ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------
TRẦN HUYỀN TRANG
PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ LIÊN
HỆ THỰC TẾ TỚI SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG FORMOSA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L
HÀ NỘI, 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------
TRẦN HUYỀN TRANG
PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ LIÊN
HỆ THỰC TẾ TỚI SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG FORMOSA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
Tiến sĩ Lê Kim Nguyệt
Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Huyền Trang
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................... 1
2.Tình hình nghiên cứu ............................................................................................... 2
3.Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 3
4.Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................. 3
5.Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 4
6.Bố cục ....................................................................................................................... 4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ
TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG ............................................................................................... 5
1.1. Sự ra đời và phát triển của đánh giá tác động môi trường trên thế giới và ở
Việt Nam ..................................................................................................................... 5
1.2. Khái niệm đánh giá tác động môi trường ......................................................... 6
1.3. Khái niệm pháp luật đánh giá tác động môi trường .......................................... 9
1.4. Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của một số quốc gia trên thế giới
và gợi mở cho Việt Nam ........................................................................................... 12
1.4.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Nhật Bản ............................... 12
1.4.2. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Trung Quốc........................... 14
1.4.3. Gợi mở cho Việt Nam ........................................................................... 17
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ TỚI SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG FORMOSA
................................................................................................................................................... 19
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật đánh giá tác động môi trường
ở Việt Nam ................................................................................................................ 19
2.1.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn trước
năm 1986 ............................................................................................................ 19
2.1.2. Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn sau năm
1986 ............................................................................................................... 20
2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đánh giá tác động môi trường ................. 25
2.2.1. Đối tượng thực hiện đánh giá tác động môi trường .............................. 25
2.2.2. Quy định về lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ....................... 26
2.2.3. Thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường ............. 32
2.2.4. Các nội dung bảo vệ môi trường sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt .
............................................................................................................... 37
2.2.5. Xử lý vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam ... 41
2.3. Liên hệ tới sự cố môi trường Formosa ............................................................ 45
2.3.1. Tóm lược sự cố môi trường Formosa ................................................... 46
2.3.2. Vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường của Formosa ........... 47
2.3.3. Xử lý vi phạm trong sự cố môi trường Formosa .................................. 54
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
MÔI TRƯỜNG VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI Ở VIỆT
NAM ......................................................................................................................................... 58
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam58
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam .
......................................................................................................................... 61
3.2.1. Xây dựng và ban hành các quy định về đảm bảo chất lượng của báo
cáo đánh giá tác động môi trường ...................................................................... 61
3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về tham vấn cộng đồng ....................... 62
3.2.3. Quy định về cơ chế hậu kiểm rõ ràng, chặt chẽ .................................... 64
3.2.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm của các chủ thể tham gia
thực hiện đánh giá tác động môi trường ............................................................. 65
3.2.5. Hoàn thiện pháp luật với quy định hai bước đánh giá tác động môi
trường cho dự án đầu tư ..................................................................................... 67
3.3. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đánh giá tác động môi
trường ở Việt Nam .................................................................................................... 68
3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đánh giá tác
động môi trường ................................................................................................. 69
3.3.2. Nâng cao năng lực chuyên môn của các chủ thể thực hiện đánh giá tác
động môi trường ................................................................................................. 70
3.3.3. Công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường ................................ 70
3.3.4. Tăng mức xử phạt vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường ... 72
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 75
DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐTM : Đánh giá tác động môi trường
FDI : Vốn đầu tư nước ngoài
TN&MT : Tài nguyên và Môi trường
UBND : Ủy ban nhân dân
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường nước ta đang chịu nhiều áp lực lớn từ các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội trong nước, sức ép cạnh tranh của quá trình hội nhập quốc tế cùng
các tác động xuyên biên giới. Hàng năm, có hơn 2.000 dự án đầu tư thuộc đối tượng
phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường nếu không được đánh giá một cách
đầy đủ, toàn diện và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát hiệu quả thì sẽ
là những nguy cơ rất lớn đến môi trường.
Với quy hoạch phát triển không ngừng của các ngành trong xã hội như công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông, thủy sản, du lịch – dịch vụ, đô thị hóa,… nhằm
đáp ứng nhu cầu con người theo sự giao tăng dân số mà không chú ý đúng mực đến
công tác bảo vệ môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, suy giảm tài
nguyên sinh vật, thay đổi khí hậu toàn cầu,… ngày càng nghiêm trọng. Để quản lý
môi trường được chặt chẽ hơn, ĐTM đã được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật ở
nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, ĐTM cũng được đưa vào trong Luật Bảo
vệ môi trường và xem đây là một trong những nội dung cần thiết phải có trong việc
xem xét phê duyệt cho phép dự án thực thi. Đây không những là công cụ quản lý
môi trường mà còn là một nội dung giúp quy hoạch dự án thân thiện với môi trường
và là một phần của chu trình dự án. ĐTM được kỳ vọng là công cụ hiệu quả để hạn
chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực mà con người gây ra cho môi trường.
Tuy nhiên, ĐTM đối với Việt Nam vẫn còn chưa thật sự đem lại hiệu quả
như đúng bản chất của nó. Các vấn đề môi trường ở Việt Nam hiện vẫn đang rất
đáng báo động. Pháp luật ĐTM được áp dụng vào thực tiễn chưa cao, chưa thật sự
hiệu quả. Tình trạng các dự án không thực hiện ĐTM hay thực hiện không đúng với
ĐTM đã được phê duyệt còn rất phổ biến. Nhận thức về ĐTM đối với các chủ dự án
còn yếu, họ vẫn coi thường vai trò của ĐTM, chỉ chú trọng đến lợi ích kinh tế mà
không màng đến vấn đề môi trường, đến việc đảm bảo sự phát triển bền vững. Hạn
chế còn ở các những người mang vai trò quản lý, thẩm định, phê duyệt báo cáo
ĐTM, một bộ phận có trình độ chuyên môn hay ý thức, trách nhiệm với nhiệm vụ
của mình chưa cao. Sự cố môi trường Formosa là một vụ việc điển hình về môi
trường của Việt Nam từ năm 2016, nhưng đến nay vẫn được coi là vụ việc nổi cộm
1
và nhận được sự quan tâm rất lớn của mọi người dân. Formosa gây thiệt hại nghiêm
trọng với môi trường biển, môi trường đất,… gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh
hưởng lớn đến đời sống của người dân tại các tỉnh miền Trung. Hiện nay, sự cố cá
chết hàng loạt ở các tỉnh miền Trung do Formosa gây ra về cơ bản đã được giải
quyết.Formosa cùng các cơ quan nhà nước đã tích cực khắc phục sự cố với kết quả
là các vấn đề trước mắt như đời sống người dân đã ổn định trở lại, môi trường phần
nào được khôi phục. Tuy nhiên, còn những tác hại lâu dài đối với môi trường biển
thì vẫn cần phải tiếp tục được quan tâm, giải quyết trong cả quá trình về sau.
Formosa gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho môi trường do nhiều nguyên nhân
và có lẽ ngay từ giai đoạn cấp phép đầu tư đã khiến nhiều người nghi ngờ, rồi trong
cả quá trình lên kế hoạch, triển khai, vận hành đều có nhiều điểm nghi vấn. Trong
phạm vi Khóa luận tốt nghiệp tác giả sẽ tập trung làm rõ những vi phạm trong hoạt
động ĐTM của Formosa. Theo tác giả, ĐTM chính là cơ chế quan trọng nhất để
quản lý vấn đề môi trường mà dự án Formosa tác động tới.
Như vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và tìm hiểu
thực tiễn áp dụng pháp luật về ĐTM ở Việt Nam; cùngcác vi phạm trong ĐTM của
sự cố môi trường tại các tỉnh miền Trung do Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa
Hà Tĩnh gây ra; từ đó, tìm ra đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật và một số
biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về ĐTM ở Việt Nam, góp phần vào
việc tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước về môi trường là lý do luận
chứng cho việc tôi quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về đánh giá tác động
môi trường và liên hệ thực tế tới sự cố môi trường Formosa” làm Khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
ĐTM là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các chuyên gia, nhà nghiên
cứu. Tính tới thời điểm hiện tại, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về pháp
luật ĐTM tại Việt Nam, chủ yếu là thời kỳ Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 còn
hiệu lực và mới chỉ có một số ít các bài nghiên cứu theo luật Bảo vệ môi trường
hiện hành. Tuy vậy, các công trình nghiên cứuđó đều chứa đựng những vấn đề bản
chất và lý luận có giá trị khoa học pháp lý cao nên vẫn là một trong những công cụ
hữu hiệu để tìm hiểu, nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật ĐTM ở Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu về đánh giá tác động môi trường được thực hiện
2
tại Việt Nam, tiêu biểu như: Lê Sơn Hải (2000), “Những vấn đềpháp lý của việc
đánh giá tác động môi trường của các dựán đầu tư”, Luận án Tiến sĩ; Phạm Hữu
Nghị (2000), “Những vấn đề đặt ra với pháp luật về đánh giá tác động môi trường
và các giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, số 5/2000; Phạm Ngọc Hồ - Hoàng
Xuân Cơ (2001), “Đánh giá tác động môi trường”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia
Hà Nội; Vũ Duyên Thủy (2003), “Bàn về hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác
động môi trường”, Tạp chí Luật học, số 2/2003; Lê Hồng (2004), “Thực trạng và
phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về đánh giá tác động
môi trường”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội; Trần Thị Quang
Hồng, Trường Hồng Quang (2011), “Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động
môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Luật học, số 6/2011; Chu Thế Quyền
(2013), “Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Lê Thanh Tùng
(2013), “Pháp luật về đánh giá tác động môi trường trong hoạt động đầu tư ở Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;…Một số
các công trình khoa học mới có nghiên cứu đến pháp luật ĐTM ở Việt Nam như: Lê
Kim Nguyệt (2018), “Pháp luật môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa
học Xã hội Việt Nam số 3-2018; PGS.TS Lê Trình (2015), “Tài liệu đào tạo về
Đánh giá tác động môi trường và xã hội”, Ngân hàng Thế giới.
Bên cạnh đó, còn khá nhiều bài đăng trên các tạp chí điện tử, những tiểu luận
sinh viên,… nghiên cứu và đề cập tới vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Khái lược các vấn đề liên quan đến ĐTM; thực trạng áp dụng pháp luật ĐTM
ở Việt Nam hiện nay; phân tích, đánh giá sai phạm liên quan đến ĐTM trong sự cố
môi trường Formosa; từ đó đưa ra đề xuất, quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật
ĐTM ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 và một số văn bản dưới luật điều chỉnh hoạt động ĐTM ở Việt
Nam hiện nay. Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo nội dung các quy định pháp luật
khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam hay các bải nghiên cứu, đánh giá của các
chuyên gia trong lĩnh vực môi trường liên quan đến ĐTM.
3
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
phương pháp so sánh pháp luật, hệ thống, phân tích, tổng hợp, mô hình hoá và tham
khảo những báo cáo tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các kết quả của các cơ quan quản lý nhà nước về
môi trường và hoạt động đầu tư (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư), các chuyên gia độc lập,…
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài được kết cấu gồm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật đánh giá tác động môi
trường;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt
Nam và liên hệ tới sự cố môi trường Formosa;
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trườngvà
Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi ở Việt Nam.
4
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ TÁC
ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1.1. Sự ra đời và phát triển của đánh giá tác động môi trường trên thế giới
và ở Việt Nam
Đánh giá tác động môi trường đã được hình thành từ rất lâu trên thế giới, bắt
đầu từ nhận thức của con người về vai trò của môi trường, tác hại của ô nhiễm môi
trường và khởi đầu là ở Hoa Kỳ từ những năm 60 của thế kỷ XX. Con người dần
quan tâm đến tác hại của các dự án, công trình đến môi trường, từ đó, yêu cầu đặt ra
là cần phải có một quá trình nghiên cứu để đưa ra các dự báo, đánh giá về tác động
tích cực và tiêu cực của một hoạt động nào đó đến môi trường, kèm theo đó là
phương án, biện pháp để duy trì, phát triển các tác động tích cực và phòng ngừa,
hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình triển khai, thực hiện hoạt động, dự án.
Và đến năm 1969 dưới thời Tổng thống Richard Nixon, ĐTM đã chính thức được
đưa vào Pháp luật môi trường của Hoa Kỳ, cụ thể là trong Đạo luật Chính sách môi
trường quốc gia (NEPA) - Chính sách quy định chính quyền liên bang phải tổ chức
nghiên cứu các tác động đến môi trường ở mức dài hạn khi họ muốn tu chỉnh hay
cho phép xây dựng một công trình nào đó. Có thể nói đây là một bước tiến quan
trọng đánh dấu tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường của Hoa Kỳ cũng như
toàn thế giới. Từ đây, công tác ĐTM dần lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, các
quốc gia nhận thức được các vấn đề môi trường và vai trò của ĐTM trong hoạt
động phát triển bền vững của mình.
Như vậy, với sự ra đời của Đạo luật Chính sách môi trường của Hoa Kỳ, mục
tiêu, ý nghĩa, thủ tục thi hànhĐTM đã được xác định bằng văn bản. Hệ thống pháp
lý cùng với các cơ quan quản lý, điều hành được ban hành và thành lập đảm bảo
cho việc thực hiện ĐTM nhanh chóng đi vào nề nếp[22, Tr.22].
Tiếp sau đó là hàng loạt các quốc gia khác như Nhật Bản, Hồng Kông,
Singapore,…. đã yêu cầu các dự án cần thực hiện đánh ĐTM trước khi triển khai
thực hiên dự án.
Cho đến hiện tại, hầu hết các nước phát triển và đang phát triển đã áp dụng
hoạt độngĐTM. Việt Nam cũng đã bắt đầu được tiếp cận ĐTM vào năm 1985 chính
5
thức quy định về ĐTM trong Luật Bảo vệ môi trường năm 1993. Bên cạnh đó, các
thể chế - tổ chức quốc tế cũng rất quan tâm đến công tác ĐTM, như: Chương trình
môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Chương trình phát triển Liên hợp quốc
(UNDP), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Cơ quan
phát triển quốc tế của Mỹ (USAID), Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA), Cơ
quân phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), Cơ quan phát triển quốc tế Nhật Bản
(JICA),…[29, tr.3]
Tại Việt Nam, ĐTM được biết đến vào những năm 80 của thế kỉ trước thông
qua các hội thảo khoa học và các khóa học. Sớm nhận thức được vấn đề môi trường,
Nhà nước ta thời kỳ đó đã rất khuyến khích, tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tiếp cận vấn đề ĐTM. Tiêu biểu là một nhóm các nhà khoa học Việt Nam
đã trực tiếp đến Mỹ để nghiên cứu về luật, chính sách môi trường và cụ thể là về
Đánh giá tác động môi trường. Trong giai đoạn 1987 – 1990, Nhà nước đã đầu tư
vào chương trình điều tra cơ bản và được xem như công tác kiểm tra hiện trạng môi
trường. Đó là các chương trình điều tra vùng Tây Nguyên, vùng ĐBSCL, Quảng
Ninh,…Sau năm 1990, mặc dù Luật Môi trường Việt Nam chưa thiết lập thì Nhà
nước đã yêu cầu một số dự án phải có báo cáo ĐTM như: Công trình xây dựng Nhà
máy Giấy Bãi Bằng, công trình Thuỷ lợi Thạch Nham, công trình Thuỷ điện Trị An,
Nhà máy lọc dầu Thành Tuy Hạ. Một số tổ chức quản lý Nhà nước như Cục Môi
trường, Sở Khoa học Công Nghệ và Môi trường, các trung tâm, Viện Môi trường
cũng đã được tập huấn công tác tư vấn cho lập báo cáo ĐTM và tổ chức thẩm định
các báo cáo ĐTM. Và đến năm 1993 Việt Nam chính thức đưa các quy định về
đánh giá tác động môi trường vào Luật Bảo vệ môi trường.
Có thể thấy rằng ĐTM từ lâu đã được con người quan tâm, chú trọng tới như
là một trong những điều kiện tiên quyết để hạn chế tối đa tác động xấu tới môi
trường khi thực hiện các dự án, hoạt động phát triển kinh tế. Để từ đó, nhiều quốc
gia trên thế giới đều đã đưa ĐTM vào hệ thống pháp luật quốc gia, trở thành một
giai đoạn, thủ tục phổ biến, được ứng dụng rộng rãi để góp phần thiết thực bảo vệ
môi trường của mỗi quốc gia và rộng hơn là cho toàn cầu.
1.2. Khái niệm đánh giá tác động môi trường
Đánh giá tác động môi trường – tiếng Anh là Environment Impact
Assessment (EIA) là một hoạt động phổ biến ở hầu hết các quốc gia. Mỗi quốc gia,
6
tổ chức lại đưa ra một định nghĩa về ĐTM khác nhau. Những định nghĩa này tuy có
nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau nhưng đều nêu lên điểm căn bản của ĐTM
là đánh giá, dự báo các tác động của dự án tới môi trường và đề xuất các biện pháp
giảm thiểu các tác động tiêu cực chủ yếu của dự án. Một số định nghĩa tiêu biểu
vềĐTM như:
Thứ nhất, Theo Tổ chức Kinh tế Xã hội châu Á – Thái Bình Dương
(ESCAP) thì: “ĐTM bao gồm ba thành phần: Xác định, dự báo và đánh giá tác động
của một dự án, một chính sách đến môi trường”.
Thứ hai, Tổ chức quốc tế về Đánh giá tác động môi trường (IAIA) đưa ra
định nghĩa về việc ĐTM gồm các công việc như “xác định, dự đoán, đánh giá và
giảm thiểu các ảnh hưởng của việc phát triển dự án đến các yếu tố sinh học, xã hội
và các yếu tố liên quan khác trước khi đưa ra quyết định quan trọng và thực hiện
những cam kết”;
Thứ ba, Theo GS.Lê Thạc Cán (1994) – một trong những người đầu tiên
nghiên cứu chuyên sâu về ĐTM ở Việt Nam khái lược rằng: “ĐTM của một hoạt
động phát triển kinh tế xã hội là xác định, phân tích, dự báo những tác động lợi và
hại, trước mắt và lâu dài của việc thực hiện hoạt động đó đối với tài nguyên thiên
nhiên và chất lượng môi trường sống của con người. Trên cơ sở đó đề xuất các biện
pháp phòng tránh, khắc phục hoặc làm giảm nhẹ các tác động tiêu cực của dự án đối
với môi trường”.
Thứ tư, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đưa ra định nghĩa
ĐTM như sau: “Đánh giá tác động môi trường là một quá trình nghiên cứu được sử
dụng để dự báo những hiệu quả môi trường của một dự án phát triển quan trọng dự
kiến sẽ thực hiện trên thực tế”.
Và theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam: “Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo tác động
đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi
triển khai dự án đó”.
ĐTM là một quá trình, trong đó người thực hiện phải tiến hành nghiên cứu,
dự báo, đánh giá các ảnh hưởng, tác động của dự án đó đến môi trường, để từ đó
đưa ra những biện pháp, phương án nhằm hạn chế, giảm thiểu tối đa các ảnh hưởng
xấu đến môi trường; đề xuất những ý kiến, lựa chọn tối ưu để dự án có thể phê
7
duyệt, được triển khai mà không gây ra những áp lực, hậu quả nghiêm trọng cho
môi trường.
Bất kỳ một hoạt động phát triển nào của con người cũng có thể gây những
ảnh hưởng lớn hay nhỏ đến môi trường. Vì thế, những ảnh hưởng này cần phải được
quan tâm, chú trọng, định hướng ngay từ đầu. Tác động tới môi trường chính là vấn
đề cốt lõi mà người quyết định cấp phép hoạt động dự án, chủ đầu tư dự án cần
quan tâm. Điều quan trọng để dự án được triển khai, hoạt động, đó là ảnh hưởng
gây ra cho môi trường là không quá nghiêm trọng, không vượt mức cho phép, phải
đảm bảo có thể khắc phục, hạn chế ảnh hưởng đó. Một dự án dù đem lại hiệu quả
kinh tế cao nhưng tác động tiêu cực tới môi trường là rất nghiêm trọng thì sẽ không
thể được phê duyệt cho triển khai. Bởi môi trường là một yếu tố cực quan trọng, là
một yếu tố thuộc về tự nhiên, khó có thể phục hồi, những hậu quả gây ra với môi
trường cũng sẽ tác động xấu tới sự sống của con người và các sinh vật khác. ĐTM
là một công cụ giúp phòng ngừa và ngăn chặn những ảnh hưởng xấu tới môi trường
và đây là công cụ lồng ghép trong quá trình kế hoạch hoá về môi trường. Thực hiện
ĐTM là cần phải xem xét tất cả những ảnh hưởng đối với sức khoẻ con người, hệ
sinh thái (bao gồm thực vật và động vật), khí hậu và khí quyển. Hoạt động ĐTM
phải đảm bảo rằng tất cả những hậu quả tới môi trường cần phải được xem xét trong
suốt quá trình thiết kế, thực hiện và vận hành của dự án. Vì thế ĐTM như một công
cụ để làm rào chắn, chọn lọc những dự án đủ tiêu chuẩn, dự án an toàn được phép
triển khai hoạt động, cũng như một bản cam kết tuân thủ công tác bảo vệ môi
trường khi dự án được đưa vào hoạt động.
Chủ dự án có nghĩa vụ thực hiện quá trình nghiên cứu, đánh giá khả năng tác
động đến môi trường của dự án để đề xuất giải pháp giảm thiểu các tác động đó.
Khi chủ dự án không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ sẽ phải chịu các
chế tài xử phạt theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm ở đây không chỉ thuộc về
chủ dự án, mà là cả các cơ quan quản lý có thẩm quyền. ĐTM bản chất là nghĩa vụ
pháp lý mà các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường đặt ra đối với dự án nhằm
bảo vệ môi trường.
ĐTM được đặt ra nhằm đảm bảo cân đối giữa sự phát triển kinh tế - xã hội
với việc bảo vệ môi trường, mục đích lớn nhất là tạo ra sự phát triển bền vững. Cụ
thể: (1) ĐTM cung cấp một quy trình xem xét tất cả các tác động đến môi trường
8
của các dự án; tạo ra một lưới lọc các dự án đủ tiêu chuẩn; hạn chế việc quyết định
bừa bãi, thiếu khách quan trong quá trình phê duyệt dự án; (2) ĐTM khi được đưa
ra tham vấn, thẩm định là một phương thức để chủ dự án có thể nhận được những ý
kiến đóng góp cho quá trình thực hiện dự án, để khắc phục, bổ sung cho những giải
pháp mà chủ dự án đã đưa ra; (3) ĐTM góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cũng như chủ dự án trong công tác
bảo vệ môi trường, góp phần nâng cao mối quan hệ cộng đồng và đảm bảo hiệu quả
đầu tư; (4) ĐTM góp phần ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các chủ dự án, của cơ
quan quản lý nhà nước và các chủ thể khác. Trước tiên là trách nhiệm nghiên cứu,
đánh giá các tác động tới môi trường; sau là trách nhiệm thực hiệnbáo cáo ĐTM đã
được phê duyệt, và rồi có trách nhiệm theo dõi, sửa đổi báo cáo ĐTM cho phù hợp
với từng giai đoạn của dự án, nâng cao các biện pháp giảm thiểu tác động xấu đến
môi trường, cuối cùng là trách nhiệm kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện nghiêm
túc báo cáo ĐTM, bảo đảm sự an toàn của môi trường. ĐTM như một bản cam kết
của chủ dự án trong việc thực hiện những hoạt động, biện pháp đúng như những gì
đã đưa ra, từ đó làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết những
vi phạm gây ảnh hưởng xấu tới môi trường.
ĐTM với vai trò là công cụ quản lý môi trường, trọng tâm trong việc đảm
bảo sự phát triển bền vững, cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi
trường. ĐTM là cơ chế kiểm tra và giám sát quá trình triển khai, thực hiện dự án
trên khía cạnh môi trường. ĐTM là cho thấy trách nhiệm từ nhiều phía: chủ dự án,
cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực môi trường và cộng đồng tham vấn cho Báo
cáo ĐTM. ĐTM giúp cảnh báo những tác động xấu phát sinh từ dự án tới môi
trường để rồi từ đó đề ra những biện pháp hạn chế tối đa những tác động xấu đó.
Có thể thấy, ĐTM mang ý nghĩa to lớn trong việc phê duyệt dự án một cách
nhanh chóng, thuận lợi và đúng hướng mà vẫn đảm bảo lợi ích kinh tế hài hòa với vấn đề
môi trường; là bước khởi đầu cho quá trình thực hiện một dự án; là cơ sở tạo nên yếu tố
phát triển bền vững trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy mà ĐTM ngày
càng được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, nghiên cứu và phát triển.
1.3. Khái niệm pháp luật đánh giá tác động môi trường
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận, mọi người có nghĩa vụ phải tuân theo các quy tắc đó. Pháp luật có giá trị
9
ràng buộc trong phạm vi lãnh thổ và được bảo đảm thực thi bởi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền bằng việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế và chế tài [33, pg.6].
Pháp luật góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đảm bảo xã hội phát triển một
cách ổn định có kiểm soát, là công cụ của nhà nước để quản lý, duy trì trật tự xã hội.
ĐTM là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu về môi trường, để công cụ này
phát huy tác dụng cũng như được đảm bảo thực hiện đòi hỏi cần có sự điều chỉnh
của Nhà nước. Pháp luật về ĐTM ra đời với mục tiêu đó. Pháp luật ĐTM là hệ
thống các quy tắc do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nhằm quản lý các
hoạt động liên quan đến ĐTM. Pháp luật ĐTM kiểm soát tác nhân gây ô nhiễm
hoặc đe dọa gây ô nhiễm môi trường từ hoạt động đầu tư xây dựng các dự án phát
triển kinh tế - xã hội. Pháp luật ĐTM điều tiết hành vi của các chủ thể liên quan đến
hoạt động ĐTM, định hướng hoạt động ĐTM diễn ra ổn định, đảm bảo đạt được
mục tiêu của ĐTM đối với sự phát triển bền vững, đảm bảo hài hòa giữa phát triển
kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường của quốc gia và rộng hơn là của toàn thế giới.
Pháp luật ĐTM thể hiện một số vai trò chủ đạo như:
Pháp luật Đánh giá tác động môi trường quy định quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể có liên quan đến hoạt động đánh giá tác động môi trường
Các chủ thể có liên quan đến hoạt động ĐTM bao gồm: cơ quan quản lý nhà
nước;chủ dự án; tổ chức tư vấn lập báo cáo ĐTM; cộng đồng dân cư, cá nhân có
liên quan tới dự án, chịu tác động bởi dự án. Pháp luật ĐTM sẽ thực hiện nhiệm vụ
quy định quyền hạn, nghĩa vụ của các chủ thể này trong hoạt động ĐTM.
Đối với chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ĐTM chính là các
cơ quan có thẩm quyền tham vấn, thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM; các cơ quan
có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện báo cáo ĐTM, thực hiện công tác
bảo vệ môi trường. Các cơ quan này hoạt động theo thể thức tổ chức gồm nhiều cá
nhân cùng hoạt động; chứ không phải đơn lẻ như một người, cá thể. Do đó, cần phải
có cơ chế quy định rõ cơ cấu tổ chức, hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước
trong quá trình thực hiện ĐTM. Pháp luật ĐTM đóng vai trò thực hiện nhiệm vụ đó.
Pháp luật ĐTM quy định cụ thể cơ cấu tổ chức, thẩm quyền hoạt động của các cơ
quan nhà nước liên quan, từ đó xác định quyền, nghĩa vụ cụ thể của các cơ quan này
đối với từng khâu trong quá trình thực hiện ĐTM.
Với chủ thể khác, pháp luật ĐTM quy định quyền, nghĩa vụ trong từng giai
10
đoạn của quá trình thực hiện ĐTM. Pháp luật ĐTM quy định quy tắc xử sự cho các
chủ thể trong hoạt động ĐTM; định hướng hành vi của các chủ thể theo hướng tích
cực cho môi trường, hạn chế, loại trừ sự xâm phạm gây ảnh hưởng xấu tới môi
trường bằng việc quy định những hành vi các chủ thể phải làm, được làm.
Pháp luật là các quy tắc xử sự được nhà nước ban hành và đảm bảo thực
hiện, mang tính bắt buộc tuân thủ. Do đó, pháp luật ĐTM sẽ ràng buộc trách nhiệm
của các chủ thể, các chủ thể buộc phải thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đã được
pháp luật đặt ra. Việc quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cũng có thể hiểu là
pháp luật ĐTM hướng dẫn các chủ thể thực hiện hoạt động ĐTM một cách phù hợp,
đảm bảo đem lại hiệu quả.
Pháp luật Đánh giá tác động môi trường quy định quy trình, thủ tục thực
hiện đánh giá tác động môi trường
Bất cứ một hoạt động nào để đạt hiệu quả tối ưu cũng cần phải có một quy
trình nhất định. Hoạt động ĐTM cũng không nằm ngoài quy luật đó. Để phát huy
hết tác dụng của hoạt động ĐTM thì ĐTM cần phải được thực hiện theo quy trình,
thủ tục nhất định. Thực hiện quy trình đó, các chủ thể tránh sự lãng phí thời gian,
tiền bạc, công sức mà lại không đưa đến hiệu quả bảo vệ môi trường như đúng mục
đích của hoạt động ĐTM. Pháp luật ĐTM quy định từng giai đoạn của hoạt động
ĐTM, trong từng giai đoạn lại quy định những hành vi mà các chủ thể cần thực
hiện. Trình tự, thủ tục mà pháp luật ĐTM quy định là sự hướng dẫn, điều chỉnh để
quá trình ĐTM đạt hiệu quả.
Pháp luật đánh giá tác động môi trường là cơ sở thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm trong lĩnh vực đánh giá tác động môi trường
Pháp luật quy định việc thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động ĐTM thường
xuyên, định kỳ hay đột xuất cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành. Pháp luật ĐTM cũng quy định việc thực hiện thanh tra, kiểm tra
như thế nào; người thực hiện; quy trình, trình tự thực hiện hoạt động đó. Các cơ
quan quản lý nhà nước tuân theo pháp luật ĐTM, lấy pháp luật ĐTM là cơ sở, là
hướng dẫn trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động ĐTM.
Pháp luật ĐTM là cơ sở đối chiếu xác định vi phạm trong hoạt động ĐTM,
và cũng căn cứ vào đây để áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp với hành vi vi
phạm. Việc xử lý vi phạm được áp dụng cho mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có
11
những hành vi vi phạm các quy định của nhà nước trong lĩnh vực ĐTM.
Pháp luật ĐTM là công cụ cần thiết với mọi nhà nước, là công cụ chủ yếu để
Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình trong lĩnh vực môi trường, cụ thể với
hoạt động ĐTM. Pháp luật ĐTM quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
vào hoạt động ĐTM, là công cụ để Nhà nước kiểm soát ô nhiễm môi trường trong
hoạt động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò to lớn nhằm bảo đảm sự
phát triển bền vững cho quốc gia và cho toàn thế giới nên pháp luật ĐTM đã được
phần lớn các quốc gia quan tâm, hình thành và dần trở thành một ngành luật quan
trọng, không thể thiếu trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.
1.4. Pháp luật về đánh giá tác động môi trường của một số quốc gia trên thế
giới và gợi mở cho Việt Nam
Tùy thuộc vào vị trí địa lý, vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội và các yếu
tố tự nhiên, con người khác mà pháp luật của mỗi quốc gia về ĐTM lại khác nhau.
Và việc áp dụng toàn bộ pháp luật của các quốc gia được đánh giá là tiên tiến, hoàn
thiện vào một quốc gia khác là điều rất khó khăn và không nên. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu trong pháp luật ĐTM của quốc gia khác
để học hỏi, rút ra bài học cho pháp luật ĐTM nước mình là một hoạt động tích cực,
cần được thúc đẩy và tạo điều kiện. Đối với pháp luật ĐTM của Việt Nam cũng
vậy, nước ta tiếp cận với pháp luật ĐTM muộn hơn nhiều nước khác, nên pháp luật
vẫn còn hạn chế, nhiều điểm chưa thiết thực, tính khả thi chưa cao, cần phải học hỏi
một số quốc gia có pháp luật ĐTM tiến bộ như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Canada,…Hiện nay, Việt Nam có sự hợp tác về lĩnh vực môi trường với nhiều quốc
gia, với riêng lĩnh vực ĐTM thì sự hợp tác, học hỏi tiêu biểu có thể kể đến là với
Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
1.4.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Nhật Bản
Nhật Bản là một trong số những quốc gia Châu Á với hệ thống pháp luật về
ĐTM tiến bộ và phát triển hàng đầu trên thế giới. Nhật Bản cũng là quốc gia mà
Việt Nam rất quan tâm chú trọng hợp tác trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm môi
trường đặc biệt với loại hình dự án điện hạt nhân và khai thác mỏ[25].
Tại Nhật Bản, ĐTM được giới thiệu từ năm 1972 chỉ dành cho các công trình
công cộng [31, pg.2]. Đến năm 1984, Chính phủ mới quy định chính thức về thực
hiện ĐTM cho các Dự án. Luật về “Đánh giá tác động môi trường” được ban hành
12
tháng 6/1997 với mục đích thiết lập hệ thống quy trình, thủ tục thực hiện ĐTM
nhằm ngăn ngừa suy thoái môi trường và thúc đẩu một xã hội bền vững [31, Pg.3].
Nhật Bản quy định 13 loại hình dự án cần lập ĐTM: đường bộ, chính trị
sông, đường sắt, cảng hàng không, nhà máy điện, khu đổ thải, cải tạo đất, điều
chỉnh sử dụng đất, khu dân cư mới, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng
thành phố mới, tổ hợp trung tâm phân phối, phát triển đất ở và đất công nghiệp do
các tổ chức chuyên dụng. Mỗi loại hình dự án lại được phân cấp thành dự án cấp 1
và dự án cấp 2. Dự án loại 1 có quy mô lớn hơn là các dự án buộc phải thực hiện
ĐTM và phải tuân thủ theo quy trình của Luật. Còn các dự án cấp 2 việc tiến hành
ĐTM có thể linh động hơn, việc thực hiện ĐTM được thực hiện tùy theo phán quyết
của cơ quan có thẩm quyền cho từng dự án riêng lẻ [31, pg.4-5].
ĐTM tại Nhật Bản được thực hiện rất thận trọng trong giai đoạn nghiên cứu
lập báo cáo và giai đoạn thẩm định báo cáo ĐTM. Một báo cáo ĐTM cần trung bình
ba năm từ khi nghiên cứu đến khi được cấp phép thẩm định. Chính sự thận trọng
này giúp các dự án tại Nhật Bản hạn chế mức thấp nhất các tác động đến môi
trường tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, sự kéo dài quá trình ĐTM gây không ít khó
khăn cho các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý môi trường do vậy đã có một số đề
xuất “hợp lý hóa/đơn giản hóa quy trình ĐTM” với một số loại hình dự án đặc thù.
Cụ thể như đối với dự án xây dựng nhà máy điện, Bộ Môi trường Nhật Bản đã cho
phép xây dựng quy trình đơn giản hóa (hợp lý hóa) với các nội dung: Rút ngắn thời
gian và rút gọn nội dung khảo sát môi trường, tận dụng tối đa số liệu/thông tin quan
trắc môi trường đối với nhà máy đã được thực hiện trong thời gian vận hành; Rút
ngắn thời gian xem xét, thẩm định báo cáo ĐTM. Với sự cải tiến này (chỉ áp dụng
đối với loại hình dự án tháo dỡ nhà máy điện) thời gian lập và thẩm định báo cáo
ĐTM chỉ còn 1-1,5 năm [21].
Ngoài ra, một điểm rất tích cực trong hoạt động ĐTM của Nhật Bản đó khâu
tham vấn cộng đồng trong quá trình lập báo cáo ĐTM. Sau khi hoàn thành khảo sát,
dự báo và đánh giá, thủ tục tiếp theo là lắng nghe ý kiến liên quan đến kết quả đánh
giá. Chủ dự án chuẩn bị dự thảo báo cáo ĐTM mô tả các kết quả đánh giá, cách tiếp
cận bảo vệ môi trường và gửi đến cơ quan quản lý về môi trường ở địa phương. Chủ
dự án cũng công khai tài liệu và cho phép người dân địa phương được trực tiếp xem
tại văn phòng chính phủ và tại nơi hoạt động của chủ dự án. Trong thời gian này,
13
các cuộc họp tham vấn cũng được tổ chức để giải thích nội dung của dự thảo báo
cáo ĐTM. Bất cứ ai có ý kiến về dự thảo báo cáo ĐTM có thể gửi bản ý kiến đánh
giá đến chủ dự án. Chủ dự án tổng hợp những ý kiến đó với chính quyền địa
phương. Sau đó, cơ quan quản lý tại địa phương cũng nêu ý kiến đánh giá của mình
về báo cáo ĐTM đối với dự án, trong đó có tính đến ý kiến từ công chúng. Chủ dự
án dựa vào những ý kiến tham vấn đó để hoàn thiện báo cáo ĐTM và gửi đến cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt. Cho tới khi báo cáo ĐTM cuối cùng được công
khai, chủ dự án không được thực hiện bất kỳ giai đoạn nào khác của dự án
[31,Pg.12-13].Việc tham vấn cộng đồng của Nhật Bản không phải là hình thức đối
phó, thủ tục theo quy định của pháp luật ĐTM mà là rất thực chất, công khai đưa
đến những giải pháp thiết thực, đem lại hiệu quả ĐTM cao.
Ngoài Luật Đánh giá tác động môi trường, hệ thống pháp luật ĐTM Nhật
Bản còn được hoàn thiện bởi hệ thống các văn bản do chính quyền địa phương ban
hành với các đặc điểm: (1) Bổ sung các dự án phải ĐTM, (2) quy định áp dụng cho
các dự án quy mô nhỏ, (3) quy định việc tổ chức các buổi điều trần công khai để hỏi
ý kiến người dân, (4) Cung cấp thủ tục thực hiện ĐTM của tổ chức tư vấn lập báo
cáo ĐTM, (5) Yêu cầu theo dõi giám sát sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt. Tuy
vậy, nhưng hệ thống pháp luật ĐTM Nhật Bản không hề bị chồng chéo, mà có sự
phân chia, phối hợp bằng cách không quy định trùng các đối tượng thuộc hạng mục
thực hiện ĐTM (các dự án được chỉ định thực hiện ĐTM theo luật, chính sách pháp
luật địa phương sẽ không thể yêu cầu các thủ tục bổ sung; luật địa phương chỉ quy
định thủ tục cho những dự án không được Luật Đánh giá tác động môi trường đề
cập) [31, pg.16].
So với các nước trong khu vực, pháp luật ĐTM Nhật Bản thuộc vào hàng
phát triển và hoàn thiện nhất, tuy vậy các chuyên gia môi trường nước này vẫn cho
rằng pháp luật ĐTM nước mình còn hạn chế và vẫn luôn trong tiến trình học hỏi
kinh nghiệm các nước phương Tây để ngày một tiến bộ và hoàn thiện hơn.
1.4.2. Pháp luật đánh giá tác động môi trường Trung Quốc
Ở Trung Quốc, ĐTM là một phần của Luật Bảo vệ môi trường được thông
qua chính thức năm 1989. Tới năm 2002, Luật Đánh giá tác động môi trường được
ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/9/2003. Luật này bao gồm 5 Chương và 38
Điều, quy định khá chặt chẽ quá trình ĐTM.
14
Theo đó, ĐTM là bắt buộc cho bất kỳ dự án nào có thể có tác động tiêu cực
đến môi trường, không phân biệt ngành nghề, đặc biệt là các dự án có vốn đầu tư
nước ngoài càng được kiểm soát về môi trường nghiêm ngặt[32, Pg.10]. Tuy nhiên,
căn cứ vào mức độ ảnh hưởng của dự án tới môi trường mà các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường quy định các hình thức thể hiện ĐTM như: báo cáo ĐTM đầy
đủ, ĐTM là một chương trong hồ sơ trình thẩm định và đăng ký ĐTM theo mẫu quy
định với dự án ít ảnh hưởng đến môi trường[13, tr.26-27]. Quy định này tránh được
sự cồng kềnh về thủ tục cho chủ dự án mà có dự án ít tác động tới môi trường, hoạt
động đầu tư được kiểm soát đơn giản hơn mà vẫn đảm bảo không tác động xấu tới
môi trường.
Điều 19 Luật ĐTM Trung Quốc quy định việc thẩm định báo cáo ĐTM sẽ do
một tổ chức độc lập chuyên thẩm định báo cáo ĐTM thực hiện mà không phải các
cơ quan quản lý nhà nước về môi trường thực hiện như nhiều quốc gia khác trong
đó có Việt Nam. Báo cáo ĐTM do chủ dự án lập, sau đó sẽ thuê một tổ chức thẩm
định độc lập tiến hành thẩm định báo đó. Cơ quan nhà nước sẽ chỉ tiến hành thẩm
tra, phê duyệt báo cáo ĐTM, chứ không trực tiếp thẩm định báo cáo ĐTM. Các tổ
chức thẩm định báo cáo ĐTM phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động
thẩm định báo cáo ĐTM mình. Quy định này đảm bảo việc thẩm định được diễn ra
một cách khách quan, hạn chế tiêu cực phát sinh trong quá trình thẩm định, cũng
phần nào giảm bớt khối lượng công việc cho cơ quan nhà nước.
Pháp luật ĐTM cũng quy định chặt chẽ về năng lực chuyên môn của người
lập báo cáo ĐTM. Cụ thể, người lập báo cáo ĐTM phải có chứng chỉ hành nghề, để
được cấp chứng chỉ cá nhân phải trải qua kỳ thi do Nhà nước tổ chức và cứ 4 năm
một lần phải thi lại để được gia hạn. Chứng chỉ hành nghề còn được chia thành 2
loại: loại một được phép thành lập báo cáo ĐTM cho tất cả các dự án, loại 2 là dành
cho người lập báo cáo ĐTM ở cấp địa phương. Điều này sẽ nâng cao chất lượng
ĐTM ngày từ khâu lập báo cáo ĐTM ban đầu, kéo theo đó việc thẩm định, phê
duyệt cũng sẽ thuận lợi, nhanh chóng hơn.
Pháp luật ĐTM Trung Quốc chú trọng đảm bảo sự tham gia của cộng đồng
và công khai thông tin về báo cáo ĐTM. Việc tham gia của người dân được quy
định trong các giai đoạn: lập báo cáo, thẩm định, thực hiện và giám sát thực hiện
báo cáo ĐTM. Chủ dự án phải tiến hành tham vấn ý kiến người dân trong quá trình
15
lập báo cáo ĐTM, trong quá trình thẩm định báo cáo cần công bố thông tin về báo
cáo ĐTM để người dân thực hiện quyền tham vấn. Mọi ý kiến tham vấn được tiếp
thu hay từ chối đều phải có văn bản giải trình. Việc thực hiện báo cáo cũng phải
được tham vấn ý kiến của người dân và người dân có quyền phản ánh những sai xót
của chủ dự án trong quá trình thực hiện dự án. Toàn bộ phản ánh của người dân đều
phải lưu trữ lại và người dân có quyền tiếp cận miễn phí. Nhìn chung, quá trình thực
hiện ĐTM đều được công khai và người dân được tham gia vào hầu hết các giai
đoạn của quá trình này, đảm bảo sự công bằng, khách quan, cũng nâng cao chất
lượng báo cáo ĐTM một cách tối đa nhất.
Nói đến pháp luật Trung Quốc không thể không nhắc tới cơ chế xử lý vi
phạm cực kỳ nghiêm minh, khắt khe. Pháp luật ĐTM cũng không ngoại lệ khi quy
định rất rõ ràng các hành vi vi phạm của các chủ thể liên quan tới hoạt động ĐTM.
Người lập báo cáo ĐTM có thể bị tước thẻ hành nghề, chủ thể thực hiện thẩm định
báo cáo ĐTM có thể bị loại khỏi danh sách thành viên thẩm định do Bộ Bảo vệ môi
trường quản lý nếu có sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Nếu gây
hậu quả nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người phê duyệt báo
cáo ĐTM nếu thực hiện không đúng quy định của pháp luật sẽ bị cách chức. Và
thực tế cho thấy, việc thực thi các quy định xử phạt này được Trung Quốc tiến hành
tương đối nghiêm túc, do đó mà các chủ thể có liên quan đến hoạt động ĐTM cũng
phải chấp hành đúng quy định của pháp luật [17].
Trung Quốc phát triển pháp luật ĐTM sớm và đặc biết coi trọng công tác này
nên pháp luật ĐTM mang rất nhiều điểm tiến bộ, hoàn thiện với hiệu quả thực thi
cao. Việt Nam nên xem xét, tham khảo để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung
và pháp luật về ĐTM nói riêng.
Các quốc gia nêu trên đều là những quốc gia có pháp luật về ĐTM phát triển
mà Việt Nam cần học tập, tham khảo. Ngoài ra Việt Nam hiện cũng đẩy mạnh quan
hệ hợp tác trong lĩnh vực môi trường với nhiều quốc gia khác như Hàn Quốc,
Canada, Hoa Kỳ, Thụy Điển,…Việt Nam với mong muốn hợp tác nhằm trao đổi,
học hỏi kinh nghiệm trong công tác ĐTM và công tác quản lý, giám sát trong quá
trình các dự án, cơ sở sản xuất đi vào vận hành; nâng cao năng lực cho các nhà quản
lý, các nhà khoa học trong công tác ĐTM. Pháp luật về ĐTM của Việt Nam còn non
trẻ nên rất coi trọng quan hệ hợp tác quốc tế để có thể học hỏi nhằm hoàn thiện hệ
16
thống pháp luật ĐTM của mình, xây dựng hệ thống pháp luật môi trường toàn diện,
thiết thực góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của quốc gia.
1.4.3. Gợi mở cho Việt Nam
ĐTM là một quá trình tương đối phức tạp, với nhiều giai đoạn, thủ tục, thời
gian thực hiện tương đối dài. Do đó, pháp luật về ĐTM cũng cần phải mang tính
chuyên biệt, cụ thể, chi tiết hơn. Việt Nam nên có Luật Đánh giá tác động môi
trường – một đạo luật cụ thể quy định riêng về hoạt động ĐTM để việc thực hiện
ĐTM được quản lý chi tiết, chặt chẽ hơn, các chủ thể của pháp luật ĐTM cũng theo
đó mà thuận tiện trong việc tuân thủ, tìm hiểu các quy định pháp luật hơn.
Một điểm chung của các quốc gia có hệ thống pháp luật ĐTM tiến bộ nêu
trên đó là các quốc gia này đều cực kỳ coi trọng các công trình nghiên cứu về ĐTM.
Việc nghiên cứu ĐTM được thực hiện rất nghiêm túc thu hút nhiều viện, trường đại
học và nhà khoa học tham gia. Việc nghiên cứu là hoạt động được toàn thế giới ghi
nhận và khuyến khích. Bất kỳ một ngành, lĩnh vực nào cũng cần có sự nghiên cứu
chuyên sâu để góp phần phát triển và hoàn thiện hơn. Và Việt Nam nên có cơ chế,
chính sách khuyến khích, hỗ trợ các công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về
ĐTM để thu hút các nhà khoa học tích cực đầu tư, thực hiện nghiên cứu về vấn đề
này để góp phần hoàn thiện pháp luật ĐTM của Việt Nam hơn nữa.
Chất lượng tham vấn và tính công khai thông tin có lẽ cần được Việt Nam
đẩy mạnh hơn. Dựa vào những thành công trong hoạt động ĐTM mà các quốc gia
khác đạt được, có thể thấy vai trò của sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân là
rất lớn. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần chú trọng tới vấn đề này hơn, đảm bảo cho
người dân được phát huy hết vai trò của mình, người dân được thể hiện quan điểm,
được tiếp nhận thông tin ĐTM một cách tối đa, thuận lợi nhất.
Chất lượng hoạt động ĐTM nên được cải thiện. Pháp luật ĐTM góp phần
nâng cao chất lượng ĐTM khi quy định chặt chẽ về năng lực của các chủ thể lập,
thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM; có sự phân chia thẩm quyền rõ ràng hơn và
nâng cao trách nhiệm của các chủ thể với quyền, nghĩa vụ của mình; đảm bảo sự
độc lập giữa các giai đoạn, giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện ĐTM;…
Cần chú trọng giai đoạn “giám sát hậu thẩm định”. ĐTM là công cụ lựa chọn
những dự án đảm bảo không gây ô nhiêm môi trường được hoạt động, là cam kết
của chủ dự án trong việc hạn chế, phòng ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của dự án
17
tới môi trường, là công cụ quan trọng nhằm bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra đó là các chủ thể có liên quan có nghiêm túc thực hiện đúng với trách nhiệm
của mình, có thực hiện đúng những cam kết, những biện pháp bảo vệ môi trường đã
được nêu trong báo cáo ĐTM đã phê duyệt không? Và cơ chế hậu kiểm chính là
công cụ để quản lý vấn đề này. Cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện báo cáo
ĐTM đã được phê duyệt là một bộ phận đóng vai trò quan trọng trong pháp luật
ĐTM. Có thể thấy, những nước có hệ thống pháp luật ĐTM hoàn thiện, hiệu quả
đều là các nước quy định nghiêm ngặt, đầy đủ cơ chế kiểm tra, giám sát sau khi báo
cáo ĐTM được phê duyệt. Đây là yêu cầu quan trọng để đảm bảo hoạt động ĐTM
phát huy được đúng vai trò của nó nhằm giảm thiểu tác động xấu của dự án đến môi
trường. Pháp luật ĐTM cần có quy định quản lý khâu lập, tham vấn, thẩm định, phê
duyệt báo cáo ĐTM đồng thời cũng phải quy định vềgiám sát sự tuân thủ yêu cầu
bảo vệ môi trường trong suốt quá trình thực hiện dự án. Công tác này không chỉ là
giám sát chất thải và quan trắc môi trường trong quy định về cấu trúc và nội dung
báo cáo ĐTM hiện hành mà là giám sát, đánh giá việc thực hiện của chủ dự án/nhà
thầu xây dựng đối với từng biện pháp bảo vệ môi trường đã được thẩm định [21].
Do đó, pháp luật ĐTM của Việt Nam cần chú trọng khâu giám sát hậu thẩm định để
đảm bảo cho ĐTM được thực hiện và phát huy vai trò bảo vệ môi trường, đảm bảo
sự phát triển bền vững của đất nước.
18
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ TỚI SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG FORMOSA
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật đánh giá tác động
môi trường ở Việt Nam
2.1.1. Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn
trước năm 1986
Đây là giai đoạn Việt Nam đang trong tiến trình giải phóng đất nước và xây
dựng, khôi phục lại đất nước. Tuy nhiêm, vấn đề ĐTM vẫn được Nhà nước triển
khai và các nhà khoa học sớm quan tâm nghiên cứu. Ngay từ những năm 1980
nhiều nhà khoa học bắt đầu tiếp cận với công tác ĐTM thông qua các hội thảo và
các khoá đào tạo do các tổ chức Quốc tế thực hiện (UNEP, UNU). Chính phủ Việt
Nam cũng sớm nhận thức được vấn đề bảo vệ môi trường và ĐTM nên đã tạo điều
kiện cho các cơ quan, cá nhân tiếp cận các lĩnh vực này. Đầu những năm 80, một
nhóm các nhà khoa học Việt Nam, đứng đầu là Giáo sư Lê Thạc Cán đã đến Trung
tâm Đông - Tây ở Ha - Oai nước Mỹ nhằm nghiên cứu về luật, chính sách môi
trường nói chung và ĐTM nói riêng[20, tr.8]. Chương trình nghiên cứu khoa học
cấp nhà nước về tài nguyên thiên nhiên và môi trường do Uỷ ban Khoa học và Kỹ
thuật Nhà nước triển khai và đặt nền móng quan trọng cho việc nghiên cứu, thực
hiện ĐTM tại Việt Nam. Tháng 4/1984, Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi
trường của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội kết hợp với Chương trình nghiên cứu
quốc gia về Môi trường, đã tổ chức khoá huấn luyện về ĐTM cho các giảng viên từ
các trường Đại học và Viện nghiên cứu TW đầu tiên tại Việt Nam. Sau đó, ĐTM đã
được xác định cụ thể trong các văn bản quan trọng của Nhà nước về đẩy mạnh công
tác điều tra cơ bản, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, cụ
thể là: Nghị quyết số 246 – HĐBT ngày 20/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ)[8].
Trong giai đoạn này, các trường đại học, các viện nghiên cứu đã thực hiện
một số nghiên cứu xem xét, đánh giá ban đầu về môi trường (IEE: Initial
environmental examination) hoặc theo “hướng” ĐTM đối với một số dự án lớn. Tuy
nhiên, tại thời điểm đó, quá trình quy hoạch phát triển hoàn toàn không có những
19
quy định pháp luật bắt buộc liên quan đến ĐTM; cũng như những phương pháp tiến
hành ĐTM chưa được biết đến rộng rãi ở Việt Nam, nên những nghiên cứu trên đã
thực hiện không theo một chuẩn mực nhất định, và tách biệt hoàn toàn với quá trình
quy hoạch cũng như quá trình xây dựng dự án [26, tr.2]. Đây là giai đoạn pháp luật
về ĐTM mang tính nghiên cứu và học hỏi, chưa được luật hóa trong các văn bản
quy phạm pháp luật cụ thể.
2.1.2. Pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam giai đoạn sau
năm 1986
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2004
Từ năm 1987 chương trình đào tạo sau Đại học về quản lý môi trường và
ĐTM được Trung tâm Tài nguyên Môi trường thuộc Đại học Tổng Hợp Hà Nội
thường xuyên tổ chức. Tuy nhiên, cũng vào thời điểm đó thì mức độ và quy mô còn
chưa đồng bộ và rộng khắp ở các nghành và các địa phương.
Trong giai đoạn 1987 – 1990, Nhà nước đã đầu tư vào chương trình điều tra
cơ bản và được xem như công tác kiểm tra hiện trạng môi trường. Đó là các chương
trình điều tra vùng Tây Nguyên, vùng ĐBSCL, Quảng Ninh…[8]. Tiêu biểu có dự
án xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình được xem như hình mẫu điển hình trong
thực hiện ĐTM vào năm 1989[26, tr.2].
Sau năm 1990, Nhà nước ta cho tiến hành chương trình nghiên cứu môi trường
mang mã số kinh tế 02, trong đó có một đề tài trực tiếp nghiên cứu về ĐTM, đề tài
mang mã số KT 02 - 16 do Giáo sư Lê Thạc Cán chủ trì. Trong khuôn khổ đề tài này,
một số báo cáo ĐTM mẫu đã được lập, đáng chú ý là báo cáo ĐTM của nhà máy giấy
Bãi Bằng và ĐTM công trình thuỷ lợi Thạch Nham. Mặc dù chưa có Luật Bảo vệ môi
trường và các điều luật về ĐTM song Nhà nước đã yêu cầu một số dự án phải có báo
cáo ĐTM, chẳng hạn như công trình thuỷ điện Trị An, nhà máy lọc dầu Thành Tuy Hạ
[8]. Một số tổ chức quản lý Nhà nước như Cục Môi trường, Sở Khoa học Công Nghệ
và Môi trường, các trung tâm, Viện Môi trường cũng đã được tập huấn công tác tư vấn
cho lập báo cáo ĐTM và tổ chức thẩm định các báo cáo ĐTM.
Hoạt động ĐTM ở Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học biết đến từ lâu,
nhưng phải đến năm 1993 khi Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên của Việt Nam có
quy định về ĐTM thì hoạt động này mới được biết đến rộng rãi ở Việt Nam. Luật
Bảo vệ môi trường năm 1993 của nước CHXHCN Việt Nam là văn bản pháp luật
20
đầu tiên của Việt Nam đề cập đến ĐTM, đánh dấu cột mốc quan trọng trong công
tác bảo vệ môi trường, và tất nhiên là bước phát triển đột bậc đối với pháp luật đánh
giá tác động môi trường ở Việt Nam.
Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 đưa ra định nghĩa: “Đánh giá tác
động môi trường là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi trường
của các dự án, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, công trình kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và các công trình
khác, đề xuất các giải pháp thích hợp về bảo vệ môi trường” và có quy định về
Đánh giá tác động môi trường trong các điều 17 và 18. Theo đó, các dự án trong và
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, các dự án đã hoạt động hay mới lên kế hoạch thực
hiện đều phải thực hiện đánh giá tác động môi trường. Tiếp đó, là hàng loạt các văn
bản quy phạm pháp luật khác được ban hành để hướng dẫn thêm về ĐTM, như:
Nghị định của chính phủ số 175-CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật
bảo vệ môi trường; Nghị định của Chính phủ số 143/2004/NĐ-CP ngày 12/7/2004
về việc sửa đổi, bổ sung Điều 14 Nghị định 175-CP; Thông tư của Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường số 1420/MTG ngày 26/11/1994 hướng dẫn đánh giá tác
động môi trường đối với các cơ sở đang hoạt động; Thông tư của Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường số 490/1998/TT-BKHCNMT ngày 29/4/1998 hướng dẫn
lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư;…
Theo Báo cáo phân tích chính sách do Trung tâm con người và thiên nhiên thực
hiện năm 2009, thống kê ban đầu đã có khoảng 14 văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến ĐTM được ban hành trong khoảng 1993 – 2005 (trước khi Luật bảo vệ
môi trường năm 2005 ra đời). Pháp luật ĐTM thời kỳ này mang tính khởi đầu, học
hỏi, rút kinh nghiệm, vẫn rất sơ sài và khả năng áp dụng, thi hành chưa cao, hiệu
quả đem lại chưa thực sự đạt được như đúng mục đích của các nhà làm luật khi đưa
ĐTM vào là một quá trình bắt buộc đối với các dự án. Tuy nhiên, đây cũng là bước
phát triển mang tính đột phá, thể hiện nỗ lực và cố gắng của Chính phủ trong việc
Bảo vệ môi trường và cụ thể là trong việc thực hiện ĐTM ở Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2013
Với sự thay đổi về thời gian, hàng loạt các vấn đề về kinh tế - xã hội, môi
trường cũng dần thay đổi, yêu cầu tất yếu đặt ra là sự thay đổi cơ chế pháp luật về
môi trường, đòi hỏi phải có những quy định mới phù hợp với hoàn cảnh và thực
21
tiễn. Hệ thống pháp luật về đánh giá tác động môi trường dần đa dạng và tiến bộ
hơn. Đầu tiên phải kể đến Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 được Quốc hội thông
qua 29/11/2005, đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất về lĩnh vực môi trường.
Theo đó, hệ thống pháp luật về đánh giá tác động môi trường về cơ bản đã được sửa
đổi theo. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa: “Đánh giá tác động môi
trường là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ
thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó” và quy định
chi tiết các vấn đề liên quan đến đánh giá tác động môi trường (tại Chương III, từ
Điều 18 đến Điều 23). Luật Bảo vệ môi trường 2005 quy định chặt chẽ, rõ ràng hơn
các dự án đầu tư phải thực hiện đánh giá tác động môi trường; những dự án đầu tư
còn lại thì yêu cầu phải đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường thay thế cho bản
đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường trước đây (theo Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 của Bộ Tài nguyên và môi trường).
Triển khai các quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2005, công tác đánh giá
môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường đã đi vào nề nếp. Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số
29/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2011 quy định về đánh giá môi trường chiến
lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường; phối hợp với Bộ
Tài chính xây dựng và ban hành Thông tư số 218/2010/TT-BTC ngày 29/12/2010
quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí thẩm định báo cáo đánh
giá tác động môi trường. Ngay sau khi Nghị định số 29/2011/NĐ-CP được ban
hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã nhanh chóng xây dựng và ban hành
Thông tư số 26/2011/TT-BTNMT ngày 18 tháng 7 năm 2011 hướng dẫn thực hiện
Nghị định; Thông tư số 01/2012/TT-BTNMT quy định về lập, thẩm định, phê duyệt
và kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đề án bảo vệ môi trường chi tiết; lập, đăng ký
đề án bảo vệ môi trường đơn giản. Để nâng cao chất lượng công tác ĐMC và ĐTM,
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức xây dựng và hoàn thành 04 hướng dẫn kỹ
thuật lập báo cáo ĐTM chuyên ngành cho các loại hình dự án: nhà máy điện hạt
nhân; khai thác than bằng công nghệ khí hóa; xây dựng khu du lịch và xử lý chất
thải nguy hại bằng phương pháp đốt; triển khai xây dựng hướng dẫn kỹ thuật lập
báo cáo ĐTM đối với dự án chế biến đất hiếm và đề án thu phí thẩm định báo cáo
ĐTM ở cấp địa phương (theo Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005 của Bộ Tài nguyên và môi trường).
22
Điểm khác biệt cơ bản về ĐTM trong Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 và
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 là ở đối tượng phải thực hiện ĐTM. Luật Bảo vệ
môi trường năm 1993 quy định ĐTM là bước bắt buộc bắt buộc đối với các dự án,
còn Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định thực hiện ĐTM đối với một số dự
án. Các dự án thuộc Danh mục các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường được quy định trong Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm
2008 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 thì sẽ phải thực hiện
báo cáo ĐTM chi tiết, còn các dự án không thuộc danh mục này chỉ cần thực hiện
Cam kết Bảo vệ môi trường (theo Báo cáo phân tích chính sách do Trung tâm con
người và thiên nhiên thực hiện năm 2009). Các cơ sở đang hoạt động chưa lập báo
cáo ĐTM, cam kết bảo vệ môi trường theo quy định sẽ phải tiến hành xây dựng Đề
án BVMT theo quy định tại Thông tư số 01/2012/TT-BTNMT ngày 16 tháng 3 năm
2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về lập, thẩm định, phê duyệt và
kiểm tra, xác nhận việc thực hiện đề án bảo vệ môi trường chi tiết; lập và đăng ký
đề án bảo vệ môi trường đơn giản.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và văn bản quy phạm pháp luật ban hành
trong giai đoạn 2005-2013 về đánh giá tác động môi trường đã cho thấy sự tiến bộ,
hiệu quả, thiết thực trong thực tế, nhưng vẫn còn những hạn chế như: việc tạo điều
kiện để người dân tham gia vào đánh giá tác động môi trường còn chưa cao; báo
cáo đánh giá tác động môi trường vẫn còn mang tính thủ tục, chưa thực chất; việc
xác định ranh giới giữa đánh giá tác động môi trường và cam kết BVMT, quy định
vai trò chủ dự án tự và tổ chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường,… còn bất cập. Theo đó, cần phải xây dựng hệ thống pháp luật môi trường
dựa trên sự khảo sát, đánh giá toàn diện thực tế môi trường, rút kinh nghiệm từ
những hạn chế của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.
Giai đoạn từ năm 2014 đến nay
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 được ban hành ngày 23/6/2014 và chính
thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2015. Trong đó nhiều nội dung đã được cụ thể hóa
nhiều điểm so với Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Luật Bảo vệ môi trường năm
2014 gồm 20 chương và 170 điều – tăng 5 chương và 34 điều so với Luật Bảo vệ
23
môi trường 2005. Về cơ bản, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 kế thừa các nội
dung của Luật Bảo vệ môi trường 2005; khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật
Bảo vệ môi trường 2005; đồng thời luật hóa chủ trương của Đảng, bổ sung một số
nội dung mới về bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường trong
giai đoạn mới.
Đánh giá tác động môi trường được quy định cụ thể tại Mục 3 Luật Bảo vệ
môi trường năm 2014, tại Chương 4 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015
của Chính phủ quy định về Quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường
chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường và Thông
tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 05 năm 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường
và kế hoạch bảo vệ môi trường.
So với Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014
đã một số thay đổi về Đánh giá tác động môi trường, cụ thể như sau:
Đánh giá tác động môi trường được định nghĩa ngắn gọn, chắt lọc mà đúng
bản chất hơn: “Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo tác động đến
môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi triển
khai dự án đó”. Về đối tượng phải lập ĐTM đã được thu hẹp góp phần hạn chế việc
lạm dụng yêu cầu phải thực hiện ĐTM và các báo cáo ĐTM chỉ mang tính lý
thuyết. Luật bảo vệ môi trường năm 2014 còn bổ sung một số điểm mới như: quy
định yêu cầu về chứng chỉ tư vấn ĐTM; yêu cầu lồng ghép nội dung về biến đổi khí
hậu trong báo cáo ĐTM; đánh giá sức khỏe cộng đồng trong ĐTM.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã bỏ hoạt động “Cam kết Bảo vệ môi
trường” được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2005(Cam kết bảo vệ môi
trường dành cho các dự án không thuộc danh mục phải lập báo cáo đánh giá tác
động môi trường do Chính phủ ban hành) và thay vào đó là quy định về “Kế hoạch
bảo vệ môi trường”. Do trên thực tế, việc thực hiện cam kết bảo vệ môi trường có
nhiều khó khăn, thiếu thực thi, mang tính lý thuyết và trong nhiều trường hợp đã
dẫn đến tiêu cực trong công tác quản lý.
Trên đây, chỉ là một vài điểm thay đổi tiêu biểu, dễ nhận thấy nhất của Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014 về hoạt động ĐTM, những thay đổi sẽ được tác giả
tiếp tục trình bày trong các phần sau của Khóa luận tốt nghiệp.
24
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
được ban hành đã phần nào tháo gỡ, giải quyết các vấn đề tồn tại mà trong Luật Bảo
vệ môi trường năm 2005 chưa được đề cập đến hoặc làm rõ, đặc biệt là trong công
tác lập, thẩm định báo cáo ĐTM, xác nhận kế hoạch Kế hoạch bảo vệ môi trường
đối với các dự án đầu tư được quản lý, siết chặt hơn tạo điều kiện thuận lợi cho cơ
quan quản lý trong quá trình triển khai thực hiện, yêu cầu doanh nghiệp ngày càng
phải chấp hành nghiêm túc các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong quá
trình triển khai, thực hiện dự án, đảm bảo phát triển bền vững, hài hòa với bảo vệ
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, ở Việt Nam đã có một đội ngũ tương đối đông đảo những người
làm công tác ĐTM, trong đó có nhiều chuyên gia được đào tạo trong và ngoài nước,
bước đầu đã tập hợp được những kinh nghiệm quý báu qua những công trình đã
đánh giá thực tế. Việc thực hiện ĐTM ở Việt Nam cũng còn những vấn đề tồn tại
cần tiếp tục giải quyết, tuy nhiên, có thể nói cho đến nay hệ thống văn bản pháp lý
cho thực hiện ĐTM đã tương đối đầy đủ và tiếp cận được yêu cầu của thực tế. Việc
thực hiện ĐTM đã dần đi vào nề nếp và đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển
bền vững của đất nước. Nội dung và quy trình thực hiện ĐTM tại Việt Nam đã có
những thay đổi và phát triển theo từng thời kỳ. Quy trình thực hiện ĐTM trước đây
ở Việt Nam còn đơn giản và lạc hậu so với quy trình chung của thế giới, nhưng cho
đến nay đã được điều chỉnh phù hợp hơn. Các yêu cầu và chất lượng của các báo
cáo ĐTM cũng đã được nâng cao rõ rệt nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội và yêu cầu bảo vệ môi trường.
2.2. Nội dung điều chỉnh của Pháp luật đánh giá tác động môi trường
2.2.1. Đối tượng thực hiện đánh giá tác động môi trường
Xác định được đối tượng phải thực hiện ĐTM là kết quả của bước sàng lọc -
bước khởi đầu cho quá trình ĐTM. Những dự án không phải thực hiện ĐTM sẽ phải
thực hiện Kế hoạch bảo vệ môi trường – là một trong các biện pháp bảo vệ môi
trường dành cho những dự án đơn giản hơn, khả năng tác động tới môi trường
không nhiều.
Hiện pháp luật ĐTM đã quy định tương đối cụ thể về giai đoạn này. Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định về đối tượng phải thực hiện đánh giá tác
động môi trường tại Điều 18 Mục 3 Chương II và các đối tượng cụ thể hơn được
25
quy định tại Phụ lục II của Nghị định 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015
của Chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường
chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường. Yêu cầu
thực hiện ĐTM tùy vào loại dự án và quy mô dự án. Đối tượng phải thực hiện đánh
giá tác động môi trường gồm: các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương
đầu tư của Quốc hội, thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; dự án có sử dụng đất của vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,
khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển; các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu
công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại,
làng nghề và các khu sản xuất kinh doanh tập trung khác; dự án xây dựng cơ sở
khám chữa bệnh và cơ sở y tế khác có quy mô từ 50 giường trở lên; dự án xây dựng
nghĩa trang, cơ sở hỏa táng; dự án xây dựng lò phản ứng hạt nhân; dự án khai thác,
chế biến khoáng sản rắn có sử dụng hóa chất độc hại hoặc vật liệu nổ công nghiệp;
dự án chế biến, tinh chế kim loại màu...Tổng số danh mục dự án phải thực hiện
ĐTM là 113 danh mục.
ĐTM là hoạt động cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát ô
nhiễm môi trường, đem lại hiệu quả đáng kể trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, ĐTM là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự đầu tư cả về khả năng, kinh
nghiệm và đương nhiên là cả thời gian cũng như kinh phí cho quá trình này. Vì vậy,
yêu cầu phải thực hiện ĐTM chỉ nên dành cho những dự án có quy mô lớn, vai trò
quan trọng, có nguy cơ tác động tới môi trường lớn để tiết kiệm thời gian, kinh phí
khi triển khai dự án. Theo tác giả, quy định về đối tượng phải thực hiện ĐTM như
hiện nay là tương đối hợp lý, đầy đủ và rõ ràng, đã có sự phân loại dự án, vị trí thực
hiện và quy mô của dự án.
Ngoài ra, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã quy định đối tượng phải thực
hiện ĐTM thay cho quy định về Đối tượng phải lập báo cáo ĐTM của Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005, đây là một thay đổi tương đối đúng đắn, bởi ĐTM là một quá
trình, gồm nhiều bước, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường chỉ là một bước
trong quá trình ĐTM, do vậy thay đổi này là hoàn toàn hợp lý, thể hiện sự tiến bộ,
thấu đáo của các nhà làm luật.
2.2.2. Quy định về lập báo cáo đánh giá tác động môi trường
Thứ nhất, quy định về chủ thể lập báo cáo đánh giá tác động môi trường
26
Pháp luật ĐTM của Việt Nam quy định chủ thể thực hiện ĐTM có thể là chủ
dự án hoặc các tổ chức tư vấn thực hiện ĐTM được chủ dự án thuê thực hiện. Chủ
thể thực hiện ĐTM phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện ĐTM
và các thông tin, số liệu được sử dụng trong báo cáo ĐTM, tổ chức tư vấn thực hiện
ĐTM còn phải chịu trách nhiệm trước chủ dự án đã thuê mình thực hiện ĐTM cho
dự án. Chủ dự án chịu trách nhiệm đối với chi phí lập và thẩm định báo cáo ĐTM
cho dự án của mình.
Chủ thể thực hiện ĐTM của dự án phải đáp ứng các điều kiện được quy định
tại Điều 13 Nghị định 18/2015, cụ thể:
Một là, cán bộ thực hiện ĐTM phải đáp ứng điều kiện, đó là có trình độ đại
học trở lên và phải có chứng chỉ tư vấn ĐTM đúng chuyên ngành;
Hai là, tổ chức thực hiện ĐTM phải có cán bộ chuyên ngành liên quan đến
dự án với trình độ đại học trở lên;
Ba là, phải có phòng thí nghiệm, các thiết bị kiểm chuẩn được xác nhận đủ
điều kiện thực hiện đo đạc, lấy mẫu, xử lý, phân tích mẫu về môi trường phục vụ
việc ĐTM của dự án; trường hợp không có phòng thí nghiệm, các thiết bị kiểm
chuẩn đáp ứng yêu cầu, phải có hợp đồng thuê đơn vị có đủ năng lực.
Về chứng chỉ tư vấn ĐTM đối với cán bộ thực hiện ĐTM do Bộ Tài nguyên
và Môi trường quản lý việc đào tạo, cấp chứng chỉ. Tuy nhiên, từ khi Nghị định số
18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ có hiệu lực, đến nay Bộ Tài nguyên và
Môi trường chưa có Thông tư chính thức hướng dẫn quy định quản lý việc đào tạo, cấp
chứng chỉ tư vấn ĐTM. Việc chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn tới công tác đánh giá trình
độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ thực hiện ĐTM là rất khó khăn và hạn chế. Khi
những tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn đối với chủ thể thực hiện ĐTM chưa rõ ràng
thì thực trạng năng lực thực hiện ĐTM và lập báo cáo ĐTM còn yếu kém như hiện nay
là đương nhiên xảy ra. Điều này khiến cho chất lượng công tác ĐTM là không cao,
không đáp ứng được yêu cầu của ĐTM. Nhà nước cần sớm ban hành các quy định, tiêu
chuẩn đối với chủ thể thực hiện ĐTM, cũng như thường xuyên tổ chức hướng dẫn,
nâng cao năng lực chuyên môn cho các chủ thể thực hiện ĐTM.
Ngoài ra, sự phối hợp giữa chủ dự án với tổ chức tư vấn thực hiện ĐTM thực
tế thiếu chặt chẽ. Chủ dự án giao khoán, phó mặc cho tổ chức tư vấn thực hiện
ĐTM do mình thuê thực hiện hoạt động ĐTM. Đơn vị được thuê thực hiện ĐTM
27
khi thiếu sự tham gia đóng góp ý kiến của chủ dự án – người nắm rõ nhất về cơ chế,
quy mô, hoạt động của dự án sẽ dẫn tới báo cáo ĐTM thiếu tính chính xác, các nội
dung đánh giá tác động, biện pháp khắc phục không phù hợp,…Chủ dự án thì do bỏ
mặc cho đơn vị tư vấn thực hiện ĐTM nên không nắm rõ được nội dung báo cáo
ĐTM và dẫn tới không thực hiện được những yêu cầu, cam kết đúng như theo báo
cáo ĐTM. Do đó, giữa chủ dự án với tổ chức tư vấn thực hiện ĐTM cần phải có sự
phối hợp chặt chẽ, thống nhất cùng tham gia thực hiện ĐTM để đảm bảo hoàn thành
tốt các nghĩa vụ ĐTM của mình, tránh khỏi các vi phạm trong ĐTM.
Thứ hai, quy định về tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động
môi trường
Tham vấn có thể hiểu là hoạt động tham khảo ý kiến tư vấn, đánh giá của
người khác đối với một lĩnh vực, vụ việc cụ thể. Tham vấn mang tính hỗ trợ người
được tham vấn, giúp họ xác định và làm sáng tỏ vấn đề, xem xét các khả năng và
giúp họ đưa ra lựa chọn tối ưu để giải quyết vấn đề của mình.
Tham vấn trong quá trình thực hiện ĐTM nhằm tham khảo ý kiến từ nhiều
phía, thu thập kiến thức bản địa giúp cho chủ dự án có những nhận định, đánh giá,
quyết định đúng đắn, toàn diện, bao quát hơn cho hoạt động ĐTM. Tham vấn trong
quá trình thực hiện ĐTM là nhằm hoàn thiện báo cáo ĐTM, hạn chế thấp nhất các
tác động xấu của dự án đến môi trường và con người, bảo đảm cho sự phát triển bền
vững. Tham vấn cộng đồng cũng góp phần tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận
thức của cộng đồng với vấn đề môi trường. Đây là giai đoạn được hầu hết các quốc
gia, tổ chức thừa nhận và thực hiện trong hoạt động ĐTM. Việc tham vấn ý kiến
cộng đồng khi thực hiện ĐTM trở thành yêu cầu bắt buộc, thể hiện sự dân chủ, nhân
văn, khoa học…
Tuy nhiên, không phải dự án nào cũng cần thiết phải có ý kiến tham vấn.
Khoản 3 Điều 21 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định các dự án không phải
thực hiện tham vấn gồm: (1) Dự án phù hợp với quy hoạch của khu sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ tập trung đã được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
cho giai đoạn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; (2) Thuộc danh mục bí mật nhà nước.
Đối với các dự án không thuộc danh mục trên, chủ dự án phải tổ chức tham
vấn Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân
cấp xã) nơi thực hiện dự án, các tổ chức và cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp
28
bởi dự án; nghiên cứu, tiếp thu những ý kiến khách quan, kiến nghị hợp lý của các
đối tượng liên quan được tham vấn. Việc tham vấn được tiến hành theo hai cấp:
Một là, Tham vấn Ủy ban nhân dân cấp xã và tổ chức có liên quan
Chủ dự án gửi báo cáo ĐTM của dự án đến UBND cấp xã nơi thực hiện dự án
và các tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi dự án kèm theo văn bản đề nghị cho ý kiến;
UBND cấp xã nơi thực hiện dự án và các tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi
dự án có văn bản phản hồi trong thời hạn tối đa mười lăm (15) ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được văn bản của chủ dự án, hoặc không cần có văn bản phản hồi trong
trường hợp chấp thuận việc thực hiện dự án.
Hai là, Tham vấn cộng đồng dân cư
Chủ dự án và UBND cấp xã nơi thực hiện dự án đồng chủ trì tổ chức họp
cộng đồng dân cư với sự tham gia của những người đại diện cho Uỷ ban mặt trận
Tổ quốc cấp xã, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ dân
phố, thôn, bản được UBND cấp xã triệu tập. Ý kiến của các đại biểu tham dự cuộc
họp phải được thể hiện đầy đủ, trung thực trong biên bản họp cộng đồng.
Trường hợp dự án thuộc địa bàn nhiều xã, chủ dự án có thể tự quyết định
hình thức tổ chức cuộc họp tham vẫn cộng đồng dân cư của từng xã hoặc liên xã.
Bộ TN&MT đã có hướng dẫn biểu mẫu cụ thể cho các văn bản liên quan đến
hoạt động tham vấn trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường tại
Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 05 năm 2015 quy định về đánh giá
môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi
trường, bao gồm: mẫu văn bản của chủ dự án gửi xin ý kiến tham vấn Ủy ban nhân
dân cấp xã/cơ quan, tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi dự án về nội dung của báo
cáo đánh giá tác động môi trường; mẫu văn bản trả lời của cơ quan, tổ chức được
xin ý kiến tham vấn; mẫu biên bản họp tham vấn cộng đồng dân cư chịu tác động
trực tiếp bởi dự án.
Quy định về tham vấn cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án
thông qua hình thức họp – cơ chế thông tin hai chiều là một cơ chế rất tiến bộ, tạo
điều kiện cho người dân được ý kiến trực tiếp, sẽ giúp chủ dự án lập được báo cáo
ĐTM hoàn thiện, khách quan hơn.
Hoạt động tham vấn về cơ bản chỉ được thực hiện trong giai đoạn lập báo
cáo ĐTM; còn trong giai đoạn thẩm định, chỉ trong trường hợp cần thiết, cơ quan
29
thẩm định mới lấy ý kiến tham vấn của các cơ quan, tổ chức và các chuyên gia về môi
trường; phạm vi tham vấn đã thu hẹp hơn. Ở các quốc gia phát triển, tham vấn cộng
đồng được tổ chức một cách toàn diện, công khai hơn với nội dung tham vấn đầy đủ,
thời gian tham vấn lâu, phương thức tham vấn đa dạng, việc tham vấn cũng được thực
hết hầu hết các giai đoạn của ĐTM nên đem lại chất lượng tham vấn rất cao.
Hiện nay, pháp luật ĐTM Việt Nam vẫn chưa quy định rõ ràng, chặt chẽ về
cơ chế tham vấn cộng đồng dân cư. Quy mô cộng đồng dân cư chịu tác động còn
chưa rõ ràng, dự án thuộc địa phận xã này, nhưng tác động của dự án tới môi trường
đâu chỉ trong phạm vi xã đấy mà còn có thể lan rộng ra các địa phương xung
quanh.Mỗi giai đoạn của dự án lại có thể tác động tới các đối tượng khác nhau, nên
việc xác định đối tượng chịu tác động để tiến hành tham vấn vẫn còn hạn chế. Đối
tượng được tham vấn cũng quá hẹp (chỉ bao gồm UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc cấp xã, đại diện cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án, tổ chức chịu tác
động trực tiếp của dự án). Trong khi đó, theo yêu cầu của việc tham vấn rộng rãi
còn có rất nhiều các đối tượng khác cần được tham vấn như: các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có mối quan tâm đến dự án và các tác động của dự án; các trường đại học,
các tổ chức nghiên cứu, các chuyên gia có chuyên môn và kinh nghiệm về lĩnh vực
của dự án và các vấn đề môi trường liên quan đến dự án…[28]Pháp luật ĐTM của
Việt Nam cũng cần quy định chặt chẽ hơn về cuộc họp tham vấn cộng đồng dân cư
để đảm bảo cho người dân được lên tiếng, được thoải mái góp ý vào dự án như về
việc cung cấp tài liệu tới dự án cho cộng đồng dân cư trước khi tiến hành họp, ý
kiến tham vấn như nào là hợp lý mà chủ dự án phải tiếp thu, ý kiến mà chủ dự án
không tiếp thu cần có giải trình,…
Khi pháp luật quốc gia còn chưa khắc phục được những hạn chế trên thì hoạt
động tham vấn sẽ còn hạn chế, còn mang tính thủ tục, chưa thể hiện được vai trò
của mình trong ĐTM.
Thứ ba, quy định về Lập báo cáo đánh giá tác động môi trường
Báo cáo ĐTM là hình thức thể hiện kết quả của quá trình ĐTM. Báo cáo
ĐTM hợp lệ cần phải tuân thủ các yêu cầu về cả hình thức và nội dung, để từ đó các
cơ quan có thẩm quyền xem xét, ra quyết định phê duyệt.
Về hình thức của báo cáo ĐTM, báo cáo ĐTM được thể hiện dưới dạng văn
bản và phải đáp ứng yêu cầu về hình thức do Bộ Tài nguyên và Môi trường quy
30
định tại Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 05 năm 2015 quy định về
đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ
môi trường. Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT quy định mẫu trang bìa, trang phụ
bìa của báo cáo ĐTM tại Phụ lục 2.2 và quy định cấu trúc của báo cáo ĐTM tại phụ
lục 2.3.
Về nội dung của Báo cáo đánh giá tác động môi trường
Nội dung của Báo cáo đánh giá tác động môi trường là vấn đề cơ bản, mấu
chốt của báo cáo ĐTM. Nội dung báo cáo ĐTM là thể hiện kết quả quá trình ĐTM,
là kết quả của nỗ lực nghiên cứu, thăm dò, đánh giá tác động của dự án tới môi
trường, là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt ĐTM, để dự án được triển
khai. Điều 22 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã quy định nội dung chính của
báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đồng thời, tại Phụ lục 2.3 Thông tư số
27/2015/TT-BTNMT ngày 29 tháng 05 năm 2015 của Bộ tài nguyên và Môi trường
quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế
hoạch bảo vệ môi trường cũng quy định về nội dung và hướng dẫn điền thông tin
vào Báo cáo đánh giá tác động môi trường mẫu. Báo cáo ĐTM về cơ bản bao gồm
các nội dung chính như:mô tả dự án về vị trí, công nghệ, quy mô; đánh giá hiện
trạng môi trường, tình hình kinh tế - xã hội; đánh giá tác động của dự án tới môi
trường; các biện pháp giảm thiểu, phòng ngừa tác động xấu; kết quả tham vấn;
chương trình quản lý, giám sát môi trường.
Như vậy, báo cáo ĐTM không chỉ phản ánh kết quả của quá trình của phân
tích, đánh giá, dự báo các tác động của dự án tới môi trường tự nhiên và cả tác động
tới sức khỏe cộng đồng. Đây là điểm rất đáng ghi nhận của pháp luật ĐTM ở Việt
Nam, phần nào cho thấy sự quan tâm của nhà làm luật tới môi trường xã hội. Nhiều
nước trên thế giới yêu cầu báo cáo ĐTM là xem xét các tác động tới môi trường nói
chung là bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường xã hội
với các yếu tố như văn hóa, kinh tế, sức khỏe, xã hội. Quy định về ĐTM của Luật
Bảo vệ Môi trường năm 2014 của Việt Nam không bắt buộc xem xét đến tất cả các
vấn đề về xã hội, mà mới chỉ yêu cầu đối với sức khỏe cộng đồng, theo tác giả đây
là quy định phù hợp, cần thiết. Sức khỏe con người suy cho cùng là mục đích cuối
cùng của việc bảo vệ môi trường, nên đương nhiên cần phải được các chủ dự án,
người lập báo cáo ĐTM xem xét tới khi tiến hành ĐTM dự án của mình, đây là vấn
31
đề cấp thiết, mấu chốt và phải được bắt buộc. Còn những vấn đề xã hội khác đúng
là cũng quan trọng, nhưng chưa phải là cấp thiết trong hoàn cảnh hiện giờ của Việt
Nam, khi mà hoạt động ĐTM vẫn chưa thực sự hoàn thiện, tiến bộ, còn gặp rất
nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Các vấn đề xã hội khác sẽ được quan tâm
bằng những phương thức khác, chứ chưa thể lồng ghép ngay vào báo cáo ĐTM,
việc này sẽ gây khó khăn cho người tiến hành ĐTM, gây hạn chế hoạt động đầu tư,
cản trở phần nào sự phát triển của dự án, của phát triển kinh tế.
2.2.3. Thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
Quy định về thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động
môi trường
Thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM được xác định căn cứ vào
quy mô, tính chất của dự án, vào thẩm quyền quyết định, phê duyệt chủ trương đầu
tư. Thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM thuộc về Bộ TN&MT; các bộ,
cơ quan ngang bộ; UBND cấp tỉnh; được phân định như sau:
Bộ TN&MT chịu trách nhiệm thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của các dự
án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; các dự án liên ngành, liên tỉnh;… Danh mục các dự án thuộc
thẩm quyền thẩm định, phê duyệt của Bộ TN&MT được quy định tại Phụ lục III
Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy định
về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường.
Bộ, cơ quan ngang bộ tổ tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của các
dự án thuộc thẩm quyền quyết định phê duyệt đầu tư của mình,trừ các dự án do Bộ
TN&MT thẩm định, phê duyệt nêu trên.
Bộ Quốc phòng, Bộ Công an tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của
các dự án thuộc bí mật quốc phòng, an ninh và các dự án thuộc thẩm quyền quyết
định phê duyệt đầu tư của mình, trừ các dự án thuộc thẩm quyền thẩm định, phê
duyệt của Bộ TN&MT.
UBND cấp tỉnh tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của các dự án
đầu tư trên địa bàn của mình, không thuộc các dự án đã nêu trên.
Đối với các dự án thuộc thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của
UBND cấp tỉnh đầu tư vào các khu công nghiệp đã được phê duyệt báo cáo
32
ĐTMcủa dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đã hoàn thành xây dựng trạm xử lý nước
thải tập trung hoặc đã được cơ quan có thẩm quyền xác nhận hoàn thành công trình
bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; UBND cấp tỉnh có thể ủy quyền
cho Ban quản lý các khu công nghiệp thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM. Điều
kiện là Ban quản lý các khu công nghiệp đã thành lập Phòng Quản lý môi trường và
có đủ biên chế từ năm (05) người trở lên có chuyên môn về bảo vệ môi trường. Ban
quản lý các khu công nghiệp này phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ đến UBND
cấp tỉnh; chịu sự kiểm tra, hướng dẫn của UBND cấp tỉnh và Sở TN&MT theo quy
định của pháp luật.
Có sự phân cấp thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM sẽ góp phần
phân chia khối lượng công việc, tránh sự quá tải, ùn ứ tại một bộ phận nhất định.
Việc phân cấp này cần dựa trên khoa học – kỹ thuật và trên thực tiễn triển khai. Qua
thực tế cho thấy phần lớn các báo cáo ĐTM do Bộ TN&MT thẩm định, phê duyệt;
các báo cáo ĐTM do Bộ, cơ quan ngang Bộ thẩm định, phê duyệt tương đối ít, duy
chỉ có Bộ Giao thông vận tải là thẩm định, phê duyệt nhiều hơn cả. Việc tuân thủ
quy định pháp luật hiện nay về phân định thẩm quyền đang được các cơ quan có
thẩm quyền thực hiện tương đối tốt. Việc phân cấp thẩm định, phê duyệt báo cáo
ĐTM cho địa phương là hướng đi đúng đắn, tuy nhiên, một số địa phương còn hạn
chế về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cũng như các trang thiết bị cần thiết
phục vụ hoạt động thẩm định, phê duyệt còn thiếu, Đặc biệt tại các tỉnh miền núi có
trình độ phát triển kinh tế xã hội chưa cao, các cán bội chuyên trách còn hạn chế về
năng lực chuyên môn nên triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ
môi trường chưa cao. Ngoài ra, cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM đang gần như
đồng thời là cơ quan có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, nên phần nào hạn
chế sự độc lập, khách quan khi phê duyệt báo cáo ĐTM; bởi nhiều địa phương vẫn
chú trọng phát triển kinh tế hơn là đầu tư cho bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, xuất pháttừviệc thiếu sự đồng nhất giữa các văn bản quy phạm
pháp luật, khiến cho việc tuân thủ, thi hành gặp nhiều khó khăn và sai phạm là khó
tránh khỏi. Tiêu biểu như theo văn bản số 4952/UBND-TNMT ngày 10/10/2016
của UBND tỉnh Lào Cai gửi Bộ TN&MT về việc xem xét thẩm quyền thẩm định và
phê duyệt báo cáo ĐTM các dự án thủy điện. Văn bản nêu rõ sự bất nhất giữa các
văn bản Nghị định 18/2015/NĐ-CP, Thông tư 27/2015/TT-BTNMT và Nghị định
33
201/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Tài nguyên nước. Cụ thể:
(1) Nghị định 18/2015/NĐ-CP quy định: dự án khai thác nước thuộc thẩm
quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì sẽ do Bộ Tài nguyên và Môi
trường thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM (mục 6 Phụ lục III). Nghị định
201/2013/NĐ-CP quy định: dự án khai thác nước với công suất 2000kW (2MW) trở
lên do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép xây dựng (điểm d Khoản 1 Điều 28).
Như vậy: dự án với công suất 2MW trở lên do Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm
định, phê duyệt báo cáo ĐTM
(2) Nghị định 18/2015/NĐ-CP cũng quy định: công trình thủy điện có công
suất 10MW trở lên phải thực hiện ĐTM (mục 27 Phụ lục II)
(3) Thông tư 27/2015/TT-BTNMT lại quy định: nhà máy thủy điện công suất
dưới 10MW chỉ phải đăng ký Kế hoạch bảo vệ môi trường của Sở Tài nguyên và
Môi trường (Mục 8 Phụ lục 5.1).
So sánh ba quy định nêu trên đã cho thấy sự thiếu đồng nhất của pháp luật.
Ngay trong chính Nghị định 18/2015/NĐ-CP đã có sự bất nhất, công trình thủy điện
trên 10MW mới phải thực hiện ĐTM, vậy mà lại quy định công trình thủy điện
2MW do Bộ TN&MT thẩm định báo cáo ĐTM. Thêm nữa Thông tư 27/2015/TT-
BTNMT đã khiến cho các cơ quan môi trường Lào Cai nói riêng và các cơ quan
quản lý về môi trường địa phương nói chung lúng túng, khó khăn trong xác định
trách nhiệm, thẩm quyền. Chính sự thiếu đồng nhất của các văn bản quy phạm pháp
luật đã khiến cho việc thực hiện phân cấp thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc.
Quy trình thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
Bước 1:Chủ dự án nộp sơ đến cơ quan có thẩm quyền thẩm định
Hồ sơ bao gồm: 01 văn bản đề nghị phê duyệt báo cáo ĐTM, Báo cáo ĐTM
của dự án (thường là 7 bản theo số lượng thành viên hội đồng thẩm định, chủ dự án
phải cung cấp thêm nếu số lượng thành viên hội đồng thẩm định cao hơn)
Bước 2: Cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt nhận hồ sơ
Nếu hồ sơ chưa hợp lệ, cơ quan thẩm định có trách nhiệm thông báo bằng
văn bản đến cho chủ dự án trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ
sơ. Nếu hồ sơ hợp lệ, cơ quan phải giao giấy biên nhận cho chủ dự án.
34
Bước 3: Thẩm định báo cáo ĐTM
Việc thẩm định báo cáo ĐTM do một Hội đồng thẩm định thực hiện. Hội
đồng này sẽ do thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan thành lập với ít nhất 7
thành viên. Cơ cấu hội đồng thẩm định gồm Chủ tịch hội đồng, một (01) Phó Chủ
tịch hội đồng trong trường hợp cần thiết, một (01) Ủy viên thư ký, hai (02) Ủy viên
phản biện và một số Ủy viên, trong đó phải có ít nhất ba mươi phần trăm (30%) số
thành viên hội đồng có từ bảy (07) năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đánh giá tác
động môi trường. Việc thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các
dự án để kịp thời ứng phó với thiên tai, dịch bệnh có thể được thực hiện thông qua
hình thức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan, không nhất thiết phải
thông qua hội đồng thẩm định.
Trong quá trình thẩm định, cơ quan thẩm định được tiến hành các hoạt động
sau đây: Khảo sát, kiểm chứng các thông tin, số liệu về hiện trạng môi trường tại địa
điểm thực hiện dự án và khu vực kế cận; Lấy mẫu phân tích kiểm chứng; Tổ chức
lấy ý kiến các chuyên gia, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp phản biện
nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi trường; Tổ chức các cuộc họp đánh giá
theo chuyên đề. Sau khi hội đồng thẩm định có trách nhiệm xem xét nội dung báo
cáo đánh giá tác động môi trường và đưa ra ý kiến thẩm định để làm cơ sở cho cơ
quan thẩm định xem xét, quyết định việc phê duyệt báo cáo ĐTM.
Trong thời hạn 45 ngày làm việc đối với báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền của
Bộ Tài nguyên và môi trường, 30 ngày làm việc đối với các báo cáo ĐTM còn lại,
kể từ ngày nhận đủ hồ sơ thẩm định báo cáo ĐTM, cơ quan thẩm định phải trả kết
quả thông qua không cần chỉnh sửa, bổ sung hoặc thông qua với điều kiện phải
chỉnh sửa, bổ sung. Trường hợp không thông qua, cơ quan thẩm định có văn bản trả
lại hồ sơ và nêu rõ lý do.
Bước 4: Phê duyệt và gửi kết quả
Sau khi nhận kết quả thẩm định. Chủ dự án hoàn thiện và gửi cơ quan thẩm
định hồ sơ đề nghị phê duyệt báo cáo ĐTM. Hội đồng thẩm định trình hồ sơ đề nghị
phê duyệt cho thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền phê duyệt do
chủ dự án gửi đến, để ban hành quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM. Trường hợp
không phê duyệt thì cơ quan phê duyệt phải có văn bản nêu rõ trong thời hạn 10
ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị phê duyệt báo cáo ĐTM.Sau khi
35
phê duyệt, cơ quan phê duyệt ban hành quyết định phê duyệt và xác nhận báo cáo
ĐTM đã được phê duyệt trong thời hạn 20 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ
đề nghị phê duyệt báo cáo ĐTM, sau đó các tài liệu này sẽ được gửi đến chủ dự án
và các đơn vị liên quan.
Như vậy dự án được phê duyệt báo cáo ĐTM là dự án có Quyết định phê
duyệt báo cáo ĐTM và báo cáo ĐTM của dự án đã có xác nhận phê duyệt vào mặt
sau của phụ bìa.
Một vấn đề đối với quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM đó là trong đó không
có nội dung quy định việc phối hợp hoặc ủy quyền cho địa phương thực hiện kiểm
tra, giám sát sau phê duyệt, dẫn tới các cơ quan địa phương không chủ động xử lý
khi có vi phạm trong thực hiện báo cáo ĐTM.
Về lệ phí thẩm định
Lệ phí đối với các dự án thuộc thẩm quyền thẩm định của Bộ, cơ quan ngang
bộ thực hiện theo quy định tại Thông tư số 195/2016/TT-BTC ngày 08 tháng 11
năm 2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng
phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường chi
tiết do cơ quan trung ương thực hiện thẩm định. Chủ dự án nộp hồ sơ thẩm định sẽ
đồng thời nộp lệ phí thẩm định cho cơ quan thẩm định. Lệ phí này được phân chia
như sau: 90% được sử dụng để chi phí cho việc thực hiện các hoạt động liên quan
đến thẩm định báo cáo ĐTM và 10% còn lại nộp vào ngân sách nhà nước. Lệ phí
hiện nay trong khoảng từ 6 - 96 triệu đồng, tùy thuộc vào loại dự án và vốn đầu tư
vào dự án.
Đối với báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền thẩm định của UBND cấp tỉnh, việc
tổ chức thu phí được thực hiện trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh và Thông tư số 250/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính hướng
dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, tùy điều kiện cụ thể của từng địa
phương mà quy định mức thu cho phù hợp với quy mô dự án; chuyên ngành dự án
hoặc mức độ phức tạp của công tác thẩm định. Khác với trước kia, mức thu phí
thẩm định được quy định chung cho các tỉnh là như nhau từ 5 - 26 triệu đồng trên
một báo cáo ĐTM [1].Như vậy, địa phương được tự quy định mức phí, việc quản
lý, sử dụng phí thẩm định đối với báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền thẩm định của
36
mình. Các dự án có mức vốn đầu tư giống nhau, tuy nhiên lại được thực hiện ở địa
phương khác có sự khác nhau về vị trí địa lý, tình hình kinh tế - xã hội, văn hóa,…
sẽ dẫn tới hoạt động thẩm định có sự khác nhau, do vậy phí thẩm định báo cáo
ĐTM cho các dự án này được địa phương tự quy định là phù hợp. Tuy nhiên, địa
phương tự quy định về phí thẩm định cũng có hạn chế đó là cơ sở để địa phương tự
thiết lập kế hoạch thu phí là chưa rõ ràng; trình độ cán bộ nhân viên chuyên ngành
thiếu năng lực, kinh nghiệm sẽ khiến cho mức phí thẩm định báo cáo thiếu tính phù
hợp, không đáp ứng được các yêu cầu thẩm định.
Về chi phí thẩm định báo cáo ĐTM quy định như hiện nay là rất thấp, chiếm
một phần rất nhỏ vốn đầu tư của dự án, trong khi các quốc gia khác quy định phí
này có thể lên tới 1-3% tổng vốn đầu tư. Với mức phí thấp như hiện nay khó có thể
đáp ứng các yêu cầu khảo sát, đo đạc một cách nghiêm túc và cập nhật các chỉ tiêu
môi trường ở các khu vực dự án cụ thể phục vụ quá trình thẩm định báo cáo ĐTM.
Pháp luật hiện hành đã quy định tương đối cụ thể đầy đủ về các vấn đề liên
quan đến hoạt động thẩm định báo cáo ĐTM, bởi đây là một giai đoạn rất quan
trọng, là giai đoạn tiệm cận cho quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM. Các quy trình,
thủ tục thẩm định ĐTM được quy định rõ ràng, minh bạch theo hướng cải cách
hành chính, đảm bảo chất lượng của công tác thẩm định. Từ năm 2005 đến nay, hơn
100 dự án đầu tư trên các lĩnh vực khác nhau đã phải thay đổi địa điểm hoặc không
được phê duyệt vì không đảm bảo các yêu cầu về BVMT. Như vậy, có thể thấy
ĐTM trở thành công cụ hữu ích khi gắn trách nhiệm của chủ dự án đối với công tác
BVMT [27].Tuy nhiên, xét về tính đồng bộ, toàn diện thì các quy định về ĐTM
hiện nay đang thiếu những yêu cầu, tiêu chí cần thiết để đảm bảo chất lượng của các
báo cáo ĐTM. Các quy định hiện hành thiếu những quy định về cơ sở để đánh giá
chất lượng của báo cáo ĐTM đó.Điều này dẫn đến thực tế là việc thẩm định các báo
cáo của ĐTM chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của người thẩm định, chưa có các căn
cứ cụ thể để thẩm định và cơ chế pháp lí cụ thể ràng buộc yêu cầu thẩm định. Hạn
chế của pháp luật ĐTM đã khiến cho chất lượng thẩm định, phê duyệt một số báo
cáo ĐTM một cách tùy tiện, không đảm bảo chất lượng.
2.2.4. Các nội dung bảo vệ môi trường sau khi báo cáo ĐTM được phê
duyệt
Sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt, chủ dự án sẽ có trách nhiệm thực hiện
37
các yêu cầu của quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM, có thể còn phải điều chỉnh nội
dung của dự án đầu tư để đảm bảo các biện pháp, công trình bảo vệ môi trường theo
yêu cầu này trong trường hợp cần thiết.
Niêm yết công khai kế hoạch quản lý môi trường
Chủ dự án lập kế hoạch quản lý môi trường gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi đã tham vấn ý kiến trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường để
được niêm yết công khai trước khi khởi công xây dựng, đồng thời gửi UBND tỉnh
và SởTN&MT để kiểm tra và theo dõi. Kế hoạch quản lý môi trường của dự án
được lập dựa trên cơ sở chương trình quản lý môi trường và giám sát môi trường đã
đề xuất trong Báo cáo ĐTM.
Báo cáo tiến độ triển khai và các thay đổi của dự án
Chủ dự án phải báo cáo rõ thời gian bắt đầu thi công, các hạng mục đã và
đang xây dựng và các biện pháp bảo vệ môi trường. Các thay đổi của dự án (nếu có)
sau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt.
Dự án đã được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường nhưng trong
quá trình triển khai thực hiện có một trong những thay đổi dưới đây, chủ dự án phải
lập lại báo cáo đánh giá tác động môi trường:
Thứ nhất, Dự án không triển khai trong thời gian 24 tháng kể từ thời điểm
quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM;
Thứ hai, khi có thay đổi địa điểm thực hiện dự án so với phương án trong báo
cáo ĐTM đã được phê duyệt;
Thứ ba, khi bổ sung những hạng mục đầu tư có quy mô, công suất tương
đương với đối tượng thuộc danh mục dự án phải thực hiện ĐTM quy định tại Phụ
lục II Nghị định 18/2015/NĐ-CP;
Thứ tư, dự án có thay đổi về quy mô, công suất, công nghệ hoặc những thay
đổi khác làm tăng tác động xấu đến môi trường so với phương án trong báo cáo
ĐTM đã được phê duyệt mà các công trình bảo vệ môi trường không có khả năng
giải quyết được các vấn đề môi trường gia tăng;
Thứ năm, lập lại báo cáo ĐTM theo đề nghị của chủ dự án.
Quy trình lập lại báo cáo ĐTM được thực hiện như khi lập mới báo cáo
ĐTM. Chủ dự án được chỉ tiến hành thực hiện những thay đổi nêu trên sau khi đã
được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt lại báo cáo ĐTM.
38
Trường hợp thay đổi quy mô, công suất, công nghệ làm tăng tác động xấu
đến môi trường so với phương án trong báo cáo ĐTM đã được phê duyệt nhưng
chưa đến mức phải lập lại báo cáo ĐTM, chủ đầu tư dự án phải giải trình với cơ
quan phê duyệt và chỉ được thực hiện sau khi có văn bản chấp thuận của cơ quan
phê duyệt báo cáo ĐTM.
Quy định về việc lập lại báo cáo ĐTM như vậy là hợp lý và cần kiểm soát
việc thực hiện các quy định đó chặt chẽ, không để lọt các đối tượng thuộc diện phải
lập lại báo cáo ĐTM mà lại không thực hiện. Bởi hoạt động này đóng vai trò như
một báo cáo ĐTM mới, cũng là công cụ quản lý môi trường, quy định trách nhiệm
bảo vệ môi trường của chủ dự án đối với bất kỳ hoạt động nào của mình. Quy định
về lập lại báo cáo ĐTM góp phần điều chỉnh các biện pháp bảo vệ môi trường cho
phù hợp với dự án, với thực tiễn, giảm thiểu những tác động tiêu cực mới phát sinh
khi dự án có sự thay đổi.
Tuy nhiên, kiểm soát được sự thay đổi của các dự án để yêu cầu lập lại báo
cáo ĐTM là hoạt động tương đối khó. Theo quy định, khi có sự thay đổi mà pháp
luật yêu cầu thay đổi đó thuộc diện phải lập lại báo cáo ĐTM, chủ dự án phải tự
giác tiến hành thực hiện lập lại báo cáo ĐTM. Nhưng chủ đầu tư thường không lập
lại thủ tục môi trường trước khi nâng công suất, quy mô sản xuất và chỉ khi cơ quan
quản lý kiểm tra phát hiện và yêu cầu thì các cơ sở này mới làm thủ tục môi trường
lại. Vẫn có một số trường hợp chây ì chưa thực hiện.
Kế hoạch vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải
Chủ dự án có trách nhiệm thông báo kế hoạch vận hành thử nghiệm các công
trình xử lý chất thải đến tổ chức nơi tham vấn, cơ quan thẩm định 10 ngày làm việc
trước khi tiến hành vận hành các công trình đó. Tổ chức vận hành thử nghiệm các
công trình xử lý chất thải đồng thời với quá trình vận hành thử nghiệm dự án.
Trường hợp gây ra sự cố môi trường thì phải dừng ngay hoạt động vận hành thử
nghiệm và báo cáo kịp thời tới cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để hướng
dẫn giải quyết; chịu trách nhiệm khắc phục sự cố môi trường, bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật. Việc vận hành thử nghiệm không quá 6 tháng, để kéo
dài thời gian vận hành thử nghiệm phải được sự chấp thuận của cơ quan phê duyệt
báo cáo ĐTM.
Xác nhận công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành
39
Đối với các trường hợp quy định tại cột 4 Phụ lục II Nghị định 18/2015/NĐ-
CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính Phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi
trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch
bảo vệ môi trường, chủ dự án phải báo cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ
môi trường phục vụ giai đoạn vận hành gửi cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác
động môi trường để kiểm tra, xác nhận hoàn thành trước khi đưa dự án vào vận
hành chính thức. Đối với dự án đầu tư có nhiều giai đoạn, việc báo cáo kết quả thực
hiện các công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành dự án được thực
hiện theo từng giai đoạn của dự án.
Sau đó, thủ trưởng cơ quan phê duyệt báo cáo ĐTM thành lập đoàn kiểm tra
để thực hiện công tác kiểm tra các công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn
vận hành dự án.
Đoàn kiểm tra sẽ tiến hành nghiên cứu hồ sơ dự án, tiến hành các cuộc họp,
hoạt động kiểm tra thực tế các công trình, tham gia đối thoại trực tiếp với chủ dự án
để rồi đưa ra đánh giá công trình đạt yêu cầu hay không đạt yêu cầu.
Trường hợp công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự
án đã được xây dựng phù hợp với báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê
duyệt và văn bản chấp thuận cho phép điều chỉnh, thay đổi của cơ quan phê duyệt
báo cáo ĐTM (nếu có), cơ quan kiểm tra cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình
bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự án.
Đối với các công trình mà đoàn kiểm tra cần tiến hành lấy mẫu, phân tích các
chỉ tiêu môi trường để kiểm chứng thì thời hạn cấp giấy xác nhận hoàn thành công
trình bảo vệ môi trường là 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ báo cáo kết quả thực
hiện công trình bảo vệ môi trường; và 15 ngày đối với các công trình mà đoàn kiểm
tra không cần tiến hành lấy mẫu, phân tích các chỉ tiêu môi trường để kiểm chứng.
Nếu công trình bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu của phê duyệt
báo cáo ĐTM thì trong thời hạn năm (05) ngày làm việc kể từ ngày kết thúc việc
kiểm tra, cơ quan kiểm tra có thông báo bằng văn bản đến chủ dự án. Chủ dự án sẽ
tiến hành khắc phục những tồn tại, những điểm chưa đáp ứng yêu cầu mà cơ quan
kiểm tra đưa rồi báo cáo lại để được xem xét, xác nhận. Trong 5 ngày làm việc, cơ
quan kiểm tra có trách nhiệm xem xét, cấp giấy xác nhận hoặc có văn bản trả lời
chủ dự án.
40
Có thể thấy pháp luật hiện hành quy định chưa thực sự đầy đủ về cơ chế kiểm
tra sau phê duyệt báo cáo ĐTM, chưa quy định rõ về các nội dung phải kiểm tra,
trường hợp nào cần tiến hành lấy mẫu, phân tích các chỉ tiêu môi trường, trường hợp
nào không? Vấn đề về nhân sự, pháp luật cũng chưa quy định cụ thể về điều kiện của
thành viên đoàn kiểm tra, những người nào đủ điều kiện, khả năng để tham gia kiểm tra
công tác hậu kiểm sau phê duyệt báo cáo ĐTM. Cùng với các nguyên nhân thuộc về ý
thức chấp hành của chủ dự án nên tình trạng các dự án chưa đảm bảo thực hiện các
công trình bảo vệ môi trường phù hợp với quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM còn tồn
tại nhiều, hay những công trình đã được cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo
vệ môi trường nhưng thực tế công trình đó lại không hề đem lại hiệu quả bảo vệ môi
trường. Công tác kiểm tra, giám sát các công trình, hoạt động thực hiện báo cáo ĐTM
cần phải chặt chẽ, đầy đủ trong các giai đoạn của dự án nhất là giai đoạn sau khi báo
cáo ĐTM đã được phê duyệt, đồng thời phải quy định rõ trách nhiệm của những người
tham gia kiểm tra công trình bảo vệ môi trường.
2.2.5. Xử lý vi phạm pháp luật đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam
Mỗi chủ thể khi có hành vi vi phạm pháp luật sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp
lý bất lợi do pháp luật quy định. Đây chính là trách nhiệm pháp lý mà cơ quan có
thẩm quyền sẽ quy định để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật ĐTM.Tùy thuộc
vào mức độ, vào hậu quả của hành vi vi phạm mà chủ thể thực hiện hành vi sẽ phải
hình thức xử lý vi phạm khác nhau. Với những hành vi vi pháp luật ĐTM mà gây ô
nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ chức và cá nhân khác, có
trách nhiệm khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại và xử lý
theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường và pháp luật có liên quan.
Xử lý hành chính
Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường được quy định
trong Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Các hành vi vi phạm quy định về thực hiện báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền
phê duyệt của Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ có khung xử phạt từ 5.000.000 đồng
đến 200.000.000 đồng tùy vi phạm. Vi phạm nhẹ nhất là việc chủ dự án không gửi
kế hoạch quản lý môi trường cho UBND cấp xã để thực hiện niêm yết công khai
trước khi khởi công xây dựng dự án và mức xử phạt nặng nhất là đối với hành vi
41
không lập báo cáo ĐTM. Với các báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền phê duyệt của
UBND tỉnh, của các Bộ, cơ quan ngang Bộ có khung xử lý vi phạm hành chính
trong khoảng từ 2.000.000 đồng đến 180.000.000 đồng, với việc phân loại vi phạm
tương tự như các báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền phê duyệt của Bộ Tài nguyên và
Môi trường.
Ngoài chịu các hình thức xử phạt về tài chính nêu trên, với một số vi phạm
chủ dự án còn phải chịu các hình thức xử phạt bổ sung và phải thực hiện các biện
pháp khắc phục hậu quả. Với hành vi xây lắp, lắp đặt thiết bị, đường ống hoặc các
đường thải khác để xả chất thải không qua xử lý ra môi trường; không vận hành
thường xuyên hoặc vận hành không đúng quy trình đối với công trình bảo vệ môi
trường; không vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải đồng thời với quá
trình vận hành thử nghiệm dự án sẽ vừa phải chịu phạt về tài chính là từ 80.000.000
đồng 100.000.000 đồng, vừa bị đình chỉ hoạt động trong 03 tháng đến 06 tháng và
buộc phải vận hành đúng quy trình đối với công trình bảo vệ môi trường, buộc tháo
dỡ công trình bảo vệ môi trường được xây lắp trái quy định về bảo vệ môi trường,
gây ô nhiễm môi trường. Những hành vi vi phạm khác như: không lập hồ sơ báo
cáo kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường, không có giấy xác nhận
hoàn thành công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành của dự án;
không lập báo cáo ĐTM cũng sẽ bị phạt về tài chính, đình chỉ hoạt động 03 tháng
đến 06 tháng và phải thực hiện các biện pháp khắc phục đó là xây lắp, vận hành
công trình bảo vệ môi trường và lập hồ sơ báo cáo kết quả thực hiện các công trình
bảo vệ môi trường.
Nghị định cũng quy định việc xử phạt đối với vi phạm của các tổ chức tư vấn
lập báo cáo ĐTM cho chủ dự án với các mức từ 5.000.000 đồng đến 150.000.000
đồng đồng thời bị đình chỉ hoạt động từ 03 tháng đến 06 tháng. Các tổ chức tư vấn
lập báo cáo ĐTM sẽ bị xử phạt nếu không có đủ điều kiện cung ứng dịch vụ về cơ
sở vật chất, về cán bộ có chuyên môn; hay cung cấp những thông tin sai lệch, sai sự
thật trong báo cáo ĐTM.
Các mức phạt tiền nêu trên là mức áp dụng với cá nhân có hành vi vi phạm,
còn đối với tổ chức mức phạt tiền được nâng lên gấp đôi.
Theo số liệu từ Tổng cục Tài nguyên và môi trường, năm 2015, Tổng cục Tài
nguyên và Môi trường đã ban hành 138 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với
42
tổng số tiền là 21.933 triệu đồng và 17 Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả vi phạm theo quy định. Đây mới chỉ là con số thu thập được ở cấp trung ương,
chưa tính tới cấp địa phương, cũng như chưa tính tới thời điểm hiện nay nên có thể
thấy lượng vi phạm các quy định về môi trường hiện nay là cực kỳ lớn. Do đó, cơ
chế xử phạt là vô cùng cần thiết và cầvn được tiến hành thường xuyên, nghiêm khắc
hơn nữa.
Điểm tiến bộ của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP đó nếutổ chức, cá nhân
thực hiện không đúng nội dung đánh giá tác động môi trường nhưng làm cho môi
trường tốt hơn đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận sẽ không bị phạt. Thẩm
quyền xử phạt hành chính các vấn đề về môi trường có thể là: chủ tịch UBND các
cấp, Công an nhân dân, Thanh tra chuyên ngành, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển,
Hải quan, Kiểm lâm, Quản lý thị trường, Thuế, Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ đường
thủy nội địa,…Các cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm về
môi trường có liên quan đến lĩnh vực mình quản lý. Thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính về môi trường là tương đốvi đa dạng, việc này nhằm tăng cường giám
sát thực hiện bảo vệ môi trường tại nhiều lĩnh vực, nhiều địa điểm. Tuy nhiên, cũng
sẽ khó tránh việc chồng chéo về thẩm quyền, đùn đẩy trách nhiệm xử lý vi phạm.
Theo mức xử phạt hiện nay, có thể thấy đây vẫn là mức xử phạt tương đối thấp,
chưa đủ tính răn đe. Những dự án phát triển kinh tế - xã hội hiện nay đều có lượng
vốn đầu tư tương đối lớn, nên mức xử phạt hiện nay chưa khiến chủ dự án lưu tâm,
chú trọng và vẫn tiếp tục vi phạm. Hơn nữa, quy trình chứng minh, xử lý vi phạm
vẫn rất phức tạp và cần thời gian dài.
Một vài trường hợp vi phạm pháp luật ĐTM cụ thể như:
Tháng 8/2017 UBND tỉnh Ninh Bình ra Quyết định xử phạt Ban quản lý Dự
án đầu tư xây dựng công trình Dân dụng và Công nghiệp tỉnh Ninh Bình - chủ đầu
tư dự án Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình số tiền 400 triệu đồng do không có báo cáo
ĐTM. Theo Quyết định, Dự án đã vi phạm quy định tại Điểm d, Khoản 5, Điều 11,
Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ (quy định xử phạt
với hành vi không lập báo cáo ĐTM đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt
báo cáo ĐTM của Bộ Tài nguyên và Môi trường). Do đó, bị đình chỉ hoạt động xây
dựng trong thời gian 60 ngày, đồng thời, yêu cầu Ban quản lý Dự án hoàn tất các
thủ tục pháp lý về bảo vệ môi trường trình Bộ TN&MT phê duyệt [24].
43
Ngày 13/10/2017, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành Quyết định
số 1751/QĐ-XP xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường đối với công ty
TNHH Khải Thần Việt Nam hoạt động sản xuất sản phẩm từ plastic, các sản phẩm
khác từ bìa và giấy. Theo đó Công ty TNHH Khải Thần Việt Nam bị xử phạt với
những sai phạm sau: (1) Xây dựng các hạng mục công trình không đúng vị trí, diện
tích và hệ thống xử lý nước thải không đúng kích thước, công nghệ so với nội dung
báo cáo ĐTM đã được phê duyệt, quy định tại điểm e khoản 1 Điều 9 Nghị định số
155/2016/NĐ-CP và mức xử phạt là 70.000.000 đồng; (2) Không vận hành thử
nghiệm các công trình đồng thời với quá trình vận hành thử nghiệm dự án, quy định
tại điểm i khoản 1 Điều 9 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP và chịu mức phạt là
140.000.000 đồng; (3) Không xây lắp công trình BVMT theo quy định, quy định tại
điểm m khoản 1 Điều 9 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP và mức xử lý vi phạm là
260.000.000 đồng;... Ngoài ra Công ty Khải Thần Việt Nam còn bị đình chỉ hoạt
động trong thời hạn 03 tháng để khắc phục vi phạm; bị buộc phải chấm dứt ngay
hành vi vi phạm nêu trên; vận hành thử nghiệm các công trình BVMT đồng thời với
quá trình vận hành thử nghiệm dự án theo quy định; thực hiện xây lắp các công
trình BVMT theo nội dung báo cáo ĐTM đã được phê duyệt [18].
Xử lý hình sự
Ngoài các hình thức xử lý nêu trên, khi chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật
ĐTM gây hậu quả nghiêm trọng có thể sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự, đây chính là
hình thức xử lý nghiêm khắc nhất. Hiện nay, trách nhiệm hình sự đã được áp dụng
cho cả cá nhân và pháp nhânthương mại theo Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017.
Tội phạm về môi trường được quy định tại Chương XIX Bộ luật Hình sự
năm 2015, tuy không quy định cụ thể tội danh cho hành vi vi phạm pháp luật ĐTM
nhưng có quy định về tội gây ô nhiễm môi trường; tội vi phạm quy định về quản lý
chất thải nguy hại; tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố
môi trường; tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản;… Hành vi vi phạm pháp luật về ĐTM
mà kéo theo đó là gây ô nhiễm môi trường, hay hủy hoại nguồn lợi thủy sản,... cấu
thành tội phạm thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật hình sự.
Việc xử lý trách nhiệm hình sự sẽ căn cứ vào mức độ và tính chất nghiêm
trọng của hành vi của các chủ thể có hành vi vi phạm. Theo đó, chủ thể vi phạm có
44
thể bị xử phạt tiền lên tới 15 tỷ VNĐ, phạt tù 7 năm, phạt đình chỉ hoạt động trong
vòng 3 năm, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn hay nhiều hình thức xử phạt khác. Quy
định xử lý trách nhiệm hình sự với tội phạm về môi trường thể hiện đường lối,
chính sách xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường, các trường hợp
vi phạm gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị xử lý với
mức phạt tiền rất cao, cá nhân có thể phải chịu hình phạt tù, pháp nhân có thể bị
đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Việc quy định trách nhiệm hình sự sẽ nâng cao hiệu
quả răn đe, trừng trị mà cơ chế xử lý vi phạm hành chính còn hạn chế.
Các quy định về xử lý hình sự vi phạm pháp luật môi trường còn rất mới, khả
năng áp dụng vào thực tiễn không cao; tới nay chưa có pháp nhân nào bị xử lý hình
sự, lượng cá nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn tương đối ít.
Vi phạm trong thực hiện hoạt động đánh giá tác động môi trường hiện nay
diễn ra khá phổ biến. Các vi phạm điển hình như: “trốn” ĐTM, không thực hiện
đúng kế hoạch bảo vệ môi trường như đã cam kết trong báo cáo ĐTM,…Vi phạm
này chủ yếu do nhận thức về nghĩa vu bảo vệ môi trường của chủ dự án còn kém,
nhu cầu đẩy nhanh trong triển khai dự án cùng sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan
có thẩm quyền trong thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM. Và cơ chế xử lý vi phạm
như hiện nay còn quá nhẹ, mức phạt còn rất thấp so với lợi ích kinh tế mà dự án
đem lại nên chủ dự án, do đó không đủ sức răn đe, chủ dự án vẫn bất chấp vi phạm
pháp luật để chạy theo lợi ích kinh tế. Hơn nữa, do cơ chế thanh tra, kiểm tra của
nước ta hiện nay về vấn đề còn chưa sát sao, việc kiểm tra thực hiện báo cáo ĐTM
chưa được quy định cụ thể trong Luật bảo vệ môi trường, việc phát hiện sai phạm
chủ yếu do người dân địa phương phát hiện và tố cáo hay do các chương trình kiểm
tra, giám sát hàng năm của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường thực hiện.
2.3. Liên hệ tới sự cố môi trường Formosa
Sự cố môi trường được dư luận chú ý tới nhất hiện nay phải kể đến vụ việc
cá chết hàng loạt ở vùng biển thuộc bốn tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị và Huế vào năm 2016. Các cơ quan có thẩm quyền đã tích cực triển khai
tìm hiểu nguyên nhân và xác định thủ phạm gây ra sự cố là do việc xả thải trái phép
của Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Formosa). Đây là sự cố
nghiêm trọng và phạm vi ô nhiễm lan rộng nên đã có sự vào cuộc điều tra, xử lý
không chỉ của Bộ Tài nguyên và Môi trường mà còn có sự tham gia của các Bộ,
ngành liên quan như: Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ NN&PTNT…
45
2.3.1. Tóm lược sự cố môi trường Formosa
Ngày 7/4/2016 hiện tượng cá chết bắt đầu xuất hiện trên vùng biển Hà Tĩnh,
đặc biệt là khu vực Vũng Áng, gần nhà máy Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa
Hà Tĩnh. Sau đó lần lượt lan vào Quảng Bình, Quảng Trị và đến ngày 20/4/2016
đến lượt Thừa Thiên Huế. Đến ngày 26/4 Thứ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ
Phạm Công Tạc cho biết các kết quả phân tích cho thấy đã đủ căn cứ khoa học để
loại trừ hầu hết các nhóm nguyên nhân tự nhiên từ địa chấn, sốc nhiệt, dịch bệnh…
Ngày 1/5, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp vào Hà Tĩnh chỉ đạo phải tìm cho
ra nguyên nhân cá chết, đồng thời ký quyết định hỗ trợ khẩn cấp cho người dân tại
các bị ảnh hưởng do cá chết bất thường. Ngày 2/6, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết đã tìm ra nguyên nhân cá chết nhưng
chưa công bố vì chờ phản biện. Ngày 30/6, Chính phủ tổ chức họp báo công bố
nguyên nhân cá chết là do nước thải từ Fomosa. Công ty Formosa đã thừa nhận, xin
lỗi nhân dân Việt Nam và cam kết bồi thường 500 triệu USD để khắc phục hậu quả.
Về thiệt hại mà sự cố môi trường Formosa gây ra
Trong báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội về vụ hải sản chết hàng loạt ở
Miền Trung do việc xả thải của công ty Formosa, Chính phủ đã công bố chi tiết
những thiệt hại cả kinh tế và xã hội việc hải sản chết hàng loạt. Về kinh tế, riêng số
hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá khoảng 100 tấn, các rạn san hô, phù du sinh
vật cũng chết khiến suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản khu vực, ảnh
hưởng đến sinh kế lâu dài của dân. Chính phủ xác định có tới trên 17.600 tàu cá và
gần 41.000 người đã bị ảnh hưởng trực tiếp. Trên 176.000 người phụ thuộc bị ảnh
hưởng theo. Do không thể đánh bắt trong phạm vi từ bờ đến 20 hải lý, có tới 90%
tàu lắp máy công suất thấp và gần 4.000 tàu không lắp máy đã phải nằm bờ. Sản
lượng khai thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng.Với hoạt động nuôi trồng
thủy sản, có 9 triệu tôm giống bị chết, hàng ngàn lồng nuôi cá cũng bị thiệt hại.
Hoạt động du lịch của các tỉnh miền Trung cũng theo đó bị chững lại. Lượng
khách du lịch giảm hẳn, tỉ lệ đặt phòng khách sạn, nhà nghỉ giảm đi khoảng 40%-
50%. Việc tiêu thụ hải sản cũng theo đó giảm đi đáng kể. Sự cố môi trường này gây
ảnh hưởng rất nặng nề với người dân các tỉnh miền Trung.
Về xã hội, người dân rơi vào cảnh thất nghiệp, nợ nần do không tiêu thụ
được hải sản, đời sống khó khăn. Người dân phần nào mất niềm tin vào nhà nước,
46
bởi các sai phạm của Formosa hầu hết do người dân phát hiện, khi được dân báo
cáo, cơ quan nhà nước mời vào cuộc tìm ra sai phạm cụ thể. Vậy còn những sai
phạm khác, mà người dân chưa “may mắn” tìm ra được thì sẽ ra sao? Tuy nhiên,
với những gì Chính phủ đang thực hiện, cũng cho thấy phần nào sự quan tâm sát
sao, trách nhiệm của nhà nước đối với các thiệt hại mà người dân đã và đang phải
gánh chịu, người dân cũng đang dần khắc phục những khó khăn đó, phần nào lấy lại
niềm tin hơn vào các cơ quan Nhà nước.
2.3.2. Vi phạm pháp luật ĐTM của Formosa
Để xác định nguyên nhân và thủ phạm, các Bộ cùng các nhà khoa học trong đó
có cả các nhà khoa học đến từ Mỹ, Đức, Nhật Bản, Isarael cùng tham gia quá trình này.
Sau nhiều ngày tiến hành điều tra, xác minh, thu thập bằng chứng, các cơ quan điều tra
đã xác định được nguyên nhân và thủ phạm, đồng thời chính Formosa cũng đã thừa
nhận sự cố môi trường khiến thủy sản chết hàng loạt dọc ven biển 4 tỉnh miền Trung,
nguyên nhân là do quá trình vận hành thử nghiệm của Formosa Hà Tĩnh đã xả ra biển
các độc tố Phenol, Xyanua, Hydroxit Sắt vượt quá mức cho phép. Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã công bố 53 hành vi vi phạm của Formosa Hà Tĩnh, từ các sai
sót trong thiết kế, thi công, xây dựng cho đến vận hành.
Vào ngày 30/6/2016 Chính phủ đã họp báo công bố những vi phạm và sự cố
trong quá trình thi công vận hành thử nghiệm tổ hợp nhà máy của công ty Formosa
Hà Tĩnh là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng, làm hải sản
tại 4 tỉnh miền Trung chết bất thường [9]. Cụ thể, nguồn gây ô nhiễm vùng biển
Vũng Áng được xác định là nước thải xả ra biển phát sinh từ quá trình vận hành thử
nghiệm hệ thống lò luyện cốc có chứa các độc tố Phenol, Xyanua, Hydroxit Sắt
vượt quá mức cho phép [30].
Để dẫn tới sai phạm nêu trên có một phần nguyên nhân là do sai phạm trong
báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án do Formosa làm chủ đầu tư đã
được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt. Những vi phạm dưới đây không phải
chỉ riêng đối với trường hợp của Formosa, mà còn tồn tại rất nhiều trong thực tế, là
những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật ĐTM ở Việt Nam hiện nay.
Vi phạm trong lập báo cáo ĐTM của Formosa
Về nội dung báo cáo ĐTM của Formosa, các yêu cầu về đánh giá chi tiết các
tác động môi trường có khả năng xảy ra khi dự án được thực hiện, dự báo rủi ro về
47
sự cố môi trường do công trình gây ra, biện pháp cụ thể giảm thiểu các tác động xấu
đối với môi trường; phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường vô cùng sơ sài, giản
lược. Trong đó, đánh giá tác động của nước thải đến môi trường trong giai đoạn vận
hành nhà máy chưa đến 2,5 trang với 1,5 trang là các bảng biểu, 1 trang là phầnđánh
giá tác động môi trường, nhưng chủ yếu là liệt kê các nguồn nước thải của nhà máy
ra môi trường, đặc điểm của các loại nước thải đó. Ngoài ra, không có thông tin nào
cho biết lượng nước thải này có ảnh hưởng như nào đến môi trường. Cũng không có
một dòng nào về sự cố với môi trường biển, đất và không khí. Có thể đánh giá với
nội dung như vậy, báo cáoĐTM của dự án Formosa có chất lượng quá thấp, mang
tính đối phó, như một thủ tục để được phê duyệt chứ không phải một báo cáo có
tính khoa học thực sự [1].
Báo cáo ĐTM của Formosa hầu như rất sơ sài, thiếu xót nhiều, không đảm
bảo các yêu cầu dự báo các tác động của dự án tới môi trường, từ đó không đưa
được những biện pháp, công trình để bảo vệ môi trường tránh khỏi những tác động
đó. Sai phạm có lẽ cũng có phần thuộc về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt báo cáo ĐTM – Bộ Tài nguyên và Môi trường. Nguyên Thứ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường - người ký phê duyệt lần đầu cho các báo cáo ĐTM cho
Formosa cho rằng: Formosa được phê duyệt báo cáo ĐTM từ năm 2008, với hai báo
cáo là về: một là về sản xuất thép, hai là về xây dựng cảng Sơn Dương; báo cáo
ĐTM của Formosa lúc bấy giờ là sơ sài, nhưng là phù hợp với quy định lúc bấy giờ,
là giống với những báo cáo ĐTM khác. Ông cho rằng, nguyên nhân là do cơ chế
pháp luật yêu cầu phải có báo cáo ĐTM trước khi có quyết định chủ trương đầu tư,
khi đó chưa có thiết kế cơ sở, chưa rõ công nghệ, nguyên vật liệu đầu vào..., thông
tin về môi trường cũng hạn hẹp nên không thể đưa ra những đánh giá, dự báo đầy
đủ, chi tiết được. Và về sau báo cáo ĐTM về hoạt động sản xuất thép đã có sự thay
đổi và được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận, còn báo cáo ĐTM về xây dựng
cảng Sơn Dương thì đã phải lập lại báo cáo ĐTM khác do có những thay đổi lớn và
cũng đã được phê duyệt báo cáo ĐTM mới.
Nhận định báo cáo ĐTM đối với dự án của Formosa còn sơ sài, chung chung
một phần do cơ chế pháp luật khi đó, cụ thể là Luật Bảo vệ môi trường năm 2005.
Nhưng không thể vì thế mà đổ lỗi hoàn toàn do cơ chế pháp luật lúc bấy giờ, bởi
các cơ quan quản lý hàng năm đều có kiểm tra, giám sát vậy mà lại không phát hiện
48
những thay đổi của dự án cần phải được ĐTM bổ sung hay lập lại báo cáo ĐTM.
Báo cáo ĐTM sơ sài có lỗi của người lập – chủ dự án, tổ chức tư vấn lập báo cáo
ĐTM khi không nghiêm túc tuân thủ quy định về lập báo cáo ĐTM, không tự ý
thức trách nhiệm bảo vệ môi trường, nhưng theo tác giả trách nhiệm phần lớn thuộc
về những người có thẩm quyền phê duyệt báo cáo ĐTM – những người có chuyên
môn, có quyền hành, nghĩa vụ chấp thuận báo cáo ĐTM hay phải yêu cầu sửa đổi,
bổ sung để đáp ứng yêu cầu của pháp luật.
Báo cáo ĐTM của Formosa là cực kỳ sơ sài, thiếu rất nhiều các nội dung
quan trọng. Đối với phương án xử lý chất thải của lò coke và lò cao đều là những
chất thải vô cùng nguy hại hoàn toàn không được đề cập trong báo cáo ĐTM của
Formosa. Trong báo cáo ĐTM của Formosa về quản lý xả thải:chỉ nói sau khi nước
thải xử lý đạt chuẩn sẽ thải ra sông Quyền, rồi ra biển mà không nói rõ nồng độ, loại
chất gì; xử lý nước thải xong xả thẳng ra môi trường mà không qua bể lắng, mà
thông thường trong xử lý nước thải cần phải có bể trung chuyển nuôi cá thử
nghiệm, nước này không làm chết cá thì mới được thải ra ngoài, ngược lại cá chết
nghĩa là nước thải xử lý chưa đạt, không được xả ra môi trường. Báo cáo ĐTM
cũng không nói đến lượng bụi nguy hiểm lọt qua các biện pháp xử lý lọc túi vải,
tĩnh điện cũng như phương án xử lý, thu gom. Đối với cặn kim loại, báo cáo ĐTM
đã không tính tới nồn độ chất độc nguy hại, dự tính sức chịu tải của môi trường để
xác định giới hạn để ra quyết định dừng lại hoặc giảm sản lượng sao cho cân bằng
với môi trường [5].
Báo cáo ĐTM của Formosa thiếu xót rất nhiều các nội dung quan trọng, không
đảm bảo yêu cầu về nội dung của báo cáo ĐTM. Thực tế hiện nay, những trường hợp
như vậy không phải là ít. Do chủ dự án coi báo cáo ĐTM là một thủ tục để được cấp
phép đầu tư, xây dựng, chứ không hề quan tâm tới mục đích bảo vệ môi trường nên đã
thực hiện việc lập báo cáo ĐTM một các chung chung, thậm chí còn có trường hợp sao
chép báo cáo ĐTM của dự án khác để áp vào dự án của mình.
Theo Luật Bảo vệ môi trường, một báo cáo ĐTM nói chung cần phải tuân
thủ theo một bố cục và những yêu cầu về nội dung nhất định như phải có các nội
dung mô tả liên quan đến dự án, điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội khu vực dự án,
dự báo và đánh giá tác động... Tuy nhiên, chất lượng báo cáo ĐTM trên thực tế
không đạt được những yêu cầu theo quy định của pháp luật. Cụ thể, nội dung về mô
49
tả dự án chưa nêu được những vấn đề thuộc về đặc thù của dự án có liên quan tới
môi trường, từ đó dẫn đến hệ quả là phần này trong báo cáo quá dài, lại không cung
cấp đủ thông tin phục vụ cho việc dự báo và đánh giá tác động, cũng như giải pháp
giảm thiểu tác động xấu và giám sát môi trường sau này.
Việc đánh giá sự cố rủi ro trong các giai đoạn của dự án của nhiều báo cáo
còn hời hợt hoặc chỉ liệt kê dự báo rủi ro mà không chú ý đánh giá tác động tới môi
trường khi các sự cố rủi ro xảy ra, dẫn đến việc chủ đầu tư không lường trước hết
các tác động tiêu cực để đầu tư thích đáng cho hoạt động kiểm soát rủi ro môi
trường. Việc lập báo cáo ĐTM của chủ đầu tư hay của tổ chức tư vấn lập báo cáo
ĐTM được thực hiện với chất lượng rất thấp; báo cáo ĐTM với nội dung, giá trị
đánh giá các tác động môi trường và biện pháp, phương án hạn chế, khắc phục tác
động tiêu cực tới môi trường gần như không đem lại hiệu quả trong công tác bảo vệ
môi trường. Yêu cầu của báo cáo ĐTM hầu như không được đảm bảo, các báo cáo
ĐTM được lập rất sơ sài, chung chung, không có hiệu quả thực thi.
Với thực trạng chất lượng báo cáo ĐTM yếu kém như vậy có thể xuất phát từ
các nguyên nhân sau: năng lực chuyên môn của người lập báo cáo ĐTM chưa cao;
ý thức chấp hành các quy định của pháp luật ĐTM đồng thời ý thức bảo vệ môi
trường của người lập báo cáo ĐTM còn kém; pháp luật ĐTM còn thiếu các hướng
dẫn kỹ thuật về lập báo cáo ĐTM, thiếu các thông tin phục vụ hoạt động ĐTM. Cần
sớm khắc phục những hạn chế nêu trên để hạn chế vi phạm trong giai đoạn lập báo
cáo ĐTM, cải thiện chất lượng báo cáo ĐTM.
Vi phạm trong tham vấn khi thực hiện ĐTM của Formosa
Vi phạm trong hoạt động tham vấn của Formosa là chưa có cơ sở khẳng
định, tuy nhiên nhìn vào những gì đang diễn ra, tác giả cho rằng quá trình tham vấn
khả năng cao có dấu hiệu vi phạm. Bởi lẽ, đường ống xả thải khổng lồ ngầm dưới
biển của Formosa có lẽ chưa được tham vấn cộng đồng, do người dân địa phương
có phần bất ngờ khi biết sự tồn tại của đường ống này. Mà theo Bộ TN&MT đã
công bố đường ống xả thải này đã được đề xuất trong báo cáo ĐTM sửa đổi và sau
đó đã được cấp phép xây dựng. Quy định về việc lập lại báo cáo ĐTM hay có sửa
đổi, bổ sung báo cáo ĐTM trước khi được chấp thuận đều phải thông qua bước
tham vấn cộng đồng và chính quyền địa phương.
Hoạt động tham vấn trong báo cáo ĐTM của Formosa nói riêng và hoạt động
50
tham vấn khi thực hiện ĐTM ở Việt Nam nói chung chưa thực chất, chưa đem lại
hiệu quả cao. Do chủ dự án cung cấp thông tin cho địa phương khi tham vấn không
đầy đủ, gây khó khăn cho người dân địa phương khi đưa ra ý kiến. Các ý kiến của
người dân địa phương không thực sự được quan tâm, không được phản ánh đẩy đủ
trong báo cáo ĐTM; không phản ánh chính xác tâm tư nguyện vọng của người dân.
Vi phạm trong thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của Formosa
Báo cáo ĐTM của Formosa được phê duyệt năm 2008, nhưng Nguyên Thứ
trưởng Bộ TN&MT - người ký quyết định phê duyệt lại không tham gia vào hội
đồng thẩm định báo cáo ĐTM của Formosa, mà là được Bộ trưởng Bộ TN&MT ủy
quyền ký.Khi sự cố môi trưởng Formosa xảy ra Ông cũng chỉ tuân theo ý kiến của
Hội đồng thẩm định mà ký quyết định phê duyệt mặc dù cũng thấy nhiều thiếu xót
trong báo cáo ĐTM đó. Do cho rằng Hội đồng thẩm định với những người có
chuyên môn cao đã thẩm định báo cáo ĐTM đạt yêu cầu, và khi đó cũng là lúc nhu
cầu đầu tư đang dâng cao nên Ông buộc phải chấp nhận phê duyệt báo cáo ĐTM.
Thiết nghĩ, với những lý lẽ trên liệu vai trò của người ký quyết định phê duyệt báo
cáo ĐTM là gì? Bỏ mặc cho cơ quan thẩm định, không hề có ý kiến, trách nhiệm
trong việc phê duyệt hay không phê duyệt báo cáo ĐTM, mà hoàn toàn phê duyệt
theo quyết định của Hội đồng thẩm định? Nếu vậy, giai đoạn thẩm định và giai đoạn
phê duyệt báo cáo ĐTM phải chăng có thể gộp thành làm một? Tác giả rất không
đồng tình với quan điểm đùn đẩy trách nhiệm của một người có trọng trách ký
quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM của một dự án lớn, mang tầm quốc gia như
vậy.Có thể thấy có sự bất nhất trong ý kiến của Nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT:
báo cáo ĐTM thời điểm đó là phù hợp với pháp luật, là phù hợp do khi dự án chưa
được triển khai, thiếu thông tin nên chỉ có thể dự báo được như thế;so với ý kiến
Ông cũng nhận thấy báo cáo ĐTM của Formosa sơ sài nhưng cả hội đồng thẩm định
đã đồng ý thông qua thì Ông phải theo. Tức là Ông đang cho rằng nếu có sai trong
việc thẩm định báo cáo ĐTM của Formosa thì một là do pháp luật lúc bấy giờ hạn
chế, còn không thì sẽ là do hội đồng thẩm định, chứ Ông chỉ có trách nhiệm ký theo
ý kiến của Hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM.
Theo báo cáo ĐTM năm 2008 của Formosa sẽ thực hiện xả thải vào dòng
sông Quyền. Về sau, khi nhận định lưu lượng nước sông Quyền không đáp ứng
được nguồn nước thải của Formosa xả ra nên Formosa đã đề xuất phương án xả thải
51
ra biển trong Báo cáo ĐTM Cảng năm 2013 (do thay đổi quy mô công suất Cảng
nên theo quy định Formosa phải lập lại Báo cáo ĐTM) và đã được Nguyên Thứ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ký quyết định phê duyệt. Tháng 7/2014,
Nguyên thứ trưởng Bộ TN&MT đã được Bộ trưởng ủy quyền ký quyết định chấp
thuận để Formosa xả thải ra biển. Ngày 11/12/2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường
lại ký quyết định cho phép Formosa xả nước thải ra vùng biển ven bờ vịnh Sơn
Dương. Vấn đề xả thải ra biển không mới, là biện pháp được nhiều quốc gia trên thế
giới thực hiện, tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, nước thải trước khi được xả ra biển cần
phải thông qua hệ thống xử lý, đảm bảo quy chuẩn môi trường trước khi xả thải. Và
nước thải được Formosa thải ra biển đã chưa đạt được tiêu chuẩn ấy. Ngoài ra, vấn
đề còn nằm ở chỗ: hệ thống xả thải này được lắp đặt ngầm, mà theo quy định của
pháp luật Việt Nam đường ống xả thải phải tạo điều kiện cho quá trình giám sát,
tiếp cận, kiểm tra một cách dễ dàng. Luật không quy định vấn đề hệ thống “ngầm’
hay “nổi”, tuy nhiên hệ thống xả thải ngầm là không phù hợp, là gây khó khăn cho
việc kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng và cộng đồng. Do đó Bộ trưởng Bộ
TN&MT Trần Hồng Hà đã yêu cầu Formosa phải đưa đường ống xả thải ngầm lên
để thuận tiện cho việc theo dõi, giám sát.
Chất lượng thẩm định báo cáo ĐTM của Formosa cũng như các báo cáo khác
đã cho thấy điểm yếu trong việc thực thi pháp luật ĐTM ở Việt Nam hiện nay. Các
địa phương còn quá chú trọng đến lợi ích kinh tế, đến thu hút đầu tư mà không
màng đến vấn đề môi trường. Hội đồng thẩm định chưa tuân thủ nghiêm túc các quy
định của pháp luật khi tiến hành nhiệm vụ của mình, đánh giá báo cáo ĐTM một
cách qua loa, đại khái, một phần do chế tài xử lý vi phạm trong thẩm định báo cáo
ĐTM hiện nay chưa được pháp luật quy định. Hạn chế trong quá trình thẩm định
còn nằm ở năng lực thẩm định của cơ quan có thẩm quyền chưa cao, đặc biệt là
những cơ quan địa phương, ở những tỉnh mới, tỉnh miền núi. Kết quả là thẩm định
sai quy định, chất lượng thẩm định không cao, không đáp ứng được yêu cầu đặt ra,
từ đó để lọt những dự án chưa có báo cáo ĐTM đạt tiêu chuẩn, những dự án gây
nguy hại lớn cho môi trường được phê duyệt. Hơn nữa, việc thiếu những hướng dẫn
kỹ thuật cần thiết cho chủ dự án và cho cán bộ có trách nhiệm thẩm định báo cáo
ĐTM; thiếu những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường – đây là căn cứ để
lập báo cáo ĐTM, là cơ sở để thẩm định báo cáo ĐTM khiến cho việc lập và thẩm
định khó khăn, thiếu tính khả thi, hiệu quả không cao.
52
Vi phạmsau khi báo cáo ĐTM được phê duyệt
Ngay trước khi sự cố môi trường Formosa diễn ra, việc thanh, kiểm tra đã
được thực hiện với dự án Formosa theo cơ chế định kỳ. Tuy nhiên, đoàn thanh tra
đã kết luận không hề có vi phạm pháp luật môi trường. Vậy mà sau khi sự cố cá
chết xảy ra, được sự chỉ đạo của chính phủ, hoạt động thanh tra lại một lần nữa
được thực hiện với dự án này. Và lần này, kết luận thanh tra được công bố là dự án
Formosa có 53 vi phạm pháp luật môi trường, nguy hiểm nhất là việc Formosa tự ý
thay đổi công nghệ mà không báo cáo cơ quan chức năng. Cụ thể, Formosa đã tự ý
thay đổi công nghệ nghệ xử lý cốc, từ công nghệ xử lý cốc khô - công nghệ thân
thiện sang công nghệ xử lý cốc ướt, phát tán rất nhiều chất thải, đặc biệt là khí thải.
Ngoài ra, theo báo cáo của Chính phủ về việc sự cố cá chết ở miền Trung: Formosa
đã không xây lắp bể lọc cho trạm xử lý nước thải sinh hóa như cam kết họ đã chấp
nhận trong báo cáo đánh giá tác động môi trường. Chính những hành vi này đã gây
ra những hệ lụy không nhỏ về môi trường, cũng như kinh tế xã hội và chỉ được phát
hiện khi đoàn thanh tra kiểm tra sau sự cố môi trường gây hải sản chết hàng loạt tại
biển miền Trung.
Ngoài ra, sai phạm còn thể hiện ở quá trình kiểm tra, giám sát sau khi báo
cáo ĐTM đã được phê duyệt. Quá trình điều tra nguyên nhân về vụ việc, các cơ
quan chức trách phát hiện, Giám đốc Sở TN&MT Hà Tĩnh đã giao cho Trung tâm
Quan trắc Kỹ thuật môi trường, một đơn vị trực thuộc, ký hợp đồng quan trắc với
Formosa. Suốt một thời gian dài, Sở TN&MT Hà Tĩnh bỏ mặc việc kiểm định chất
lượng nguồn nước thải của Formosa, gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Điều nguy
hại ở chỗ, thay vì trực tiếp xuống hiện trường, điểm xả thải của Formosa lấy mẫu
nước thải để kiểm định, Trung tâm Quan trắc Kỹ thuật môi trường của Sở TN- MT
Hà Tĩnh chỉ lấy mẫu mà Formosa gửi đến và mấy tháng mới kiểm định một lần.
Cách làm này đã dẫn đến hệ quả là các mẫu kiểm định luôn đạt ngưỡng cho phép,
không phát hiện ra dấu hiệu sai phạm của Formosa để ngăn chặn kịp thời hành vi xả
độc tố ra môi trường biển [11].
Hiện nay, kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đối với sai phạm của
Formosa đã có từ lâu, tuy nhiên lại chưa được công bố rộng rãi gây hạn chế nhiều
cho tác giả trong việc nghiên cứu những sai phạm thực tế của Formosa để có thể rút
ra những bài học về môi trường, về ĐTM ở Việt Nam hiện nay. Nhưng rõ ràng,
53
ĐTM của Formosa là rất chung chung, thiếu tính chi tiết, cụ thể - yêu cầu đặt ra đối
với một quá trình nghiên cứu, đánh giá dự báo những tác động của dự án tới môi
trường, từ đó những biện pháp bảo vệ môi trường được đưa ra cũng sẽ không hoàn
chỉnh, không đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường. Đúng quy trình, các báo cáo
ĐTM phải sửa đổi bổ sung liên tục đến khi dự án đi vào hoạt động, là một quy trình
về quản lý, giám sát và hoàn thiện báo cáo ĐTM. Dự án đi vào hoạt động thì một
quy trình về quản lý giám sát ĐTM phải được triển khai. Lúc này cơ quan quản lý
nhà nước phải căn cứ vào hiện trạng của dự án và những kết quả kiểm toán môi
trường thường xuyên của dự án để giám sát. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý hầu
như chỉ căn cứ vào các báo cáo ĐTM khi nộp hồ sơ cấp phép dự án, rồi báo cáo
ĐTM được để đó, không ai quan tâm tới, không ai giám sát việc thực hiện báo cáo
ĐTM như thế nào.
2.3.3. Xử lý vi phạm trong sự cố môi trường Formosa
Xử lý vi phạm của Formosa
Ngày 28/6/2016, Công ty Formosa Hà Tĩnh nhận trách nhiệm về việc gây ra
sự cố môi trường, làm hải sản chết hàng loạt tại 4 tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên -
Huế trong thời gian qua, đồng thời cam kết: (1) Công khai xin lỗi Chính phủ và
nhân dân Việt Nam vì để xảy ra sự cố môi trường nghiêm trọng; (2) Thực hiện việc
bồi thường thiệt hại kinh tế cho người dân và hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp; bồi
thường xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung của Việt
Nam với tổng số tiền tương đương trên 11.500 tỷ đồng (500 triệu USD); (3) Khắc
phục triệt để các tồn tại, hạn chế của hệ thống xử lý chất thải, nước thải, hoàn thiện
công nghệ sản xuất, bảo đảm xử lý triệt để các chất thải độc hại trước khi thải ra
môi trường theo yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước của Trung ương và tỉnh
Hà Tĩnh để không tái diễn sự cố môi trường như đã xảy ra; (4) Phối hợp với các bộ,
ngành của Việt Nam và các tỉnh miền Trung xây dựng các giải pháp đồng bộ để
kiểm soát môi trường biển miền Trung, bảo đảm phòng, chống ô nhiễm, không để
xảy ra sự cố môi trường tương tự để tạo niềm tin với người dân Việt Nam và quốc
tế; (5) Thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết, không để tái diễn các hành vi vi
phạm pháp luật về BVMT.
Ngày 30/8/2016, Formosa đã hoàn thành việc thực hiện chuyển tiền bồi
thường cho Việt Nam với tổng số tiền là 500.000.000 đô la Mỹ theo đúng cam kết.
54
Mặt khác, Bộ TN&MT cũng đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
đối với Formosa với số tiền phạt là 4.485.000.000 đồng và buộc Formosa phải thực
hiện các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm theo quy định của pháp luật [14].
Trước đây, chính quyền nhiều nước, vùng lãnh thổ đã phát hiện và xử phạt nặng
nhiều doanh nghiệp, nhà máy bí mật lắp ống xả để đổ chất thải độc hại ra sông, biển,
gây tổn hại nặng nề cho môi trường. Hồi đầu tháng này, tòa án ở bang Hawaii (Mỹ) đã
phạt Công ty hàng hải Doorae Shipping của Hàn Quốc 950.000 USD vì vi phạm các
quy định về bảo vệ môi trường. Doorae Shipping là chủ sở hữu tàu chở dầu B.Sky bị
phát hiện lén gắn ống xả gần 1.892 lít nước thải chứa dầu ra biển.
Trước đó, Bộ Bảo vệ môi trường Israel vào tháng 3 phạt Công ty lọc dầu Paz
Ashdod gần 5 triệu USD vì hành vi cài cắm ống xả thẳng nước thải chưa qua xử lý
ra biển, theo trang Sviva.gov.il. Tại Đài Loan, Cơ quan bảo vệ môi trường vùng
lãnh thổ này (EPA) vẫn đang điều tra vụ nhà máy mạ điện ở TP.Đài Nam sử dụng
đường ống ngầm bí mật để dẫn nước thải ra sông Tam Gia, bị phát hiện vào tháng
9.2015. Tờ Taipei Times dẫn kết quả điều tra cho thấy nước thải đổ ra sông chứa
đầy hóa chất độc hại. Chủ sở hữu nhà máy đã bị buộc đóng phạt hơn 600.000 USD
cũng như đối mặt một cuộc điều tra hình sự [10].
Có thể thấy, với những thiệt hại mà Formosa gây ra và so với mức xử phạt
hành vi xả thải gây ô nhiễm môi trường ở nhiều quốc gia trên thế giới thì đây là
mức xử phạt còn tương đối nhẹ, mang tính chất bồi thường thiệt hại chứ chưa mang
đem lại hiệu quả răn đe.
Theo đánh giá tổng thể của Bộ TN&MT, đến nay Formosa đã khắc phục
được 52/53 lỗi vi phạm. Riêng hạng mục chuyển đổi từ dập cốc ướt sang dập cốc
khô sẽ được hoàn thành vào năm giữa năm 2019. Formosa cũng đã hoàn thành bổ
sung hệ thống xử lý nước thải khu vực dập cốc ướt; bổ sung hệ thống xử lý nước
mưa chảy tràn tại bãi chứa phế liệu, bãi chứa quặng, than; bổ sung các hạng mục cải
thiện đối với hệ thống xử lý nước thải sinh hóa, sinh hoạt và công nghiệp; lắp đặt bổ
sung hệ thống quan trắc tự động nước thải tại xưởng xử lý nước thải sinh hóa,
xưởng xử lý nước thải sinh hoạt; lắp đặt bổ sung hệ thống quan trắc tự động tại các
ống khói...
Cho đến nay, phải khẳng định Formosa đã hoàn toàn đáp ứng được các yêu
cầu mà Bộ TN&MT và Hội đồng liên ngành đề ra. Hiện tại, Formosa đã có nhiều nỗ
55
lực hoàn thiện công nghệ, thực hiện các hạng mục cải thiện công trình bảo vệ môi
trường, xử lý chất thải. Các thiết bị quan trắc chất thải cũng được Formosa quan tâm
triển khai xây dựng, lắp đặt theo cam kết, đi cùng với quá trình hoàn thiện công
nghệ sản xuất. Formosa cùng với các cơ quan chức năng vẫn đang tích cực khắc
phục hậu quả sự cố môi trường đã xảy ra. Các cơ quan có thẩm quyền đánh giá về
các thiệt hại trước mắt đã được hạn chế, khắc phục được phần nào, tuy nhiên với
những tác hại lâu dài mà sự cố môi trường Formosa gây ra với môi trường biển, với
hệ sinh thái dưới biển thì cần thời gian dài nữa mới có thể khắc phục [12].
Xử lý vi phạm cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
Vụ việc Formosa là tiêu biểu cho việc chủ dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội xem thường các tác động môi trường mà chỉ chú trọng lợi ích kinh tế. Đây là bài
học cho Việt Nam trong việc cấp phép đầu tư với các dự án đầu tư nước ngoài. Sự
cố môi trường Formosa có báo cáo ĐTM rất sơ sài, thiếu nhiều nội dung quan
trọng, việc thực hiện đúng cam kết trong báo cáo ĐTM cũng không được Formosa
thực hiện nghiêm túc, cùng với đó là sai phạm của các cá nhân, tổ chức có thẩm
quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM của Formosa. Do đó, Đảng đã có kết luận
xử lý trách nhiệm của những cá nhân, tổ chức có liên quan để kiểm điểm, nêu
gương tránh để xảy tình trạng của dự án Formosa thứ hai. Formosa cũng đã tự nhận
lỗi và đưa ra cam kết khắc phục sự cố cũng như đưa ra phương án bồi thường cho
người dân miền Trung chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự cố nên tuy đây là sự cố gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng nhưng chưa bị xem xét đến trách nhiệm hình sự.
Trong hai ngày 18 và 21/4/2017, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Hà Nội, Ban
Bí thư đã họp dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để xem xét báo
cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đề nghị thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng
và đảng viên (số 74 và 75-BC/UBKTTW, ngày 17/4/2017).
Ban Bí thư kết luận Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cá
nhân liên quan Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường giai đoạn 2011-2016
đã thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo; buông lỏng quản lý, điều hành; thiếu
kiểm tra, giám sát; để xảy ra các vi phạm trong công tác thẩm định, phê duyệt, chấp
thuận thay đổi đánh giá tác động môi trường, điều chỉnh địa điểm xả thải và quản lý
nhà nước đối với dự án Formosa Hà Tĩnh, gây ra hậu quả rất nghiêm trọng cho môi
trường và đời sống của nhân dân; làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an
56
toàn xã hội. Theo đó, kết luận quy định hình thức xử lý các cá nhân bao gồm:
Thứ nhất, kỷ luật cảnh cáo Ông Nguyễn Minh Quang – Nguyên Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm người đứng đầu về những vi phạm,
khuyết điểm của Ban cán sự đảng nhiệm kỳ 2011 - 2016.
Thứ hai, kỷ luật cách chức Uỷ viên Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi
trường nhiệm kỳ 2011 – 2016 hai Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến đã thiếu trách nhiệm
khi ký phê duyệt các báo cáo ĐTM, bỏ qua sự cảnh báo ảnh hưởng đến môi trường;
buông lỏng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, giám sát việc xây
dựng các hạng mục công trình bảo vệ môi trường của Công ty Formosa và Thứ
trưởng Nguyễn Thái Lai đã thiếu trách nhiệm trong việc thẩm định, ký giấy phép
cho Công ty Formosa xả nước thải xa bờ không đúng quy định.
Thứ ba, cách chức Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ nhiệm kỳ 2005 - 2010 và
nhiệm kỳ 2010 - 2015 đối với ông Võ Kim Cự - Nguyên Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh đã
trực tiếp ký nhiều văn bản không đúng quy định trong việc cấp giấy chứng nhận đầu
tư; giao và cho thuê mặt nước biển; đồng ý chủ trương cho Công ty Formosa tự giải
phóng mặt bằng để xây dựng đường ống xả nước thải không đúng quy định... đồng
thời Ông cũng thiếu trách nhiệm chỉ đạo, thanh tra, giám sát quá trình triển khai
thực hiện Dự án [19].
Ngoài ra còn một số các cán bộ ở cấp Trung ương và địa phương có liên
quan cũng bị xem xét kỷ luật theo đúng chủ trương của Đảng đã đề ra khi sự cố bị
phát hiện là sẽ xử lý đến cùng, triệt để, không bao che, sai đến đâu xử đến đó. Kết
luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho thấy sự quyết liệt, nghiêm túc trong việc
trừng trị những hành vi gây ô nhiễm môi trường, tạo thêm niềm tin cho người dân
vào sự lãnh đạo của Đảng.
57
Chương 3:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở
Việt Nam
Các quy định pháp luật về ĐTM hiện nay đã được ban hành, điều chỉnh
tương đối phù hợp tình hình thực tế ở Việt Nam. Hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về ÐTM đã được hoàn thiện với luật, nghị định và thông tư hướng dẫn lập báo
cáo ÐTM đối với các loại hình dự án đầu tư khác nhau. Nhờ các văn bản quy phạm
pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung cho nên các quy trình, thủ tục thẩm định ÐTM
được quy định rõ ràng, minh bạch theo hướng cải cách hành chính, bảo đảm chất
lượng của công tác thẩm định. Các nội dung và chất lượng của báo cáo ÐTM có
những tiến bộ nhất định, nhiều dự án trước khi vận hành chính thức đã được xác
nhận thực hiện các công trình BVMT theo yêu cầu của báo cáo ÐTM. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện ÐTM tồn tại không ít khó khăn, bất cập như: có sự bất
đồng trong quy định giữa các Luật, Nghị định, thông tư; quy định về hoạt động
tham vấn còn sơ sài, thiếu chi tiết; cơ chế hậu kiểm gần như chưa được quy
định;…Kết quả là việc thực hiện ĐTM ở nước ta còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện
ĐTM còn mang tính hình thức, chủ dự án chưa nhận thức được vấn nạn môi trường
hiện nay dẫn tới không chú trọng việc lập báo cáo ĐTM, thực hiện báo cáo ĐTM;
chủ thể có thẩm quyền tham vấn, thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM còn thiếu
trách nhiệm, thực hiện nhiệm vụ một cách hời hợt dẫn tới những báo cáo ĐTM
được phê duyệt mà không đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của báo cáo
ĐTM;… kết quả là tình trạng các dự án gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Do
đó, hệ thống pháp luật về ĐTM cần phải được hoàn thiện, điều chỉnh cho phù hợp
với thực tiễn và toàn diện hơn với những định hướng sau:
Hoàn thiện pháp luật ĐTM bảo đảm tính thống nhất, đồng thời có sự
phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường;
tăng cường trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi tổ chức và cá nhân
Hoàn thiện pháp luật phải tập trung vào các vấn đề cơ bản, trọng tâm chính
về ĐTM trong Luật bảo vệ môi trường và các luật có liên quan khác; các quy định
58
về ĐTM cần bảo đảm sự thống nhất giữa các luật có liên quan với Luật bảo vệ môi
trường. Cụ thể Rà soát các quy định của pháp luật ĐTM trong các luật có liên quan
như Luật đầu tư, Luật quản lý tài nguyên nước, Luật khoáng sản,… để xử lý các bất
cập, vướng mắc và bảo đảm thống nhất, đồng bộ trong các quy định về ĐTM. Tiếp
tục hoàn thiện các quy định pháp luật về ĐTM nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả,
nâng tầm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường phù hợp các quan điểm,
chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường; tương thích
với thông lệ quốc tế; tạo hành lang pháp lý đồng bộ về bảo vệ môi trường, thúc đẩy
sự phát triển bền vững.
Pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng làm rõ trách nhiệm giữa các bộ,
ngành, giữa trung ương, và địa phương, UBND các cấp về bảo vệ môi trường; tăng
cường phân cấp và tăng trách nhiệm của địa phương trong quản lý hoạt động ĐTM
trên địa bàn để nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường. Đồng thời, tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm cho cá nhân tham gia thực
hiện ĐTM để từ đó các cá nhân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật ĐTM, nâng
cao ý thức tự giác bảo vệ môi trường.
Hoàn thiện pháp luật ĐTM theo hướng tiếp cận quan điểm quốc tế
Thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng,thời gian qua, Việt Nam đã
tham gia ký kết nhiều Điều ước thương mại song phương và đa phương nhằm mục
tiêu phát triển kinh tế -xã hội; trong đó có nhiều nội dung liên quan đến vấn đề bảo
vệ môi trường.Để thực thi đầy đủ các cam kết môi trường trong các Điều ước này,
trước hết đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường nói
chung và pháp luật về ĐTM tương thích, và phù hợp với các quy định đã ký kết.
Hiện nay các dự án đầu tư thực hiện vay vốn tại các Ngân hàng Thế giới (World
Bank), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB),… là rất phổ biến. Mà các tổ chức này
cực kỳ chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường trong hoạt động đầu tư nên có
những quy định hết sức chặt chẽ và tiến bộ, Việt Nam rất cần học hỏi các quy định
này để hoàn thiện pháp luật ĐTM. Các chủ đầu tư khi vay vốn tại các tổ chức này
để tiến hành hoạt động đầu tư phải đảm bảo tuân thủ các quy định về ĐTM của tổ
chức đó. Như vậy, chủ đầu tư phải tuân thủ các quy định về ĐTM theo cả pháp luật
Việt Nam và theo cả pháp luật của các tổ chức cho vay quốc tế. Do đó, vừa nhằm
mục đích hoàn thiện pháp luật DDTM, vừa tạo sự thuận lợi cho chủ đầu tư, Việt
59
Nam cần có sự nghiên cứu, tiếp thu những điểm tích cực, hiệu quả pháp luật ĐTM
của các tổ chức quốc tế.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, Việt Nam
cần tiếp tục tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm quản lý môi trường thành công của các
nước tiên tiến, các nước có điều kiện tương đồngtrên thế giới, nhất là trong việc đưa
ra các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường, cũng như giải quyết các vấn đề về
ô nhiễm, sự cố môi trường trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Hoàn thiện pháp luật theo hướng cân bằng thu hút đầu tư nước ngoài
với yêu cầu bảo vệ môi trường trong nước, đảm bảo phát triển bền vững
Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn là một trong những trụ cột cho phát triển
kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên cần có cơ chế chọn lọc những dự
án ít gây tác động tới môi trường nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đã
và đang là vấn đề cấp thiết đặt ra cho Việt Nam. Thực tế hiện nay cho thấy một số
địa phương là vì áp lực tăng trưởng nên đã dung túng cho những hành vi sai trái của
các nhà đầu tư. Theo đuổi tăng trưởng là cần thiết, nhưng phải có kế hoạch, phải
cân đối được các vấn đề xung quanh khác, chứ không phải tăng trưởng bằng cách
đánh đổi mọi thứ.
Pháp luật cần có quy định cân nhắc lựa chọn dự án và nhà đầu tư để bảo đảm
phát triển kinh tế - xã hội đất nước cân đối với vấn đề bảo vệ môi trường, đảm bảo
sự phát triển bền vững. Cần ưu tiên các dự án có công nghệ và dịch vụ hiện đại, tiết
kiệm năng lượng, ít phát thải khí các bon và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính, có
công nghệ thân thiện với môi trường, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp
phần xây dựng “kinh tế xanh” và bền vững, theo đúng chỉ đạo của Nghị quyết số
103/NQ-CP đề ra định hướng mới và hệ thống giải pháp, coi trọng hơn cơ cấu, chất
lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội của FDI. Các địa phương cần loại bỏ tư tưởng
thành tích trong thu hút FDI, tránh việc ưu ái cho những dự án quy mô lớn, mà
không lường tới nguy cơ tác động xấu tới môi trường, phải nói không với các dự án
sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Pháp luật môi trường và pháp
luật đầu tư cần có mối liên hệ với nhau, cùng thống nhất tạo nên cơ chế lựa chọn dự
án đảm bảo phát triển về kinh tế mà vẫn cân bằng được vấn đề môi trường. Cần
kiểm soát chặt dự án FDI ngay từ khi thẩm định, cấp phép và giám sát chặt trong
60
quá trình triển khai. Chính phủ cần siết chặt kỷ luật, đặt ra rào cản cho các lĩnh vực
có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật đánh giá tác động môi trường ở
Việt Nam
Để hoạt động ĐTM trở thành công cụ hữu hiệu trong quản lý và bảo vệ môi
trường cần hoàn thiện khung pháp lý về ĐTM của Việt Nam ở các khía cạnh sau đây:
3.2.1. Xây dựng và ban hành các quy định về đảm bảo chất lượng
của báo cáo đánh giá tác động môi trường
Hệ thống pháp luật ĐTM cần được bổ sung các quy định đảm bảo chất lượng
của báo cáo ĐTM được lập, trong đó có việc đưa ra các tiêu chí đánh giá chất lượng
của báo cáo ĐTM. Việc đưa ra các tiêu chí cụ thể về mặt nội dung đối với báo cáo
ĐTM vừa đảm bảo tính minh bạch của các quy định về lập và thẩm định báo cáo
ĐTM, vừa làm cơ sở cho các tổ chức, cá nhân lập báo cáo ĐTM; vừa là căn cứ cho
việc thẩm định, phê duyệt báo cáo; nhằm kiểm soát chất lượng của báo cáo ĐTM
được lập.
Bộ TN&MT cũng đã ban hành được một số hướng dẫn lập báo cáo ĐTM cho
ngành nghề riêng biệt, tuy nhiên một số hướng dẫn đã được ban hành từ lâu, tới nay
đã xuất hiện nhiều điểm không còn phù hợp. Hiện nay, Bộ TN&MT cũng tích cực
xây dựng các hướng dẫn này và kêu gọi, khích lệ sự tham gia, đóng góp của các
chuyên gia, của cộng đồng một cách công khai trên Cổng thông tin điện tử Thẩm
định và Đánh giá tác động môi trường Việt Nam eia.vn.
Để nâng cao chất lượng hoạt động ĐTM, pháp luật Việt Nam cũng cần hoàn
thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường cũng sẽ góp phần đảm bảo chất lượng
báo cáo ĐTM. Quy chuẩn kỹ thuật môi trường là căn cứ để đánh giá, kiểm soát sự
thay đổi của môi trường, là cơ sở pháp lý để nhà nước kiểm soát những tác động
tiêu cực gây ra cho môi trường. Từ sự cố môi trường Formosa đã cho thấy lỗ hổng
pháp lý trong việc áp dụng quy chuẩn kỹ thuật về môi trường trong kiểm soát nguồn
thải. Hệ thống xả thải của Formosa áp dụng theo quy chuẩn 52 (QCVN
52:2013/BTNMT) về nước thải công nghiệp sản xuất thép. Quy chuẩn này được
xây dựng quá đơn giản, không có quy định tiêu chuẩn thải cho từng loại nhà máy
thép, không có quy định định tiêu chuẩn cho từng loại kỹ thuật và quy trình sản xuất
thép khác nhau, cũng không đặt ra lộ trình để buộc nhà đầu tư nâng cao tiêu chuẩn
61
nước thải trong vòng đợi dự án. Đây chỉ là hạn chế tiêu biểu đã được bộc lộ ra, còn
với các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường khác cũng đã tồn tại những bất cập. Do
đó, Nhà nước cần sớm rà soát, sửa đổi, ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về môi
trường bảo đảm kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt đối với các ngành, lĩnh vực có khả
năng gây ô nhiễm môi trường cao, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường ngành phải
nghiêm ngặt hơn các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường nói chung, đặc biệt chú
trọng các ngành nhuộm, thuộc da, sản xuất giấy, luyện thép từ quặng..., tiếp cận với
quy chuẩn kỹ thuật về môi trường của các nước tiên tiến.
Khi các quy định nêu trên được ban hành một cách đầy đủ, hoàn thiện sẽ tạo
nên một hệ thống cơ sở pháp lý để chủ dự án thực hiện tốt hoạt động ĐTM, còn nhà
nước sẽ đảm bảo kiểm soát những tác động tiêu cực gây ra cho môi trường, đạt
được hiệu quả của hoạt động ĐTM
3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật vềtham vấn cộng đồng
Quyền tham gia của cộng đồng được đưa ra trong các rất nhiều cam kết quốc
tế như Tuyên bố Rio năm 1992, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948,
Tuyên ngôn về quyền phát triển năm 1986, Công ước quốc tế về các quyền dân sự-
chính trị và kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Tuyên bố Stockholm năm 1972 về
môi trường và con người, Tuyên bố Dublin về nước và phát triển bền vững năm
1992, Kế hoạch hành động Mar del Plata năm 1977 [16,tr.6]. Tham vấn cộng đồng
trong ĐTM là sự ghi nhận sự tham gia của cộng đồng trong quá trình lập, thẩm định
báo cáo ĐTM. Mục đích của việc làm này nhằm đảm bảo quyền lợi của các nhóm
đối tượng chịu tác động từ dự án, đồng thời hỗ trợ quá trình ra quyết định đối với
các dự án phát triển. Tuy nhiên, việc thực hiện công tác này thời gian qua còn mang
nặng tính hình thức; quy trình, thủ tục tham vấn chưa đảm bảo minh bạch, công
khai, làm giảm đáng kể ý nghĩa và hiệu quả hoạt động tham vấn [15].
Như đã trình bày những hạn chế về hoạt động tham vấn, pháp luật cần quy
định cụ thể hơn về hoạt động này. Cần quy định thế nào là “chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ dự án” để từ đó xác định được đúng, đủ những đối tượng được tham vấn; tức
là xác định rõ ràng phạm vi tham vấn.
Nên quy định việc tham vấn trong nhiều giai đoạn của dự án. Hiện nay việc
tham vấn mới chỉ được thực hiện trong giai đoạn lập báo cáo ĐTM, pháp luật tuy có
quy định những trường hợp cần thiết có thể tiến hành tham vấn trong quá trình thẩm
62
định và phê duyệt báo cáo ĐTM. Tuy vậy, nhưng việc tham vấn trong các giai đoạn
này hầu như không được thực hiện. Vấn đề ở chỗ “trường hợp cần thiết”, pháp luật
đang quy định rất chung chung, trường hợp nào là cần thiết phải tham vấn cộng
đồng trong giai đoạn thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM. Khi pháp luật không rõ
ràng sẽ khiến những những người có quyền áp dụng pháp luật khó khăn trong áp
dụng quy định đó. Vậy nên pháp luật ĐTM cần quy định rõ ràng các trường hợp
buộc phải thực hiện tham vấn cộng đồng trong giai đoạn thẩm định, phê duyệt báo
cáo ĐTM. Cũng cần tiến hành tham vấn cộng đồng xuyên suốt các giai đoạn của dự
án, để có thể đảm bảo dự đoán được cơ bản các tác động xảy đến với môi trường
khi xây dựng dự án, để có hướng khắc phục các tác động đó một cách kịp thời, hiệu
quả nhất.
Cộng đồng tham gia tham vấn là những người dân trực tiếp sống ở địa
phương nơi hoạt động của dự án, có một bộ phận là những người không có chuyên
môn cao về lĩnh vực môi trường, nên khó có thể đánh giá đầy đủ, chính xác những
ảnh hưởng của dự án tới môi trường khi mà dự án mới chỉ trên giấy tờ như vậy;
nhưng không vì thế mà bỏ qua những ý kiến tham vấn của họ được, bởi họ là những
người sẽ trực tiếp chịu ảnh hưởng của môi trường nơi xây dựng dự án, họ sẽ trực
tiếp nhận thấy được sự thay đổi của môi trường trong từng giai đoạn của dự án. Để
công tác tham vấn cộng đồng đạt hiệu quả cao, trước khi tham vấn cần phổ biến tài
liệu liên quan tới cộng đồng, cung cấp kiến thức về môi trường cho cộng đồng tham
gia tham vấn. Pháp luật ĐTM cần quy định chủ dự án khi tiến hành tham vấn cộng
đồng phải cung cấp thông tin, có những hướng dẫn kỹ thuật cơ bản cho người dân
tham gia tham vấn để người dân có những kiến thức, hiểu biết cơ bản đối với dự án
và tới môi trường chịu tác động bởi dự án. Việc không cung cấp đầy đủ thông tin
hay sai lệch thông tin của dự án cho cộng đồng dân cư nơi chịu tác động bởi dự án
chủ dự án phải chịu trách nhiệm, phải có chế tài xử lý để răn đe và đảm bảo thực
hiện nghiêm túc.
Đồng thời pháp luật ĐTM cần quy định rõ những ý kiến tham vấn như thế
nào thì phải được chủ dự án ghi nhận, đưa vào báo cáo ĐTM và với những ý kiến
tham vấn không thực hiện thì cần phải giải trình bằng văn bản với cộng đồng dân cư
và với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luật ĐTM cũng cần quy định việc
tham vấn rộng rãi qua các hình thức văn bản, gặp mặt và đăng tải trên mạng internet
63
trong quá trình lập báo cáo đánh giá. Cần có quy định rõ ràng về việc lưu trữ và báo
cáo trung thực tất cả các ý kiến, không chỉ của người dân mà cả các ý kiến của
chuyên gia. Giai đoạn thẩm định và phê duyệt BC, cơ quan thẩm định có nghĩa vụ
tiếp thu tất cả các ý kiến đóng góp. Toàn bộ tài liệu do chủ đầu tư nộp phải được
công bố rộng rãi trên mạng internet kèm với khoảng thời gian thẩm định cùng đầu
mối tiếp nhận và phản hồi, giải trình đối với các ý kiến. Như vậy, cơ chế tham vấn
mới thực sự đem lại hiệu quả cho chủ dự án trong quá trình lập báo cáo ĐTM cũng
như cơ quan có thẩm quyền phê duyệt có cơ sở để ra quyết định phê duyệt hay loại
bỏ dự án một cách chính xác nhất.
3.2.3. Quy định về cơ chế hậu kiểm rõ ràng, chặt chẽ
Bản chất ĐTM là dự báo, do vậy báo cáo ĐTM khó có thể chi tiết về định
lượng cũng như chính xác về những tác động, sự cố, rủi ro về môi trường có thể xảy
ra trong suốt chu trình của dự án. Vì vậy cần xem công tác giám sát môi trường sau
khi thẩm định ĐTM là một trong các yếu tố quan trọng nhất trong quản lý môi
trường của dự án. Điều quan trọng là chủ dự án, tổ chức tư vấn, cộng đồng dân cư,
cơ quan thẩm định, cơ quan phê duyệt, lãnh đạo các cấp cần phải nhận diện các vấn
đề phức tạp về môi trường của dự án có thể nảy sinh để quyết định phải giám sát
đến mức độ nào đối với dự án đó. Xác định phạm vi, mức độ giám sát, kiểm tra
thực hiện báo cáo ĐTM rồi từ đó xác định phân cấp trách nhiệm kiểm tra, giám sát
cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức cho phù hợp. Hiện nay tuy có sự hạn chế về trình
độ, năng lực, số lượng cán bộ thực hiện giám sát hay về chi phí cho hoạt động giám
sát, kiểm tra hậu báo cáo ĐTM, tuy nhiên vấn đề còn nằm ở pháp luật đã không quy
định rõ ràng cơ chế kiểm tra, giám sát, cơ quan. Cần quy định cụ thể: cá nhân nào
có trách nhiệm kiểm tra, giám sát; kiểm tra, giám sát ở những giai đoạn nào; quy
trình tiến hành kiểm tra, giám sát; nghĩa vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền, của chủ dự án khi thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát; kèm
theo đó là trách nhiệm khi các bên có liên quan không thực hiện đúng nghĩa vụ của
mình theo quy định của pháp luật. Cần xây dựng quy trình kiểm tra, xác nhận công
tác bảo vệ môi trường theo từng giai đoạn của dự án và theo các cấp độ khác nhau
rong đó nêu rõ trách nhiệm của các bên từ chủ dự án đến các cơ quan quản lý môi
trường các cấp và có sự tham gia của chính quyền, nhân dân địa phương.Có như
vậy, chủ dự án mới nghiêm túc thực hiện những cam kết bảo vệ môi trường đã nêu
trong báo cáo ĐTM.
64
Sự cố môi trường Formosa là bài học cho Việt Nam về công tác giám sát môi
trường của cơ quan quản lý nhà nước. Nội dung giám sát không chỉ là đo đạc, phân
tích đánh giá chất lượng môi trường mà còn phải giám sát đánh giá sự tuân thủ các
yêu cầu về thực hiện các biện pháp giảm thiểu và quản lý môi trường, an sinh xã hội
trong báo cáo ĐTM được thẩm định. Tổ chức, phương pháp và kết quả giám sát
phải minh bạch, không bị chi phối bởi lãnh đạo địa phương, bộ ngành và chủ đầu
tư. Cần hoàn thiện pháp luật về giám sát môi trường theo hướng chủ động và
thường xuyên hơn: ngoài giám sát định kỳ còn phải tiến hành nhiều cuộc thanh,
kiểm tra đột suất; việc giám sát phải được tiến hành sát sao, kỹ lưỡng hơn chứ
không phải với những thông số đơn giản như hiện nay; việc kiểm tra, giám sát phải
được tiến hành trực tiếp, tận nơi chứ không chỉ là chủ đầu tư đưa mẫu đến cho cơ
quan có thẩm quyền thực hiện kiểm nghiệm, đánh giá, kiểm tra.
Cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa Trung ương với địa phương trong việc
kiểm tra, giám sát thực hiện báo cáo ĐTM. Các dự án lớn dù thuộc thẩm quyền phê
duyệt của Bộ, cơ quan ngang Bộ hay UBND cấp tỉnh, thì việc kiểm tra, giám sát
thực tế vẫn là gần nhất với cơ quan nhà nước về lĩnh vực môi trường ở địa phương
như Sở, Phòng TN&MT, UBND cấp xã. Đây là các cơ quan trực tiếp quản lý các
vấn đề môi trường tại địa phương, là các cơ quan có điều kiện để trực tiếp kiểm tra,
giám sát các dự án xây dựng trên địa phương mình. Do đó, các cơ quan này sẽ đóng
vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát việc đảm bảo thực hiện theo báo cáo
ĐTM của dự án, việc dự án có thay đổi cần phải lập lại báo cáo ĐTM.
Pháp luật cần có quy định cụ thể hơn sự giám sát chặt chẽ, nâng cao trách
nhiệm trong thẩm định, giám sát các dự án để bảo đảm an toàn môi trường. Hoạt
động giám sát, kiểm tra còn góp phần giúp cho chủ dự án có những thay đổi về biện
pháp, phương án bảo vệ môi trường kịp thời trước sự thay đổi ủa các yếu tố môi
trường và xã hội theo thời gian, trước rất nhiều vấn đề sẽ phát sinh trong quá trình
xây dựng, vận hành dự án để bảo vệ môi trường hiệu quả nhất.
3.2.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm của các chủ thể
tham gia thực hiện đánh giá tác động môi trường
Hệ thống pháp luật ĐTM của Việt Nam hiện nay được đánh giá là tương đối
đầy đủ, hoàn thiện với các quy định quy trình ĐTM rất chi tiết từ Luật, Nghị định
đến thông tư cùng rất nhiều những hướng dẫn thực hiện ĐTM cho từng loại dự án
65
cụ thể. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy hoạt động ĐTM ở Việt Nam chưa đạt được
hiệu quả cao. Theo tác giả, vấn đề nằm ở việctuân thủ pháp luật ĐTM. Pháp luật
ĐTM đang thiếu những quy định về trách nhiệm từng chủ thể tham gia vào hoạt
động ĐTM.
Với các sự cố môi trường của Việt Nam trong thời gian qua có thể thấy các
chủ thể liên quan đã không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, tuy nhiên lại khó xác
định sai phạm cụ thể do cá nhân nào và xử lý ra sao. Các nghĩa vụ hiện nay, đặc biệt
của các cơ quan chức năng thường mang tính tập thể nên khi có sai phạm việc quy
trách nhiệm sẽ có xu hướng đùn đẩy cho tập thể. Cũng vì thế, trách nhiệm của từng
cá nhân có liên quan trong hoạt động thẩm định, phê duyệt không được thực hiện
nghiêm túc, dẫn tới báo cáo ĐTM được thông qua với chất lượng thấp, không đảm
bảo yêu cầu.
Pháp luật ĐTM Việt Nam cần gắn trách nhiệm cho từng cá nhân, quy định
người nào thực hiện không đúng người đó phải chịu trách nhiệm. Theo quan điểm
cá nhân tác giả, thẩm định là một trong những giai đoạn rất quan trọng trong quá
trình phê duyêt một báo cáo ĐTM. Đây là khâu mà cơ quan nhà nước tham gia trực
tiếp, kết quả của giai đoạn này là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt báo cáo
ĐTM. Do đó, trách nhiệm của cơ quan thẩm định phải được quy định rõ hơn cả.
Việc thẩm định được thực hiện thông qua một hội đồng thẩm định, mỗi thành viên
đều phải có ý kiến riêng được ghi chép lại trong kết quả thẩm định của hội đồng,
người nào đồng ý hay không đồng ý thông qua báo cáo ĐTM đều phải giải trình rõ.
Theo đó, nếu báo cáo ĐTM được phê duyệt mà có sai sót thì những thành viên hội
đồng đã bỏ phiếu thuận phải chịu trách nhiệm, những thành viên đã bỏ phiếu chống
được miễn trách nhiệm. Quy định này khiến từng thành viên hội đồng phải rất cẩn
trọng đồng ý thông qua cho mỗi báo cáo ĐTM.
Ngoài ra trách nhiệm của các cá nhân khác trong các giai đoạn khác cũng cần
được quy định cụ thể. Như trách nhiệm của chủ dự án, của tổ chức tư vấn thực hiện
ĐTM trong quá trình lập báo cáo ĐTM. Các cá nhân phải đảm bảo thực hiện đúng
nhiệm vụ của mình và đảm bảo có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để cùng hoàn
thiện báo cáo ĐTM. Khi có sai phạm từ quá trình lập báo cáo ĐTM, các cá nhân
này có thể bị phạt tiền, tạm đình chỉ hoặc tịch thu chứng chỉ, hay nặng hơn có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với giai đoạn phê duyệt báo cáo ĐTM cũng
66
không ngoại lệ, trách nhiệm lớn nhất có lẽ thuộc về người có thẩm quyền phê duyệt
báo cáo ĐTM, người này dựa trên kết quả thẩm định của hội đồng thẩm định cùng
với ý kiến, quan điểm cá nhân để ra quyết định phê duyệt hay không phê duyệt báo
cáo ĐTM. Người ký quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM phải có quan điểm, đánh
giá của cá nhận, không được phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả thẩm định của hội
đồng thẩm định, để rồi khi có sai phạm lại đủn đầy trách nhiệm do hội đồng thẩm
định được.
Để quy định được trách nhiệm của cá nhân khi có sai phạm thì trước đó phải
quy định được nghĩa vụ, vai trò của từng cá nhân trong từng khâu của ĐTM. Việc
quy định trách nhiệm cá nhân là cơ sở xử lý vi phạm nên sẽ khiến các chủ thể
nghiêm túc chấp hành quy định của pháp luật hơn, thận trọng trong việc đưa ra các
quyết định của mình, nâng cao được chất lượng ĐTM.
3.2.5. Hoàn thiện pháp luật với quy định hai bước đánh giá tác động
môi trường cho dự án đầu tư
Theo thông lệ quốc tế, ĐTM thực hiện theo 02 bước. Bước đánh giá sơ bộ
tác động môi trường tập trung vào vấn đề lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, thực
hiện trong giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi dự án; đánh giá tác động môi trườngchi
tiết xem xét toàn diện các vấn đề môi trường của dự án, chi tiết hóa các biện pháp
giảm thiểu tác động xấu, thực hiện trong giai đoạn nghiên cứu khả thi dự án.
Và thực tế hiện nay, Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định quyết định phê
duyệt báo cáo ĐTM (báo cáo chi tiết) là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định chủ
trương đầu tư. Tuy nhiên, Luật Đầu tư khi quy định về hồ sơ phải nộp khi xin chủ
trương đầu tư lại không có thành phần này. Do vậy việc han hành quy định ĐTM theo
hai bước sẽ giúp hài hòa được cả pháp luật môi trường và pháp luật đầu tư. Quy định
về ĐTM hiện nay là quy định dành cho ĐTM chi tiết. Để hoàn thiện hệ thống pháp luật
ĐTM cần bổ sung quy định về ĐTM sơ bộ.Với nội dung như sau:
ĐTM sơ bộ được lập đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ
trường của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường cao (danh mục dự án do Chính phủ quy định chi tiết).Nội dung của ĐTM sơ
bộ sẽ do Chính phủ hướng dẫn chi tiết, bảo đảm đơn giản, dễ thực hiện, chi phí
thấp, chỉ bao gồm những thông tin chủ đầu tư tự khai như dự kiến dự án có chất thải
nguy hại không, nước thải có kim loại nặng không, dự kiến khối lượng chất thải, 67
khoảng cách từ dự án đến một số thành phần môi trường nhạy cảm như khu bảo tồn,
nguồn nước…
ĐTM sơ bộ sẽ do chủ đầu tư lập theo mẫu, không cần thẩm định trước nhưng
phải nộp cùng bộ hồ sơ xin chấp thuận chủ trương đầu tư. Khi cơ quan tiếp nhận hồ
sơ lấy ý kiến các cơ quan có liên quan thì phải lấy ý kiến cơ quan bảo vệ môi
trường. Cơ quan bảo vệ môi trường sẽ xem xét báo cáo ĐTM sơ bộ và trả lời cơ
quan đầu tư về tính phù hợp của dự án đối với môi trường. Quyết định cuối cùng
thuộc về cơ quan có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư.
Với quy định hai bước ĐTM như vậy sẽ bảo đảm sự thống nhất hệ thống
pháp luật. Đồng thời loại bỏ các dựán mà địa điểm, quy mô và công nghệ không
phù hợp về bảo vệ môi trường, có thể gây tác động lớn về môi trường.
Ngoài những đề xuất nêu trên, pháp luật về ĐTM để hoàn thiện và đem lại
hiệu quả quản lý, bảo đảm an toàn cho môi trường cần phải tiếp tục được rà soát
hạn chế sự trùng lặp, chồng chéo, bất nhất khiến các chủ thể khó áp dụng, thi hành;
cần ban hành đầy đủ hơn các quy định về quản lý năng lực của các những người có
trách nhiệm lập báo cáo ĐTM, của cá nhân tham gia thẩm định, phê duyệt báo cáo
ĐTM. Về chi phí cho ĐTM, pháp luật cần nâng cao lệ phí thẩm định báo cáo ĐTM
cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, đảm bảo mức lệ phí này là đủ cho các
hoạt động cần thiết phải thực hiện khi tiến hành thẩm định, đủ điều kiện để tiến
hành những hoạt động có tính khoa học, chuyên môn cao hơn, đáp ứng được nhu
cầu thẩm định. Hơn nữa, cần có quy định thêm về lệ phí kiểm tra công trình bảo vệ
môi trường phục vụ giai đoạn vận hành dự án, lệ phí kiểm tra, giám sát các chương
trình, kế hoạch bảo vệ môi trường như đã đề xuất trong báo cáo ĐTM.
3.3. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đánh giá tác động
môi trường ở Việt Nam
Để hoạt động đánh giá tác động môi trường được thực hiện có hiệu quả,
ngoài việc quy định của pháp luật phải được hoàn thiện, phù hợp thì cần cơ chế thúc
đẩy cho việc thực thi, áp dụng những quy định pháp luật đó vào thực tiễn. Dưới
đây, tác giả xin được đưa ra một số các kiến nghị của cá nhân nhằm nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật ĐTM:
68
3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đánh giá
tác động môi trường
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá
trình thi hành pháp luật và đóng vai trò hết sức quan trọng, là cầu nối thể hiện ý chí,
nguyện vọng của Nhà nước đến mọi người dân. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật là
yêu cầu chung toàn bộ hệ thống pháp luật, chứ không riêng gì đối với pháp luật
ĐTM. Tuy nhiên, do ĐTM là hoạt động chưa thực sự phổ biến với người dân, nên
yêu cầu phổ biến, tuyên truyền đối với pháp luật này càng cần được chú trọng hơn.
Khi các chủ thể trong xã hội đều biết tới pháp luật ĐTM, đều hiểu được vai trò cũng
như các nghĩa vụ cơ bản của pháp luật ĐTM thì hoạt động ĐTM đương nhiên sẽ
được thực hiện một cách hiệu quả, đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật.
Khi các chủ thể nhận thức được pháp luật ĐTM trước tiên sẽ nâng cao được
chất lượng tham vấn cộng đồng trong quá trình thực hiện ĐTM. Người dân khi hiểu
về vai trò của mình trong giai đoạn tham vấn, khi hiểu được quyền và nghĩa vụ của
mình sẽ tích cực tham gia tham vấn hơn để tự mình tham gia trực tiếp vào hoạt
động bảo vệ môi trường cho địa phương mình. Khi chủ thể hiểu biết về pháp luật
ĐTM sẽ tự có ý thức hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật ĐTM, hạn chế các hành
vi gây ô nhiễm môi trường. Chủ dự án, tổ chức tư vấn lập báo cáo ĐTM nắm rõ về
pháp luật ĐTM, về vai trò của hoạt động ĐTM sẽ nghiêm túc tuân thủ quy định
pháp luật ĐTM, có như vậy mới đem lại hiệu quả thực hiện ĐTM. Mọi người dân
đều nên được phổ biến về pháp luật ĐTM, đặc biệt hơn cả các chủ dự án phải thực
hiện ĐTM để nghiêm túc thực hiện ĐTM, đem lại hiểu quả bảo vệ môi trường cao.
Cần đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyền truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật ĐTM thông qua các hội nghị, hệ thống truyền thanh, hoạt động câu lạc bộ
phát luật, tọa đàm, buổi nói chuyện, hoạt cảnh tình huống, cung cấp các tin bài, cấp
phát tài liệu hỏi đáp, tờ gấp, tờ rơi, panô, áp phích, khai thác, tìm hiểu pháp luật qua
tủ sách pháp luật,…Có như vậy người dân sẽ dễ dàng tiếp cận được với pháp luật
ĐTM. Với tình trạng ô nhiễm môi trường phổ biến và nghiêm trọng như hiện nay
người dân về cơ bản đã có xu hướng quan tâm hơn tới ĐTM và tới pháp luật ĐTM.
Nhà nước cần tận dụng tình trạng này để phổ biến, hướng dẫn người dân tham gia
đóng góp ý kiến tham vấn, ý kiến xây dựng và hoàn thiện pháp luật ĐTM. Khi hiểu
biết của cộng đồng về pháp luật ĐTM được nâng cao sẽ kéo theo đó là việc thực thi 69
pháp luật ĐTM hiệu quả hơn, chủ dự án phải nghiêm túc thực hiện ĐTM, các cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khi chịu sự giám sát của người dân có trình
độ pháp luật cao sẽ buộc phải nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thực hiện hết trách
nhiệm của mình và không ngừng nâng cao trình độ của mình. Từ đó, việc thực thi
pháp luật ĐTM của toàn xã hội sẽ đạt được hiệu quả tối đa.
3.3.2. Nâng cao năng lực chuyên môn của các chủ thể thực hiện đánh
giá tác động môi trường
Năng lực chuyên môn của chủ thể thực hiện ĐTM bao gồm: năng lực lập báo
cáo ĐTM, năng lực tham vấn, năng lực thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM, năng
lực giám sát, xử lý vi phạm pháp luật ĐTM. Khi năng lực chuyên môn của các chủ
thể đều được nâng cao, đảm bảo các tiêu chí nhất định sẽ đem lại hiệu quả thực thi
pháp luật ĐTM, hiệu quả bảo vệ môi trường được nâng cao.
Bộ TN&MT cần sớm ban hành thông tư hướng dẫn về việc cấp chứng chỉ đủ
điều kiện thực hiện ĐTM. Cần ban hành quy định rõ ràng về tiêu chí, yêu cầu đối
với người lập báo cáo ĐTM và những cá nhân có thẩm quyền quản lý nhà nước về
môi trường. Cần cụ thể hoá các quy định về điều kiện chuyên môn, cơ sở vật chất,
trang thiết bị đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ lập báo cáo ĐTM nhằm đảm bảo
năng lực cung cấp dịch vụ của các tổ chức tư vấp lập báo cáo ĐTM, góp phần
chuyên môn hoá công tác lập báo cáo ĐTM và đảm bảo chất lượng của công tác
ĐTM trên thực tế.Cần tích cực tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ thẩm định báo
cáo ĐTM cho các cán bộ, cá nhân tham gia quản lý nhà nước về môi trường. Việc
này sẽ góp phần nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, phê duyệt và cả giai
đoạn hậu kiểm sau khi báo cáo ĐTM đã được phê duyệt.
Năng lực chuyên môn của chủ thể thực hiện ĐTM là các yếu tố quyết định
tới chất lượng của hoạt động ĐTM. Khi con người có khả năng, có kiến thức
chuyên môn thì pháp luật mới được áp dụng, thi hành một cách hiệu quả. Chính vi
vậy, nâng cao năng lực chuyên môn là yêu cầu, nhiệm vụ cần được Nhà nước chú
trọng đầu tư đúng mức và thường xuyên.
3.3.3. Công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường
Công khai thông tin luôn là yêu cầu được đặt ra để đảm bảo dân chủ, minh
bạch. Báo cáo ĐTM phải được công khai tới mọi người dân, trừ những báo cáo có
liên quan đến bí mật quốc gia. Khi báo cáo ĐTM được công khai, các cá nhân, tổ
70
chức, cơ quan quan tâm có điều kiện được tiếp cận, nghiên cứu, đưa ra những đánh
giá, nhận xét, góp ý sẽ góp phần hoàn thiện báo cáo ĐTM, sẽ đưa ra được những
vấn đề môi trường chịu tác động một cách rộng hơn, đầy đủ hơn và từ đó những
biện pháp phòng ngừa, khắc phục cũng đầy đủ hơn, hiệu quả hơn.
Ở các nước khác, việc tiếp cận các báo cáo ĐTM là rất dễ dàng. Chẳng hạn
như ở Mỹ, bất kể người dân Mỹ nào cũng có thể truy cập địa chỉ
https://www.epa.gov/nepa để tra cứu và góp ý đối với tất cả báo cáo ĐTM được
thực hiện trên lãnh thổ quốc gia này. Vì lẽ đó mà các cơ quan nhà nước không thể
làm ngơ, làm ẩu đối với các vấn đề môi trường, người dân sẽ giám sát tất cả.
Còn ở Việt Nam hiện nay, báo cáo ĐTM chỉ được chia sẻ cho cán bộ cơ quan
Nhà nước, người dân rất khó khăn trong việc tiếp cận. Trong khi những báo cáo
ĐTM hầu hết đã được scan và upload dưới dạng bản mềm. Vậy thì việc tải các báo
cáo ĐTM này lên trang cơ sở dữ liệu để người dân được tiếp cận là tương đối thuận
lợi, vậy tại sao lại không thực hiện.
Với báo cáo ĐTM chưa được phê duyệt chuẩn bị thực hiện tham vấn, pháp
luật ĐTM cần quy định công khai các báo cáo này và lấy ý kiến của cá nhân, tổ
chức, cơ quan quan tâm thông qua mạng Internet, góp phần nâng cao chất lượng
thẩm định báo cáo ĐTM. Báo cáo ĐTM đã được phê duyệt cùng tất cả các hồ sơ
của chủ đầu tư và của cơ quan thẩm định phải được lưu trữ và công bố công khai để
mọi người dân đều dễ dàng tiếp cận. Việc công khai có thể thực hiện trên nhiều
kênh khác nhau: qua Internet là quan trọng nhất với phạm vi công khai rộng nhất,
ngoài ra có thể qua văn bản niêm yết tại trụ sở UBND các cấp để người dân có thể
tiếp cận trực tiếp. Pháp luật ĐTM cũng cần phải quy định rõ chế tài xử phạt với
hành vi không công khai báo cáo ĐTM, công khai không đầy đủ báo cáo ĐTM.
Công khai báo cáo ĐTM của từng dự án sẽ giúp cho người dân, các cơ quan,
tổ chức quan tâm có điều kiện theo dõi, giám sát môi trường sẽ nâng cao chất lượng
tham vấn, kiểm tra, giám sát sau khi báo cáo ĐTM đã được phê duyệt. Đồng thời,
việc công khai báo cáo cũng sẽ gia tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan hữu
quan, tăng cường chất lượng báo cáo và công tác thẩm định báo cáo ĐTM, khiến
các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền nâng cao năng lực, trách nhiệm thực hiện
nhiệm vụ của mình, hạn chế sai xót, thiếu trách nhiệm trong quá trình thẩm định,
phê duyệt báo cáo ĐTM.
71
3.3.4. Tăng mức xử phạt vi phạm pháp luật ĐTM
Hệ thống pháp luật về ĐTM hiện nay đã tương đối đầy đủ tuy nhiên thực tiễn
áp dụng các quy định này lại chưa thực sự tốt. Các vi phạm pháp luật ĐTM diễn ra
ngày càng nhiều và để lại hậu quả rất nghiêm trọng cho môi trường. Để các cá nhân,
tổ chức có ý thức chấp hành nghiêm Luật Bảo vệ Môi trường thì việc quy định chế
tài xử phạt đủ mạnh, đủ sức răn đe là hết sức cần thiết. Cơ chế xử phạt hành vi vi
phạm pháp luật về ĐTM hiện nay còn rất nhẹ và chưa đủ răn đe, đây là một trong
những vấn đề chính khiến nhiều doanh nghiệp chưa mặn mà trong việc đầu tư xử lý
môi trường một cách nghiêm túc. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
ĐTM cần quy định mức xử phạt với hành vi vi phạm quy định về ĐTM nặng hơn
hiện nay.
Pháp luật cần quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với các vi phạm pháp
luật việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện báo cáo ĐTM để đảm bảo tính răn
đe đối với hành vi vi phạm, bổ sung chế tài đình chỉ dự án và yêu cầu khôi phục
hiện trạng để tránh tình trạng có những chủ thể cố tình không lập báo cáo ĐTM
nhưng vẫn triển khai dự án gây ra những hậu quả môi trường không thể khắc phục
được. Hiện nay quy định xử phạt hành chính với cá nhân vi phạm pháp luật ĐTM
tối đa là 200.000.000 VNĐ và tổ chức vi phạm là 400.000.000, mức xử lý như vậy
còn quá thấp. So với vốn đầu tư của dự án, so với lợi ích kinh tế mà dự án đem lại
thì mức xử phạt như vậy còn quá thấp, khiến chủ dự án chấp nhận vi phạm chứ
không thực hiện nghiêm túc các quy định về ĐTM. Chế tài xử phạt hình sự mới
thực sự mang tính răn đe, trừng trị, khiến các chủ dự án phải dè chừng thì việc cấu
thành tội phạm môi trường lại khó khăn, nên tình trạng xử lý hình sự với hành vi vi
phạm pháp luật môi trường gây hậu quả nghiêm trọng còn rất ít. Với hành vi vi
phạm pháp luật ĐTM thì việc xử lý trách nhiệm hình sự càng khó khăn hơn, Bộ luật
Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 không quy định tội danh cho hành vi
vi phạm pháp luật về ĐTM, mà chỉ quy định tội danh cho các hành vi như xả thải,
hủy hoại môi trường,… nên về cơ bản xử phạt hình sự đối với vi phạm pháp luật
ĐTM là không có. Như vậy, cần phải nâng cao mức phạt vi phạm hành chính lên
nhiều lần để mang hiệu quả răn đe hơn, có thể quy định thêm hình thức xử phạt
buộc tạm dừng hoạt động có thời hạn, hoặc đình chỉ dự án.
72
KẾT LUẬN
Hiện nay, môi trường là vấn đề nhận được sự quan tâm hàng đầu và cũng là
thách thức lớn đặt ra với toàn cầu. Bảo vệ môi trường là nghĩa vụ, trách nhiệm của
mọi quốc gia trên thế giới. Con người cần có ý thức, trách nhiệm với chính bản thân
mình và với toàn thế giới về việc thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường, tìm
cách ngăn chặn, hạn chế và khắc phục các tác động xấu tới môi trường. Thực hiện
tốt đánh giá tác động môi trường chính là một trong những biện pháp góp phần giải
quyết triệt để vấn đề này. ĐTM đã và đang ngày càng cho thấy vai trò của mình
trong việc hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực trong hoạt động phát triển kinh tế - xã
hội của con người tới môi trường tự nhiên; là công cụ quản lý môi trường hữu hiệu
trong thời đại hội nhập khi mà các quốc gia đang rất chú trọng hoạt động thu hút
đầu tư. ĐTM cho thấy rõ vai trò hạn chế các tác nhân ô nhiễm môi trường ngay từ
khi mọi thứ mới chỉ trong giai đoạn chuẩn bị, chưa hình thành, điều này mang tính
chất phòng ngừa cao, giải quyết vấn đề từ gốc; và ĐTM vẫn theo sát quá trình
chuẩn bị vận hành dự án, đảm bảo chủ dự án thực hiện các biện pháp, công trình
bảo vệ môi trường như đã cam kết. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy các chủ
dự án vẫn chỉ coi ĐTM là một thủ tục để được cấp phép đầu tư dự án, chứ chưa
thực sự quan tâm đến vai trò bảo vệ môi trường của ĐTM. Dẫn tới, việc lập báo cáo
ĐTM chỉ mang tính hình thức, thủ tục qua mặt cơ quan quản lý, chứ không mang
tính thực chất, không đem lại hiệu quả môi trường như đúng yêu cầu của
ĐTM.Pháp luật về ĐTM hiện còn một số điểm bất cấp, gây hạn chế trong quá trình
áp dụng, thi hành pháp luật. Một bộ phận những người thi hành pháp luật ĐTM còn
hạn chế về năng lực, thiếu trách nhiệm nên đã để xảy ra những vi phạm gây thiệt hại
nặng nề đối với môi trường. Tiêu biểu là Sự cố cá chết hàng loạt ở các tỉnh miền
Trung, mà thủ phạm là Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa. Formosa với hàng
loạt các sai phạm như xả thải, vận hành công nghệ,… không đúng với báo cáo
ĐTM. Sai phạm của vụ việc còn nằm ở các nhà chức trách có thẩm quyền phê
duyệt, thẩm định báo cáo ĐTM, các cơ quan có trách nhiệm trong việc kiểm tra,
giám sát thực hiện báo cáo ĐTM cũng như việc bảo đảm công tác bảo vệ môi
trường. Điều đó, cho thấy cơ chế quản lý các vấn đề môi trường còn kém, thiếu
minh bạch, thiếu tính khả thi, chưa đảm bảo sự răn đe của pháp luật. Do đó, vấn đề
73
bảo vệ môi trường nói chung và đánh giá tác động môi trường nói riêng cần phải
được quan tâm, chú trọng hơn để có thể hoàn thiện, thắt chặt hệ thống pháp luật,
đảm bảo sự nghiêm minh, thiết thực, vai trò quản lý quan trọng trong đối với các
vấn đề môi trường.
Trong phần nội dung của Khóa luận, tác giả đã đưa ra được những lý luận cơ
bản về ĐTM, tác giả cũng phân tích, đánh giá sơ lược thực trạng pháp luật về ĐTM
ở Việt Nam, tình hình công tác quản lý nhà nước về ĐTM, thực tiễn áp dụng các
văn bản quy phạm pháp luật về ĐTM. Đồng thời, tác giả cũng phân tích đánh giá
những thành tựu và hạn chế của các văn bản này, từ đó đưa ra một số kiến nghị
nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐTM ở Việt Nam.
Khóa luận này được hoàn thành với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, dưới sự
hướng dẫn tận tình và có hiệu quả của Tiến sĩ Lê Kim Nguyệt. Tác giả hy vọng rằng
Khóa luận góp phần nhỏ vào tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến pháp
luật về đánh giá tác động môi trường.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bích Diệp (2016), Bài học Formosa và yếu tố “không khả thi” khi đánh giá tác
động môi trường, Báo điện tử Dân trí, http://dantri.com.vn/kinh-doanh/bai-
hoc-formosa-va-yeu-to-khong-kha-thi-khi-danh-gia-tac-dong-moi-truong-
2016081116413129.htm.
2. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 02/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 02
tháng 01 năm 2014 hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định
của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội.
3. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 195/2016/TT-BTC ngày 08 tháng 11 năm
2016 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định báo
cáo đánh giá tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường chi tiết do cơ
quan trung ương thực hiện thẩm định, Hà Nội.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư số 27/2015/TT-BTNMT ngày
29 tháng 05 năm 2015 quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá
tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, Hà Nội.
5. Chí Nhân – Lê Quân (2016), Báo cáo môi trường…có cũng như không, Báo
Thanh niên, https://m.thanhnien.vn/thoi-su/bao-cao-moi-truong-co-cung-nhu-
khong-727621.html.
6. Chính phủ (2015), Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015
quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược,
đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, Hà Nội.
7. Chính phủ (2016), Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường, Hà Nội.
8. Chu Mạnh Hùng (2010), Sự ra đời của việc đánh giá tác động môi trường ở
một số quốc gia, Con đường xanh số t2/2010.
9. Chung Hoàng - Thu Hằng - Hồng Nhì (2016), Formosa làm cá chết, bồi
thường 500 triệu USD, Báo điện tử Vietnamnet,
http://amp.vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/formosa-lam-ca-chet-boi-
thuong-500-trieu-usd-313134.html.
75
10. Danh Toại (2016), Formosa xả thải ra biển, Báo Thanh niên, diễn đàn Hội liên
hiệp Thanh niên Việt Nam, https://thanhnien.vn/thoi-su/formosa-xa-thai-ra-
bien-695002.html.
11. Khánh An (2016), Quyết liệt căn chỉnh hệ thống pháp luật về bảo vệ môi
trường!, Báo Môi trường 24h – Diễn đàn của Trung ương Hội bảo vệ môi
trường và thiên nhiên Việt Nam.
12. Khương Trung (2017), Bộ trưởng Trần Hồng Hà họp Hội đồng liên ngành
giám sát việc khắc phục vi phạm của Formosa, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
13. Lê Thanh Tùng (2013), Pháp luật về đánh giá tác động môi trường trong hoạt
động đầu tư ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật (ĐHQGHN), Hà Nội.
14. N.Hằng (2017), Sự cố môi trường Formosa – một năm nhìn lại, Tạp chí môi
trường số 5/2017.
15. Nguyễn Đức Tùng, Phó Viện trưởng Viện Môi trường và Phát triển bền vững
(2013), Tham vấn cộng đồng trong ĐTM chưa đi vào thực chất, Hội bảo vệ
thiên nhiên và môi trường Việt Nam (VACNE).
16. Nguyễn Hoàng Phượng, Trần Thanh Thủy, Nguyễn Việt Dũng (2013), Đánh
giá tác động môi trường ở Việt Nam: Cải cách chính sách để góp phần giảm
xung đột và tranh chấp môi trường, Trung tâm Con người và Thiên nhiên, Hà
Nội.
17. Nguyễn Minh Đức – VCCI (2014), Hoàn thiện pháp luật về ĐTM, ĐMC của
Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm luật pháp Trung Quốc, Trung tâm Con người và
Thiên nhiên.
18. Nguyễn Thị Hải Yến (2017), Xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi
trường Công ty TNHH Khải Thần Việt Nam, Trang Thông tin điện tử Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Giang,
http://tnmtbacgiang.gov.vn/index.php/vi/news/Xu-Phat-Hanh-Chinh/Xu-phat-
vi-pham-hanh-chinh-ve-bao-ve-moi-truong-Cong-ty-TNHH-Khai-Than-Viet-
Nam-901/.
19. P.Thảo (2017), Ban Bí thư cách chức ông Võ Kim Cự, cảnh cáo ông Nguyễn
Minh Quang, Báo điện tử Dân trí.
76
20. PGS.TS Đặng Văn Minh chủ biên (2013) – Trường Đại học Nông lâm Thái
Nguyên, Giáo trình đánh giá tác động môi trường, NXB Nông nghiệp, Hà
Nội.
21. PGS.TS Lê Trình (2014), Công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá
tác động môi trường ở các quốc gia Ðông Bắc Á và khuyến nghị cho Việt
Nam, Tạp chí môi trường số 3/2014.
22. Phạm Ngọc Hồ - Hoàng Xuân Cơ (2001), Giáo trình Đánh giá tác động môi
trường, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.
23. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày 23 tháng 06
năm 2014, Hà Nội.
24. Tổng cục Môi trường(2012), Việt Nam: Học tập kinh nghiệm lập báo cáo
đánh giá tác động môi trường dự án nhà máy điện hạt nhân, Cổng thông tin
điện tử Tổng cục Môi trường.
25. Tổng cục Môi trường (2012), Việt Nam: Học tập kinh nghiệm lập báo cáo
đánh giá tác động môi trường dự án nhà máy điện hạt nhân, Cổng thông tin
điện tử Tổng cục Môi trường,
http://vea.gov.vn/vn/tintuc/tintuchangngay/Pages/H%E1%BB%8Dc-
t%E1%BA%ADp-kinh-nghi%E1%BB%87m-l%E1%BA%ADp-b%C3%A1o-
c%C3%A1o-%C4%91%C3%A1nh-gi%C3%A1-t%C3%A1c-
%C4%91%E1%BB%99ng-m%C3%B4i-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-
d%E1%BB%B1-%C3%A1n-nh%C3%A0-m%C3%A1y-
%C4%91i%E1%BB%87n-h%E1%BA%A1t-nh%C3%A2n-.aspx.
26. Trần Tân (2017), Không có báo cáo đánh giá tác động môi trường, chủ đầu tư
bị phạt 400 triệu đồng, Tạp chí Môi trường số 8/2017.
27. Trung tâm Con người và Thiên nhiên (2009), Đánh giá tác động môi trường ở
Việt Nam: Từ pháp luật đến thực tiễn, Hà Nội.
28. TS. Mai Thế Toản (2016), Thực trạng và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện
hệ thống đánh giá tác động môi trường trong quá trình xét duyệt dự án đầu tư,
Tạp chí Môi trường số 8/2016.
29. TS.Nguyễn Khắc Kinh (2015), Giới thiệu tổng quan về đánh giá tác động môi
trường, Trung tâm Con người và Thiên nhiên.
77
30. Vũ Hạnh (2016), Formosa thừa nhận làm cá chết ở miền Trung như thế nào?,
Báo điện tử VOV, https://m.vov.vn/xa-hoi/formosa-thua-nhan-lam-ca-chet-o-
mien-trung-nhu-the-nao-525803.vov.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
31. Alix Adams (2010), Law for Business Students, 6th ed. London: Pearson.
32. Environmental Impact Assessment Division - Environmental Policy Bureau
(2005), Environmental impact assessment in Japan, Ministry of the
Environment.
78