Dự phòng, Trường Đại học Y Dược TP.HCM.
11. Trần Văn Công, Bahr Weiss, David Cole (2009), “Bị bắt nạt bởi bạn cùng lứa và
mối liên hệ với nhận thức bản thân, trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông”, Tạp chí
Tâm lý học, số 11 (128), tr 11.
12. Phạm Thị Thu Ba, Trần Quỳnh Anh (2016), “Bắt nạt qua mạng ở học sinh trung
học phổ thông và một số yếu tố liên quan”, Tạp chí nghiên cứu Y học, 104 (6).
13. Nguyễn Thị Duyên (2012), Nghiên cứu mối liên hệ giữa đặc điểm nhân cách và
hiện tượng bắt nạt ở học sinh phổ thông trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận Văn Thạc sĩ
Tâm Lý học, trường Đại học Giáo dục.
14. Nguyễn Thị Nga (2011), Tìm hiểu hiện tượng bắt nạt ở học sinh phổ thông, Luận
văn Thạc sĩ tâm lý học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
15. Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học Phát triển, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Dương Thị Diệu Hoa (Chủ biên – 2008), Giáo trình Tâm lý học phát triển, NXB
Đại học Sư phạm.
17. Đinh Thảo Quyên (2013), Nhận thức của Giáo viên và Phụ huynh về Rối loạn lo
âu ở học sinh lớp Một tại một số trường Tiểu học TPHCM, Khóa luận tốt nghiệp đại
học, Trường ĐHSP TP.HCM.
18. Bùi Ngọc Oánh (2008), Tâm lý học giới tính và Giáo dục giới tính, NXB Giáo
Dục.
Tiếng Anh
19. Surabhi Negi (2016), “Perception of secondary school students about cyber
bullying”, Indian Journal of Educational Studies: An Interdisciplinary Journal, 3(1).
20. Furkan AYDIN, Tuncay AYAS, Mehmet Barış HORZUM (2015),
“Cyberbullying awareness scale: A validity and realiablity study”, Online Journal of
83
Technology Addiction & Cyberbullying, 2(2), 38 – 51.
21. Kris Varjas, PsyD Jasmaine Talley, Joel Meyers, PhD Leandra Parris, Med
Hayley Cutts, EdS (2010), “High school students’ perceptions of motivations for
cyberbullying: An exploratory study”, Western Journal of Emergency Medicine, 11(3).
22. Peter Smith, Jess Mahdavi, Manuel Carvalho, Neil Tippett (2006), “An
investigation into cyberbullying, its forms, awareness and impact, and the relationship
between age and gender in cyberbullying”, A Report to the Anti-Bullying Alliance.
https://www.staffsscb.org.uk
23. Leandra Parris, Kris Varjas, Joel Meyers, Hayley Cutts (2012), “High school
students’ perceptions of coping with cyberbullying”, Youth & Society, 44(2) 284–306.
24. Mark T. Rumfola (2008), Cyber-Bullying: Bullying in the 21st Century.
http://digitalcommons.brockport.edu/edc_these,s
25. Katja Machmutowa, Sonja Perrena, Fabio Sticcaa and Françoise D. Alsakerb
(2012), “Peer victimisation and depressive symptoms: can specific coping strategies
buffer the negative impact of cyber victimization”, Emotional and Behavioral
Difficulties, 17, 403 – 420.
26. CDC (2015), The relationship between bullying and suicide,
https://www.cdc.gov/violenceprevention/pdf/bullying-suicide-translation-final-a.pdf
Access on 17/04/2017.
27. Jutta Lindert (2017), “Cyber-bullying and it its impact on mental health”,
European Journal of Public Health, 27(3).
28. Niamh O’Brien và Tina Moules (2010), The impact of cyber-bullying on young
people’s mental health, Anglia Ruskin Unversity.
29. Bannink R, Broeren S, van de Looij-Jansen PM, de Waart FG và Raat H (2014),
Cyber and traditional bullying victimization as a risk factor for mental health problems
and suicidal ideation in adolescents.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/24718563
30. Sourander A (2010), “Psychosocial risk factors associated with cyberbullying
84
among adolescents: a population-based study”, Arch Gen Psychiatry, 67(7).
31. David Finkelhor, Kimberly J. Mitchell và Janis Wolak (2000), “Online
Victimization: A Report on the Nation’s Youth”, Crimes Against Children Research
Center, University of New Hampshire.
32. FHI (2016), Right from the Start in the Digital Age: Curricula Activities for
Teachers and Parents to Help Children Become Good Digital Citizens.
https://www.fhi360.org/
33. Tanya Beran and Qing Li (2005), “Cyber-Harassment: A Study of a New Method
for an Old Behavior”, Journal of Educational Computing Research, 32(3), 265 – 277.
34. Tanya Beran and Qing Li (2007), “The Relationship between Cyberbullying and
School Bullying”, Journal of Student Wellbeing, 1(2), 15 – 33.
35. Smith, P., Mahdavi, J., Carvalho, M., Tippett, N. (2005), An investigation into
cyberbullying, its forms, awareness and impact, and the relationship between age and
gender in cyberbullying, A Report to the Anti-Bullying Alliance, Goldsmiths College,
University of London.
36. Slonje, R. & Smith, P. K. (2008), “Cyberbullying: Another main type of
bullying?”, Scandinavian Journal of Psychology, 49, 147 – 154.
37. Mishna, Faye, Cook, Charlene, Gadalla, Tahany, Daciuk, Joanne, Solomon
(2010), “Cyber bullying behaviors among middle and high school students”, Steven
American Journal of Orthopsychiatry, 80(3), 362 – 374.
38. Hana Machackova, Alena Cerna, Anna Sevcikova, Lenka Dedkova, Kristian
Daneback (2013), “Effectiveness of coping strategies for victims of cyberbullying”,
Cyberpsychology: Journal of Psychosocial Research on Cyberspace, 7(3).
39. Veronika Šléglová, Alena Cerna (2011), “Cyberbullying in Adolescent Victims:
Perception and Coping”, Cyberpsychology: Journal of Psychosocial Research on
Cyberspace, 5(2).
40. Francine DeHue, Catherine Bolman, Trijntje Völlink (2008), "Cyberbullying:
Youngsters' experiences and parental perception", CyberPsychology & Behavior, 11 (2),
85
217 – 223.
41. Andrew Beringer (2011), Teacher’s Perceptions and Awareness of
Cyberbullying Among Middle School Students, Counselor Education Master's Teses,
The College at Brockport, State University of New York.
42. Melis Seray Ozdena, Serra Icellioglu (2014), “The perception of cyberbullying
and cybervictimization by university students in terms of their personality factors”,
Social and Behavioral Sciences, 116, 4379 – 4383.
43. Esther Calvete, Izaskun Orue, Ana Estévez, Lourdes Villardón (2010),
“Cyberbullying in adolescents: Modalities and aggressors’ profile”, Computers in
Human Behavior, 26, 1128–1135.
44. Yun-yin Huang, Chien Chou (2010), “An analysis of multiple factors of
cyberbullying among junior high school students in Taiwan”, Computers in Human
Behavior, 26, 1581–1590.
45. Kendall Moore (2015), Investigating Construct Validity of the Cyber – peer
Experiences Questionnaire, Master's thesis, University of South Carolina – Columbia.
46. Kris Doreen Mitzner (2011), Perceptions of Cyberbullying from Secondary
School Administrators in Texas, Ph.D. thesis, Texas A & M University.
47. Gustavo S. Mesch (2009), “Parental Mediation, Online Activities, and
Cyberbullying”, Cyberpsychology & Behavior, 12 (4).
48. Robin M. Kowalski, Gary W. Giumetti, Amber N. Schroeder, Micah R. Lattanner
(2014), “Bullying in the Digital Age: A Critical Review and Meta-Analysis of
Cyberbullying Research Among Youth”, Psychological Bulletin, 140 (4), 1073–1137.
49. Sora Park, Eun-Yeong Na, Eun-mee Kim (2014), “The relationship between
online activities, netiquette and cyberbullying”, Children and Youth Services Review,
42, 74 – 81.
50. Robert Slonje, Peter K Smith, Ann Frisén (2013), “The nature of cyberbullying,
and strategies for prevention”, Computers in Human Behavior, 29(1), 26 – 32.
86
Trang web
51. https://www.unicef.org/
52. https://www.fhi360.org/
53. stopbullying.gov
54. https://cyberpsychology.eu/
55. https://www.ncpc.org
56. http://tuoitre.vn/nguy-hiem-dang-so-tu-bat-nat-tren-mang-766965.htm
87
57. https://www.theravive.com/research/the-psychology-of-bullying
Dành cho học sinh
PHỤ LỤC 1
PHIẾU KHẢO SÁT
Xin chào các bạn,
Chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhận thức về bắt nạt
trực tuyến của học sinh THCS. Sự tham gia trả lời của các bạn cho những câu hỏi được
nêu ra trong phiếu khảo sát vô cùng giá trị với nghiên cứu của chúng tôi. Vì vậy rất
mong các bạn đọc kỹ và trả lời đầy đủ những ý hỏi được nêu ra trong phiếu.
Chúng tôi cam đoan những câu trả lời của các bạn chỉ nhằm phục vụ cho mục
đích nghiên cứu, không dùng để đánh giá các bạn và cũng không dùng vào bất kì việc
gì khác gây bất lợi đến các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
A. THÔNG TIN CÁ NHÂN
Bạn vui lòng cho biết một số thông tin dưới đây:
1. Bạn đang học lớp: (cid:0) 1. Lớp 6 (cid:0) 2. Lớp 7 (cid:0) 3. Lớp 8 (cid:0) 4. Lớp 9
2. Giới tính: (cid:0) 1. Nữ (cid:0) 2. Nam
3. Xếp loại học lực trong học kì gần nhất:
(cid:0) 1. Giỏi
(cid:0) 4. Yếu
(cid:0) 2. Khá
(cid:0) 5. Kém
(cid:0) 3. Trung bình
5. Xếp loại hạnh kiểm trong học kỳ gần nhất:
(cid:0) 1. Tốt
(cid:0) 3. Trung bình
(cid:0) 2. Khá
(cid:0) 4. Yếu
6. Thời gian vào mạng:
1. Không sử dụng mạng
2. Ít hơn 2 giờ/ ngày
3. Từ 2 giờ/ ngày trở lên
B. NỘI DUNG KHẢO SÁT
Câu 1: Bạn có biết hoặc nghe nói về hiện tượng bắt nạt trực tuyến (còn gọi là bắt nạt
trên mạng, quấy rối trên mạng)?
(cid:0) 1. Biết rõ
(cid:0) 2. Biết chút ít
(cid:0) 3. Không biết/Chưa từng nghe nói
(Nếu trả lời Biết rõ hoặc Biết chút ít, mời trả lời tiếp từ câu 2 trở đi.
Nếu trả lời Không biết, mời trả lời tiếp từ câu 3 trở đi)
Câu 2: Bạn biết về hiện tượng bắt nạt trực tuyến thông qua:
(có thể chọn nhiều đáp án)
(cid:0) 1. Mạng Internet (mạng xã hội, diễn đàn...)
(cid:0) 2. Chương trình truyền hình
(cid:0) 3. Báo (báo giấy, báo mạng), tạp chí
(cid:0) 4. Bạn bè
(cid:0) 5. Gia đình
(cid:0) 6. Thầy, cô giáo
(cid:0) 7. Bảng tin trường
(cid:0) 8. Chuyên đề do trường tổ chức
9. Khác, ghi
(cid:0)
rõ:
.....................................................................................................................................
Câu 3: Bạn có biết ai đó đã từng bị bắt nạt trực tuyến?
(cid:0) 1. Có biết
(cid:0) 2. Không biết
Câu 4: Hãy cho biết ý kiến của bạn với những nhận định sau đây về hiện tượng bắt
nạt trực tuyến?
(Vui lòng đánh dấu X một ô mức độ thích hợp cho từng phát biểu sau.
Lưu ý trả lời đầy đủ các ý hỏi được nêu ra, không bỏ qua dòng nào)
Mức độ
Các khía cạnh tổng quan Không Phân Đồng
đồng ý vân ý
1. Là một hình thức của bắt nạt xảy ra thông qua việc sử
dụng công nghệ liên lạc điện tử, mạng Internet để làm
nhục, hăm dọa, quấy rối, phỉ báng ai đó.
2. Xảy ra một cách dễ dàng, bất cứ khi nào, dù ngày hay
đêm.
3. Có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào (nhà, trường học...) và
khó kiểm soát.
4. Có thể xảy ra dưới hình thức ẩn danh, nạn nhân không
biết được thủ phạm là ai.
5. Có khả năng lôi kéo rất đông người tham gia hành động
này.
6. Là một phần rất khó thoát khỏi của thế giới trực tuyến.
Câu 5: Hãy cho biết đâu là những biểu hiện của hiện tượng bắt nạt trực tuyến:
(Vui lòng đánh dấu X một ô mức độ thích hợp cho từng phát biểu sau.
Lưu ý trả lời đầy đủ các ý hỏi được nêu ra, không bỏ qua dòng nào)
Mức độ
Nội dung Không Phân Đồng
đồng ý vân ý
1. Gửi tin nhắn đe dọa hoặc xúc phạm qua hộp thư điện tử
(email), SMS... hoặc trên những trang mạng có liên quan.
2. Cố ý loại bỏ một người ra khỏi nhóm trực tuyến hay không
cho người đó biết hoặc tham gia vào nhóm trên mạng (danh
sách bạn bè, diễn đàn, hội...).
3. Viết, đăng những tin đồn, chuyện xấu về một người trên
các trang mạng xã hội, diễn đàn... hoặc gửi đường link cho
người khác đọc.
4. Để lại bình luận mang tính chế giễu, nói xấu, chê bai... trên
bài đăng của một người.
5. Tạo một cuộc bầu chọn hoặc tính điểm công khai trên mạng
về những khiếm khuyết của một người như chọn ra người xấu
xí nhất, người kém thông minh nhất...
6. Đăng những thông tin liên lạc cá nhân (địa chỉ email, số
điện thoại, tài khoản cá nhân...) trên các trang web phổ biến
để người đó phải nhận các thư rác hoặc sự liên lạc (quấy rối)
của những người lạ...
7. Tìm cách lấy tài khoản email, mạng xã hội và phát tán (lan
truyển) những bí mật của một người cho mọi người đọc.
8. Giả danh một người gửi tin nhắn, email hoặc đăng bài trên
các trang mạng xã hội, diễn đàn... để nói những điều không
đúng sự thật.
9. Ghép/ chế ảnh và đưa lên mạng để gây xấu hổ cho một
người.
10. Tìm cách tố cáo hoặc chứng minh để một người bị giám
sát, kiểm duyệt hoặc có thể bị loại trừ trên các dịch vụ web.
Câu 6: Theo bạn, so với bắt nạt ngoài đời thực, bắt nạt trực tuyến để lại hậu quả:
(cid:0) 1. Ít nguy hiểm hơn
(cid:0) 2. Cũng nguy hiểm tương tự
(cid:0) 3. Nhiều nguy hiểm hơn
Câu 7: Theo bạn, những cách ứng phó nào hiệu quả trong việc chấm dứt hoặc làm
giảm những hậu quả tiêu cực khi bị bắt nạt trực tuyến?
(có thể chọn nhiều đáp án)
(cid:0) 1. Phớt lờ, không quan tâm đến tình huống bắt nạt.
(cid:0) 2. Xóa tin nhắn, xóa tên người bắt nạt ra khỏi danh sách liên lạc.
(cid:0) 3. Chặn tài khoản để người bắt nạt không thể liên lạc được.
(cid:0) 4. Lưu lại bằng chứng của việc bắt nạt để trả thù sau này.
(cid:0) 5. Kể cho cha mẹ biết để tìm cách ngăn chặn.
(cid:0) 6. Tìm lời khuyên từ bạn bè/người lớn.
(cid:0) 7. Thông báo cho giáo viên để tìm cách ngăn chặn.
(cid:0) 8. Làm điều tương tự với người đó qua mạng hoặc qua điện thoại.
(cid:0) 9. Tìm lời khuyên trên mạng.
(cid:0) 10. Làm điều gì đó tương tự với người bắt nạt trong cuộc sống thực.
(cid:0) 11. Báo công an hoặc các cơ quan có liên quan.
(cid:0) 12. Thông báo cho nhà quản lý mạng.
Câu 8: Theo bạn, những cách phòng ngừa nào dưới đây giúp ngăn chặn và tránh
các tình huống bắt nạt trực tuyến có thể xảy ra?
(có thể chọn nhiều đáp án)
(cid:0) 1. Giải quyết các vấn đề mâu thuẫn bằng cách đối thoại trực tiếp với thông điệp
thiện chí.
(cid:0) 2. Tăng cường các biện pháp bảo mật (bảo vệ mật khẩu, giới hạn thông tin nhận
dạng...).
(cid:0) 3. Nhận biết và tránh tiếp xúc với các trang web không an toàn.
(cid:0) 4. Tăng cường nhận thức về các tình huống nguy hiểm, các sự cố liên quan đến
bắt nạt trực tuyến.
(cid:0) 5. Không có cách nào phòng tránh bắt nạt trực tuyến.
Câu 9: Theo bạn, việc nâng cao hiểu biết về bắt nạt trực tuyến là:
(cid:0) 1. Rất cần thiết
(cid:0) 2. Cần thiết
(cid:0) 3. Không cần thiết
Câu 10: Bạn chọn cách nào sau đây để giúp bản thân nâng cao hiểu biết về bắt nạt
trực tuyến? Chọn nhiều nhất 4 ý.
(cid:0) 1. Tham gia các chuyên đề tâm lý do trường tổ chức, đặc biệt là các chuyên đề
liên quan đến bắt nạt trực tuyến.
(cid:0) 2. Chia sẻ những kiến thức về bắt nạt trực tuyến với bạn bè.
(cid:0) 3. Vận dụng các kiến thức về bắt nạt trực tuyến trong các môn học như Giáo dục
công dân, Ngữ văn...
(cid:0) 4. Tìm hiểu, theo dõi những thông tin về bắt nạt trực tuyến trên các phương tiện
truyền thông.
(cid:0) 5. Tìm hiểu những thông tin về bắt nạt trực tuyến thông qua việc hỏi bạn bè.
(cid:0) 6. Tìm hiểu những thông tin về bắt nạt trực tuyến thông qua việc hỏi gia đình.
(cid:0) 7. Tìm hiểu những thông tin về bắt nạt trực tuyến thông qua việc hỏi thầy cô.
(cid:0) 8. Phát động và tổ chức các hoạt động tuyên truyền về bắt nạt trực tuyến ở các
buổi sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ.
(cid:0) 9. Tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ có hoạt động
tuyên truyền về bắt nạt trực tuyến.
Dành cho BGH, GVCN, CVTL PHỤ LỤC 2
PHIẾU LẤY Ý KIẾN
Xin chào các quý Thầy/Cô,
Chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu về nhận thức của học sinh trung học
cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh về hiện tượng bắt nạt trực tuyến. Với mong muốn kết
quả nghiên cứu đạt chất lượng và có giá trị, chúng tôi xin mời các quý Thầy/Cô tham
gia trả lời trên phiếu này. Mọi thông tin về người trả lời được giữ bí mật và nội dung trả
lời chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Rất mong được sự giúp đỡ từ quý Thầy/Cô. Xin chân thành cảm ơn !
A. Thông tin cá nhân
Quý Thầy/Cô xin vui lòng cho biết một số thông tin :
1. Họ và
tên :
...........................................................................................................................................
2. Đơn vị công tác hiện tại : .............................................................................................
3. Chức danh công tác : ..................................................................................................
B. Nội dung lấy ý kiến
Bắt nạt trực tuyến là hành động gây hấn cố ý, lặp đi lặp lại do một nhóm hoặc cá
nhân thực hiện thông qua việc sử dụng công nghệ liên lạc điện tử, mạng Internet để làm
xấu hổ, hăm dọa, quấy rối, phỉ báng ai đó một cách có chủ ý, lặp đi lặp lại. Nạn nhân
của bắt nạt trực tuyến thường rơi vào cảm xúc buồn bã, giận dữ, sợ hãi, lo lắng... đồng
thời có thể có những hành vi tiêu cực gây hại cho bản thân và người khác. Chẳng hạn
như một nữ sinh 13 tuổi đã treo cổ tự sát tại phòng ngủ vì nhận được những tin nhắn chê
bai về cân nặng của mình từ bạn bè, điều mà cô bé vẫn luôn mặc cảm về bản thân hay
một học sinh 15 tuổi phải chuyển trường khi ảnh khoe ngực của cô bị tung lên mạng và
những học sinh khác đã chia sẻ bức ảnh này.
Câu 1 : Quý Thầy/Cô đã từng nghe qua về hiện tượng bắt nạt trực tuyến (còn gọi
là bắt nạt trên mạng hay quấy rối trên mạng) ?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Nếu chưa từng nghe qua, quý Thầy/Cô có suy nghĩ và cảm nhận như thế nào về
95
hiện tượng bắt nạt này ?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Nếu đã nghe qua thì theo quý Thầy/Cô, hiện tượng bắt nạt trực tuyến xảy ra ở
học sinh nói chung đang nằm ở mức độ nào ?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Câu 2 : Theo quý Thầy/Cô, mức độ học sinh quan tâm về hiện tượng bắt nạt này là như
thế nào ?
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Câu 3 : Quý Thầy/Cô có ý định nâng cao nhận thức của học sinh về hiện tượng
bắt nạt trực tuyến ? Nếu có xin vui lòng cho biết về định hướng và cách thức thực hiện.
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................