TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

LỜI CẢM ƠN

MAI DUY KHÁNH

Sau một thời gian làm việc nghiêm túc, đề tài khóa luận tốt nghiệp

mang tên “Tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi của Nguyễn Khải dưới góc

nhìn văn hóa” đã hoàn thành. Với tình cảm chân thành, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới Tiến sĩ La Nguyệt Anh, người đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong TẬP TRUYỆN NGẮN HÀ NỘI suốt thời gian thực hiện đề tài . Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy, TRONG MẮT TÔI CỦA NGUYỄN KHẢI cô trong khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã có những góp ý quý báu cho đề tài khóa luận . Và để hoàn thành đề tài khóa luận này tôi xin DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA được nói lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, những người đã luôn ở bên động

viên và giành mọi sự giúp đỡ tốt nhất cho tôi.

Đề tài “Tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi của Nguyễn Khải dưới

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC góc nhìn văn hóa” vẫn còn có những thiếu sót nhất định, hi vọng các thầy cô Chuyên ngành: Văn học Việt Nam trong Hội đồng bảo vệ khóa luận và các bạn cho ý kiến đóng góp để tôi có thể

tiếp thu thêm được nhiều kiến thức mới.

Người hướng dẫn khoa học

Trân trọng!

Hà Nội, tháng 4 năm 2017

Sinh viên

TS. LA NGUYỆT ANH

Mai Duy Khánh

HÀ NỘI - 2017

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Tập truyện ngắn Hà

Nội trong mắt tôi của Nguyễn Khải dưới góc nhìn văn hóa” là công trình

nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS La Nguyệt

Anh. Đề tài khóa luận không trùng lặp với bất cứ nghiên cứu nào. Tôi xin cam

đoan các tài liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là trung thực. Các

thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin

hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 4 năm 2017

Người cam đoan

Mai Duy Khánh

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

MỤC LỤC

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7

6. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 7

NỘI DUNG ....................................................................................................... 8

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 10

1.1. Khái niệm văn hóa, văn học ..................................................................... 10

1.1.1. Khái niệm văn hóa ................................................................................ 10

1.1.2. Khái niệm văn học ................................................................................ 12

1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học .................................................. 13

1.2. Tác giả Nguyễn Khải ............................................................................... 18

1.2.1. Tiểu sử ................................................................................................... 18

1.2.2. Giá trị văn hóa, văn học từ những sáng tác của Nguyễn Khải ............. 22

1.2.3. Vị trí của tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi trong hành trình sáng

tạo văn học, văn hóa của Nguyễn Khải ........................................................... 28

CHƯƠNG 2. NHÃN QUAN VĂN HÓA CỦA NGUYỄN KHẢI QUA TẬP

TRUYỆN NGẮN HÀ NỘI TRONG MẮT TÔI ............................................. 30

2.1. Thăng Long ngàn năm tuổi ...................................................................... 31

2.2. Thăng Long - Hà Nội - Những giá trị văn hóaError! Bookmark not

defined.

2.3. Nếp sống của người Hà Nội ................................................................... 34

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM THỨC VĂN HÓA QUA

TẬP TRUYỆN NGẮN HÀ NỘI TRONG MẮT TÔI CỦA NGUYỄN KHẢI.43

3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật ......................................................... 43

3.1.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................ 43

3.1.2. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 46

3.2 Ngôn ngữ người kể chuyện và giọng điệu trần thuật ................................ 50

3.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện ................................................................... 50

3.2.2. Giọng điệu trần thuật ............................................................................. 53

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 56

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việc lựa chọn đề tài “Tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi dưới góc

nhìn văn hóa” xuất phát từ hai lý do chính.

Thứ nhất, từ lý do khoa học. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa văn

hóa và văn học trước đây, quan hệ văn hóa và văn học được coi là quan hệ

tương hỗ. Quan hệ ngang bằng của hai hình thái ý thức xã hội cùng thuộc

thượng tầng kiến trúc, cùng phản ánh một cơ sở hạ tầng. Bởi thế, nghiên cứu

văn hóa thì văn học được coi như một nguồn tài liệu, còn nghiên cứu văn học

thì lại tìm thấy ở nó những chủ đề văn hóa, cũng là một kiểu tài liệu. Như vậy,

văn hóa và văn học hoàn toàn có thể bổ trợ cho nhau trong việc cung cấp tài

liệu nghiên cứu cũng như bổ sung nhiều góc nhìn mới lạ.

Xét trong mối quan hệ giữa văn học và văn hoá, có thể thấy văn học là

một bộ phận của văn hoá. Đây là mối quan hệ biện chứng, phản ánh đặc điểm

có tính quy luật của quan hệ riêng chung mang tầm triết học như Lenin đã

nói trong Bút ký triết học, Nxb. Sự thật, 1963: “… cái riêng chỉ tồn tại trong

mức độ nó liên hệ với cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông

qua cái riêng…” [7, 384]. Nghiên cứu văn học không thể tách rời văn học

khỏi những mối liên hệ của nó với các bộ phận (cái riêng) khác, và nhất là

không thể không đặt nó trong mối quan hệ với văn hoá (cái chung) với tư

cách là toàn bộ sáng tạo vật chất và tinh thần của nhân loại, như M. Bakhtin

xác định trong Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb. Khoa học xã hội,

1990: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể

hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá của một thời đại

trong đó nó tồn tại” [9,362]. Mối quan hệ giữa văn học và văn hoá còn là mối

quan hệ đa chiều kích và có tính nguyên tắc.

Đối với việc tiếp cận các tác phẩm của Nguyễn Khải dưới góc nhìn

1

văn hóa hiện nay còn chưa được chú ý nhiều, với tập truyện ngắn Hà Nội

trong mắt tôi điều đó cũng xảy ra tương tự. Bởi vậy tôi chọn đề tài “Tập

truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi của Nguyễn Khải” dưới góc nhìn văn hóa

để làm sáng tỏ hơn các nội dung của tác phẩm.

Thứ hai xuất phát từ thực tiễn, Hà Nội là một trung tâm kinh tế, văn

hóa, xã hội của đất nước, vệc nghiên cứu văn hóa của mảnh đất ngàn năm văn

hiến luôn là việc làm có ý nghĩa lớn và thông qua đó chúng ta có thể hiểu

thêm và yêu thêm mảnh đất, con người nơi đây. Cùng với đó là niềm yêu mến

đặc biệt với Thủ đô nói chung và với nét văn hóa của Hà Nội nói riêng của cá

nhân, với Đất và Người Tràng An đã thôi thúc tôi chọn đề tài này.

Ngoài ra cũng không thể không bày tỏ sự ngưỡng vọng và kính mến

của tôi đối với cá nhân nhà văn Nguyễn Khải, với cuộc đời và sự nghiệp mà

ông đã để lại cho chúng ta ngày hôm nay, trong đó có những đóng góp về văn

hóa nói chung và văn hóa Hà Nội nói riêng mà ông đã xây dựng qua những

trang viết của mình.

Hơn nữa vấn đề tôi lựa chọn để nghiên cứu cho tới thời điểm hiện tại,

chưa có công trình nào thực sự đề cập tới một cách hệ thống. Vì những lý do

trên tác giả khóa luận đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Tập truyện ngắn Hà Nội

trong mắt tôi của Nguyễn Khải dưới góc nhìn văn hóa”.

2. Lịch sử vấn đề

Do đây là một tập truyện ngắn được tập hợp bởi 10 truyện ngắn khác

nhau, sáng tác vào các khoảng thời gian khác nhau, đã từng được in riêng rẽ

nên việc đánh giá, phê bình và nghiên cứu cũng chưa thực sự được sắp xếp

thành hệ thống đầy đủ và chi tiết, bởi vậy lịch sử của vấn đề là những trang

viết rời rạc, được các nhà văn, nhà phê bình, báo chí đề cập tới qua từng góc

độ, từng bình diện khác nhau giữa các truyện ngắn. Theo đó thì mức độ quan

tâm, sự chuyên sâu trong nghiên cứu không nhiều. Cũng một phần nguyên

2

nhân do Nguyễn Khải có những sáng tác có phần “trội” hơn, nên vấn đề được

đặt ra trong khóa luận còn ít được nghiên cứu. Tuy nhiên cũng có thể lược

qua một số bài viết về vấn đề này.

Tác giả Trần Thanh Phương trên Phụ san Văn nghệ quân đội (1998) với

bài viết Nguyễn Khải với Hà Nội trong mắt tôi đã nhận xét: “Hà Nội trong

mắt tôi không tuân theo những khuôn mẫu thông thường của truyện ngắn

truyền thống đòi hỏi phải có cốt truyện và những pha hấp dẫn li kì của sự thắt

nút, cởi nút…ở đây vai trò hư cấu dường như bị tước bỏ: toàn truyện người

thực, việc thực” hoặc “Sự kết hợp nhiều thể loại vào trongt một thể loại đã

làm cho truyện ngắn Nguyễn Khải giống như một bức tranh giàu màu sắc với

nhiều mảng sáng tối xen kẽ, tạo ra một thế giới đa dạng phong phú. Đó là đặc

điểm tạo nên truyện ngắn Nguyễn Khải” hay “Tác giả thường xuyên sử dụng

thủ pháp tự giễu mình, giễu cái nghề của mình, giễu cả bạn bè đồng nghiệp.

Nhiều khi ông mượn lời nhân vật tự giễu rồi lại tự xác nhận. Cách giễu cợt ấy

có tác dụng xoá nhoà khoảng cách nhà văn với các nhân vật, kéo độc giả lại

gần với mình, tạo ra sự bình đẳng thân mật, thậm chí có thể vỗ vai cợt nhả

nữa" [11].

Đinh Quang Tốn trong Nguyễn Khải tác gia tác phẩm (2004) có bài

viết Nguyễn Khải với Hà Nội đã có những nhận xét tốt đẹp về tập truyện ngắn

Hà Nội trong mắt tôi: “Hà Nội trong mắt tôi là một tập truyện ngắn hay. Mỗi

truyện một vấn đề, mỗi người một nhân cách. Cả tập truyện là tập hợp những

nhân cách Hà Nội. Mỗi người một vẻ nhưng không có ai hèn. Có lẽ không pải

ngẫu nhiên mà giữa những biến động lớn của cuộc sống, con người bị khủng

hoảng nhân cách trầm trọng….” [12, 377]

Năm 2000, Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nguyễn Khải tác gia tác

phẩm cũng có những nhận xét khái quát về Nguyễn Khải và các sáng tác của

ông: “Té ra Nguyễn Khải không chỉ là nhà văn của những nông dân lao động

trên nông trường Điện Biên ngày nào, của những giáo dân và cha cố xứ đạo

3

Bùi Chu, Phát Diệm, của những người lính ở Cồn Cỏ, Trường Sơn thời chống

Mỹ… Ông còn là nhà văn của những con người thuộc một thế giới khác hẳn –

thế giới của thượng lưu, đài các của Hà Nội “Vang bóng một thời”…Một Hà

Nội đủ khôn ngoan và nhẫn nhục để thích ứng với thời thế, nhưng vẫn quý

trọng một cách đầy kiêu hãnh cái nếp sống, cái sở thích riêng mà mình cho là

đẹp, là sang. Một Hà Nôi phong lưu, thanh lịch, không chỉ thể hiện ở cung

cách sinh hoạt bề ngoài mà ở trong tâm tư sâu kín, mà nếu không phải là

người đã từng sống với nó đã mang dòng máu của nó, thì không thể hiểu

được, không thể đồng cảm được, không thể có thái độ trân trọng thật sự để có

thể xem nó như “những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội,

hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng” (Một

người Hà Nội) [13, 420].

Năm 2012 PGS.TS Đoàn Trọng Huy trong bài viết Nhớ về Hà Nội –

Cốt cách tài năng của Nguyễn Khải trên Văn nghệ quân đội đã dành những

lời trân trọng cho nhà văn và tác phẩm của ông, trong đó đặc biệt đánh giá

Nguyễn Khải là một trong những gương mặt đóng góp vào các sáng tác có giá

trị về Hà Nội cùng với các bậc đàn anh có tên tuổi. Tác giả nhận xét: "Tính

theo một cách sắp xếp thì đủ một bộ “ngũ tử” người Thủ đô viết về Hà Nội:

Thạch Lam, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn Tuân và Nguyễn Khải,

mỗi người một vẻ đặc sắc riêng. Ông viết về Hà Nội với những con người

mang cốt cách tinh hoa của Hà Nội văn hiến – Hà Nội có truyền thống văn

hóa lâu đời và tốt đẹp" [2].

Năm 2015, Chu Thị Hảo trên Văn nghệ đất Tổ cũng có những nhận

định về tập truyện ngắn này: " …Nguyễn Khải muốn dành tập Hà Nội trong

mắt tôi trong đó có truyện ngắn Một người Hà Nội để trình bày những kiến

giải của nhà văn về đất kinh kỳ. Đến với trang văn của Nguyễn Khải ta bắt

gặp chiều sâu văn hóa của mảnh đất này. Tiết mưa xuân lây rây lả lướt là vẻ

đẹp văn hóa của đất kinh kỳ. Đặc biệt hình ảnh cây si bên đền Ngọc Sơn - một

4

cây si cổ thụ gợi cho người đọc vẻ đẹp cổ kính của Hà Nội. Đáng chú ý nhà

văn miêu tả cây si ấy bị bão quật đổ bật rễ được cần cẩu kéo lên sau một

tháng lại trổ lá non. Đây là cây si của Hà Nội là biểu tượng cho vẻ đẹp của Hà

Nội “Hà Nội thời nào cũng đẹp, mỗi thời có một vẻ đẹp riêng của nó”. Hình

ảnh cây si giàu sức sống mang ý nghĩa tượng trưng cho thiên nhiên của đất

kinh kỳ - vẻ đẹp văn hóa của đất kinh kỳ" [1].

Trên đây là các công trình nghiên cứu, bài báo, bài phê bình văn học có

đề cập tới tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi hoặc các truyện ngắn riêng lẻ

trong tập truyện này ở các mức độ quan tâm khác nhau. Các ý kiến đề cập tới

tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi của Nguyễn Khải đều chỉ ra những nét

đặc sắc của tác phẩm, đến những yếu tố văn hóa mà tập truyện ngắn đề cập

tới, tuy nhiên văn chương là thế giới muôn màu nên việc khám phá vẻ đẹp của

văn chương là không có điểm dừng, mặc dù các nhà nghiên cứu đã đề cập đến

một số yếu tố văn hóa trong tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi nhưng vấn

đề mà khóa luận này hướng đến thì chưa có một công trình nào thực sự đi sâu

vào và có hệ thống. Trên tinh thần tiếp thu những ý kiến, kinh nghiệm của

người đi trước và phát huy những thành tựu đó, tôi triển khai nghiên cứu vấn

đề : “Tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi của Nguyễn Khải dưới góc nhìn

văn hóa”.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận này nhằm tìm ra các nét văn hóa

được truyền tải thông qua các nhân vật, ngôn ngữ, không gian, thời gian nghệ

thuật trong tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi. Khóa luận cũng tập trung

vào việc nghiên cứu các nét văn hóa của Thủ đô Hà Nội được thể hiện trong

các trang viết của nhà văn Nguyễn Khải.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Khách thể nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu là là tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi của

5

nhà văn Nguyễn Khải. Trong đó bao gồm 10 truyện được tập hợp thành cuốn

Hà Nội trong mắt tôi. Và ở đây tôi xem các truyện ngắn này là một chỉnh thể

xuyên suốt xâu chuỗi với nhau trong tư duy văn hóa của Nguyễn Khải

4.2 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính ở đây là yếu tố văn hóa được thể hiện

trong tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi của nhà văn Nguyễn Khải.

Trong khóa luận này cũng đề cập tới các yếu tố ngôn ngữ của nhà văn,

các yếu tố không gian thời gian nghệ thuật thể hiện cảm thức văn hóa của nhà

văn.

4.3. Phạm vi tư liệu

Phạm vi tư liệu của khóa luận là tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi

của nhà văn Nguyễn Khải gồm 10 truyện ngắn. Và ở đây, tôi xem các truyện

ngắn này là một chỉnh thể xuyên suốt, xâu chuỗi với nhau trong tư duy văn

hóa của Nguyễn Khải.

5. Phương pháp nghiên cứu

Sáng tác của Nguyễn Khải trải dài trên nhiều thập kỷ, với số lượng đồ

sộ có cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Với giới hạn của đề tài, trong một tập

truyện ngắn, yếu tố văn hóa gần như xuyên suốt các tác phẩm, ở từng phương

diện và khía cạnh vì vậy tôi sử dụng hệ thống các phương pháp :

+ Phương pháp phân tích tác phẩm văn học.

+ Phương pháp so sánh là rất cần thiết vì có so sánh mới làm rõ được

đối tượng nghiên cứu đó là đi vào so sánh ngang giữa các tác phẩm để làm rõ

các yếu tố văn hóa thể hiện trong từng tác phẩm với nhau .

+ Phương pháp nghiên cứu liên ngành.

Các phương pháp nói trên đều nhằm mục đích nghiên cứu, khai thác

một cách hiệu quả nhất cho khóa luận.

6. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính

6

của khóa luận được triển khai thành ba chương:

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

CHƯƠNG 2. NHÃN QUAN VĂN HÓA CỦA NGUYỄN KHẢI QUA

TẬP TRUYỆN NGẮN HÀ NỘI TRONG MẮT TÔI

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM THỨC VĂN HÓA QUA

TẬP TRUYỆN NGẮN HÀ NỘI TRONG MẮT TÔI CỦA NGUYỄN

KHẢI

7

KẾT LUẬN

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1 Khái niệm văn hóa, văn học

1.1.1 Khái niệm văn hóa

Đến nay có không ít những định nghĩa về văn hóa. Theo đó các định

nghĩa này có những điểm khác nhau, bởi mỗi học giả lại đứng trên một quan

điểm, cứ liệu, mục đích riêng để nghiên cứu. Trong giới hạn của đề tài này, tất

nhiên không thể đưa ra hết các định nghĩa về văn hóa mà chỉ có thể lược ra

một vài định nghĩa cơ bản có sức thuyết phục cũng như phục vụ cho mục đích

nghiên cứu của khóa luận.

Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng xét chung , khái

niệm văn hoá có thể qui về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa

rộng.

Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa

của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng,

văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp,

văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo không gian, văn hoá được dùng để chỉ

những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam

Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong

từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…)…

Có thể hiểu một cách đơn giản, văn hoá thường được xem là bao gồm

tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Trong tập Nhật Ký trong tù, Hồ Chí

Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người

mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa

học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về

ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh

8

đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt

cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những

nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [3].

Theo Từ điển Tiếng Việt – Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam

thì văn hóa là: “văn trong nghĩa văn minh, hóa trong nghĩa giáo hóa, nền giáo

hóa theo mỗi văn minh của thời đại, điều hiểu biết kiến thức…” [16, 860].

Tóm lại, văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và

phát triển trong mối quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính

văn hóa lại tham gia vào việc tái tạo con người, và duy trì sự bền vững và trật

tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá

trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động

và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con

người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời

sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần

mà do con người tạo ra.

1.1.2. Khái niệm văn học

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “văn học là sản phẩm lịch sử, văn học

tự nó cũng là một quá trình. Văn học cũng chịu sự chi phối mạnh mẽ của đời

sống thực tại, chịu ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội khác như chính

trị, đạo đức, triết học, tôn giáo, khoa học…Những ảnh hưởng cụ thể sẽ quy

định bộ mặt văn học của mỗi thời.” [17, 401].

Về văn học khó có thể đưa ra một định nghĩa có tính chặt chẽ, mặc dù

các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã có những cố gắng khác nhau nhằm

đưa ra một khái niệm mang chính xác văn học. Có thể định nghĩa nó như tác

phẩm viết mang tính "tưởng tượng" hiểu theo nghĩa hư cấu - tác phẩm viết

"không chân thật" hiểu theo nghĩa đen của cụm từ này. Nhưng ngay cả sự

phản ánh ngắn gọn nhất về những gì người ta thường đưa vào dưới tiêu đề

văn học lại cho thấy định nghĩa này sẽ không đứng vững nổi. Bởi nếu văn học

9

là loại tác phẩm viết có tính "tưởng tượng" và "sáng tạo" thì chẳng hoá ra lịch

sử, triết học và khoa học tự nhiên là những thể loại không có tính tưởng tượng

và sáng tạo? Tuy nhiên cũng có thể xem văn học là một loại hình sáng tác, tái

hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Phương thức sáng tạo

của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài được

biểu hiện qua ngôn ngữ.

1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học

Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức,

phong tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu

văn hoá thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì

văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để

có được những thành quả đó, văn hoá của một dân tộc cũng như của toàn thể

nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và

sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con

đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành. Cũng có

thể nói văn học là văn hoá được thể hiện bằng ngôn từ nghệ thuật. Văn học

biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá. Trong tác

phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện

của nhà văn. Đó là bức tranh văn hoá dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương (tục

ngữ, câu đố tục giảng thanh, trò chơi…), là những vẻ đẹp của văn hoá truyền

thống trong truyện ngắn và tuỳ bút Nguyễn Tuân (hoa thuỷ tiên, nghệ thuật

pha trà, thư pháp…). Tác phẩm văn học còn dẫn ta đi đến những nguồn mạch

sâu xa của văn hoá qua việc lý giải tấn bi kịch lịch sử trong kịch Vũ Như

Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay cốt cách người nông dân được đào luyện qua

những biến thiên cách mạng trong các truyện ngắn Khách ở quê ra và Phiên

chợ Giát của Nguyễn Minh Châu...

Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ

bầu khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động

10

tiếp nhận của bạn đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật của mình là

một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm,

cũng được rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất

định.

Chính không gian văn hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ

đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng

tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức… trong quá

trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận

lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt

kế” vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hoá của một

xã hội trong một thời điểm lịch sử nhất định.

Trong tinh thần đó, nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những dữ liệu

văn học để tìm hiểu bức tranh văn hoá của một thời đại. Nói cách khác, thực

tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa nghiên cứu

văn hoá. Chẳng hạn, thông qua nội dung tái hiện của văn xuôi Việt Nam đầu

thế kỷ XX, người ta có thể chứng minh cho quá trình thâm nhập của văn hoá

Tây Âu trong xã hội thời kỳ này, cũng như khoảng cách văn hoá của người thị

dân so với người sĩ phu bị buộc chặt vào những tín điều Nho giáo, một bên,

và với người nông dân bị giới hạn trong văn hoá nông thôn ở làng xã, một bên

khác.

Tuy nhiên, cách nghiên cứu có phần “thực dụng” này cũng có nguy cơ

làm cho nghiên cứu văn hoá nuốt chửng nghiên cứu văn học và thủ tiêu chính

đối tượng toàn vẹn của văn học.

Nếu văn hoá chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược

lại, văn học cũng tác động đến văn hóa, hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc

thông qua những bộ phận hợp thành khác của nó. Những nhà văn tiên phong

của dân tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá lớn. Bằng nghệ thuật ngôn từ,

họ đấu tranh, phê phán những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng định

11

những giá trị văn hoá dân tộc, nhân bản và khai phóng. Dù là phản ứng trước

những làn sóng văn hoá tiêu cực hay cổ vũ cho sự tiếp biến văn hoá, giới trí

thức sáng tác tinh hoa bao giờ cũng là những người tiên phong mở ra hướng

nhìn về vận hội mới của văn hoá dân tộc.

Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, nên

việc tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và có

triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học,

thi pháp học…, cách tiếp cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải

trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên

trong nó. Những yếu tố văn hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử,

phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những

phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý

giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của

văn học.

Cách tiếp cận văn hoá học như vậy thực chất là đặt văn học trong không

gian văn hoá với những đặc trưng của nó đã thâm nhập một cách tinh vi vào

thế giới sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Sự thẩm thấu này truyền đi cả theo

hai chiều lịch đại và đồng đại. Một mặt, những giá trị từ nguồn văn hoá

truyền thống rì rầm chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình

tượng và ngôn từ của tác phẩm mà đôi khi chủ thể sáng tạo không ý thức một

cách tự giác. Mặt khác, những giá trị văn hoá mới hình thành vào lúc đương

thời không thôi cám dỗ, kêu gọi, thách thức, đòi hỏi nhà văn phải trả lời, trực

tiếp hay gián tiếp, bằng ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Đối

với những tài năng bậc thầy, cả hai chiều thẩm thấu ấy hoà trộn một cách

nhuần nhuyễn đến mức khó mà tách bạch rõ ràng.

Văn hoá không bao giờ là một hiện tượng thuần nhất. Sự đan xen văn hoá

có khi dẫn đến sự pha tạp, trộn lẫn, nhưng cũng có thể dẫn đến sự kết tinh,

chưng cất nên những giá trị mới. Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa bàn giao

12

cho cái mới, văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị

chuyển tiếp thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngã ba

đường của sự giao lưu văn hoá, thì văn học có thể là nơi hoà giải của những

xung đột tinh thần, nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm

người.

Ở xa, văn học thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian

văn hoá rộng: văn hoá phương Đông, văn hoá dân tộc. Ở gần, văn học thừa

hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hoá hẹp: văn hoá tộc

người, văn hoá vùng. Những vùng văn hoá giao nhau sẽ tạo ra những nét

chung trong văn học của từng vùng, đồng thời nó vẫn giữ lại những nét riêng

làm căn cước giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn hoá, từ đó phân biệt

“lãnh thổ” trên bản đồ văn học.

Trong một bối cảnh văn hoá như vậy, chúng ta sẽ thấy sự nối tiếp và gần

gũi giữa Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Phi Vân ở nửa cuối thế kỷ XX với Hồ

Biểu Chánh, Nguyễn Bửu Mộc, Nguyễn Chánh Sắt… ở nửa đầu thế kỷ đó. Và

mặc dù không thiếu những nét chung với những nhà văn cùng cộng đồng vận

mệnh trong thế kỷ đầy biến động này, ngay trong đề tài về cuộc sống ở nông

thôn, sáng tác của họ cũng có một khoảng cách nhất định với sáng tác của Võ

Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến… ở miền Trung và Trần Tiêu, Bùi Hiển,

Nguyễn Đình Lạp, Mạnh Phú Tư… ở miền Bắc.

Nằm trong cấu trúc văn hoá, đạo đức là những quy luật tinh thần hướng

con người vươn đến điều Thiện, bao gồm những nguyên tắc ứng xử, những

chuẩn mực và quy phạm trong đời sống xã hội. Nói đến quan hệ giữa văn học

và đạo đức chính là nói đến quan hệ giữa cái đẹp và cái Thiện. Mỹ học truyền

thống phương Đông cũng như phương Tây luôn nhấn mạnh sự thống nhất của

hai phạm trù này và khẳng định văn học góp phần củng cố bầu không khí đạo

đức của xã hội, trong đó tình người, lương tâm, bổn phận, sự trung thực, lòng

13

nhân ái, lẽ công bằng… được đề cao. Ngược lại, khi xã hội vững chãi về

phong hoá, đạo đức, thì văn học sẽ tiếp nhận nguồn động lực để nói lên sự

thật về cuộc đời và về lòng người.

Văn học gắn liền với ý thức đạo đức đó là tiếng nói của bổn phận và

lương tâm ngay cả khi không có áp lực của xã hội và dư luận. Văn học khơi

dậy sự ăn năn, cắn rứt của lương tâm con người về những tội lỗi mà có thể

không một toà án nào xử phạt được. Đó là sự sám hối, xưng tội của con người

với chính bản thân mình: con người tự kết án, tự biện hộ, tự phán quyết và tự

hoà giải với lương tâm mình. Có thể nói, ở nơi mà luật pháp, dư luận xã hội

không can thiệp được, thì văn học có khả năng khơi dậy và tỉnh thức lương tri

của con người.

Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, không có một nền giáo dục chân

chính nào xem nhẹ văn học. Văn học giữ một vị trí then chốt trong hệ thống

các môn khoa học nhân văn ở nhà trường tiểu học, trung học và đại học. Trên

những chặng đường đời người ta có thể quên đi những định lý toán học, định

luật vật lý hay công thức hoá học; nhưng người ta sẽ nhớ mãi những bài văn

hay được học từ thời thơ ấu.

Cùng chia sẻ những giá trị đạo đức chung, nhưng mỗi dân tộc, mỗi tộc

người, thậm chí mỗi vùng đất có thể có những phong tục, tập quán riêng. Tôn

trọng bản sắc văn hoá cũng là tôn trọng những phong tục, tập quán đó và

không lấy phong tục nơi này làm chuẩn mực đánh giá phong tục nơi khác.

Ở Việt Nam đã hình thành cả một dòng văn xuôi phong tục với những tác

gia am hiểu sâu sắc đời sống nông thôn: Ngô Tất Tố với Việc làng và Lều

chõng, Trần Tiêu với Con trâu và Chồng con, Mạnh Phú Tư với Làm

lẽ và Sống nhờ, Bùi Hiển với Nằm vạ, Nguyễn Đình Lạp với Ngoại ô… Tất

nhiên, tác phẩm có sức ám ảnh là nhờ trên cái nền của sự miêu tả phong tục

đó, nhà văn tái hiện những tình huống bi kịch của kiếp người. Viết về phong

14

tục, các nhà văn không chỉ làm công việc miêu tả đơn thuần, mà còn bày tỏ

một thái độ trước những phong tục tập quán đã lỗi thời, không còn phù hợp

với thời đại mới vì ngăn trở con người đi tìm tự do và hạnh phúc.

Tóm lại, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác

nhau của văn hoá. Có thể nói nhà văn đích thực là một nhà hoạt động văn hoá,

tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá và người đọc là một người thụ

hưởng văn hoá. Trong thời đại ngày nay, đa số quốc gia đều là xã hội đa văn

hoá, văn học vì vậy cũng đa dạng như văn hoá. Chính sách đối với văn học là

một phần của chính sách văn hoá mà tiêu điểm là con người với những nhu

cầu tinh thần ngày càng phát triển, và nói theo Jacques Rigaud, nó hướng đến

việc tìm kiếm “một ngôn ngữ chung giữ cho chúng ta không quay trở lại thời

kỳ man rợ”

1.2. Tác giả Nguyễn Khải

1.2.1. Tiểu sử

Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh ngày 3 tháng 12 năm

1930 tại Hà Nội. Quê nội ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều

nơi. Khi Nguyễn Khải đang học trung học thì gặp Cách mạng tháng Tám.

Trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Khải gia nhập tự vệ chiến đấu ở thị

xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Bắt đầu viết văn từ

những năm 1950, được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột (phần I năm 1959, phần

II năm 1962).

Sau năm 1975, Nguyễn Khải chuyển vào sinh sống tại thành phố Hồ

Chí Minh. Ông rời quân đội năm 1988 với quân hàm đại tá để về làm việc tại

Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội

Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại

biểu Quốc hội khóa VII. Ông mất ngày 15 tháng 1 năm 2008 tại thành phố Hồ

Chí Minh do bệnh tim.

Chủ đề các tác phẩm của Nguyễn Khải khá phong phú: về nông thôn

15

trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến

tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội - chính trị có tính thời sự và đời sống

tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp

của đời sống.

Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá

riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo,

sức mạnh của lý trí tỉnh táo. Năm 1982, Nguyễn Khải nhận Giải thưởng Hội

Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm. Năm 2000, nhà văn được

phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật.

Các tác phẩm nổi bật của Nguyễn Khải có thể kể đến như: Mùa xuân ở

Chương Mỹ (1954), Người con gái quang vinh (1956), Xung đột (truyện,

1959), Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Hãy đi xa hơn nữa (truyện vừa,

1963), Người trở về (tập truyện vừa, 1964), Họ sống và chiến đấu (ký sự,

1966), Hoà Vang (bút ký, 1967), Đường trong mây (tiểu thuyết, 1970), Ra

đảo (1970), Chủ tịch huyện (truyện, 1972), Chiến sĩ (tiểu thuyết, 1973),

Tháng ba Tây nguyên (ký, 1976), Cách mạng (kịch, 1978), Gặp gỡ cuối năm

(tiểu thuyết, 1982), Thời gian của người (1985), Điều tra về một cái chết (tiểu

thuyết, 1986), Vòng sống đến vô cùng (truyện, 1987), Một cõi nhân gian bé tí

(tiểu thuyết, 1989), Một người Hà Nội (tập truyện ngắn, 1990), Sư già chùa

Thắm, và Ông đại tá về hưu (tập truyện vừa, 1993,) Một thời gió bụi (truyện

ngắn, 1993), Hà Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn, 1995), Chút phấn của đời

(truyện ngắn và kịch, 1999), Chuyện nghề (1999), Nắng chiều (tập truyện

ngắn, 2001), Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2002), Mẹ và các

con (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2002), Sống ở đời (tập truyện, 2003), Ký sự &

Kịch (2003), Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, 2003), Nghề văn cũng lắm công

phu (truyện - tạp văn, 2003), Vòng tròn trống rỗng (kịch, 2003), Một chặng

đường (tiểu thuyết, 2005, Đi tìm cái tôi đã mất (tùy bút, 2006)…

Có thể thấy Nguyễn Khải là một cây bút trí tuệ, luôn luôn suy nghĩ sâu

16

lắng về những vấn đề mà cuộc sống đặt ra và cố gắng tìm một lời giải đáp

thuyết phục theo cách riêng của mình. Cho nên trong các tác phẩm của nhà

văn, thông qua sự kiện xã hội, chính trị có tính thời sự nóng hổi, bao giờ cũng

nổi lên những vấn đề khái quát có ý nghĩa triết học và đạo đức nhân sinh…".

1.2.2 Giá trị văn hóa, văn học từ những sáng tác của Nguyễn Khải

Hơn nửa thế kỷ lao động không ngưng nghỉ, thành công ở hầu khắp các

thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, kịch... Mỗi tác phẩm của Nguyễn

Khải ra đời, dù ở vào thời điểm nào, đều gây được sự chú ý của độc giả, của

giới nghiên cứu phê bình và các đồng nghiệp. Các tác phẩm của ông không

chỉ đánh dấu bước đi của đời sống hiện thực mà còn của cả những tìm tòi trăn

trở của nhà văn trên con đường sáng tạo. Qua các tác phẩm tiêu biểu: Xung

đột, Mùa lạc, Tầm nhìn xa (thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc

những năm hoà bình mới lập lại); Họ sống và chiến đấu, Chiến sỹ, Tháng ba

ở Tây Nguyên, Cha và con và... (thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước);

Cách mạng, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của Người, Vòng sóng đến vô cùng,

Ðiều tra về một cái chết (thời kỳ thống nhất đất nước); Nắng chiều, Một

người Hà Nội, Chúng tôi và bọn hắn, Lạc thời, Đời khổ, Anh hùng bĩ vận

(thời kỳ đổi mới),… Nguyễn Khải đã phản ánh sinh động hiện thực cách

mạng cũng như đời sống tinh thần của con người thời đại.

Vì lý tưởng của cách mạng, vì một cái đẹp chân chính, tích cực, ở bất

cứ một giai đoạn sáng tác nào Nguyễn Khải cũng cố gắng xông vào những

lĩnh vực phức tạp của đời sống, dùng ngòi bút của mình phản ánh những vấn

đề nóng bỏng, sâu sắc của xã hội; những biểu hiện thầm kín, tinh vi trong

nhận thức, tư tưởng con người thời đại và trở thành một trong những ngòi bút

giàu tính chiến đấu của nền văn học.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã làm thay đổi cuộc đời ông.

Trong tiểu thuyết Thượng đế thì cười, ông viết “Không có cách mạng thì đến

làm người tầm thường cũng khó, nói gì làm một nhà văn”. Cho nên, khi tiếp

17

xúc với những cái mới mẻ của cách mạng, con người trẻ tuổi đó đã tự nguyện

đứng trong đội ngũ với tất cả tấm lòng nhiệt thành, sôi nổi đóng góp sức mình

cho cuộc kháng chiến. Khi đến với nghề văn, Nguyễn Khải là nhà văn sớm có

ý thức dùng văn học để phục vụ sự nghiệp cách mạng, để góp phần làm cho

cuộc sống của con người ngày một tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Năm 1957,

sau một số sáng tác đầu tay ít nhiều gây được ấn tượng như: Ra ngoài (1951),

Xây dựng (1951), Nằm vạ (1956), Nguyễn Khải cho ra đời tác phẩm Xung

đột, thể hiện sự quan tâm của nhà văn đến một vấn đề nóng bỏng của đời sống

- vấn đề của cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt đang diễn ra ở nông thôn ngay

trong điều kiện hoà bình, vấn đề mâu thuẫn giữa đức tin tôn giáo và niềm tin

mới ở lý tưởng cách mạng trong lòng người có đạo. Tác phẩm ra đời là một

sự kiện đáng chú ý, được dư luận sôi nổi đón nhận và bước đầu khẳng định tài

năng của tác giả văn xuôi Nguyễn Khải. Vũ Tú Nam nhận xét: “Xung đột là

một tác phẩm có nhiều sáng tạo và tác giả thật sự có phong thái của một

người viết tiểu thuyết. Với những trang viết còn nóng hổi hơi thở của cuộc

sống bộn bề và sôi động; với những nhận xét sắc sảo, tinh tế, Xung đột đã

đem đến cho nền văn học cách mạng nước ta một cái nhìn nghệ thuật mới mẻ,

độc đáo về nông thôn, một “phong cách văn xuôi hiện thực tỉnh táo”. Ngay

nay đọc lại Xung đột, chúng ta vẫn thấy đó là một đỉnh cao trong sáng tác của

Nguyễn Khải.

Năm 1960, trong phong trào xây dựng quê hương mới và hàn gắn vết

thương chiến tranh, Nguyễn Khải có mặt ở nông trường Điện Biên, một nơi

tiêu biểu thuộc miền rừng núi Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. Và chính ở nơi

trước đây từng là bãi chiến trường đẫm máu, ngòi bút nhạy cảm với cái mới

của nhà văn đã viết những tác phẩm: Mùa lạc, Đứa con nuôi, Chuyện người

tổ trưởng máy kéo, Hãy đi xa hơn nữa, … Đó là những trang viết xúc động,

sôi nổi mà ấm áp về một cuộc sống mới đang được dựng xây, về tình yêu và

sự đổi thay của số phận con người, về những quan hệ đạo đức mới xã hội chủ

18

nghĩa đầy tình thương và trách nhiệm giữa con người với con người.

Những trang viết về Điện Biên có thể nói là những trang viết đầy cảm

hứng về cuộc sống lao động, chan chứa tình người thể hiện chủ nghĩa nhân

đạo sâu sắc và phẩm chất lãng mạn của cây bút Nguyễn Khải. Ông đã “đến

với nhân vật bằng tình cảm yêu thương và thái độ trân trọng”, vừa ca ngợi con

người nhưng cũng lại khám phá cái thế giới tinh thần vốn đa dạng và phức tạp

để cải hóa con người. Những trang viết về lao động đầy cảm hứng trong sáng

tác của Nguyễn Khải giai đoạn này đã để lại hình ảnh đẹp đẽ của những con

người đang hăng say lao động cùng những nét đẹp diệu kỳ của cuộc sống

mới. Đó là điều mà văn học trước Cách mạng không thể có.

Khi đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, Nguyễn Khải đã có mặt

ở những nơi nóng bỏng của cuộc chiến đấu. Đến với các chiến sĩ ở đảo Cồn

Cỏ - vị trí đầu sóng ngọn gió canh giữ biển trời của Tổ quốc, Nguyễn Khải

cho ra đời thiên ký sự Họ sống và chiến đấu, một trong những cuốn sách tràn

đầy chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân đội ta. Đến với những chiến sĩ

công binh đang trấn giữ một địa điểm cực kỳ ác liệt ở Trường Sơn, ông viết

Đường trong mây; vào đất lửa Vĩnh Linh, đến với những con người xông pha

vượt mọi nguy hiểm để đưa hàng tiếp tế ra Cồn Cỏ, viết Ra đảo; đi chiến dịch

đường Chín - Nam Lào, viết Chiến sĩ; tham gia chiến dịch giải phóng miền

Nam, viết Tháng Ba ở Tây Nguyên.

Trong cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân ta, ngòi bút Nguyễn Khải

hào hứng viết về những con người anh hùng không tiếc sức mình cho cuộc

kháng chiến của dân tộc. Và ở đây, ông đặc biệt đi sâu vào vẻ đẹp tâm hồn

của người chiến sĩ. Đó là những người lính trẻ, những Thái Văn A, Đinh

Kinh, bác sĩ Lê, … Những con người với tất cả tâm hồn trong sáng, hồn

nhiên, vô tư, thanh thản. “Nó là đôi cánh của cuộc sống, có nó cái sự nghiệp

nặng nề mà chúng ta đang gánh vác sẽ nhẹ nhõm hơn, nên thơ hơn và vui vẻ

19

hơn rất nhiều” (Họ sống và chiến đấu).

Mặt khác, chính từ hoàn cảnh cuộc sống chiến đấu gian khổ, ngòi bút

Nguyễn Khải lại sắc sảo đi vào phân tích mọi vấn đề và lý giải sức mạnh của

con người trong chiến đấu. Với Chiến sĩ, ông phát hiện những nét tưởng như

đơn giản mà ẩn chứa cả sức mạnh của con người - “Tình cảm con người ta

ghê gớm thật, nó nghiêng về phía nào, toàn bộ sức mạnh trút về phía ấy” (lời

Thịnh trong Chiến sĩ).

Bằng những tác phẩm viết về cuộc chiến tranh cách mạng, Nguyễn

Khải đã thể hiện một cách đặc sắc hiện thực sôi động của cuộc sống chiến đấu

của quân dân ta. Cái hiện thực theo ông “tự nó đã là một thiên anh hùng ca

cảm động nhất, giàu màu sắc lãng mạn nhất. Và chính cái chất lãng mạn ấy là

khía cạnh tích cực của bản thân hiện thực, là đôi cánh hiện thực”. Đời văn ông

gắn liền với những yêu cầu lớn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xã

hội chủ nghĩa. Ông luôn khao khát có mặt trong cuộc sống, tranh biện với

người đương thời, đưa ra những vấn đề thiết cốt và đóng góp cho những quá

trình đấu tranh xã hội.

Từ sau chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất,

Nguyễn Khải đến với một hiện thực hoàn toàn mới mẻ - hiện thực cuộc sống

ở miền Nam sau giải phóng. Đối với các tầng lớp nhân dân và các giai cấp ở

miền Nam, đây sẽ là một cuộc thay đổi lớn trong suy nghĩ và tình cảm của

mỗi người. Đặc biệt đối với những người từng gắn bó sâu sắc với chế độ cũ

tất sẽ không tránh khỏi một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt và quyết liệt.

Trước hiện thực đa dạng và phức tạp đó, nhà văn của chúng ta vốn đã trải qua

những năm tháng xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn miền Bắc,

qua cuộc kháng chiến cứu nước gian khổ, giờ đây lại phát hiện thêm một khía

cạnh mới của hiện thực: thắng lợi của cuộc cách mạng trong nhận thức của

những con người vốn gắn bó sâu sắc với chế độ Sài Gòn cũ; ý nghĩa thâm

trầm của nó. Các tác phẩm Cách mạng, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của

20

người, … đã ra đời trong khung cảnh đó.

Thời kỳ đất nước tiến hành đổi mới từ năm 1986, đặc biệt là sự xuất

hiện của nền kinh tế thị trường kéo theo nhiều sự thay đổi về các quan hệ xã

hội và ngay cả trong quan niệm về cuộc sống của con người, Nguyễn Khải có

dịp đến với nhiều miền đất lạ, trở lại những nơi ông đã từng qua, đã lấy tài

liệu để viết suốt một thời tuổi trẻ. Thời thế đem đến cho ông những cách nhìn

mới, khác lạ, như là sự tự phát hiện lại mình - “vẫn đất nước mình mà thêm

một bước đi là một bước lạ. Vẫn là con người Việt Nam mình mà gặp thêm

một người lại tưởng như buộc mình phải hiểu lại chút ít về con người”. Chính

trong bối cảnh đó, ông viết về những con người mà lẽ sống duy nhất là suốt

đời đóng góp cho cách mạng, cho đất nước, dù trên đường đời gặp nhiều gian

nan và có cả những trắc trở lẽ ra không đáng có.

Nguyễn Khải còn có những sáng tác về Hà Nội, nơi ông sinh ra và

mang bao kỷ niệm thời tuổi trẻ. Đó là những trang viết ấm áp đầy thương

cảm. Ông viết về người cô họ, cô Hiền, một người bình thường như bao người

bình thường khác nhưng trong suy nghĩ và tình cảm của bà lại ẩn giấu nhiều

giá trị nhân văn làm nên một phong thái Hà Nội. Đó là nếp ứng xử hợp tình

hợp lý trong gia đình và ngoài xã hội, sang trọng, bản lĩnh, tự tin. Có được cái

nhìn về “một hạt bụi vàng” như thế của Hà Nội thực không dễ dàng. Và ao

ước “những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó, ở mỗi góc phố Hà Nội, hãy mượn

gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng” (Một người Hà

Nội).

Nhân vật trong những sáng tác về Hà Nội của Nguyễn Khải thường là

những con người bình thường, những người trong gia đình, bè bạn, đồng

nghiệp. Một bà cô suốt đời chăm lo gìn giữ gia phong của một dòng họ (Nếp

nhà). Cô em họ biết tính toán hợp thời nhưng bao giờ cũng trọng cái danh hơn

cả (Tiền). Bà cụ bình thường mà cách ứng xử lại danh giá (Người của ngày

xưa). Một nhà văn, một người vợ biết sống cho phải trước những biến thiên

21

của cuộc đời…

Nguyễn Khải còn viết cả về lớp trẻ “những nhân vật chính của một vận

hội mới” thời mở cửa. Ông đánh giá đúng tiềm năng to lớn ở họ. Nhưng ông

cũng tỉnh táo nhìn nhận những khiếm khuyết của tuổi trẻ và đặt vấn đề làm

sao cho lớp trẻ phấn đấu tạo ra những giá trị có ý nghĩa đối với sự chấn hưng

của dân tộc (Chúng tôi và bọn hắn).

So với những sáng tác thời tuổi trẻ, cái nhìn của Nguyễn Khải thực

đằm thắm và bao dung. Ngòi bút nhà văn tìm hiểu, khám phá nhiều giá trị

nhân văn sâu sắc ẩn chứa sau những nhân vật rất đỗi bình thường trong cuộc

sống. Trong những câu chuyện cảm động về những con người bình thường

của Hà Nội, thường lấp lánh những suy tư khiến người đọc phải chiêm

nghiệm, thấm thía: “Chỉ có cái tâm tốt của con người mới nảy nở được những

cái mầm yêu thương” (Nắng chiều); “Cái nghĩa tình thầm lặng, nhỏ nhoi của

mỗi gia đình, của mỗi vùng đất luôn luôn bị quên đi trong cái ồ ạt, xáo động,

ngầu đục của dòng đời vẫn cứ là mạch nước ngầm trong suốt, vô nhiễm để

nuôi sống những tinh hoa của dân tộc” (Đất kinh kỳ); “Ở đời chỉ có cái đức là

trường tồn, càng có nhiều càng tốt không sợ thừa. Kỳ dư những thứ khác đều

phù du cả, có đấy mất đấy, phúc đấy, hoạ đấy, không tính trước được đâu”

(Người của ngày xưa)…

Nguyễn Khải là nhà văn luôn luôn có ý thức, có trách nhiệm với thời

đại, với xã hội, với con người. Ông luôn nhìn cuộc sống trong sự vận động và

biến đổi và bao giờ cũng muốn khám phá, lôi tuột ra những vấn đề của hiện

thực. Ông có ý thức sâu sắc về sự gắn bó với những vấn đề thời sự và những

nhiệm vụ chính trị của thời đại.

Để thay lời tổng kết cho văn nghiệp của Nguyễn Khải với tất cả niềm

cảm kích, nhà văn Nguyên Ngọc đã viết: “Trước hết, tôi muốn nói điều này:

Đấy là người tài năng nhất trong thế hệ của chúng tôi, thế hệ những người

cầm bút vậy mà hóa ra vắt qua cả mấy thời kì lịch sử quan trọng: một chút

22

thời Pháp thuộc, đầy đủ Cách mạng Tháng Tám, đẫm mình trong hai cuộc

chiến tranh lớn, và cả hòa bình nữa (…) các bước đường tư tưởng và sáng tác

của Nguyễn Khải. Theo tôi, đấy là con đường rất tiêu biểu của chuyển động

văn học ta suốt một thời kì lịch sử dài và không hề đơn giản, dễ dàng, tiêu

biểu nhất là ở Nguyễn Khải, chính vì đấy đúng là cái tạng của anh và cũng vì

anh là người tài năng nhất, cũng trung thực nhất với chính mình.”

1.2.3. Vị trí của tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi trong hành trình

sáng tạo văn học, văn hóa của Nguyễn Khải

Hà Nội trong mắt tôi là tập truyện ngắn hoàn thành vào ngày 27 tháng

11 năm 1989, gồm một loạt truyện ngắn: Nếp nhà, Chúng tôi và bọn hắn,

Người vợ, Người của ngày xưa, Tiền, Danh phận Đất kinh kỳ, Nghệ nhân ở

làng, Một người Hà Nội, Nắng chiều… Đúng như tên gọi, Hà Nội trong mắt

tôi là một chân dung khá toàn vẹn và sống động về một Hà Nội trong mắt tác

giả với các sự kiện, nhân vật, các cuộc đời được soi chiếu dưới nhiều góc nhìn

khác nhau. Ở góc độ thể loại, có thể thấy, các truyện ngắn trong tập truyện

này của Nguyễn Khải có sự xâm lấn của thể loại ký. Tác giả hiện thân trong

tác phẩm là nhân vật tôi, quan sát ghi chép lại hiện thực ở nhiều góc độ, nhiều

lát cắt, nhiều phương diện. Một người Hà Nội nổi lên những chủ đề chính: Vẻ

đẹp văn hóa của Hà Nội và của người Hà Nội, nếp nhà, sự tha hóa của nhân

cách con người trong bối cảnh mới, nguy cơ đánh mất các giá trị truyền

thống, chân dung của những nghệ sĩ đất Hà Thành… Tác phẩm chứa những lo

âu, những cảnh báo, và cũng mang theo những cả tự hào, yêu thương, và ấm

áp một niềm tin sâu sắc vào con người, vào cuộc đời, vào sự trường tồn của

văn hóa (Nếp nhà, Người của ngày xưa, Một người Hà Nội…).

Thông qua một loạt truyện ngắn trong tập Hà Nội trong mắt tôi, tính

triết luận của Nguyễn Khải lại có dịp thể hiện, đó là những trăn trở về một xã

hội thời đại kim tiền, những giá trị văn hóa, gia phong của người Hà Nội

trước ngưỡng cửa đổi mới ngay trước vỉa hè nhà mình. Đó là những suy tư

23

của nhà văn về thay đổi trong văn hóa ứng xử, những lo lắng có phần xa xôi

của người cô cho tương lai của ngôi nhà khi viết sẵn di chúc và phân chia tài

sản ngay khi còn sống…

Sự thay đổi nhận thức của Nguyễn Khải đã chuyển từ tính triết luận

mang cảm hứng chính trị thời đại sang tính triết luận mang hơi thở của cuộc

sống thường nhật, ông xoáy sâu vào những con người vô danh, những “hạt

bụi vàng” để trăn trở với thời cuộc. Tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi tuy

không nổi bật trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải nhưng đây

là tuyển tập những sáng tác có tính “nhìn lại” của ông, một sự lắng, tĩnh cần

thiết khi những xô bồ ngoài xã hội đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ.

Với Hà Nội trong mắt tôi, Nguyễn Khải bằng cái nhìn riêng của mình

đã khẳng định và lưu giữ những dấu ấn văn hóa của đất kinh kỳ. Đó là nếp

sống sang trọng, thanh lịch của Một người Hà Nội, là những ước vọng bình

dị, đẹp đẽ của Một nghệ nhân làng, là nỗi lòng của một bà cô suốt đời chăm

lo việc giữ Nếp nhà… Nhân vật của Nguyễn Khải là những con người rất

truyền thống nhưng cũng là đại diện của vận hội mới, một thời đại mở cửa,

làm giàu, làm giàu cho mình và cho đất nước. Nguyễn Khải nhận thấy những

tiềm năng to lớn ẩn chứa trong con người họ, nhưng ông cũng có những đánh

giá thẳng thắn và chiêm nghiệm sâu sắc: “Còn phải gạn lọc chán những giá trị

ấy mới trở thành giá trị thật để chấn hưng dân tộc” (Chúng tôi và bọn hắn).

24

Ông trân trọng, nâng niu những "hạt bụi vàng" bay lên từ đất kinh kì…

CHƯƠNG 2

NHÃN QUAN VĂN HÓA CỦA NGUYỄN KHẢI

QUA TẬP TRUYỆN NGẮN HÀ NỘI TRONG MẮT TÔI

2.1. Hà Nội qua những thăng trầm lịch sử

Mảnh đất Thăng Long – Hà Nội đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử,

chứng kiến sự hưng vong của rất nhiều triều đại, là nơi ca khúc khải hoàn của

dân tộc sau mỗi cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, đây cũng là nơi tinh hoa

văn hóa của dân tộc hội tụ và lan tỏa.

Theo thời gian, năm tháng, trước những xô bồ của cuộc sống, trước cơn

lốc của thời hội nhập, rất nhiều thứ, nhiều giá trị đã bị cuốn trôi, song với con

người Hà Nội, dù cho đi đâu ở đâu, họ vẫn luôn âm thầm giữ gìn nếp nhà, giữ

nét văn hóa đất Tràng An xưa.

Trải qua những biến thiên thời đại, người Hà Nội dù trong bất kì hoàn

cảnh nào vẫn luôn giữ cho mình một sắc thái văn hóa riêng, nó thể hiện ở lối

ăn mặc, nói năng và ứng xử với thời đại. Dẫu đó là thời kì bao cấp khó khăn,

thời chiến tranh ác liệt hay hội nhập phát triển sau này.

“Trời hơi tối, mặt đường hơi sẫm nhưng mặt người và quần áo rét họ

mặc cứ sáng bừng lên những màu sắc tươi tắn. Đã có mùi son phấn và nước

hoa bất chợt thoảng qua ở một góc phố, trong một đám đông. Nói nhỏ đi, cười

nhỏ hơn, ít nghe những câu chửi tục, những tiếng đệm tục”. (Nếp nhà) .

Hà Nội cũng chịu những tác động của lịch sử, thậm chí đây còn là nơi

chứng kiến sự xoay vần của thời gian, thể chế nhiều hơn bất cứ nơi nào, vậy

nhưng hễ có điều kiện để “phục hưng”, Hà Nội lại trở nên duyên dáng và

diễm lệ như thường. Ở đây dường như luôn thường trực hai đối cực: một bên

cổ kính, e lệ và khuôn phép, một bên cởi mở, phóng khoáng, vượt ra ngoài

khuôn phép thông thường. Đó là sự đấu tranh của cái mới và cũ, của những

25

thăng trầm liên tục đổi thay.

Với Chúng tôi và bọn hắn, ngay từ nhan đề tác giả đã khiến người đọc

liên tưởng tới một trật tự xã hội mới, nơi những người như “bọn hắn” đang

dần thắng thế trước thay đổi của lớp người “chúng tôi”, trước xã hội mới.

Đồng thời đó cũng là sự nuối tiếc, lời thở than nhẹ nhàng của thế hệ người Hà

Nội cũ, những người dường như đang không thuộc thời đại này : “Giàu hơn

trước nhiều, sang hơn trước nhiều, cứ cho là bề ngoài thì cũng vẫn rất đáng

mừng”.

Tác giả đã cho thấy rằng, một lớp người mới đang hình thành theo thời

đại mới, và lớp người đó cũng đang xây dựng nên những giá trị mới cho Hà

Nội, nhưng có lẽ cần một khoảng thời gian đủ dài để “gạn đục khơi trong”:

“Cứ nhìn vào con mình và con cái của bạn bè là biết ngay thời thế đã thay đổi.

Chúng là những nhân vật chính của một vận hội mới, một thời buổi mới, thời

mở cửa, thời làm giàu, làm giàu cho mình và làm giàu cho nước, cái sự riêng

chung này ly kỳ lắm, còn phải nói nhiều” (Tiền).

Ở Chúng tôi và bọn hắn, sự xuất hiện của những con người mới trong

thước đo giá trị được đặt dấu hỏi : “Là thời mà các giá trị cũ đã mất tính tuyệt

đối. Còn những giá trị mới thì lòe nhòe, bảo là phải cũng được, bảo là trái

cũng được. Nó là những giá trị của buổi giao thời. Nghĩa là còn phải gạn lọc

chán những giá trị ấy mới trở thành giá trị thật để chấn hưng một dân tộc”. Dù

là xã hội nào đi nữa việc liên tục thanh lọc và đào thải trở thành một tiêu

chuẩn cho thấy sự đi lên hay tụt lùi của đất nước. Những giá trị mới đang hình

thành nhưng chắc chắn cần có thời gian để kiểm định tính đúng sai, hay dở

của nó. Văn hóa lại càng cần đến sự thanh lọc, cuối cùng những gì được công

nhận sẽ tồn tại cùng với thời gian và con người:

Sự thăng trầm của Hà Nội kéo theo những thay đổi của trật tự xã hội

giờ đây len lỏi vào trong từng khu phố, vào từng nhà và ở ngay trong từng

con người. Những con người vừa mới đây thôi còn là “chủ” của Hà Nội đang

26

dần trở nên thất thế và vô hình trước sức mạnh của nền kinh tế thị trường:

“Xưa kia những người chủ gia đình ở phố này chỉ nói có chuyện chính trị,

chính trị trong nước, chính trị quốc tế và các bà vợ thì ngồi nghe ké. Bây giờ

chỉ có các bà nói, các con nói, nói toàn chuyện tiền bạc, nói sự đối xử bất bình

đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, nói cảnh sát kinh

tế, nói cán bộ thuế vụ, giọng lưỡi chao chát, sát phạt, còn các đức ông chồng

đã về hưu thì ngồi nín lặng với vẻ mặt sầu muộn của người đã mất quyền.

Này, như thế có phải là thời thế đã đổi thay không nhỉ? Nhưng thay đổi là tốt,

tốt hơn trước nhiều. Cứ nhìn mặt người ở phố Lý Nam Đế là biết, họ vui lắm,

đi lại hối hả, tất bật, ăn nói uốn éo, kiểu cách như… dân buôn chính hiệu”

(Người của ngày xưa). Tác giả luôn đặt ra câu hỏi về sự xuất hiện của những

con người đang dần thay thế xã hội cũ cùng với việc chạy đua với đồng tiền.

Nhưng ở một góc độ khác ông cũng hi vọng về những con người đó có thể

làm cho bộ mặt xã hội được thay da đổi thịt theo chiều hướng tích cực:

“Chúng là những nhân vật chính của một vận hội mới, một thời buổi mới, thời

mở cửa, thời làm giàu, làm giàu cho mình và làm giàu cho nước” (Chúng tôi

và bọn hắn).

Sự đổi thay của thời thế được thể hiện rõ nét qua những dòng viết về sự

khó khăn của cuộc sống thời bao cấp và sự đổi thay của nó sau khi Đổi mới.

Trong “Tiền” nhân vật Hiền về nhà chồng mấy tháng mà bữa cơm không có

lấy miếng thịt nào: “Hiền về nhà chồng đã vài tháng nhưng không được ăn

một bữa cơm nào có thịt, phiếu thịt dành mua mỡ, một thìa mỡ rưới lên một

nồi chuối xanh kho tương với cá vụn, ăn được cả tuần”. Một xã hội mà tất cả

tìm mọi cách để tồn tại, chỉ tồn tại thôi đã, chứ chưa nói được giàu sang. Cuối

cùng thì mọi thứ cũng thay đổi, có khấm khá hơn: “Có dễ đến mười mấy năm

mới được ăn canh nấm. Này, nhà đại gia mới dám ăn canh nấm vào bữa

thường đấy nhá!”. Bố chồng giơ cao ly rượu sâm ngắm nghía một lúc rồi mới

nhấp một ngụm nhỏ, gắp rón rén một mảnh đậu Hòa Lan, một miếng giò, nhai

27

chậm rãi và ngẫm nghĩ, hai má dần dần rựng đỏ...” nhưng có lẽ cái giá phải

trả cũng không hề rẻ chút nào: “Nửa năm sau, không rõ bằng cách chạy chọt

nào, bằng những quen thuộc nào, Hiền không nói mà tôi cũng không hỏi”.

Sau Đổi mới, Hà Nội cũng như nhiều nơi khác đồng tiền len lỏi vào từng

ngóc ngách của cuộc sống và chiếm lĩnh tất cả, một thế hệ chạy đua với thời

gian để kiếm tiền, bằng mọi giá để đạt được mục đích: “Đám trẻ bây giờ

chúng nó kiếm tiền quyết liệt lắm, lạnh lùng, tàn nhẫn hơn bọn em nhiều. Và

không vì một ai cả, không thương một ai cả. Có tiền để trở thành người mạnh,

thành ông chủ, chúng bảo thế. Mỗi thời cái cách dùng đồng tiền lại một khác

anh nhỉ?” (Nếp Nhà). Mặt trái của thời thế hội nhập làm những người già thấy

ngợp, tiếc nuối, những lời thở than của nhân vật tuy không trực tiếp xuất hiện

trong văn bản nhưng nó như những mạch ngầm ẩn sâu dưới lớp vỏ hào

nhoáng bên trên, một xã hội bao cấp, một xã hội với những con người cũ đang

nhường bước cho lớp người mới.

Trước và sau Đổi mới, từ thời kì bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị

trường con người, kinh tế, xã hội có nhiều sự đổi thay cả tích cực và tiêu cực,

Nguyễn Khải đã rất tinh tế và nhạy cảm khi thể hiện trong tập truyện ngắn Hà

Nội trong mắt tôi. Không nằm ngoài sự thay đổi đó, Hà Nội là nơi thể hiện rõ

nét nhất những biến thiên của thời đại. Trong tập truyện này, các tầng lớp

nhân dân gần như có mặt đầy đủ: tư sản, tiểu tư sản, nông dân, trí thức, quan

lại… Mỗi một tầng lớp lại có cái nhìn khác nhau về thời thế. Khang là con

một nhà tư sản có ba chiếc xe ô tô chở hàng hóa, anh ta đã từng thú nhận :

“Trước đây những người như hắn không có chỗ đứng trong văn chương cách

mạng. Hoặc giả nếu có bóng dáng của hắn và bạn bè thì không là quân lưu

manh cũng là phường thảo khấu, sinh ra là để phá phách mọi vẻ đẹp của xã

hội…” Tuy nhiên “Những thay đổi trong hàng loạt chính sách lớn của nhà

nước những năm này quả thật đã tạo ra vô số cơ may cho toàn xã hội. Đã là

công dân Việt Nam đều được hưởng sự may mắn như nhau. Vẫn còn có sự

28

phân biệt, nhưng sự phân biệt ấy không ghi trong pháp luật mà chỉ là tàn dư

của một thời kỳ bao cấp kéo quá dài. Xã hội đã được vận hành theo những

quy luật thông thường” (Danh phận).

Đó là Hà Nội của những năm sau Đổi mới, còn trước đó rất lâu, sau

kháng chiến Hà Nội nhỏ bé và có vẻ xơ xác : “Từ kháng chiến trở về một Hà

Nội nhỏ hơn trước, vắng hơn trước”. Chế độ mới đã làm thay đổi không chỉ

đời sống kinh tế, chính trị mà còn ở ngay cách thức xưng hô: “ Một lần tôi

đến thăm cô chú, thằng em trai đã 14, 15 tuổi chạy ra mở cửa kêu ầm lên: Mẹ

ơi! Đồng chí Khải đến!. Cô tôi cau mặt gắt: “Phải gọi là anh Khải, hiểu

chưa?” (Một người Hà Nội).

Dấu ấn của thời đại trong tập truyện ngắn này tựu chung lại là những

yếu tố liên quan tới kinh tế, chính trị xã hội của thời kì trước và sau khi Đổi

mới, đó là sự lên ngôi của đồng tiền, sự tha hóa trong một bộ phận người dân

trước sức mạnh của kim tiền, những xô lệch của nền nếp, gia phong những giá

trị xưa cũ bị lùi dần vào dĩ vãng…

Nếu như đất nước có sự thay đổi nhỏ nào đó, điều ấy đương nhiên đã

diễn ra ở Hà Nội đầu tiên, nếu có sự biến đổi trong cuộc sống, phải bắt nguồn

từ Hà Nội. Vị thế của từng thành phần xã hội cũng trở nên khác biệt, dẫu mới

chỉ trong vòng mươi năm trở lại, nếu như sau khi giải phóng ít lâu, những

người lính là lớp người được xã hội trọng vọng và kính nể bởi đã làm nên

những chiến công hiển hách “ Là người lính vừa chiến thắng, người lính đang

được cả xã hội trọng vọng”. Thế nhưng sau khi có những thay đổi ở tầng vĩ

mô, mọi thứ xoay vần đến chóng mặt: “ Còn bây giờ, sau bữa tiệc mừng đại

thắng mười lăm năm, tầng lớp lính đã mất ngôi vị độc tôn của mình rồi. Bây

giờ là thời các giám đốc công ty, các tổng giám đốc công ty, các cố vấn,

chuyên viên kinh tế thật giả đủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị

cho cả xã hội”.

Nhưng cũng nhờ thế mà người ta thấy: “Chưa bao giờ Hà Nội vui như

29

bây giờ. Phố xá vui, mặt người vui”. Cái vui đã trở lại trên những khuôn mặt

và bộc lộ cả trên phố phường: - Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại. Có đúng

một phần, phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn nghe những người

Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường là đủ rõ

(Một người Hà Nội).

Dẫu có những điều chưa hay, chưa được, những gam màu sáng tối lẫn

lộn trong khoảng thời thế xoay vần, nhưng tác giả vẫn ngầm hi vọng về một

Hà Nội giàu có, đẹp đẽ và thanh lịch khi thế hệ sau này đã được “gạn đục

khơi trong” .

2.1.2. Nếp sống của người Hà Nội

"Ăn Bắc, mặc Kinh" - câu ngạn ngữ chỉ nét đẹp trong trang phục của

người kinh đô Thăng Long với dấu ấn Hà thành cổ kính và thanh lịch. Và

người Hà Nội rất tự hào với sự vinh danh ấy, đặc biệt là những cô gái của 36

phố phường thuở xưa.

Người Hà Nội có văn hóa mặc rất đặc trưng. Họ mặc đẹp, cái đẹp của

sự nền nã, kín đáo chứ không phô trương, lòe loẹt. Nét văn hóa đặc trưng này

luôn được họ gìn giữ ngay cả trong thời chiến tranh thiếu thốn, những năm

bao cấp khó khăn hay trước cơn lốc của thời kỳ mở cửa. Mỗi thời kỳ lại có

những trang phục riêng nhưng tất cả đều tuân theo "mẫu số chung": đó là sự

thanh lịch.

Trong tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi, tác giả đã miêu tả những

người Hà Nội của thời kì Đổi mới với trang phục dẫu có hiện đại, tân thời hơn

nhưng vẫn gìn giữ nét riêng: “…Con gái Hà Nội mặc quần chẽn đen, gót xẻ,

có dải buộc dưới bàn chân, mặc măng tô lửng, hoặc đi bít tất đen dài, quần

cộc, áo vét trùm … Đàn ông cũng diện lắm, áo vét tông các kiểu, thắt cà vạt

đủ màu, giầy đen, cứ như họ từ các đại sảnh bước ra. Không phải đâu, chỉ là

quần áo thường ngày thôi, cũng giống như trước kia họ mặc áo bông xanh,

quần kaki vàng và đi dép nhựa. Chưa bao giờ tôi thấy người Hà Nội ăn mặc

30

sang trọng như bây giờ.” (Nếp Nhà). Ngày thường đã thế, ngày lễ nhà có

khách cái sự mặc lại càng được chú trọng hơn, như một thứ lễ nghi cần phải

có của người Hà Nội: “Rồi cửa trong mở, bà chủ xuất hiện trước như diễn

viên trên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, rồi một loạt bảy tám bà

tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại

uyển chuyển” (Một người Hà Nội).

Hiếm có vùng đất nào lại được người ta chú ý đến cách ăn mặc như thế,

người vùng khác nhìn vào Hà Nội để tìm thấy sự đẹp đẽ bởi đây là đất kinh

kỳ văn hiến ngàn đời. Người Hà Nội vì thế mà cũng tự ý thức bản thân mình

đang ở chốn đô hội, cần phải có sự chuẩn mực cho vùng miền khác nhìn vào.

Chẳng thế mà từ việc mặc như thế nào đến lời nói hằng ngày, dường như đã

được đúc kết thành một quy tắc: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng

phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng” (Một người Hà Nội)

bởi nếu họ buông tuồng, ngoài khuôn khổ thì đã tự mình làm mất đi cái hay

cái đẹp đáng ra phải có. Đó cũng chính là nền nếp của những người có văn

hóa ở vùng đất văn hóa.

Nếp sống của người Hà thành cũng khác với các vùng miền còn lại.

Người ta ăn, chơi cũng đặc biệt. Người ta chơi lan, dù là chơi hoa đó nhưng

cũng chẳng kém phần cầu kì. Loại hoa nào dễ trồng, dễ ra hoa mà lại ra hoa

quanh năm thì lại bị rẻ rúng, bị “khinh”, “ Lan Tứ Thời, thơm lừng lẫy, lá dài

hẹp, cứng đơ, trồng dễ lại đẻ khỏe. Nhưng các cụ khinh, liệt vào loại hoa hèn

cỏ nội. Vì sao? Vì thời nào nó cũng sống được, cũng thơm được. Cái thứ hoa

nịnh đời, nịnh người đến thế thì trọng làm quái gì.”

Nếp sống thanh tao, giản dị nhưng đầy chất thơ ấy nếu đi một vòng

quanh Hà Nội không khó để bắt gặp, người xưa có câu “Không thơm cũng thể

hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” hẳn là có nguyên cớ

riêng của nó. Người Hà Nội dù thuộc tầng lớp nào trong xã hội cũng luôn

31

gắng giữ cho mình một nếp sống không phụ thuộc, nhẹ nhàng và sâu lắng. Đó

là những nếp ăn, nếp mặc, nếp chơi, là những thói quen được hình thành và

gìn giữ qua nhiều thế hệ để ngày nay còn lan tỏa đi khắp bốn phương.

Xã hội xáo trộn, khiến cho từng gia đình xáo trộn, và từng cá nhân

trong cơn bão ấy cũng nghiêng ngả trong canh bạc cuộc đời để tìm kiếm giá

trị sống, tìm kiếm giá trị làm người. Chủ đề nếp nhà, trong bối cảnh đó, với

mỗi cá nhân vừa là một điểm tựa tinh thần, giúp con người định vị mình giữa

bối cảnh xã hội hỗn loạn, tìm kiếm được một con đường để sống có cốt cách,

có phẩm giá. Mặt khác, nếp nhà, cũng như bất kì giá trị nào trong thời kì

chuyển giao giá trị, khi mà cái cũ đã mất đi nhưng cái mới chưa hình thành,

cũng phải trải qua một cuộc “lửa thử vàng”, cái mới đối lập với cái cũ, cái tiến

bộ đối lập với cái lạc hậu, để thay đổi. Sư thay đổi đó, có cả tốt, và có cả xấu.

Trong Hà Nội trong mắt tôi, nếp nhà thường gắn với những người phụ

nữ có vẻ đẹp trí tuệ sắc sảo, họ chính là những người thấu hiểu nhất giá trị của

nếp nhà, và chính là những người gìn giữ nếp nhà. Khác với hình tượng người

phụ nữ Việt Nam truyền thống thường gắn với các phẩm chất đức hạnh như

hy sinh, tảo tần, thương chồng thương con, chung thủy, nghĩa tình…, một số

hình tượng người phụ nữ của Nguyễn Khải trong tập Hà Nội trong mắt tôi

được khai thác đậm nét dưới phương diện trí tuệ. Những người phụ nữ như cô

Hiền, hay bà cụ trong Nếp nhà đều là những người có trí tuệ hơn người, tỉnh

táo và lý trí trước thời cuộc, có cốt cách văn hóa. Họ có bản lĩnh kiên cường,

và thay thế vị trí của người đàn ông, họ mới chính là trụ cột của gia đình, là

người nội tướng chèo chống, lèo lái gia đình giữa vòng xoáy xã hội. Vẻ đẹp

nữ tính ở đây có sự sáng tạo, mới mẻ, không còn đơn thuần là vẻ đẹp phẩm

chất, đức hạnh, mà nổi bật lên chính là vẻ đẹp của trí tuệ, của bản lĩnh sống.

Trí tuệ sắc sảo giúp họ có cách cư xử khéo léo, uyển chuyển trong cuộc

sống, để gia đình được êm ấm, thuận hòa. Bà cụ trong Nếp nhà trong cuộc

sống với dâu, rể rất tế nhị, tinh tế, nên được cả con dâu và con rể quý mến.

32

Người con dâu cả của bà vốn là con gái Hàng Bộ, đỗ đại học, kiêu hãnh, tự

tin, không dễ nhân nhượng. Thế nhưng hai người phụ nữ ấy sống trong một

gia đình rất thuận hòa. Bởi lẽ, bà cụ đối xử với con dâu rất khéo léo, chân

tình. Theo bà: “Đúng là tôi có phần chịu nó, nhưng nó cũng phải có phần chịu

tôi, mỗi bên chịu một nửa” (Nếp Nhà). Con dâu đối với bà là “vàng trời cho”,

bà chiều và quý trọng con dâu thật lòng nên cả hai cô con dâu ai cũng cởi mở,

gắn bó với bà. Không phải một sớm một chiều mà người ta có thể sống được

với nhau như thế, đó là cả quá trình hình thành nếp sống, nếp nghĩ qua nhiều

thế hệ mà tạo thành vậy. Người Hà Nội coi trọng gia đình, gia phong bởi đó là

một cái nôi tạo dựng các thế hệ tương lai cho đất nước. Cha mẹ, ông bà luôn

là tấm gương mẫu mực cho con cháu noi theo. Việc trong nhà to nhỏ đều tự

xử. Đưa nhau ra tòa là nhà vô phúc, thế mới có câu “Vô phúc đáo tụng đình”.

Với Nếp nhà tính triết luận của Nguyễn Khải dường như hòa quyện vào cách

nghĩ, cung cách ứng xử trong gia đình.

Nét thanh lịch của người Hà Nội không những thể hiện ra ngoài xã hội,

ngay trong gia đình cũng luôn tồn tại một cung cách ứng xử đầy văn hóa,

trong Nếp nhà ta có thể thấy một gia đình nền nếp đến cổ điển: “Trong nhà

này, ba đời nay, không một ai biết tới câu mày, câu tao”. Chỉ qua cách ăn nói,

ứng xử với nhau giữa những con người trong cùng một gia đình sống giữa

trung tâm thủ đô có thể biểu hiện sự khái quát cho nét văn hóa thanh lịch của

người Tràng An.

Ngay cả việc chia tài sản vốn là chuyện rất dễ gây ra những mối bất hòa

thậm chí có thể làm tan nát một gia đình, bởi thế cung cách ứng xử của người

chủ gia đình cụ thể ở đây là bà cô tỏ ra rất thuyết phục, bà chia tài sản thành

sáu phần không ai hơn ai, không ai phải bỏ phần của mình ra để lo việc

chung, đó là cách giữ cho nếp nhà luôn được yên ấm: “Chia khéo thì trai gái

dâu rể mãi mãi là con của mình, mãi mãi là anh em ruột thịt của nhau. Chia

vụng thì xẻ đàn tan nghé ngay tức khắc, càng đông con cháu càng lắm mối

33

họa”(Nếp Nhà). Với Hà Nội trong mắt tôi, một nét văn hóa trong ứng xử gia

đình đã được Nguyễn Khải khéo léo lồng vào giữa những câu chuyện có tính

thời sự, giữa sự áp đảo của kim tiền.

2.3. Bản lĩnh và nhân cách của người Hà Nội

Trên mảnh đất "lắng hồn núi sông ngàn năm", lịch sử đã hun đúc

truyền thống văn hiến, anh hùng và bao lần trào dâng cảm xúc hào hùng của

chiến thắng khải hoàn. Truyền thống ngàn năm văn hiến nếu không được

thấm đẫm trong mỗi hành động, cách ứng xử hàng ngày thì truyền thống chỉ

dừng lại ở hồi tưởng, ở sách vở. Ở tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi, các

nhân vật của Nguyễn Khải đã phần nào góp vào việc gìn giữ truyền thống văn

hóa ấy. Tác giả đã khéo léo truyền tải đến người đọc một phác họa những

người Hà Nội với bản lĩnh và nhân cách của con người vùng đất kinh sư.

Muốn hình thành nên một xã hội tốt đẹp đương nhiên phải xuất phát từ

những con người có nhân cách tốt. Cái tốt ở đây cũng không cao xa gì, đơn

giản chỉ là sống cho đúng với thời thế, đúng với lương tâm và trách nhiệm của

một người với xã hội.

Trong tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi, nhân vật bà Hiền là một

biểu tượng sáng cho lớp người Hà Nội như thế : “Theo tôi được biết từ trẻ đến

già cô tôi sống theo một số nguyên tắc, thời thế có thể thay đổi nhưng cách

sống của bà dứt khoát không thay đổi. Đó là: sống thẳng thắn, sống lương

thiện và sống theo pháp luật hiện hành” (Một người Hà Nội). Thời thế có thể

thay đổi nhưng nhân cách đó luôn giữ vững, để làm trụ đỡ cho một gia đình

giữa vòng xoáy của xã hội. Đứng trước cơ hội làm giàu, mà làm giàu một

cách chính đáng, nhưng bà Hiền dường như không màng tới điều đó “…In tập

thơ đó chắc chắn sẽ thu lãi nhiều, bà biết thế nhưng vẫn từ chối. Vì nhà xuất

bản Nguyễn Du do bà chủ trương chỉ in có sách giáo khoa, đúng như trong

giấy phép”. Giữ cho bàn tay không vương mùi tiền bạc giữa thời đại kinh tế là

thước đo cho mọi thứ quả thật không hề đơn giản. Thế nhưng những người

34

Hà Nội như bà vẫn tìm được cách để không vướng vào nó. Bởi vậy ngôi nhà

nằm giữa con phố trung tâm của thủ đô vẫn chỉ để bày bán những mặt hàng

sơn mài, những bưu thiếp nho nhỏ. Đó thực sự là “cái khôn ngoan cao siêu

chứ không phải là khôn vặt”. Bởi những người như bà quan niệm rằng :

“Đồng tiền do may mắn mà có, do thời thế đổi thay mà có rất dễ là mầm

mống của nhiều tai họa. Vì người có tiền chưa kịp học cách tôn trọng đồng

tiền, sai khiến đồng tiền”. Đấy là bản lĩnh của người Hà Nội mà giờ đây

chúng ta khó có thể bắt gặp được nữa.

Sống giữa thủ đô nhộn nhịp, năng động và hầu như mọi người đều mải

miết đi tìm cho mình sự giàu sang bất kể bằng cách nào. Nhưng vẫn còn

những con người mà: “Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng

không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh

phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không

bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm mà cũng không nên cầu

xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở trong tay mình

nhưng nhận được ra nó, có ý thức vun trồng nó lại hoàn toàn không dễ” (Nếp

Nhà). Tiền với nhiều người là mục đích sống, là thứ cần phải có và phải có

nhiều, nhưng với bà cụ tiền lại như một nỗi khiếp sợ, không cần thiết mà cái

quan trọng là một gia đình hạnh phúc. Một nếp nhà yên ấm được giáo dục qua

nhiều đời luôn có giá trị hơn vàng mười. Đó thực sự là bản lĩnh của người Hà

Nội không chỉ ở sức sống bền bỉ qua những biến thiên thời đại, đó còn là sự

gìn giữ một Nếp nhà khỏi xiêu đổ trước giông bão cuộc sống, trước sức mạnh

của đồng tiền. Đọc Nếp nhà ta thấy chân dung Một người Hà Nội đầy bản lĩnh

trước thời cuộc luôn cố gắng giữ lấy sự cân bằng giữa gia đình và sức mạnh

của đồng tiền.

Cô Hiền trong Một người Hà Nội có cuộc sống ung dung, tự tại, giữ

được cốt cách, bản lĩnh của người Hà Nội dù trải qua nhiều biện động thăng

trầm, do cô ý thức rất rõ về bản thân và thời cuộc. Cô và gia đình ở lại Hà Nội

35

suốt những năm tháng chống Pháp vì không thể xa Hà Nội. Cô luôn tự hào

với mảnh đất mình sinh ra và lớn lên, tự hào là Một người Hà Nội, có trách

nhiệm giữ gìn nếp sống của người Hà Nội, dù có những lúc bị hiểu lầm đó là

lối sống tư sản, “một cách sống tư sản nhưng lại không bóc lột ai cả”. Cô luôn

tìm cách dạy dỗ con cháu giữ lấy niềm tự hào ấy, “Là người Hà Nội thì cách

đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.

Ngay cả trong nhưng năm chiến tranh, cô vẫn giữ thói quen họp mặt bạn bè

hàng tháng, ăn mặc sang trọng, kiểu cách khác ngày thường. “Rồi cửa trong

mở, bà chủ xuất hiện trước…, lược giắt hoa trầm cài hột lấp lánh,… áo

nhung, áo da, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Ngày thường các bà mặc

áo bông ngắn, quần thâm, đi dép đi guốc, vuông khăn tơi tớp buộc cổ hay bịt

đầu, là các cô Lọ Lem của mỗi ngày”. Chính cách sống ấy đã làm sống lại nét

sinh hoạt giao tiếp sang trọng, đẹp đẽ như truyền thống kinh kì. Sau bao nhiêu

biên thiên của lịch sử, phòng khách, cũng như cô Hiền, vẫn mang vẻ cổ kính,

lịch lãm, quý phái và tinh tế của Hà Nội, “suốt mấy chục năm không hề thay

đổi”: Tấm bình phong bằng gỗ chạm, bộ salon gụ, sập gụ, tủ chùa, lọ men

Thúy Hồng, lư hương đời Hán, liễn hấp sâm Giang Tây… Đó là những cổ vật

quý giá, thể hiện cốt cách văn hóa của chủ nhân. Căn phòng khách như biểu

tượng cho con người có thế giới thanh sạch, luôn bình tâm trước mọi đổi thay.

Và con người, chủ nhân của không gian ấy, cũng mang một giá trị

không phai nhòa của một thời vàng son.

Nếu bản lĩnh là sự mạnh mẽ và có quá trình đấu tranh thì nhân cách là

cái được hun đúc qua nhiều thăng trầm của cuộc sống, do tự bản thân nhìn

nhận cuộc sống và ứng xử với nó. Là một người Hà Nội, người ta không thể

sống mà bằng mọi cách đạp lên trên mọi người, phải là người có nhân cách

mới được xã hội công nhận: “Tiếng nói của họ dầu là chính thức hay không

chính thức vẫn tác động tới đời sống tinh thần của cả nước. Nhưng không có

con buôn đâu nhá, dầu là tỷ phú vẫn cứ bị dân Hà Nội xem là lái buôn. Cũng

36

không có quan lại đâu nhá, quan lại phải đỗ đại khoa, phải sống cao thượng,

đẹp đẽ mới được xem là trí thức. Cụ Thiếu Hà Đông vẫn cứ là bồi Tây. Còn

Tổng đốc Hoàng Diệu mới là sĩ phu Bắc Hà” (Đất kinh kỳ).

Bởi thế mà người Hà Nội truyền nhau sống sao cho đúng, cho xứng :

“Này, sống ở Hà Nội là phải rất cẩn thận! Anh vô danh thì không nói làm gì

nếu anh đã có tí chút tên tuổi là anh sẽ được đánh giá. Ai đánh giá, không có

tác giả, không có địa chỉ, chỉ biết một lúc nào đó dư luận chợt bùng lên để

đánh giá về một con người, về một tầng lớp người, là bia miệng đấy, trăm

năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng…” Cái dư luận lợi hại ấy là một thứ

luật không văn bản để người Hà Nội phải sống đúng theo lề luật của dân kinh

đô. Và sự đánh giá của nó, của đất kinh kỳ, về việc về người là rất quan trọng,

có giá trị lưu truyền hậu thế.

Nhân cách cao đẹp không chỉ hình thành và tồn tại trong ứng xử, giao

tiếp giữa người với người. Ngay cả thú chơi hoa cũng lại nói lên con người

đất kinh kỳ, người ta chơi hoa nhưng cũng tùy từng loại mà đánh giá như

đánh giá một con người vậy, có loại lan Địa lan, Hoàng lan, Thanh lan thì

được quý trọng nâng niu mà “ Lại có thứ lan Tứ Thời, thơm lừng lẫy, lá dài

hẹp, cứng đơ, trồng dễ lại đẻ khỏe. Nhưng các cụ khinh, liệt vào loại hoa hèn

cỏ nội. Vì sao? Vì thời nào nó cũng sống được, cũng thơm được. Cái thứ hoa

nịnh đời, nịnh người đến thế thì trọng làm gì” (Đất kinh kỳ). Vậy mới thấy,

người Hà thành sống có những quy tắc riêng ăn sâu vào máu thịt mới hình

thành nên một vùng kinh sư để bốn phương mến mộ như vậy.

Ở đây họ truyền nhau lấy cái đức làm gốc, còn sang giàu chỉ là thứ yếu

“Các anh chị nuôi dạy con cháu rồi cưới vợ gả chồng cho chúng nó, nhớ lấy

cái đức làm đầu, tài sắc phú quý tính sau. Ở đời chỉ có cái đức là trường tồn,

càng có nhiều càng tốt, không sợ thừa”. Một xã hội đề cao nhân đức là một xã

hội đáng được ngưỡng vọng, nó đến từ những con người bình thường, nhỏ bé

thôi nhưng không từ bỏ những giá trị tốt đẹp: “Người đàn bà tầm thường thôi

37

nhưng cái cách ứng xử một đời không thay đổi của bà lão lại chẳng tầm

thường một chút nào: biết thích ứng nhanh để hòa nhập nhưng không chịu để

mất những niềm tin riêng, cái cốt cách riêng của mình”. Bản lĩnh và nhân

cách của người Hà Nội đã xây dựng nên một Hà Nội phồn hoa, tráng lệ mà

thâm trầm sâu sắc. Người ta coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, miễn sao được

cùng mọi người sống và chết vì Hà Nội, vì đất nước: “Có một lần nào đó, khi

tôi còn ở Hà Nội, Khang đã nói với tôi, rằng hắn không tiếc gì mấy cái xe hái

ra tiền của gia đình. Bạn bè cùng lứa tuổi ở Hà Nội nhiều người ra đi kháng

chiến mà không có ngày về thì sao? Cái chết còn dám coi nhẹ tựa lông hồng

huống gì tiền bạc (Danh phận). Đó là lời của người thanh niên, còn các bà

mẹ, bà vợ cũng mạnh mẽ và tự trọng không kém: “Không khuyến khích, cũng

không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nói phải

chết, cũng là một cách giết chết nó”. Rồi cô chép miệng: “Tao cũng muốn

được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì

có hay hớm gì” (Một người Hà Nội).

Đó là những người thuộc tầng lớp tư sản, những người khó khăn hơn

cũng thể hiện mình là một người giàu lòng tự trọng, sống vì những điều tốt

đẹp và chết cũng vì nó: “Chao ôi! Một anh thợ vô danh ở làng mà dám có cao

vọng đoạt quyền tạo hóa bằng cái chàng cái đục của mình sao? Biết thế nào

được! Cõi mơ mộng của con người ta vốn vô cùng mà.” (Nghệ nhân ở làng).

Bản lĩnh và nhân cách của người Hà thành không xa xôi, cũng không

quá khó để đi tìm, nó nằm ngay trong cách mà người với người đối xử với

nhau, mang đến cho nhau hơi ấm của tình yêu. Đọc Nắng chiều, ta bắt gặp

một tình yêu chân thành mà mong mỏi đến cuối đời của bà Bơ, của bà Đại.

Tình cảm của hai người già khi đã ở tuổi thất thập sao đẹp đẽ và lung linh như

ánh nắng ban chiều, vừa đủ đẹp nhưng cũng khiến cho người ta thấy nuối tiếc

trước sự trôi chảy của thời gian và sự trêu ngươi của tạo hóa. Với Nắng chiều,

38

điều đọng lại là lòng yêu thương của những con người dành cho nhau, luôn

nghĩ về người khác mong cho người khác được hạnh phúc cũng như bản thân

được hạnh phúc.

Xuyên suốt tập truyện, tác giả khéo léo đan cài những giá trị văn hóa

tốt đẹp của đất và người Hà Nội, là người cũ, là người trẻ nhưng thấp thoáng

đâu đó giữa những xô bồ khắc nghiệt của cuộc sống vẫn ánh lên sắc màu

huyền diệu của vùng đất đế đô, những con người vẫn miệt mài gìn giữ truyền

thống tốt đẹp của cha ông và truyền lại cho con cháu đời sau

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM THỨC VĂN HÓA QUA

TẬP TRUYỆN NGẮN HÀ NỘI TRONG MẮT TÔI CỦA

NGUYỄN KHẢI

3.1 Thời gian và không gian văn hóa qua Hà Nội trong mắt tôi

3.1.1. Thời gian văn hóa qua Hà Nội trong mắt tôi

Trong thi pháp văn học, thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể

chiêm nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của

nó, với nhịp độ nhanh hay chậm với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ và

tương lai. Thời gian nghệ thuật được sáng tạo ra nên nó mang tính chủ quan,

gắn với thời gian tâm lý. Thời gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn

học bởi văn học là nghệ thuật thời gian. Điều đặc biệt, thời gian nghệ thuật là

một biểu hiện, biểu trưng thể hiện quan niệm của nhà văn về đời sống và con

người, nó có thể dài như thế kỷ mà có thể ngắn như cái chớp mắt. Trong tác

phẩm văn học, thời gian nghệ thuật có thể dài, ngắn, đảo chiều, từ xa xưa tới

thực tại hoặc ngược lại tùy thuộc vào quan điểm của nhà văn và cách anh ta

nhìn hiện thực cuộc sống.

Thời gian nghệ thuật trong tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi vừa là

thời gian vật lý vừa là thời gian văn hóa mang dấu ấn văn hóa của thời đại.

Nổi bật trong tập truyện là thời gian văn hóa quá khứ và thời gian văn hóa

39

hiện tại.

Thời gian quá khứ thường được nhắc tới trong các câu chuyện của nhân

vật, qua những phong tục, cách ứng xử của người xưa, từ đó chiếu rọi tới

hiện tại làm nổi bật lên sự khác biệt văn hóa của quá khứ không xa lắm với

hiện tại đầy xáo trộn của Hà Nội, của người Hà Nội. Với Nếp Nhà, thời gian

dường như ngưng đọng lại nơi ngôi nhà của nhân vật bà cô, nơi đây mọi thứ

dường như vẫn y nguyên từ “ba đời” trước từ lời ăn tiếng nói, từ cách ăn mặc,

lối sống lối sinh hoạt… Thời gian ở trong Nếp Nhà còn là thời gian của phố

phường, của tiết trời mùa xuân Hà Nội. Trong cảm thức của nhân vật “tôi”,

“Mùa xuân ở Hà Nội bao giờ cũng đẹp. Với tôi đã nhiều năm không được

sống ở Hà Nội vào mùa xuân lại càng thấy đẹp”. Trong Nếp Nhà, tác giả đưa

ta đến với Hà Nội qua các câu chuyện không liền mạch thời gian, lúc đột ngột

đến, rồi đi sau đó trở lại. Với Đất Kinh kỳ, người đọc như được trở lại những

năm năm mươi của thế kỷ trước với nghệ thuật trồng cây cảnh của cụ Vĩnh

phố Hàng Trống. Với Một người Hà Nội, thời gian quá khứ dường như làm

chủ trong những câu chuyện của nhân vật tôi và bà cô Hiền. Một nguời Hà

Nội được tác giả chia thành 7 phần và có đánh số từng phần.

Mở đầu cho mỗi phần ấy đều là những mốc thời gian của quá khứ: từ

kháng chiến trở về, Xưa kia, Chín năm xa phố phường, Tháng 12 năm 75,

Nhiều năm đã trôi qua… dường như quá khứ là một chất liệu chính cho câu

chuyện, thông qua những mốc thời gian ấy tác giả lồng vào những câu chuyện

về một Hà Nội diễm lệ, hào hoa: “Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ

hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ

đã quy định/ khăn vấn bỏ đuôi gà, áo tứ thân bằng hàng tơ dệt thưa gọi là

xuyến, mặc quần lĩnh Bưởi và đi hài”. Đấy cũng chính là một ước ao bình dị,

chân thành từ Một người Hà Nội: “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với

các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì”.

Với Người của ngày xưa, thời gian quá khứ được khai thác triệt để,

40

đưa người đọc trở về thời kì cách nay non thế kỷ cua những ông tuần bà phủ,

thông qua những câu chuyện của quá khứ mà răn dạy hiện tại, trong Người

của ngày xưa thời gian quá khứ hoàn toàn chiếm trọn trong tác phẩm, cái hiện

tại chỉ tô điểm thêm cho nhận định, là sự tự khẳng định như cuối truyện viết :

“Cụ là cô gái nghèo, thuộc lớp đáy của xã hội, bỗng chốc thành phu nhân,

danh vọng và tiền bạc đều dư thừa mà không lóa mắt, không đua đòi, không

chịu để mất cái phẩm giá riêng, nghĩ lại thật đáng sợ. người đàn bà tầm

thường thôi nhưng cái cách ứng xử một đời không thay đổi của bà lão lại

chẳng tầm thường một chút nào” đó là việc biết thích ứng nhanh để hòa nhập

nhưng không chịu để mất những niềm tin riêng, cái cốt cách riêng của mình.

Đó cũng là cách ứng xử của những người Hà Nội có văn hóa xưa. Cốt

cách của người Hà Nội đã được thể hiện qua những câu chuyện của quá khứ,

để đúc kết lên như một triết lí, Hà Nội đẹp bởi những con người, của bề dầy

truyền thống như “những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội

hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng” (Một

người Hà Nội).

Cùng với thời gian quá khứ, trang viết của Nguyễn Khải có sự đồng

hiện của thời gian hiện tại. Có thể nói, Nếp nhà mở đầu cho tập truyện ngắn

Hà Nội trong mắt tôi là có lý do của nó. Thời gian nghệ thuật được tác giả

đan xen nhau giữa hiện tại và quá khứ, từ những năm trước Đổi mới cho tới

khi Hà Nội đã lột xác, nhưng đọng lại trong nếp nhà ấy vẫn phảng phất nét

văn hóa của đất kinh kỳ. Thời gian hiện tại của Nếp nhà là mùa xuân, là sự

điều chỉnh gia pháp theo thời đại, thời mà kim tiền bắt đầu đánh chiếm vào

phên lũy của văn hóa. Trong Chúng tôi và bọn hắn thời gian cũng được trở đi

trở lại, từ hiện tại ngược về quá khứ, từ quá khứ nối tiếp tới hiện tại. Hiện tại

là những giá trị đang đảo lộn, những toan tính mưu cầu công danh bằng tiền

bạc.

Trong truyện ngắn này tồn tại một thời gian thú vị, đó là thời gian ‘chờ

41

đợi” khi kết thúc tác phẩm tác giả cài vào đó một câu “Vâng, để rồi xem, đó

là chuyện sau này chứ đâu phải chuyện ngay ngày mai. Cháu vẫn còn thời

gian để chờ đợi mà”. Đó như một lời thách thức của hiện tại xô bồ vào quá

khứ trầm mặc, sự thách thức của thực tại với những giá trị văn hóa truyền

thống giữa những người trẻ và thế hệ cũ của Hà Nội.

Với Người của ngày xưa thời gian hiện tại không nhiều, nó bị thời gian

quá khứ lấn át hoàn toàn, chỉ một đôi dòng thôi nhưng nó làm cái đối trọng

nặng nề với thời gian quá khứ; Xưa kia những người chủ gia đình ở phố này

chỉ nói có chuyện chính trị, chính trị trong nước, chính trị quốc tế và các bà

vợ thì ngồi nghe ké. Bây giờ chỉ có các bà nói, các con nói, nói toàn chuyện

tiền bạc, nói sự đối xử bất bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh

nghiệp tư nhân, nói cảnh sát kinh tế, nói cán bộ thuế vụ, giọng lưỡi chao chát,

sát phạt, còn các đức ông chồng đã về hưu thì ngồi nín lặng với vẻ mặt sầu

muộn của người đã mất quyền. Này, như thế có phải là thời thế đã đổi thay

không nhỉ?”

Có thể nói trong tập truyện ngắn này, thời gian của hiện tại là thứ thời

gian của những thay đổi, thay đổi trong cách nghĩ, cách nói, cách làm, thay

đổi cả trong trật tự xã hội và thay đổi trong phông văn hóa. Nếu như thời gian

quá khứ chủ yếu nói về những năm đói khổ, ăn không đủ no ngày nay ăn lo

ngày mai, nhưng nếp nhà luôn yên ấm và nền nếp, người trẻ biết kính trọng

người già và giữa người với người chưa có sự nghi kỵ lẫn nhau, thì với thời

gian hiện tại hay nói cách khác đi chính là thực tại những năm sau Đổi mới,

mọi thứ dường như đảo lộn, những anh chàng châm chọc người già ngay trên

phố (Nếp nhà) những giá trị cũ lỗi thời nhường chỗ cho xe hơi, cho chức vụ

và quyền thế, cho tiền bạc và giàu sang (Chúng tôi và bọn hắn) và cuối cùng

là những trăn trở của một lớp người cũ nhìn về quá khứ, thở dài với thực tại,

với những xô bồ náo nhiệt đang cướp đi văn hóa truyền thống ngay từ trong

những ngôi nhà và ngoài xã hội. Hà Nội đứng trước cuộc chuyển mình vĩ đại

42

nhưng đầy đau đớn, những giá trị văn hóa có nguy cơ bị nhường chỗ cho sự

lên ngôi của kinh tế thị trường. Thời gian nghệ thuật như một thước đo hữu

hiệu cho điều ấy.

3.1.2. Không gian văn hóa qua Hà Nội trong mắt tôi

Cũng như trong thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật là hình

thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Nếu như mọi vật thể trong thế giới đều

tồn tại trong không gian ba chiều là cao, rộng và sâu thì không có hình tượng

nghệ thuật nào không có không gian, không có nhân vật nào không có nền

cảnh nào đó. Không gian nghệ thuật là sự sáng tạo nghệ thuật của người nghệ

sĩ nhằm biểu hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống, do đó không thể

quy nó về sự phản ánh giản đơn của không gian địa lý đơn thuần, không gian

nghệ thuật là sự biểu hiện mô hình thế giới của tác giả trong tác phẩm bằng

ngôn ngữ của các biểu tượng không gian. Theo đó, không gian nghệ thuật ấy

cũng góp chuyên chở những dấu ấn văn hóa của quá khứ hay hiện tại. Với tập

truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi, Nguyễn Khải đã tái hiện cả không gian văn

hóa quá khứ và không gian văn hóa hiện tại.

Trong tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi, thời gian và không gian

quá khứ luôn song hành cùng nhau, nó như một thước đo, một kiểu mẫu cho

xã hội, biểu hiện văn hóa truyền thống của Hà Nội đối lập với thời gian và

không gian hiện tại của Hà Nội những năm sau Đổi mới. Trong Nếp Nhà,

không gian quá khứ chính nằm ở ngôi nhà cũ giữa Thủ đô, nó đại diện cho

văn hóa truyền thống, nơi mà mấy thế hệ cùng nhau chung sống trong không

gian nhỏ hẹp nhưng đậm đặc chất Hà thành, không xô bồ, không mưu toan và

không xích mích. Một không gian nhỏ như thế nhưng giống như viên ngọc

giữa bể khơi, các giá trị văn hóa tụ lại ở đây đã vài thế hệ không có gì thay

đổi, những con người hằng ngày vẫn đi về, vẫn đạp xe xuống phố và bày bán

những mặt hàng sơn mài nhỏ xinh.

Không gian trong các truyện ngắn ở tập truyện này không rộng, không

43

mênh mang trải dài mà gói gọn trong lòng thành phố, thậm chí gói gọn trong

một ngôi nhà, với Hà Nội, dường như mọi thứ văn hóa nó tạo ra đều được đưa

vào ngôi nhà, nhỏ thôi nhưng như ngự trên đất linh nên cũng khác thường.

Một ngôi nhà đến mấy thế hệ chung sống, có già có trẻ lại có cả người điên

nhưng vẫn giữ cái danh nhà làm bánh kẹo nổi tiếng đất Hà Thành (Tiền), ngôi

nhà ôm lấy cái truyền thống như ông cụ giữ lấy cái nghề của mình vậy. Đến

nỗi : “Cái miếng ngon không thể nói bằng lời, viết ra giấy mà làm được. Phải

vừa làm vừa học mới biết. Rồi ông lại nói: Phàm đã làm gì cho đặc sắc thì

phải có chủ có thợ. Thợ phải do chủ chọn, làm theo ý chủ, không được cãi.

Nhưng nó lại trái với cái thời bây giờ. Hiền ao ước sẽ có ngày cô mua lại cả

cái nhà này, sẽ mở lại cửa hàng làm bánh kẹo như ngày xưa, treo lại cái bảng

hiệu của ngày xưa” (Tiền).

Cũng trong một ngôi nhà, nhưng ở ngoại thành Hà Nội, cái tinh hoa của

làng nghề truyền thống nằm ở một người nghệ nhân chạm khắc. Người nghệ

nhân ấy dồn hết tất cả tâm huyết của mình vào một cái lèo tủ, thật đáng

ngưỡng mộ: “Em có làm theo sự đặt hàng đâu mà cần làm cho nhanh, làm cho

xong. Mỗi ngày em chỉ đục có một cái mặt của bạn bè, lúc đưa cái đục vũm

hay cái đục tách lên mặt gỗ lại như được sống trong khoảnh khắc với người

ấy. Còn khi đã làm xong lại là chuyện khác, nó chỉ là khúc gỗ vô hồn thôi,

mình với nó lại là hai, không còn là một. Làm xong cái lèo tủ em buồn mất

mấy ngày vì lại phải xa nhau một lần nữa, lần này có thể là mãi mãi. Lắm

đêm vắng lặng không ngủ được, em cứ lắng tai nghe chỗ để tượng có tiếng

động đậy gì không?” (Nghệ nhân ở làng).

Nhịp sống xô bồ hình như không chạm tới nơi đây. Với Một người Hà

Nội, không gian trùm lấp cả truyện là Hà Nội, từ Hà Nội những năm trước 54

tới Hà Nội sau giải phóng, đó là không gian lớn và xuyên suốt. Nhưng trong

đó lại có một không gian nhỏ hơn, là không gian của một ngôi nhà cụ thể, ở

đó có tấm bình phong cao hơn đầu người bằng gỗ chạm đặt trước nơi tiếp

44

khách suốt mấy chục năm không hề thay đổi. Một bộ sa lông gụ “cái khánh”,

cái sập gụ chân quỳ chạm rất đẹp nhưng không khảm, cái tủ chùa một cánh

bên trong bày một cái lọ men Thúy hồng, một cái lư hương đời Hán, một cái

liễn hấp sâm Giang Tây, và mấy thứ bình lọ màu men thì thường nhưng có

dáng lạ, chả rõ từ đời nào. Không gian ấy mang đậm tính hoài cổ của một quá

khứ diễm lệ hào hoa những năm đầu thế kỷ 20.

Tóm lại, ở trong tập truyện ngắn này, không gian quá khứ khiến người

ta hồi tưởng, hoài cổ về một Hà Nội của những năm trước, chưa xa lắm nhưng

lại đang bị phủ một lớp bụi mờ, một Hà Nội không lạ lẫm nhưng lại như mới

quen bởi nó cổ kính và nên thơ.

Cùng với không gian văn hóa quá khứ, không gian văn hóa hiện tại

xuất hiện trong tác phẩm như một mảng đối lập với không gian văn hóa quá

khứ . Trong tập truyện ngắn này, không gian của thực tại đầy ắp những nét

tươi mới nhưng cũng chứa đầy hào nhoáng bóng bẩy của xã hội hiện đại,

những nét cổ kính rêu phong chìm lấp dưới những ngôi nhà cao tầng, Hà Nội

chói lòa bởi ánh đèn điện và nhộn nhịp tiếng xe: “Chưa bao giờ Hà Nội vui

như bây giờ. Phố xá vui, mặt người vui. Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại.

- Tôi nói: Có đúng một phần, phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn

nghe những người Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở

ngoài đường là đủ rõ”. (Một người Hà Nội).

Cái xô bồ cũng tìm đến tận ngoại thành, ở một làng chạm khắc ngà voi

và gỗ khi “Tôi đã đi suốt làng cả một buổi chiều, thăm nhiều nhà, ngắm nhìn

nhiều tượng gỗ, tượng Phật có, tượng Thánh có, rồi ông Tiều ông Ngư, trẻ

trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo, sư tử vờn cầu, hổ nằm, hổ đứng, đẹp thì có

đẹp nhưng không thích, chỉ là sản phẩm thủ công của những ông thợ làm

nghề, chỉ thấy giá tiền, nơi bán, quy luật thương trường, chứ không được nghe

một câu nào về nghệ thuật, về cái thần bí của nghề, những chuyện của nghề.

Đứng đâu ngồi đâu cũng nghe nói đến tiền, đến chính mình cũng phải luôn

45

luôn nghĩ đến tiền. Thật chán quá!” (Nghệ nhân ở làng)

Không gian hiện tại ngập ngụa trong mớ hỗn độn của đồng tiền, ở đâu

cũng thấy người ta nhắc tới tiền; ngay cả ở trong nhà: “hai gia đình chỉ có một

cửa hàng, chỉ có một chỗ làm ra tiền, sẽ không ai chịu nhường ai, cũng không

ai muốn chung đụng với ai trong cái thời buổi đến thần thánh cũng phải quỵ

lụy kẻ có tiền”(Tiền). Không gian hiện tại của Hà Nội trong mắt tôi ngập tràn

sự đảo lộn, là không gian của những người trẻ như Lộc (Chúng tôi và bọn

hắn), như Nghĩa (Người của ngày xưa) và Hiền (Tiền), Hà Nội không còn

dành cho người già, những người ưa lối sống chậm và coi thường tiền bạc,

tránh xa xô bồ, ngược lại những người trẻ sẵn sàng lao vào nó “Bây giờ các

con anh đều lao vào kiếm tiền, đều nuôi mộng làm triệu phú tỷ phú trong

chớp mắt (Nếp nhà). Trong tập truyện này, Hà Nội của hiện tại hiện lên có

phần xấu xí, đó như là điều không thể tránh khỏi sau khi mở cửa. Tác giả

dường như không ngại ngùng khi nói lên một cách chân thực mặt trái của Hà

Nội trong vận hội mới, nhiều thách thức.

3.2. Ngôn ngữ người kể chuyện và giọng điệu trần thuật mang đậm màu

sắc văn hóa thời đại

3.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện

Đỗ Hải Phong trong: Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện

đại, đã dẫn lời của Todorov như sau: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực

trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng… Không thể có trần thuật thiếu

người kể chuyện. Ngôn ngữ của người kể chuyện tập trung ở lời người kể

chuyện. Nó bao gồm phần lời giới thiệu, miêu tả, trần thuật sự việc, con

người; bao gồm cả lời dẫn thoại; lời trữ tình” [10, 116 – 125]. Lời người kể

chuyện thường mang tính khách quan hơn so với lời nhân vật, nó có nhiệm vụ

làm nền cho sự xuất hiện của câu chuyện và của lời nhân vật, là mối dây liên

kết các yếu tố tổ chức tác phẩm. Lời người kể chuyện là thành tố quan trọng

trong ngôn ngữ kể chuyện, nó chiếm một tỷ trọng lớn trong lời văn nghệ thuật

46

toàn tác phẩm.

Với Nguyễn Khải, ngòi bút của ông hướng nhiều vào đời sống thế sự

với sự chiêm nghiệm và triết lí về nhân sinh, tìm kiếm những giá trị bền vững

vĩnh hằng của con người và đời sống. Thế giới nhân vật của Nguyễn Khải vì

thế cũng được mở rộng, thay đổi, với nhiều kiểu loại nhân vật mới và nhất là

được soi ngắm, định giá từ những thang bậc giá trị khác – những giá trị bền

vững về nhân cách, về lối sống. Những nhân vật ấy tuy rất khác với các nhân

vật lí tưởng của Nguyễn Khải hồi trước đổi mới nhưng giữa họ lại có những

nét chung, đó là bản lĩnh, niềm tin vào điều mình đã lựa chọn, là sự sắc sảo,

thông minh, có tài ăn nói. Bà Hiền trong Một người Hà Nội là một nhân vật

rất tiêu biểu cho một mẫu người được tác giả ưa thích, say mê trong sáng tác

của ông ở thời kì đổi mới.

Truyện Một người Hà Nội được tác giả chia làm 7 phần, có đánh số

mỗi phần, kể những chuyện về bà Hiền và gia đình bà trong một khoảng thời

gian dài suốt mấy chục năm, chủ yếu từ sau cuộc kháng chiến chống Pháp, Hà

Nội được giải phóng cho đến những năm đầu đổi mới, qua lời kể của nhân vật

kể chuyện xưng tôi – người cháu họ gọi bà Hiền bằng cô. Truyện Một người

Hà Nội khá tiêu biểu cho lối viết quen thuộc và ưa thích của Nguyễn Khải:

không xây dựng một cốt truyện chặt chẽ xung quanh một tình huống cơ bản,

mà là sự xâu chuỗi nhiều sự việc, nhiều mẩu chuyện, nhiều khi không có quan

hệ trực tiếp với nhau, nhưng đều tập trung làm nổi rõ một vấn đề hoặc một

nhân vật. Cách viết này có ưu thế là cho phép ngòi bút tác giả được tự do, chủ

động trong lựa chọn chi tiết, sự việc, lại có thể xen vào những nhận xét bình

luận của mình, không bị quá lệ thuộc vào một cốt truyện chặt chẽ, với các chi

tiết, sự việc phải sắp xếp theo quan hệ nhân quả. Sử dụng phương thức kể là

chủ yếu xen với bình luận và miêu tả cũng là cách viết quen thuộc của ngòi

bút Nguyễn Khải.

Qua lời kể của nhân vật “tôi” (mang dáng dấp của chính tác giả), người

47

đọc hình dung được gần như trọn vẹn về cuộc đời bà Hiền, từ thời thiếu nữ

mơ mộng, chủ nhân của một xa lông văn chương có tiếng của Hà Nội trước

1945, đến một bà Hiền, chủ một gia đình, trong việc nuôi dạy con cái, trong

cách sống hằng ngày và trong các quan hệ với xã hội mới, với cuộc kháng

chiến. Cố nhiên, trong một truyện ngắn nhà văn không thể và cũng không có

ý định tạo dựng một hình tượng nhân vật toàn vẹn, với mọi mối quan hệ trong

đời sống riêng chung và mọi bình diện của cuộc sống con người. Cái mà tác

giả quan tâm và tập trung thể hiện ở nhân vật bà Hiền chính là vẻ đẹp của một

lối sống, nhân cách người Hà Nội, “Một người Hà Nội của hôm nay, thuần

túy Hà Nội, không pha trộn”, như chính lời của người kể chuyện nói về nhân

vật bà Hiền. Trong lời nhận xét này, có hai khía cạnh được nhấn mạnh ở tư

cách người Hà Nội của nhân vật bà Hiền: “Thuần túy không pha trộn” và

“Một người Hà Nội của hôm nay”.

Ngôn ngữ người kể chuyện trong các truyện ngắn được tập hợp thành

tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi,“tôi’’ là một người rất yêu Hà Nội, am

hiểu sâu sắc về Hà Nội. Từng sống gắn bó với Hà Nội qua nhiều thời đoạn,

nhiều chặng đường hiện thực của đất nước, tôi đã cảm nhận và khám phá

nhiều vẻ đẹp của Hà Nội, con người Hà Nội. Năm 1955, khi cùng đồng dội về

tiếp quản Thủ đô, “tôi” còn trẻ lắm, mới hăm bốn, hăm lăm “cái xuân xanh”,

“tôi” thấy Hà Nội thật đẹp ở cái vẻ ngoài rực rỡ, náo nhiệt với bao nhiêu “phố

phường” lung linh “ánh điện”. Khi đã có tuổi,“tôi”lại thấy Hà Nội đẹp ở vẻ

trầm mặc, cổ kính.

Ngôn ngữ của người kể chuyện ở tập truyện này đôi khi là suồng sã,

bốp chát đậm tính ‘’ kinh tế thị trường’’ : “Chạy lộn đường rồi! Văn Điển đi

lối kia cụ ơi!” (Nếp nhà), hay như: ‘’ Hắn cười khẽ: “Tất nhiên là bằng xe hơi

của cháu”. (Chúng tôi và bọn hắn). Ngôn ngữ của người kể chuyện trong

cùng một tác phẩm luôn có sự đối lập với nhau, một bên đầy tính đời thường,

xù xì và trần trụi, một bên đầy tính triết luận, trải đời của nhân vật (hay chính

48

là nhà văn), hai dạng ngôn ngữ này cùng nhau tung hứng để tạo nên màu sắc

khác biệt giữa một lớp người cũ đại diện cho truyền thống, văn hóa của Hà

Nội ‘xưa” và một bên là những người trẻ, lớp người của thời buổi kinh tế thị

trường: “Rồi anh xem, riêng trong cái lĩnh vực này đồng tiền chả có nghĩa lý

gì”. Hắn lại cười mủm mỉm, một nụ cười rất là “cáo”: - Vâng, để rồi xem, đó

là chuyện sau này chứ đâu phải chuyện ngay ngày mai. Cháu vẫn còn thời

gian để chờ đợi mà (Chúng tôi và bọn hắn).

Ngôn ngữ trong các tác phẩm cũng được nhà văn chọn lựa rất kĩ càng,

khi nói về những truyền thống, cung cách của một Hà Nội xưa, người kể

chuyện thường trở nên trầm lắng, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc và tinh tế, khi nói

đến những vấn đề nhức nhối hiện tại, ngôn ngữ của người kể chuyện trở nên

“đanh” hơn, chua chát hơn. Nó tạo ra cho tác phẩm những luồng mạch rõ rệt,

người đọc sẽ dễ dàng nhận ra sự khác biệt của hai thế hệ. Người kể chuyện

đồng thời cũng là nhân vật trong tác phẩm luôn đưa ra những lời kết cho câu

chuyện của mình bằng một đoạn có tính triết luận : “Chao ôi! Một anh thợ vô

danh ở làng mà dám có cao vọng đoạt quyền tạo hóa bằng cái chàng cái đục

của mình sao? Biết thế nào được! Cõi mơ mộng của con người ta vốn vô cùng

mà” (Nghệ nhân ở làng) hay như “…không muốn nó sống bám vào sự hy sinh

của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”; “hoặc sống cả hoặc chết cả, vui

lẻ thì có hay hớm gì”(Một người Hà Nội), nhưng với thế hệ trẻ, người kể

chuyện trở thành một người đồng niên, ngôn ngữ sinh động hơn, hoạt bát hơn:

“Cái thằng nhóc ấy, cái thằng tôi ẵm bế nó từ thuở mới có mấy tháng lại ghê

gớm đến thế à? Nó được đào tạo từ bao giờ, hả? Bố Phúc nó chưa dễ đã làm

được huống chi nó. Còn nó… thì nó đã làm rồi đấy. Cái xí nghiệp của nó đã

có tiếng tăm rồi đấy. Chẳng gì nó cũng là một ông tỷ phú, tỷ phú nhà nước

thôi, của cái thời bây giờ” (Chúng tôi và bọn hắn).

Tóm lại, trong tập truyện ngắn này, ngôn ngữ người kể chuyện thường

49

linh hoạt, chuyển tiếp mềm mại giữa hai tuyến truyện, hai tuyến nhân vật.

Điều đó góp phần làm nổi bật vấn đề xung đột của tác phẩm mà nhà văn

nhắm tới.

3.2.2. Giọng điệu trần thuật

Với Nguyễn Khải, một trong những cách tân lớn nhất là chuyển đổi

giọng điệu trần thuật từ quan niệm duy ý chí, giọng điệu trang trọng ngợi ca

mang âm hưởng của sử thi anh hùng ca, đó cũng gần như là giọng điệu chung

cho hầu hết các nhà văn giai đoạn trước giải phóng. sang màu sắc triết luận,

tranh biện, điển hình là hình tượng cái tôi xuất hiện với tần suất nhiều hơn,

giọng văn mang nhiều tâm tình của nhà văn với xã hội hơn..

Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Khải ở Hà Nội trong mắt tôi nghiêng

nhiều về khuynh hướng triết luận, tranh luận trong đó người kể chuyện

thường được đặt ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Tất cả 10 truyện ngắn trong tập

này đều được kể dưới lời kể của nhân vật tôi, đó là người dẫn dắt độc giả đi

vào trong câu chuyện, đảm đương mạch dẫn dắt tự sự. Nếu trước đây triết lý

của Nguyễn Khải chủ yếu được khơi gợi xung quanh vấn đề lý tưởng, hành

động ý thức giác ngộ (Tầm nhìn xa, Hãy đi xa hơn nữa) thì ở trong tập truyện

này các tác phẩm như Chúng tôi và bọn hắn mang màu sắc khác. Nhà văn

hướng sâu hơn vào vấn đề đạo đức, lương tâm, những trăn trở về một xã hội

mới đang xuất hiện phá vỡ những trật tự văn hóa cũ, những câu chuyện thế sự

và sự lên xuống của đời người không biết trước được (Người của ngày xưa).

Giọng điệu ở đây đã không còn cái tỉnh táo sắc lạnh của hơn 20 năm

trước, thay vào đó là sự trải đời của tác giả đến người trần thuật, từ nhân vật

tới nhân vật; đó là sóng ngầm của thời bình, thời mở cửa kinh tế thị trường

như trong Nếp Nhà khi ngôi nhà ở giữa trung tâm lọt vào tầm ngắm của giới

kinh doanh, là sự cám dỗ của đồng tiền mà lại phải rất khéo léo sử dụng nó

trong Chúng tôi và bọn hắn, là sự suy tư, tiếc nuối về những giá trị xưa cũ mà

ngày nay Hà Nội đang dần mất đi: “… Hà Nội bây giờ không còn là của mình

50

nữa. Nó là của các anh. Nó sẵn sàng phục vụ cho mọi tham vọng của các anh

(Chúng tôi và bọn hắn). Giọng điệu của nhân vật “tôi” mang nặng tính chiêm

nghiệm của người từng trải, xen lẫn vào đó là sự nuối tiếc của một người từng

gắn bó với Hà Nội trước những đổi thay như một cơn lốc có thể cuốn đi các

giá trị truyền thống từ bao đời.

Từ những ngóc ngách không ngờ của thế giới nhân vật, đời sống thực

tại hiện ra như kính vạn hoa ở phía hào nhoáng nhất và cổ kính nhất, hiện tại

hào nhoáng va chạm với quá khứ rêu phong, giữa quan hệ tiền bạc và máu mủ

ruột thịt (Tiền). Hàng loạt vấn đề cứ ngồn ngộn trải ra qua nhân vật tôi, trong

đó triết lý của cuộc đời được đưa ra theo hai chiều hướng đối lập: già và trẻ

(Chúng tôi và bọn hắn), giữa hiện tại và quá khứ (Người của ngày xưa, Nếp

nhà) thức thời và lạc thời, hoa và rác… Nguyễn Khải rất biết khai thác những

cuộc đối thoại mặt đối mặt giữa hai thế hệ già và trẻ với ý thức về quá khứ và

hiện tại với thời gian đã mất và vận hội không dành nhiều cho người già.

Đồng điệu hay đối lập, phê phán hay ngợi ca có những vấn đề trước đây nhà

văn chưa từng đặt ra nhưng nay với sự xuất hiện của một lớp người mới, nhà

văn như tâm tình cùng những con người cũ của Hà Nội, như tâm tình với một

Hà Nội xưa cũ trước ngưỡng cửa của thời đại mới, trong đó Nguyễn Khải

thấy được một lớp người cũ có cái chất vàng đáng quý cần học lấy, cái mà

người trẻ đầy kiêu hãnh chưa chắc đã có được (Một người Hà Nội, Đất kinh

kỳ, Nếp nhà…) Đối thoại trong tập truyện này được Nguyễn Khải tập trung

vào việc hai thế hệ có những chạm trán gay gắt về quan niệm sống, về cách

sống (Chúng tôi và bọn hắn).

Viết về Hà Nội, Nguyễn Khải dường như muốn cho người ta thấy một

Hà Nội bình thản đi qua biết bao bão giông, qua những thay đổi và thăng trầm

của lịch sử. Ở đó có những con người đại diện cho nét văn hóa của thủ đô, là

những hạt bụi vàng (Một người Hà Nội), từ chuyện văn chương cho tới việc

đời thường giọng văn của ông như thấm cái “sang”, cái tinh tế của vùng đất

51

này để làm nổi bật những “ cốt cách vàng” góp phần làm đẹp thêm, ý nghĩa

hơn cho cuộc đời (Đất kinh kỳ, Một người Hà Nội, Nếp nhà, Người của ngày

xưa) là sự tự chiêm nghiệm khi với Hồ Dzếnh đó là phải “tráng chút hơi

hướng Tràng An” trong văn chương đích thực, là một bà cô già tưởng như

lẩm cẩm nhưng lại là sợi dây bền chặt giữ lại một nếp nhà giữa trung tâm Hà

Nội.

Trong tập truyện này, ngoài giọng văn mang tính triết luận, Nguyễn

Khải còn thể hiện một giọng điệu mang âm hưởng tâm tình, đầy sự trải

nghiệm của người đã đi qua những biến đổi trong cuộc sống. Cái tâm tình đó

là lời của một bà cô già về sự thay đổi của xã hội khi đồng tiền làm con người

ta mờ mắt (Nếp nhà), đó cũng là sự tâm tình của một anh thợ mộc chuyên

đục, chạm (Nghệ nhân ở làng), lời tâm tình trải đời ấy được thể hiện dưới góc

độ của nhiều nhân vật khác nhau, ở các địa vị xã hội khác nhau nhưng có một

điểm chung đó là những người đã già, những người đang trải qua một sự thay

đổi lớn lao của xã hội nói chung, của Hà Nội nói riêng. Nguyễn Khải đã đặt

nhân vật vào nhiều vùng không gian, thời gian khác nhau trong các cuộc

thoại, của hồi ức và sự chiêm nghiệm với chất giọng tâm tình, chia sẻ luôn

hướng con người vào sự tự ý thức. Hiện tại có từ hôm qua, một Hà Nội mới

bắt nguồn từ những trầm tích văn hóa xưa cũ khó có thể từ bỏ. Giọng điệu

trần thuật trong tác phẩm như lời thủ thỉ tâm tình của người lớn tuổi đang trò

52

chuyện cùng ngày xưa, cùng ngày nay.

KẾT LUẬN

Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến luôn là mảnh đất khởi nguồn

những của những giá trị văn hóa – lịch sử tốt đẹp, nơi đây tiếp nhận hình

thành và phát triển, gìn giữ những giá trị văn hóa của dân tộc, đồng hành cùng

dân tộc trong sự phát triển trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Từ Hà Nội, những

sáng tác văn học được ra đời kết tinh từ truyền thống văn hóa, phong tục đẹp

đẽ của đất và người Hà Nội thông qua các nhà văn như Vũ Bằng, Thạch

Lam…, trong đó Nguyễn Khải cũng góp phần làm phong phú thêm kho tàng

văn học viết về đất và người Tràng An. Tập truyện ngắn Hà Nội trong mắt tôi

là sự tập hợp của 10 truyện ngắn khác nhau với những nhân vật, chủ đề khác

nhau nhưng hầu hết đều gặp nhau trong mạch cảm xúc về một Hà Nội với bề

dày văn hóa, phong tục, về đất và người Hà Nội. Hà Nội trong mắt tôi là sự

nuối tiếc về những giá trị văn hóa, những truyền thống trong từng nếp nhà,

của những Người của ngày xưa đang “lạc thời” trước biến động mới của xã

hội kim tiền. Nhưng chính trong hoàn cảnh giao thời ấy, những giá trị tốt đẹp

như những viên ngọc lấp lánh ánh sáng, có thể đủ sức soi đường cho thế hệ

sau. Thông qua tập truyện ngắn này chúng ta có thể hình dung ra một Hà Nội

cổ kính và xinh đẹp của những người Tràng An thanh lịch.

Xem xét tác phẩm dưới góc độ văn hóa là một hướng đi đang được

quan tâm trong nghiên cứu văn học, nó gợi mở nhiều vấn đề khác ngoài văn

học và cả trong văn học. Tiếp nhận tác phẩm dưới góc độ văn hóa giúp ta

hình dung sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau giữa văn hóa và văn học. Nghiên

cứu văn học qua lăng kính văn hóa vì thế có những khó khăn riêng của nó,

nhưng khi tìm hiểu theo hướng này người nghiên cứu như được trở về với cội

nguồn thông qua các dấu hiệu ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật, hệ thống nhân

vật và không gian thời gian nghệ thuật, từ đó có thể hình dung được một xã

53

hội đương thời đang chuyển động như thế nào.

Dưới góc độ văn hóa, các truyện ngắn tập hợp trong tác phẩm Hà Nội

trong mắt tôi lấp lánh như những “hạt bụi vàng” tô điểm thêm cho nền văn

học nước nhà, những nhân vật trong tác phẩm dường như đang “sống”, đang

nói lên suy nghĩ và trăn trở của mình về một Hà Nội yêu dấu trước cơn bão

táp của kinh tế. Tập truyện là sự thể hiện niềm cảm phục, sự trân trọng, và cả

niềm tin của tác giả vào những giá trị tinh thần bất biến của con người đất

kinh kì. Và cho dù trong bộn bề của cuộc sống đổi thay chóng mặt, có những

giá trị văn hóa của Hà Nội đang dần mai một, song đất kinh kỳ vẫn còn và sẽ

vẫn giữ mãi bề dày và chiều sâu văn hóa như nó vốn có bởi những con người

Hà Nội như cô Hiền, của bà cụ Mặm, của người nghệ nhân ở làng.... "Những

hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên

54

cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng".

1.

Chu Thị Hảo (2015), Vẻ đẹp văn hóa đất kinh kỳ qua truyện ngắn Một người

Hà Nội, Văn nghệ đất tổ:

http://www.tapchivannghedatto.org.vn/tintuc.aspx?ID=1419

2.

Đoàn Trọng Huy(2015), Nguyễn Khải nhớ về Hà Nội, Hội nhà văn TP Hồ

Chí Minh: http://nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/nguyen-khai-nho-ve-

ha-noi.html

3.

Lê Thị Thanh Kiều (2015), Một số đặc điểm nổi bật về khái niệm văn hóa

của Hồ Chí Minh:

http://truongchinhtridt.edu.vn/wps/portal/tct/!ut/p/c0/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xB

z9CP0os_jQEDc3n1AXEwN_X0dzA0cznzALN2cTIwMLE_2CbEdFALgm58k!/?WC

M_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/TCT/sittct/sitatintucsukien/sitatintongh

op/051015baiwebkieu.

4.

Nguyễn Khải (2002), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.

5.

Nguyễn Khải (1990), Một người Hà Nội, Nxb Hà Nội.

6.

Nguyễn Khải (2001), Hà Nội trong mắt tôi, Nxb Trẻ.

7.

Lênin,(1963) Bút ký triết học, Nxb. Sự thật.

8.

Nguyễn Văn Long, Nguyễn Khải và sự đổi mới quan niệm về con người

trong Một người Hà Nội (2012): http://vannghequandoi.com.vn/Van-hoc-voi-nha-

truong/Nguyen-Khai-va-su-doi-moi-quan-niem-ve-con-nguoi-trong-Mot-nguoi-Ha-

Noi-2913.html.

9.

Nhiều tác giả (1990), Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb. Khoa học xã

hội

10.

Đỗ Hải Phong (2004), Vấn đề nguời kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện đại,

Tự sự học, Nxb ĐHSP Hà Nội.

11.

Trần Thanh Phương (1998), Nguyễn Khải với Hà Nội trong mắt tôi, Phụ san

Văn Nghệ Quân đội: http://vannghequandoi.com.vn/Tu-lieu-VNQD/

12.

Đinh Quang Tốn (2004), Nguyễn Khải với Hà Nội, Nguyễn Khải tác gia tác

phẩm, Nxb Giáo dục.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

13.

Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nguyễn Khải đời người – đời văn, Nguyễn Khải

tác gia tác phẩm, Nxb Gíao dục .

Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục.

14.

Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải, 2014 Nxb Văn hóa - Thông tin.

15.

Trần Mạnh Tường (2012), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin

16.

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử (2015),Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

17.

Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà

18.

Nội.

19.

Trần Quốc Vượng chủ biên (2006), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục.