ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

ĐỖ THỊ OANH

Tên chuyên đề:

THỰC HIỆN QUY TRÌNH NUÔI DƯỠNG, CHĂM SÓC VÀ PHÒNG

TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI ÐẺ VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI

NGUYỄN THANH LỊCH, XÃ BA TRẠI, HUYỆN BA VÌ, HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo: Chuyên ngành: Khoa: Khóa học: Chính quy Chăn nuôi Thú y Chăn nuôi Thú y 2015 - 2019

Thái Nguyên, năm 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

ĐỖ THỊ OANH

Tên chuyên đề:

THỰC HIỆN QUY TRÌNH NUÔI DƯỠNG, CHĂM SÓC VÀ PHÒNG

TRỊ BỆNH CHO LỢN NÁI ÐẺ VÀ LỢN CON THEO MẸ TẠI TRẠI

NGUYỄN THANH LỊCH, XÃ BA TRẠI, HUYỆN BA VÌ, HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chính quy Chăn nuôi Thú y K47 - CNTY MARPHA Chăn nuôi Thú y 2015 - 2019

Hệ đào tạo: Chuyên ngành: Lớp: Khoa: Khóa học: Giảng viên hướng dẫn: TS. Hà Văn Doanh

Thái Nguyên, năm 2019

i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập lý thuyết tại trường và thực tập tại cơ sở, nay

tôi đã hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp. Để hoàn thành được bản khoá

luận này, tôi đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, sự

giúp đỡ của Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Khoa Chăn nuôi Thú y,

và trại chăn nuôi lợn Nguyễn Thanh Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, Hà Nội.

Tôi cũng nhận được sự cộng tác nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp, sự giúp

đỡ, cổ vũ động viên của người thân trong gia đình. Để đáp lại tình cảm đó,

qua đây tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc và kính trọng tới tất cả các tập thể,

cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập.

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết tôi xin chân thành cảm

ơn các thầy cô giáo trong Khoa Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông lâm

Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.

Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ bảo và hướng dẫn

tận tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Hà Văn Doanh đã trực tiếp hướng dẫn

tôi thực hiện thành công khóa luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, công nhân tại trại lợn Nguyễn Thanh

Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình

thực hiện đề tài.

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, bạn bè đã luôn

ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019.

Sinh viên

Đỗ Thị Oanh

ii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Quy định khối lượng thức ăn chuồng lợn nái có chửa ................... 30

Bảng 3.2. Quy định khối lượng thức ăn chuồng đẻ ........................................ 32

Bảng 3.3. Lịch phòng bệnh áp dụng tại trại .................................................... 33

Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi của trại từ năm 2016 đến tháng 5/2018 ......... 35

Bảng 4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn .......... 36

Bảng 4.3. Kết quả thực hiện một số thao tác kỹ thuật trên đàn lợn con ......... 38

Bảng 4.4. Phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh, sát trùng tại trại .............. 39

Bảng 4.5. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn con nuôi tại trại .......................... 41

Bảng 4.6. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con ........................................... 42

Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái ............................................ 44

iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AD: Vắc xin giả dại

Circo: Tiêm vắc xin phòng virus Circo

CP: Charoen Pokphand

Cs.: Cộng sự

CS.F: Vắc xin dịch tả

FMD: Vắc xin lở mồm long móng

Myco: Tiêm vắc xin phòng viêm phổi

Nxb: Nhà xuất bản

Pavo: Vắc xin chống khô thai

Pavo (1): Tiêm nhắc lại vắc xin chống khô thai

PRRS: Vắc xin tai xanh

PRRS (1): Tiêm nhắc lại vắc xin tai xanh

SVF1: Tiêm vắc xin dịch tả lợn con

TT: Thể trọng

iv

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... 2

DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................. iii

MỤC LỤC ........................................................................................................ iv

Phần 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1

1.1. Đặt vấn đề .............................................................................................. 1

1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề ....................................................... 2

1.2.1. Mục tiêu ........................................................................................... 2

1.2.2. Yêu cầu ............................................................................................ 2

Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................. 3

2.1. Điều kiện cơ sở thực tập ........................................................................ 3

2.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................ 3

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trang trại ........................................................... 3

2.1.3. Cơ sở vật chất của trang trại ............................................................ 4

2.1.4. Thuận lợi và khó khăn của trại ........................................................ 7

2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong, ngoài nước có

liên quan đến nội dung của chuyên đề .......................................................... 7

2.2.1. Đối với lợn nái ................................................................................. 7

2.2.2. Đặc điểm sinh lý của lợn con ......................................................... 17

2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước .................................. 24

2.3.1. Các nghiên cứu trong nước ............................................................ 24

2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước .................................................. 26

Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN ...... 28

3.1. Đối tượng thực hiện ............................................................................. 28

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ........................................................... 28

3.3. Nội dung thực hiện ............................................................................... 28

v

3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện .................................. 28

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi ...................................................................... 28

3.4.2. Phương pháp theo dõi .................................................................... 29

3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu ............................................................. 34

Phần 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ........................................................ 35

4.1. Kết quả đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại ....................................... 35

4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nuôi tại trại ... 36

4.2.1. Kết quả thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nuôi tại trại36

4.2.2. Kết quả thực hiện một số thao tác kỹ thuật trên đàn lợn con tại trại ..... 38

4.3. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh cho đàn lợn .......................... 39

4.3.1. Phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh, sát trùng tại trại .............. 39

4.3.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại bằng thuốc và vắc xin ... 40

4.4. Kết quả thực hiện điều trị bệnh cho đàn lợn nuôi tại trại .................... 41

Phần 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................. 46

5.1. Kết luận ................................................................................................ 46

5.2. Đề nghị ................................................................................................. 46

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 48

1

Phần 1 MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Ngành chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong ngành chăn nuôi gia

súc ở các nước trên thế giới cũng như nước ta, vì đó là một nguồn cung cấp

thực phẩm với tỷ trọng cao và chất lượng tốt cho con người, là nguồn cung

cấp phân bón rất lớn cho ngành trồng trọt và là nguồn cung cấp các sản phẩm

phụ như da, mỡ… cho ngành công nghiệp chế biến. Theo Tổng cục Thống kê

Việt Nam, tổng số lợn của nước ta tính đến thời điểm 01/10/2018 là

28.151.948 (con) với tổng sản lượng thịt là 3.816.424 (tấn) chiếm 71,46%

tổng sản lượng thịt các loại trong ngành chăn nuôi.

Với vị trí quan trọng hàng đầu trong việc cung cấp thực phẩm cho

người dân, ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng đang được

Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và hướng đến phát triển bền vững.

Bên cạnh đó là việc áp dụng phương thức chăn nuôi theo hướng công nghiệp,

quy mô chăn nuôi lớn, áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng

tiên tiến, chế biến thức ăn với chất lượng cao, các loại thức ăn thay thế, thức

ăn bổ sung, phối hợp khẩu phần ăn có đầy đủ các chất dinh dưỡng.

Chính vì vai trò quan trọng đó, yêu cầu khoa học kỹ thuật, trình độ

chuyên môn trong chăn nuôi ngày càng trở nên cấp thiết. Thực hiện phương

châm ”Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn”, Trường Đại học

Nông lâm Thái Nguyên đã đưa các đợt thực tập tốt nghiệp tại cơ sở vào trong

chương trình học. Giai đoạn thực tập tốt nghiệp tại cơ sở trước khi ra trường

là rất quan trọng đối với mỗi sinh viên để củng cố và hệ thống lại toàn bộ

những kiến thức đã học, nâng cao tay nghề, đồng thời tạo cho mình sự tự lập,

lòng yêu nghề, có phong cách làm việc đúng đắn. Qua đó, chúng tôi nắm

được phương pháp tổ chức và tiến hành nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ

khoa học kỹ thuật vào sản xuất, khi ra trường trở thành một người cán bộ

2

khoa học có chuyên môn, đáp ứng nhu cầu thực tiễn, góp phần xứng đáng vào

sự nghiệp phát triển đất nước.

Xuất phát từ thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm Khoa

Chăn nuôi Thú y, trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, tôi tiến hành đề tài:

“Thực hiện quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc và phòng trị bệnh cho lợn nái

đẻ và lợn con theo mẹ tại trại Nguyễn Thanh Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba

Vì, Hà Nội”.

1.2. Mục tiêu và yêu cầu của chuyên đề

1.2.1. Mục tiêu

- Nắm được quy trình kỹ thuật trong nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn

nuôi tại trại Nguyễn Thanh Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, Hà Nội.

- Học được phương pháp phòng, trị bệnh cho lợn nái đẻ và lợn con theo

mẹ từ cán bộ kỹ thuật trại.

- Củng cố và nâng cao tay nghề; bồi dưỡng lòng yêu nghề và có thái độ

làm việc đúng đắn.

1.2.2. Yêu cầu

- Không ngại khó khăn, gian khổ, luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ

được giao.

- Theo dõi tỉ mỉ, làm việc cẩn trọng, có ý thức trách nhiệm cao.

- Ham học hỏi kiến thức từ cán bộ kỹ thuật, công nhân viên tại cơ sở,

tích lũy kinh nghiệm cho bản thân.

- Nắm vững kiến thức đã học, áp dụng vào thực tiễn sản xuất.

- Tuân thủ nội quy tại cơ sở, ý thức kỷ luật cao.

3

Phần 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Điều kiện cơ sở thực tập

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch thuộc thôn 6, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, Hà

Nội. Ba Trại là 1 trong 7 xã miền núi của huyện Ba Vì với diện tích khoảng

2017.4 ha, dân số toàn xã tính đến năm 2017 là 3.700 hộ gia đình với 14.681

nhân khẩu.

Ba Trai xưa thuộc huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây nay thuộc huyện Ba Vì,

Hà Nội. Nằm dưới chân núi Ba Vì, phía Đông giáp xã Tản Lĩnh, phía Bắc

giáp xã Cẩm Lĩnh, phía Tây giáp xã Thuần Mỹ. Xã nằm giữa hai con đường

Tỉnh lộ 87 Sơn Tây – Đá Chông và đường 88 Sơn Tây Bất Bạt. Đường 87 đi

qua xã từ phía Đông Nam qua các xóm Chằm Mè, Trung Sơn, tiếp giáp

đường 89 tại Đá Chông. Đường 89 chạy song song với Sông Đà qua địa phận

xã Thuần Mỹ. Đường 88 đi qua xã ở phía Bắc và cũng là ranh giới giữa Ba

Đặc điểm chung của Ba Trại bị chi phối bởi các yếu tố vĩ độ Bắc, cơ

Trại và Cẩm Lĩnh.

chế gió mùa, sự phối hợp giữa gió mùa và vĩ độ tạo nên khí hậu nhiệt đới ẩm

với mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ bình quân năm trong khu vực là 23,4 0C.

Nhìn chung địa hình của xã phần lớn là đồi gò, độ cao các quả đồi chênh nhau

từ 5 đến 20 mét, độ dốc không lớn. Diện tích ruộng có 730 mẫu bắc bộ phần

lớn là ruộng chằm, diện tích còn lại là đất đồi.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của trang trại

Cơ cấu tổ chức: gồm 3 nhóm

+ Nhóm quản lý: 01 chủ trại, 01 quản lý trại.

+ Nhóm cán bộ kỹ thuật: 02 kỹ sư.

+ Nhóm nhân viên: 02 tổ trưởng, 06 công nhân, 01 đầu bếp,

10 sinh viên thực tập.

4

2.1.3. Cơ sở vật chất của trang trại

Trang trại chăn nuôi Nguyễn Thanh Lịch nằm trên địa bàn xã Ba Trại,

huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Trại có diện tích đất là 2 ha, được xây dựng

cách xa với đường lớn, xa trường học và nơi ít dân cư sinh sống, bao quanh

trại chủ yếu là đồi cây và cách xa trại là cánh đồng lúa. Trại nằm trên địa hình

khá cao ráo dễ thoát nước vào mùa mưa nhiều. Xung quanh các chuồng nuôi

được trồng cây tạo bóng râm mát cho mùa hè.

Được thành lập và đi vào sản xuất từ năm 2010 với số vốn đầu tư lên

tới 18 tỷ đồng, trang trại chuyên nuôi lợn sinh sản cho công ty cổ phần chăn

nuôi CP Việt Nam (chi nhánh của Tập đoàn CP Thái Lan) cung cấp giống lợn

con của nái Landrace – Yorkshire với đực Pietrain – Duroc. Trại gồm 4 khu

chính: khu nhà ăn, ở cho công nhân, khu nhà để cám và kho thuốc, khu để

dụng cụ chăn nuôi và khu chăn nuôi. Khu chăn nuôi gồm 3 chuồng đẻ, 1 khu

chuồng bầu, 1 chuồng đực và 3 chuồng cách ly. Quy mô trại tính đến tháng 5

năm 2018 có 1086 lợn nái, 222 lợn nái hậu bị, 21 lợn đực khai thác. Lợn sau

khi sinh 18 đến 21 ngày thì được cai sữa. Mỗi năm trang trại cho xuất ra thị

trường khoảng 25.000 – 30.000 lợn con.

Khu chuồng bầu là nơi chăm sóc nuôi dưỡng những lợn nái đang mang

thai; khu chuồng đẻ là nơi chăm sóc lợn sắp đẻ từ chuồng bầu chuyển lên, là

nơi mà lợn nái thực hiện quá trình đẻ; khu còn lại là khu vực chuồng dành cho

lợn hậu bị mới nhập về và lợn nái loại thải.

Khu chuồng bầu gồm 7 dãy dành cho lợn nái mang thai và là chuồng có

diện tích lớn nhất, cách sắp xếp lợn trong chuồng đối với những lợn nái mang

thai ở các giai đoạn khác nhau được xếp vào những dãy khác nhau, lợn đực

phục vụ việc lấy tinh phối giống được xếp ở dãy trong cùng gần khu vực lấy

tinh, lợn nái cai sữa về được đưa về nơi chờ phối trong chuồng lợn nái có

chửa nhằm thuận tiện cho việc kiểm tra và lên giống. Một dãy trong cùng của

chuồng bầu là khu kiểm tra lợn động dục, khu phối, khu lấy tinh, cạnh khu lấy

5

tinh có phòng nhỏ để kiểm tra tinh được gọi là phòng tinh. Phòng tinh được

trang bị khá đầy đủ: kính hiển vi, tủ lạnh, nồi hấp dụng cụ, máy ép túi tinh,

nhiệt kế,… Chuồng được xây dựng đạt tiêu chuẩn của một chuồng kín với kết

cấu tất cả sàn chuồng đều được làm bằng bê tông, sàn cao hơn hẳn nền

chuồng giúp công việc vệ sinh, khử trùng được thuận tiện. Đầu chuồng bầu có

hệ thống giàn mát, cuối chuồng có hệ thống quạt thông gió với 8 quạt hoạt

động nhằm tạo sự thông thoáng cho chuồng, ngoài ra bên trong chuồng c ̣n

được trang bị đầy đủ hệ thống vòi nước tự động, máng ăn cho từng ô lợn nái

nhằm đảm bảo việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái mang thai đạt hiệu quả nhất.

Khu chuồng đẻ gồm 3 chuồng gần kề nhau được sắp xếp thành chuồng

đẻ 1, chuồng đẻ 2, chuồng đẻ 3. Phía đầu chuồng là hệ thống giàn mát, cuối

chuồng có 3 quạt thông gió. Mỗi chuồng đẻ gồm 2 ngăn, mỗi ngăn gồm 2 dãy

và có một công nhân phụ trách. Trong chuồng đẻ sàn chuồng lợn mẹ làm

bằng bê tông còn sàn chuồng dành cho lợn con làm bằng nhựa cứng. Mỗi một

ô chuồng đẻ đều có vòi nước tự động dành cho lợn mẹ và dành cho lợn con.

Phần chuồng cho lợn con khá rộng rãi, một góc để lồng úm, lồng úm được

làm bằng khung sắt và đan bao tải cám đã được ngâm sát trùng. Mỗi lồng úm

được trang bị một bóng đèn sưởi ấm, trong mỗi ô chuồng để một máng ăn nhỏ

cho lợn con tập ăn. Mỗi chuồng cũng có hệ thống giàn mát và 6 quạt thông

gió và nhiệt kế đo nhiệt độ chuồng. Tại khu chuồng đẻ mỗi lần xuất lợn con

và đuổi lợn mẹ về khu vực chờ phối thì chuồng được cọ rửa và phun vôi để

trống chuồng 1 tuần trước khi đuổi lợn bầu sắp đẻ lên.

Khu chuồng cách ly là khu chuồng nuôi lợn hậu bị mới nhập về để thay

thế đàn và lợn nái loại thải. Vị trí chuồng nằm gần chuồng bầu thuận tiện cho

việc di chuyển lợn lên chuồng bầu khi đã đủ điều kiện phối giống. Khu

chuồng cách ly được xây dựng với bên trong là các ô nuôi lợn tập trung gồm

6 ô lớn được trang bị khá đầy đủ với hệ thống nước uống và máng ăn tự động

bên trong các ô, khu bên trên đầu chuồng là hệ thống giàn mát và khu cuối

chuồng có 4 quạt thông gió nhằm tạo sự thông thoáng cho chuồng nuôi.

6

Mỗi chuồng đều được lắp đặt máy bơm nước để tắm cho lợn và vệ sinh

chuồng trại hằng ngày, cuối chuồng mỗi ô đều có hệ thống thoát phân và

nước thải.

Một số thiết bị khác cũng được trang bị đầy đủ:Tủ lạnh bảo quản vắc

xin, tủ thuốc để bảo quản và dự trữ thuốc cho trại, xe chở cám từ nhà kho

xuống chuồng, xe trở phân, xe trở lợn con, xe trở tấm đan, máy nén khí phun

sát trùng di động khu vực trong và ngoài chuồng nuôi.

Nhìn chung cơ sở vật chất của trại là khá hoàn chỉnh và đạt yêu cầu so

với một chuồng nuôi kín hiện nay tuy nhiên việc cho ăn trong các chuồng lại

hoàn toàn làm theo phương thức thủ công với mỗi chuồng đều có hệ thống

máng ăn, mỗi con có một máng ăn riêng và khi cho ăn thì công nhân phụ

trách chuồng phải đổ thức ăn vào từng máng ăn sau đó lật cho lợn nái ăn theo

khung giờ quy định hằng ngày.

Nguồn nước sử dụng cho chăn nuôi tại trại được lọc qua bể lọc và dẫn

trực tiếp đến từng ô chuồng bằng vòi uống tự động, trước khi được đưa đến

các vòi tự động nước được xử lý qua Clorin. Trang trại lợn nái Nguyễn Thanh

Lịch là một trại quy mô công nghiệp nên hàng ngày sử dụng một khối lượng

nước rất lớn để phục vụ chăn nuôi, vệ sinh chuồng trại, đặc biệt về mùa nóng

cần một lượng nước rất lớn để vận hành hoạt động của giàn mát. Nước dùng

cho chăn nuôi được bơm từ lòng đất qua hệ thống bể lọc, đưa lên các bồn

chứa nước ở độ cao, áp lực đủ mạnh tới các vòi nước tự động ở từng ô

chuồng. Bên cạnh đó, hệ thống bạt che, giàn mát, quạt thông gió được trang bị

rất đầy đủ. Nguồn nước thải được thải ra các ao quanh trại, phân trong các

khu chuồng thì được công nhân hót vào bao cuối mỗi buổi sáng và chiều

trong ngày đổ ra khu nhà chứa phân để bán và một phần nhỏ để vun trồng vào

các gốc cây. Trước cửa vào mỗi chuồng đều có một khay nước sát trùng để

nhúng ủng của công nhân trước khi đi vào chuồng làm việc.

7

2.1.4. Thuận lợi và khó khăn của trại

● Thuận lợi

Được sự quan tâm của Uỷ ban nhân dân xã Ba Trại tạo điều kiện cho sự

phát triển của trại.

Trại được xây dựng ở vị trí thuận lợi: Xa khu dân cư, thuận tiện đường

giao thông.

Chủ trại có năng lực, năng động, nắm bắt được tình hình xã hội, luôn

quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ kỹ thuật và công nhân.

Cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn vững vàng, công nhân nhiệt

tình và có tinh thần trách nhiệm cao trong sản xuất.

Con giống tốt, thức ăn, thuốc chất lượng cao, quy trình chăn nuôi khép

kín và khoa học đã mang lại hiệu quả chăn nuôi cao cho trại.

● Khó khăn

Trại được xây dựng trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết diễn

biến phức tạp nên khâu phòng trừ dịch bệnh gặp nhiều khó khăn.

Dịch bệnh diễn biến phức tạp, nên chi phí dành cho phòng và chữa

bệnh lớn, làm ảnh hưởng đến giá thành và khả năng sinh sản của lợn.

Số lượng lợn nhiều, lượng nước thải lớn, việc đầu tư cho công tác xử lý

nước thải của trại còn nhiều khó khăn.

2.2. Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong, ngoài nước có

liên quan đến nội dung của chuyên đề

2.2.1. Đối với lợn nái

2.2.1.1. Đặc điểm của một số giống lợn ngoại nuôi tại trại

* Giống lợn Yorkshire

Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [25], giống lợn này được hình

thành ở vùng Yorkshire của nước Anh. Lợn Yorkshire có lông trắng ánh vàng

(một số con có đốm đen), đầu cổ hơi nhỏ và dài, mõm thẳng và dài, mặt rộng,

tai to trung bình và hướng về phía trước, mình dài, lưng hơi cong, bụng gọn

chân dài chắc chắn, có 14 vú.

8

Lợn Yorkshire có tốc độ sinh trưởng, phát dục nhanh, khối lượng khi

trưởng thành lên tới 300 kg (con đực), 250 kg (con cái).

Lợn Yorkshire có mức tăng khối lượng bình quân 700 g/con/ngày, tiêu

tốn thức ăn trung bình khoảng 3,0 kg/kg tăng khối lượng, tỷ lệ nạc 56%.

Lợn có khả năng sinh sản cao, trung bình 10 - 12 con/lứa, khối lượng

sơ sinh trung bình 1,2 kg/con.

* Giống lợn Landrace

Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [25], giống lợn này được tạo ra ở

Đan Mạch năm 1895.

Lợn có năng suất cao, sinh trưởng nhanh, tiêu tốn thức ăn 3,0 kg/kg

tăng khối lượng, tăng khối lượng bình quân 750 g/con/ngày. Tỷ lệ nạc 59%.

Khối lượng lợn trưởng thành có thể lên tới 320 kg (con đực), 250 kg (con cái).

Lợn Landrace có khả năng sinh sản khá cao và nuôi con khéo.

Đây là giống lợn chuyên hướng nạc và dùng để lai kinh tế.

Nguyễn Văn Thắng và Nguyễn Thị Xuân (2016) [32] cho biết, một

trong những giải pháp nâng cao năng suất lợn nái là sử dụng nhiều giống lợn

lai tạo với nhau. Trong đó, phương pháp lai giữa hai giống lợn ngoại

Landrace và Yorkshire và ngược lại, tạo ra con lai có ưu thế lai cao về nhiều

tiêu chí sinh sản, trở thành một tiến bộ trong thực tế sản xuất.

2.2.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái

* Đặc điểm cấu tạo bộ máy sinh dục của lợn nái:

+ Buồng trứng: Lợn nái có 2 buồng trứng hình hạt đậu, đường kính

trung bình 0,8 - 1,2 cm. Buồng trứng được cấu tạo bởi 2 vùng (trong là vùng

tủy chứa mạch máu và dây thẩn kinh, ngoài là vùng vỏ, tại đây chứa vô số các

noãn bao phát triển ở các giai đoạn khác nhau, trong các noãn bao có chứa tế

bào trứng). Các noãn bao phát triến qua từng giai đoạn, khi thành thục và chín

noãn bao vở ra, trứng rụng xuống loa kèn, tại vị trí bao noãn cũ sẽ hình thành

nên thể vàng (hoàng thể). Mỗi lần động dục buồng trứng heo nái có thể rụng

10 - 30 noãn bào.

9

+ Ống dẫn trứng: Ống dẫn trứng là ống dài ngoằn nghoèo, một đầu loe

rộng tạo thành loa kèn để đón trứng từ buồng trứng rụng xuống, đầu kia nối

liền với sừng tử cung. Ống dẫn trứng dài 15 - 30cm.

+ Tử cung: Tử cung lợn nái gồm 1 thân và 2 sừng. Hai sừng của tử

cung có hình dạng chữ V, nơi tiếp xúc với thân tử cung tạo thành ngã 3. Sừng

tử cung là nơi chứa thai (2 sừng tử cung dài khoảng 1 m), thân tử cung dài

khoảng 5cm. Phần cuối của tử cung là cổ tử cung. Đây là một cái eo, thường

khép kín. Tận cùng của bộ máy sinh dục cái là âm hộ. Trong âm hộ có lỗ

thông ra ngoài của ống dẫn nước tiểu gọi là lỗ đái và tuyến tiết dịch nhờn.

* Sự thành thục về tính:

Sự thành thục của gia súc được đặc trưng bởi những thay đổi bên trong

và bên ngoài cơ thể, đặc biệt là sự biến đổi bên trong của cơ quan sinh dục.

Tùy thuộc vào từng loài gia súc khác nhau mà thời gian thành thục về tính

khác nhau. Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [10], ở lợn tuổi thành thục về

tính là từ 6 - 8 tháng.

+ Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng là các yếu tố ảnh hưởng rõ rệt tới tuổi

động dục. Mùa hè lợn thành thục chậm hơn so với mùa thu - đông. Điều đó có

thể do ảnh hưởng của nhiệt độ trong chuồng nuôi gắn liền với mức tăng trọng

thấp trong các tháng nóng bức. Những con được chăn thả tự do thì xuất hiện

thành thục sớm hơn những con nuôi nhốt trong chuồng 14 ngày (mùa xuân)

và 17 ngày (mùa thu). Mùa đông, thời gian chiếu sáng trong ngày thấp hơn so

với các mùa khác trong năm, bóng tối cũng làm chậm tuổi thành thục về tính

so với những biến động ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày.

+ Mật độ nuôi nhốt: Mật độ nuôi nhốt đông trên 1 đơn vị diện tích

trong suốt thời gian phát triển sẽ làm chậm tuổi động dục. Nhưng cần tránh

nuôi lợn hậu bị tách biệt đàn trong thời kỳ phát triển. Kết quả nghiên cứu của

Hughes và James (1996) [39] cho thấy, việc nuôi nhốt lợn cái hậu bị riêng

từng cá thể sẽ làm chậm lại thành thục tính so với lợn được nuôi nhốt theo

10

nhóm. Bên cạnh những yếu tố trên thì đực giống cũng là một trong những yếu

tố ảnh hưởng đến tuổi động dục của lợn cái hậu bị. Nếu lợn hậu bị thường

xuyên tiếp xúc với đực giống sẽ nhanh động dục hơn lợn hậu bị không tiếp

xúc với lợn đực giống. Ở 165 ngày tuổi cho lợn hậu bị tiếp xúc 2 lần/ngày với

lợn đực, mỗi lần tiếp xúc 15 - 20 phút thì tới 83% lợn động dục lần đầu

(Muirhead M., Alexander T., 2010) [46].

+ Giống: Các giống khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác

nhau. Theo Phạm Hữu Doanh và cs., (2003) [6], tuổi thành thục tính ở lợn nái

nội thuần chủng (Ỉ, Móng Cái) thường ở tháng thứ 4, thứ 5 (120 - 150 ngày

tuổi), lợn Landrace, Yorkshire tuổi thành thục về tính là từ 6 - 7 tháng.

+ Chu kỳ tính: Từ khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của

lợn được diễn ra liên tục và có chu kỳ. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động

dục cũng theo chu kỳ (Khuất Văn Dũng, 2005) [8].

- Hiện tượng rụng trứng:

Noãn bào dần dần lớn lên. Nổi rõ trên bề mặt của buồng trứng. Dưới

tác dụng của thần kinh, hormone, áp suất. Noãn bào vỡ giải phóng ra tế bào

trứng, đồng thời thải ra dịch folliculin. Hiện tượng giải phóng tế bào trứng ra

khỏi noãn bào ở từng loài gia súc khác nhau. Lợn thường rụng 20 - 30 tế bào

trứng 1 lần.

- Sự hình thành thể vàng:

Sau khi noãn bào vỡ ra và dịch nang chảy ra. Màng trên bị xẹp xuống

đường kính ngắn lại bằng nửa xoang trứng. Tạo nên những nếp nhăn trên

vách xoang ăn sâu vào trong làm thu hẹp xoang tế bào trứng. Xoang chứa đầy

dịch và một ít máu chảy ra từ vách xoang ra. Dịch và máu đọng lại và lấp đầy

xoang của tế bào trứng. Các nếp nhăn gồm nhiều lớp nhăn ăn sâu vào và lấp

đầy xoang gồm nhiều tế bào hạt, những tế bào hạt này tuy số lượng không

tăng nhưng kích thước lại tăng rất nhanh. Trong các tế bào hạt có chứa lipoit

và sắc tố màu vàng. Như vậy, trong tế bào trứng đã chứa đầy tế bào hạt (gọi là

11

tế bào lutein). Sự phát triển của tế bào hạt mang sắc tố đã hình thành nên thể

vàng. Đây chính là nơi đã tạo ra hormone progesterone. Trong thời gian vài

ngày, thể vàng sẽ đầy xoang của tế bào trứng, nó tiếp tục phát triển. Nếu gia súc

không có thai thì thể vàng nhanh chóng đạt đến độ lớn tối đa rồi thoái hóa dần.

Thời gian tồn tại của thể vàng từ 3 - 15 ngày. Nếu gia súc có thai, nó

tồn tại trong suốt thời gian mang thai đến ngày gia súc gần đẻ.

- Niêm dịch:

Trong đường sinh dục của gia súc cái có niêm dịch chảy ra cũng là do

kết quả của quá trình tế bào trứng rụng. Do sự thay đổi hàm lượng các kích tố

trong máu, từ ống dẫn trứng đến mút sừng tử cung, tiết ra niêm dịch. Đồng

thời ở âm đạo, âm môn cũng có niêm dịch chảy ra.

- Tính dục:

Do kết quả của quá trình rụng trứng hàm lượng oestrogen tăng lên ở

trong máu nên có một loạt biến đổi về bên ngoài khác với bình thường, đứng

nằm không yên, kém ăn, kêu giống, thích gần con đực, phá chuồng, sản lượng

sữa giảm, chăm chú tới xung quanh, gặp con đực không kháng cự, biểu hiện

này tăng lên về cường độ cho đến khi tế bào trứng rụng.

- Tính hưng phấn:

Thường kết hợp song song với tính dục, con vật có một loạt biến đổi về

bên ngoài, thường không yên, chủ động đi tìm con đực, kêu giống, kém ăn, đuôi

cong và chịu đực, hai chân sau thường ở tư thế giao phối. Cao độ nhất là lúc tế

bào trứng rụng. Khi đã rụng tế bào trứng thì tính hưng phấn giảm đi rõ rệt.

* Chu kỳ động dục:

Theo Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006) [31] cho biết, chu kỳ động

dục của gia súc chia làm 4 giai đoạn sau:

- Giai đoạn trước động dục:

Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục lúc này buồng trứng to hơn

bình thường. Các tế bào của vách ống dẫn trứng tăng cường sinh trưởng, số

12

lượng lông nhung tăng lên. Đường sinh dục xung huyết, nhu động sừng tử

cung tăng lên, dịch nhầy ở âm đạo tăng nhiều. Giai đoạn này tính hưng phấn

chưa cao.

Khi noãn bào chín, tế bào trứng được tách ra, sừng tử cung co bóp

mạnh, cổ tử cung mở hoàn toàn. Niêm dịch ở đường sinh dục chảy ra nhiều

lúc này con vật bắt đầu xuất hiện tính dục.

- Giai đoạn động dục:

Theo Phạm Khánh Từ và cs. (2014) [36], thời gian của giai đoạn này

được tính từ khi tế bào trứng tách khỏi noăn bao các biến đổi của cơ quan sinh

dục lúc này rõ rệt nhất, niêm mạc âm hộ xung huyết, phù thũng rõ rệt, niêm

dịch trong suốt chảy ra ngoài nhiều, con vật biểu hiện tính hưng phấn cao độ:

Con cái đứng nằm không yên, phá chuồng, ăn uống giảm hẳn, kêu rít, đứng

trong trạng thái ngẩn ngơ, ngơ ngác, đái rắt, luôn nhảy lên lưng con khác hoặc

để con khác nhảy lên lưng mình, thích gần đực, khi gần đực thì luôn đứng ở

tư thế sẵn sàng chịu đực như: đuôi cong lên và lệch sang một bên, hai chân

sau dạng ra và khụy xuống, sẵn sàng chịu đực.

- Giai đoạn sau động dục:

Lợn trở lại trạng thái bình thường, âm hộ giảm độ nở, đuôi cụp và

không chịu đực.

- Giai đoạn yên tĩnh:

Đây là giai đoạn dài nhất, các biểu hiện về tính của gia súc ở thời kỳ

này yên tĩnh hoàn toàn. Thời kỳ này, cơ quan sinh dục không có biểu hiện

hoạt động, trong buồng trứng thể vàng teo đi, noãn trong buồng trứng bắt đầu

phát dục và lớn lên, các cơ quan sinh dục đều ở trạng thái sinh lý.

* Sinh lý quá trình mang thai và đẻ:

Sau thời gian lưu lại ở ống dẫn trứng khoảng 3 ngày để tự dưỡng, hợp

tử bắt đầu di chuyển xuống tử cung, tìm vị trí thích hợp để làm tổ, hình thành

bào thai. Sự biến đổi nội tiết tố trong cơ thể mẹ trong thời gian có chửa như

13

sau: Progesterone trong 10 ngày đầu có chửa tăng rất nhanh, cao nhất vào

ngày chửa thứ 20 rồi giảm nhẹ ở 3 tuần đầu, sau đó, duy trì ổn định trong thời

gian có chửa để an thai, ức chế động dục. Trước khi đẻ 1 - 2 ngày,

Progesterone giảm đột ngột. Estrogen trong suốt thời kỳ có chửa duy trì ở

mức độ thấp, cuối thời kỳ có chửa khoảng 2 tuần thì bắt đầu tăng dần, đến khi

đẻ thì tăng cao nhất. Thời gian có chửa của lợn nái bình quân là 114 ngày

(Jose Bento S. và cs., 2013) [41].

2.2.1.3. Một số bệnh gặp trên đàn lợn nái

* Đẻ khó

Rặn đẻ yếu: Đặc trưng các cơn co thắt cơ tử cung và thành bụng của gia

súc mẹ vừa yếu vừa ngắn. Có 3 dạng cơn co thắt và rặn đẻ yếu:

- Cơ co thắt yếu nguyên phát bắt đầu từ khi mở cổ tử cung và xảy ra

trùng với cơn rặn đẻ nguyên phát.

- Cơn co thắt và rặn đẻ yếu thứ phát xảy ra sau khi co thắt và rặn đẻ

mạnh nhưng không có kết quả.

- Cơn co thắt và rặn đẻ yếu thứ phát xảy ra do bào thai không di chuyển

được. Các cơn co thắt và rặn đẻ yếu nguyên phát, thông thường, quan sát thấy

khi vi phạm chế độ chăm sóc nuôi dưỡng gia súc chửa và thiếu vận động,

cũng như khi bị bệnh làm suy yếu sức khỏe của con mẹ. Cần can thiệp để cứu

lợn con và mẹ (Trần Văn Bình, 2010 [25]).

* Khô âm đạo: Đẻ kéo dài do co thắt và rặn đẻ yếu nguyên phát hoặc

thứ phát, mà trước đó dịch ối và nước tiểu đã chảy ra hết, hoặc do nhân tạo

làm vỡ bao thai trước khi cổ tử cung mở hết, thường dẫn đến khô đường sinh dục

* Hẹp khe âm môn và tiền đình âm đạo, âm đạo và hẹp cổ tử cung: Xảy

ra do bẩm sinh hoặc ở gia súc co thắt sẹo hình thành từ chấn thương hoặc

viêm, do phát triển màng sẹo liên kết của vết loét, ung bướu. Đôi khi gặp

trường hợp đẻ khó ở gia súc đẻ lần đầu do phì đại màng trinh bẩm sinh hoặc

mắc phải (tăng sinh van niệu đạo nằm ở thành dưới âm đạo sát mép tiền đình

14

âm đạo). Các cơn rặn đẻ mạnh trong khi đã có các cơn tiền triệu chứng đẻ

nhưng gia súc không đẻ được, chứng tỏ hẹp đường sinh dục hoặc thai to quá

(Debois C. H. W., 1989 [19]).

* Bệnh viêm tử cung

+ Nguyên nhân:

Bệnh chủ yếu do lợn nái sau khi đẻ bị tổn thương, sây sát và nhiễm

khuẩn tử cung, âm đạo.

+ Triệu chứng:

Thân nhiệt tăng cao, ăn uống giảm, lượng sữa giảm, lợn có trạng thái

đau đớn nhẹ, có khi cong lưng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh, từ cơ quan sinh dục

thải ra ngoài hỗn dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ và những tổ chức chết.

+ Điều trị:

Dùng amoxinject tiêm bắp liều 1ml/10kg thể trọng tiêm nhắc lại sau 48

giờ, kết hợp tiêm với oxytoxin 1-2ml/nái, dùng trong 2-3 ngày.

Kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm thử cung trên 620 lợn nái

ngoại nuôi tại một số trại tại vùng Bắc Bộ cho thấy: Tỷ lệ nhiễm viêm tử cung

ở đàn lợn tương đối cao, biến động từ 36,57% tới 61,07%. Tỷ lệ mắc tập trung ở

những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8 (Nguyễn Văn Thanh, 2007 [15]).

Lê Thị Tài và cs. (2002) [14] cho rằng: đây là một bệnh khá phổ biến ở

gia súc cái. Nếu không được chữa trị kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng

sinh sản của gia súc cái.

Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) [5], Trần Thị Dân (2004) [2]: Khi

lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính như: lợn dễ bị sảy

thai, bào tai phát triển kém hoặc thai chết lưu, lợn nái giảm sữa hoạc mất sữa,

nếu lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại.

Viêm tử cung là một trong những yếu tố gây vô sinh, rối loạn chức

năng cơ quan sinh dục vì các quá trình viêm ở trong dạ con cản trở sự di

chuyển của tinh trùng tạo độc tố có hại cho tinh trùng như: Spermiolisin (độc

15

tố làm tiêu tinh trùng). Các độc tố của vi khuẩn, vi trùng và các đại thực bào

tích tụ gây bất lợi với tinh trùng, ngoài ra nếu có thụ thai được thì phôi ở

trong môi trường dại con bất lợi cũng dễ bị chết non (Lê Văn Năm và cs.

1999 [11]).

* Bệnh viêm vú

- Nguyên nhân:

+ Khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô vú bị viêm

cho thấy, vi khuẩn chính gây viêm vú là Staphylococcus aureus. và

Arcanobacterium pyogenes (Christensen và cs., 2007 [18]).

+ Lợn nái đẻ nếu nuôi không đúng cách, chuồng bẩn thì các vi khuẩn,

Mycoplasma, các cầu khuẩn, vi khuẩn đường ruột xâm nhập gây ra viêm vú.

+ Thức ăn không phù hợp cho lợn nái, không giảm khẩu phần ăn cho

lợn nái trước khi đẻ một tuần làm cho lượng sữa tiết ra quá nhiều gây tắc sữa.

Sau vài ngày đẻ mà lợn con không bú hết, sữa lưu là môi trường tốt cho vi

khuẩn xâm nhập gây viêm như: E.coli, Streptococus, Staphylococus,

Klebsiella…(Duy Hùng, 2011[7]).

+ Lợn con mới đẻ có răng nanh mà không bấm khi bú làm xây sát vú

mẹ tạo điều kiện cho vi trùng xâm nhập tạo ra các ổ viêm nhiễm bầu vú.

+ Chỉ cho lợn con bú một hàng vú, hàng còn lại căng quá nên viêm.

+ Do thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh quá hoặc nóng quá hay thức ăn

khó tiêu cũng ảnh hưởng đến cảm nhiễm vi trùng.

- Triệu chứng

Theo White B. R. và cs. (2013) [23], biểu hiện rõ tại vú viêm với các

đặc điểm: vú căng cứng, nóng đỏ, có biểu hiện đau khi sờ nắn, không xuống

sữa, nếu vắt mạnh sữa chảy ra có nhiều lợn cợn lẫn máu; sau 1 - 2 ngày thấy

có mủ, lợn mẹ giảm ăn hay bỏ ăn, sốt cao 40 - 41,50C. Tùy số lượng vú bị

viêm mà lợn nái có biểu hiện khác nhau. Nếu do nhiễm trùng trực tiếp vào

bầu vú, thì đa số trường hợp chỉ một vài bầu vú bị viêm. Tuy vậy, lợn nái

16

cũng lười cho con bú, lợn con thiếu sữa nên liên tục đòi bú, kêu rít, đồng thời

do bú sữa bị viêm, gây nhiễm trùng đường ruột, lợn con bị tiêu chảy.

- Điều trị:

Các nghiên cứu của Trekaxova A. V. (1983) [17] về chữa trị bệnh viêm

vú cho lợn nái hướng vào việc đưa ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng

novocain phong bế phối hợp với điều trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để

phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã dùng dung dịch novocain 0,5 % liều

từ 30 - 40 ml cho mỗi túi vú. Thuốc tiêm vào mỗi thùy vú bệnh, sâu 88 - 100

cm. Dung dịch novocain còn được bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin

hay kháng sinh khác. Đồng thời lợn nái còn được tiêm bắp cùng một loại

kháng sinh trong novocain này từ 400 - 600 đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần.

Trước khi đẻ cần lau vú, xoa vú, tắm cho nái. Cho con bú mẹ sau 1 giờ

đẻ, cắt răng nanh lợn con. Tiêm kháng sinh 1,5 - 2 triệu đơn vị với 100 ml

nước cất tiêm quanh vú, tiêm liên tục trong 3 Chườm đá lạnh vào bầu vú

viêm. Tiêm thuốc chống viêm như prednizolon, hydro - cortizone… (Lê Hồng

Mận, Bùi Đức Lũng, 2004 [10]).

Dùng novocain tiêm ven tai, tiêm chỗ giáp nhau giữa hai bầu vú và

phần sườn của lợn, tiêm nhắc lại sau một ngày.

Dùng kháng sinh streptomycin, penicillin, ampicillin, lincomycin…

liều đạt trên 200.000 - 500.000 UI, mỗi loại trên một lần tiêm cho 1 - 2

lần/ngày trong 3 - 5 ngày.

- Thực hiện phòng bệnh: Vệ sinh bầu vú, hai chân sau cho lợn hằng

ngày bằng dung dịch sát trùng. Mài nanh cho lợn con mới sinh, nên cho lợn

con bú sữa đầu và phân đều vú cho từng con trong đàn. Tăng cường ăn uống

đủ chất cho lợn mẹ trước và sau khi đẻ, nên giảm bớt chất đạm để hạn chế

nguy cơ thừa sữa. Khi lợn mẹ bị viêm vú, không nên cho lợn con bú ở những

vùng bị viêm. Dùng các phương pháp nhân tạo như chườm nóng, xoa bóp nhẹ

lên vùng vú bị sưng (Duy Hùng, 2011 [17]).

17

2.2.2. Đặc điểm sinh lý của lợn con

2.2.2.1. Đặc điểm sinh trưởng, phát dục của lợn con

❖ Khái niệm về sinh trưởng, phát dục:

Sinh trưởng:

Sinh trưởng là một quá trình sinh lý hóa phức tạp, duy trì từ khi phôi

thai được hình thành đến khi thành thục về tính. Sinh trưởng là quá trình tích

lũy các chất do đồng hóa và dị hóa; là sự tăng lên về chiều cao, chiều dài,

chiều ngang, khối lượng các bộ phận và toàn bộ cơ thể con vật trên cơ sở đặc

tính di truyền từ thế hệ trước. Thực chất sinh trưởng là sự tăng trưởng và sự

phân chia các tế bào trong cơ thể.

Lợn con trong giai đoạn bú sữa có khả năng sinh trưởng và phát dục rất

nhanh. Từ lúc sơ sinh đến khi cai sữa trọng lượng của lợn con tăng 10 - 12

lần. So với các gia súc khác thì tốc độ sinh trưởng của lợn con tăng nhanh hơn

gấp nhiều lần (Nguyễn Quang Linh, 2005) [17].

Tốc độ sinh trưởng của gia súc non rất cao, nếu sữa mẹ không đảm bảo

chất lượng, khẩu phần thức ăn thiếu dạm sẽ làm cho sự sinh trưởng chậm lại

và tăng trọng lượng theo tuổi giảm xuống, làm cho khả năng chống đỡ bệnh

tật của lợn con kém (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2002) [16].

Theo Trần Thị Dân (2004) [5], lợn con mới đẻ trong máu không có

Glubulin nhưng sau khi bú sữa đầu lại tăng lên nhanh chóng do truyền từ mẹ

sang qua sữa đầu. Các yếu tố miễn dịch như bổ thể, lyzozyme, bạch cầu,...

được tổng hợp còn ít, khả năng bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh.

Phát dục:

Cùng với quá trình sinh trưởng các tổ chức trong cơ thể luôn hoàn thiện

chức năng sinh lý của mình dẫn đến phát dục. Phát dục là một quá trình thay

đổi về chất lượng tức là sự thay đổi tăng thêm và hoàn chỉnh các tính chất,

chức năng của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể nhờ vậy vật nuôi hoàn thiện

được các chức năng của cơ thể sống và tăng trọng lượng theo tuổi giảm

(Pensaet MB de Bouck P. A., 1978) [40].

18

❖ Đặc điểm về sinh trưởng, phát dục:

Lợn con giai đoạn bú sữa có khả năng sinh trưởng và phát dục

nhanh.Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [25] so với khối lượng sơ sinh thì

khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp

4 lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần,

lúc 50 ngày tuổi tăng gấp 10 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần.

Lợn con bú sữa sinh trưởng và phát triển nhanh nhưng không đồng đều

qua các giai đoạn, nhanh trong 21 ngày đầu sau đó giảm dần. Có sự giảm này

là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do lượng sữa mẹ bắt đầu giảm và

hàm lượng hemoglobin trong máu của lợn con bị giảm. Thời gian bị giảm

sinh trưởng kéo dài khoảng 2 tuần hay còn gọi là giai đoạn khủng hoảng của

lợn con. Lợn con sinh trưởng nhanh nên quá trình tích lũy các chất dinh

dưỡng mạnh. Vì vậy, cần tập ăn sớm cho lợn để có thể bổ sung các chất thiết

yếu cho sự sinh trưởng, phát triển của lợn con.

* Đặc điểm phát triển của cơ quan tiêu hóa:

Trọng lượng bộ máy tiêu hóa tăng lên từ 10 - 15 lần, chiều dài ruột non

tăng lên gấp 5 lần, dung tích bộ máy tiêu hóa tăng lên 40 - 50 lần, chiều dài

ruột già tăng lên từ 40 - 50 lần. Lúc đầu, trọng lượng dạ dày chỉ là 6 - 8g và

chứa được 35 - 50 g sữa nhưng chỉ sau 3 tuần đã tăng gấp 4 lần và đến lúc lợn

con đạt 60 ngày tuổi đã nặng 150 g và chứa được 700 - 1000 g sữa (Nguyễn

Quang Linh, 2005) [17].

Một đặc điểm cần lưu ý ở lợn con là có giai đoạn không có axit HCl

trong dạ dày. Giai đoạn này được coi như một tình trạng thích ứng tự nhiên.

Nhờ vậy, nó tạo được khả năng thẩm thấu các kháng thể có trong sữa đầu của

lợn mẹ. Trong giai đoạn này dịch vị không có khả năng phân giải protein mà

chỉ có khả năng làm vón sữa đầu và sữa. Còn huyết thanh chứa albumin và

globulin được chuyển xuống ruột và thẩm thấu vào máu.

19

Ở lợn con từ 14 - 16 ngày tuổi, tình trạng thiếu axit HCl ở dạ dày

không còn gọi là trạng thái bình thường nữa. Việc tập cho lợn con ăn sớm có

tác dụng thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hoàn

thiện. Vì thế sẽ rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl. Khi được bổ sung thức ăn

thì thức ăn sẽ kích thích tế bào vách dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do sớm hơn

và tăng cường phản xạ tiết dịch vị (giai đoạn con non khác với con trưởng

thành là chỉ tiết dịch vị khi thức ăn vào dạ dày).

Lợn con dưới 1 tháng tuổi, dịch vị không có HCl tự do, lúc này lượng

axit tiết ra rất ít và nhanh chóng kết hợp với dịch nhày của dạ dày, hiện tượng

này gọi là hypohydric. Do dịch vị chưa có HCl tự do nên men pepsin trong dạ

dày lợn chưa có khả năng tiêu hóa protein của thức ăn. Vì HCl tự do có tác

dụng kích hoạt men pepsinnogen không hoạt động thành men pepsin hoạt

động và men này mới có khả năng tiêu hóa protein (Hoàng Toàn Thắng và

cs., 2006) [31].

Enzyme trong dịch vị dạ dày lợn con đã có từ lúc mới đẻ, tuy nhiên lợn

trước 20 ngày tuổi không thấy khả năng tiêu hóa thực tế của dịch vị có

enzyme, sự tiêu hao của dịch vị tăng theo tuổi một cách rõ rệt khi cho ăn các

loại thức ăn khác nhau, thức ăn hạt kích thích tiết ra dịch vị mạnh. Hơn nữa,

dịch vị thu được khi cho thức ăn hạt kích thích HCl nhiều hơn và sự tiêu hóa

nhanh hơn dịch vị thu được khi cho uống sữa. Đây là cơ sở cho việc bổ sung

sớm thức ăn và cai sữa sớm cho lợn con.

Đặc điểm về cơ năng điều tiết của lợn con

Cơ năng điều tiết thân nhiệt của lợn con chưa hoàn chỉnh vì vỏ đại não

của lợn con chưa phát triển hoàn thiện. Do đó việc điều tiết thân nhiệt và năng

lực phản ứng kém, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường (nhiệt độ, độ ẩm).

Ở lợn con, khả năng sinh trưởng và phát triển nhanh, yêu cầu về dinh

dưỡng ngày càng tăng cao. Trong khi đó sản lượng sữa của lợn mẹ tăng dần

đến 2 tuần sau khi đẻ và sau đó giảm dần cả về chất và lượng. Đây là mâu

20

thuẫn giữa nhu cầu dinh dưỡng của lợn con và khả năng cung cấp sữa của lợn

mẹ. Nếu không kịp thời bổ sung thức ăn cho lợn con thì lợn thiếu dinh dưỡng

dẫn đến sức đề kháng yếu, lợn con gầy còm, nhiều lợn con mắc bệnh. Vì vậy

nên tiến hành cho lợn con tập ăn sớm để khắc phục tình trạng khủng hoảng

trong thời kỳ 3 tuần tuổi và giai đoạn sau cai sữa.

Lợn con dưới 3 tuần tuổi cơ năng điều tiết thân nhiệt chưa hoàn chỉnh

nên thân nhiệt chưa ổn định, nghĩa là sự thải nhiệt và sinh nhiệt chưa cân bằng.

Khi còn là bào thai, các chất dinh dưỡng được mẹ cung cấp qua nhau

thai, điều kiện sống tương đối ổn định. Lợn con sơ sinh gặp điều kiện sống

hoàn toàn mới, nếu chăm sóc không tốt rất dễ mắc bệnh còi cọc và chết.

Ngoài ra, lớp mỡ dưới da của lợn con còn mỏng, lượng mỡ glycogen

dự trữ trong cơ thể lợn còn thấp, trên cơ thể lợn con lông còn thưa, mặt khác

diện tích bề mặt cơ thể so với khối lượng cơ thể chênh lệch tương đối cao nên

lợn con dễ bị mất nhiệt và khả năng cung cấp nhiệt cho lợn con chống rét còn

thấp dẫn đến lợn con rất dễ mắc bệnh khi thời tiết thay đổi.

Ở điều kiện nhiệt độ thấp, độ ẩm không khí cao gây ra hiện tượng tăng

tỏa nhiệt ở lợn con bằng phương thức bức xạ. Vì thế ở nước ta vào cuối mùa

đông đầu mùa xuân, khí hậu lạnh và ẩm, lợn con sẽ bị toả nhiệt theo phương

thức này, làm cho nhiệt lượng cơ thể mất đi, lợn bị lạnh. Đây là điều kiện

thuận lợi dẫn đến phát sinh bệnh, nhất là bệnh đường tiêu hoá.

Đặc điểm về khả năng miễn dịch của lợn con

Phản ứng miễn dịch là khả năng đáp ứng của cơ thể. Phần lớn các chất

lạ là mầm bệnh. Mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể lợn con tương đối dễ dàng,

do chức năng của các tuyến chưa hoàn chỉnh. Ở lợn con lượng enzyme tiêu

hoá và lượng HCl tiết ra còn ít, chưa đủ để đáp ứng cho quá trình tiêu hoá,

gây rối loạn trao đổi chất, dẫn tới khả năng tiêu hoá kém, hấp thu kém. Trong

giai đoạn này mầm bệnh (Salmonella spp, E. coli…) dễ dàng xâm nhập vào

cơ thể qua đường tiêu hoá và gây bệnh.

21

Lợn con mới đẻ ra trong cơ thể hầu như chưa có kháng thể. Lượng

kháng thể tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu của lợn mẹ. Cho

nên khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào

lượng kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ sữa đầu của lợn mẹ.

Theo Trần Văn Phùng và cs. (2004) [25], trong sữa đầu của lợn mẹ

hàm lượng protein rất cao. Những ngày đầu mới đẻ, hàm lượng protein trong

sữa chiếm 18 - 19%, trong đó lượng globulin chiếm số lượng khá lớn (30 -

35%). Nó có tác dụng tạo sức đề kháng, vì vậy sữa đầu có vai trò quan trọng

đối với khả năng miễn dịch của lợn con. Lợn con hấp thu lượng globulin bằng

con đường ẩm bào. Quá trình hấp thu nguyên vẹn nguyên tử globulin giảm đi

rất nhanh theo thời gian. Nó chỉ có khả năng hấp thu qua ruột non của lợn con

rất tốt trong 24 giờ đầu sau khi đẻ ra nhờ trong sữa đầu có kháng men

antitripsin làm mất hoạt lực của men tripsin tuyến tụy và nhờ khoảng cách tế

bào vách ruột của lợn con khá rộng, cho nên 24 giờ sau khi được bú sữa đầu,

hàm lượng globulin trong máu lợn con đạt tới 20,3 mg/100 ml máu. Sau 24

giờ, lượng kháng men trong sữa đầu giảm dần và khoảng cách giữa các tế bào

vách ruột của lợn con hẹp dần, sự hấp thu globulin kém hơn, hàm lượng

globulin trong máu lợn con tăng lên chậm hơn. Đến 3 tuần tuổi chỉ đạt khoảng

24 mg/100 ml máu (máu bình thường của lợn trưởng thành có khoảng 65

mg/100 ml máu), do đó lợn con cần được bú sữa đầu càng sớm càng tốt. Nếu

lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi mới có khả năng tự

tổng hợp kháng thể, những lợn con không được bú sữa đầu thì sức đề kháng

kém, dễ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao.

2.2.2.2. Một số bệnh thường gặp ở lợn con

● Tiêu chảy

Phạm Ngọc Thạch (1996) [28] cho biết, tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng

của quá trình bệnh lý ở đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật đi ỉa nhanh,

nhiều lần trong ngày, phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu hóa, ruột

22

tăng cường co bóp và tiết dịch hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay đổi tạm

thời của phân gia súc đang thích ứng với những thay đổi trong khẩu phần ăn.

Tiêu chảy xảy ra ở nhiều bệnh và bản thân nó không phải là bệnh đặc thù

(Archie H., 2000) [1].

Theo nghiên cứu của Trần Đức Hạnh (2013) [12], lợn con ở 1 số tỉnh

phía bắc mắc tiêu chảy và chết với tỷ lệ trung bình là 31,84% và 5,37%, tỷ lệ

mắc tiêu chảy và chết giảm dần theo lứa tuổi, cao nhất ở lợn con giai đoạn từ

21 - 40 ngày (30,97% và 4,93%) và giảm ở giai đoạn 41 - 46 ngày.

Nguyễn Chí Dũng (2013) [9] đã nghiên cứu và cho biết, ở các tháng có

nhiệt độ thấp và ẩm độ cao, tỷ lệ lợn mắc tiêu chảy cao (26,98% - 38,18%)

Nguyên nhân:

- Do thời tiết khí hậu: các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay

đổi thất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ

thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, chưa kịp thích nghi

với điều kiện sống (Đoàn Thị Kim Dung, 2004) [7].

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn và cs. (2013) [35] cho thấy,

vi khuẩn E. coli và Salmonella là những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong

Hội chứng tiêu chảy ở lợn con trong chăn nuôi công nghiệp.

Theo Glawisschning E. và Bacher H. (1992) [38], nguyên nhân gây

bệnh phân trắng lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu

dinh dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt.

Theo Sa Đình Chiến và Cù Hữu Phú (2016) [4], phương thức chăn nuôi

truyền thống có tỷ lệ lợn mắc tiêu chảy là 31,1% và tỷ lệ chết chiếm 23,4%.

Phương thức chăn nuôi công nghiệp tỷ lệ mắc là 33,8% và tỷ lệ chết chiếm 21,5%.

Triệu chứng:

Sàn chuồng có phân lợn lỏng, màu vàng hoặc màu trắng. Hậu môn ướt

đỏ, lợn sút cân nhanh chóng, dáng đi siêu vẹo, thân lợn con bẩn do dính phân.

23

● Viêm phổi

Nguyên nhân là do Mycoplasma hyopneumoniae gây ra, bệnh xảy ra

trên lợn con ngay từ khi mới sinh ra, bệnh xâm nhập chủ yếu qua đường hô

hấp. Bệnh cũng có thể do điều kiện chăn nuôi vệ sinh chuồng trại kém, thời

tiết thay đổi…, do sức đề kháng của lợn giảm. Bệnh thường lây lan do nhốt

chung với con nhiễm bệnh.

Triệu chứng: lợn con gầy còm, lông xù, thở thể bụng, lợn không tranh

bú được nên ngày càng gầy yếu.

Theo Lê Văn Năm (2013) [23], đến nay chưa có phương pháp gì đặc

biệt thông dụng để chẩn đoán bệnh viêm phổi truyền nhiễm khi lợn đang

sống. Bởi vậy, cần dựa vào kết quả nghiên cứu dịch tễ, triệu chứng lâm sàng,

kết quả mổ khám và chẩn đoán cơ sở chuyên ngành.

● Viêm khớp

Nguyên nhân: Streptococcus suis là vi khuẩn gram (+), Streptococcus

suis gây viêm khớp lợn cấp và mãn tính ở mọi lứa tuổi. Bệnh này thường gây

ra trên lợn con 1 - 6 tuần tuổi. Vi khuẩn xâm nhập qua đường miệng, cuống

rốn, vết thương khi cắt đuôi, bấm nanh, các vết thương trên da, đầu gối khi

chà sát trên nền chuồng, qua vết thiến.Ở các tổ chức cư trú, chúng sống và

nhân lên trong tế bào monocoyte, rồi di chuyển vào xoang dịch não tủy gây

nên vên viêm màng não, hoặc có thể thông qua con đường nhiễm trùng huyết

để xâm nhập vào màng não, khớp xương và các mô khác (Nguyễn Bá Hiên và

cs., 2012) [13].

Lợn con bị viêm khớp có triệu chứng: đi khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi,

khớp chân sưng lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh nhưng tử vong thường xảy ra

lúc 2 - 5 tuần tuổi. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn

chân. Lợn ăn ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ

khớp viêm tấy đỏ, sưng, sờ nắn vào có phản xạ đau (Nguyễn Ánh Tuyết,

2015) [47].

24

Trương Quang Khải và cs. (2012) [15] xác định khả năng mẫn cảm với

kháng sinh của 25 chủng vi khuẩn S.suis phân lập được ở lợn mắc bệnh viêm

phổi tại tỉnh Bắc Giang cho kết quả các chủng vi khuẩn mẫn cảm cao với

ceftiofur (90,2%), florfenicol (88,0%), amoxillin (88,0%) …

2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước

2.3.1. Các nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng

kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến

năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn

nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm

khả năng sống sót của lợn con.

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs., (2002) [16] thì: bệnh viêm tử cung do vi

khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang

lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng

gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo.

Theo tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [3], cho biết: ở những nái bị

viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ,

chiều sốt nặng).

Theo tác giả Trần Tiến Dũng và cs., (2002) [10], khi gia súc bị bệnh

viêm tử cung ở thể viêm cơ, viêm tương mạc thì không nên tiến hành thụt rửa

bằng các chất sát trùng với thể tích lớn. Vì khi bị tổn thương nặng, cơ tử cung

co bóp yếu, các chất bẩn không được đẩy ra ngoài, lưu trong đó làm cho bệnh

nặng thêm. Các tác giả đề nghị nên dùng Oxytoxin kết hợp PGF2α hoặc kết

hợp với kháng sinh điều trị toàn thân và cục bộ.

Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ, (2003) [6], trước khi đẻ lau, xoa vú

và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1h đẻ, cắt răng nanh lợn con.

Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh:

Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú

25

bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các

vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục.

Theo Nguyễn Văn Thanh (2007) [29], kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh

viêm tử cung trên 620 lợn nái ngoại nuôi tại một số trại tại vùng Bắc Bộ cho thấy:

Tỷ lệ nhiễm viêm tử cung ở đàn lợn tương đối cao, biến động từ 36,57% tới

61,07%. Tỷ lệ mắc tập trung ở những lợn nái đẻ lứa đầu đến lứa thứ 8.

Theo Trần Ngọc Bích và cs., (2016) [2], khảo sát tình hình viêm nhiễm

đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và hiệu quả điều trị của một số loại kháng

sinh trên 143 lợn nái sau khi sinh đã phát hiện 106 con tiết dịch nghi viêm

đường sinh dục, chiếm tỷ lệ 74,13 %.

Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [11], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị

bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày.

Tiêm amoxi 15 % 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm

có kết quả điều trị khỏi bệnh cao.

Khi gây bệnh thực nghiệm trên chuột và lợn vi khuẩn Actinobacillus

pleuropneumoniae và vi khuẩn Pasteurella multocida phân lập được có độc

lực cao đối với chuột bạch và lợn, đồng thời khẳng định vi khuẩn là một trong

những nguyên nhân chính gây bệnh đường hô hấp ở lợn. Tác giả đã sử dụng

kết quả này làm cơ sở cho việc lựa chọn chủng để chế Auto vắc xin phòng

bệnh đường hô hấp cho lợn do các vi khuẩn nêu trên gây ra. Mặt khác, còn

cho biết vi khuẩn mẫn cảm cao với các loại kháng sinh rifampicin, ceftazidin,

ciprofloxacin và khuyến cáo nên sử dụng các loại kháng sinh này để điều trị

cho lợn mắc bệnh đường hô hấp.

Khi giám định một số đặc tính sinh vật học của Actinobacillus

pleuropneumoniae cũng khẳng định vi khuẩn bắt màu gram âm, gây dung

huyết mạnh, không di động, không mọc trên môi trường Macconkey, không

sinh Indol, phản ứng catalase, oxidase cho kết quả thất thường, phản ứng

Urease dương tính, lên men các loại đường Maltose, Mannitol, Mannose,

26

Xylose, lên men thất thường các loại đường Galactose, Lactose, không lên

men các loại đường: Glucose, Arabinose, Sorbitol.

Để điều trị hội chứng tiêu chảy ở lợn con, ngoài kháng sinh đặc hiệu

với vi khuẩn đường ruột như: Trimazon, Berberin có hiệu quả điều trị 75 -

80%. Chúng ta cần luôn phối hợp các chế phẩm sinh học Biosubtyl sẽ tăng

hiệu quả điều trị và bổ sung điện giải, tăng tỷ lệ khỏi bệnh từ 80 - 95% con

vật mau hồi phục, đảm bảo số lượng cũng như chất lượng con giống.

2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thê giới đang rất phát triển, các

nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện

pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Tuy

nhiên vấn đề hạn chế bệnh sinh sản là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết,

đặc biệt là bệnh viêm đường sinh dục. Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên

cứu về bệnh viêm đường sinh dục và đã đưa ra các kết luận giúp cho người

chăn nuôi lợn nái sinh sản hạn chế được bệnh này. Tuy vậy, tỷ lệ mắc bệnh

viêm đường sinh dục trên đàn lợn nái sinh sản vẫn rất cao.

Do đó theo Smith (1995) [42], tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh

thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau

khi sinh. Winson khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên

nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ

bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Điều trị bệnh viêm

vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú.

Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả, xác định nguyên nhân không chỉ

dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có

thể dựa vào các kết quả của 30 phòng thí nghiệm. Sự hiểu biết đầy đủ các

phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược động học cho phép đáp

ứng tốt hơn cách điều trị. Chữa bệnh viêm vú cho lợn nái hướng vào việc đưa

ra các phương pháp chữa kết hợp. Dùng novocain phong bế phối hợp với điều

27

trị bằng kháng sinh cho kết quả tốt. Để phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả

đã dùng dung dịch novocain 0,5% liều từ 30 - 40ml cho mỗi túi vú. Thuốc

tiêm vào mỗi thuỳ vú bệnh, sâu 8 - 10cm. Dung dịch ovocain còn được bổ

sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hay kháng sinh khác. Đồng thời, lợn nái

còn được tiêm bắp cùng một loại kháng sinh trong novocain này, từ 400 - 600

đơn vị, mỗi ngày 2 - 3 lần.

Theo Glawisschning E. và Bacher H. (1992) [38], nguyên nhân gây

bệnh phân trắng lợn con chủ yếu là do vệ sinh chuồng trại kém, thức ăn thiếu

dinh dưỡng, chăm sóc quản lý không tốt. Lợn mẹ bị viêm vú, viêm tử cung,

lợn mẹ ăn không đúng khẩu phần.

Chữa bệnh viêm tử cung bằng cách: sử dụng phương pháp tiêm kháng

sinh vào màng treo cổ tử cung của lợn nái, điều trị viêm tử cung đạt hiệu quả

cao: streptomycin 0,25 g, penicillin 500.000 UI, dung dịch KMnO4 1% 40 ml

+ VTM C (Smith và cs., 1995) [42].

28

Phần 3

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN

3.1. Đối tượng thực hiện

- Đàn lợn nái ngoại sinh sản và lợn con.

3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành

- Địa điểm: Trại lợn Nguyễn Thanh Lịch, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, Hà Nội.

- Thời gian: Từ ngày 18/05/2018 đến ngày 25/11/2018.

3.3. Nội dung thực hiện

- Đánh giá tình hình chăn nuôi của trại từ năm 2016 đến tháng 5 năm 2018.

- Thực hiện quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc cho đàn lợn nái và lợn con

theo mẹ nuôi tại trại.

- Thực hiện công tác vệ sinh và phòng bệnh cho đàn lợn.

- Thực hiện công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn.

- Các công tác khác.

3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp thực hiện

3.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi

- Cơ cấu đàn lợn tại thời điểm thực tập.

- Khối lượng công việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại.

- Số lượng tiêm vắc xin phòng bệnh.

- số lượng lợn nái được chẩn đoán và điều trị bệnh.

- Số lượng lợn con được chẩn đoán và điều trị bệnh.

- Số lượng lợn con được can thiệp thủ thuật.

- Khối lượng công việc nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn.

- Tỷ lệ khỏi:

Σ Số nái khỏi bệnh

- Tỷ lệ khỏi (%) = x 100 Σ Số nái điều trị

Σ Số ngày điều trị x 100 - Thời gian điều trị khỏi (ngày/con) = Σ Số nái điều trị khỏi

29

3.4.2. Phương pháp theo dõi

3.4.2.1. Phương pháp đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại

Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại, chúng tôi tiến hành thu thập

thông tin từ trại, kết hợp với kết quả điều tra, theo dõi của bản thân.

3.4.2.2. Phương pháp áp dụng quy trình kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng,

phòng và trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con nuôi tại trại

* Về quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn nái

Đàn lợn nái tại trại được chăm sóc nuôi dưỡng theo đúng quy định và

được chia ra làm 3 giai đoạn:

+ Giai đoạn lợn hậu bị

+ Giai đoạn lợn nái chửa

+ Giai đoạn lợn nái đẻ

Kết hợp với cán bộ kỹ thuật của trại, chỉ đạo công nhân, chăn nuôi lợp lý,

khoa học với từng giai đoạn, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cụ thể như sau:

+ Giai đoạn lợn nái hậu bị

Lợn ở giai đoạn này được chọn lọc kỹ lưỡng và tỉ mỉ từ các con giống

của trại.

Chuồng nuôi thông thoáng, sạch sẽ, mát mẻ, nền chuồng bằng phẳng không

bị đọng nước, có đủ nước cung cấp cho lợn uống tự do bằng núm ty van thẳng.

Mức cho ăn: 2,2 kg/con/ngày, loại cám hỗn hợp, kết hợp thường xuyên

kiểm tra ngoại hình để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.

+ Giai đoan lợn nái chửa

Để khối lượng sơ sinh của lợn con cao, lợn sơ sinh khỏe mạnh thì chăm

sóc lợn mẹ ở giai đoạn mang thai là hết sức quan trọng.

Nái mang thai chia làm 2 giai đoạn:

- Nái chửa kỳ 1 (từ tuần 1 đến tuần 13)

Đây là giai đoạn trứng được thụ tinh, phôi làm tổ ở tử cung, bào thai

phát triển chậm.

30

Chuồng trại nuôi lợn nái chửa kỳ 1 phải đảm bảo luôn thoáng mát, nhốt

riêng mỗi con 1 ô chuồng.

Thức ăn cho lợn là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh 566SF. Mỗi con cho ăn

1,6 – 2.5kg/con/ngày.

- Nái chửa kỳ 2 (từ tuần 15 đến khi đẻ):

Đây là giai đoạn cuối cùng của thời kỳ mang thai. Bào thai phát triển

nhanh, khối lượng sơ sinh của lợn con đạt được chủ yếu là nhờ sự phát triển

trong giai đoạn này.

Thức ăn của lợn là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh 567SF. Lượng thức ăn

cho ăn: 2,2kg/con/ngày.

Bảng 3.1. Quy định khối lượng thức ăn chuồng lợn nái có chửa

Loại lợn Tiêu chuẩn thức ăn Kg/con/ngày

Loại thức ăn 567SF Đực hậu bị 2.5

Đực khai thác 567SF 3.0

Nái hậu bị chờ phối 567SF 2.4

Nái cai sữa 567SF 3.0

Từ 1-4 Từ 5- Từ 13 Nái mang thai Từ 15 tuần tuần 12 tuần tuần

Nái hậu bị mang thai 566SF 2.2 1.6 2.2 2.2- 567SF

Nái rạ mang thai 566SF 2.2 1.6 2.5 2.5- 567SF

Lưu ý: Ngoài quy định tiêu chuẩn thì có thể điều chỉnh khối lượng và

loại thức ăn tùy theo thể trạng lợn.

31

Thức ăn cho nái mang thai phải kiểm soát được độc tố nấm mốc và các

chất dinh dưỡng sao cho không gây táo bón, không nứt móng, chất lượng phải

ổn định liên tục.

Thường xuyên vệ sinh máng ăn để hạn chế nấm mốc phát triển.

- Công tác chăm sóc lợn nái chửa

Trước khi đẻ 10 ngày cần tẩy nội ngoại ký sinh trùng bằng trộn thuốc

BMD vào cám cho lợn nái ăn.

- Chuồng trại:

Bố trí chuồng trại sao cho khu nuôi dưỡng nái mang thai được yên tĩnh,

ít bị kích động bởi các hoạt động khác trong trại. Chuồng nuôi phải được thiết

kế tạo sự thông thoáng cho nái mang thai được ngủ nhiều, đặc biệt là giai

đoạn gần đẻ. Nền chuồng khô ráo, có độ nhám thích hợp, không trơn trượt dễ

gây té ngã.

Lưu ý: Cung cấp đủ nước sạch và mát cho nái mang thai, khoảng 11

lít/con/ngày. Thường xuyên quan sát tình trạng vôi trong nước tiểu và mủ từ

âm hộ để có biện pháp can thiệp kịp thời.

+ Giai đoạn lợn nái đẻ

- Chăm sóc lợn mẹ:

Trước khi đẻ ngày đẻ dự kiến 7 - 10 ngày thì phải đưa lợn chửa lên

chuồng đẻ để chờ đẻ. Căn cứ vào ngày đẻ dự kiến dưới chuồng bầu mà xếp

theo các ô chuồng. Trước khi chuyển lợn lên chuồng đẻ, chuồng phải được

dọn dẹp và rửa sạch sẽ. Lợn chuyển lên phải được ghi đầy đủ thông tin lên

bảng ở đầu mỗi ô chuồng.

Phân công trực đẻ, theo dõi đỡ đẻ cho lợn và can thiệp kịp thời khi cần

thiết, tránh những thiệt hại đáng tiếc xảy ra.

Nước uống cho lợn nái luôn được cung cấp đảm bảo, nước sạch, mát và

đủ. Thức ăn cho lợn nái trước khi đẻ và sau đẻ.

32

Bảng 3.2. Quy định khối lượng thức ăn chuồng đẻ

Đối với nái hậu bị

Chế độ ăn (kg/con/ngày)

Trước/sau ngày đẻ

Đối với nái dạ Chế độ ăn (kg/con/ngày) Sáng Chiều Tổng

Sáng

Chiều

Tổng

Trước đẻ dự kiến 4 ngày

1.5

1.5

3

1.2

1.0

2.2

Trước đẻ dự kiến 3 ngày

1.5

1.0

2.5

1.0

1.0

2.0

Trước đẻ dự kiến 2 ngày

1.0

1.0

2.0

1.0

0.7

1.7

Trước đẻ dự kiến 1 ngày

1.0

0.5

1.5

1.0

0.5

1.5

Ngày đẻ

0.5

0.5

1.0

0.5

0.5

1.0

Sau đẻ 1 ngày

0.5

0.5

1.0

0.5

0.5

1.0

Sau đẻ 2 ngày

1

1

2.0

1

1

2.0

Sau đẻ 3 ngày

1.5

1.5

3.0

1.5

1.5

3.0

Sau đẻ 4 ngày

2

2

4.0

2

2

4.0

Sau đẻ 5 ngày

2.5

2.5

5.0

2.5

2.5

5.0

Sau đẻ 6 ngày

3.0

3.0

6.0

2.5

2.5

5.0

Lưu ý: Lợn nái bỏ ăn thì giảm 50% khẩu phần ăn so với tiêu chuẩn.

* Về quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con

Đàn lợn con tại trại được chăm sóc nuôi dưỡng theo quy định và quy

trình được chia làm 3 giai đoan :

+ Lợn con từ 1 - 4 ngày tuổi.

+ Lợn con từ 5 - 21 ngày tuổi.

+ Lợn con cai sữa (21 ngày tuổi ).

Cần kết hợp với cán bộ kỹ thuật của trại, chỉ đạo công nhân, chăn nuôi hợp

lý, khoa học với từng giai đoạn, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cụ thể như sau:

+ Lợn con từ 0 - 4 ngày tuổi

Lợn con đẻ sau 5h tiến hành cắt đuôi.

Sau đẻ 24h ta tiến hành mài nanh, tiêm sắt, cho uống cầu trùng, bấm số

tai lợn con.

+ Lợn con từ 5 – 21 ngày tuổi

Lợn con bắt đầu được cho tập ăn sớm (đặt máng ăn trong ô chuồng lợn

con và cho một ít thức ăn để lợn làm quen với thức ăn, sau khi lợn đã ăn được

33

ta tăng dần lượn thức ăn), tại trang trại sử dụng cám 550 và 550P để cho lợn

con tập ăn.

Lợn con được 6 ngày tuổi ta bắt đầu thiến heo đực

Lợn con sau khi được 14 ngày tuổi, tiến hành làm vắc xin Myco + Circo.

Lợn con được 21 ngày tuổi, tiến hành làm vắc xin dịch tả.

Trong thời gian này hàng ngày heo được điều trị hội chứng tiêu chảy và

các bệnh khác ( thiếu sắt, xù lông , khớp …).

+ Lợn con cai sữa ( 21 ngày tuổi)

Khi lợn đã được 21 ngày tuổi sau khi phòng bệnh bằng vắc xin, tiến

hành cai sữa đối với những cá thể đạt trọng lượng từ 5 kg đến 7 kg.

Bảng 3.3. Lịch phòng bệnh áp dụng tại trại

Tuổi

Vắc-xin

Liều|con

Công ty

Loại lợn

Phương Pháp

PRRS(1) Tiêm bắp

2ml

Boehringer

Sau khi nhập về 0 - 7 ngày

Tiêm bắp

MSD

2ml

Sau khi nhập về 7 - 14

Pavo(1)

ngày

Tiêm bắp

Zoetis

5ml

Sau khi nhập về 14 - 21

Ceva/

CS.F

Tiêm bắp

2ml

Lợn

ngày

Choong ang

AD

Tiêm bắp

MSD

2ml

Sau khi nhập về 21 - 28

hậu bị lợn và

ngày

FMD(1) Tiêm bắp

Merial

2ml

đực thay thế

PRRS(2) Tiêm bắp

2ml

Boehringer

Sau khi nhập về 28 - 35 ngày

Tiêm bắp

MSD

2ml

Sau khi nhập về 35 - 42

Pavo(2)

Tiêm bắp

Zoetis

5ml

ngày sau khi tiêm vắc xin PRRS mũi 2 ít nhất

FMD (2) Tiêm bắp

Merial

2ml

30 ngày

Chuyển Heo

Mang thai tuần thứ 10

CS.F

Tiêm bắp

Ceva/Choong ang

2ml

Mang thai tuần thứ 12

FMD

Tiêm bắp

Merial

2ml

Lợn nái

Tổng đàn tháng 3,7,11

PRRS

Tiêm bắp

Boehringer

2ml

Tổng đàn tháng 4,8,12

AD

Tiêm bắp

MSD

2ml

Myco

Tiêm bắp

2ml

10 – 14 ngày

Circo

Tiêm bắp

2ml

Lợn con

21 ngày

SVF1

Tiêm bắp

2ml

34

3.4.2.3. Phương pháp thực hiện quy trình phòng trị bệnh cho đàn lợn nái và

lợn con nuôi tại trại

Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn nái, lợn con. Chúng tôi

tiến hành theo dõi hàng ngày thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng.

Bằng mắt thường đánh giá qua biểu hiện lâm sàng như trạng thái cơ thể, bộ

phận sinh dục ngoài, các dịch rỉ viêm (màu sắc, mùi...), tình trạng sức khỏe

lợn con, khả năng vận động,..

3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu

Các số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel 2010.

35

Phần 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. Kết quả đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại

Hiện nay, trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45 lứa/năm. Số

con sơ sinh là 12,22 con/đàn, số con cai sữa: 11,20 con/đàn. Trại hoạt động

vào mức khá theo đánh giá của công ty chăn nuôi CP Việt Nam.

Tại trại, lợn con theo mẹ được nuôi đến 21 ngày tuổi, chậm nhất là 26

ngày thì tiến hành cai sữa và chuyển sang các trại lợn thịt của công ty.

Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi của trại từ năm 2016 đến tháng 5/2018

Số lượng (con) STT Loại lợn 2016 2017 5/2018

1 Lợn đực giống 23 19 21

2 Lợn nái sinh sản 1221 1.080 1.086

3 Lợn hậu bị 229 148 222

4 Lợn con 30.273 29.200 30.400

Bảng 4.1 cho thấy, số lượng các loại lợn của trại là rất khác nhau và có

sự chênh lệch rõ rệt. Số lợn con và lợn nái sinh sản là cao nhất, do trạng trại

chỉ sản xuất lợn giống. Số lượng lợn nái sinh sản và lợn đực giống của trại

tăng lên do nhu cầu cung cấp giống ngày càng cao. Tại trại, từng con lợn nái

được theo dõi tỉ mỉ, các số liệu liên quan như số tai, ngày phối giống, ngày đẻ

dự kiến,... được ghi trên thẻ gắn tại chuồng nuôi.

Số lượng lợn con sản xuất tính đến tháng 5/2018 là lớn , điều đó cho

thấy năng suất trại tăng. Trang trại đã dần ổn định đi vào sản xuất chăn nuôi,

mặt khác, với sự lãnh đạo quan tâm, sát sao của ban quản lý trại do đó mà

công tác phòng bệnh và trị bệnh của trại ngày càng tốt hơn, chú trọng hơn nên

dịch bệnh tại trại hầu như không xảy ra.

36

4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nuôi

tại trại

4.2.1. Kết quả chăm sóc, nuôi dưỡng cho đàn lợn nuôi tại trại

Chăm sóc, nuôi dưỡng là một trong những quy trình không thể thiếu

của bất kỳ trại chăn nuôi nào. Chính vì vậy, trong suốt 6 tháng thực tập tại

trại, tôi đã thường xuyên được tham gia các công việc về nuôi dưỡng, chăm

sóc cho đàn lợn tại trại. Tôi đã được học hỏi và mở mang kiến thức rất nhiều

về cách cho ăn, thức ăn dành cho từng loại lợn, các thao tác kỹ thuật để chăm

sóc lợn con tốt...

Kết quả thực hiện cụ thể được trình bày ở bảng 4.2.

Bảng 4.2. Kết quả chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn

TT Công việc Tỷ lệ (%) Số lượng (con) Số lượng chết/ loại thải (con) Kết quả đạt yêu cầu (con)

Nuôi dưỡng, chăm 1 180 0 180 100 sóc lợn nái đẻ

Nuôi dưỡng, chăm 2 2.200 106 2.094 95,20 sóc lợn con theo mẹ

Nuôi dưỡng, chăm 3 2.094 78 2.016 96,27 sóc lợn con cai sữa

Bảng 4.2 cho thấy, số lợn con chết và loại thải tương đối thấp. Từ kết

quả trên có thể tính được số con trung bình trên một ổ là 12,22 con, số con cai

sữa trung bình là 11,2 (con/ ổ). Điều đó cho thấy con giống của trại có năng

suất tốt, ngoài ra để có được kết quả như vậy cũng cần phải có kỹ thuật nuôi

dưỡng, chăm sóc hợp lý. Trong suốt quá trình thực tập, tôi luôn theo dõi sát

sao đàn lợn, nắm bắt tình hình, phát hiện và điều trị kịp thời những con bị ốm,

điều chỉnh khẩu phần ăn phù hợp với từng cá thể trong đàn.

37

Trong 6 tháng thực tập tại trại, tôi còn được tham gia vào công tác xuất

lợn con của trại. Thông thường, lợn con tại trại sau 21 ngày sẽ được cai sữa và

nuôi thêm 2 - 3 ngày nữa rồi xuất bán. Lợn con được xuất vào chủ nhật hoặc

thứ 2 hàng tuần và thường xuất vào buổi chiều đối với mùa hè và buổi sáng

đối với mùa đông. Trước khi xuất lợn kỹ sư của trại sẽ đi đánh dấu những con

lợn nào khỏe mạnh, đủ tiêu chuẩn xuất bán bằng mực xanh để thuận tiện cho

công nhân lúc bắt. Công nhân sẽ bắt những con lợn nào được đánh dấu sẽ bắt

ra và đuổi ra khu xuất lợn, sau đó tất cả được bắt lên xe nhận lợn. Việc xuất

bán lợn con được thực hiện trung bình 1 lần/tuần, như vậy trong 6 tháng thực

tập tại trại có 24 lần xuất lợn con và tôi tham gia được 10 lần (hoành thành

nhiệm vụ 100%).

* Công việc hàng ngày tôi đã thực hiện trong 6 tháng thực tập:

- Chuồng đẻ:

+ Nhận ca: kiểm lợn và kiểm tra quạt gió, bóng đèn. Kiểm tra nhiệt độ

đầu chuồng (nhiệt độ thích hợp đầu chuồng là 27oC).

+ Lật máng, vệ sinh máng ăn và cho lợn nái ăn theo khẩu phần. Cho ăn

2 bữa/ngày. Bón thức ăn cho lợn bỏ ăn.

+ Thay thảm lót bẩn vào đầu buổi sáng và buổi chiều cho ra bể ngâm

sát trùng.

+ Lau máng và tra thức ăn cho lợn con tập ăn.

+ Rắc vôi, quét 3 đường hành lang, cuối chuồng.

+ Vắt sữa của lợn nái sắp đẻ và đang đẻ (sữa đầu) để bón cho lợn con

nhỏ không tranh bú được.

+ Đỡ đẻ cho lợn nái: Lau vú (nếu bẩn), lau mông, lau sàn.

+ Mài nanh, bấm số tai lợn con 1 ngày tuổi.

+ Thiến lợn con.

+ Điều trị lợn còi, lợn viêm phổi, viêm khớp vào buổi sáng. Điều trị lợn

tiêu chảy vào buổi chiều.

38

+ Đếm lợn con và ghi vào sổ theo dõi vào cuối ngày.

+ Chỉnh lại số liệu bảng cám vào cuối ngày.

- Chuồng nái có chửa (chuồng bầu)

+ Cào phân.

+ Hót phân lên xe rùa rồi đẩy ra kho.

+ Tắm cho lợn đầu giờ chiều lúc mùa hè, xịt máng, xịt gầm, đổ vôi nền

chuồng vào thứ 3 và thứ 5.

4.2.2. Kết quả thực hiện một số thao tác kỹ thuật trên đàn lợn con tại trại

Trong thời gian thực tập tại trại, chúng tôi vừa tham gia chăm sóc, nuôi

dưỡng đàn lợn vừa được học và làm một số các thao tác trên lợn con như đỡ lợn

đẻ, mài nanh, bấm số tai, thiến lợn đực. Kết quả được trình bày ở bảng 4.3.

Bảng 4.3. Kết quả thực hiện một số thao tác kỹ thuật trên đàn lợn con

Kết quả (an toàn)

STT Công việc Số lượng (lợn con) Tỷ lệ (%)

1 2 3 4 Đỡ lợn đẻ Mài nanh Bấm số tai Thiến lợn đực 2.200 100 2.257 765 Thực hiện (lợn con) 2.200 100 2.257 765 100 100 100 100

Qua bảng 4.3 có thể thấy, trong 6 tháng thực tập, tôi đã thực hiện các

công việc thủ thuật trên đàn lợn con và đạt hiệu quả cao.

Tôi đã đỡ đẻ cho 180 lợn nái được 2.200 lợn con ra đời an toàn và đúng

kỹ thuật.

Vì lợn con sau khi sinh cần phải mài nanh để không làm tổn thương vú

lợn mẹ khi bú cũng như tránh việc lợn con cắn nhau. Tổ trưởng chuồng đẻ

chịu trách nhiệm mài nanh, tôi cũng đã thực hiện mài nanh cho 100 lợn con,

đạt tỷ lệ an toàn 100%.

Bấm số tai sớm để vết thương nhanh liền, ít chảy máu và giảm stress

cho lợn con nên công việc bấm tai cũng hết sức quan trọng. Tôi đã tham gia

bấm tai cho 2.257 lợn con và an toàn 100%.

39

Số lượng lợn con bị hecni tại trại rất thấp. Trong 6 tháng thực tập, tôi

đã theo dõi và phát hiện được 51 con lợn con bị hecni và tổ trưởng chuồng đẻ

đã tiến hành mổ được 51 con (tỷ lệ khỏi 100%). Nguyên nhân dẫn đến lợn

con bị hecni chủ yếu là do khi đẻ ra lợn con đã bị, một phần là do trong quá

trình thao tác kỹ thuật thiến lợn không đúng làm sa ruột bẹn hay cắt rốn

không đúng làm sa cuốn rốn.

4.3. Kết quả thực hiện quy trình phòng bệnh cho đàn lợn

4.3.1. Phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh, sát trùng tại trại

Trong các biện pháp phòng chống dịch bệnh, việc sát trùng nhằm đảm

bảo vệ sinh chuồng trại và tiêu diệt mầm bệnh là một trong những biện pháp

hữu hiệu và được thực hiện ở tất cả các trại chăn nuôi. Công tác vệ sinh trong

chăn nuôi là một trong những khâu rất quan trọng. Nếu công tác vệ sinh được

thực hiện tốt thì gia súc ít mắc bệnh, sinh trưởng và phát triển tốt, chi phí

thuốc thú y thấp, làm cho hiệu quả chăn nuôi cao hơn.Vì vậy, để góp phần

bảo vệ đàn lợn, trong 6 tháng thực tập, chúng tôi đã thường xuyên tiến hành

vệ sinh, sát trùng chuồng trại, khử trùng dụng cụ chăn nuôi và tắm sát trùng

trước và sau khi vào khu chăn nuôi.

Kết quả được trình bày cụ thể ở bảng 4.4.

Bảng 4.4. Phòng bệnh bằng phương pháp vệ sinh, sát trùng tại trại

Tổng số

Hoàn

STT

Công việc

Thực hiện

lượt thực

thành

hiện

(%)

Vệ sinh chuồng trại hàng ngày

2 Lượt/ngày

360

100

1

Phun sát trùng định kỳ xung

2 Ngày/tuần

48

100

2

quanh trang trại

Phun sát trùng trong chuồng

260 m2

1560

100

3

Quét và rắc vôi đường đi

7 Ngày/tuần

180

100

4

Tắm sát trùng

1 Lượt/ngày

180

100

5

40

Kết quả bảng 4.4 cho thấy, trong suốt quá trình thực tập, chúng tôi luôn

nỗ lực hoàn thành tốt tất cả các công việc do chủ trại, kỹ sư và các cán bộ kỹ

thuật của trang trại giao cho. Ngoài ra, vệ sinh sát trùng được xem là một

khâu hết sức quan trọng, nhận thức được điều này, chúng tôi đã cố gắng thực

hiện, mặc dù đây cũng là một trong những công việc vất vả mà trước khi vào

trang trại, chúng tôi chưa từng phải thực hiện với khối lượng công việc lớn

như vậy. Qua đây, chúng tôi cũng đã học tập và rèn luyện bản thân vững

vàng, chín chắn hơn, vượt lên chính mình và tự tin trước khi ra trường.

4.3.2. Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn tại trại bằng thuốc và vắc xin

Quy trình tiêm phòng, phòng bệnh cho đàn lợn của trang trại được thực

hiện tích cực, thường xuyên và bắt buộc. Tiêm phòng cho đàn lợn nhằm tạo ra

trong cơ thể chúng một sức miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi

khuẩn, tăng sức đề kháng cho cơ thể.

Việc phòng bệnh bằng vắc xin luôn được cán bộ kĩ thuật coi trọng và

đặt lên hàng đầu với mục tiêu phòng hơn chống. Do đặc thù trại nái ngoại

chuyên sản xuất con giống nên trại có đủ các loại lợn ở mọi lứa tuổi khác

nhau. Chính vì vậy việc theo dõi và thực hiện lịch tiêm phòng vắc xin chính

xác là rất quan trọng. Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin cho đàn lợn được

thể hiện qua bảng.

Quy trình phòng bệnh bằng vắc xin luôn được trại thực hiện nghiêm

túc, đầy đủ và đúng kỹ thuật. Lợn được tiêm vắc xin ở trạng thái khỏe mạnh,

được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và các bệnh

mãn tính khác để tạo được trạng thái miễn dịch tốt nhất.

Trong 6 tháng thực tập tại trại, tôi đã được tham gia vào quy trình

phòng bệnh cho đàn lợn con.

Kết quả của việc áp dụng quy trình phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin

cho đàn lợn con tại trại được trình bày qua bảng 4.5.

41

Bảng 4.5. Kết quả phòng bệnh cho đàn

lợn con nuôi tại trại

Tuần tuổi phòng Phòng bệnh Tỷ lệ an toàn (%) Vắc xin/ Thuốc/chế phẩm Đường đưa thuốc Liều lượng (ml/con)

1 - 2 ngày Thiếu sắt Fe + B12 Tiêm Số lượng lợn (con) 2.257 100 2

1 - 2 ngày Cầu trùng Uống 2.257 100 2

Totrazil, Diacoxin 5%

2 10 - 14 ngày Viêm phổi 5.012 100 Myco - pac Tiêm bắp

2 10 - 14 ngày Circovirus Circovac 5.012 100 Tiêm bắp

2 21 ngày Dịch tả Coglapest 5.012 100 Tiêm bắp

Qua kết quả bảng 4.5, có thể thấy được kết quả tổng quát về việc phòng

cho đàn lợn con tại trại bằng thuốc và vắc xin. Lợn con sau 1 - 2 ngày tuổi

được tiêm NOVA Fe + B12 để phòng thiếu sắt, thuốc phòng trị cầu trùng và

nâng cao sức đề kháng cho lợn con, 100% lợn con sau khi sinh sẽ được tiêm.

Trong 6 tháng thực tập, tôi đã tiêm NOVA Fe + B12 cho 2.257 lợn con được

1 - 2 ngày tuổi và đạt an toàn 100%, uống thuốc phòng trị bệnh cầu trùng cho

2.257 lợn con và an toàn 100%.

Ngoài ra, tiêm vắc xin phòng bệnh dịch tả lợn cho 5.012 lợn con từ 21

ngày tuổi và tiêm vắc xin Myco – pac + Circovac cho 5.012 lợn con từ 10 - 14

ngày tuổi, đạt an toàn 100%.

4.4. Kết quả thực hiện điều trị bệnh cho đàn lợn nuôi tại trại

Trong thời gian 6 tháng thực tập tại trại, tôi đã được tham gia vào công

tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn cùng với các anh kỹ sư của trại.

Qua đó, tôi đã được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm về chẩn đoán một

42

số bệnh thường gặp, nguyên nhân gây bệnh và cách khắc phục, điều trị bệnh.

Làm tốt công tác chẩn đoán sẽ giúp con vật nhanh chóng khỏi bệnh, giảm tỷ

lệ chết, giảm thời gian dùng thuốc và giảm thiệt hại về kinh tế. Vì vậy, hàng

ngày, chúng tôi cùng cán bộ kỹ thuật tiến hành theo dõi lợn ở các ô chuồng

phát hiện những lợn có biểu hiện khác thường.

Khi mới phát bệnh, lợn không có biểu hiện triệu chứng điển hình,

thường thấy con vật ủ rũ, mệt mỏi, ăn uống giảm hoặc bỏ ăn, lười hoạt đông,

thân nhiệt tăng. Do vậy, để chẩn đoán chính xác được bệnh không những dựa

vào biểu hiện bên ngoài của con vật mà còn phải dựa vào kinh nghiệm của

cán bộ kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao và đôi khi còn phải sử dụng

những biện pháp phi lâm sàng khác.

Từ việc chẩn đoán và phát hiện bệnh sớm, dưới sự chỉ bảo và giám sát

của cán bộ kỹ thuật, tôi đã tiến hành điều trị một số bệnh thường gặp trên lợn

con. Kết quả của công tác điều trị bệnh trên đàn lợn con được thể hiện qua

bảng 4.6.

Bảng 4.6. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn con

TT

Tên bệnh

Phác đồ điều trị

Số lợn điều trị khỏi (con)

Tỷ lệ khỏi (%)

Số lợn con điều trị (con)

NOVA - Amcoli:

Hội chứng

1ml/10kg TT, Tiêm

2.622

92,0

2.850

1

tiêu chảy

bắp

Điều trị 3 - 5 ngày

paxxcel: 1ml/10kgTT.

Hội chứng

2

98

Tiêm bắp, ngày/lần.

96

97,95

hô hấp

Điều trị từ 3 - 6 ngày

Pendistrep:

3

Viêm khớp

108

1ml/10kgTT Tiêm bắp

94

87,0

Điều trị 3 - 5 ngày

43

Kết quả bảng 4.6 cho thấy:

Tôi đã tham gia điều trị 2.850 lợn con bị tiêu chảy. Tuy nhiên, số con

điều trị khỏi chỉ đạt 2.622 lợn con, tương ứng 92,0%. Triệu chứng của bệnh

thường gặp ở lợn con từ 5 - 21 ngày tuổi. Lợn tiêu chảy phân màu vàng trắng,

trắng xám, sau đó là vàng xanh, mùi phân hôi tanh. Lợn mất nước và mất chất

điện giải gầy sút nhanh, bú kém, đi lại không vững. Bệnh kéo dài thì bụng tóp

lại, lông xù, hậu môn và đuôi dính phân bê bết. Nếu không điều trị kịp thời

lợn con chết rất nhanh. Nguyên nhân là do lợn con mới đẻ ra sức đề kháng

yếu dễ chịu tác động của điều kiện ngoại cảnh bên ngoài, hệ tiêu hóa chưa

hoàn thiện nên khả năng khỏi bệnh không cao.

Trong thời gian thực tập, Tôi cũng đã tham gia điều trị cho 98 lợn con

bị hội chứng hô hấp. Nguyên nhân: Do quá trình vệ sinh chuồng nuôi chưa

được tốt, không khí trong chuồng nuôi nhiều bụi bẩn và các loại vi sinh vật

gây bệnh, thức ăn quá khô hoặc bị mốc sinh nhiều bụi nên trong khi ăn lợn

phải hít từ một số bệnh khác cũng dẫn tới viêm phổi. Triệu chứng lâm sàng

của bệnh viêm phổi thể hiện ra bên ngoài như: lợn kém ăn, ủ rũ hoặc sốt nhẹ,

lợn thở nhanh và thở thể bụng sờ tay vào gốc tai nóng. Tôi đã điều trị khỏi

96/98 con, hiệu quả điều trị đạt 97,95%. Thuốc điều trị viêm phổi được dùng

nhiều tại trại là Paxxcel, hiệu quả điều trị khá cao.

Ngoài ra, dưới sự hướng dẫn của kỹ sư của trại, tôi đã trực tiếp điều trị

cho 108 con bị viêm khớp. Lợn con thường đi khập khiễng từ 3 - 4 ngày tuổi,

khớp chân sưng lên vào ngày 7 - 15 sau khi sinh nhưng tử vong thường xảy ra

lúc 2 - 5 tuần tuổi. Thường thấy viêm khớp cổ chân, khớp háng và khớp bàn

chân. Lợn ăn ít, hơi sốt, chân lợn có hiện tượng què, đi đứng khó khăn, chỗ

khớp viêm tấy đỏ, sưng, sờ nắn vào có phản xạ đau. Tôi đã cùng kỹ sư của

trại điều trị khỏi 94/108 con, tỷ lệ khỏi đạt 87,0%.

Ngoài việc, chẩn đoán và điều trị cho đàn lợn con, tôi còn được tham

gia thực hiện đối với đàn lợn nái. Kết quả điều trị bệnh cho đàn lợn nái được

trình bày ở bảng 4.7.

44

Bảng 4.7. Kết quả điều trị bệnh trên đàn lợn nái

TT Tên bệnh Phác đồ điều trị

Tỷ lệ khỏi (%) Số lượng điều trị (con) Số lợn điều trị khỏi (con)

Hiện tượng đẻ Dùng oxytoxin, liều 49 1 47 96 khó lượng 2 ml/con

Chườm nước đá

lạnh, tiêm analzine 2 Bệnh viêm vú 2 2 100 kết hợp với tiêm

vetrimoxin LA

Dùng oxytocin; cồn

iod 10% làm sạch tử Bệnh viêm tử 6 cung, đồng thời tiêm 6 100 3 cung amoxinject LA

20ml/con/ngày

Vệ sinh bằng cồn Iod

Bệnh tử cung lộn 10%, khâu, kết hợp 2 2 100 4 tiêm amoxinject LA bít tất

20ml/con/ngày

Kết quả bảng 4.7 cho thấy:

Trong tổng số 49 con lợn nái xảy ra hiện tượng đẻ khó, chúng tôi đã

can thiệp thành công 47 ca đẻ khó, đạt 96%.

Biện pháp can thiệp tôi đã áp dụng là: khi phát hiện có những biểu hiện

chuẩn bị cho việc sinh sản, thường dùng thuốc oxytoxin 2 ml/con và theo dõi

trong khoảng 10-20 phút mà không thấy lợn con ra, lúc đó chúng tôi tiến hành

bằng phương pháp ngoại khoa là dùng tay móc thai ra hoăc sử dụng dây dù

móc vào răng nanh lợn con ,sau khi móc thai ra ngoài hết tiêm pendistrep LA

45

có thành phần pennicillin có tác dụng chống viêm nhiễm sau đẻ và truyền

nước (sử dụng glucoza 5%), số ca can thiệp an toàn đạt 100%. Do thời gian

đầu tôi chưa thành thạo công việc, kỹ thuật can thiệp chưa tốt, một số trường

hợp do thai đã chết ngạt từ trước khi lợn mẹ có biểu hiện đẻ nên không can

thiệp được, hoặc thai quá to và không lấy ra được khỏi tử cung của con mẹ.

Theo kết quả bảng trên, trong số 2 nái bị viêm vú, tôi đã tham gia điều

trị khỏi 2 lợn nái, đạt 100%. Biện pháp điều trị được áp dụng là: phong bế

giảm đau bầu vú bằng cách chườm nước đá lạnh (cục bộ), tiêm analzine kết

hợp với tiêm vetrimoxin LA (toàn thân). Kết quả điều trị như trên là do có

trường hợp lợn nái bị viêm vú quá lâu hoặc nái nhiều lứa nên điều trị không khỏi.

Tôi cũng đã điều trị 6 lợn nái bị viêm tử cung, khỏi được 6 nái, đạt

100%. Kết quả này do 1 số trường hợp nái quá già (nái đẻ lứa thứ 12) và bị

viêm nhiều lần nên không chữa khỏi hoặc nái bị viêm lại sau quá trình chăm

sóc. Biện pháp điều trị tôi đã áp dụng: bằng cách đẩy hết dịch mủ ra ngoài và

sát trùng cơ quan sinh dục rồi tiến hành điều trị bằng kháng sinh. Thuốc dùng

để đẩy mủ và các chất khác trong tử cung sử dụng oxytoxin. Thuốc làm cơ tử

cung co bóp đẩy các chất trong tử cung ra ngoài, sau đó tiến hành thụt rửa

nhiều lần bằng cồn iod 10% để làm sạch tử cung đồng thời tiêm amoxinject

LA 20 ml/con/ngày thuốc có tác dụng chống viêm. Kết quả điều trị khỏi 100%.

Cùng với kỹ sư của trại, chúng tôi tiến hành can thiệp 2 nái bị tử cung

lộn bít tất. Biện pháp điều trị mà chúng tôi áp dụng là: dùng cồn iod 10% rửa

sạch phần tử cung lộn ra ngoài, dùng tay ấn nhẹ nhàng đưa tử cung vào đúng

vị trí, dùng kim khâu và chỉ đã được sát trùng khâu lại, tiêm amoxinject LA

20ml/con/ngày, sau 3 ngày tháo chỉ. Kết quả chữa khỏi 100%.

46

Phần 5

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

5.1. Kết luận

- Về hiệu quả chăn nuôi của trại:

Trung bình lợn nái của trại sản xuất được 2,45 lứa/năm. Số con sơ sinh

là 12,22 con/đàn, số con cai sữa: 11,20 con/đàn. Trại hoạt động vào mức khá

theo đánh giá của công ty chăn nuôi CP Việt Nam.

- Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh

cho đàn lợn tại trại:

Qua 6 tháng thực tập tại trại, tôi đã được học hỏi và chỉ dạy rất nhiều

điều về kiến thức cũng như các thao tác kỹ thuật trong chăm sóc nuôi dưỡng

và phòng trị bệnh cho đàn lợn. Những công việc tôi đã được học và thực hiện

như sau:

+ Đỡ lợn đẻ cho 180 nái được 2.200 lợn con ra đời an toàn và đúng kỹ thuật.

+ Mài nanh 100 lợn con, bấm số tai 2.257 lợn con, bấm đuôi 2.200 lợn con.

+ Thiến lợn đực 765 con tỷ lệ an toàn đạt 100%.

+ Tham gia vào quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn con và lợn mẹ

của trại (cho lợn ăn, tắm chải cho lợn mẹ, dọn vệ sinh chuồng…) đạt hiệu quả

cao và hoàn thành 100% nhiệm vụ được giao.

+ Tham gia sử dụng vắc xin và vệ sinh sát trùng để phòng bệnh cho đàn

lợn tại trại đạt hiệu quả cao.

+ Điều trị hội chứng tiêu chảy, hội chứng hô hấp và viêm khớp cho lợn

con, tỷ lệ khỏi cao đạt từ 87% trở lên.

+ Điều trị ca đẻ khó, viêm vú, viêm tử cung cho lợn nái, tỷ lệ khỏi cao

đạt từ 96% trở lên.

5.2. Đề nghị

- Trại lợn cần thực hiện tốt hơn nữa quy trình vệ sinh phòng bệnh và

quy trình nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn nái để giảm tỷ lệ lợn nái mắc các

bệnh về sinh sản.

47

- Thực hiện tốt công tác vệ sinh trước, trong và sau khi đẻ, có thao tác

đỡ đẻ khoa học để giảm bớt tỷ lệ mắc các bệnh về đường sinh sản ở lợn nái.

- Nhà trường và Ban chủ nhiệm khoa Chăn nuôi thú y tiếp tục cho các

sinh viên khóa sau về các trại thực tập để có được nhiều kiến thức thực tế và

nâng cao tay nghề trước khi ra trường.

48

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng việt

1. Archie Hunter (2000), Sổ tay dịch bệnh động vật, Phạm Gia Ninh, Nguyễn

Đức Tâm dịch, Nxb Bản đồ, Hà Nội, tr. 53, 204 - 207

2. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Thị Cẩm Loan, Nguyễn Phúc Khánh (2016),

“Khảo sát tình hình viêm nhiễm đường sinh dục lợn nái sau khi sinh và

hiệu quả điều trị của một số loại kháng sinh”, Tạp chí Khoa học kỹ

thuật Thú y, tập XXIII (số 5), tr. 51 - 56.

3. Nguyễn Xuân Bình (2000), Phòng trị bệnh heo nái - heo con - heo thịt,

Nxb Nông nghiệp - Hà Nội, tr. 29 - 35.

4. Sa Đình Chiến, Cù Hữu Phú (2016), “Một số đặc điểm bệnh tiêu chảy của

lợn con dưới 2 tháng tuổi ở Sơn La”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y,

tập XXIII (số 2), tr. 40 - 44.

5. Trần Thị Dân (2004), Sinh sản lợn nái và sinh lý lợn con, Nxb Nông

nghiệp, TP Hồ Chí Minh.

6. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2003), Kỹ thuật nuôi lợn nái mắn đẻ sai con,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

7. Đoàn Thị Kim Dung (2004), Sự biến động của một số vi khuẩn hiếu khí

đường ruột, vai trò của E.coli trong hội chứng têu chảy của lợn con ,

các phác đồ điều trị, Luận án tiến sỹ Nông Nghiệp, Hà Nội.

8. Khuất Văn Dũng (2005), Thực trạng khả năng sinh sản và hiện tượng rối

loạn sinh sản, ứng dụng hormone và chế phẩm hormone điều trị một

vài hiện tượng rối loạn sinh sản trên đàn bò cái nuôi tại nông trường

Hữu Nghị Việt Nam - Mông Cổ, Ba Vì, Hà Tây, Luận văn thạc sĩ Nông

nghiệp, Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

9. Nguyễn Chí Dũng (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn E.coli

trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con nuôi tại tỉnh Vĩnh Phúc và biện

pháp phòng trị, Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp.

49

10.Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), Giáo

trình sinh sản gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Điền (2015), Kinh nghiệm xử lý bệnh viêm tử cung ở lợn nái

sinh sản, Trung tâm giống vật nuôi Phú Thọ

12. Trần Đức Hạnh (2013), Nghiên cứu vai trò gây bệnh của Escherichia coli,

Salmonella và Clostridium perfringens gây tiêu chảy ở lợn nái tại 3 tình

phía Bắc và biện pháp phòng trị, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp.

13. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), Bệnh truyền nhiễm thú y,

Nxb Nông nghiệp, tr. 398 - 407.

14. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002), Cẩm nang chăn nuôi gia súc, gia cầm,

Nxb Nông nghiệp Hà Nội.

15. Trương Quang Khải, Nguyễn Quang Tính, Nguyễn Quang Tuyên, Cù

Hữu Phú, Lê Văn Dương (2012), “Kết quả phân lập và xác định một số

đặc tính sinh học của các chủng Streptococcus suis và Pasteurella

multocida ở lợn mắc bệnh viêm phổi tại tỉnh Bắc Giang”, Tạp chí

KHKT thú y, 19(4), tr. 42-46.

16. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2002), “Bệnh phổ

biến ở lợn và biện pháp phòng trí”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn

nuôi, tập II, tr. 44 - 52.

17. Nguyễn Quang Linh (2005), Giáo trình kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

18. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2004), Một số bệnh quan trọng ở lợn,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

19. Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng (2004), Kỹ thuật chăn nuôi lợn, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

20. Lê Minh, Nguyễn Văn Quang, Phan Thị Hồng Phúc, Đỗ Quốc Tuấn, La

Văn Công (2017), Giáo trình thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Hồng Minh (2014), Nghiên cứu biến đổi của một số chỉ tiêu

lâm sàng, phi lâm sàng và thử nghiệm biện pháp phòng, trị hội chứng

MMA ở lợn nái sinh sản, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội.

50

22. Lê Văn Năm (1999), Phòng và trị bệnh ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội

23. Lê Văn Năm (2013), Bệnh viêm phổi địa phương - suyễn lợn, Nxb Lao

động - Xã hội.

24. Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2002), Bệnh sản khoa gia súc, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội.

25. Trần Văn Phùng, Từ Quang Hiển, Hà Thị Hảo, Trần Thanh Vân (2004),

Giáo trình chăn nuôi lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

26. Popkov (1999), “Điều trị viêm tử cung”, Tạp chí Khoa học Thú y, tập XII

(số5), tr. 9 - 15.

27. Lê Thị Tài, Đoàn Thị Kim Dung, Phương Song Liên (2002), Phòng và trị

một số bệnh thường gặp trong thú y bằng thuốc nam, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

28.Phạm Ngọc Thạch (1996), Một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng ở gia

súc, viêm ruột ỉa chảy và biện pháp phòng trị, Luận án Tiến sĩ Nông

nghiệp, Hà Nội, tr. 20 - 32.

29. Nguyễn Văn Thanh (2007), “Kết quả khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử

cung trên lợn nái ngoại nuôi tại một số trang trại tại vùng đồng bằng

Bắc Bộ”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, tập XIV (số 3), tr. 38 - 43.

30. Nguyễn Văn Thanh (2014), Sinh sản gia súc 2, Nxb Nông nghiệp.

31. Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006), Giáo trình sinh lý học vật nuôi, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 196.

32.Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Thị Xuân (2016), “Năng suất sinh sản của hai

tổ hợp lợn nái giữa lợn nái Landrace phối hợp với đực giống Yorkshire

và lợn nái Yorkshire phối với đực giống Landrace”, Tạp chí Khoa học

Công nghệ Chăn nuôi, số 65, tr. 54 - 61.

33. Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Văn Thanh (2010), “Tình hình bệnh viêm tử

cung trên đàn lợn nái ngoại và các biện pháp phòng trị”, Tạp chí Khoa

học kỹ thuật Thú y, tập XVII.

51

34. Đặng Đình Tín (1986), Sản khoa và bệnh sản khoa thú y, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

35. Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Bá Tiếp (2013), “Vai trò của Escherichia coli

và Salmonella spp trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con trước và sau cai

sữa nghiên cứu trên mô hình trại nuôi công nghiệp”, Tạp chí khoa học

và phát triển, tập 11 (3), 318 - 327.

36. Phạm Khánh Từ, Hoàng Nghĩa Duyệt, Dư Thanh Hằng, Đào Thị

Phượng, Nguyễn Văn Chào, Nguyễn Thị Lộc (2014), “Khả năng sinh

trưởng và sinh sản của lợn nái Yorkshire và Landrace nuôi ở vùng gò

đồi huyện Cam lộ tỉnh Quảng Trị”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế.

II. Tài liệu tiếng Anh

37. Christensen R. V., Aalbaek B., Jensen H. E. (2007), “Pathology of udder

lesions in sows”, J. Vet. Med. A Physiol. Patho.l Clin. Med. 2007 Nov.,

54 (9), p. 491.

38. Glawisschning E., Bacher H. (1992), “The Efficacy of Costat on E.coli

infectedweaning pigs”, 12th IPVS congress, August 17 - 22, p. 182.

39. Hughes, James (1996), “Maximising pigs production and reproduction”,

Compus, Hue University of Agriculture and Forestry, September.

40. Jose Bento S., Ferraz and Rodger K., Johnson (2013), Animal Model

Estimation of Genetic Parameters and Response to Selection for Litter

Size and Weight, Growth, and Backfat in Closed Seedstock Populaions

of Large White and Landrace Swine, Department of Animal Science,

December 4, 2013, University of Nebraska, Lincoln 68583 – 0908.

41. Pensaet M. B. de Bouck P. A. (1978), “New coronavirus – like

particleassociated with diarrhea in swine”, Arch. Virol., p 58; p. 243 -247.

42. Smith, Martineau B.B. G. Bisaillon, A. (1995), “Mammary gland and

lactaion problems”, In disease of swine, 7thedition, Iowa state university

press, p. 40- 57.

52

43. White B. R., Mc Laren D. G., Dzink P. J., Wheeler M. B. (2013), “Attain

ment of puberty and the mechanism of large litter size in Chinese

Meishan females versus Yorkshire females”, Biology of Reproduction,

44, p. 160.

III. Tài liệu internet

44. Trần Văn Bình (2010), http://pharmavet.vn/?tab=forum&id=1350

45. Duy Hùng (2011), Bệnh viêm vú ở lợn nái, http://nongnghiep.vn/benh-

viem-vu-o-lon-nai-post65605.html | NongNghiep.vn.

46. Muirhead M., Alexander. T. (2010), Reproductive System, Managing Pig

Health and the Treat of Disease, http://www.thepigsite.com.

47. Nguyễn Ánh Tuyết (2015), Bệnh viêm khớp trên lợn con,

http://nguoichannuoi.com/benh-viem-khop-tren-heo-con-fm471.html

MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

Hình 1:Viên tử Cung Hình 2. Viêm vú

Hình 3: Lợn con tiêu chảy Hình 4: Tử cung lộn bít tất