ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

-----------------------

TRẦN HUYỀN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ LIÊN

HỆ THỰC TẾ TỚI SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG FORMOSA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2014-L

HÀ NỘI, 2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

-----------------------

TRẦN HUYỀN TRANG

PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ LIÊN

HỆ THỰC TẾ TỚI SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG FORMOSA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2014-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:

Tiến sĩ Lê Kim Nguyệt

Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội

HÀ NỘI, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin

cậy và trung thực.

Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ

Khóa luận tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Huyền Trang

MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1.Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................... 1

2.Tình hình nghiên cứu ............................................................................................... 2

3.Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 3

4.Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................. 3

5.Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 4

6.Bố cục ....................................................................................................................... 4

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ

TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG ............................................................................................... 5

1.1. Sự ra đời và phát triển của đánh giá tác động môi trường trên thế giới và ở

Việt Nam ..................................................................................................................... 5

1.2. Khái niệm đánh giá tác động môi trường ......................................................... 6

1.3. Khái niệm pháp luật đánh giá tác động môi trường .......................................... 9

1.4. Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của một số quốc gia trên thế giới

và gợi mở cho Việt Nam ........................................................................................... 12

1.4.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Nhật Bản ............................... 12

1.4.2. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Trung Quốc........................... 14

1.4.3. Gợi mở cho Việt Nam ........................................................................... 17

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI

TRƯỜNG Ở VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ TỚI SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG FORMOSA

................................................................................................................................................... 19

2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật đánh giá tác động môi trường

ở Việt Nam ................................................................................................................ 19

2.1.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn trước

năm 1986 ............................................................................................................ 19

2.1.2. Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn sau năm

1986 ............................................................................................................... 20

2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đánh giá tác động môi trường ................. 25

2.2.1. Đối tượng thực hiện đánh giá tác động môi trường .............................. 25

2.2.2. Quy định về lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ....................... 26

2.2.3. Thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường ............. 32

2.2.4. Các nội dung bảo vệ môi trường sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt .

............................................................................................................... 37

2.2.5. Xử lý vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam ... 41

2.3. Liên hệ tới sự cố môi trường Formosa ............................................................ 45

2.3.1. Tóm lược sự cố môi trường Formosa ................................................... 46

2.3.2. Vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường của Formosa ........... 47

2.3.3. Xử lý vi phạm trong sự cố môi trường Formosa .................................. 54

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG

MÔI TRƯỜNG VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI Ở VIỆT

NAM ......................................................................................................................................... 58

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam58

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam .

......................................................................................................................... 61

3.2.1. Xây dựng và ban hành các quy định về đảm bảo chất lượng của báo

cáo đánh giá tác động môi trường ...................................................................... 61

3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về tham vấn cộng đồng ....................... 62

3.2.3. Quy định về cơ chế hậu kiểm rõ ràng, chặt chẽ .................................... 64

3.2.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm của các chủ thể tham gia

thực hiện đánh giá tác động môi trường ............................................................. 65

3.2.5. Hoàn thiện pháp luật với quy định hai bước đánh giá tác động môi

trường cho dự án đầu tư ..................................................................................... 67

3.3. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đánh giá tác động môi

trường ở Việt Nam .................................................................................................... 68

3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đánh giá tác

động môi trường ................................................................................................. 69

3.3.2. Nâng cao năng lực chuyên môn của các chủ thể thực hiện đánh giá tác

động môi trường ................................................................................................. 70

3.3.3. Công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường ................................ 70

3.3.4. Tăng mức xử phạt vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường ... 72

KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 75

DANH MỤC VIẾT TẮT

ĐTM : Đánh giá tác động môi trường

FDI : Vốn đầu tư nước ngoài

TN&MT : Tài nguyên và Môi trường

UBND : Ủy ban nhân dân

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Môi trường nước ta đang chịu nhiều áp lực lớn từ các hoạt động phát triển

kinh tế - xã hội trong nước, sức ép cạnh tranh của quá trình hội nhập quốc tế cùng

các tác động xuyên biên giới. Hàng năm, có hơn 2.000 dự án đầu tư thuộc đối tượng

phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nếu không được đánh giá một cách

đầy đủ, toàn diện và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát hiệu quả thì sẽ

là những nguy cơ rất lớn đến môi trường.

Với quy hoạch phát triển không ngừng của các ngành trong xã hội như công

nghiệp, nông nghiệp, giao thông, thủy sản, du lịch – dịch vụ, đô thị hóa,… nhằm

đáp ứng nhu cầu con người theo sự giao tăng dân số mà không chú ý đúng mực đến

công tác bảo vệ môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, suy giảm tài

nguyên sinh vật, thay đổi khí hậu toàn cầu,… ngày càng nghiêm trọng. Để quản lý

môi trường được chặt chẽ hơn, ĐTM đã được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật ở

nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, ĐTM cũng được đưa vào trong Luật Bảo

vệ môi trường và xem đây là một trong những nội dung cần thiết phải có trong việc

xem xét phê duyệt cho phép dự án thực thi. Đây không những là công cụ quản lý

môi trường mà còn là một nội dung giúp quy hoạch dự án thân thiện với môi trường

và là một phần của chu trình dự án. ĐTM được kỳ vọng là công cụ hiệu quả để hạn

chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực mà con người gây ra cho môi trường.

Tuy nhiên, ĐTM đối với Việt Nam vẫn còn chưa thật sự đem lại hiệu quả

như đúng bản chất của nó. Các vấn đề môi trường ở Việt Nam hiện vẫn đang rất

đáng báo động. Pháp luật ĐTM được áp dụng vào thực tiễn chưa cao, chưa thật sự

hiệu quả. Tình trạng các dự án không thực hiện ĐTM hay thực hiện không đúng với

ĐTM đã được phê duyệt còn rất phổ biến. Nhận thức về ĐTM đối với các chủ dự án

còn yếu, họ vẫn coi thường vai trò của ĐTM, chỉ chú trọng đến lợi ích kinh tế mà

không màng đến vấn đề môi trường, đến việc đảm bảo sự phát triển bền vững. Hạn

chế còn ở các những người mang vai trò quản lý, thẩm định, phê duyệt báo cáo

ĐTM, một bộ phận có trình độ chuyên môn hay ý thức, trách nhiệm với nhiệm vụ

của mình chưa cao. Sự cố môi trường Formosa là một vụ việc điển hình về môi

trường của Việt Nam từ năm 2016, nhưng đến nay vẫn được coi là vụ việc nổi cộm

1

và nhận được sự quan tâm rất lớn của mọi người dân. Formosa gây thiệt hại nghiêm

trọng với môi trường biển, môi trường đất,… gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh

hưởng lớn đến đời sống của người dân tại các tỉnh miền Trung. Hiện nay, sự cố cá

chết hàng loạt ở các tỉnh miền Trung do Formosa gây ra về cơ bản đã được giải

quyết.Formosa cùng các cơ quan nhà nước đã tích cực khắc phục sự cố với kết quả

là các vấn đề trước mắt như đời sống người dân đã ổn định trở lại, môi trường phần

nào được khôi phục. Tuy nhiên, còn những tác hại lâu dài đối với môi trường biển

thì vẫn cần phải tiếp tục được quan tâm, giải quyết trong cả quá trình về sau.

Formosa gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho môi trường do nhiều nguyên nhân

và có lẽ ngay từ giai đoạn cấp phép đầu tư đã khiến nhiều người nghi ngờ, rồi trong

cả quá trình lên kế hoạch, triển khai, vận hành đều có nhiều điểm nghi vấn. Trong

phạm vi Khóa luận tốt nghiệp tác giả sẽ tập trung làm rõ những vi phạm trong hoạt

động ĐTM của Formosa. Theo tác giả, ĐTM chính là cơ chế quan trọng nhất để

quản lý vấn đề môi trường mà dự án Formosa tác động tới.

Như vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và tìm hiểu

thực tiễn áp dụng pháp luật về ĐTM ở Việt Nam; cùngcác vi phạm trong ĐTM của

sự cố môi trường tại các tỉnh miền Trung do Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa

Hà Tĩnh gây ra; từ đó, tìm ra đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật và một số

biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về ĐTM ở Việt Nam, góp phần vào

việc tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước về môi trường là lý do luận

chứng cho việc tôi quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về đánh giá tác động

môi trường và liên hệ thực tế tới sự cố môi trường Formosa” làm Khóa luận tốt

nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

ĐTM là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các chuyên gia, nhà nghiên

cứu. Tính tới thời điểm hiện tại, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về pháp

luật ĐTM tại Việt Nam, chủ yếu là thời kỳ Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 còn

hiệu lực và mới chỉ có một số ít các bài nghiên cứu theo luật Bảo vệ môi trường

hiện hành. Tuy vậy, các công trình nghiên cứuđó đều chứa đựng những vấn đề bản

chất và lý luận có giá trị khoa học pháp lý cao nên vẫn là một trong những công cụ

hữu hiệu để tìm hiểu, nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật ĐTM ở Việt Nam.

Các công trình nghiên cứu về đánh giá tác động môi trường được thực hiện

2

tại Việt Nam, tiêu biểu như: Lê Sơn Hải (2000), “Những vấn đềpháp lý của việc

đánh giá tác động môi trường của các dựán đầu tư”, Luận án Tiến sĩ; Phạm Hữu

Nghị (2000), “Những vấn đề đặt ra với pháp luật về đánh giá tác động môi trường

và các giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, số 5/2000; Phạm Ngọc Hồ - Hoàng

Xuân Cơ (2001), “Đánh giá tác động môi trường”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia

Hà Nội; Vũ Duyên Thủy (2003), “Bàn về hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác

động môi trường”, Tạp chí Luật học, số 2/2003; Lê Hồng (2004), “Thực trạng và

phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về đánh giá tác động

môi trường”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội; Trần Thị Quang

Hồng, Trường Hồng Quang (2011), “Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động

môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Luật học, số 6/2011; Chu Thế Quyền

(2013), “Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam hiện

nay”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Lê Thanh Tùng

(2013), “Pháp luật về đánh giá tác động môi trường trong hoạt động đầu tư ở Việt

Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;…Một số

các công trình khoa học mới có nghiên cứu đến pháp luật ĐTM ở Việt Nam như: Lê

Kim Nguyệt (2018), “Pháp luật môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa

học Xã hội Việt Nam số 3-2018; PGS.TS Lê Trình (2015), “Tài liệu đào tạo về

Đánh giá tác động môi trường và xã hội”, Ngân hàng Thế giới.

Bên cạnh đó, còn khá nhiều bài đăng trên các tạp chí điện tử, những tiểu luận

sinh viên,… nghiên cứu và đề cập tới vấn đề này.

3. Mục đích nghiên cứu

Khái lược các vấn đề liên quan đến ĐTM; thực trạng áp dụng pháp luật ĐTM

ở Việt Nam hiện nay; phân tích, đánh giá sai phạm liên quan đến ĐTM trong sự cố

môi trường Formosa; từ đó đưa ra đề xuất, quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật

ĐTM ở Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Bảo vệ môi

trường năm 2014 và một số văn bản dưới luật điều chỉnh hoạt động ĐTM ở Việt

Nam hiện nay. Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo nội dung các quy định pháp luật

khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam hay các bải nghiên cứu, đánh giá của các

chuyên gia trong lĩnh vực môi trường liên quan đến ĐTM.

3

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng

phương pháp so sánh pháp luật, hệ thống, phân tích, tổng hợp, mô hình hoá và tham

khảo những báo cáo tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.

Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các kết quả của các cơ quan quản lý nhà nước về

môi trường và hoạt động đầu tư (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và

Đầu tư), các chuyên gia độc lập,…

6. Bố cục

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài được kết cấu gồm ba

chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật đánh giá tác động môi

trường;

Chương 2: Thực trạng pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt

Nam và liên hệ tới sự cố môi trường Formosa;

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trườngvà

Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi ở Việt Nam.

4

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ TÁC

ĐỘNG MÔI TRƯỜNG

1.1. Sự ra đời và phát triển của đánh giá tác động môi trường trên thế giới

và ở Việt Nam

Đánh giá tác động môi trường đã được hình thành từ rất lâu trên thế giới, bắt

đầu từ nhận thức của con người về vai trò của môi trường, tác hại của ô nhiễm môi

trường và khởi đầu là ở Hoa Kỳ từ những năm 60 của thế kỷ XX. Con người dần

quan tâm đến tác hại của các dự án, công trình đến môi trường, từ đó, yêu cầu đặt ra

là cần phải có một quá trình nghiên cứu để đưa ra các dự báo, đánh giá về tác động

tích cực và tiêu cực của một hoạt động nào đó đến môi trường, kèm theo đó là

phương án, biện pháp để duy trì, phát triển các tác động tích cực và phòng ngừa,

hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình triển khai, thực hiện hoạt động, dự án.

Và đến năm 1969 dưới thời Tổng thống Richard Nixon, ĐTM đã chính thức được

đưa vào Pháp luật môi trường của Hoa Kỳ, cụ thể là trong Đạo luật Chính sách môi

trường quốc gia (NEPA) - Chính sách quy định chính quyền liên bang phải tổ chức

nghiên cứu các tác động đến môi trường ở mức dài hạn khi họ muốn tu chỉnh hay

cho phép xây dựng một công trình nào đó. Có thể nói đây là một bước tiến quan

trọng đánh dấu tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường của Hoa Kỳ cũng như

toàn thế giới. Từ đây, công tác ĐTM dần lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, các

quốc gia nhận thức được các vấn đề môi trường và vai trò của ĐTM trong hoạt

động phát triển bền vững của mình.

Như vậy, với sự ra đời của Đạo luật Chính sách môi trường của Hoa Kỳ, mục

tiêu, ý nghĩa, thủ tục thi hànhĐTM đã được xác định bằng văn bản. Hệ thống pháp

lý cùng với các cơ quan quản lý, điều hành được ban hành và thành lập đảm bảo

cho việc thực hiện ĐTM nhanh chóng đi vào nề nếp[22, Tr.22].

Tiếp sau đó là hàng loạt các quốc gia khác như Nhật Bản, Hồng Kông,

Singapore,…. đã yêu cầu các dự án cần thực hiện đánh ĐTM trước khi triển khai

thực hiên dự án.

Cho đến hiện tại, hầu hết các nước phát triển và đang phát triển đã áp dụng

hoạt độngĐTM. Việt Nam cũng đã bắt đầu được tiếp cận ĐTM vào năm 1985 chính

5

thức quy định về ĐTM trong Luật Bảo vệ môi trường năm 1993. Bên cạnh đó, các

thể chế - tổ chức quốc tế cũng rất quan tâm đến công tác ĐTM, như: Chương trình

môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Chương trình phát triển Liên hợp quốc

(UNDP), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Cơ quan

phát triển quốc tế của Mỹ (USAID), Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA), Cơ

quân phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), Cơ quan phát triển quốc tế Nhật Bản

(JICA),…[29, tr.3]

Tại Việt Nam, ĐTM được biết đến vào những năm 80 của thế kỉ trước thông

qua các hội thảo khoa học và các khóa học. Sớm nhận thức được vấn đề môi trường,

Nhà nước ta thời kỳ đó đã rất khuyến khích, tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức,

cá nhân tiếp cận vấn đề ĐTM. Tiêu biểu là một nhóm các nhà khoa học Việt Nam

đã trực tiếp đến Mỹ để nghiên cứu về luật, chính sách môi trường và cụ thể là về

Đánh giá tác động môi trường. Trong giai đoạn 1987 – 1990, Nhà nước đã đầu tư

vào chương trình điều tra cơ bản và được xem như công tác kiểm tra hiện trạng môi

trường. Đó là các chương trình điều tra vùng Tây Nguyên, vùng ĐBSCL, Quảng

Ninh,…Sau năm 1990, mặc dù Luật Môi trường Việt Nam chưa thiết lập thì Nhà

nước đã yêu cầu một số dự án phải có báo cáo ĐTM như: Công trình xây dựng Nhà

máy Giấy Bãi Bằng, công trình Thuỷ lợi Thạch Nham, công trình Thuỷ điện Trị An,

Nhà máy lọc dầu Thành Tuy Hạ. Một số tổ chức quản lý Nhà nước như Cục Môi

trường, Sở Khoa học Công Nghệ và Môi trường, các trung tâm, Viện Môi trường

cũng đã được tập huấn công tác tư vấn cho lập báo cáo ĐTM và tổ chức thẩm định

các báo cáo ĐTM. Và đến năm 1993 Việt Nam chính thức đưa các quy định về

đánh giá tác động môi trường vào Luật Bảo vệ môi trường.

Có thể thấy rằng ĐTM từ lâu đã được con người quan tâm, chú trọng tới như

là một trong những điều kiện tiên quyết để hạn chế tối đa tác động xấu tới môi

trường khi thực hiện các dự án, hoạt động phát triển kinh tế. Để từ đó, nhiều quốc

gia trên thế giới đều đã đưa ĐTM vào hệ thống pháp luật quốc gia, trở thành một

giai đoạn, thủ tục phổ biến, được ứng dụng rộng rãi để góp phần thiết thực bảo vệ

môi trường của mỗi quốc gia và rộng hơn là cho toàn cầu.

1.2. Khái niệm đánh giá tác động môi trường

Đánh giá tác động môi trường – tiếng Anh là Environment Impact

Assessment (EIA) là một hoạt động phổ biến ở hầu hết các quốc gia. Mỗi quốc gia,

6

tổ chức lại đưa ra một định nghĩa về ĐTM khác nhau. Những định nghĩa này tuy có

nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau nhưng đều nêu lên điểm căn bản của ĐTM

là đánh giá, dự báo các tác động của dự án tới môi trường và đề xuất các biện pháp

giảm thiểu các tác động tiêu cực chủ yếu của dự án. Một số định nghĩa tiêu biểu

vềĐTM như:

Thứ nhất, Theo Tổ chức Kinh tế Xã hội châu Á – Thái Bình Dương

(ESCAP) thì: “ĐTM bao gồm ba thành phần: Xác định, dự báo và đánh giá tác động

của một dự án, một chính sách đến môi trường”.

Thứ hai, Tổ chức quốc tế về Đánh giá tác động môi trường (IAIA) đưa ra

định nghĩa về việc ĐTM gồm các công việc như “xác định, dự đoán, đánh giá và

giảm thiểu các ảnh hưởng của việc phát triển dự án đến các yếu tố sinh học, xã hội

và các yếu tố liên quan khác trước khi đưa ra quyết định quan trọng và thực hiện

những cam kết”;

Thứ ba, Theo GS.Lê Thạc Cán (1994) – một trong những người đầu tiên

nghiên cứu chuyên sâu về ĐTM ở Việt Nam khái lược rằng: “ĐTM của một hoạt

động phát triển kinh tế xã hội là xác định, phân tích, dự báo những tác động lợi và

hại, trước mắt và lâu dài của việc thực hiện hoạt động đó đối với tài nguyên thiên

nhiên và chất lượng môi trường sống của con người. Trên cơ sở đó đề xuất các biện

pháp phòng tránh, khắc phục hoặc làm giảm nhẹ các tác động tiêu cực của dự án đối

với môi trường”.

Thứ tư, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đưa ra định nghĩa

ĐTM như sau: “Đánh giá tác động môi trường là một quá trình nghiên cứu được sử

dụng để dự báo những hiệu quả môi trường của một dự án phát triển quan trọng dự

kiến sẽ thực hiện trên thực tế”.

Và theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ

nghĩa Việt Nam: “Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo tác động

đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi

triển khai dự án đó”.

ĐTM là một quá trình, trong đó người thực hiện phải tiến hành nghiên cứu,

dự báo, đánh giá các ảnh hưởng, tác động của dự án đó đến môi trường, để từ đó

đưa ra những biện pháp, phương án nhằm hạn chế, giảm thiểu tối đa các ảnh hưởng

xấu đến môi trường; đề xuất những ý kiến, lựa chọn tối ưu để dự án có thể phê

7

duyệt, được triển khai mà không gây ra những áp lực, hậu quả nghiêm trọng cho

môi trường.

Bất kỳ một hoạt động phát triển nào của con người cũng có thể gây những

ảnh hưởng lớn hay nhỏ đến môi trường. Vì thế, những ảnh hưởng này cần phải được

quan tâm, chú trọng, định hướng ngay từ đầu. Tác động tới môi trường chính là vấn

đề cốt lõi mà người quyết định cấp phép hoạt động dự án, chủ đầu tư dự án cần

quan tâm. Điều quan trọng để dự án được triển khai, hoạt động, đó là ảnh hưởng

gây ra cho môi trường là không quá nghiêm trọng, không vượt mức cho phép, phải

đảm bảo có thể khắc phục, hạn chế ảnh hưởng đó. Một dự án dù đem lại hiệu quả

kinh tế cao nhưng tác động tiêu cực tới môi trường là rất nghiêm trọng thì sẽ không

thể được phê duyệt cho triển khai. Bởi môi trường là một yếu tố cực quan trọng, là

một yếu tố thuộc về tự nhiên, khó có thể phục hồi, những hậu quả gây ra với môi

trường cũng sẽ tác động xấu tới sự sống của con người và các sinh vật khác. ĐTM

là một công cụ giúp phòng ngừa và ngăn chặn những ảnh hưởng xấu tới môi trường

và đây là công cụ lồng ghép trong quá trình kế hoạch hoá về môi trường. Thực hiện

ĐTM là cần phải xem xét tất cả những ảnh hưởng đối với sức khoẻ con người, hệ

sinh thái (bao gồm thực vật và động vật), khí hậu và khí quyển. Hoạt động ĐTM

phải đảm bảo rằng tất cả những hậu quả tới môi trường cần phải được xem xét trong

suốt quá trình thiết kế, thực hiện và vận hành của dự án. Vì thế ĐTM như một công

cụ để làm rào chắn, chọn lọc những dự án đủ tiêu chuẩn, dự án an toàn được phép

triển khai hoạt động, cũng như một bản cam kết tuân thủ công tác bảo vệ môi

trường khi dự án được đưa vào hoạt động.

Chủ dự án có nghĩa vụ thực hiện quá trình nghiên cứu, đánh giá khả năng tác

động đến môi trường của dự án để đề xuất giải pháp giảm thiểu các tác động đó.

Khi chủ dự án không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ sẽ phải chịu các

chế tài xử phạt theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm ở đây không chỉ thuộc về

chủ dự án, mà là cả các cơ quan quản lý có thẩm quyền. ĐTM bản chất là nghĩa vụ

pháp lý mà các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường đặt ra đối với dự án nhằm

bảo vệ môi trường.

ĐTM được đặt ra nhằm đảm bảo cân đối giữa sự phát triển kinh tế - xã hội

với việc bảo vệ môi trường, mục đích lớn nhất là tạo ra sự phát triển bền vững. Cụ

thể: (1) ĐTM cung cấp một quy trình xem xét tất cả các tác động đến môi trường

8

của các dự án; tạo ra một lưới lọc các dự án đủ tiêu chuẩn; hạn chế việc quyết định

bừa bãi, thiếu khách quan trong quá trình phê duyệt dự án; (2) ĐTM khi được đưa

ra tham vấn, thẩm định là một phương thức để chủ dự án có thể nhận được những ý

kiến đóng góp cho quá trình thực hiện dự án, để khắc phục, bổ sung cho những giải

pháp mà chủ dự án đã đưa ra; (3) ĐTM góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của

các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cũng như chủ dự án trong công tác

bảo vệ môi trường, góp phần nâng cao mối quan hệ cộng đồng và đảm bảo hiệu quả

đầu tư; (4) ĐTM góp phần ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các chủ dự án, của cơ

quan quản lý nhà nước và các chủ thể khác. Trước tiên là trách nhiệm nghiên cứu,

đánh giá các tác động tới môi trường; sau là trách nhiệm thực hiệnbáo cáo ĐTM đã

được phê duyệt, và rồi có trách nhiệm theo dõi, sửa đổi báo cáo ĐTM cho phù hợp

với từng giai đoạn của dự án, nâng cao các biện pháp giảm thiểu tác động xấu đến

môi trường, cuối cùng là trách nhiệm kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện nghiêm

túc báo cáo ĐTM, bảo đảm sự an toàn của môi trường. ĐTM như một bản cam kết

của chủ dự án trong việc thực hiện những hoạt động, biện pháp đúng như những gì

đã đưa ra, từ đó làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết những

vi phạm gây ảnh hưởng xấu tới môi trường.

ĐTM với vai trò là công cụ quản lý môi trường, trọng tâm trong việc đảm

bảo sự phát triển bền vững, cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi

trường. ĐTM là cơ chế kiểm tra và giám sát quá trình triển khai, thực hiện dự án

trên khía cạnh môi trường. ĐTM là cho thấy trách nhiệm từ nhiều phía: chủ dự án,

cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực môi trường và cộng đồng tham vấn cho Báo

cáo ĐTM. ĐTM giúp cảnh báo những tác động xấu phát sinh từ dự án tới môi

trường để rồi từ đó đề ra những biện pháp hạn chế tối đa những tác động xấu đó.

Có thể thấy, ĐTM mang ý nghĩa to lớn trong việc phê duyệt dự án một cách

nhanh chóng, thuận lợi và đúng hướng mà vẫn đảm bảo lợi ích kinh tế hài hòa với vấn đề

môi trường; là bước khởi đầu cho quá trình thực hiện một dự án; là cơ sở tạo nên yếu tố

phát triển bền vững trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy mà ĐTM ngày

càng được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, nghiên cứu và phát triển.

1.3. Khái niệm pháp luật đánh giá tác động môi trường

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc

thừa nhận, mọi người có nghĩa vụ phải tuân theo các quy tắc đó. Pháp luật có giá trị

9

ràng buộc trong phạm vi lãnh thổ và được bảo đảm thực thi bởi cơ quan nhà nước

có thẩm quyền bằng việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế và chế tài [33, pg.6].

Pháp luật góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đảm bảo xã hội phát triển một

cách ổn định có kiểm soát, là công cụ của nhà nước để quản lý, duy trì trật tự xã hội.

ĐTM là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu về môi trường, để công cụ này

phát huy tác dụng cũng như được đảm bảo thực hiện đòi hỏi cần có sự điều chỉnh

của Nhà nước. Pháp luật về ĐTM ra đời với mục tiêu đó. Pháp luật ĐTM là hệ

thống các quy tắc do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nhằm quản lý các

hoạt động liên quan đến ĐTM. Pháp luật ĐTM kiểm soát tác nhân gây ô nhiễm

hoặc đe dọa gây ô nhiễm môi trường từ hoạt động đầu tư xây dựng các dự án phát

triển kinh tế - xã hội. Pháp luật ĐTM điều tiết hành vi của các chủ thể liên quan đến

hoạt động ĐTM, định hướng hoạt động ĐTM diễn ra ổn định, đảm bảo đạt được

mục tiêu của ĐTM đối với sự phát triển bền vững, đảm bảo hài hòa giữa phát triển

kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường của quốc gia và rộng hơn là của toàn thế giới.

Pháp luật ĐTM thể hiện một số vai trò chủ đạo như:

Pháp luật Đánh giá tác động môi trường quy định quyền, nghĩa vụ của các

chủ thể có liên quan đến hoạt động đánh giá tác động môi trường

Các chủ thể có liên quan đến hoạt động ĐTM bao gồm: cơ quan quản lý nhà

nước;chủ dự án; tổ chức tư vấn lập báo cáo ĐTM; cộng đồng dân cư, cá nhân có

liên quan tới dự án, chịu tác động bởi dự án. Pháp luật ĐTM sẽ thực hiện nhiệm vụ

quy định quyền hạn, nghĩa vụ của các chủ thể này trong hoạt động ĐTM.

Đối với chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ĐTM chính là các

cơ quan có thẩm quyền tham vấn, thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM; các cơ quan

có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện báo cáo ĐTM, thực hiện công tác

bảo vệ môi trường. Các cơ quan này hoạt động theo thể thức tổ chức gồm nhiều cá

nhân cùng hoạt động; chứ không phải đơn lẻ như một người, cá thể. Do đó, cần phải

có cơ chế quy định rõ cơ cấu tổ chức, hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước

trong quá trình thực hiện ĐTM. Pháp luật ĐTM đóng vai trò thực hiện nhiệm vụ đó.

Pháp luật ĐTM quy định cụ thể cơ cấu tổ chức, thẩm quyền hoạt động của các cơ

quan nhà nước liên quan, từ đó xác định quyền, nghĩa vụ cụ thể của các cơ quan này

đối với từng khâu trong quá trình thực hiện ĐTM.

Với chủ thể khác, pháp luật ĐTM quy định quyền, nghĩa vụ trong từng giai

10

đoạn của quá trình thực hiện ĐTM. Pháp luật ĐTM quy định quy tắc xử sự cho các

chủ thể trong hoạt động ĐTM; định hướng hành vi của các chủ thể theo hướng tích

cực cho môi trường, hạn chế, loại trừ sự xâm phạm gây ảnh hưởng xấu tới môi

trường bằng việc quy định những hành vi các chủ thể phải làm, được làm.

Pháp luật là các quy tắc xử sự được nhà nước ban hành và đảm bảo thực

hiện, mang tính bắt buộc tuân thủ. Do đó, pháp luật ĐTM sẽ ràng buộc trách nhiệm

của các chủ thể, các chủ thể buộc phải thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đã được

pháp luật đặt ra. Việc quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cũng có thể hiểu là

pháp luật ĐTM hướng dẫn các chủ thể thực hiện hoạt động ĐTM một cách phù hợp,

đảm bảo đem lại hiệu quả.

Pháp luật Đánh giá tác động môi trường quy định quy trình, thủ tục thực

hiện đánh giá tác động môi trường

Bất cứ một hoạt động nào để đạt hiệu quả tối ưu cũng cần phải có một quy

trình nhất định. Hoạt động ĐTM cũng không nằm ngoài quy luật đó. Để phát huy

hết tác dụng của hoạt động ĐTM thì ĐTM cần phải được thực hiện theo quy trình,

thủ tục nhất định. Thực hiện quy trình đó, các chủ thể tránh sự lãng phí thời gian,

tiền bạc, công sức mà lại không đưa đến hiệu quả bảo vệ môi trường như đúng mục

đích của hoạt động ĐTM. Pháp luật ĐTM quy định từng giai đoạn của hoạt động

ĐTM, trong từng giai đoạn lại quy định những hành vi mà các chủ thể cần thực

hiện. Trình tự, thủ tục mà pháp luật ĐTM quy định là sự hướng dẫn, điều chỉnh để

quá trình ĐTM đạt hiệu quả.

Pháp luật đánh giá tác động môi trường là cơ sở thanh tra, kiểm tra, xử lý vi

phạm trong lĩnh vực đánh giá tác động môi trường

Pháp luật quy định việc thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động ĐTM thường

xuyên, định kỳ hay đột xuất cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà

nước ban hành. Pháp luật ĐTM cũng quy định việc thực hiện thanh tra, kiểm tra

như thế nào; người thực hiện; quy trình, trình tự thực hiện hoạt động đó. Các cơ

quan quản lý nhà nước tuân theo pháp luật ĐTM, lấy pháp luật ĐTM là cơ sở, là

hướng dẫn trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động ĐTM.

Pháp luật ĐTM là cơ sở đối chiếu xác định vi phạm trong hoạt động ĐTM,

và cũng căn cứ vào đây để áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp với hành vi vi

phạm. Việc xử lý vi phạm được áp dụng cho mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có

11

những hành vi vi phạm các quy định của nhà nước trong lĩnh vực ĐTM.

Pháp luật ĐTM là công cụ cần thiết với mọi nhà nước, là công cụ chủ yếu để

Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình trong lĩnh vực môi trường, cụ thể với

hoạt động ĐTM. Pháp luật ĐTM quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia

vào hoạt động ĐTM, là công cụ để Nhà nước kiểm soát ô nhiễm môi trường trong

hoạt động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò to lớn nhằm bảo đảm sự

phát triển bền vững cho quốc gia và cho toàn thế giới nên pháp luật ĐTM đã được

phần lớn các quốc gia quan tâm, hình thành và dần trở thành một ngành luật quan

trọng, không thể thiếu trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.

1.4. Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của một số quốc gia trên thế

giới và gợi mở cho Việt Nam

Tùy thuộc vào vị trí địa lý, vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội và các yếu

tố tự nhiên, con người khác mà pháp luật của mỗi quốc gia về ĐTM lại khác nhau.

Và việc áp dụng toàn bộ pháp luật của các quốc gia được đánh giá là tiên tiến, hoàn

thiện vào một quốc gia khác là điều rất khó khăn và không nên. Tuy nhiên, việc

nghiên cứu, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu trong pháp luật ĐTM của quốc gia khác

để học hỏi, rút ra bài học cho pháp luật ĐTM nước mình là một hoạt động tích cực,

cần được thúc đẩy và tạo điều kiện. Đối với pháp luật ĐTM của Việt Nam cũng

vậy, nước ta tiếp cận với pháp luật ĐTM muộn hơn nhiều nước khác, nên pháp luật

vẫn còn hạn chế, nhiều điểm chưa thiết thực, tính khả thi chưa cao, cần phải học hỏi

một số quốc gia có pháp luật ĐTM tiến bộ như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc,

Canada,…Hiện nay, Việt Nam có sự hợp tác về lĩnh vực môi trường với nhiều quốc

gia, với riêng lĩnh vực ĐTM thì sự hợp tác, học hỏi tiêu biểu có thể kể đến là với

Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.

1.4.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Nhật Bản

Nhật Bản là một trong số những quốc gia Châu Á với hệ thống pháp luật về

ĐTM tiến bộ và phát triển hàng đầu trên thế giới. Nhật Bản cũng là quốc gia mà

Việt Nam rất quan tâm chú trọng hợp tác trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm môi

trường đặc biệt với loại hình dự án điện hạt nhân và khai thác mỏ[25].

Tại Nhật Bản, ĐTM được giới thiệu từ năm 1972 chỉ dành cho các công trình

công cộng [31, pg.2]. Đến năm 1984, Chính phủ mới quy định chính thức về thực

hiện ĐTM cho các Dự án. Luật về “Đánh giá tác động môi trường” được ban hành

12

tháng 6/1997 với mục đích thiết lập hệ thống quy trình, thủ tục thực hiện ĐTM

nhằm ngăn ngừa suy thoái môi trường và thúc đẩu một xã hội bền vững [31, Pg.3].

Nhật Bản quy định 13 loại hình dự án cần lập ĐTM: đường bộ, chính trị

sông, đường sắt, cảng hàng không, nhà máy điện, khu đổ thải, cải tạo đất, điều

chỉnh sử dụng đất, khu dân cư mới, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng

thành phố mới, tổ hợp trung tâm phân phối, phát triển đất ở và đất công nghiệp do

các tổ chức chuyên dụng. Mỗi loại hình dự án lại được phân cấp thành dự án cấp 1

và dự án cấp 2. Dự án loại 1 có quy mô lớn hơn là các dự án buộc phải thực hiện

ĐTM và phải tuân thủ theo quy trình của Luật. Còn các dự án cấp 2 việc tiến hành

ĐTM có thể linh động hơn, việc thực hiện ĐTM được thực hiện tùy theo phán quyết

của cơ quan có thẩm quyền cho từng dự án riêng lẻ [31, pg.4-5].

ĐTM tại Nhật Bản được thực hiện rất thận trọng trong giai đoạn nghiên cứu

lập báo cáo và giai đoạn thẩm định báo cáo ĐTM. Một báo cáo ĐTM cần trung bình

ba năm từ khi nghiên cứu đến khi được cấp phép thẩm định. Chính sự thận trọng

này giúp các dự án tại Nhật Bản hạn chế mức thấp nhất các tác động đến môi

trường tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, sự kéo dài quá trình ĐTM gây không ít khó

khăn cho các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý môi trường do vậy đã có một số đề

xuất “hợp lý hóa/đơn giản hóa quy trình ĐTM” với một số loại hình dự án đặc thù.

Cụ thể như đối với dự án xây dựng nhà máy điện, Bộ Môi trường Nhật Bản đã cho

phép xây dựng quy trình đơn giản hóa (hợp lý hóa) với các nội dung: Rút ngắn thời

gian và rút gọn nội dung khảo sát môi trường, tận dụng tối đa số liệu/thông tin quan

trắc môi trường đối với nhà máy đã được thực hiện trong thời gian vận hành; Rút

ngắn thời gian xem xét, thẩm định báo cáo ĐTM. Với sự cải tiến này (chỉ áp dụng

đối với loại hình dự án tháo dỡ nhà máy điện) thời gian lập và thẩm định báo cáo

ĐTM chỉ còn 1-1,5 năm [21].

Ngoài ra, một điểm rất tích cực trong hoạt động ĐTM của Nhật Bản đó khâu

tham vấn cộng đồng trong quá trình lập báo cáo ĐTM. Sau khi hoàn thành khảo sát,

dự báo và đánh giá, thủ tục tiếp theo là lắng nghe ý kiến liên quan đến kết quả đánh

giá. Chủ dự án chuẩn bị dự thảo báo cáo ĐTM mô tả các kết quả đánh giá, cách tiếp

cận bảo vệ môi trường và gửi đến cơ quan quản lý về môi trường ở địa phương. Chủ

dự án cũng công khai tài liệu và cho phép người dân địa phương được trực tiếp xem

tại văn phòng chính phủ và tại nơi hoạt động của chủ dự án. Trong thời gian này,

13

các cuộc họp tham vấn cũng được tổ chức để giải thích nội dung của dự thảo báo

cáo ĐTM. Bất cứ ai có ý kiến về dự thảo báo cáo ĐTM có thể gửi bản ý kiến đánh

giá đến chủ dự án. Chủ dự án tổng hợp những ý kiến đó với chính quyền địa

phương. Sau đó, cơ quan quản lý tại địa phương cũng nêu ý kiến đánh giá của mình

về báo cáo ĐTM đối với dự án, trong đó có tính đến ý kiến từ công chúng. Chủ dự

án dựa vào những ý kiến tham vấn đó để hoàn thiện báo cáo ĐTM và gửi đến cơ

quan có thẩm quyền phê duyệt. Cho tới khi báo cáo ĐTM cuối cùng được công

khai, chủ dự án không được thực hiện bất kỳ giai đoạn nào khác của dự án

[31,Pg.12-13].Việc tham vấn cộng đồng của Nhật Bản không phải là hình thức đối

phó, thủ tục theo quy định của pháp luật ĐTM mà là rất thực chất, công khai đưa

đến những giải pháp thiết thực, đem lại hiệu quả ĐTM cao.

Ngoài Luật Đánh giá tác động môi trường, hệ thống pháp luật ĐTM Nhật

Bản còn được hoàn thiện bởi hệ thống các văn bản do chính quyền địa phương ban

hành với các đặc điểm: (1) Bổ sung các dự án phải ĐTM, (2) quy định áp dụng cho

các dự án quy mô nhỏ, (3) quy định việc tổ chức các buổi điều trần công khai để hỏi

ý kiến người dân, (4) Cung cấp thủ tục thực hiện ĐTM của tổ chức tư vấn lập báo

cáo ĐTM, (5) Yêu cầu theo dõi giám sát sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt. Tuy

vậy, nhưng hệ thống pháp luật ĐTM Nhật Bản không hề bị chồng chéo, mà có sự

phân chia, phối hợp bằng cách không quy định trùng các đối tượng thuộc hạng mục

thực hiện ĐTM (các dự án được chỉ định thực hiện ĐTM theo luật, chính sách pháp

luật địa phương sẽ không thể yêu cầu các thủ tục bổ sung; luật địa phương chỉ quy

định thủ tục cho những dự án không được Luật Đánh giá tác động môi trường đề

cập) [31, pg.16].

So với các nước trong khu vực, pháp luật ĐTM Nhật Bản thuộc vào hàng

phát triển và hoàn thiện nhất, tuy vậy các chuyên gia môi trường nước này vẫn cho

rằng pháp luật ĐTM nước mình còn hạn chế và vẫn luôn trong tiến trình học hỏi

kinh nghiệm các nước phương Tây để ngày một tiến bộ và hoàn thiện hơn.

1.4.2. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Trung Quốc

Ở Trung Quốc, ĐTM là một phần của Luật Bảo vệ môi trường được thông

qua chính thức năm 1989. Tới năm 2002, Luật Đánh giá tác động môi trường được

ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/9/2003. Luật này bao gồm 5 Chương và 38

Điều, quy định khá chặt chẽ quá trình ĐTM.

14

Theo đó, ĐTM là bắt buộc cho bất kỳ dự án nào có thể có tác động tiêu cực

đến môi trường, không phân biệt ngành nghề, đặc biệt là các dự án có vốn đầu tư

nước ngoài càng được kiểm soát về môi trường nghiêm ngặt[32, Pg.10]. Tuy nhiên,

căn cứ vào mức độ ảnh hưởng của dự án tới môi trường mà các cơ quan quản lý nhà

nước về môi trường quy định các hình thức thể hiện ĐTM như: báo cáo ĐTM đầy

đủ, ĐTM là một chương trong hồ sơ trình thẩm định và đăng ký ĐTM theo mẫu quy

định với dự án ít ảnh hưởng đến môi trường[13, tr.26-27]. Quy định này tránh được

sự cồng kềnh về thủ tục cho chủ dự án mà có dự án ít tác động tới môi trường, hoạt

động đầu tư được kiểm soát đơn giản hơn mà vẫn đảm bảo không tác động xấu tới

môi trường.

Điều 19 Luật ĐTM Trung Quốc quy định việc thẩm định báo cáo ĐTM sẽ do

một tổ chức độc lập chuyên thẩm định báo cáo ĐTM thực hiện mà không phải các

cơ quan quản lý nhà nước về môi trường thực hiện như nhiều quốc gia khác trong

đó có Việt Nam. Báo cáo ĐTM do chủ dự án lập, sau đó sẽ thuê một tổ chức thẩm

định độc lập tiến hành thẩm định báo đó. Cơ quan nhà nước sẽ chỉ tiến hành thẩm

tra, phê duyệt báo cáo ĐTM, chứ không trực tiếp thẩm định báo cáo ĐTM. Các tổ

chức thẩm định báo cáo ĐTM phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động

thẩm định báo cáo ĐTM mình. Quy định này đảm bảo việc thẩm định được diễn ra

một cách khách quan, hạn chế tiêu cực phát sinh trong quá trình thẩm định, cũng

phần nào giảm bớt khối lượng công việc cho cơ quan nhà nước.

Pháp luật ĐTM cũng quy định chặt chẽ về năng lực chuyên môn của người

lập báo cáo ĐTM. Cụ thể, người lập báo cáo ĐTM phải có chứng chỉ hành nghề, để

được cấp chứng chỉ cá nhân phải trải qua kỳ thi do Nhà nước tổ chức và cứ 4 năm

một lần phải thi lại để được gia hạn. Chứng chỉ hành nghề còn được chia thành 2

loại: loại một được phép thành lập báo cáo ĐTM cho tất cả các dự án, loại 2 là dành

cho người lập báo cáo ĐTM ở cấp địa phương. Điều này sẽ nâng cao chất lượng

ĐTM ngày từ khâu lập báo cáo ĐTM ban đầu, kéo theo đó việc thẩm định, phê

duyệt cũng sẽ thuận lợi, nhanh chóng hơn.

Pháp luật ĐTM Trung Quốc chú trọng đảm bảo sự tham gia của cộng đồng

và công khai thông tin về báo cáo ĐTM. Việc tham gia của người dân được quy

định trong các giai đoạn: lập báo cáo, thẩm định, thực hiện và giám sát thực hiện

báo cáo ĐTM. Chủ dự án phải tiến hành tham vấn ý kiến người dân trong quá trình

15

lập báo cáo ĐTM, trong quá trình thẩm định báo cáo cần công bố thông tin về báo

cáo ĐTM để người dân thực hiện quyền tham vấn. Mọi ý kiến tham vấn được tiếp

thu hay từ chối đều phải có văn bản giải trình. Việc thực hiện báo cáo cũng phải

được tham vấn ý kiến của người dân và người dân có quyền phản ánh những sai xót

của chủ dự án trong quá trình thực hiện dự án. Toàn bộ phản ánh của người dân đều

phải lưu trữ lại và người dân có quyền tiếp cận miễn phí. Nhìn chung, quá trình thực

hiện ĐTM đều được công khai và người dân được tham gia vào hầu hết các giai

đoạn của quá trình này, đảm bảo sự công bằng, khách quan, cũng nâng cao chất

lượng báo cáo ĐTM một cách tối đa nhất.

Nói đến pháp luật Trung Quốc không thể không nhắc tới cơ chế xử lý vi

phạm cực kỳ nghiêm minh, khắt khe. Pháp luật ĐTM cũng không ngoại lệ khi quy

định rất rõ ràng các hành vi vi phạm của các chủ thể liên quan tới hoạt động ĐTM.

Người lập báo cáo ĐTM có thể bị tước thẻ hành nghề, chủ thể thực hiện thẩm định

báo cáo ĐTM có thể bị loại khỏi danh sách thành viên thẩm định do Bộ Bảo vệ môi

trường quản lý nếu có sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Nếu gây

hậu quả nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người phê duyệt báo

cáo ĐTM nếu thực hiện không đúng quy định của pháp luật sẽ bị cách chức. Và

thực tế cho thấy, việc thực thi các quy định xử phạt này được Trung Quốc tiến hành

tương đối nghiêm túc, do đó mà các chủ thể có liên quan đến hoạt động ĐTM cũng

phải chấp hành đúng quy định của pháp luật [17].

Trung Quốc phát triển pháp luật ĐTM sớm và đặc biết coi trọng công tác này

nên pháp luật ĐTM mang rất nhiều điểm tiến bộ, hoàn thiện với hiệu quả thực thi

cao. Việt Nam nên xem xét, tham khảo để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung

và pháp luật về ĐTM nói riêng.

Các quốc gia nêu trên đều là những quốc gia có pháp luật về ĐTM phát triển

mà Việt Nam cần học tập, tham khảo. Ngoài ra Việt Nam hiện cũng đẩy mạnh quan

hệ hợp tác trong lĩnh vực môi trường với nhiều quốc gia khác như Hàn Quốc,

Canada, Hoa Kỳ, Thụy Điển,…Việt Nam với mong muốn hợp tác nhằm trao đổi,

học hỏi kinh nghiệm trong công tác ĐTM và công tác quản lý, giám sát trong quá

trình các dự án, cơ sở sản xuất đi vào vận hành; nâng cao năng lực cho các nhà quản

lý, các nhà khoa học trong công tác ĐTM. Pháp luật về ĐTM của Việt Nam còn non

trẻ nên rất coi trọng quan hệ hợp tác quốc tế để có thể học hỏi nhằm hoàn thiện hệ

16

thống pháp luật ĐTM của mình, xây dựng hệ thống pháp luật môi trường toàn diện,

thiết thực góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của quốc gia.

1.4.3. Gợi mở cho Việt Nam

ĐTM là một quá trình tương đối phức tạp, với nhiều giai đoạn, thủ tục, thời

gian thực hiện tương đối dài. Do đó, pháp luật về ĐTM cũng cần phải mang tính

chuyên biệt, cụ thể, chi tiết hơn. Việt Nam nên có Luật Đánh giá tác động môi

trường – một đạo luật cụ thể quy định riêng về hoạt động ĐTM để việc thực hiện

ĐTM được quản lý chi tiết, chặt chẽ hơn, các chủ thể của pháp luật ĐTM cũng theo

đó mà thuận tiện trong việc tuân thủ, tìm hiểu các quy định pháp luật hơn.

Một điểm chung của các quốc gia có hệ thống pháp luật ĐTM tiến bộ nêu

trên đó là các quốc gia này đều cực kỳ coi trọng các công trình nghiên cứu về ĐTM.

Việc nghiên cứu ĐTM được thực hiện rất nghiêm túc thu hút nhiều viện, trường đại

học và nhà khoa học tham gia. Việc nghiên cứu là hoạt động được toàn thế giới ghi

nhận và khuyến khích. Bất kỳ một ngành, lĩnh vực nào cũng cần có sự nghiên cứu

chuyên sâu để góp phần phát triển và hoàn thiện hơn. Và Việt Nam nên có cơ chế,

chính sách khuyến khích, hỗ trợ các công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về

ĐTM để thu hút các nhà khoa học tích cực đầu tư, thực hiện nghiên cứu về vấn đề

này để góp phần hoàn thiện pháp luật ĐTM của Việt Nam hơn nữa.

Chất lượng tham vấn và tính công khai thông tin có lẽ cần được Việt Nam

đẩy mạnh hơn. Dựa vào những thành công trong hoạt động ĐTM mà các quốc gia

khác đạt được, có thể thấy vai trò của sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân là

rất lớn. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần chú trọng tới vấn đề này hơn, đảm bảo cho

người dân được phát huy hết vai trò của mình, người dân được thể hiện quan điểm,

được tiếp nhận thông tin ĐTM một cách tối đa, thuận lợi nhất.

Chất lượng hoạt động ĐTM nên được cải thiện. Pháp luật ĐTM góp phần

nâng cao chất lượng ĐTM khi quy định chặt chẽ về năng lực của các chủ thể lập,

thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM; có sự phân chia thẩm quyền rõ ràng hơn và

nâng cao trách nhiệm của các chủ thể với quyền, nghĩa vụ của mình; đảm bảo sự

độc lập giữa các giai đoạn, giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện ĐTM;…

Cần chú trọng giai đoạn “giám sát hậu thẩm định”. ĐTM là công cụ lựa chọn

những dự án đảm bảo không gây ô nhiêm môi trường được hoạt động, là cam kết

của chủ dự án trong việc hạn chế, phòng ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của dự án

17

tới môi trường, là công cụ quan trọng nhằm bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, vấn đề

đặt ra đó là các chủ thể có liên quan có nghiêm túc thực hiện đúng với trách nhiệm

của mình, có thực hiện đúng những cam kết, những biện pháp bảo vệ môi trường đã

được nêu trong báo cáo ĐTM đã phê duyệt không? Và cơ chế hậu kiểm chính là

công cụ để quản lý vấn đề này. Cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện báo cáo

ĐTM đã được phê duyệt là một bộ phận đóng vai trò quan trọng trong pháp luật

ĐTM. Có thể thấy, những nước có hệ thống pháp luật ĐTM hoàn thiện, hiệu quả

đều là các nước quy định nghiêm ngặt, đầy đủ cơ chế kiểm tra, giám sát sau khi báo

cáo ĐTM được phê duyệt. Đây là yêu cầu quan trọng để đảm bảo hoạt động ĐTM

phát huy được đúng vai trò của nó nhằm giảm thiểu tác động xấu của dự án đến môi

trường. Pháp luật ĐTM cần có quy định quản lý khâu lập, tham vấn, thẩm định, phê

duyệt báo cáo ĐTM đồng thời cũng phải quy định vềgiám sát sự tuân thủ yêu cầu

bảo vệ môi trường trong suốt quá trình thực hiện dự án. Công tác này không chỉ là

giám sát chất thải và quan trắc môi trường trong quy định về cấu trúc và nội dung

báo cáo ĐTM hiện hành mà là giám sát, đánh giá việc thực hiện của chủ dự án/nhà

thầu xây dựng đối với từng biện pháp bảo vệ môi trường đã được thẩm định [21].

Do đó, pháp luật ĐTM của Việt Nam cần chú trọng khâu giám sát hậu thẩm định để

đảm bảo cho ĐTM được thực hiện và phát huy vai trò bảo vệ môi trường, đảm bảo

sự phát triển bền vững của đất nước.

18

Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở

VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ TỚI SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG FORMOSA

2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật đánh giá tác động

môi trường ở Việt Nam

2.1.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn

trước năm 1986

Đây là giai đoạn Việt Nam đang trong tiến trình giải phóng đất nước và xây

dựng, khôi phục lại đất nước. Tuy nhiêm, vấn đề ĐTM vẫn được Nhà nước triển

khai và các nhà khoa học sớm quan tâm nghiên cứu. Ngay từ những năm 1980

nhiều nhà khoa học bắt đầu tiếp cận với công tác ĐTM thông qua các hội thảo và

các khoá đào tạo do các tổ chức Quốc tế thực hiện (UNEP, UNU). Chính phủ Việt

Nam cũng sớm nhận thức được vấn đề bảo vệ môi trường và ĐTM nên đã tạo điều

kiện cho các cơ quan, cá nhân tiếp cận các lĩnh vực này. Đầu những năm 80, một

nhóm các nhà khoa học Việt Nam, đứng đầu là Giáo sư Lê Thạc Cán đã đến Trung

tâm Đông - Tây ở Ha - Oai nước Mỹ nhằm nghiên cứu về luật, chính sách môi

trường nói chung và ĐTM nói riêng[20, tr.8]. Chương trình nghiên cứu khoa học

cấp nhà nước về tài nguyên thiên nhiên và môi trường do Uỷ ban Khoa học và Kỹ

thuật Nhà nước triển khai và đặt nền móng quan trọng cho việc nghiên cứu, thực

hiện ĐTM tại Việt Nam. Tháng 4/1984, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi

trường của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội kết hợp với Chương trình nghiên cứu

quốc gia về Môi trường, đã tổ chức khoá huấn luyện về ĐTM cho các giảng viên từ

các trường Đại học và Viện nghiên cứu TW đầu tiên tại Việt Nam. Sau đó, ĐTM đã

được xác định cụ thể trong các văn bản quan trọng của Nhà nước về đẩy mạnh công

tác điều tra cơ bản, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, cụ

thể là: Nghị quyết số 246 – HĐBT ngày 20/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là

Chính phủ)[8].

Trong giai đoạn này, các trường đại học, các viện nghiên cứu đã thực hiện

một số nghiên cứu xem xét, đánh giá ban đầu về môi trường (IEE: Initial

environmental examination) hoặc theo “hướng” ĐTM đối với một số dự án lớn. Tuy

nhiên, tại thời điểm đó, quá trình quy hoạch phát triển hoàn toàn không có những

19

quy định pháp luật bắt buộc liên quan đến ĐTM; cũng như những phương pháp tiến

hành ĐTM chưa được biết đến rộng rãi ở Việt Nam, nên những nghiên cứu trên đã

thực hiện không theo một chuẩn mực nhất định, và tách biệt hoàn toàn với quá trình

quy hoạch cũng như quá trình xây dựng dự án [26, tr.2]. Đây là giai đoạn pháp luật

về ĐTM mang tính nghiên cứu và học hỏi, chưa được luật hóa trong các văn bản

quy phạm pháp luật cụ thể.

2.1.2. Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn sau

năm 1986

Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2004

Từ năm 1987 chương trình đào tạo sau Đại học về quản lý môi trường và

ĐTM được Trung tâm Tài nguyên Môi trường thuộc Đại học Tổng Hợp Hà Nội

thường xuyên tổ chức. Tuy nhiên, cũng vào thời điểm đó thì mức độ và quy mô còn

chưa đồng bộ và rộng khắp ở các nghành và các địa phương.

Trong giai đoạn 1987 – 1990, Nhà nước đã đầu tư vào chương trình điều tra

cơ bản và được xem như công tác kiểm tra hiện trạng môi trường. Đó là các chương

trình điều tra vùng Tây Nguyên, vùng ĐBSCL, Quảng Ninh…[8]. Tiêu biểu có dự

án xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình được xem như hình mẫu điển hình trong

thực hiện ĐTM vào năm 1989[26, tr.2].

Sau năm 1990, Nhà nước ta cho tiến hành chương trình nghiên cứu môi trường

mang mã số kinh tế 02, trong đó có một đề tài trực tiếp nghiên cứu về ĐTM, đề tài

mang mã số KT 02 - 16 do Giáo sư Lê Thạc Cán chủ trì. Trong khuôn khổ đề tài này,

một số báo cáo ĐTM mẫu đã được lập, đáng chú ý là báo cáo ĐTM của nhà máy giấy

Bãi Bằng và ĐTM công trình thuỷ lợi Thạch Nham. Mặc dù chưa có Luật Bảo vệ môi

trường và các điều luật về ĐTM song Nhà nước đã yêu cầu một số dự án phải có báo

cáo ĐTM, chẳng hạn như công trình thuỷ điện Trị An, nhà máy lọc dầu Thành Tuy Hạ

[8]. Một số tổ chức quản lý Nhà nước như Cục Môi trường, Sở Khoa học Công Nghệ

và Môi trường, các trung tâm, Viện Môi trường cũng đã được tập huấn công tác tư vấn

cho lập báo cáo ĐTM và tổ chức thẩm định các báo cáo ĐTM.

Hoạt động ĐTM ở Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học biết đến từ lâu,

nhưng phải đến năm 1993 khi Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên của Việt Nam có

quy định về ĐTM thì hoạt động này mới được biết đến rộng rãi ở Việt Nam. Luật

Bảo vệ môi trường năm 1993 của nước CHXHCN Việt Nam là văn bản pháp luật

20

đầu tiên của Việt Nam đề cập đến ĐTM, đánh dấu cột mốc quan trọng trong công

tác bảo vệ môi trường, và tất nhiên là bước phát triển đột bậc đối với pháp luật đánh

giá tác động môi trường ở Việt Nam.

Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 đưa ra định nghĩa: “Đánh giá tác

động môi trường là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi trường

của các dự án, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh

doanh, công trình kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và các công trình

khác, đề xuất các giải pháp thích hợp về bảo vệ môi trường” và có quy định về

Đánh giá tác động môi trường trong các điều 17 và 18. Theo đó, các dự án trong và

đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, các dự án đã hoạt động hay mới lên kế hoạch thực

hiện đều phải thực hiện đánh giá tác động môi trường. Tiếp đó, là hàng loạt các văn

bản quy phạm pháp luật khác được ban hành để hướng dẫn thêm về ĐTM, như:

Nghị định của chính phủ số 175-CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật

bảo vệ môi trường; Nghị định của Chính phủ số 143/2004/NĐ-CP ngày 12/7/2004

về việc sửa đổi, bổ sung Điều 14 Nghị định 175-CP; Thông tư của Bộ Khoa học

Công nghệ và Môi trường số 1420/MTG ngày 26/11/1994 hướng dẫn đánh giá tác

động môi trường đối với các cơ sở đang hoạt động; Thông tư của Bộ Khoa học,

Công nghệ và Môi trường số 490/1998/TT-BKHCNMT ngày 29/4/1998 hướng dẫn

lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư;…

Theo Báo cáo phân tích chính sách do Trung tâm con người và thiên nhiên thực

hiện năm 2009, thống kê ban đầu đã có khoảng 14 văn bản quy phạm pháp luật liên

quan đến ĐTM được ban hành trong khoảng 1993 – 2005 (trước khi Luật bảo vệ

môi trường năm 2005 ra đời). Pháp luật ĐTM thời kỳ này mang tính khởi đầu, học

hỏi, rút kinh nghiệm, vẫn rất sơ sài và khả năng áp dụng, thi hành chưa cao, hiệu

quả đem lại chưa thực sự đạt được như đúng mục đích của các nhà làm luật khi đưa

ĐTM vào là một quá trình bắt buộc đối với các dự án. Tuy nhiên, đây cũng là bước

phát triển mang tính đột phá, thể hiện nỗ lực và cố gắng của Chính phủ trong việc

Bảo vệ môi trường và cụ thể là trong việc thực hiện ĐTM ở Việt Nam.

Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2013

Với sự thay đổi về thời gian, hàng loạt các vấn đề về kinh tế - xã hội, môi

trường cũng dần thay đổi, yêu cầu tất yếu đặt ra là sự thay đổi cơ chế pháp luật về

môi trường, đòi hỏi phải có những quy định mới phù hợp với hoàn cảnh và thực

21

tiễn. Hệ thống pháp luật về đánh giá tác động môi trường dần đa dạng và tiến bộ

hơn. Đầu tiên phải kể đến Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 được Quốc hội thông

qua 29/11/2005, đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất về lĩnh vực môi trường.

Theo đó, hệ thống pháp luật về đánh giá tác động môi trường về cơ bản đã được sửa

đổi theo. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa: “Đánh giá tác động môi

trường là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ

thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó” và quy định

chi tiết các vấn đề liên quan đến đánh giá tác động môi trường (tại Chương III, từ

Điều 18 đến Điều 23). Luật Bảo vệ môi trường 2005 quy định chặt chẽ, rõ ràng hơn

các dự án đầu tư phải thực hiện đánh giá tác động môi trường; những dự án đầu tư

còn lại thì yêu cầu phải đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường thay thế cho bản

đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường trước đây (theo Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành

Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 của Bộ Tài nguyên và môi trường).

Triển khai các quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2005, công tác đánh giá

môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường đã đi vào nề nếp. Bộ Tài

nguyên và Môi trường đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số

29/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2011 quy định về đánh giá môi trường chiến

lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường; phối hợp với Bộ

Tài chính xây dựng và ban hành Thông tư số 218/2010/TT-BTC ngày 29/12/2010

quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí thẩm định báo cáo đánh

giá tác động môi trường. Ngay sau khi Nghị định số 29/2011/NĐ-CP được ban

hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã nhanh chóng xây dựng và ban hành

Thông tư số 26/2011/TT-BTNMT ngày 18 tháng 7 năm 2011 hướng dẫn thực hiện

Nghị định; Thông tư số 01/2012/TT-BTNMT quy định về lập, thẩm định, phê duyệt

và kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đề án bảo vệ môi trường chi tiết; lập, đăng ký

đề án bảo vệ môi trường đơn giản. Để nâng cao chất lượng công tác ĐMC và ĐTM,

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức xây dựng và hoàn thành 04 hướng dẫn kỹ

thuật lập báo cáo ĐTM chuyên ngành cho các loại hình dự án: nhà máy điện hạt

nhân; khai thác than bằng công nghệ khí hóa; xây dựng khu du lịch và xử lý chất

thải nguy hại bằng phương pháp đốt; triển khai xây dựng hướng dẫn kỹ thuật lập

báo cáo ĐTM đối với dự án chế biến đất hiếm và đề án thu phí thẩm định báo cáo

ĐTM ở cấp địa phương (theo Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Bảo vệ môi

trường năm 2005 của Bộ Tài nguyên và môi trường).

22

Điểm khác biệt cơ bản về ĐTM trong Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và

Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 là ở đối tượng phải thực hiện ĐTM. Luật Bảo vệ

môi trường năm 1993 quy định ĐTM là bước bắt buộc bắt buộc đối với các dự án,

còn Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định thực hiện ĐTM đối với một số dự

án. Các dự án thuộc Danh mục các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi

trường được quy định trong Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm

2008 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 thì sẽ phải thực hiện

báo cáo ĐTM chi tiết, còn các dự án không thuộc danh mục này chỉ cần thực hiện

Cam kết Bảo vệ môi trường (theo Báo cáo phân tích chính sách do Trung tâm con

người và thiên nhiên thực hiện năm 2009). Các cơ sở đang hoạt động chưa lập báo

cáo ĐTM, cam kết bảo vệ môi trường theo quy định sẽ phải tiến hành xây dựng Đề

án BVMT theo quy định tại Thông tư số 01/2012/TT-BTNMT ngày 16 tháng 3 năm

2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về lập, thẩm định, phê duyệt và

kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đề án bảo vệ môi trường chi tiết; lập và đăng ký

đề án bảo vệ môi trường đơn giản.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và văn bản quy phạm pháp luật ban hành

trong giai đoạn 2005-2013 về đánh giá tác động môi trường đã cho thấy sự tiến bộ,

hiệu quả, thiết thực trong thực tế, nhưng vẫn còn những hạn chế như: việc tạo điều

kiện để người dân tham gia vào đánh giá tác động môi trường còn chưa cao; báo

cáo đánh giá tác động môi trường vẫn còn mang tính thủ tục, chưa thực chất; việc

xác định ranh giới giữa đánh giá tác động môi trường và cam kết BVMT, quy định

vai trò chủ dự án tự và tổ chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo đánh giá tác động môi

trường,… còn bất cập. Theo đó, cần phải xây dựng hệ thống pháp luật môi trường

dựa trên sự khảo sát, đánh giá toàn diện thực tế môi trường, rút kinh nghiệm từ

những hạn chế của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.

Giai đoạn từ năm 2014 đến nay

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 được ban hành ngày 23/6/2014 và chính

thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2015. Trong đó nhiều nội dung đã được cụ thể hóa

nhiều điểm so với Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Luật Bảo vệ môi trường năm

2014 gồm 20 chương và 170 điều – tăng 5 chương và 34 điều so với Luật Bảo vệ

23

môi trường 2005. Về cơ bản, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 kế thừa các nội

dung của Luật Bảo vệ môi trường 2005; khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật

Bảo vệ môi trường 2005; đồng thời luật hóa chủ trương của Đảng, bổ sung một số

nội dung mới về bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường trong

giai đoạn mới.

Đánh giá tác động môi trường được quy định cụ thể tại Mục 3 Luật Bảo vệ

môi trường năm 2014, tại Chương 4 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015

của Chính phủ quy định về Quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường

chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường và Thông

tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 05 năm 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi

trường quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường

và kế hoạch bảo vệ môi trường.

So với Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014

đã một số thay đổi về Đánh giá tác động môi trường, cụ thể như sau:

Đánh giá tác động môi trường được định nghĩa ngắn gọn, chắt lọc mà đúng

bản chất hơn: “Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo tác động đến

môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi triển

khai dự án đó”. Về đối tượng phải lập ĐTM đã được thu hẹp góp phần hạn chế việc

lạm dụng yêu cầu phải thực hiện ĐTM và các báo cáo ĐTM chỉ mang tính lý

thuyết. Luật bảo vệ môi trường năm 2014 còn bổ sung một số điểm mới như: quy

định yêu cầu về chứng chỉ tư vấn ĐTM; yêu cầu lồng ghép nội dung về biến đổi khí

hậu trong báo cáo ĐTM; đánh giá sức khỏe cộng đồng trong ĐTM.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã bỏ hoạt động “Cam kết Bảo vệ môi

trường” được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2005(Cam kết bảo vệ môi

trường dành cho các dự án không thuộc danh mục phải lập báo cáo đánh giá tác

động môi trường do Chính phủ ban hành) và thay vào đó là quy định về “Kế hoạch

bảo vệ môi trường”. Do trên thực tế, việc thực hiện cam kết bảo vệ môi trường có

nhiều khó khăn, thiếu thực thi, mang tính lý thuyết và trong nhiều trường hợp đã

dẫn đến tiêu cực trong công tác quản lý.

Trên đây, chỉ là một vài điểm thay đổi tiêu biểu, dễ nhận thấy nhất của Luật

Bảo vệ môi trường năm 2014 về hoạt động ĐTM, những thay đổi sẽ được tác giả

tiếp tục trình bày trong các phần sau của Khóa luận tốt nghiệp.

24

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật

được ban hành đã phần nào tháo gỡ, giải quyết các vấn đề tồn tại mà trong Luật Bảo

vệ môi trường năm 2005 chưa được đề cập đến hoặc làm rõ, đặc biệt là trong công

tác lập, thẩm định báo cáo ĐTM, xác nhận kế hoạch Kế hoạch bảo vệ môi trường

đối với các dự án đầu tư được quản lý, siết chặt hơn tạo điều kiện thuận lợi cho cơ

quan quản lý trong quá trình triển khai thực hiện, yêu cầu doanh nghiệp ngày càng

phải chấp hành nghiêm túc các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong quá

trình triển khai, thực hiện dự án, đảm bảo phát triển bền vững, hài hòa với bảo vệ

môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hiện nay, ở Việt Nam đã có một đội ngũ tương đối đông đảo những người

làm công tác ĐTM, trong đó có nhiều chuyên gia được đào tạo trong và ngoài nước,

bước đầu đã tập hợp được những kinh nghiệm quý báu qua những công trình đã

đánh giá thực tế. Việc thực hiện ĐTM ở Việt Nam cũng còn những vấn đề tồn tại

cần tiếp tục giải quyết, tuy nhiên, có thể nói cho đến nay hệ thống văn bản pháp lý

cho thực hiện ĐTM đã tương đối đầy đủ và tiếp cận được yêu cầu của thực tế. Việc

thực hiện ĐTM đã dần đi vào nề nếp và đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển

bền vững của đất nước. Nội dung và quy trình thực hiện ĐTM tại Việt Nam đã có

những thay đổi và phát triển theo từng thời kỳ. Quy trình thực hiện ĐTM trước đây

ở Việt Nam còn đơn giản và lạc hậu so với quy trình chung của thế giới, nhưng cho

đến nay đã được điều chỉnh phù hợp hơn. Các yêu cầu và chất lượng của các báo

cáo ĐTM cũng đã được nâng cao rõ rệt nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế -

xã hội và yêu cầu bảo vệ môi trường.

2.2. Nội dung điều chỉnh của Pháp luật đánh giá tác động môi trường

2.2.1. Đối tượng thực hiện đánh giá tác động môi trường

Xác định được đối tượng phải thực hiện ĐTM là kết quả của bước sàng lọc -

bước khởi đầu cho quá trình ĐTM. Những dự án không phải thực hiện ĐTM sẽ phải

thực hiện Kế hoạch bảo vệ môi trường – là một trong các biện pháp bảo vệ môi

trường dành cho những dự án đơn giản hơn, khả năng tác động tới môi trường

không nhiều.

Hiện pháp luật ĐTM đã quy định tương đối cụ thể về giai đoạn này. Luật

Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định về đối tượng phải thực hiện đánh giá tác

động môi trường tại Điều 18 Mục 3 Chương II và các đối tượng cụ thể hơn được

25

quy định tại Phụ lục II của Nghị định 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015

của Chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường

chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. Yêu cầu

thực hiện ĐTM tùy vào loại dự án và quy mô dự án. Đối tượng phải thực hiện đánh

giá tác động môi trường gồm: các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương

đầu tư của Quốc hội, thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của Chính phủ, Thủ

tướng Chính phủ; dự án có sử dụng đất của vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,

khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển; các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu

công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại,

làng nghề và các khu sản xuất kinh doanh tập trung khác; dự án xây dựng cơ sở

khám chữa bệnh và cơ sở y tế khác có quy mô từ 50 giường trở lên; dự án xây dựng

nghĩa trang, cơ sở hỏa táng; dự án xây dựng lò phản ứng hạt nhân; dự án khai thác,

chế biến khoáng sản rắn có sử dụng hóa chất độc hại hoặc vật liệu nổ công nghiệp;

dự án chế biến, tinh chế kim loại màu...Tổng số danh mục dự án phải thực hiện

ĐTM là 113 danh mục.

ĐTM là hoạt động cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát ô

nhiễm môi trường, đem lại hiệu quả đáng kể trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, ĐTM là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự đầu tư cả về khả năng, kinh

nghiệm và đương nhiên là cả thời gian cũng như kinh phí cho quá trình này. Vì vậy,

yêu cầu phải thực hiện ĐTM chỉ nên dành cho những dự án có quy mô lớn, vai trò

quan trọng, có nguy cơ tác động tới môi trường lớn để tiết kiệm thời gian, kinh phí

khi triển khai dự án. Theo tác giả, quy định về đối tượng phải thực hiện ĐTM như

hiện nay là tương đối hợp lý, đầy đủ và rõ ràng, đã có sự phân loại dự án, vị trí thực

hiện và quy mô của dự án.

Ngoài ra, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã quy định đối tượng phải thực

hiện ĐTM thay cho quy định về Đối tượng phải lập báo cáo ĐTM của Luật Bảo vệ

môi trường năm 2005, đây là một thay đổi tương đối đúng đắn, bởi ĐTM là một quá

trình, gồm nhiều bước, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường chỉ là một bước

trong quá trình ĐTM, do vậy thay đổi này là hoàn toàn hợp lý, thể hiện sự tiến bộ,

thấu đáo của các nhà làm luật.

2.2.2. Quy định về lập báo cáo đánh giá tác động môi trường

Thứ nhất, quy định về chủ thể lập báo cáo đánh giá tác động môi trường

26

Pháp luật ĐTM của Việt Nam quy định chủ thể thực hiện ĐTM có thể là chủ

dự án hoặc các tổ chức tư vấn thực hiện ĐTM được chủ dự án thuê thực hiện. Chủ

thể thực hiện ĐTM phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện ĐTM

và các thông tin, số liệu được sử dụng trong báo cáo ĐTM, tổ chức tư vấn thực hiện

ĐTM còn phải chịu trách nhiệm trước chủ dự án đã thuê mình thực hiện ĐTM cho

dự án. Chủ dự án chịu trách nhiệm đối với chi phí lập và thẩm định báo cáo ĐTM

cho dự án của mình.

Chủ thể thực hiện ĐTM của dự án phải đáp ứng các điều kiện được quy định

tại Điều 13 Nghị định 18/2015, cụ thể:

Một là, cán bộ thực hiện ĐTM phải đáp ứng điều kiện, đó là có trình độ đại

học trở lên và phải có chứng chỉ tư vấn ĐTM đúng chuyên ngành;

Hai là, tổ chức thực hiện ĐTM phải có cán bộ chuyên ngành liên quan đến

dự án với trình độ đại học trở lên;

Ba là, phải có phòng thí nghiệm, các thiết bị kiểm chuẩn được xác nhận đủ

điều kiện thực hiện đo đạc, lấy mẫu, xử lý, phân tích mẫu về môi trường phục vụ

việc ĐTM của dự án; trường hợp không có phòng thí nghiệm, các thiết bị kiểm

chuẩn đáp ứng yêu cầu, phải có hợp đồng thuê đơn vị có đủ năng lực.

Về chứng chỉ tư vấn ĐTM đối với cán bộ thực hiện ĐTM do Bộ Tài nguyên

và Môi trường quản lý việc đào tạo, cấp chứng chỉ. Tuy nhiên, từ khi Nghị định số

18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ có hiệu lực, đến nay Bộ Tài nguyên và

Môi trường chưa có Thông tư chính thức hướng dẫn quy định quản lý việc đào tạo, cấp

chứng chỉ tư vấn ĐTM. Việc chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn tới công tác đánh giá trình

độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ thực hiện ĐTM là rất khó khăn và hạn chế. Khi

những tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn đối với chủ thể thực hiện ĐTM chưa rõ ràng

thì thực trạng năng lực thực hiện ĐTM và lập báo cáo ĐTM còn yếu kém như hiện nay

là đương nhiên xảy ra. Điều này khiến cho chất lượng công tác ĐTM là không cao,

không đáp ứng được yêu cầu của ĐTM. Nhà nước cần sớm ban hành các quy định, tiêu

chuẩn đối với chủ thể thực hiện ĐTM, cũng như thường xuyên tổ chức hướng dẫn,

nâng cao năng lực chuyên môn cho các chủ thể thực hiện ĐTM.

Ngoài ra, sự phối hợp giữa chủ dự án với tổ chức tư vấn thực hiện ĐTM thực

tế thiếu chặt chẽ. Chủ dự án giao khoán, phó mặc cho tổ chức tư vấn thực hiện

ĐTM do mình thuê thực hiện hoạt động ĐTM. Đơn vị được thuê thực hiện ĐTM

27

khi thiếu sự tham gia đóng góp ý kiến của chủ dự án – người nắm rõ nhất về cơ chế,

quy mô, hoạt động của dự án sẽ dẫn tới báo cáo ĐTM thiếu tính chính xác, các nội

dung đánh giá tác động, biện pháp khắc phục không phù hợp,…Chủ dự án thì do bỏ

mặc cho đơn vị tư vấn thực hiện ĐTM nên không nắm rõ được nội dung báo cáo

ĐTM và dẫn tới không thực hiện được những yêu cầu, cam kết đúng như theo báo

cáo ĐTM. Do đó, giữa chủ dự án với tổ chức tư vấn thực hiện ĐTM cần phải có sự

phối hợp chặt chẽ, thống nhất cùng tham gia thực hiện ĐTM để đảm bảo hoàn thành

tốt các nghĩa vụ ĐTM của mình, tránh khỏi các vi phạm trong ĐTM.

Thứ hai, quy định về tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động

môi trường

Tham vấn có thể hiểu là hoạt động tham khảo ý kiến tư vấn, đánh giá của

người khác đối với một lĩnh vực, vụ việc cụ thể. Tham vấn mang tính hỗ trợ người

được tham vấn, giúp họ xác định và làm sáng tỏ vấn đề, xem xét các khả năng và

giúp họ đưa ra lựa chọn tối ưu để giải quyết vấn đề của mình.

Tham vấn trong quá trình thực hiện ĐTM nhằm tham khảo ý kiến từ nhiều

phía, thu thập kiến thức bản địa giúp cho chủ dự án có những nhận định, đánh giá,

quyết định đúng đắn, toàn diện, bao quát hơn cho hoạt động ĐTM. Tham vấn trong

quá trình thực hiện ĐTM là nhằm hoàn thiện báo cáo ĐTM, hạn chế thấp nhất các

tác động xấu của dự án đến môi trường và con người, bảo đảm cho sự phát triển bền

vững. Tham vấn cộng đồng cũng góp phần tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận

thức của cộng đồng với vấn đề môi trường. Đây là giai đoạn được hầu hết các quốc

gia, tổ chức thừa nhận và thực hiện trong hoạt động ĐTM. Việc tham vấn ý kiến

cộng đồng khi thực hiện ĐTM trở thành yêu cầu bắt buộc, thể hiện sự dân chủ, nhân

văn, khoa học…

Tuy nhiên, không phải dự án nào cũng cần thiết phải có ý kiến tham vấn.

Khoản 3 Điều 21 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định các dự án không phải

thực hiện tham vấn gồm: (1) Dự án phù hợp với quy hoạch của khu sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ tập trung đã được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường

cho giai đoạn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; (2) Thuộc danh mục bí mật nhà nước.

Đối với các dự án không thuộc danh mục trên, chủ dự án phải tổ chức tham

vấn Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân

cấp xã) nơi thực hiện dự án, các tổ chức và cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp

28

bởi dự án; nghiên cứu, tiếp thu những ý kiến khách quan, kiến nghị hợp lý của các

đối tượng liên quan được tham vấn. Việc tham vấn được tiến hành theo hai cấp:

Một là, Tham vấn Ủy ban nhân dân cấp xã và tổ chức có liên quan

Chủ dự án gửi báo cáo ĐTM của dự án đến UBND cấp xã nơi thực hiện dự án

và các tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi dự án kèm theo văn bản đề nghị cho ý kiến;

UBND cấp xã nơi thực hiện dự án và các tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi

dự án có văn bản phản hồi trong thời hạn tối đa mười lăm (15) ngày làm việc, kể từ

ngày nhận được văn bản của chủ dự án, hoặc không cần có văn bản phản hồi trong

trường hợp chấp thuận việc thực hiện dự án.

Hai là, Tham vấn cộng đồng dân cư

Chủ dự án và UBND cấp xã nơi thực hiện dự án đồng chủ trì tổ chức họp

cộng đồng dân cư với sự tham gia của những người đại diện cho Uỷ ban mặt trận

Tổ quốc cấp xã, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ dân

phố, thôn, bản được UBND cấp xã triệu tập. Ý kiến của các đại biểu tham dự cuộc

họp phải được thể hiện đầy đủ, trung thực trong biên bản họp cộng đồng.

Trường hợp dự án thuộc địa bàn nhiều xã, chủ dự án có thể tự quyết định

hình thức tổ chức cuộc họp tham vẫn cộng đồng dân cư của từng xã hoặc liên xã.

Bộ TN&MT đã có hướng dẫn biểu mẫu cụ thể cho các văn bản liên quan đến

hoạt động tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường tại

Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 05 năm 2015 quy định về đánh giá

môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi

trường, bao gồm: mẫu văn bản của chủ dự án gửi xin ý kiến tham vấn Ủy ban nhân

dân cấp xã/cơ quan, tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi dự án về nội dung của báo

cáo đánh giá tác động môi trường; mẫu văn bản trả lời của cơ quan, tổ chức được

xin ý kiến tham vấn; mẫu biên bản họp tham vấn cộng đồng dân cư chịu tác động

trực tiếp bởi dự án.

Quy định về tham vấn cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án

thông qua hình thức họp – cơ chế thông tin hai chiều là một cơ chế rất tiến bộ, tạo

điều kiện cho người dân được ý kiến trực tiếp, sẽ giúp chủ dự án lập được báo cáo

ĐTM hoàn thiện, khách quan hơn.

Hoạt động tham vấn về cơ bản chỉ được thực hiện trong giai đoạn lập báo

cáo ĐTM; còn trong giai đoạn thẩm định, chỉ trong trường hợp cần thiết, cơ quan

29

thẩm định mới lấy ý kiến tham vấn của các cơ quan, tổ chức và các chuyên gia về môi

trường; phạm vi tham vấn đã thu hẹp hơn. Ở các quốc gia phát triển, tham vấn cộng

đồng được tổ chức một cách toàn diện, công khai hơn với nội dung tham vấn đầy đủ,

thời gian tham vấn lâu, phương thức tham vấn đa dạng, việc tham vấn cũng được thực

hết hầu hết các giai đoạn của ĐTM nên đem lại chất lượng tham vấn rất cao.

Hiện nay, pháp luật ĐTM Việt Nam vẫn chưa quy định rõ ràng, chặt chẽ về

cơ chế tham vấn cộng đồng dân cư. Quy mô cộng đồng dân cư chịu tác động còn

chưa rõ ràng, dự án thuộc địa phận xã này, nhưng tác động của dự án tới môi trường

đâu chỉ trong phạm vi xã đấy mà còn có thể lan rộng ra các địa phương xung

quanh.Mỗi giai đoạn của dự án lại có thể tác động tới các đối tượng khác nhau, nên

việc xác định đối tượng chịu tác động để tiến hành tham vấn vẫn còn hạn chế. Đối

tượng được tham vấn cũng quá hẹp (chỉ bao gồm UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc cấp xã, đại diện cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án, tổ chức chịu tác

động trực tiếp của dự án). Trong khi đó, theo yêu cầu của việc tham vấn rộng rãi

còn có rất nhiều các đối tượng khác cần được tham vấn như: các cơ quan, tổ chức,

cá nhân có mối quan tâm đến dự án và các tác động của dự án; các trường đại học,

các tổ chức nghiên cứu, các chuyên gia có chuyên môn và kinh nghiệm về lĩnh vực

của dự án và các vấn đề môi trường liên quan đến dự án…[28]Pháp luật ĐTM của

Việt Nam cũng cần quy định chặt chẽ hơn về cuộc họp tham vấn cộng đồng dân cư

để đảm bảo cho người dân được lên tiếng, được thoải mái góp ý vào dự án như về

việc cung cấp tài liệu tới dự án cho cộng đồng dân cư trước khi tiến hành họp, ý

kiến tham vấn như nào là hợp lý mà chủ dự án phải tiếp thu, ý kiến mà chủ dự án

không tiếp thu cần có giải trình,…

Khi pháp luật quốc gia còn chưa khắc phục được những hạn chế trên thì hoạt

động tham vấn sẽ còn hạn chế, còn mang tính thủ tục, chưa thể hiện được vai trò

của mình trong ĐTM.

Thứ ba, quy định về Lập báo cáo đánh giá tác động môi trường

Báo cáo ĐTM là hình thức thể hiện kết quả của quá trình ĐTM. Báo cáo

ĐTM hợp lệ cần phải tuân thủ các yêu cầu về cả hình thức và nội dung, để từ đó các

cơ quan có thẩm quyền xem xét, ra quyết định phê duyệt.

Về hình thức của báo cáo ĐTM, báo cáo ĐTM được thể hiện dưới dạng văn

bản và phải đáp ứng yêu cầu về hình thức do Bộ Tài nguyên và Môi trường quy

30

định tại Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 05 năm 2015 quy định về

đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ

môi trường. Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT quy định mẫu trang bìa, trang phụ

bìa của báo cáo ĐTM tại Phụ lục 2.2 và quy định cấu trúc của báo cáo ĐTM tại phụ

lục 2.3.

Về nội dung của Báo cáo đánh giá tác động môi trường

Nội dung của Báo cáo đánh giá tác động môi trường là vấn đề cơ bản, mấu

chốt của báo cáo ĐTM. Nội dung báo cáo ĐTM là thể hiện kết quả quá trình ĐTM,

là kết quả của nỗ lực nghiên cứu, thăm dò, đánh giá tác động của dự án tới môi

trường, là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt ĐTM, để dự án được triển

khai. Điều 22 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã quy định nội dung chính của

báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đồng thời, tại Phụ lục 2.3 Thông tư số

27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 05 năm 2015 của Bộ tài nguyên và Môi trường

quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế

hoạch bảo vệ môi trường cũng quy định về nội dung và hướng dẫn điền thông tin

vào Báo cáo đánh giá tác động môi trường mẫu. Báo cáo ĐTM về cơ bản bao gồm

các nội dung chính như:mô tả dự án về vị trí, công nghệ, quy mô; đánh giá hiện

trạng môi trường, tình hình kinh tế - xã hội; đánh giá tác động của dự án tới môi

trường; các biện pháp giảm thiểu, phòng ngừa tác động xấu; kết quả tham vấn;

chương trình quản lý, giám sát môi trường.

Như vậy, báo cáo ĐTM không chỉ phản ánh kết quả của quá trình của phân

tích, đánh giá, dự báo các tác động của dự án tới môi trường tự nhiên và cả tác động

tới sức khỏe cộng đồng. Đây là điểm rất đáng ghi nhận của pháp luật ĐTM ở Việt

Nam, phần nào cho thấy sự quan tâm của nhà làm luật tới môi trường xã hội. Nhiều

nước trên thế giới yêu cầu báo cáo ĐTM là xem xét các tác động tới môi trường nói

chung là bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường xã hội

với các yếu tố như văn hóa, kinh tế, sức khỏe, xã hội. Quy định về ĐTM của Luật

Bảo vệ Môi trường năm 2014 của Việt Nam không bắt buộc xem xét đến tất cả các

vấn đề về xã hội, mà mới chỉ yêu cầu đối với sức khỏe cộng đồng, theo tác giả đây

là quy định phù hợp, cần thiết. Sức khỏe con người suy cho cùng là mục đích cuối

cùng của việc bảo vệ môi trường, nên đương nhiên cần phải được các chủ dự án,

người lập báo cáo ĐTM xem xét tới khi tiến hành ĐTM dự án của mình, đây là vấn

31

đề cấp thiết, mấu chốt và phải được bắt buộc. Còn những vấn đề xã hội khác đúng

là cũng quan trọng, nhưng chưa phải là cấp thiết trong hoàn cảnh hiện giờ của Việt

Nam, khi mà hoạt động ĐTM vẫn chưa thực sự hoàn thiện, tiến bộ, còn gặp rất

nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Các vấn đề xã hội khác sẽ được quan tâm

bằng những phương thức khác, chứ chưa thể lồng ghép ngay vào báo cáo ĐTM,

việc này sẽ gây khó khăn cho người tiến hành ĐTM, gây hạn chế hoạt động đầu tư,

cản trở phần nào sự phát triển của dự án, của phát triển kinh tế.

2.2.3. Thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường

Quy định về thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động

môi trường

Thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM được xác định căn cứ vào

quy mô, tính chất của dự án, vào thẩm quyền quyết định, phê duyệt chủ trương đầu

tư. Thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM thuộc về Bộ TN&MT; các bộ,

cơ quan ngang bộ; UBND cấp tỉnh; được phân định như sau:

Bộ TN&MT chịu trách nhiệm thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của các dự

án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Chính phủ, Thủ

tướng Chính phủ; các dự án liên ngành, liên tỉnh;… Danh mục các dự án thuộc

thẩm quyền thẩm định, phê duyệt của Bộ TN&MT được quy định tại Phụ lục III

Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy định

về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động

môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường.

Bộ, cơ quan ngang bộ tổ tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của các

dự án thuộc thẩm quyền quyết định phê duyệt đầu tư của mình,trừ các dự án do Bộ

TN&MT thẩm định, phê duyệt nêu trên.

Bộ Quốc phòng, Bộ Công an tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của

các dự án thuộc bí mật quốc phòng, an ninh và các dự án thuộc thẩm quyền quyết

định phê duyệt đầu tư của mình, trừ các dự án thuộc thẩm quyền thẩm định, phê

duyệt của Bộ TN&MT.

UBND cấp tỉnh tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của các dự án

đầu tư trên địa bàn của mình, không thuộc các dự án đã nêu trên.

Đối với các dự án thuộc thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của

UBND cấp tỉnh đầu tư vào các khu công nghiệp đã được phê duyệt báo cáo

32

ĐTMcủa dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đã hoàn thành xây dựng trạm xử lý nước

thải tập trung hoặc đã được cơ quan có thẩm quyền xác nhận hoàn thành công trình

bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; UBND cấp tỉnh có thể ủy quyền

cho Ban quản lý các khu công nghiệp thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM. Điều

kiện là Ban quản lý các khu công nghiệp đã thành lập Phòng Quản lý môi trường và

có đủ biên chế từ năm (05) người trở lên có chuyên môn về bảo vệ môi trường. Ban

quản lý các khu công nghiệp này phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ đến UBND

cấp tỉnh; chịu sự kiểm tra, hướng dẫn của UBND cấp tỉnh và Sở TN&MT theo quy

định của pháp luật.

Có sự phân cấp thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM sẽ góp phần

phân chia khối lượng công việc, tránh sự quá tải, ùn ứ tại một bộ phận nhất định.

Việc phân cấp này cần dựa trên khoa học – kỹ thuật và trên thực tiễn triển khai. Qua

thực tế cho thấy phần lớn các báo cáo ĐTM do Bộ TN&MT thẩm định, phê duyệt;

các báo cáo ĐTM do Bộ, cơ quan ngang Bộ thẩm định, phê duyệt tương đối ít, duy

chỉ có Bộ Giao thông vận tải là thẩm định, phê duyệt nhiều hơn cả. Việc tuân thủ

quy định pháp luật hiện nay về phân định thẩm quyền đang được các cơ quan có

thẩm quyền thực hiện tương đối tốt. Việc phân cấp thẩm định, phê duyệt báo cáo

ĐTM cho địa phương là hướng đi đúng đắn, tuy nhiên, một số địa phương còn hạn

chế về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cũng như các trang thiết bị cần thiết

phục vụ hoạt động thẩm định, phê duyệt còn thiếu, Đặc biệt tại các tỉnh miền núi có

trình độ phát triển kinh tế xã hội chưa cao, các cán bội chuyên trách còn hạn chế về

năng lực chuyên môn nên triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ

môi trường chưa cao. Ngoài ra, cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM đang gần như

đồng thời là cơ quan có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, nên phần nào hạn

chế sự độc lập, khách quan khi phê duyệt báo cáo ĐTM; bởi nhiều địa phương vẫn

chú trọng phát triển kinh tế hơn là đầu tư cho bảo vệ môi trường.

Ngoài ra, xuất pháttừviệc thiếu sự đồng nhất giữa các văn bản quy phạm

pháp luật, khiến cho việc tuân thủ, thi hành gặp nhiều khó khăn và sai phạm là khó

tránh khỏi. Tiêu biểu như theo văn bản số 4952/UBND-TNMT ngày 10/10/2016

của UBND tỉnh Lào Cai gửi Bộ TN&MT về việc xem xét thẩm quyền thẩm định và

phê duyệt báo cáo ĐTM các dự án thủy điện. Văn bản nêu rõ sự bất nhất giữa các

văn bản Nghị định 18/2015/NĐ-CP, Thông tư 27/2015/TT-BTNMT và Nghị định

33

201/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

Tài nguyên nước. Cụ thể:

(1) Nghị định 18/2015/NĐ-CP quy định: dự án khai thác nước thuộc thẩm

quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì sẽ do Bộ Tài nguyên và Môi

trường thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM (mục 6 Phụ lục III). Nghị định

201/2013/NĐ-CP quy định: dự án khai thác nước với công suất 2000kW (2MW) trở

lên do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép xây dựng (điểm d Khoản 1 Điều 28).

Như vậy: dự án với công suất 2MW trở lên do Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm

định, phê duyệt báo cáo ĐTM

(2) Nghị định 18/2015/NĐ-CP cũng quy định: công trình thủy điện có công

suất 10MW trở lên phải thực hiện ĐTM (mục 27 Phụ lục II)

(3) Thông tư 27/2015/TT-BTNMT lại quy định: nhà máy thủy điện công suất

dưới 10MW chỉ phải đăng ký Kế hoạch bảo vệ môi trường của Sở Tài nguyên và

Môi trường (Mục 8 Phụ lục 5.1).

So sánh ba quy định nêu trên đã cho thấy sự thiếu đồng nhất của pháp luật.

Ngay trong chính Nghị định 18/2015/NĐ-CP đã có sự bất nhất, công trình thủy điện

trên 10MW mới phải thực hiện ĐTM, vậy mà lại quy định công trình thủy điện

2MW do Bộ TN&MT thẩm định báo cáo ĐTM. Thêm nữa Thông tư 27/2015/TT-

BTNMT đã khiến cho các cơ quan môi trường Lào Cai nói riêng và các cơ quan

quản lý về môi trường địa phương nói chung lúng túng, khó khăn trong xác định

trách nhiệm, thẩm quyền. Chính sự thiếu đồng nhất của các văn bản quy phạm pháp

luật đã khiến cho việc thực hiện phân cấp thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM gặp

nhiều khó khăn, vướng mắc.

Quy trình thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường

Bước 1:Chủ dự án nộp sơ đến cơ quan có thẩm quyền thẩm định

Hồ sơ bao gồm: 01 văn bản đề nghị phê duyệt báo cáo ĐTM, Báo cáo ĐTM

của dự án (thường là 7 bản theo số lượng thành viên hội đồng thẩm định, chủ dự án

phải cung cấp thêm nếu số lượng thành viên hội đồng thẩm định cao hơn)

Bước 2: Cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt nhận hồ sơ

Nếu hồ sơ chưa hợp lệ, cơ quan thẩm định có trách nhiệm thông báo bằng

văn bản đến cho chủ dự án trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ

sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ, cơ quan phải giao giấy biên nhận cho chủ dự án.

34

Bước 3: Thẩm định báo cáo ĐTM

Việc thẩm định báo cáo ĐTM do một Hội đồng thẩm định thực hiện. Hội

đồng này sẽ do thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan thành lập với ít nhất 7

thành viên. Cơ cấu hội đồng thẩm định gồm Chủ tịch hội đồng, một (01) Phó Chủ

tịch hội đồng trong trường hợp cần thiết, một (01) Ủy viên thư ký, hai (02) Ủy viên

phản biện và một số Ủy viên, trong đó phải có ít nhất ba mươi phần trăm (30%) số

thành viên hội đồng có từ bảy (07) năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đánh giá tác

động môi trường. Việc thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các

dự án để kịp thời ứng phó với thiên tai, dịch bệnh có thể được thực hiện thông qua

hình thức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan, không nhất thiết phải

thông qua hội đồng thẩm định.

Trong quá trình thẩm định, cơ quan thẩm định được tiến hành các hoạt động

sau đây: Khảo sát, kiểm chứng các thông tin, số liệu về hiện trạng môi trường tại địa

điểm thực hiện dự án và khu vực kế cận; Lấy mẫu phân tích kiểm chứng; Tổ chức

lấy ý kiến các chuyên gia, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp phản biện

nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi trường; Tổ chức các cuộc họp đánh giá

theo chuyên đề. Sau khi hội đồng thẩm định có trách nhiệm xem xét nội dung báo

cáo đánh giá tác động môi trường và đưa ra ý kiến thẩm định để làm cơ sở cho cơ

quan thẩm định xem xét, quyết định việc phê duyệt báo cáo ĐTM.

Trong thời hạn 45 ngày làm việc đối với báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền của

Bộ Tài nguyên và môi trường, 30 ngày làm việc đối với các báo cáo ĐTM còn lại,

kể từ ngày nhận đủ hồ sơ thẩm định báo cáo ĐTM, cơ quan thẩm định phải trả kết

quả thông qua không cần chỉnh sửa, bổ sung hoặc thông qua với điều kiện phải

chỉnh sửa, bổ sung. Trường hợp không thông qua, cơ quan thẩm định có văn bản trả

lại hồ sơ và nêu rõ lý do.

Bước 4: Phê duyệt và gửi kết quả

Sau khi nhận kết quả thẩm định. Chủ dự án hoàn thiện và gửi cơ quan thẩm

định hồ sơ đề nghị phê duyệt báo cáo ĐTM. Hội đồng thẩm định trình hồ sơ đề nghị

phê duyệt cho thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền phê duyệt do

chủ dự án gửi đến, để ban hành quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM. Trường hợp

không phê duyệt thì cơ quan phê duyệt phải có văn bản nêu rõ trong thời hạn 10

ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị phê duyệt báo cáo ĐTM.Sau khi

35

phê duyệt, cơ quan phê duyệt ban hành quyết định phê duyệt và xác nhận báo cáo

ĐTM đã được phê duyệt trong thời hạn 20 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ

đề nghị phê duyệt báo cáo ĐTM, sau đó các tài liệu này sẽ được gửi đến chủ dự án

và các đơn vị liên quan.

Như vậy dự án được phê duyệt báo cáo ĐTM là dự án có Quyết định phê

duyệt báo cáo ĐTM và báo cáo ĐTM của dự án đã có xác nhận phê duyệt vào mặt

sau của phụ bìa.

Một vấn đề đối với quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM đó là trong đó không

có nội dung quy định việc phối hợp hoặc ủy quyền cho địa phương thực hiện kiểm

tra, giám sát sau phê duyệt, dẫn tới các cơ quan địa phương không chủ động xử lý

khi có vi phạm trong thực hiện báo cáo ĐTM.

Về lệ phí thẩm định

Lệ phí đối với các dự án thuộc thẩm quyền thẩm định của Bộ, cơ quan ngang

bộ thực hiện theo quy định tại Thông tư số 195/2016/TT-BTC ngày 08 tháng 11

năm 2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng

phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường chi

tiết do cơ quan trung ương thực hiện thẩm định. Chủ dự án nộp hồ sơ thẩm định sẽ

đồng thời nộp lệ phí thẩm định cho cơ quan thẩm định. Lệ phí này được phân chia

như sau: 90% được sử dụng để chi phí cho việc thực hiện các hoạt động liên quan

đến thẩm định báo cáo ĐTM và 10% còn lại nộp vào ngân sách nhà nước. Lệ phí

hiện nay trong khoảng từ 6 - 96 triệu đồng, tùy thuộc vào loại dự án và vốn đầu tư

vào dự án.

Đối với báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền thẩm định của UBND cấp tỉnh, việc

tổ chức thu phí được thực hiện trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp

tỉnh và Thông tư số 250/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính hướng

dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, tùy điều kiện cụ thể của từng địa

phương mà quy định mức thu cho phù hợp với quy mô dự án; chuyên ngành dự án

hoặc mức độ phức tạp của công tác thẩm định. Khác với trước kia, mức thu phí

thẩm định được quy định chung cho các tỉnh là như nhau từ 5 - 26 triệu đồng trên

một báo cáo ĐTM [1].Như vậy, địa phương được tự quy định mức phí, việc quản

lý, sử dụng phí thẩm định đối với báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền thẩm định của

36

mình. Các dự án có mức vốn đầu tư giống nhau, tuy nhiên lại được thực hiện ở địa

phương khác có sự khác nhau về vị trí địa lý, tình hình kinh tế - xã hội, văn hóa,…

sẽ dẫn tới hoạt động thẩm định có sự khác nhau, do vậy phí thẩm định báo cáo

ĐTM cho các dự án này được địa phương tự quy định là phù hợp. Tuy nhiên, địa

phương tự quy định về phí thẩm định cũng có hạn chế đó là cơ sở để địa phương tự

thiết lập kế hoạch thu phí là chưa rõ ràng; trình độ cán bộ nhân viên chuyên ngành

thiếu năng lực, kinh nghiệm sẽ khiến cho mức phí thẩm định báo cáo thiếu tính phù

hợp, không đáp ứng được các yêu cầu thẩm định.

Về chi phí thẩm định báo cáo ĐTM quy định như hiện nay là rất thấp, chiếm

một phần rất nhỏ vốn đầu tư của dự án, trong khi các quốc gia khác quy định phí

này có thể lên tới 1-3% tổng vốn đầu tư. Với mức phí thấp như hiện nay khó có thể

đáp ứng các yêu cầu khảo sát, đo đạc một cách nghiêm túc và cập nhật các chỉ tiêu

môi trường ở các khu vực dự án cụ thể phục vụ quá trình thẩm định báo cáo ĐTM.

Pháp luật hiện hành đã quy định tương đối cụ thể đầy đủ về các vấn đề liên

quan đến hoạt động thẩm định báo cáo ĐTM, bởi đây là một giai đoạn rất quan

trọng, là giai đoạn tiệm cận cho quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM. Các quy trình,

thủ tục thẩm định ĐTM được quy định rõ ràng, minh bạch theo hướng cải cách

hành chính, đảm bảo chất lượng của công tác thẩm định. Từ năm 2005 đến nay, hơn

100 dự án đầu tư trên các lĩnh vực khác nhau đã phải thay đổi địa điểm hoặc không

được phê duyệt vì không đảm bảo các yêu cầu về BVMT. Như vậy, có thể thấy

ĐTM trở thành công cụ hữu ích khi gắn trách nhiệm của chủ dự án đối với công tác

BVMT [27].Tuy nhiên, xét về tính đồng bộ, toàn diện thì các quy định về ĐTM

hiện nay đang thiếu những yêu cầu, tiêu chí cần thiết để đảm bảo chất lượng của các

báo cáo ĐTM. Các quy định hiện hành thiếu những quy định về cơ sở để đánh giá

chất lượng của báo cáo ĐTM đó.Điều này dẫn đến thực tế là việc thẩm định các báo

cáo của ĐTM chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của người thẩm định, chưa có các căn

cứ cụ thể để thẩm định và cơ chế pháp lí cụ thể ràng buộc yêu cầu thẩm định. Hạn

chế của pháp luật ĐTM đã khiến cho chất lượng thẩm định, phê duyệt một số báo

cáo ĐTM một cách tùy tiện, không đảm bảo chất lượng.

2.2.4. Các nội dung bảo vệ môi trường sau khi báo cáo ĐTM được phê

duyệt

Sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt, chủ dự án sẽ có trách nhiệm thực hiện

37

các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM, có thể còn phải điều chỉnh nội

dung của dự án đầu tư để đảm bảo các biện pháp, công trình bảo vệ môi trường theo

yêu cầu này trong trường hợp cần thiết.

Niêm yết công khai kế hoạch quản lý môi trường

Chủ dự án lập kế hoạch quản lý môi trường gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã

nơi đã tham vấn ý kiến trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường để

được niêm yết công khai trước khi khởi công xây dựng, đồng thời gửi UBND tỉnh

và SởTN&MT để kiểm tra và theo dõi. Kế hoạch quản lý môi trường của dự án

được lập dựa trên cơ sở chương trình quản lý môi trường và giám sát môi trường đã

đề xuất trong Báo cáo ĐTM.

Báo cáo tiến độ triển khai và các thay đổi của dự án

Chủ dự án phải báo cáo rõ thời gian bắt đầu thi công, các hạng mục đã và

đang xây dựng và các biện pháp bảo vệ môi trường. Các thay đổi của dự án (nếu có)

sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt.

Dự án đã được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường nhưng trong

quá trình triển khai thực hiện có một trong những thay đổi dưới đây, chủ dự án phải

lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường:

Thứ nhất, Dự án không triển khai trong thời gian 24 tháng kể từ thời điểm

quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM;

Thứ hai, khi có thay đổi địa điểm thực hiện dự án so với phương án trong báo

cáo ĐTM đã được phê duyệt;

Thứ ba, khi bổ sung những hạng mục đầu tư có quy mô, công suất tương

đương với đối tượng thuộc danh mục dự án phải thực hiện ĐTM quy định tại Phụ

lục II Nghị định 18/2015/NĐ-CP;

Thứ tư, dự án có thay đổi về quy mô, công suất, công nghệ hoặc những thay

đổi khác làm tăng tác động xấu đến môi trường so với phương án trong báo cáo

ĐTM đã được phê duyệt mà các công trình bảo vệ môi trường không có khả năng

giải quyết được các vấn đề môi trường gia tăng;

Thứ năm, lập lại báo cáo ĐTM theo đề nghị của chủ dự án.

Quy trình lập lại báo cáo ĐTM được thực hiện như khi lập mới báo cáo

ĐTM. Chủ dự án được chỉ tiến hành thực hiện những thay đổi nêu trên sau khi đã

được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt lại báo cáo ĐTM.

38

Trường hợp thay đổi quy mô, công suất, công nghệ làm tăng tác động xấu

đến môi trường so với phương án trong báo cáo ĐTM đã được phê duyệt nhưng

chưa đến mức phải lập lại báo cáo ĐTM, chủ đầu tư dự án phải giải trình với cơ

quan phê duyệt và chỉ được thực hiện sau khi có văn bản chấp thuận của cơ quan

phê duyệt báo cáo ĐTM.

Quy định về việc lập lại báo cáo ĐTM như vậy là hợp lý và cần kiểm soát

việc thực hiện các quy định đó chặt chẽ, không để lọt các đối tượng thuộc diện phải

lập lại báo cáo ĐTM mà lại không thực hiện. Bởi hoạt động này đóng vai trò như

một báo cáo ĐTM mới, cũng là công cụ quản lý môi trường, quy định trách nhiệm

bảo vệ môi trường của chủ dự án đối với bất kỳ hoạt động nào của mình. Quy định

về lập lại báo cáo ĐTM góp phần điều chỉnh các biện pháp bảo vệ môi trường cho

phù hợp với dự án, với thực tiễn, giảm thiểu những tác động tiêu cực mới phát sinh

khi dự án có sự thay đổi.

Tuy nhiên, kiểm soát được sự thay đổi của các dự án để yêu cầu lập lại báo

cáo ĐTM là hoạt động tương đối khó. Theo quy định, khi có sự thay đổi mà pháp

luật yêu cầu thay đổi đó thuộc diện phải lập lại báo cáo ĐTM, chủ dự án phải tự

giác tiến hành thực hiện lập lại báo cáo ĐTM. Nhưng chủ đầu tư thường không lập

lại thủ tục môi trường trước khi nâng công suất, quy mô sản xuất và chỉ khi cơ quan

quản lý kiểm tra phát hiện và yêu cầu thì các cơ sở này mới làm thủ tục môi trường

lại. Vẫn có một số trường hợp chây ì chưa thực hiện.

Kế hoạch vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải

Chủ dự án có trách nhiệm thông báo kế hoạch vận hành thử nghiệm các công

trình xử lý chất thải đến tổ chức nơi tham vấn, cơ quan thẩm định 10 ngày làm việc

trước khi tiến hành vận hành các công trình đó. Tổ chức vận hành thử nghiệm các

công trình xử lý chất thải đồng thời với quá trình vận hành thử nghiệm dự án.

Trường hợp gây ra sự cố môi trường thì phải dừng ngay hoạt động vận hành thử

nghiệm và báo cáo kịp thời tới cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để hướng

dẫn giải quyết; chịu trách nhiệm khắc phục sự cố môi trường, bồi thường thiệt hại

theo quy định của pháp luật. Việc vận hành thử nghiệm không quá 6 tháng, để kéo

dài thời gian vận hành thử nghiệm phải được sự chấp thuận của cơ quan phê duyệt

báo cáo ĐTM.

Xác nhận công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành

39

Đối với các trường hợp quy định tại cột 4 Phụ lục II Nghị định 18/2015/NĐ-

CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính Phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi

trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch

bảo vệ môi trường, chủ dự án phải báo cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ

môi trường phục vụ giai đoạn vận hành gửi cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác

động môi trường để kiểm tra, xác nhận hoàn thành trước khi đưa dự án vào vận

hành chính thức. Đối với dự án đầu tư có nhiều giai đoạn, việc báo cáo kết quả thực

hiện các công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành dự án được thực

hiện theo từng giai đoạn của dự án.

Sau đó, thủ trưởng cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM thành lập đoàn kiểm tra

để thực hiện công tác kiểm tra các công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn

vận hành dự án.

Đoàn kiểm tra sẽ tiến hành nghiên cứu hồ sơ dự án, tiến hành các cuộc họp,

hoạt động kiểm tra thực tế các công trình, tham gia đối thoại trực tiếp với chủ dự án

để rồi đưa ra đánh giá công trình đạt yêu cầu hay không đạt yêu cầu.

Trường hợp công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự

án đã được xây dựng phù hợp với báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê

duyệt và văn bản chấp thuận cho phép điều chỉnh, thay đổi của cơ quan phê duyệt

báo cáo ĐTM (nếu có), cơ quan kiểm tra cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình

bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự án.

Đối với các công trình mà đoàn kiểm tra cần tiến hành lấy mẫu, phân tích các

chỉ tiêu môi trường để kiểm chứng thì thời hạn cấp giấy xác nhận hoàn thành công

trình bảo vệ môi trường là 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ báo cáo kết quả thực

hiện công trình bảo vệ môi trường; và 15 ngày đối với các công trình mà đoàn kiểm

tra không cần tiến hành lấy mẫu, phân tích các chỉ tiêu môi trường để kiểm chứng.

Nếu công trình bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu của phê duyệt

báo cáo ĐTM thì trong thời hạn năm (05) ngày làm việc kể từ ngày kết thúc việc

kiểm tra, cơ quan kiểm tra có thông báo bằng văn bản đến chủ dự án. Chủ dự án sẽ

tiến hành khắc phục những tồn tại, những điểm chưa đáp ứng yêu cầu mà cơ quan

kiểm tra đưa rồi báo cáo lại để được xem xét, xác nhận. Trong 5 ngày làm việc, cơ

quan kiểm tra có trách nhiệm xem xét, cấp giấy xác nhận hoặc có văn bản trả lời

chủ dự án.

40

Có thể thấy pháp luật hiện hành quy định chưa thực sự đầy đủ về cơ chế kiểm

tra sau phê duyệt báo cáo ĐTM, chưa quy định rõ về các nội dung phải kiểm tra,

trường hợp nào cần tiến hành lấy mẫu, phân tích các chỉ tiêu môi trường, trường hợp

nào không? Vấn đề về nhân sự, pháp luật cũng chưa quy định cụ thể về điều kiện của

thành viên đoàn kiểm tra, những người nào đủ điều kiện, khả năng để tham gia kiểm tra

công tác hậu kiểm sau phê duyệt báo cáo ĐTM. Cùng với các nguyên nhân thuộc về ý

thức chấp hành của chủ dự án nên tình trạng các dự án chưa đảm bảo thực hiện các

công trình bảo vệ môi trường phù hợp với quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM còn tồn

tại nhiều, hay những công trình đã được cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo

vệ môi trường nhưng thực tế công trình đó lại không hề đem lại hiệu quả bảo vệ môi

trường. Công tác kiểm tra, giám sát các công trình, hoạt động thực hiện báo cáo ĐTM

cần phải chặt chẽ, đầy đủ trong các giai đoạn của dự án nhất là giai đoạn sau khi báo

cáo ĐTM đã được phê duyệt, đồng thời phải quy định rõ trách nhiệm của những người

tham gia kiểm tra công trình bảo vệ môi trường.

2.2.5. Xử lý vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam

Mỗi chủ thể khi có hành vi vi phạm pháp luật sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp

lý bất lợi do pháp luật quy định. Đây chính là trách nhiệm pháp lý mà cơ quan có

thẩm quyền sẽ quy định để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật ĐTM.Tùy thuộc

vào mức độ, vào hậu quả của hành vi vi phạm mà chủ thể thực hiện hành vi sẽ phải

hình thức xử lý vi phạm khác nhau. Với những hành vi vi pháp luật ĐTM mà gây ô

nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ chức và cá nhân khác, có

trách nhiệm khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại và xử lý

theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường và pháp luật có liên quan.

Xử lý hành chính

Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường được quy định

trong Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ quy

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Các hành vi vi phạm quy định về thực hiện báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền

phê duyệt của Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ có khung xử phạt từ 5.000.000 đồng

đến 200.000.000 đồng tùy vi phạm. Vi phạm nhẹ nhất là việc chủ dự án không gửi

kế hoạch quản lý môi trường cho UBND cấp xã để thực hiện niêm yết công khai

trước khi khởi công xây dựng dự án và mức xử phạt nặng nhất là đối với hành vi

41

không lập báo cáo ĐTM. Với các báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền phê duyệt của

UBND tỉnh, của các Bộ, cơ quan ngang Bộ có khung xử lý vi phạm hành chính

trong khoảng từ 2.000.000 đồng đến 180.000.000 đồng, với việc phân loại vi phạm

tương tự như các báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền phê duyệt của Bộ Tài nguyên và

Môi trường.

Ngoài chịu các hình thức xử phạt về tài chính nêu trên, với một số vi phạm

chủ dự án còn phải chịu các hình thức xử phạt bổ sung và phải thực hiện các biện

pháp khắc phục hậu quả. Với hành vi xây lắp, lắp đặt thiết bị, đường ống hoặc các

đường thải khác để xả chất thải không qua xử lý ra môi trường; không vận hành

thường xuyên hoặc vận hành không đúng quy trình đối với công trình bảo vệ môi

trường; không vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải đồng thời với quá

trình vận hành thử nghiệm dự án sẽ vừa phải chịu phạt về tài chính là từ 80.000.000

đồng 100.000.000 đồng, vừa bị đình chỉ hoạt động trong 03 tháng đến 06 tháng và

buộc phải vận hành đúng quy trình đối với công trình bảo vệ môi trường, buộc tháo

dỡ công trình bảo vệ môi trường được xây lắp trái quy định về bảo vệ môi trường,

gây ô nhiễm môi trường. Những hành vi vi phạm khác như: không lập hồ sơ báo

cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường, không có giấy xác nhận

hoàn thành công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự án;

không lập báo cáo ĐTM cũng sẽ bị phạt về tài chính, đình chỉ hoạt động 03 tháng

đến 06 tháng và phải thực hiện các biện pháp khắc phục đó là xây lắp, vận hành

công trình bảo vệ môi trường và lập hồ sơ báo cáo kết quả thực hiện các công trình

bảo vệ môi trường.

Nghị định cũng quy định việc xử phạt đối với vi phạm của các tổ chức tư vấn

lập báo cáo ĐTM cho chủ dự án với các mức từ 5.000.000 đồng đến 150.000.000

đồng đồng thời bị đình chỉ hoạt động từ 03 tháng đến 06 tháng. Các tổ chức tư vấn

lập báo cáo ĐTM sẽ bị xử phạt nếu không có đủ điều kiện cung ứng dịch vụ về cơ

sở vật chất, về cán bộ có chuyên môn; hay cung cấp những thông tin sai lệch, sai sự

thật trong báo cáo ĐTM.

Các mức phạt tiền nêu trên là mức áp dụng với cá nhân có hành vi vi phạm,

còn đối với tổ chức mức phạt tiền được nâng lên gấp đôi.

Theo số liệu từ Tổng cục Tài nguyên và môi trường, năm 2015, Tổng cục Tài

nguyên và Môi trường đã ban hành 138 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với

42

tổng số tiền là 21.933 triệu đồng và 17 Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu

quả vi phạm theo quy định. Đây mới chỉ là con số thu thập được ở cấp trung ương,

chưa tính tới cấp địa phương, cũng như chưa tính tới thời điểm hiện nay nên có thể

thấy lượng vi phạm các quy định về môi trường hiện nay là cực kỳ lớn. Do đó, cơ

chế xử phạt là vô cùng cần thiết và cầvn được tiến hành thường xuyên, nghiêm khắc

hơn nữa.

Điểm tiến bộ của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP đó nếutổ chức, cá nhân

thực hiện không đúng nội dung đánh giá tác động môi trường nhưng làm cho môi

trường tốt hơn đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận sẽ không bị phạt. Thẩm

quyền xử phạt hành chính các vấn đề về môi trường có thể là: chủ tịch UBND các

cấp, Công an nhân dân, Thanh tra chuyên ngành, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển,

Hải quan, Kiểm lâm, Quản lý thị trường, Thuế, Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ đường

thủy nội địa,…Các cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm về

môi trường có liên quan đến lĩnh vực mình quản lý. Thẩm quyền xử phạt vi phạm

hành chính về môi trường là tương đốvi đa dạng, việc này nhằm tăng cường giám

sát thực hiện bảo vệ môi trường tại nhiều lĩnh vực, nhiều địa điểm. Tuy nhiên, cũng

sẽ khó tránh việc chồng chéo về thẩm quyền, đùn đẩy trách nhiệm xử lý vi phạm.

Theo mức xử phạt hiện nay, có thể thấy đây vẫn là mức xử phạt tương đối thấp,

chưa đủ tính răn đe. Những dự án phát triển kinh tế - xã hội hiện nay đều có lượng

vốn đầu tư tương đối lớn, nên mức xử phạt hiện nay chưa khiến chủ dự án lưu tâm,

chú trọng và vẫn tiếp tục vi phạm. Hơn nữa, quy trình chứng minh, xử lý vi phạm

vẫn rất phức tạp và cần thời gian dài.

Một vài trường hợp vi phạm pháp luật ĐTM cụ thể như:

Tháng 8/2017 UBND tỉnh Ninh Bình ra Quyết định xử phạt Ban quản lý Dự

án đầu tư xây dựng công trình Dân dụng và Công nghiệp tỉnh Ninh Bình - chủ đầu

tư dự án Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình số tiền 400 triệu đồng do không có báo cáo

ĐTM. Theo Quyết định, Dự án đã vi phạm quy định tại Điểm d, Khoản 5, Điều 11,

Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ (quy định xử phạt

với hành vi không lập báo cáo ĐTM đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt

báo cáo ĐTM của Bộ Tài nguyên và Môi trường). Do đó, bị đình chỉ hoạt động xây

dựng trong thời gian 60 ngày, đồng thời, yêu cầu Ban quản lý Dự án hoàn tất các

thủ tục pháp lý về bảo vệ môi trường trình Bộ TN&MT phê duyệt [24].

43

Ngày 13/10/2017, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành Quyết định

số 1751/QĐ-XP xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường đối với công ty

TNHH Khải Thần Việt Nam hoạt động sản xuất sản phẩm từ plastic, các sản phẩm

khác từ bìa và giấy. Theo đó Công ty TNHH Khải Thần Việt Nam bị xử phạt với

những sai phạm sau: (1) Xây dựng các hạng mục công trình không đúng vị trí, diện

tích và hệ thống xử lý nước thải không đúng kích thước, công nghệ so với nội dung

báo cáo ĐTM đã được phê duyệt, quy định tại điểm e khoản 1 Điều 9 Nghị định số

155/2016/NĐ-CP và mức xử phạt là 70.000.000 đồng; (2) Không vận hành thử

nghiệm các công trình đồng thời với quá trình vận hành thử nghiệm dự án, quy định

tại điểm i khoản 1 Điều 9 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP và chịu mức phạt là

140.000.000 đồng; (3) Không xây lắp công trình BVMT theo quy định, quy định tại

điểm m khoản 1 Điều 9 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP và mức xử lý vi phạm là

260.000.000 đồng;... Ngoài ra Công ty Khải Thần Việt Nam còn bị đình chỉ hoạt

động trong thời hạn 03 tháng để khắc phục vi phạm; bị buộc phải chấm dứt ngay

hành vi vi phạm nêu trên; vận hành thử nghiệm các công trình BVMT đồng thời với

quá trình vận hành thử nghiệm dự án theo quy định; thực hiện xây lắp các công

trình BVMT theo nội dung báo cáo ĐTM đã được phê duyệt [18].

Xử lý hình sự

Ngoài các hình thức xử lý nêu trên, khi chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật

ĐTM gây hậu quả nghiêm trọng có thể sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự, đây chính là

hình thức xử lý nghiêm khắc nhất. Hiện nay, trách nhiệm hình sự đã được áp dụng

cho cả cá nhân và pháp nhânthương mại theo Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ

sung năm 2017.

Tội phạm về môi trường được quy định tại Chương XIX Bộ luật Hình sự

năm 2015, tuy không quy định cụ thể tội danh cho hành vi vi phạm pháp luật ĐTM

nhưng có quy định về tội gây ô nhiễm môi trường; tội vi phạm quy định về quản lý

chất thải nguy hại; tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố

môi trường; tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản;… Hành vi vi phạm pháp luật về ĐTM

mà kéo theo đó là gây ô nhiễm môi trường, hay hủy hoại nguồn lợi thủy sản,... cấu

thành tội phạm thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật hình sự.

Việc xử lý trách nhiệm hình sự sẽ căn cứ vào mức độ và tính chất nghiêm

trọng của hành vi của các chủ thể có hành vi vi phạm. Theo đó, chủ thể vi phạm có

44

thể bị xử phạt tiền lên tới 15 tỷ VNĐ, phạt tù 7 năm, phạt đình chỉ hoạt động trong

vòng 3 năm, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn hay nhiều hình thức xử phạt khác. Quy

định xử lý trách nhiệm hình sự với tội phạm về môi trường thể hiện đường lối,

chính sách xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường, các trường hợp

vi phạm gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị xử lý với

mức phạt tiền rất cao, cá nhân có thể phải chịu hình phạt tù, pháp nhân có thể bị

đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Việc quy định trách nhiệm hình sự sẽ nâng cao hiệu

quả răn đe, trừng trị mà cơ chế xử lý vi phạm hành chính còn hạn chế.

Các quy định về xử lý hình sự vi phạm pháp luật môi trường còn rất mới, khả

năng áp dụng vào thực tiễn không cao; tới nay chưa có pháp nhân nào bị xử lý hình

sự, lượng cá nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn tương đối ít.

Vi phạm trong thực hiện hoạt động đánh giá tác động môi trường hiện nay

diễn ra khá phổ biến. Các vi phạm điển hình như: “trốn” ĐTM, không thực hiện

đúng kế hoạch bảo vệ môi trường như đã cam kết trong báo cáo ĐTM,…Vi phạm

này chủ yếu do nhận thức về nghĩa vu bảo vệ môi trường của chủ dự án còn kém,

nhu cầu đẩy nhanh trong triển khai dự án cùng sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan

có thẩm quyền trong thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM. Và cơ chế xử lý vi phạm

như hiện nay còn quá nhẹ, mức phạt còn rất thấp so với lợi ích kinh tế mà dự án

đem lại nên chủ dự án, do đó không đủ sức răn đe, chủ dự án vẫn bất chấp vi phạm

pháp luật để chạy theo lợi ích kinh tế. Hơn nữa, do cơ chế thanh tra, kiểm tra của

nước ta hiện nay về vấn đề còn chưa sát sao, việc kiểm tra thực hiện báo cáo ĐTM

chưa được quy định cụ thể trong Luật bảo vệ môi trường, việc phát hiện sai phạm

chủ yếu do người dân địa phương phát hiện và tố cáo hay do các chương trình kiểm

tra, giám sát hàng năm của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường thực hiện.

2.3. Liên hệ tới sự cố môi trường Formosa

Sự cố môi trường được dư luận chú ý tới nhất hiện nay phải kể đến vụ việc

cá chết hàng loạt ở vùng biển thuộc bốn tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Bình,

Quảng Trị và Huế vào năm 2016. Các cơ quan có thẩm quyền đã tích cực triển khai

tìm hiểu nguyên nhân và xác định thủ phạm gây ra sự cố là do việc xả thải trái phép

của Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Formosa). Đây là sự cố

nghiêm trọng và phạm vi ô nhiễm lan rộng nên đã có sự vào cuộc điều tra, xử lý

không chỉ của Bộ Tài nguyên và Môi trường mà còn có sự tham gia của các Bộ,

ngành liên quan như: Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ NN&PTNT…

45

2.3.1. Tóm lược sự cố môi trường Formosa

Ngày 7/4/2016 hiện tượng cá chết bắt đầu xuất hiện trên vùng biển Hà Tĩnh,

đặc biệt là khu vực Vũng Áng, gần nhà máy Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa

Hà Tĩnh. Sau đó lần lượt lan vào Quảng Bình, Quảng Trị và đến ngày 20/4/2016

đến lượt Thừa Thiên Huế. Đến ngày 26/4 Thứ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ

Phạm Công Tạc cho biết các kết quả phân tích cho thấy đã đủ căn cứ khoa học để

loại trừ hầu hết các nhóm nguyên nhân tự nhiên từ địa chấn, sốc nhiệt, dịch bệnh…

Ngày 1/5, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp vào Hà Tĩnh chỉ đạo phải tìm cho

ra nguyên nhân cá chết, đồng thời ký quyết định hỗ trợ khẩn cấp cho người dân tại

các bị ảnh hưởng do cá chết bất thường. Ngày 2/6, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn

phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết đã tìm ra nguyên nhân cá chết nhưng

chưa công bố vì chờ phản biện. Ngày 30/6, Chính phủ tổ chức họp báo công bố

nguyên nhân cá chết là do nước thải từ Fomosa. Công ty Formosa đã thừa nhận, xin

lỗi nhân dân Việt Nam và cam kết bồi thường 500 triệu USD để khắc phục hậu quả.

Về thiệt hại mà sự cố môi trường Formosa gây ra

Trong báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội về vụ hải sản chết hàng loạt ở

Miền Trung do việc xả thải của công ty Formosa, Chính phủ đã công bố chi tiết

những thiệt hại cả kinh tế và xã hội việc hải sản chết hàng loạt. Về kinh tế, riêng số

hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá khoảng 100 tấn, các rạn san hô, phù du sinh

vật cũng chết khiến suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản khu vực, ảnh

hưởng đến sinh kế lâu dài của dân. Chính phủ xác định có tới trên 17.600 tàu cá và

gần 41.000 người đã bị ảnh hưởng trực tiếp. Trên 176.000 người phụ thuộc bị ảnh

hưởng theo. Do không thể đánh bắt trong phạm vi từ bờ đến 20 hải lý, có tới 90%

tàu lắp máy công suất thấp và gần 4.000 tàu không lắp máy đã phải nằm bờ. Sản

lượng khai thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng.Với hoạt động nuôi trồng

thủy sản, có 9 triệu tôm giống bị chết, hàng ngàn lồng nuôi cá cũng bị thiệt hại.

Hoạt động du lịch của các tỉnh miền Trung cũng theo đó bị chững lại. Lượng

khách du lịch giảm hẳn, tỉ lệ đặt phòng khách sạn, nhà nghỉ giảm đi khoảng 40%-

50%. Việc tiêu thụ hải sản cũng theo đó giảm đi đáng kể. Sự cố môi trường này gây

ảnh hưởng rất nặng nề với người dân các tỉnh miền Trung.

Về xã hội, người dân rơi vào cảnh thất nghiệp, nợ nần do không tiêu thụ

được hải sản, đời sống khó khăn. Người dân phần nào mất niềm tin vào nhà nước,

46

bởi các sai phạm của Formosa hầu hết do người dân phát hiện, khi được dân báo

cáo, cơ quan nhà nước mời vào cuộc tìm ra sai phạm cụ thể. Vậy còn những sai

phạm khác, mà người dân chưa “may mắn” tìm ra được thì sẽ ra sao? Tuy nhiên,

với những gì Chính phủ đang thực hiện, cũng cho thấy phần nào sự quan tâm sát

sao, trách nhiệm của nhà nước đối với các thiệt hại mà người dân đã và đang phải

gánh chịu, người dân cũng đang dần khắc phục những khó khăn đó, phần nào lấy lại

niềm tin hơn vào các cơ quan Nhà nước.

2.3.2. Vi phạm pháp luật ĐTM của Formosa

Để xác định nguyên nhân và thủ phạm, các Bộ cùng các nhà khoa học trong đó

có cả các nhà khoa học đến từ Mỹ, Đức, Nhật Bản, Isarael cùng tham gia quá trình này.

Sau nhiều ngày tiến hành điều tra, xác minh, thu thập bằng chứng, các cơ quan điều tra

đã xác định được nguyên nhân và thủ phạm, đồng thời chính Formosa cũng đã thừa

nhận sự cố môi trường khiến thủy sản chết hàng loạt dọc ven biển 4 tỉnh miền Trung,

nguyên nhân là do quá trình vận hành thử nghiệm của Formosa Hà Tĩnh đã xả ra biển

các độc tố Phenol, Xyanua, Hydroxit Sắt vượt quá mức cho phép. Bộ trưởng Bộ Tài

nguyên và Môi trường đã công bố 53 hành vi vi phạm của Formosa Hà Tĩnh, từ các sai

sót trong thiết kế, thi công, xây dựng cho đến vận hành.

Vào ngày 30/6/2016 Chính phủ đã họp báo công bố những vi phạm và sự cố

trong quá trình thi công vận hành thử nghiệm tổ hợp nhà máy của công ty Formosa

Hà Tĩnh là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng, làm hải sản

tại 4 tỉnh miền Trung chết bất thường [9]. Cụ thể, nguồn gây ô nhiễm vùng biển

Vũng Áng được xác định là nước thải xả ra biển phát sinh từ quá trình vận hành thử

nghiệm hệ thống lò luyện cốc có chứa các độc tố Phenol, Xyanua, Hydroxit Sắt

vượt quá mức cho phép [30].

Để dẫn tới sai phạm nêu trên có một phần nguyên nhân là do sai phạm trong

báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án do Formosa làm chủ đầu tư đã

được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt. Những vi phạm dưới đây không phải

chỉ riêng đối với trường hợp của Formosa, mà còn tồn tại rất nhiều trong thực tế, là

những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật ĐTM ở Việt Nam hiện nay.

Vi phạm trong lập báo cáo ĐTM của Formosa

Về nội dung báo cáo ĐTM của Formosa, các yêu cầu về đánh giá chi tiết các

tác động môi trường có khả năng xảy ra khi dự án được thực hiện, dự báo rủi ro về

47

sự cố môi trường do công trình gây ra, biện pháp cụ thể giảm thiểu các tác động xấu

đối với môi trường; phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường vô cùng sơ sài, giản

lược. Trong đó, đánh giá tác động của nước thải đến môi trường trong giai đoạn vận

hành nhà máy chưa đến 2,5 trang với 1,5 trang là các bảng biểu, 1 trang là phầnđánh

giá tác động môi trường, nhưng chủ yếu là liệt kê các nguồn nước thải của nhà máy

ra môi trường, đặc điểm của các loại nước thải đó. Ngoài ra, không có thông tin nào

cho biết lượng nước thải này có ảnh hưởng như nào đến môi trường. Cũng không có

một dòng nào về sự cố với môi trường biển, đất và không khí. Có thể đánh giá với

nội dung như vậy, báo cáoĐTM của dự án Formosa có chất lượng quá thấp, mang

tính đối phó, như một thủ tục để được phê duyệt chứ không phải một báo cáo có

tính khoa học thực sự [1].

Báo cáo ĐTM của Formosa hầu như rất sơ sài, thiếu xót nhiều, không đảm

bảo các yêu cầu dự báo các tác động của dự án tới môi trường, từ đó không đưa

được những biện pháp, công trình để bảo vệ môi trường tránh khỏi những tác động

đó. Sai phạm có lẽ cũng có phần thuộc về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền

phê duyệt báo cáo ĐTM – Bộ Tài nguyên và Môi trường. Nguyên Thứ trưởng Bộ

Tài nguyên và Môi trường - người ký phê duyệt lần đầu cho các báo cáo ĐTM cho

Formosa cho rằng: Formosa được phê duyệt báo cáo ĐTM từ năm 2008, với hai báo

cáo là về: một là về sản xuất thép, hai là về xây dựng cảng Sơn Dương; báo cáo

ĐTM của Formosa lúc bấy giờ là sơ sài, nhưng là phù hợp với quy định lúc bấy giờ,

là giống với những báo cáo ĐTM khác. Ông cho rằng, nguyên nhân là do cơ chế

pháp luật yêu cầu phải có báo cáo ĐTM trước khi có quyết định chủ trương đầu tư,

khi đó chưa có thiết kế cơ sở, chưa rõ công nghệ, nguyên vật liệu đầu vào..., thông

tin về môi trường cũng hạn hẹp nên không thể đưa ra những đánh giá, dự báo đầy

đủ, chi tiết được. Và về sau báo cáo ĐTM về hoạt động sản xuất thép đã có sự thay

đổi và được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận, còn báo cáo ĐTM về xây dựng

cảng Sơn Dương thì đã phải lập lại báo cáo ĐTM khác do có những thay đổi lớn và

cũng đã được phê duyệt báo cáo ĐTM mới.

Nhận định báo cáo ĐTM đối với dự án của Formosa còn sơ sài, chung chung

một phần do cơ chế pháp luật khi đó, cụ thể là Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.

Nhưng không thể vì thế mà đổ lỗi hoàn toàn do cơ chế pháp luật lúc bấy giờ, bởi

các cơ quan quản lý hàng năm đều có kiểm tra, giám sát vậy mà lại không phát hiện

48

những thay đổi của dự án cần phải được ĐTM bổ sung hay lập lại báo cáo ĐTM.

Báo cáo ĐTM sơ sài có lỗi của người lập – chủ dự án, tổ chức tư vấn lập báo cáo

ĐTM khi không nghiêm túc tuân thủ quy định về lập báo cáo ĐTM, không tự ý

thức trách nhiệm bảo vệ môi trường, nhưng theo tác giả trách nhiệm phần lớn thuộc

về những người có thẩm quyền phê duyệt báo cáo ĐTM – những người có chuyên

môn, có quyền hành, nghĩa vụ chấp thuận báo cáo ĐTM hay phải yêu cầu sửa đổi,

bổ sung để đáp ứng yêu cầu của pháp luật.

Báo cáo ĐTM của Formosa là cực kỳ sơ sài, thiếu rất nhiều các nội dung

quan trọng. Đối với phương án xử lý chất thải của lò coke và lò cao đều là những

chất thải vô cùng nguy hại hoàn toàn không được đề cập trong báo cáo ĐTM của

Formosa. Trong báo cáo ĐTM của Formosa về quản lý xả thải:chỉ nói sau khi nước

thải xử lý đạt chuẩn sẽ thải ra sông Quyền, rồi ra biển mà không nói rõ nồng độ, loại

chất gì; xử lý nước thải xong xả thẳng ra môi trường mà không qua bể lắng, mà

thông thường trong xử lý nước thải cần phải có bể trung chuyển nuôi cá thử

nghiệm, nước này không làm chết cá thì mới được thải ra ngoài, ngược lại cá chết

nghĩa là nước thải xử lý chưa đạt, không được xả ra môi trường. Báo cáo ĐTM

cũng không nói đến lượng bụi nguy hiểm lọt qua các biện pháp xử lý lọc túi vải,

tĩnh điện cũng như phương án xử lý, thu gom. Đối với cặn kim loại, báo cáo ĐTM

đã không tính tới nồn độ chất độc nguy hại, dự tính sức chịu tải của môi trường để

xác định giới hạn để ra quyết định dừng lại hoặc giảm sản lượng sao cho cân bằng

với môi trường [5].

Báo cáo ĐTM của Formosa thiếu xót rất nhiều các nội dung quan trọng, không

đảm bảo yêu cầu về nội dung của báo cáo ĐTM. Thực tế hiện nay, những trường hợp

như vậy không phải là ít. Do chủ dự án coi báo cáo ĐTM là một thủ tục để được cấp

phép đầu tư, xây dựng, chứ không hề quan tâm tới mục đích bảo vệ môi trường nên đã

thực hiện việc lập báo cáo ĐTM một các chung chung, thậm chí còn có trường hợp sao

chép báo cáo ĐTM của dự án khác để áp vào dự án của mình.

Theo Luật Bảo vệ môi trường, một báo cáo ĐTM nói chung cần phải tuân

thủ theo một bố cục và những yêu cầu về nội dung nhất định như phải có các nội

dung mô tả liên quan đến dự án, điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội khu vực dự án,

dự báo và đánh giá tác động... Tuy nhiên, chất lượng báo cáo ĐTM trên thực tế

không đạt được những yêu cầu theo quy định của pháp luật. Cụ thể, nội dung về mô

49

tả dự án chưa nêu được những vấn đề thuộc về đặc thù của dự án có liên quan tới

môi trường, từ đó dẫn đến hệ quả là phần này trong báo cáo quá dài, lại không cung

cấp đủ thông tin phục vụ cho việc dự báo và đánh giá tác động, cũng như giải pháp

giảm thiểu tác động xấu và giám sát môi trường sau này.

Việc đánh giá sự cố rủi ro trong các giai đoạn của dự án của nhiều báo cáo

còn hời hợt hoặc chỉ liệt kê dự báo rủi ro mà không chú ý đánh giá tác động tới môi

trường khi các sự cố rủi ro xảy ra, dẫn đến việc chủ đầu tư không lường trước hết

các tác động tiêu cực để đầu tư thích đáng cho hoạt động kiểm soát rủi ro môi

trường. Việc lập báo cáo ĐTM của chủ đầu tư hay của tổ chức tư vấn lập báo cáo

ĐTM được thực hiện với chất lượng rất thấp; báo cáo ĐTM với nội dung, giá trị

đánh giá các tác động môi trường và biện pháp, phương án hạn chế, khắc phục tác

động tiêu cực tới môi trường gần như không đem lại hiệu quả trong công tác bảo vệ

môi trường. Yêu cầu của báo cáo ĐTM hầu như không được đảm bảo, các báo cáo

ĐTM được lập rất sơ sài, chung chung, không có hiệu quả thực thi.

Với thực trạng chất lượng báo cáo ĐTM yếu kém như vậy có thể xuất phát từ

các nguyên nhân sau: năng lực chuyên môn của người lập báo cáo ĐTM chưa cao;

ý thức chấp hành các quy định của pháp luật ĐTM đồng thời ý thức bảo vệ môi

trường của người lập báo cáo ĐTM còn kém; pháp luật ĐTM còn thiếu các hướng

dẫn kỹ thuật về lập báo cáo ĐTM, thiếu các thông tin phục vụ hoạt động ĐTM. Cần

sớm khắc phục những hạn chế nêu trên để hạn chế vi phạm trong giai đoạn lập báo

cáo ĐTM, cải thiện chất lượng báo cáo ĐTM.

Vi phạm trong tham vấn khi thực hiện ĐTM của Formosa

Vi phạm trong hoạt động tham vấn của Formosa là chưa có cơ sở khẳng

định, tuy nhiên nhìn vào những gì đang diễn ra, tác giả cho rằng quá trình tham vấn

khả năng cao có dấu hiệu vi phạm. Bởi lẽ, đường ống xả thải khổng lồ ngầm dưới

biển của Formosa có lẽ chưa được tham vấn cộng đồng, do người dân địa phương

có phần bất ngờ khi biết sự tồn tại của đường ống này. Mà theo Bộ TN&MT đã

công bố đường ống xả thải này đã được đề xuất trong báo cáo ĐTM sửa đổi và sau

đó đã được cấp phép xây dựng. Quy định về việc lập lại báo cáo ĐTM hay có sửa

đổi, bổ sung báo cáo ĐTM trước khi được chấp thuận đều phải thông qua bước

tham vấn cộng đồng và chính quyền địa phương.

Hoạt động tham vấn trong báo cáo ĐTM của Formosa nói riêng và hoạt động

50

tham vấn khi thực hiện ĐTM ở Việt Nam nói chung chưa thực chất, chưa đem lại

hiệu quả cao. Do chủ dự án cung cấp thông tin cho địa phương khi tham vấn không

đầy đủ, gây khó khăn cho người dân địa phương khi đưa ra ý kiến. Các ý kiến của

người dân địa phương không thực sự được quan tâm, không được phản ánh đẩy đủ

trong báo cáo ĐTM; không phản ánh chính xác tâm tư nguyện vọng của người dân.

Vi phạm trong thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của Formosa

Báo cáo ĐTM của Formosa được phê duyệt năm 2008, nhưng Nguyên Thứ

trưởng Bộ TN&MT - người ký quyết định phê duyệt lại không tham gia vào hội

đồng thẩm định báo cáo ĐTM của Formosa, mà là được Bộ trưởng Bộ TN&MT ủy

quyền ký.Khi sự cố môi trưởng Formosa xảy ra Ông cũng chỉ tuân theo ý kiến của

Hội đồng thẩm định mà ký quyết định phê duyệt mặc dù cũng thấy nhiều thiếu xót

trong báo cáo ĐTM đó. Do cho rằng Hội đồng thẩm định với những người có

chuyên môn cao đã thẩm định báo cáo ĐTM đạt yêu cầu, và khi đó cũng là lúc nhu

cầu đầu tư đang dâng cao nên Ông buộc phải chấp nhận phê duyệt báo cáo ĐTM.

Thiết nghĩ, với những lý lẽ trên liệu vai trò của người ký quyết định phê duyệt báo

cáo ĐTM là gì? Bỏ mặc cho cơ quan thẩm định, không hề có ý kiến, trách nhiệm

trong việc phê duyệt hay không phê duyệt báo cáo ĐTM, mà hoàn toàn phê duyệt

theo quyết định của Hội đồng thẩm định? Nếu vậy, giai đoạn thẩm định và giai đoạn

phê duyệt báo cáo ĐTM phải chăng có thể gộp thành làm một? Tác giả rất không

đồng tình với quan điểm đùn đẩy trách nhiệm của một người có trọng trách ký

quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM của một dự án lớn, mang tầm quốc gia như

vậy.Có thể thấy có sự bất nhất trong ý kiến của Nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT:

báo cáo ĐTM thời điểm đó là phù hợp với pháp luật, là phù hợp do khi dự án chưa

được triển khai, thiếu thông tin nên chỉ có thể dự báo được như thế;so với ý kiến

Ông cũng nhận thấy báo cáo ĐTM của Formosa sơ sài nhưng cả hội đồng thẩm định

đã đồng ý thông qua thì Ông phải theo. Tức là Ông đang cho rằng nếu có sai trong

việc thẩm định báo cáo ĐTM của Formosa thì một là do pháp luật lúc bấy giờ hạn

chế, còn không thì sẽ là do hội đồng thẩm định, chứ Ông chỉ có trách nhiệm ký theo

ý kiến của Hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM.

Theo báo cáo ĐTM năm 2008 của Formosa sẽ thực hiện xả thải vào dòng

sông Quyền. Về sau, khi nhận định lưu lượng nước sông Quyền không đáp ứng

được nguồn nước thải của Formosa xả ra nên Formosa đã đề xuất phương án xả thải

51

ra biển trong Báo cáo ĐTM Cảng năm 2013 (do thay đổi quy mô công suất Cảng

nên theo quy định Formosa phải lập lại Báo cáo ĐTM) và đã được Nguyên Thứ

trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ký quyết định phê duyệt. Tháng 7/2014,

Nguyên thứ trưởng Bộ TN&MT đã được Bộ trưởng ủy quyền ký quyết định chấp

thuận để Formosa xả thải ra biển. Ngày 11/12/2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường

lại ký quyết định cho phép Formosa xả nước thải ra vùng biển ven bờ vịnh Sơn

Dương. Vấn đề xả thải ra biển không mới, là biện pháp được nhiều quốc gia trên thế

giới thực hiện, tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, nước thải trước khi được xả ra biển cần

phải thông qua hệ thống xử lý, đảm bảo quy chuẩn môi trường trước khi xả thải. Và

nước thải được Formosa thải ra biển đã chưa đạt được tiêu chuẩn ấy. Ngoài ra, vấn

đề còn nằm ở chỗ: hệ thống xả thải này được lắp đặt ngầm, mà theo quy định của

pháp luật Việt Nam đường ống xả thải phải tạo điều kiện cho quá trình giám sát,

tiếp cận, kiểm tra một cách dễ dàng. Luật không quy định vấn đề hệ thống “ngầm’

hay “nổi”, tuy nhiên hệ thống xả thải ngầm là không phù hợp, là gây khó khăn cho

việc kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng và cộng đồng. Do đó Bộ trưởng Bộ

TN&MT Trần Hồng Hà đã yêu cầu Formosa phải đưa đường ống xả thải ngầm lên

để thuận tiện cho việc theo dõi, giám sát.

Chất lượng thẩm định báo cáo ĐTM của Formosa cũng như các báo cáo khác

đã cho thấy điểm yếu trong việc thực thi pháp luật ĐTM ở Việt Nam hiện nay. Các

địa phương còn quá chú trọng đến lợi ích kinh tế, đến thu hút đầu tư mà không

màng đến vấn đề môi trường. Hội đồng thẩm định chưa tuân thủ nghiêm túc các quy

định của pháp luật khi tiến hành nhiệm vụ của mình, đánh giá báo cáo ĐTM một

cách qua loa, đại khái, một phần do chế tài xử lý vi phạm trong thẩm định báo cáo

ĐTM hiện nay chưa được pháp luật quy định. Hạn chế trong quá trình thẩm định

còn nằm ở năng lực thẩm định của cơ quan có thẩm quyền chưa cao, đặc biệt là

những cơ quan địa phương, ở những tỉnh mới, tỉnh miền núi. Kết quả là thẩm định

sai quy định, chất lượng thẩm định không cao, không đáp ứng được yêu cầu đặt ra,

từ đó để lọt những dự án chưa có báo cáo ĐTM đạt tiêu chuẩn, những dự án gây

nguy hại lớn cho môi trường được phê duyệt. Hơn nữa, việc thiếu những hướng dẫn

kỹ thuật cần thiết cho chủ dự án và cho cán bộ có trách nhiệm thẩm định báo cáo

ĐTM; thiếu những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường – đây là căn cứ để

lập báo cáo ĐTM, là cơ sở để thẩm định báo cáo ĐTM khiến cho việc lập và thẩm

định khó khăn, thiếu tính khả thi, hiệu quả không cao.

52

Vi phạmsau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt

Ngay trước khi sự cố môi trường Formosa diễn ra, việc thanh, kiểm tra đã

được thực hiện với dự án Formosa theo cơ chế định kỳ. Tuy nhiên, đoàn thanh tra

đã kết luận không hề có vi phạm pháp luật môi trường. Vậy mà sau khi sự cố cá

chết xảy ra, được sự chỉ đạo của chính phủ, hoạt động thanh tra lại một lần nữa

được thực hiện với dự án này. Và lần này, kết luận thanh tra được công bố là dự án

Formosa có 53 vi phạm pháp luật môi trường, nguy hiểm nhất là việc Formosa tự ý

thay đổi công nghệ mà không báo cáo cơ quan chức năng. Cụ thể, Formosa đã tự ý

thay đổi công nghệ nghệ xử lý cốc, từ công nghệ xử lý cốc khô - công nghệ thân

thiện sang công nghệ xử lý cốc ướt, phát tán rất nhiều chất thải, đặc biệt là khí thải.

Ngoài ra, theo báo cáo của Chính phủ về việc sự cố cá chết ở miền Trung: Formosa

đã không xây lắp bể lọc cho trạm xử lý nước thải sinh hóa như cam kết họ đã chấp

nhận trong báo cáo đánh giá tác động môi trường. Chính những hành vi này đã gây

ra những hệ lụy không nhỏ về môi trường, cũng như kinh tế xã hội và chỉ được phát

hiện khi đoàn thanh tra kiểm tra sau sự cố môi trường gây hải sản chết hàng loạt tại

biển miền Trung.

Ngoài ra, sai phạm còn thể hiện ở quá trình kiểm tra, giám sát sau khi báo

cáo ĐTM đã được phê duyệt. Quá trình điều tra nguyên nhân về vụ việc, các cơ

quan chức trách phát hiện, Giám đốc Sở TN&MT Hà Tĩnh đã giao cho Trung tâm

Quan trắc Kỹ thuật môi trường, một đơn vị trực thuộc, ký hợp đồng quan trắc với

Formosa. Suốt một thời gian dài, Sở TN&MT Hà Tĩnh bỏ mặc việc kiểm định chất

lượng nguồn nước thải của Formosa, gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Điều nguy

hại ở chỗ, thay vì trực tiếp xuống hiện trường, điểm xả thải của Formosa lấy mẫu

nước thải để kiểm định, Trung tâm Quan trắc Kỹ thuật môi trường của Sở TN- MT

Hà Tĩnh chỉ lấy mẫu mà Formosa gửi đến và mấy tháng mới kiểm định một lần.

Cách làm này đã dẫn đến hệ quả là các mẫu kiểm định luôn đạt ngưỡng cho phép,

không phát hiện ra dấu hiệu sai phạm của Formosa để ngăn chặn kịp thời hành vi xả

độc tố ra môi trường biển [11].

Hiện nay, kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đối với sai phạm của

Formosa đã có từ lâu, tuy nhiên lại chưa được công bố rộng rãi gây hạn chế nhiều

cho tác giả trong việc nghiên cứu những sai phạm thực tế của Formosa để có thể rút

ra những bài học về môi trường, về ĐTM ở Việt Nam hiện nay. Nhưng rõ ràng,

53

ĐTM của Formosa là rất chung chung, thiếu tính chi tiết, cụ thể - yêu cầu đặt ra đối

với một quá trình nghiên cứu, đánh giá dự báo những tác động của dự án tới môi

trường, từ đó những biện pháp bảo vệ môi trường được đưa ra cũng sẽ không hoàn

chỉnh, không đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường. Đúng quy trình, các báo cáo

ĐTM phải sửa đổi bổ sung liên tục đến khi dự án đi vào hoạt động, là một quy trình

về quản lý, giám sát và hoàn thiện báo cáo ĐTM. Dự án đi vào hoạt động thì một

quy trình về quản lý giám sát ĐTM phải được triển khai. Lúc này cơ quan quản lý

nhà nước phải căn cứ vào hiện trạng của dự án và những kết quả kiểm toán môi

trường thường xuyên của dự án để giám sát. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý hầu

như chỉ căn cứ vào các báo cáo ĐTM khi nộp hồ sơ cấp phép dự án, rồi báo cáo

ĐTM được để đó, không ai quan tâm tới, không ai giám sát việc thực hiện báo cáo

ĐTM như thế nào.

2.3.3. Xử lý vi phạm trong sự cố môi trường Formosa

Xử lý vi phạm của Formosa

Ngày 28/6/2016, Công ty Formosa Hà Tĩnh nhận trách nhiệm về việc gây ra

sự cố môi trường, làm hải sản chết hàng loạt tại 4 tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên -

Huế trong thời gian qua, đồng thời cam kết: (1) Công khai xin lỗi Chính phủ và

nhân dân Việt Nam vì để xảy ra sự cố môi trường nghiêm trọng; (2) Thực hiện việc

bồi thường thiệt hại kinh tế cho người dân và hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp; bồi

thường xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung của Việt

Nam với tổng số tiền tương đương trên 11.500 tỷ đồng (500 triệu USD); (3) Khắc

phục triệt để các tồn tại, hạn chế của hệ thống xử lý chất thải, nước thải, hoàn thiện

công nghệ sản xuất, bảo đảm xử lý triệt để các chất thải độc hại trước khi thải ra

môi trường theo yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước của Trung ương và tỉnh

Hà Tĩnh để không tái diễn sự cố môi trường như đã xảy ra; (4) Phối hợp với các bộ,

ngành của Việt Nam và các tỉnh miền Trung xây dựng các giải pháp đồng bộ để

kiểm soát môi trường biển miền Trung, bảo đảm phòng, chống ô nhiễm, không để

xảy ra sự cố môi trường tương tự để tạo niềm tin với người dân Việt Nam và quốc

tế; (5) Thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết, không để tái diễn các hành vi vi

phạm pháp luật về BVMT.

Ngày 30/8/2016, Formosa đã hoàn thành việc thực hiện chuyển tiền bồi

thường cho Việt Nam với tổng số tiền là 500.000.000 đô la Mỹ theo đúng cam kết.

54

Mặt khác, Bộ TN&MT cũng đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính

đối với Formosa với số tiền phạt là 4.485.000.000 đồng và buộc Formosa phải thực

hiện các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm theo quy định của pháp luật [14].

Trước đây, chính quyền nhiều nước, vùng lãnh thổ đã phát hiện và xử phạt nặng

nhiều doanh nghiệp, nhà máy bí mật lắp ống xả để đổ chất thải độc hại ra sông, biển,

gây tổn hại nặng nề cho môi trường. Hồi đầu tháng này, tòa án ở bang Hawaii (Mỹ) đã

phạt Công ty hàng hải Doorae Shipping của Hàn Quốc 950.000 USD vì vi phạm các

quy định về bảo vệ môi trường. Doorae Shipping là chủ sở hữu tàu chở dầu B.Sky bị

phát hiện lén gắn ống xả gần 1.892 lít nước thải chứa dầu ra biển.

Trước đó, Bộ Bảo vệ môi trường Israel vào tháng 3 phạt Công ty lọc dầu Paz

Ashdod gần 5 triệu USD vì hành vi cài cắm ống xả thẳng nước thải chưa qua xử lý

ra biển, theo trang Sviva.gov.il. Tại Đài Loan, Cơ quan bảo vệ môi trường vùng

lãnh thổ này (EPA) vẫn đang điều tra vụ nhà máy mạ điện ở TP.Đài Nam sử dụng

đường ống ngầm bí mật để dẫn nước thải ra sông Tam Gia, bị phát hiện vào tháng

9.2015. Tờ Taipei Times dẫn kết quả điều tra cho thấy nước thải đổ ra sông chứa

đầy hóa chất độc hại. Chủ sở hữu nhà máy đã bị buộc đóng phạt hơn 600.000 USD

cũng như đối mặt một cuộc điều tra hình sự [10].

Có thể thấy, với những thiệt hại mà Formosa gây ra và so với mức xử phạt

hành vi xả thải gây ô nhiễm môi trường ở nhiều quốc gia trên thế giới thì đây là

mức xử phạt còn tương đối nhẹ, mang tính chất bồi thường thiệt hại chứ chưa mang

đem lại hiệu quả răn đe.

Theo đánh giá tổng thể của Bộ TN&MT, đến nay Formosa đã khắc phục

được 52/53 lỗi vi phạm. Riêng hạng mục chuyển đổi từ dập cốc ướt sang dập cốc

khô sẽ được hoàn thành vào năm giữa năm 2019. Formosa cũng đã hoàn thành bổ

sung hệ thống xử lý nước thải khu vực dập cốc ướt; bổ sung hệ thống xử lý nước

mưa chảy tràn tại bãi chứa phế liệu, bãi chứa quặng, than; bổ sung các hạng mục cải

thiện đối với hệ thống xử lý nước thải sinh hóa, sinh hoạt và công nghiệp; lắp đặt bổ

sung hệ thống quan trắc tự động nước thải tại xưởng xử lý nước thải sinh hóa,

xưởng xử lý nước thải sinh hoạt; lắp đặt bổ sung hệ thống quan trắc tự động tại các

ống khói...

Cho đến nay, phải khẳng định Formosa đã hoàn toàn đáp ứng được các yêu

cầu mà Bộ TN&MT và Hội đồng liên ngành đề ra. Hiện tại, Formosa đã có nhiều nỗ

55

lực hoàn thiện công nghệ, thực hiện các hạng mục cải thiện công trình bảo vệ môi

trường, xử lý chất thải. Các thiết bị quan trắc chất thải cũng được Formosa quan tâm

triển khai xây dựng, lắp đặt theo cam kết, đi cùng với quá trình hoàn thiện công

nghệ sản xuất. Formosa cùng với các cơ quan chức năng vẫn đang tích cực khắc

phục hậu quả sự cố môi trường đã xảy ra. Các cơ quan có thẩm quyền đánh giá về

các thiệt hại trước mắt đã được hạn chế, khắc phục được phần nào, tuy nhiên với

những tác hại lâu dài mà sự cố môi trường Formosa gây ra với môi trường biển, với

hệ sinh thái dưới biển thì cần thời gian dài nữa mới có thể khắc phục [12].

Xử lý vi phạm cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền

Vụ việc Formosa là tiêu biểu cho việc chủ dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã

hội xem thường các tác động môi trường mà chỉ chú trọng lợi ích kinh tế. Đây là bài

học cho Việt Nam trong việc cấp phép đầu tư với các dự án đầu tư nước ngoài. Sự

cố môi trường Formosa có báo cáo ĐTM rất sơ sài, thiếu nhiều nội dung quan

trọng, việc thực hiện đúng cam kết trong báo cáo ĐTM cũng không được Formosa

thực hiện nghiêm túc, cùng với đó là sai phạm của các cá nhân, tổ chức có thẩm

quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của Formosa. Do đó, Đảng đã có kết luận

xử lý trách nhiệm của những cá nhân, tổ chức có liên quan để kiểm điểm, nêu

gương tránh để xảy tình trạng của dự án Formosa thứ hai. Formosa cũng đã tự nhận

lỗi và đưa ra cam kết khắc phục sự cố cũng như đưa ra phương án bồi thường cho

người dân miền Trung chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự cố nên tuy đây là sự cố gây ô

nhiễm môi trường nghiêm trọng nhưng chưa bị xem xét đến trách nhiệm hình sự.

Trong hai ngày 18 và 21/4/2017, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Hà Nội, Ban

Bí thư đã họp dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để xem xét báo

cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đề nghị thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng

và đảng viên (số 74 và 75-BC/UBKTTW, ngày 17/4/2017).

Ban Bí thư kết luận Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cá

nhân liên quan Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường giai đoạn 2011-2016

đã thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo; buông lỏng quản lý, điều hành; thiếu

kiểm tra, giám sát; để xảy ra các vi phạm trong công tác thẩm định, phê duyệt, chấp

thuận thay đổi đánh giá tác động môi trường, điều chỉnh địa điểm xả thải và quản lý

nhà nước đối với dự án Formosa Hà Tĩnh, gây ra hậu quả rất nghiêm trọng cho môi

trường và đời sống của nhân dân; làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an

56

toàn xã hội. Theo đó, kết luận quy định hình thức xử lý các cá nhân bao gồm:

Thứ nhất, kỷ luật cảnh cáo Ông Nguyễn Minh Quang – Nguyên Bộ trưởng

Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm,

khuyết điểm của Ban cán sự đảng nhiệm kỳ 2011 - 2016.

Thứ hai, kỷ luật cách chức Uỷ viên Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi

trường nhiệm kỳ 2011 – 2016 hai Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến đã thiếu trách nhiệm

khi ký phê duyệt các báo cáo ĐTM, bỏ qua sự cảnh báo ảnh hưởng đến môi trường;

buông lỏng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, giám sát việc xây

dựng các hạng mục công trình bảo vệ môi trường của Công ty Formosa và Thứ

trưởng Nguyễn Thái Lai đã thiếu trách nhiệm trong việc thẩm định, ký giấy phép

cho Công ty Formosa xả nước thải xa bờ không đúng quy định.

Thứ ba, cách chức Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ nhiệm kỳ 2005 - 2010 và

nhiệm kỳ 2010 - 2015 đối với ông Võ Kim Cự - Nguyên Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh đã

trực tiếp ký nhiều văn bản không đúng quy định trong việc cấp giấy chứng nhận đầu

tư; giao và cho thuê mặt nước biển; đồng ý chủ trương cho Công ty Formosa tự giải

phóng mặt bằng để xây dựng đường ống xả nước thải không đúng quy định... đồng

thời Ông cũng thiếu trách nhiệm chỉ đạo, thanh tra, giám sát quá trình triển khai

thực hiện Dự án [19].

Ngoài ra còn một số các cán bộ ở cấp Trung ương và địa phương có liên

quan cũng bị xem xét kỷ luật theo đúng chủ trương của Đảng đã đề ra khi sự cố bị

phát hiện là sẽ xử lý đến cùng, triệt để, không bao che, sai đến đâu xử đến đó. Kết

luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho thấy sự quyết liệt, nghiêm túc trong việc

trừng trị những hành vi gây ô nhiễm môi trường, tạo thêm niềm tin cho người dân

vào sự lãnh đạo của Đảng.

57

Chương 3:

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI

TRƯỜNG VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI Ở VIỆT NAM

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở

Việt Nam

Các quy định pháp luật về ĐTM hiện nay đã được ban hành, điều chỉnh

tương đối phù hợp tình hình thực tế ở Việt Nam. Hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật về ÐTM đã được hoàn thiện với luật, nghị định và thông tư hướng dẫn lập báo

cáo ÐTM đối với các loại hình dự án đầu tư khác nhau. Nhờ các văn bản quy phạm

pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung cho nên các quy trình, thủ tục thẩm định ÐTM

được quy định rõ ràng, minh bạch theo hướng cải cách hành chính, bảo đảm chất

lượng của công tác thẩm định. Các nội dung và chất lượng của báo cáo ÐTM có

những tiến bộ nhất định, nhiều dự án trước khi vận hành chính thức đã được xác

nhận thực hiện các công trình BVMT theo yêu cầu của báo cáo ÐTM. Tuy nhiên,

trong quá trình thực hiện ÐTM tồn tại không ít khó khăn, bất cập như: có sự bất

đồng trong quy định giữa các Luật, Nghị định, thông tư; quy định về hoạt động

tham vấn còn sơ sài, thiếu chi tiết; cơ chế hậu kiểm gần như chưa được quy

định;…Kết quả là việc thực hiện ĐTM ở nước ta còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện

ĐTM còn mang tính hình thức, chủ dự án chưa nhận thức được vấn nạn môi trường

hiện nay dẫn tới không chú trọng việc lập báo cáo ĐTM, thực hiện báo cáo ĐTM;

chủ thể có thẩm quyền tham vấn, thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM còn thiếu

trách nhiệm, thực hiện nhiệm vụ một cách hời hợt dẫn tới những báo cáo ĐTM

được phê duyệt mà không đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của báo cáo

ĐTM;… kết quả là tình trạng các dự án gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Do

đó, hệ thống pháp luật về ĐTM cần phải được hoàn thiện, điều chỉnh cho phù hợp

với thực tiễn và toàn diện hơn với những định hướng sau:

Hoàn thiện pháp luật ĐTM bảo đảm tính thống nhất, đồng thời có sự

phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường;

tăng cường trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi tổ chức và cá nhân

Hoàn thiện pháp luật phải tập trung vào các vấn đề cơ bản, trọng tâm chính

về ĐTM trong Luật bảo vệ môi trường và các luật có liên quan khác; các quy định

58

về ĐTM cần bảo đảm sự thống nhất giữa các luật có liên quan với Luật bảo vệ môi

trường. Cụ thể Rà soát các quy định của pháp luật ĐTM trong các luật có liên quan

như Luật đầu tư, Luật quản lý tài nguyên nước, Luật khoáng sản,… để xử lý các bất

cập, vướng mắc và bảo đảm thống nhất, đồng bộ trong các quy định về ĐTM. Tiếp

tục hoàn thiện các quy định pháp luật về ĐTM nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả,

nâng tầm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường phù hợp các quan điểm,

chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường; tương thích

với thông lệ quốc tế; tạo hành lang pháp lý đồng bộ về bảo vệ môi trường, thúc đẩy

sự phát triển bền vững.

Pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng làm rõ trách nhiệm giữa các bộ,

ngành, giữa trung ương, và địa phương, UBND các cấp về bảo vệ môi trường; tăng

cường phân cấp và tăng trách nhiệm của địa phương trong quản lý hoạt động ĐTM

trên địa bàn để nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước về bảo vệ

môi trường. Đồng thời, tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm cho cá nhân tham gia thực

hiện ĐTM để từ đó các cá nhân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật ĐTM, nâng

cao ý thức tự giác bảo vệ môi trường.

Hoàn thiện pháp luật ĐTM theo hướng tiếp cận quan điểm quốc tế

Thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng,thời gian qua, Việt Nam đã

tham gia ký kết nhiều Điều ước thương mại song phương và đa phương nhằm mục

tiêu phát triển kinh tế -xã hội; trong đó có nhiều nội dung liên quan đến vấn đề bảo

vệ môi trường.Để thực thi đầy đủ các cam kết môi trường trong các Điều ước này,

trước hết đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường nói

chung và pháp luật về ĐTM tương thích, và phù hợp với các quy định đã ký kết.

Hiện nay các dự án đầu tư thực hiện vay vốn tại các Ngân hàng Thế giới (World

Bank), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB),… là rất phổ biến. Mà các tổ chức này

cực kỳ chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động đầu tư nên có

những quy định hết sức chặt chẽ và tiến bộ, Việt Nam rất cần học hỏi các quy định

này để hoàn thiện pháp luật ĐTM. Các chủ đầu tư khi vay vốn tại các tổ chức này

để tiến hành hoạt động đầu tư phải đảm bảo tuân thủ các quy định về ĐTM của tổ

chức đó. Như vậy, chủ đầu tư phải tuân thủ các quy định về ĐTM theo cả pháp luật

Việt Nam và theo cả pháp luật của các tổ chức cho vay quốc tế. Do đó, vừa nhằm

mục đích hoàn thiện pháp luật DDTM, vừa tạo sự thuận lợi cho chủ đầu tư, Việt

59

Nam cần có sự nghiên cứu, tiếp thu những điểm tích cực, hiệu quả pháp luật ĐTM

của các tổ chức quốc tế.

Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, Việt Nam

cần tiếp tục tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm quản lý môi trường thành công của các

nước tiên tiến, các nước có điều kiện tương đồngtrên thế giới, nhất là trong việc đưa

ra các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường, cũng như giải quyết các vấn đề về

ô nhiễm, sự cố môi trường trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước.

Hoàn thiện pháp luật theo hướng cân bằng thu hút đầu tư nước ngoài

với yêu cầu bảo vệ môi trường trong nước, đảm bảo phát triển bền vững

Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn là một trong những trụ cột cho phát triển

kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên cần có cơ chế chọn lọc những dự

án ít gây tác động tới môi trường nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đã

và đang là vấn đề cấp thiết đặt ra cho Việt Nam. Thực tế hiện nay cho thấy một số

địa phương là vì áp lực tăng trưởng nên đã dung túng cho những hành vi sai trái của

các nhà đầu tư. Theo đuổi tăng trưởng là cần thiết, nhưng phải có kế hoạch, phải

cân đối được các vấn đề xung quanh khác, chứ không phải tăng trưởng bằng cách

đánh đổi mọi thứ.

Pháp luật cần có quy định cân nhắc lựa chọn dự án và nhà đầu tư để bảo đảm

phát triển kinh tế - xã hội đất nước cân đối với vấn đề bảo vệ môi trường, đảm bảo

sự phát triển bền vững. Cần ưu tiên các dự án có công nghệ và dịch vụ hiện đại, tiết

kiệm năng lượng, ít phát thải khí các bon và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính, có

công nghệ thân thiện với môi trường, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp

phần xây dựng “kinh tế xanh” và bền vững, theo đúng chỉ đạo của Nghị quyết số

103/NQ-CP đề ra định hướng mới và hệ thống giải pháp, coi trọng hơn cơ cấu, chất

lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội của FDI. Các địa phương cần loại bỏ tư tưởng

thành tích trong thu hút FDI, tránh việc ưu ái cho những dự án quy mô lớn, mà

không lường tới nguy cơ tác động xấu tới môi trường, phải nói không với các dự án

sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Pháp luật môi trường và pháp

luật đầu tư cần có mối liên hệ với nhau, cùng thống nhất tạo nên cơ chế lựa chọn dự

án đảm bảo phát triển về kinh tế mà vẫn cân bằng được vấn đề môi trường. Cần

kiểm soát chặt dự án FDI ngay từ khi thẩm định, cấp phép và giám sát chặt trong

60

quá trình triển khai. Chính phủ cần siết chặt kỷ luật, đặt ra rào cản cho các lĩnh vực

có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở

Việt Nam

Để hoạt động ĐTM trở thành công cụ hữu hiệu trong quản lý và bảo vệ môi

trường cần hoàn thiện khung pháp lý về ĐTM của Việt Nam ở các khía cạnh sau đây:

3.2.1. Xây dựng và ban hành các quy định về đảm bảo chất lượng

của báo cáo đánh giá tác động môi trường

Hệ thống pháp luật ĐTM cần được bổ sung các quy định đảm bảo chất lượng

của báo cáo ĐTM được lập, trong đó có việc đưa ra các tiêu chí đánh giá chất lượng

của báo cáo ĐTM. Việc đưa ra các tiêu chí cụ thể về mặt nội dung đối với báo cáo

ĐTM vừa đảm bảo tính minh bạch của các quy định về lập và thẩm định báo cáo

ĐTM, vừa làm cơ sở cho các tổ chức, cá nhân lập báo cáo ĐTM; vừa là căn cứ cho

việc thẩm định, phê duyệt báo cáo; nhằm kiểm soát chất lượng của báo cáo ĐTM

được lập.

Bộ TN&MT cũng đã ban hành được một số hướng dẫn lập báo cáo ĐTM cho

ngành nghề riêng biệt, tuy nhiên một số hướng dẫn đã được ban hành từ lâu, tới nay

đã xuất hiện nhiều điểm không còn phù hợp. Hiện nay, Bộ TN&MT cũng tích cực

xây dựng các hướng dẫn này và kêu gọi, khích lệ sự tham gia, đóng góp của các

chuyên gia, của cộng đồng một cách công khai trên Cổng thông tin điện tử Thẩm

định và Đánh giá tác động môi trường Việt Nam eia.vn.

Để nâng cao chất lượng hoạt động ĐTM, pháp luật Việt Nam cũng cần hoàn

thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường cũng sẽ góp phần đảm bảo chất lượng

báo cáo ĐTM. Quy chuẩn kỹ thuật môi trường là căn cứ để đánh giá, kiểm soát sự

thay đổi của môi trường, là cơ sở pháp lý để nhà nước kiểm soát những tác động

tiêu cực gây ra cho môi trường. Từ sự cố môi trường Formosa đã cho thấy lỗ hổng

pháp lý trong việc áp dụng quy chuẩn kỹ thuật về môi trường trong kiểm soát nguồn

thải. Hệ thống xả thải của Formosa áp dụng theo quy chuẩn 52 (QCVN

52:2013/BTNMT) về nước thải công nghiệp sản xuất thép. Quy chuẩn này được

xây dựng quá đơn giản, không có quy định tiêu chuẩn thải cho từng loại nhà máy

thép, không có quy định định tiêu chuẩn cho từng loại kỹ thuật và quy trình sản xuất

thép khác nhau, cũng không đặt ra lộ trình để buộc nhà đầu tư nâng cao tiêu chuẩn

61

nước thải trong vòng đợi dự án. Đây chỉ là hạn chế tiêu biểu đã được bộc lộ ra, còn

với các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường khác cũng đã tồn tại những bất cập. Do

đó, Nhà nước cần sớm rà soát, sửa đổi, ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về môi

trường bảo đảm kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt đối với các ngành, lĩnh vực có khả

năng gây ô nhiễm môi trường cao, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường ngành phải

nghiêm ngặt hơn các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường nói chung, đặc biệt chú

trọng các ngành nhuộm, thuộc da, sản xuất giấy, luyện thép từ quặng..., tiếp cận với

quy chuẩn kỹ thuật về môi trường của các nước tiên tiến.

Khi các quy định nêu trên được ban hành một cách đầy đủ, hoàn thiện sẽ tạo

nên một hệ thống cơ sở pháp lý để chủ dự án thực hiện tốt hoạt động ĐTM, còn nhà

nước sẽ đảm bảo kiểm soát những tác động tiêu cực gây ra cho môi trường, đạt

được hiệu quả của hoạt động ĐTM

3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật vềtham vấn cộng đồng

Quyền tham gia của cộng đồng được đưa ra trong các rất nhiều cam kết quốc

tế như Tuyên bố Rio năm 1992, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948,

Tuyên ngôn về quyền phát triển năm 1986, Công ước quốc tế về các quyền dân sự-

chính trị và kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Tuyên bố Stockholm năm 1972 về

môi trường và con người, Tuyên bố Dublin về nước và phát triển bền vững năm

1992, Kế hoạch hành động Mar del Plata năm 1977 [16,tr.6]. Tham vấn cộng đồng

trong ĐTM là sự ghi nhận sự tham gia của cộng đồng trong quá trình lập, thẩm định

báo cáo ĐTM. Mục đích của việc làm này nhằm đảm bảo quyền lợi của các nhóm

đối tượng chịu tác động từ dự án, đồng thời hỗ trợ quá trình ra quyết định đối với

các dự án phát triển. Tuy nhiên, việc thực hiện công tác này thời gian qua còn mang

nặng tính hình thức; quy trình, thủ tục tham vấn chưa đảm bảo minh bạch, công

khai, làm giảm đáng kể ý nghĩa và hiệu quả hoạt động tham vấn [15].

Như đã trình bày những hạn chế về hoạt động tham vấn, pháp luật cần quy

định cụ thể hơn về hoạt động này. Cần quy định thế nào là “chịu ảnh hưởng trực

tiếp từ dự án” để từ đó xác định được đúng, đủ những đối tượng được tham vấn; tức

là xác định rõ ràng phạm vi tham vấn.

Nên quy định việc tham vấn trong nhiều giai đoạn của dự án. Hiện nay việc

tham vấn mới chỉ được thực hiện trong giai đoạn lập báo cáo ĐTM, pháp luật tuy có

quy định những trường hợp cần thiết có thể tiến hành tham vấn trong quá trình thẩm

62

định và phê duyệt báo cáo ĐTM. Tuy vậy, nhưng việc tham vấn trong các giai đoạn

này hầu như không được thực hiện. Vấn đề ở chỗ “trường hợp cần thiết”, pháp luật

đang quy định rất chung chung, trường hợp nào là cần thiết phải tham vấn cộng

đồng trong giai đoạn thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM. Khi pháp luật không rõ

ràng sẽ khiến những những người có quyền áp dụng pháp luật khó khăn trong áp

dụng quy định đó. Vậy nên pháp luật ĐTM cần quy định rõ ràng các trường hợp

buộc phải thực hiện tham vấn cộng đồng trong giai đoạn thẩm định, phê duyệt báo

cáo ĐTM. Cũng cần tiến hành tham vấn cộng đồng xuyên suốt các giai đoạn của dự

án, để có thể đảm bảo dự đoán được cơ bản các tác động xảy đến với môi trường

khi xây dựng dự án, để có hướng khắc phục các tác động đó một cách kịp thời, hiệu

quả nhất.

Cộng đồng tham gia tham vấn là những người dân trực tiếp sống ở địa

phương nơi hoạt động của dự án, có một bộ phận là những người không có chuyên

môn cao về lĩnh vực môi trường, nên khó có thể đánh giá đầy đủ, chính xác những

ảnh hưởng của dự án tới môi trường khi mà dự án mới chỉ trên giấy tờ như vậy;

nhưng không vì thế mà bỏ qua những ý kiến tham vấn của họ được, bởi họ là những

người sẽ trực tiếp chịu ảnh hưởng của môi trường nơi xây dựng dự án, họ sẽ trực

tiếp nhận thấy được sự thay đổi của môi trường trong từng giai đoạn của dự án. Để

công tác tham vấn cộng đồng đạt hiệu quả cao, trước khi tham vấn cần phổ biến tài

liệu liên quan tới cộng đồng, cung cấp kiến thức về môi trường cho cộng đồng tham

gia tham vấn. Pháp luật ĐTM cần quy định chủ dự án khi tiến hành tham vấn cộng

đồng phải cung cấp thông tin, có những hướng dẫn kỹ thuật cơ bản cho người dân

tham gia tham vấn để người dân có những kiến thức, hiểu biết cơ bản đối với dự án

và tới môi trường chịu tác động bởi dự án. Việc không cung cấp đầy đủ thông tin

hay sai lệch thông tin của dự án cho cộng đồng dân cư nơi chịu tác động bởi dự án

chủ dự án phải chịu trách nhiệm, phải có chế tài xử lý để răn đe và đảm bảo thực

hiện nghiêm túc.

Đồng thời pháp luật ĐTM cần quy định rõ những ý kiến tham vấn như thế

nào thì phải được chủ dự án ghi nhận, đưa vào báo cáo ĐTM và với những ý kiến

tham vấn không thực hiện thì cần phải giải trình bằng văn bản với cộng đồng dân cư

và với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luật ĐTM cũng cần quy định việc

tham vấn rộng rãi qua các hình thức văn bản, gặp mặt và đăng tải trên mạng internet

63

trong quá trình lập báo cáo đánh giá. Cần có quy định rõ ràng về việc lưu trữ và báo

cáo trung thực tất cả các ý kiến, không chỉ của người dân mà cả các ý kiến của

chuyên gia. Giai đoạn thẩm định và phê duyệt BC, cơ quan thẩm định có nghĩa vụ

tiếp thu tất cả các ý kiến đóng góp. Toàn bộ tài liệu do chủ đầu tư nộp phải được

công bố rộng rãi trên mạng internet kèm với khoảng thời gian thẩm định cùng đầu

mối tiếp nhận và phản hồi, giải trình đối với các ý kiến. Như vậy, cơ chế tham vấn

mới thực sự đem lại hiệu quả cho chủ dự án trong quá trình lập báo cáo ĐTM cũng

như cơ quan có thẩm quyền phê duyệt có cơ sở để ra quyết định phê duyệt hay loại

bỏ dự án một cách chính xác nhất.

3.2.3. Quy định về cơ chế hậu kiểm rõ ràng, chặt chẽ

Bản chất ĐTM là dự báo, do vậy báo cáo ĐTM khó có thể chi tiết về định

lượng cũng như chính xác về những tác động, sự cố, rủi ro về môi trường có thể xảy

ra trong suốt chu trình của dự án. Vì vậy cần xem công tác giám sát môi trường sau

khi thẩm định ĐTM là một trong các yếu tố quan trọng nhất trong quản lý môi

trường của dự án. Điều quan trọng là chủ dự án, tổ chức tư vấn, cộng đồng dân cư,

cơ quan thẩm định, cơ quan phê duyệt, lãnh đạo các cấp cần phải nhận diện các vấn

đề phức tạp về môi trường của dự án có thể nảy sinh để quyết định phải giám sát

đến mức độ nào đối với dự án đó. Xác định phạm vi, mức độ giám sát, kiểm tra

thực hiện báo cáo ĐTM rồi từ đó xác định phân cấp trách nhiệm kiểm tra, giám sát

cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức cho phù hợp. Hiện nay tuy có sự hạn chế về trình

độ, năng lực, số lượng cán bộ thực hiện giám sát hay về chi phí cho hoạt động giám

sát, kiểm tra hậu báo cáo ĐTM, tuy nhiên vấn đề còn nằm ở pháp luật đã không quy

định rõ ràng cơ chế kiểm tra, giám sát, cơ quan. Cần quy định cụ thể: cá nhân nào

có trách nhiệm kiểm tra, giám sát; kiểm tra, giám sát ở những giai đoạn nào; quy

trình tiến hành kiểm tra, giám sát; nghĩa vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà

nước có thẩm quyền, của chủ dự án khi thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát; kèm

theo đó là trách nhiệm khi các bên có liên quan không thực hiện đúng nghĩa vụ của

mình theo quy định của pháp luật. Cần xây dựng quy trình kiểm tra, xác nhận công

tác bảo vệ môi trường theo từng giai đoạn của dự án và theo các cấp độ khác nhau

rong đó nêu rõ trách nhiệm của các bên từ chủ dự án đến các cơ quan quản lý môi

trường các cấp và có sự tham gia của chính quyền, nhân dân địa phương.Có như

vậy, chủ dự án mới nghiêm túc thực hiện những cam kết bảo vệ môi trường đã nêu

trong báo cáo ĐTM.

64

Sự cố môi trường Formosa là bài học cho Việt Nam về công tác giám sát môi

trường của cơ quan quản lý nhà nước. Nội dung giám sát không chỉ là đo đạc, phân

tích đánh giá chất lượng môi trường mà còn phải giám sát đánh giá sự tuân thủ các

yêu cầu về thực hiện các biện pháp giảm thiểu và quản lý môi trường, an sinh xã hội

trong báo cáo ĐTM được thẩm định. Tổ chức, phương pháp và kết quả giám sát

phải minh bạch, không bị chi phối bởi lãnh đạo địa phương, bộ ngành và chủ đầu

tư. Cần hoàn thiện pháp luật về giám sát môi trường theo hướng chủ động và

thường xuyên hơn: ngoài giám sát định kỳ còn phải tiến hành nhiều cuộc thanh,

kiểm tra đột suất; việc giám sát phải được tiến hành sát sao, kỹ lưỡng hơn chứ

không phải với những thông số đơn giản như hiện nay; việc kiểm tra, giám sát phải

được tiến hành trực tiếp, tận nơi chứ không chỉ là chủ đầu tư đưa mẫu đến cho cơ

quan có thẩm quyền thực hiện kiểm nghiệm, đánh giá, kiểm tra.

Cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa Trung ương với địa phương trong việc

kiểm tra, giám sát thực hiện báo cáo ĐTM. Các dự án lớn dù thuộc thẩm quyền phê

duyệt của Bộ, cơ quan ngang Bộ hay UBND cấp tỉnh, thì việc kiểm tra, giám sát

thực tế vẫn là gần nhất với cơ quan nhà nước về lĩnh vực môi trường ở địa phương

như Sở, Phòng TN&MT, UBND cấp xã. Đây là các cơ quan trực tiếp quản lý các

vấn đề môi trường tại địa phương, là các cơ quan có điều kiện để trực tiếp kiểm tra,

giám sát các dự án xây dựng trên địa phương mình. Do đó, các cơ quan này sẽ đóng

vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát việc đảm bảo thực hiện theo báo cáo

ĐTM của dự án, việc dự án có thay đổi cần phải lập lại báo cáo ĐTM.

Pháp luật cần có quy định cụ thể hơn sự giám sát chặt chẽ, nâng cao trách

nhiệm trong thẩm định, giám sát các dự án để bảo đảm an toàn môi trường. Hoạt

động giám sát, kiểm tra còn góp phần giúp cho chủ dự án có những thay đổi về biện

pháp, phương án bảo vệ môi trường kịp thời trước sự thay đổi ủa các yếu tố môi

trường và xã hội theo thời gian, trước rất nhiều vấn đề sẽ phát sinh trong quá trình

xây dựng, vận hành dự án để bảo vệ môi trường hiệu quả nhất.

3.2.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm của các chủ thể

tham gia thực hiện đánh giá tác động môi trường

Hệ thống pháp luật ĐTM của Việt Nam hiện nay được đánh giá là tương đối

đầy đủ, hoàn thiện với các quy định quy trình ĐTM rất chi tiết từ Luật, Nghị định

đến thông tư cùng rất nhiều những hướng dẫn thực hiện ĐTM cho từng loại dự án

65

cụ thể. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy hoạt động ĐTM ở Việt Nam chưa đạt được

hiệu quả cao. Theo tác giả, vấn đề nằm ở việctuân thủ pháp luật ĐTM. Pháp luật

ĐTM đang thiếu những quy định về trách nhiệm từng chủ thể tham gia vào hoạt

động ĐTM.

Với các sự cố môi trường của Việt Nam trong thời gian qua có thể thấy các

chủ thể liên quan đã không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, tuy nhiên lại khó xác

định sai phạm cụ thể do cá nhân nào và xử lý ra sao. Các nghĩa vụ hiện nay, đặc biệt

của các cơ quan chức năng thường mang tính tập thể nên khi có sai phạm việc quy

trách nhiệm sẽ có xu hướng đùn đẩy cho tập thể. Cũng vì thế, trách nhiệm của từng

cá nhân có liên quan trong hoạt động thẩm định, phê duyệt không được thực hiện

nghiêm túc, dẫn tới báo cáo ĐTM được thông qua với chất lượng thấp, không đảm

bảo yêu cầu.

Pháp luật ĐTM Việt Nam cần gắn trách nhiệm cho từng cá nhân, quy định

người nào thực hiện không đúng người đó phải chịu trách nhiệm. Theo quan điểm

cá nhân tác giả, thẩm định là một trong những giai đoạn rất quan trọng trong quá

trình phê duyêt một báo cáo ĐTM. Đây là khâu mà cơ quan nhà nước tham gia trực

tiếp, kết quả của giai đoạn này là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt báo cáo

ĐTM. Do đó, trách nhiệm của cơ quan thẩm định phải được quy định rõ hơn cả.

Việc thẩm định được thực hiện thông qua một hội đồng thẩm định, mỗi thành viên

đều phải có ý kiến riêng được ghi chép lại trong kết quả thẩm định của hội đồng,

người nào đồng ý hay không đồng ý thông qua báo cáo ĐTM đều phải giải trình rõ.

Theo đó, nếu báo cáo ĐTM được phê duyệt mà có sai sót thì những thành viên hội

đồng đã bỏ phiếu thuận phải chịu trách nhiệm, những thành viên đã bỏ phiếu chống

được miễn trách nhiệm. Quy định này khiến từng thành viên hội đồng phải rất cẩn

trọng đồng ý thông qua cho mỗi báo cáo ĐTM.

Ngoài ra trách nhiệm của các cá nhân khác trong các giai đoạn khác cũng cần

được quy định cụ thể. Như trách nhiệm của chủ dự án, của tổ chức tư vấn thực hiện

ĐTM trong quá trình lập báo cáo ĐTM. Các cá nhân phải đảm bảo thực hiện đúng

nhiệm vụ của mình và đảm bảo có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để cùng hoàn

thiện báo cáo ĐTM. Khi có sai phạm từ quá trình lập báo cáo ĐTM, các cá nhân

này có thể bị phạt tiền, tạm đình chỉ hoặc tịch thu chứng chỉ, hay nặng hơn có thể bị

truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với giai đoạn phê duyệt báo cáo ĐTM cũng

66

không ngoại lệ, trách nhiệm lớn nhất có lẽ thuộc về người có thẩm quyền phê duyệt

báo cáo ĐTM, người này dựa trên kết quả thẩm định của hội đồng thẩm định cùng

với ý kiến, quan điểm cá nhân để ra quyết định phê duyệt hay không phê duyệt báo

cáo ĐTM. Người ký quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM phải có quan điểm, đánh

giá của cá nhận, không được phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả thẩm định của hội

đồng thẩm định, để rồi khi có sai phạm lại đủn đầy trách nhiệm do hội đồng thẩm

định được.

Để quy định được trách nhiệm của cá nhân khi có sai phạm thì trước đó phải

quy định được nghĩa vụ, vai trò của từng cá nhân trong từng khâu của ĐTM. Việc

quy định trách nhiệm cá nhân là cơ sở xử lý vi phạm nên sẽ khiến các chủ thể

nghiêm túc chấp hành quy định của pháp luật hơn, thận trọng trong việc đưa ra các

quyết định của mình, nâng cao được chất lượng ĐTM.

3.2.5. Hoàn thiện pháp luật với quy định hai bước đánh giá tác động

môi trường cho dự án đầu tư

Theo thông lệ quốc tế, ĐTM thực hiện theo 02 bước. Bước đánh giá sơ bộ

tác động môi trường tập trung vào vấn đề lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, thực

hiện trong giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi dự án; đánh giá tác động môi trườngchi

tiết xem xét toàn diện các vấn đề môi trường của dự án, chi tiết hóa các biện pháp

giảm thiểu tác động xấu, thực hiện trong giai đoạn nghiên cứu khả thi dự án.

Và thực tế hiện nay, Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định quyết định phê

duyệt báo cáo ĐTM (báo cáo chi tiết) là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định chủ

trương đầu tư. Tuy nhiên, Luật Đầu tư khi quy định về hồ sơ phải nộp khi xin chủ

trương đầu tư lại không có thành phần này. Do vậy việc han hành quy định ĐTM theo

hai bước sẽ giúp hài hòa được cả pháp luật môi trường và pháp luật đầu tư. Quy định

về ĐTM hiện nay là quy định dành cho ĐTM chi tiết. Để hoàn thiện hệ thống pháp luật

ĐTM cần bổ sung quy định về ĐTM sơ bộ.Với nội dung như sau:

ĐTM sơ bộ được lập đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ

trường của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi

trường cao (danh mục dự án do Chính phủ quy định chi tiết).Nội dung của ĐTM sơ

bộ sẽ do Chính phủ hướng dẫn chi tiết, bảo đảm đơn giản, dễ thực hiện, chi phí

thấp, chỉ bao gồm những thông tin chủ đầu tư tự khai như dự kiến dự án có chất thải

nguy hại không, nước thải có kim loại nặng không, dự kiến khối lượng chất thải, 67

khoảng cách từ dự án đến một số thành phần môi trường nhạy cảm như khu bảo tồn,

nguồn nước…

ĐTM sơ bộ sẽ do chủ đầu tư lập theo mẫu, không cần thẩm định trước nhưng

phải nộp cùng bộ hồ sơ xin chấp thuận chủ trương đầu tư. Khi cơ quan tiếp nhận hồ

sơ lấy ý kiến các cơ quan có liên quan thì phải lấy ý kiến cơ quan bảo vệ môi

trường. Cơ quan bảo vệ môi trường sẽ xem xét báo cáo ĐTM sơ bộ và trả lời cơ

quan đầu tư về tính phù hợp của dự án đối với môi trường. Quyết định cuối cùng

thuộc về cơ quan có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư.

Với quy định hai bước ĐTM như vậy sẽ bảo đảm sự thống nhất hệ thống

pháp luật. Đồng thời loại bỏ các dựán mà địa điểm, quy mô và công nghệ không

phù hợp về bảo vệ môi trường, có thể gây tác động lớn về môi trường.

Ngoài những đề xuất nêu trên, pháp luật về ĐTM để hoàn thiện và đem lại

hiệu quả quản lý, bảo đảm an toàn cho môi trường cần phải tiếp tục được rà soát

hạn chế sự trùng lặp, chồng chéo, bất nhất khiến các chủ thể khó áp dụng, thi hành;

cần ban hành đầy đủ hơn các quy định về quản lý năng lực của các những người có

trách nhiệm lập báo cáo ĐTM, của cá nhân tham gia thẩm định, phê duyệt báo cáo

ĐTM. Về chi phí cho ĐTM, pháp luật cần nâng cao lệ phí thẩm định báo cáo ĐTM

cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, đảm bảo mức lệ phí này là đủ cho các

hoạt động cần thiết phải thực hiện khi tiến hành thẩm định, đủ điều kiện để tiến

hành những hoạt động có tính khoa học, chuyên môn cao hơn, đáp ứng được nhu

cầu thẩm định. Hơn nữa, cần có quy định thêm về lệ phí kiểm tra công trình bảo vệ

môi trường phục vụ giai đoạn vận hành dự án, lệ phí kiểm tra, giám sát các chương

trình, kế hoạch bảo vệ môi trường như đã đề xuất trong báo cáo ĐTM.

3.3. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đánh giá tác động

môi trường ở Việt Nam

Để hoạt động đánh giá tác động môi trường được thực hiện có hiệu quả,

ngoài việc quy định của pháp luật phải được hoàn thiện, phù hợp thì cần cơ chế thúc

đẩy cho việc thực thi, áp dụng những quy định pháp luật đó vào thực tiễn. Dưới

đây, tác giả xin được đưa ra một số các kiến nghị của cá nhân nhằm nâng cao hiệu

quả thực thi pháp luật ĐTM:

68

3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đánh giá

tác động môi trường

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá

trình thi hành pháp luật và đóng vai trò hết sức quan trọng, là cầu nối thể hiện ý chí,

nguyện vọng của Nhà nước đến mọi người dân. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật là

yêu cầu chung toàn bộ hệ thống pháp luật, chứ không riêng gì đối với pháp luật

ĐTM. Tuy nhiên, do ĐTM là hoạt động chưa thực sự phổ biến với người dân, nên

yêu cầu phổ biến, tuyên truyền đối với pháp luật này càng cần được chú trọng hơn.

Khi các chủ thể trong xã hội đều biết tới pháp luật ĐTM, đều hiểu được vai trò cũng

như các nghĩa vụ cơ bản của pháp luật ĐTM thì hoạt động ĐTM đương nhiên sẽ

được thực hiện một cách hiệu quả, đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật.

Khi các chủ thể nhận thức được pháp luật ĐTM trước tiên sẽ nâng cao được

chất lượng tham vấn cộng đồng trong quá trình thực hiện ĐTM. Người dân khi hiểu

về vai trò của mình trong giai đoạn tham vấn, khi hiểu được quyền và nghĩa vụ của

mình sẽ tích cực tham gia tham vấn hơn để tự mình tham gia trực tiếp vào hoạt

động bảo vệ môi trường cho địa phương mình. Khi chủ thể hiểu biết về pháp luật

ĐTM sẽ tự có ý thức hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật ĐTM, hạn chế các hành

vi gây ô nhiễm môi trường. Chủ dự án, tổ chức tư vấn lập báo cáo ĐTM nắm rõ về

pháp luật ĐTM, về vai trò của hoạt động ĐTM sẽ nghiêm túc tuân thủ quy định

pháp luật ĐTM, có như vậy mới đem lại hiệu quả thực hiện ĐTM. Mọi người dân

đều nên được phổ biến về pháp luật ĐTM, đặc biệt hơn cả các chủ dự án phải thực

hiện ĐTM để nghiêm túc thực hiện ĐTM, đem lại hiểu quả bảo vệ môi trường cao.

Cần đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyền truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật ĐTM thông qua các hội nghị, hệ thống truyền thanh, hoạt động câu lạc bộ

phát luật, tọa đàm, buổi nói chuyện, hoạt cảnh tình huống, cung cấp các tin bài, cấp

phát tài liệu hỏi đáp, tờ gấp, tờ rơi, panô, áp phích, khai thác, tìm hiểu pháp luật qua

tủ sách pháp luật,…Có như vậy người dân sẽ dễ dàng tiếp cận được với pháp luật

ĐTM. Với tình trạng ô nhiễm môi trường phổ biến và nghiêm trọng như hiện nay

người dân về cơ bản đã có xu hướng quan tâm hơn tới ĐTM và tới pháp luật ĐTM.

Nhà nước cần tận dụng tình trạng này để phổ biến, hướng dẫn người dân tham gia

đóng góp ý kiến tham vấn, ý kiến xây dựng và hoàn thiện pháp luật ĐTM. Khi hiểu

biết của cộng đồng về pháp luật ĐTM được nâng cao sẽ kéo theo đó là việc thực thi 69

pháp luật ĐTM hiệu quả hơn, chủ dự án phải nghiêm túc thực hiện ĐTM, các cơ

quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khi chịu sự giám sát của người dân có trình

độ pháp luật cao sẽ buộc phải nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thực hiện hết trách

nhiệm của mình và không ngừng nâng cao trình độ của mình. Từ đó, việc thực thi

pháp luật ĐTM của toàn xã hội sẽ đạt được hiệu quả tối đa.

3.3.2. Nâng cao năng lực chuyên môn của các chủ thể thực hiện đánh

giá tác động môi trường

Năng lực chuyên môn của chủ thể thực hiện ĐTM bao gồm: năng lực lập báo

cáo ĐTM, năng lực tham vấn, năng lực thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM, năng

lực giám sát, xử lý vi phạm pháp luật ĐTM. Khi năng lực chuyên môn của các chủ

thể đều được nâng cao, đảm bảo các tiêu chí nhất định sẽ đem lại hiệu quả thực thi

pháp luật ĐTM, hiệu quả bảo vệ môi trường được nâng cao.

Bộ TN&MT cần sớm ban hành thông tư hướng dẫn về việc cấp chứng chỉ đủ

điều kiện thực hiện ĐTM. Cần ban hành quy định rõ ràng về tiêu chí, yêu cầu đối

với người lập báo cáo ĐTM và những cá nhân có thẩm quyền quản lý nhà nước về

môi trường. Cần cụ thể hoá các quy định về điều kiện chuyên môn, cơ sở vật chất,

trang thiết bị đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ lập báo cáo ĐTM nhằm đảm bảo

năng lực cung cấp dịch vụ của các tổ chức tư vấp lập báo cáo ĐTM, góp phần

chuyên môn hoá công tác lập báo cáo ĐTM và đảm bảo chất lượng của công tác

ĐTM trên thực tế.Cần tích cực tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ thẩm định báo

cáo ĐTM cho các cán bộ, cá nhân tham gia quản lý nhà nước về môi trường. Việc

này sẽ góp phần nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, phê duyệt và cả giai

đoạn hậu kiểm sau khi báo cáo ĐTM đã được phê duyệt.

Năng lực chuyên môn của chủ thể thực hiện ĐTM là các yếu tố quyết định

tới chất lượng của hoạt động ĐTM. Khi con người có khả năng, có kiến thức

chuyên môn thì pháp luật mới được áp dụng, thi hành một cách hiệu quả. Chính vi

vậy, nâng cao năng lực chuyên môn là yêu cầu, nhiệm vụ cần được Nhà nước chú

trọng đầu tư đúng mức và thường xuyên.

3.3.3. Công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường

Công khai thông tin luôn là yêu cầu được đặt ra để đảm bảo dân chủ, minh

bạch. Báo cáo ĐTM phải được công khai tới mọi người dân, trừ những báo cáo có

liên quan đến bí mật quốc gia. Khi báo cáo ĐTM được công khai, các cá nhân, tổ

70

chức, cơ quan quan tâm có điều kiện được tiếp cận, nghiên cứu, đưa ra những đánh

giá, nhận xét, góp ý sẽ góp phần hoàn thiện báo cáo ĐTM, sẽ đưa ra được những

vấn đề môi trường chịu tác động một cách rộng hơn, đầy đủ hơn và từ đó những

biện pháp phòng ngừa, khắc phục cũng đầy đủ hơn, hiệu quả hơn.

Ở các nước khác, việc tiếp cận các báo cáo ĐTM là rất dễ dàng. Chẳng hạn

như ở Mỹ, bất kể người dân Mỹ nào cũng có thể truy cập địa chỉ

https://www.epa.gov/nepa để tra cứu và góp ý đối với tất cả báo cáo ĐTM được

thực hiện trên lãnh thổ quốc gia này. Vì lẽ đó mà các cơ quan nhà nước không thể

làm ngơ, làm ẩu đối với các vấn đề môi trường, người dân sẽ giám sát tất cả.

Còn ở Việt Nam hiện nay, báo cáo ĐTM chỉ được chia sẻ cho cán bộ cơ quan

Nhà nước, người dân rất khó khăn trong việc tiếp cận. Trong khi những báo cáo

ĐTM hầu hết đã được scan và upload dưới dạng bản mềm. Vậy thì việc tải các báo

cáo ĐTM này lên trang cơ sở dữ liệu để người dân được tiếp cận là tương đối thuận

lợi, vậy tại sao lại không thực hiện.

Với báo cáo ĐTM chưa được phê duyệt chuẩn bị thực hiện tham vấn, pháp

luật ĐTM cần quy định công khai các báo cáo này và lấy ý kiến của cá nhân, tổ

chức, cơ quan quan tâm thông qua mạng Internet, góp phần nâng cao chất lượng

thẩm định báo cáo ĐTM. Báo cáo ĐTM đã được phê duyệt cùng tất cả các hồ sơ

của chủ đầu tư và của cơ quan thẩm định phải được lưu trữ và công bố công khai để

mọi người dân đều dễ dàng tiếp cận. Việc công khai có thể thực hiện trên nhiều

kênh khác nhau: qua Internet là quan trọng nhất với phạm vi công khai rộng nhất,

ngoài ra có thể qua văn bản niêm yết tại trụ sở UBND các cấp để người dân có thể

tiếp cận trực tiếp. Pháp luật ĐTM cũng cần phải quy định rõ chế tài xử phạt với

hành vi không công khai báo cáo ĐTM, công khai không đầy đủ báo cáo ĐTM.

Công khai báo cáo ĐTM của từng dự án sẽ giúp cho người dân, các cơ quan,

tổ chức quan tâm có điều kiện theo dõi, giám sát môi trường sẽ nâng cao chất lượng

tham vấn, kiểm tra, giám sát sau khi báo cáo ĐTM đã được phê duyệt. Đồng thời,

việc công khai báo cáo cũng sẽ gia tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan hữu

quan, tăng cường chất lượng báo cáo và công tác thẩm định báo cáo ĐTM, khiến

các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền nâng cao năng lực, trách nhiệm thực hiện

nhiệm vụ của mình, hạn chế sai xót, thiếu trách nhiệm trong quá trình thẩm định,

phê duyệt báo cáo ĐTM.

71

3.3.4. Tăng mức xử phạt vi phạm pháp luật ĐTM

Hệ thống pháp luật về ĐTM hiện nay đã tương đối đầy đủ tuy nhiên thực tiễn

áp dụng các quy định này lại chưa thực sự tốt. Các vi phạm pháp luật ĐTM diễn ra

ngày càng nhiều và để lại hậu quả rất nghiêm trọng cho môi trường. Để các cá nhân,

tổ chức có ý thức chấp hành nghiêm Luật Bảo vệ Môi trường thì việc quy định chế

tài xử phạt đủ mạnh, đủ sức răn đe là hết sức cần thiết. Cơ chế xử phạt hành vi vi

phạm pháp luật về ĐTM hiện nay còn rất nhẹ và chưa đủ răn đe, đây là một trong

những vấn đề chính khiến nhiều doanh nghiệp chưa mặn mà trong việc đầu tư xử lý

môi trường một cách nghiêm túc. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật

ĐTM cần quy định mức xử phạt với hành vi vi phạm quy định về ĐTM nặng hơn

hiện nay.

Pháp luật cần quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với các vi phạm pháp

luật việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện báo cáo ĐTM để đảm bảo tính răn

đe đối với hành vi vi phạm, bổ sung chế tài đình chỉ dự án và yêu cầu khôi phục

hiện trạng để tránh tình trạng có những chủ thể cố tình không lập báo cáo ĐTM

nhưng vẫn triển khai dự án gây ra những hậu quả môi trường không thể khắc phục

được. Hiện nay quy định xử phạt hành chính với cá nhân vi phạm pháp luật ĐTM

tối đa là 200.000.000 VNĐ và tổ chức vi phạm là 400.000.000, mức xử lý như vậy

còn quá thấp. So với vốn đầu tư của dự án, so với lợi ích kinh tế mà dự án đem lại

thì mức xử phạt như vậy còn quá thấp, khiến chủ dự án chấp nhận vi phạm chứ

không thực hiện nghiêm túc các quy định về ĐTM. Chế tài xử phạt hình sự mới

thực sự mang tính răn đe, trừng trị, khiến các chủ dự án phải dè chừng thì việc cấu

thành tội phạm môi trường lại khó khăn, nên tình trạng xử lý hình sự với hành vi vi

phạm pháp luật môi trường gây hậu quả nghiêm trọng còn rất ít. Với hành vi vi

phạm pháp luật ĐTM thì việc xử lý trách nhiệm hình sự càng khó khăn hơn, Bộ luật

Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 không quy định tội danh cho hành vi

vi phạm pháp luật về ĐTM, mà chỉ quy định tội danh cho các hành vi như xả thải,

hủy hoại môi trường,… nên về cơ bản xử phạt hình sự đối với vi phạm pháp luật

ĐTM là không có. Như vậy, cần phải nâng cao mức phạt vi phạm hành chính lên

nhiều lần để mang hiệu quả răn đe hơn, có thể quy định thêm hình thức xử phạt

buộc tạm dừng hoạt động có thời hạn, hoặc đình chỉ dự án.

72

KẾT LUẬN

Hiện nay, môi trường là vấn đề nhận được sự quan tâm hàng đầu và cũng là

thách thức lớn đặt ra với toàn cầu. Bảo vệ môi trường là nghĩa vụ, trách nhiệm của

mọi quốc gia trên thế giới. Con người cần có ý thức, trách nhiệm với chính bản thân

mình và với toàn thế giới về việc thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường, tìm

cách ngăn chặn, hạn chế và khắc phục các tác động xấu tới môi trường. Thực hiện

tốt đánh giá tác động môi trường chính là một trong những biện pháp góp phần giải

quyết triệt để vấn đề này. ĐTM đã và đang ngày càng cho thấy vai trò của mình

trong việc hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực trong hoạt động phát triển kinh tế - xã

hội của con người tới môi trường tự nhiên; là công cụ quản lý môi trường hữu hiệu

trong thời đại hội nhập khi mà các quốc gia đang rất chú trọng hoạt động thu hút

đầu tư. ĐTM cho thấy rõ vai trò hạn chế các tác nhân ô nhiễm môi trường ngay từ

khi mọi thứ mới chỉ trong giai đoạn chuẩn bị, chưa hình thành, điều này mang tính

chất phòng ngừa cao, giải quyết vấn đề từ gốc; và ĐTM vẫn theo sát quá trình

chuẩn bị vận hành dự án, đảm bảo chủ dự án thực hiện các biện pháp, công trình

bảo vệ môi trường như đã cam kết. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy các chủ

dự án vẫn chỉ coi ĐTM là một thủ tục để được cấp phép đầu tư dự án, chứ chưa

thực sự quan tâm đến vai trò bảo vệ môi trường của ĐTM. Dẫn tới, việc lập báo cáo

ĐTM chỉ mang tính hình thức, thủ tục qua mặt cơ quan quản lý, chứ không mang

tính thực chất, không đem lại hiệu quả môi trường như đúng yêu cầu của

ĐTM.Pháp luật về ĐTM hiện còn một số điểm bất cấp, gây hạn chế trong quá trình

áp dụng, thi hành pháp luật. Một bộ phận những người thi hành pháp luật ĐTM còn

hạn chế về năng lực, thiếu trách nhiệm nên đã để xảy ra những vi phạm gây thiệt hại

nặng nề đối với môi trường. Tiêu biểu là Sự cố cá chết hàng loạt ở các tỉnh miền

Trung, mà thủ phạm là Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa. Formosa với hàng

loạt các sai phạm như xả thải, vận hành công nghệ,… không đúng với báo cáo

ĐTM. Sai phạm của vụ việc còn nằm ở các nhà chức trách có thẩm quyền phê

duyệt, thẩm định báo cáo ĐTM, các cơ quan có trách nhiệm trong việc kiểm tra,

giám sát thực hiện báo cáo ĐTM cũng như việc bảo đảm công tác bảo vệ môi

trường. Điều đó, cho thấy cơ chế quản lý các vấn đề môi trường còn kém, thiếu

minh bạch, thiếu tính khả thi, chưa đảm bảo sự răn đe của pháp luật. Do đó, vấn đề

73

bảo vệ môi trường nói chung và đánh giá tác động môi trường nói riêng cần phải

được quan tâm, chú trọng hơn để có thể hoàn thiện, thắt chặt hệ thống pháp luật,

đảm bảo sự nghiêm minh, thiết thực, vai trò quản lý quan trọng trong đối với các

vấn đề môi trường.

Trong phần nội dung của Khóa luận, tác giả đã đưa ra được những lý luận cơ

bản về ĐTM, tác giả cũng phân tích, đánh giá sơ lược thực trạng pháp luật về ĐTM

ở Việt Nam, tình hình công tác quản lý nhà nước về ĐTM, thực tiễn áp dụng các

văn bản quy phạm pháp luật về ĐTM. Đồng thời, tác giả cũng phân tích đánh giá

những thành tựu và hạn chế của các văn bản này, từ đó đưa ra một số kiến nghị

nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐTM ở Việt Nam.

Khóa luận này được hoàn thành với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, dưới sự

hướng dẫn tận tình và có hiệu quả của Tiến sĩ Lê Kim Nguyệt. Tác giả hy vọng rằng

Khóa luận góp phần nhỏ vào tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến pháp

luật về đánh giá tác động môi trường.

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Bích Diệp (2016), Bài học Formosa và yếu tố “không khả thi” khi đánh giá tác

động môi trường, Báo điện tử Dân trí, http://dantri.com.vn/kinh-doanh/bai-

hoc-formosa-va-yeu-to-khong-kha-thi-khi-danh-gia-tac-dong-moi-truong-

2016081116413129.htm.

2. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 02/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 02

tháng 01 năm 2014 hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định

của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội.

3. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 195/2016/TT-BTC ngày 08 tháng 11 năm

2016 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định báo

cáo đánh giá tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường chi tiết do cơ

quan trung ương thực hiện thẩm định, Hà Nội.

4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày

29 tháng 05 năm 2015 quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá

tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, Hà Nội.

5. Chí Nhân – Lê Quân (2016), Báo cáo môi trường…có cũng như không, Báo

Thanh niên, https://m.thanhnien.vn/thoi-su/bao-cao-moi-truong-co-cung-nhu-

khong-727621.html.

6. Chính phủ (2015), Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015

quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược,

đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, Hà Nội.

7. Chính phủ (2016), Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016

của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ

môi trường, Hà Nội.

8. Chu Mạnh Hùng (2010), Sự ra đời của việc đánh giá tác động môi trường ở

một số quốc gia, Con đường xanh số t2/2010.

9. Chung Hoàng - Thu Hằng - Hồng Nhì (2016), Formosa làm cá chết, bồi

thường 500 triệu USD, Báo điện tử Vietnamnet,

http://amp.vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/formosa-lam-ca-chet-boi-

thuong-500-trieu-usd-313134.html.

75

10. Danh Toại (2016), Formosa xả thải ra biển, Báo Thanh niên, diễn đàn Hội liên

hiệp Thanh niên Việt Nam, https://thanhnien.vn/thoi-su/formosa-xa-thai-ra-

bien-695002.html.

11. Khánh An (2016), Quyết liệt căn chỉnh hệ thống pháp luật về bảo vệ môi

trường!, Báo Môi trường 24h – Diễn đàn của Trung ương Hội bảo vệ môi

trường và thiên nhiên Việt Nam.

12. Khương Trung (2017), Bộ trưởng Trần Hồng Hà họp Hội đồng liên ngành

giám sát việc khắc phục vi phạm của Formosa, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

13. Lê Thanh Tùng (2013), Pháp luật về đánh giá tác động môi trường trong hoạt

động đầu tư ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật (ĐHQGHN), Hà Nội.

14. N.Hằng (2017), Sự cố môi trường Formosa – một năm nhìn lại, Tạp chí môi

trường số 5/2017.

15. Nguyễn Đức Tùng, Phó Viện trưởng Viện Môi trường và Phát triển bền vững

(2013), Tham vấn cộng đồng trong ĐTM chưa đi vào thực chất, Hội bảo vệ

thiên nhiên và môi trường Việt Nam (VACNE).

16. Nguyễn Hoàng Phượng, Trần Thanh Thủy, Nguyễn Việt Dũng (2013), Đánh

giá tác động môi trường ở Việt Nam: Cải cách chính sách để góp phần giảm

xung đột và tranh chấp môi trường, Trung tâm Con người và Thiên nhiên, Hà

Nội.

17. Nguyễn Minh Đức – VCCI (2014), Hoàn thiện pháp luật về ĐTM, ĐMC của

Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm luật pháp Trung Quốc, Trung tâm Con người và

Thiên nhiên.

18. Nguyễn Thị Hải Yến (2017), Xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi

trường Công ty TNHH Khải Thần Việt Nam, Trang Thông tin điện tử Sở Tài

nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Giang,

http://tnmtbacgiang.gov.vn/index.php/vi/news/Xu-Phat-Hanh-Chinh/Xu-phat-

vi-pham-hanh-chinh-ve-bao-ve-moi-truong-Cong-ty-TNHH-Khai-Than-Viet-

Nam-901/.

19. P.Thảo (2017), Ban Bí thư cách chức ông Võ Kim Cự, cảnh cáo ông Nguyễn

Minh Quang, Báo điện tử Dân trí.

76

20. PGS.TS Đặng Văn Minh chủ biên (2013) – Trường Đại học Nông lâm Thái

Nguyên, Giáo trình đánh giá tác động môi trường, NXB Nông nghiệp, Hà

Nội.

21. PGS.TS Lê Trình (2014), Công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá

tác động môi trường ở các quốc gia Ðông Bắc Á và khuyến nghị cho Việt

Nam, Tạp chí môi trường số 3/2014.

22. Phạm Ngọc Hồ - Hoàng Xuân Cơ (2001), Giáo trình Đánh giá tác động môi

trường, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.

23. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày 23 tháng 06

năm 2014, Hà Nội.

24. Tổng cục Môi trường(2012), Việt Nam: Học tập kinh nghiệm lập báo cáo

đánh giá tác động môi trường dự án nhà máy điện hạt nhân, Cổng thông tin

điện tử Tổng cục Môi trường.

25. Tổng cục Môi trường (2012), Việt Nam: Học tập kinh nghiệm lập báo cáo

đánh giá tác động môi trường dự án nhà máy điện hạt nhân, Cổng thông tin

điện tử Tổng cục Môi trường,

http://vea.gov.vn/vn/tintuc/tintuchangngay/Pages/H%E1%BB%8Dc-

t%E1%BA%ADp-kinh-nghi%E1%BB%87m-l%E1%BA%ADp-b%C3%A1o-

c%C3%A1o-%C4%91%C3%A1nh-gi%C3%A1-t%C3%A1c-

%C4%91%E1%BB%99ng-m%C3%B4i-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-

d%E1%BB%B1-%C3%A1n-nh%C3%A0-m%C3%A1y-

%C4%91i%E1%BB%87n-h%E1%BA%A1t-nh%C3%A2n-.aspx.

26. Trần Tân (2017), Không có báo cáo đánh giá tác động môi trường, chủ đầu tư

bị phạt 400 triệu đồng, Tạp chí Môi trường số 8/2017.

27. Trung tâm Con người và Thiên nhiên (2009), Đánh giá tác động môi trường ở

Việt Nam: Từ pháp luật đến thực tiễn, Hà Nội.

28. TS. Mai Thế Toản (2016), Thực trạng và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện

hệ thống đánh giá tác động môi trường trong quá trình xét duyệt dự án đầu tư,

Tạp chí Môi trường số 8/2016.

29. TS.Nguyễn Khắc Kinh (2015), Giới thiệu tổng quan về đánh giá tác động môi

trường, Trung tâm Con người và Thiên nhiên.

77

30. Vũ Hạnh (2016), Formosa thừa nhận làm cá chết ở miền Trung như thế nào?,

Báo điện tử VOV, https://m.vov.vn/xa-hoi/formosa-thua-nhan-lam-ca-chet-o-

mien-trung-nhu-the-nao-525803.vov.

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

31. Alix Adams (2010), Law for Business Students, 6th ed. London: Pearson.

32. Environmental Impact Assessment Division - Environmental Policy Bureau

(2005), Environmental impact assessment in Japan, Ministry of the

Environment.

78