TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ ======
VŨ THỊ LUYẾN
HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
CÁC GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
HÀ NỘI - 2019
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ ======
VŨ THỊ LUYẾN
HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
CÁC GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. Trần Thị Hồng Loan
HÀ NỘI - 2019
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, em
đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân
thành nhất tới TS. Trần Thị Hồng Loan - người cô đã tận tình chỉ bảo, giúp
đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Chính
trị cùng các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giảng
dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã góp ý,
ủng hộ em hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như
kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô cũng như các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Ngƣời thực hiện
Vũ Thị Luyến
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
TS. Trần Thị Hồng Loan.
Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi và các số liệu trong khóa luận là
trung thực. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Ngƣời thực hiện
Vũ Thị Luyến
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BQLDT&DT: Ban quản lý di tích và di tích
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CN: Công nghiệp
DN: Doanh nghiệp
DSVH: Di sản văn hóa
DTLS: Di tích lịch sử
HTX: Hợp tác xã
KHKT: Khoa học kĩ thuật
NN: Nông nghiệp
PTNT: Phát triển nông thôn
TP: Thành phố
TTCN: Tiểu thủ công nghiệp
TM – DV: Thương mại - dịch vụ
UBND: Ủy ban nhân dân
XD: Xây dựng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ
XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... 7
1.1. Các khái niệm cơ bản ....................................................................................... 7
1.2. Một số giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố
Hà Nội cần được bảo tồn và phát huy................................................................... 21
1.3. Sự cần thiết phải bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền
thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội ...................................................... 25
1.4. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới hoạt động bảo tồn và phát huy các
giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội ......... 31
Chương 2. THỰC TRẠNG MỘT SỐ GIÁ TRỊ CầN ĐƯỢC BẢO TÔN VÀ
PHÁT HUY CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ
XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA
THỰC TRẠNG ......................................................................................................... 37
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm hình thành có sự ảnh
hưởng đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống
ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội ................................................................ 37
2.2. Thực trạng một số giá trị cần được bảo tồn và phát huy của các làng nghề
truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội ........................................... 39
2.3. Nguyên nhân của thực trạng .......................................................................... 49
Chương 3. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ
TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN, ............. 52
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .................................... 52
3.1. Một số nguyên tắc trong việc đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở
huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội ................................................................... 52
3.2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và
phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố
Hà Nội ................................................................................................................... 56
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 71
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, Việt Nam mang trong mình một nền văn hóa
đậm đà bản sắc dân tộc trong đó thấm nhuần nền văn hóa nông nghiệp, nông thôn.
Thực tế lịch sử hình thành và phát triển nông thôn Việt Nam luôn gắn liền với các
làng nghề, ngành nghề truyền thống cùng với các sản phẩm đa dạng của nó tạo nên
sắc thái riêng của nền kinh tế và văn hóa dân tộc. Từ những đặc trưng về kinh tế -
văn hóa - xã hội, tâm lý, tập quán và những điều kiện tự nhiên thuận lợi nên Việt
Nam đã tồn tại hàng trăm làng nghề truyền thống với bề dày lịch sử.
Làng nghề truyền thống là nơi lưu giữ và phát triển tinh hoa văn hóa của dân
tộc với những kĩ năng truyền từ đời này sang đời khác và mỗi làng nghề là một kho
báu trong đó lưu giữ một khối lượng đáng kể những tinh hoa văn hóa của dân tộc,
nhất là tinh hoa văn hóa cổ truyền. Trong đó, việc hình thành, tồn tại và phát triển
các làng nghề truyền thống là một phần không thể thiếu trong tính đa dạng của làng
xã Việt Nam.
Làng nghề luôn mang trong mình hai yếu tố cơ bản là truyền thống văn hóa và
truyền thống nghề nghiệp, hai yếu tố ấy hòa quyện không tách rời nhau đã tạo nên
văn hóa làng nghề. Văn hóa làng nghề là sự kết tinh, hội tụ các tập quán xã hội,
nghi lễ, lễ hội; tri thức dân gian; nghề thủ công truyền thống của cộng đồng, là sắc
thái riêng của từng động cồng, nhóm người ở trong mỗi cộng đồng đó. Phát triển
làng nghề không những tạo động lực trực tiếp giải quyết việc làm, sử dụng hợp lý,
có hiệu quả lao động ở nông thôn mà còn giúp bảo tồn, duy trì, và phát triển được
nhiều ngành nghề truyền thống của dân tộc, tạo điều kiện phát triển đội ngũ nghệ
nhân, thợ giỏi, bảo lưu và giữ gìn văn hóa dân tộc.
Phú Xuyên là vùng đất nổi tiếng với ít nhất 15 làng nghề thủ công truyền
thống (Danh mục di sản văn hóa phi vật thể Hà Nội, 2016) trong đó có các làng
nghề đặc biệt nổi tiếng như: làng nghề mây tre đan xã Phú Túc, làng nghề khảm trai
Chuyên Mỹ, làng nghề sơn mài thôn Bối Khê, Làng nghề may comple veston xã
Vân Từ, Làng nghề Tò he Xuân La, Làng nghề da giầy xã Phú Yên, Làng nghề mộc
1
Đại Nghiệp, Đồng Phố xã Tân Dân, Làng thêu Đại Đồng, Làng nghề bánh kẹo Cổ
Hoàng,… Các làng nghề với những sản phẩm sáng tạo văn hóa độc đáo có từ lâu
đời được trao truyền tồn tại và phát triển cho đến tận ngày nay. Cùng với sự phát
triển của đất nước trong những năm gần đây, các làng nghề truyền thống xưa dần
thay đổi theo hướng mở rộng, phát triển kinh tế, các sản phẩm ngày một nhiều lên
về số lượng, mẫu mã, loại hình. Nhưng tỷ lệ nghịch với sự phát triển kinh tế xã hội
là sự mai một của một số giá trị văn hóa cốt lõi tạo nên văn hóa làng nghề. Nhận
thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn văn hóa làng nghề như là những di sản
văn hóa phi vật thể của làng xã, địa phương và quốc gia, tôi quan tâm đến vấn đề
này và mong muốn được thực hiện đề tài nghiên cứu để qua đó góp phần vào việc
bảo tồn những giá trị văn hóa làng nghề đó. Vì vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài
“Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện
Phú Xuyên, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Xuyên dù đã có lịch sử mấy
trăm năm thế nhưng phải thừa nhận rằng, mức độ quan tâm của các nhà chuyên
môn cũng như sự đầu tư cho việc nghiên cứu để có thể đưa ra những công trình và
những đầu sách mang tính chuyên sâu hay giáo trình giảng dạy thì hầu như chưa có,
nếu có thì chỉ là những bài viết lẻ tẻ mang tính giới thiệu và quảng bá về nghề và
làng nghề mà không hề có một hệ thống nhất định nào. Tuy nhiên mấy năm trở lại
đây đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu hơn về làng
nghề thủ công truyền thống như: Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội (2000)
của tác giả Trần Quốc Vượng và Đỗ Thị Hảo đã đề cập đến các vấn đề liên quan
của làng nghề thủ công, vị trí làng nghề trong diễn trình lịch sử Việt Nam và một số
quan điểm phát triển làng nghề mới trong đó có nghề mây tre đan như sau:
+ Duy trì hình thức sản xuất theo hộ gia đình vẫn là phương thức hiệu quả
nhất với nghề thủ công mây tre đan nói riêng và nghề thủ công nói chung.
+ Tác giả nêu ra một loạt khó khăn cho các làng nghề trong đó có mây tre đan.
2
+ Hoàn thiện thể chế chính sách, tạo lập môi trường cho nghề thủ công phát
triển là vấn đề cấp bách cần thực hiện sớm. Thúc đẩy du lịch làng nghề, khôi phục
phát triển các giá trị làng nghề trong đó có mây tre đan. Đưa ra các giải pháp đi đôi
với bảo vệ môi trường như vấn đề xử lý rác thải…[28]
Cuốn“Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá”của tác giả Mai Thế Hởn, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 2003 chú
tâm nghiên cứu về làng nghề truyền thống trước thách thức phát triển nhanh chóng
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.[11]
Trên Tạp chí Di sản văn hoá số 4 (2003) tác giả Lê Thị Minh Lý có bài viết
“Làng nghề và việc bảo tồn các giá trị văn hoá phi vật thể”ở đó tác giả đã nêu lên
được tầm quan trọng trong việc gìn giữ và bảo tồn các giá trị văn hoá vốn là di sản
của dân tộc, như việc lưu truyền bí quyết nghề nghiệp trong phạm vi làng xã hay
những giá trị tinh thần đậm nét được phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng… Những
tư liệu viết về văn hoá làng nghề nhìn chung rất đa dạng và phong phú qua đó thấy
được bức tranh toàn cảnh về lịch sử cũng như tình hình các làng nghề truyền thống
ở nước ta hiện nay. Ngoài những công trình nghiên cứu có tính chất thống kê, khái
quát về các ngành nghề thủ công thì đã có những khuyên khảo viết về một làng
nghề cụ thể như Quê gốm Bát Tràng; làng Đại Bái gò đồng của tác giả Đỗ Thị Hảo.
hai chuyên khảo này đã viết khá toàn diện từ phong tục tập quán tín ngưỡng thờ tổ
nghề, lễ hội làng nghề đến diện mạo cảnh quan làng nghề, quy trình sản xuất và đặc
trưng sản phẩm của làng nghề.[15, tr 68-71]
Năm 2013, Tạp chí Doanh nghiệp và thương mại online có đăng bài “Đến với
nghề mây tre đan Lưu Thượng xã Phú Túc”của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan
[13,tr33-38]. Với cách tiếp cận văn hoá, tác giả bài viết đã đề cập đến một số vấn đề
cơ bản của nghệ thuật tạo ra sản phẩm mây tre. Trong đó tác giả đi sâu nghiên cứu
và tìm hiểu để thấy được người dân tại đây đã biết sáng tạo ra những sản phẩm độc
đáo từ nguyên liệu thô sơ như cỏ mọc hoang, rồi qua quá trình phát triển họ đã biết
kết hợp nhiều nguyên liệu khác như: sợi cói, bèo tây, mây, tre, giang… Trên Tạp
chí của Bộ xây dựng (2010) có bài viết “Đặc sắc làng nghề mây tre đan ở Hà
Nội”trong đó có viết về làng nghề mây tre đan Phú Túc những năm gần đây việc
3
xuất khẩu sản phẩm ra thị trường quốc tế đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Hơn
nữa làng nghề còn là nơi thu hút số lượng lao động lớn và có vai trò quan trọng
trong việc giữ gìn nét văn hoá truyền thống để từ đó có tiền đề phát triển thành điểm
du lịch văn hoá làng nghề.[13]
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều chú trọng đến nghề và làng
nghề thủ công truyền thống Việt Nam, chứ chưa có công trình chuyên khảo nào
nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, giá trị di sản của các làng
nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Xuyên. Tuy nhiên những công trình
nghiên cứu nêu trên là cơ sở nền tảng, tư liệu quan trọng không chỉ giúp tôi định
hướng mà còn có thể kế thừa, tiếp thu trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề
tài. Thông qua nghiên cứu chuyên sâu về đề tài tôi hy vọng góp một phần nào đó
vào công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá cho sản phẩm thủ công truyền
thống mang nhiều công sức và tâm huyết của người dân nơi đây trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng các giá trị của làng nghề truyền
thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, đề xuất một số biện pháp chủ yếu
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở địa phương này
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nội dung khóa luận cần thực hiện
những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Một là, nghiên cứu lý luận về bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề
truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
Hai là, nghiên cứu thực trạng các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện
Phú Xuyên, thành phố Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của thực trạng.
Ba là, đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị
của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay.
4
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bảo tồn và phát huy các giá trị của làng
nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu các giá trị văn hóa, giá trị lịch
sử và giá trị kinh tế của một số làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành
phố Hà Nội.
- Phạm vi không gian: Địa bàn khảo sát ở một số làng nghề truyền thống,
huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2011 đến năm 2018.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp điền dã, khảo sát thực tế: khảo sát cảnh quan một số làng nghề,
lễ hội làng nghề, các sản phẩm đặc trưng, các cơ sở sản xuất,…
Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn cán bộ huyện Phú Xuyên và các nghệ
nhân, thợ nghề, học viên, khách tham quan,… để tìm hiểu thông tin, số liệu liên
quan đến thực trạng các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên,
thành phố Hà Nội.
Phương pháp lôgic - lịch sử và phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh,…: từ
các nguồn ấn phẩm, sách báo, tạp chí, khoá luận,… phân tích tổng hợp để lấy các
thông tin cần thiết kết hợp với kết quả điền dã từ đó hình thành đề mục viết luận văn.
7. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận nhằm làm rõ sự vận dụng quan điểm toàn diện trong công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên, Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề xuất những biện pháp nhằm khắc phục những
thiếu sót trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị tại các làng nghề Phú Xuyên.
Ngoài ra, khóa luận còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học
tập của sinh viên Khoa Giáo dục chính trị và các khoa, ngành có liên quan.
8. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Khoá luận bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về bảo tồn và phát huy các giá trị
5
của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng một số giá trị cần được bảo tồn và phát huy của các
làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội hiện nay và nguyên
nhân của thực trạng
Chương 3: Một số nguyên tắc và biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú
Xuyên, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC
GIÁ TRỊ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm Bảo tồn
* Bảo tồn nguyên vẹn
Trước đây đã từng có quan niệm bảo tồn nguyên vẹn, bảo tồn văn hóa được
hiểu là các nỗ lực nhằm bảo vệ, gìn giữ sản phẩm văn hóa (vốn được chắt lọc,
chưng cất, được thử thách qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử) và không gian tồn
tại của nó theo dạng thức vốn có. Nghĩa là, những sản phẩm của quá khứ nên được
bảo vệ một cách nguyên vẹn như nó vốn có, cố gắng phục hồi nguyên gốc các di
sản văn hóa vật chất và tinh thần cũng như cố gắng cách ly di sản khỏi môi trường
xã hội đương đại. Song vấn đề đặt ra, văn hóa luôn gắn bó với đời sống con người,
với môi trường xã hội trong sự vận động của nó, nhất là di sản văn hóa phi vật thể.
Chính vì vậy mà quan điểm bảo tồn nguyên vẹn sẽ không phải là cách tiếp cận của
trường hợp nghiên cứu này.
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Liêm có bài viết “Bảo tồn và phát huy” hay “kế thừa
và phát triển” văn hoá dân tộc trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” được
in trong cuốn kỷ yếu hội thảo 60 năm đề cương văn hoá Việt Nam (1943-2013) có
nêu ra quan điểm: “Bảo tồn” là giữ lại, không để bị mất đi, không thể bị thay đổi,
biến hoá hay biến thái…Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, không có khái
niệm “cải biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển”. Hơn nữa, khi nói đối tượng bảo tồn
“phải được nhìn là tinh hoa”, chúng ta đã khẳng định giá trị đích thực và khả năng
tồn tại theo thời gian, dưới nhiều thể trạng và hình thức khác nhau của đối tượng
được bảo tồn”.[13, tr.269].
* Bảo tồn trên cơ sở kế thừa
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa những giá trị độc đáo của quá khứ dường như là
một xu thế khá phổ biến trong giới học giả hiện nay khi bàn đến giá di sản văn hoá
7
nói chung và quản lý di sản văn hoá nói riêng. Quan điểm này dựa trên cơ sở mỗi di
sản văn hoá cần phải thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình ở một thời gian và không
gian cụ thể. Khi giá trị di sản văn hoá ấy tồn tại ở không gian và thời gian hiện tại,
di sản văn hoá ấy cần phát huy giá trị văn hoá - xã hội phù hợp với xã hội hiện nay
và phải loại bỏ đi những gì không phù hợp với xã hội ấy.
Tuy nhiên khi bàn về quan điểm này, nhà nghiên cứu văn hóa Ashworth đã
nêu ra những đặc điểm cơ bản của bảo tồn trên cơ sở kế thừa như sau: Không chỉ
những đồ tạo tác hay những toà nhà mà cả các bộ sưu tập và các di sản khác cũng
được bảo tồn dựa vào kế thừa; Các tiêu chí lựa chọn không phụ thuộc vào bản chất
bên trong của di sản mà còn phụ thuộc vào những yếu tố nằm bên ngoài, không
thuộc về bản chất của di sản; Bảo tồn trên quan điểm kế thừa quan tâm không chỉ
đến hình thức mà còn quan tâm đến cả các chức năng của di sản. [1, tr.176-177]
* Ngoài hai quan điểm phổ biến trên, trong quan điểm về bảo tồn còn có
Quan điểm bảo tồn để phát triển
“Những người theo quan điểm này không bận tâm tới việc tranh cãi nên bảo
tồn y nguyên như thế nào, nên kế thừa cái gì từ quá khứ, mà đặt trọng tâm vào việc
làm thế nào để di sản sống và phát huy được tác dụng trong bối cảnh đương đại.
Nếu như quan điểm truyền thống cho rằng độ chân thực (hay tính xác thực) của di
sản là cốt lõi của di sản và phải làm thế nào đề đảm bảo kế thừa được sự chân thực
đó, thì quan điểm bảo tồn phát triển lại đánh giá thấp vai trò của tính chân thực này.
Người ta cho rằng chân thực hay không không phải là một giá trị khách quan, mà nó
được đo bằng trải nghiệm. Theo quan điểm này, đối với việc bảo tồn các giá trị làng
nghề truyền thống không có mục đích nào được coi là duy nhất, là tốt thượng, là
hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp”.
Từ các giá trị văn hóa truyền thống mang tính đa nghĩa, nhiều mục đích và
không ổn định theo thời gian. Đây chính là cách bảo tồn trong phát triển mà một số
nhà hoạt động văn hóa đã thực hiện đối với một số loại hình di sản phi vật thể như
tổ chức lễ hội như một sự kiện văn hóa, khai thác các diễn xướng dân gian, tổ chức
các Festival văn hóa. Ta thấy điểm mạnh của mô hình này là tạo nên sức hấp dẫn
8
đối với công chúng đương đại, tạo nên tính sinh động, độc đáo của di sản, tiếp thêm
nguồn sinh khí cho di sản. Tuy nhiên, mặt trái của nó là dễ sa vào tình trạng sân
khấu hóa, thương mại hóa di sản dẫn đến tình trạng tầm thường hóa, thậm chí giải
thiêng hóa di sản như đã từng xảy ra đối với trình diễn cồng chiêng Tây Nguyên,
trình diễn nhạc cung đình Huế, trình diễn ca trù… phục vụ khách du lịch.
1.1.2. Khái niệm Phát huy
Phát huy trên cơ sở sàng lọc, duy trì và làm phong phú thêm những nét đẹp
văn hóa vốn có. Phát huy giá trị văn hóa là những hành động hướng đích nhằm đưa
sản phẩm văn hóa vào trong thực tiễn xã hội, trở thành tiềm năng và nội lực góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh
thần cho con người.
Phát huy giá trị văn hóa - đó là những hành động hướng đích nhằm đưa giá trị
văn hóa vào trong thực tiễn xã hội với tư cách vừa là môi trường an toàn để bảo tồn
và làm giàu các giá trị văn hóa, vừa là năng lực nội sinh và tiềm năng mang lại
những lợi ích về vật chất và tinh thần cho con người, góp phần thúc đẩy sự phát
triển xã hội.
Phát huy các giá trị di sản văn hóa phải biết kế thừa có chọn lọc những tinh
hoa văn hóa của đời trước để lại, làm cho các giá trị của di sản văn hóa thấm sâu,
lan tỏa vào đời sống cộng đồng xã hội.
“Xét về bản chất, mỗi di tích hay mọi sinh hoạt nghệ thuật, lễ hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, phong tục tập quán, lối sống nếp sống, hoặc các tri thức dân gian về ngành
nghề thủ công, y học, ẩm thực,... tất cả đều là những giá trị tồn tại dưới những dạng
vật chất cụ thể ẩn chứa phía sau những hoạt động hoặc kết quả của các hoạt động
tinh thần của con người trong mọi mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính
bản thân mình”. Những giá trị ấy chính là cái “hồn”, một nơi thể hiện rõ nhất những
thành tựu, trình độ và bản sắc văn hóa của một cộng đồng tại một không gian và ở
một thời gian nhất định. Từ những tích lũy trong quá khứ, qua trường kỳ lịch sử các
giá trị đó có thể trở thành một bộ phận quan trọng hợp thành vốn di sản văn hóa quý
báu của dân tộc và có thể là của cả nhân loại. Vì vậy, phát huy các giá trị di sản văn
9
hóa phải biết kế thừa có chọn lọc phần “hồn”ấy, sáng tạo thêm, làm cho nó thấm
sâu, lan tỏa vào đời sống cộng đồng để cộng đồng nhận diện được giá trị, biết trân
trọng những giá trị ấy và tránh có cái nhìn phiến diện và khơi lòng tự hào để chung
tay vào bảo tồn di sản văn hóa của địa phương, của dân tộc và của cả nhân loại.
Phát huy giá trị di sản văn hóa là để phát triển kinh tế và phát huy là phải biết
kế thừa những tinh hoa của đời trước để lại. Những giá trị đó chính là sự đúc kết
kinh nghiệm từ thực tiễn, nếu chúng phù hợp với thời đại mới thì cần được phát
huy, nếu chúng lạc hậu, lỗi thời thì phải bỏ đi, đồng thời phải biết sáng tạo thêm
những cái mới trên nền tảng những cái truyền thống để vừa làm giàu thêm bản sắc
văn hóa, góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cư dân đương đại đồng
thời cũng là cơ hội để tạo ra thêm nhiều sản phẩm du lịch đặc trưng giúp phát triển
kinh tế bền vững cho địa phương.
Phát huy các giá trị văn hóa làng nghề truyền thống phải biết mở rộng giao lưu
văn hóa để làm giàu thêm bản sắc văn hóa và làm thăng hoa giá trị văn hóa trong
bối cảnh toàn cầu hóa.
Lịch sử xưa và nay không có nền văn hóa nào tự thân phát triển bằng sự “đóng
kín”mà muốn phát triển phải luôn được bồi đắp bởi nhiều nền văn hóa khác. Do đó,
việc giao lưu, mở rộng văn hóa để làm giàu thêm bản sắc văn hóa, đồng thời làm
thăng hoa và lan tỏa văn hóa của mình đến khắp nơi luôn là khuynh hướng của mọi
cộng đồng, mọi dân tộc, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Tuy
nhiên, giao lưu, tiếp nhận những luồng văn hóa khác là cần thiết nhưng tiếp nhận
những cái gì và biến đổi như thế nào để không đánh mất đi giá trị văn hóa của địa
phương là việc không dễ dàng.
Trong truyền thống làng nghề ở huyện Phú Xuyên các giá trị văn hóa làng
nghề luôn có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa được thể hiện rất rõ nét. Các nền văn
hóa Trung Hoa, Chămpa, phương Tây đã từng hội tụ tại các làng nghề Phú Xuyên,
nhưng chúng không áp đặt đến văn hóa làng nghề truyền thống của người dân Phú
Xuyên, nó được biến đổi và hòa cùng vào văn hóa của người dân nơi đây, tạo thành
một văn hóa làng nghề đặc trưng riêng biệt cho huyện Phú Xuyên. Tuy nhiên, trong
10
quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá làng nghề truyền thống ở huyện
Phú Xuyên cần phải làm cho văn hoá các làng nghề trong huyện thăng hoa hơn nữa
trong nền văn hoá dân tộc và lan toả ra thế giới.
Xung quanh vấn đề phát huy di sản văn hoá phi vật thể cũng đặt ra nhiều vấn
đề. Song điều quan trọng hơn cả đối với việc phát huy những di sản văn hoá phi vật
thể nói chung và giá trị văn hoá làng nghề nói riêng là làm sao khơi dậy được ý thức
của cộng đồng, niềm tự hào của cộng đồng về di sản văn hoá phi vật thể, để di sản
văn hoá ấy sống trong cộng đồng đúng như bản chất của nó. Trong công tác phát
huy, vấn đề luôn được đặt ra đó là truyền dạy, tuyên truyền, giáo dục trong cộng
đồng, nhất là thế hệ trẻ có những hiểu biết về làng nghề với những giá trị văn hoá
truyền thống của nó. Chính đây là cây cầu để chúng ta đưa những giá trị văn hoá
làng nghề với cộng đồng và hơn thế cộng đồng chính là môi trường không chỉ sản
sinh ra văn hoá làng nghề, mà còn là nơi tốt nhất bảo tồn, làm giàu thêm và phát
huy nó trong đời sống xã hội.
1.1.3. Khái niệm Giá trị
Giá trị trước hết là một một phạm trù triết học, chỉ sự đánh giá những thành
quả lao động sáng tạo vật chất và tinh thần của con người. Nó có tác dụng định
hướng, đánh giá và điều chỉnh các hoạt động của xã hội nhằm vươn tới cái đúng, cái
tốt, cái đẹp, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Thuật ngữ “Giá trị”(values) có thể quy chiếu vào những mối quan tâm
(interests), những thích thú (duties) trách nhiệm tinh thần (moral obligations),
những ước muốn (desires), những đòi hỏi (wants), những nhu cầu(needs), những ác
cảm (aversions), những lôi cuốn (attractions) và nhiều hình thái khác nữa của định
hướng lựa chọn (Pepper, 1958, tr.7). Nói cách khác giá trị có mặt trong thế giới
rộng lớn và đa dạng của hành vi lựa chọn, hoàn toàn có thể cho rằng hành vi theo
phản xạ không biểu hiện các giá trị hay sự đánh giá: từ cái nháy mắt bất thần tới cái
phản xạ bánh chè hay bất cứ quá trình sinh hóa nào trong cơ thể con người, đều
không tạo ra hành vi giá trị. Tuy nhiên, bất kỳ định nghĩa mô tả nào cũng có thể xác
định đầy đủ phạm vi và tính đa dạng của những hiện tượng giá trị được thừa nhận.
11
Một khái niệm giá trị có nội hàm rộng, có thuận lợi là hướng sự chú ý vào
những yếu tố giá trị có thể có trong mọi hành vi, tránh những yếu tố tự động hay
bản năng nghiêm trọng nhất. Một định nghĩa hẹp có ưu điểm là giản đơn và xác
định, nhưng có thể dẫn đến sai lầm nếu những hiện tượng bị gạt bỏ không được xem
xét thông qua những khái niệm có liên hệ chặt chẽ với ý niệm “giá trị”.
Một trong những định nghĩa được chấp nhận rộng rãi hơn trong các tài liệu
khoa học xã hội là coi giá trị như những quan niệm về cái đáng mong muốn
(desirable) ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Trong định nghĩa hẹp này có sự phân
biệt giữa cái được mong muốn và cái đáng mong muốn, chúng được xem như ngang
hàng với cái mà chúng ta phải mong muốn. Đây là một cách nhìn giá trị đã được xã
hội hóa cao, nó loại trừ, chẳng hạn, những giá trị thuần túy mang tính hưởng lạc.
Trong cách nhìn rộng hơn, thì bất cứ cái gì tốt hay xấu đều là giá trị hay giá trị
là điều quan tâm của một chủ thể là con người. Dường như mọi giá trị đều chứa
đựng một số yếu tố nhận thức (mặc dù một số định nghĩa không hàm chứa điều
này), chúng có tính chất lựa chọn hay hướng dẫn và chúng bao gồm một số yếu tố
tình cảm. Các giá trị được sử dụng như là những tiêu chuẩn cho sự chọn lựa khi
hành động. Khi đã được nhận thức một cách công khai và đầy đủ nhất, các giá trị
trở thành những tiêu chuẩn cho sự phán xét, sự ưa thích và lựa chọn.
Bản chất và ý nghĩa bao quát của giá trị là tính nhân văn. Chức năng cơ bản nhất
của giá trị là định hướng, đánh giá và điều chỉnh các hoạt động của cá nhân và cộng
đồng. Giá trị gắn liền với nhu cầu con người. Ta thấy nhu cầu của con người rất phong
phú, đa dạng và được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chính nhu cầu là động
cơ thúc đẩy mạnh mẽ hành động của con người, giúp con người tạo nên những giá trị
vật chất và tinh thần to lớn. Đó là phẩm chất cơ bản cần phải có để đảm bảo con đường
sống, chỉ đạo mọi hoàn cảnh thực tiễn. Có những giá trị có thể định lượng bởi một giá,
nhưng cũng có những giá trị không thể định giá - vô giá: lòng yêu nước, tình yêu tình
bạn, các tác phẩm nghệ thuật, ... Những hành động của con người vì nhu cầu và thỏa
mãn nhu cầu trong quá trình tồn tại của mình ẩn chứa các giá trị văn hóa.
Giá trị văn hóa là sự đánh giá mang tính cộng đồng đối với những hiện tượng,
sản phẩm văn hóa do con người tạo ra trong bối cảnh xã hội nhất định. Những giá
12
trị đó được coi là tốt đẹp, là có ích, đáp ứng nhu cầu của con người trong mọi thời
đại. Một khi những giá trị đó hình thành và được định hình thì nó có tác dụng chi
phối những nhận thức, quan niệm, hành vi, tình cảm của con người trong mỗi cộng
đồng ấy. Giá trị văn hóa về thực chất là sự khẳng định của con người đối với sự tồn
tại vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội, quan hệ, trật tự của mình, hành vi,
thái độ của mình, khích lệ con người sống và phát triển theo thang giá trị mà cộng
đồng xã hội tôn vinh.
Bên cạnh những giá trị tổng quát (yêu nước, cộng đồng, cần cù, hiếu học, gắn
bó huyết thống và làng bản) còn tồn tại giá trị bộ phận. Giá trị này được thể hiện
trong từng lĩnh vực hoạt động của con người như: trong khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên, trong ăn uống, đi lại, phong tục tập quán, lễ hội… Những giá trị bộ
phận không phải là những thực thể riêng biệt mà chúng góp phần chung đúc nên các
giá trị văn hóa tổng quát và ngược lại.
1.1.4. Khái niệm Làng nghề
Quan điểm thứ nhất: theo giáo sư Trần Quốc Vượng có viết thì “làng nghề là
một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một
số nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm tương... song đã nổi trội một nghề cổ
truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên
nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả... cùng một số thợ và phó
nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”,
“nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Làng nghề sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất
ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành
sản phẩm mặt hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung
quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra
cả nước ngoài”(kỷ yếu hội thảo quốc tế “bảo tồn và phát triển làng nghề truyền
thống việt nam”tháng 8/1996. [27, tr.38-39].
Quan điểm thứ hai: “Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn,
được cấu thành bởi hai yếu tố là làng và nghề, làng nghề đó tồn tại trong một không
gian nhất định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là
chủ yếu, giữa họ có những mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa”.
13
Quan điểm thứ ba: “Làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần được tồn
tại cố định về mặt địa lý, ổn định về nghề nghiệp hay một nhóm các nghề có mối
liên hệ mật thiết với nhau để làm ra một sản phẩm, có bề dày lịch sử và được tồn tại
lưu truyền trong dân gian”.
Về mặt pháp lý, tại Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính
phủ quy đinh, theo đó có thể hiểu: Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp
thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn
một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều
loại sản phẩm khác nhau.
Tác giả Lưu Tuyết Vân trong bài viết “Một số vấn đề về làng nghề ở nước ta
hiện nay” đã nêu ra quan niệm về làng nghề như sau:
Làng nghề là một làng có nghề tiểu thủ công đã từng tồn tại trong lịch sử hoặc
một thời gian nhất định, có sản phẩm hàng hoá nổi tiếng hoặc có khối lượng hàng
hoá lớn có vai trò nhất định đối với thị trường trong nước và quốc tế, có số đông
người trong làng cùng làm một hoặc nhiều nghề, dân làng sống chủ yếu bằng các
nghề đó. Còn các làng nghề truyền thống trước hết phải là một làng nghề, nhưng
phải có lịch sử tồn tại lâu dài, đến nay vẫn sản xuất một hoặc nhiều mặt hàng có giá
trị trên thị trường trong nước và quốc tế.
Khi bàn về làng nghề tác giả đã quan tâm đến ba đặc điểm cơ bản của làng nghề:
1/ Sản phẩm và việc tiêu dùng sản phẩm của làng nghề tại thị trường trong
nước và quốc tế.
2/ Số lượng những người tham gia làm nghề so với tỷ trọng số lượng người
dân trong làng.
3/ Làng có lịch sử hình thành và tồn tại lâu dài.
Khi bàn về làng nghề truyền thống, tác giả nhấn mạnh hai vấn đề chính, thứ
nhất là lịch sử tồn tại lâu đời, thứ hai là về sản phẩm nổi tiếng trên thị trường trong
nước và quốc tế.” [24, tr.64].
Theo tác giả Phạm Côn Sơn có viết trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt
Nam”thì làng nghề theo ông được định nghĩa như sau: “Làng nghề là một đơn vị
14
hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ
chức, kỉ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng và làng nghề không những là làng
sống chuyên nghề mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần để phát
triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể,
vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa phương”
[20, tr11]. Tác giả Trương Minh Hằng đưa ra quan niệm của mình về làng nghề
như sau: “Làng nghề gắn liền với các vùng nông nghiệp và người nông dân làm
nghề thủ công để giải quyết hợp lý sức lao động dư thừa được cơ cấu theo đặc trưng
nông nghiệp là mùa vụ… một làng có nghề, đời sống của người dân ổn định và
được nâng cao so với các làng thuần nông. Nghề thủ công từ vị trí chỉ là nghề phụ
được tổ chức và thực thi vào những khi nông nhàn, rồi về sau nhiều nghề trở thành
nguồn thu nhập chính của làng… Ở một góc độ nào đó, làng nghề còn mang tính
chất của một làng buôn” [9, tr.20-21].
Theo quan niệm trên cần quan tâm đến một số vấn đề cơ bản như sau: người
dân trong làng nghề có đời sống ổn định và phần nào được nâng cao hơn so với các
làng thuần nông. Nghề thủ công trong lịch sử có thể từ vị trí chỉ là nghề phụ, sau đó
trở thành nguồn thu nhập chính của làng. Làng nghề còn mang tính chất là một làng
buôn. Nhận định này xuất phát từ thực tiễn khách quan, bởi trên thực tế người dân
làng nghề sẽ phải mua các nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng hoá và tổ chức tiêu
thụ sản phẩm ở các thị trường trong vùng phụ cận của làng nghề. Chính đây là đặc
trưng để tạo điều kiện cho làng nghề mở rộng ra bên ngoài thị trường.
1.1.5. Khái niệm Truyền thống
Truyền thống là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm… chia
sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết
lẫn nhau, để tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển
của cá nhân, của nhóm, của cộng đồng xã hội. Truyền thống là quá trình chia sẻ,
trao đổi hai chiều, diễn ra liên tục giữa chủ thể truyền thống và đối tượng truyền
thống và quá trình chia sẻ, trao đổi hai chiều ấy có thể được hình dung qua nguyên
tắc bình thông nhau.
15
Truyền thống đó là những tập tục, thói quen và nói chung là những kinh
nghiệm xã hội được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ của con người,
được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác và có nhiều cấp độ khác nhau. Có
truyền thống gia đình, truyền thống của từng địa phương, đơn vị, truyền thống cách
mạng, truyền thống dân tộc. Nguyên tắc chung của việc giữ gìn và phát huy truyền
thống là phải bảo đảm sự kế thừa biện chứng với 4 nội dung:
+ “Một là, loại bỏ những yếu tố tiêu cực, phản tiến bộ của quá khứ “(tập tục
lạc hậu, tàn dư tư tưởng phong kiến, tâm lý sản xuất nhỏ...).
+ “Hai là, giữ lại những yếu tố tích cực, tiến bộ” (tinh thần yêu nước, lao động
cần cù sáng tạo, tinh thần nhân đạo cao cả...).
+ “Ba là, ngay cả các yếu tố tích cực, tiến bộ đó cũng không giữ lại nguyên xi,
mà phải được cải biến cho phù hợp với điều kiện mới, hoàn cảnh mới”.
+ “Bốn là, các thế hệ mới phải sáng tạo ra những yếu tố hoàn toàn mới mà các
thế hệ cha anh hoặc không có khả năng, hoặc không có điều kiện để thực hiện”.
1.1.6. Khái niệm Làng nghề truyền thống
Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18 tháng 2 năm 2006 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, trang 108 quy định rõ tiêu chí, thủ tục về việc công
nhận làng nghề truyền thống, làng nghề, nghề truyền thống:
1. Có tối thiểu 30% số hộ hoặc 50% số lao động làm nghề trong huyện.
2. Có tỷ trọng sản xuất từ ngành nghề công nghiệp, xây dựng, tiểu thủ công nghiệp
tối thiệu 50% tổng giá trị sản xuất của làng trong năm.
3. Hoạt động kinh doanh ổn định, tối thiểu 02 năm liền tính đến thời điểm công nhận.
4. Chấp hành đúng đắn các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của nhà nước, các quy định của chính quyền địa phương.
5. Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống: làng nghề truyền thống phải đạt các
tiêu chí công nhận làng nghề theo quy định và có tối thiểu 30% số hộ hoặc 50% số
lao động làm nghề truyền thống.[5, tr.108]
Tác giả Bùi Văn Vượng cho rằng: “Làng nghề truyền thống là làng cổ truyền
làm nghề thủ công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ
16
công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời làm nghề nông
(nôngdân). Nhưng yêu cầu chuyên môn hoá đã tạo thành những thợ chuyên sản xuất
hàng truyền thống ngay tại làng của mình.”[25, tr.23]. Theo tác giả làng nghề truyền
thống phải là một làng có truyền thống lịch sử lâu đời (có thể từ trước năm 1945),
có nhiều thợ giỏi và chính họ vừa làm nghề, lại vừa tham gia sản xuất nông nghiệp.
Nhưng sản phẩm của những người thợ giỏi đã tạo nên bản sắc của làng nghề nổi
tiếng trong và ngoài nước.
Nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng cho rằng: “Làng nghề là làng ấy, tuy có
trồng trọt theo lối thủ công và chăn nuôi (gà, lợn, trâu..) làm một số nghề phụ khác
(thêu, đan lát..) song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ
thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có ông trùm, ông phó cả cùng một
số thợ và phó thợ đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử
ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra
những hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản
phẩm hàng hoá và có quan hệ tiếp thị với thị trường là vùng mở rộng xung quanh
với thị trường đô thị, thủ đô và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra
nước ngoài” [29, tr101].
Ta thấy các làng nghề thủ công truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ
công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính lâu
đời, được truyền đi truyền lại qua các thế hệ, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất,
cũng như bán sản phẩm theo kiểu phường hội, hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ,
thậm chí là bán lẻ, họ có cùng tổ nghề, các thành viên luôn có ý thức tuân theo
những hương ước, chế độ, gia tộc, cùng phường nghề trong quá trình lịch sử phát
triển đã hình thành nghề ngay trên đơn vị cư trú trong xóm của họ.
Làng nghề thủ công truyền thống thường có đại đa số hoặc số lượng lớn dân
cư làm nghề cổ truyền, thậm chí là 100% dân cư làm nghề thủ công hoặc một vài
dòng họ chuyên làm nghề lâu đời, kiểu cha truyền con nối. Tuy nhiên sản phẩm của
họ không những ứng dụng cao mà còn là sản phẩm độc đáo, ấn tượng, tinh xảo.
17
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ngày nay. Làng nghề thực sự là đơn
vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp có vai trò tác động tích cực rất lớn đến đời sống kinh
tế của người dân.
1.1.7. Khái niệm Giá trị của làng nghề truyền thống
Giá trị làng nghề truyền thống là sự đánh giá mang tính cộng đồng đối với
những hiện tượng, sản phẩm văn hóa do con người tạo ra trong bối cảnh xã hội nhất
định. Những giá trị đó được coi là tốt đẹp, là có ích, đáp ứng nhu cầu của con người
trong mọi thời đại. Một khi những giá trị đó hình thành và được định hình thì nó có
tác dụng chi phối những nhận thức, quan niệm, hành vi, tình cảm của con người
trong mỗi cộng đồng ấy.
Giá trị làng nghề truyền thống về thực chất là sự khẳng định của con người đối
với sự tồn tại vật chất và tinh thần trong đời sống xã hội, quan hệ, trật tự của mình,
hành vi, thái độ của mình, khích lệ con người sống và phát triển theo thang giá trị
mà cộng đồng xã hội tôn vinh.
Giá trị làng nghề truyền thống bao gồm những giá trị về kinh tế, lịch sử và văn
hóa- xã hội.
Nước ta với một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, do đặc thù hoạt động theo
mùa vụ nên đã tạo ra khoảng thời gian nông nhàn cho những người nông dân. Do
nhu cầu sinh hoạt hàng ngày cần có các vật dụng cho nên những người nông dân đã
sử dụng thời gian nông nhàn của mình để làm ra các sản phẩm. Lúc đầu nó chỉ
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của chính bản thân họ. Sau đó, nó được đem đi
trao đổi, buôn bán. Dần dần, hoạt động trao đổi tăng và có nhiều trường hợp đưa lại
nguồn lợi nhiều hơn so với nghề làm nông nghiệp. Việc sản xuất những sản phẩm
dần được phát triển và chuyên môn hóa. Xuất hiện những làng có thu nhập từ nghề
thủ công chiếm tỷ trọng cao hơn nghề nông nghiệp. Thông qua đó thu nhập của
những người nông dân ở địa phương đồng thời là thợ thủ công của những làng này
trội hơn của những người nông dân ở những làng thuần nông. Tuy nhiên, không
phải vì vậy mà người thợ thủ công thoát ly khỏi nghề làm nông nghiệp. Những sản
phẩm nông nghiệp luôn là sự đảm bảo, ổn định cần thiết cho họ.
18
Từ sự tăng trưởng kinh tế làng nghề đã tạo điều kiện cho cộng đồng cư dân có
điều kiện xây dựng những công trình tín ngưỡng, tôn giáo quy mô lớn, có giá trị
nghệ thuật cao và trong các làng nghề, cùng với việc hình thành đội ngũ thợ thủ
công sản xuất tại chỗ cũng xuất hiện những nhóm người đi ra ngoài buôn bán và
hành nghề ở xa. Đã hình thành nên những hội, phường buôn. Cho dù buôn đâu, bán
đâu, những người này vẫn có những mối liên hệ chặt chẽ với những người làng. Họ
xây những nơi thờ vọng Tổ nghề ngay tại nơi sinh sống, buôn bán hàng ngày và bên
cạnh đó, họ cũng đóng góp nhiều cho việc xây dựng các công trình công cộng, hỗ
trợ tổ chức các hoạt động cộng đồng tại làng. Những lễ hội được tổ chức rầm rộ
hơn, dài ngày hơn, nhiều hoạt động hơn. Các sinh hoạt mang tính cộng đồng đa
dạng và phong phú này không chỉ thắt chặt mối quan hệ giữa dân làng với những
người đi buôn, bán ở xa mà còn giúp cho người dân trong làng liên kết chặt chẽ
hơn. Ngoài đặc trưng chung của làng là nơi cộng cảm, cộng cư, trong làng nghề thủ
công truyền thống còn là nơi cộng nghề (nơi của những người cùng làm chung
nghề). Những người thợ thủ công liên kết với nhau qua các phường, hội. Họ liên kết
lại, ngoài việc cùng chia sẻ các công việc liên quan đến nghề thì đó cũng là một sự
hợp lực quan trọng, cần thiết và hữu ích để tạo nên sức mạnh chung của làng nghề.
Các tổ chức này cũng chính là nơi để giải quyết những mối bất hòa, xung đột trong
quá trình cùng làm nghề, buôn bán. Việc hình thành các tổ chức như phường hội
cũng góp phần vào việc củng cố, ổn định các mối quan hệ làng xã góp phần vào
việc tạo ra sức mạnh tập thể. Đó là tiền đề quan trọng để các thành viên dễ ràng giải
quyết những vấn đề tập thể có liên quan tới lợi ích của cả cộng đồng, từng hộ kinh
tế gia đình và các thành viên.
Văn hóa làng nghề chính là hệ thống những giá trị hình thành qua bao đời
trong toàn bộ các hoạt động đó, và đến lượt mình, nó cũng chính là công cụ, là
phương tiện tổ chức và duy trì toàn bộ các hoạt động này. Nó đi vào ký ức người
Việt Nam bằng hàng loạt những giá trị vật chất và tinh thần rất gần gũi. Thế giới
đầy mầu sắc của văn hóa làng được quy ước thành lệ làng đúc kết trong hương ước
làng, bộc lộ một cách phong phú qua hội làng. Tất cả chắt lọc lại, tạo nên bản sắc
19
văn hóa làng, mà trong đó tính cộng đồng làng và tính tự trị của làng là những giá
trị nổi trội nhất. Bên cạnh đó còn là các phẩm chất quan trọng khác như: tính ưa hài
hòa, khuynh hướng thiên về âm tính (mà tính trọng tình, hay tình làng là một biểu
hiện của nó), tính tổng hợp và tính linh hoạt.
Đến nay đã trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, văn hóa làng Việt đã
chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và sau lũy tre làng, bên giếng làng, dưới mái
đình làng, trong bầu không khí thân thương của những ngày hội làng, mọi người
sống với nhau nặng tình nặng nghĩa, giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Quan hệ láng
giềng ràng buộc con người trong nếp sống làng, xã có kỷ cương, trong sáng và
thanh cao.
Văn hoá làng được sản sinh từ các làng tụ cư cổ truyền ở nông thôn của người
Việt. Từ khi xuất hiện làng của người Việt cổ cũng là lúc xuất hiện văn hoá làng,
bởi vì văn hoá là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần, cộng đồng dân cư sáng
tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển. Đó là những phong tục, tập quán, lối
sống, nếp sống, tín ngưỡng, tôn giáo, ma chay, cưới xin …
Thứ hai là văn hóa làng nghề, Trong cuốn “Từ điển Bách khoa Văn hoá
học”của A.A.Radugin xuất bản vào những năm 90 của thế kỷ XX có định nghĩa về
thủ công mỹ nghệ dân gian như sau: “Thủ công mỹ nghệ dân gian là một bộ phận
quan trọng của nền văn hoá dân gian, dựa trên sáng tạo tập thể phát triển truyền
thống văn hoá tại địa phương” [1, tr.521]. Trong công trình “Văn hoá dân gian trong
các nghề”của tác giả Robert MsCart đăng trong tác phẩm “Một số thuật ngữ đương
đại”của hai tác giả Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan đã nêu ra quan niệm về nghề
thủ công: “Các khía cạnh biểu cảm của nơi làm việc với sự chú trọng đến đặc biệt
đến các chuyện kể, kĩ xảo và nghi lễ được biết đến bằng cách không chính thức và
được trao truyền từ thế hệ người lao động này đến thế hệ người lao động khác…”
[20, tr.393].
Nghề thủ công Việt Nam gắn liền với làng xã nên việc định dạng thuật ngữ
làng nghề là điều tất yếu. Văn hoá làng nghề bao gồm văn hoá làng và văn hoá nghề
trong đó văn hoá làng, là nền tảng còn văn hoá nghề được coi là nhân tố quyết định
20
cho sự hình thành nên đặc trưng của văn hoá làng nghề. Các yếu tố cấu thành văn
hoá làng gồm: Cơ cấu tổ chức, diện mạo làng xã… văn hoá vật thể gồm: đình, đền,
miếu, chùa, nhà thờ họ, nhà ở; văn hoá phi vật thể: luật tục, phong tục tập quán, ứng
xử giữa xóm làng, lễ hội, tín ngưỡng dân gian…Các yếu tố cấu thành văn hoá nghề:
thợ thủ công đặt trong mối quan hệ với nghề nghiệp với làng xóm, gia đình, dòng
họ…; phường hội nghề, bí quyết và quy trình nghề, tín ngưỡng thờ tổ nghề, tập tục
riêng biệt của tổ nghề.
1.2. Một số giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố
Hà Nội cần đƣợc bảo tồn và phát huy
1.2.1. Các giá trị văn hóa
Trong bản tuyên bố chung tại hội nghị quốc tế ở Mexico do UNESCO chủ trì
họp từ 26/7 đến 6/8/1982, người ta chấp nhận một quan niệm văn hóa như sau:
“Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và
vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín
ngưỡng” [39].
Ở Việt Nam từ quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng - toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”[10, tr.431] đến nội hàm khái niệm văn hóa
mà hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII xác định: “Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy tự phát
triển kinh tế - xã hội”[7, tr.54-55].
Giá trị văn hóa ở các làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên từ khi được
hình thành trải qua các thời kỳ : thời kỳ phong kiến, thời kỳ chống thực dân Pháp,
thời kỳ chống Mỹ, thời kỳ đất nước đổi mới cha ông ta đã gìn giữ và phát huy đến
ngày nay, các giá trị văn hóa với đặc trưng là trí tuệ, năng lực sáng tạo, khát vọng
21
nhân văn của con người huyện Phú Xuyên được thể hiện trong hoạt động sống của
cá nhân, cộng đồng người trong huyện như: ăn mặc, đi lại, ở, giao tiếp xã hội, giáo
dục tập quán tín ngưỡng, văn hóa làng nghề của huyện Phú Xuyên còn thể hiện rất
rõ trong quá trình lao động sản xuất tại từng địa phương mỗi làng nghề khác nhau.
Mỗi một sản phẩm được ra đời và mỗi một mẫu mã được thiết kế ra cũng thể hiện
một nét văn hóa đặc sắc riêng biệt tạo nên các giá trị văn hóa riêng của huyện Phú
Xuyên. Các giá trị văn hóa ở huyện Phú Xuyên còn được thể hiện rõ nét qua các lễ
hội như: lễ hội truyền thống làng Mai Trang xã Minh Tân, lễ hội nặn tò he thôn
Xuân La xã Phượng Dực, lễ hội mây tre đan ở xã Phú Túc…Giá trị văn hóa là
những thành tựu của một cá nhân hay một dân tộc đã đạt được trong quan hệ với
thiên nhiên, với xã hội và trong sự phát triển bản thân mình; nói tới giá trị văn hóa
cũng là nói tới thái độ, trách nhiệm, những quy tắc ứng xử của mỗi người trong
quan hệ của bản thân với gia đình với xã hội với thiên nhiên; nói tới giá trị văn hóa
cũng là nối tới những biểu tượng của chân- thiện- mỹ của những người dân huyện
Phú Xuyên.
Phú Xuyên là mảnh đất nằm ở phía Nam Thành phố Hà Nội - Thủ đô nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phú Xuyên có vinh hạnh được sinh ra trong
cái nôi của nền văn minh Đồng bằng sông Hồng. Vùng đất cổ xứ Đoài, trấn Sơn
Nam xưa. Cho nên còn lưu giữ được những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc nói
chung và của Kinh đô Thăng Long nói riêng.
“Từ trống đồng Hoàng Hạ (xã Văn Hoàng) hiện đang trưng bày tại bảo tàng,
đây là loại trống cổ của cả nước, chế tác từ thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Rồi 8
ngôi mộ thuyền tìm thấy ở Châu Can ngày 15/9/1974. Đó là cách mai táng từ thời
các Vua Hùng (Cắt một đoạn gỗ to xẻ đôi, khoét rỗng giữa, đặt người chết vào,
chằng buộc kỹ đem chôn. Cùng những ngôi mộ tìm thấy ở Xuân La (xã Phượng
Dực) mà trong đó đồ tùy táng là những mũi tên bằng đồng”.
Trong kho tàng Di sản Văn hóa của huyện Phú Xuyên, không thể không kể
đến những Lễ hội cổ truyền nổi tiếng như hội đánh gậy ở Thượng Liễu (xã Tân
Dân), hội vật cầu, Hội chạy lợn ở Trại Diền (xã Hồng Thái), Hội rước nước ở Cát
Bi (xã Thụy Phú) ...
22
Ngoài ra, nhân dân Phú Xuyên còn lưu giữ được những chứng tích phi vật thể
rất có giá trị như "Hò cửa đình và múa hát bài bông”ở làng Phú Nhiêu (xã Quang
Trung). Nghề nặn tò he ở thôn Xuân La (xã Phượng Dực) và hát ca trù ở Chanh
Thôn xã Văn Nhân). Ba nơi trên đều được Trung ương Hội Văn Nghệ dân gian Việt
Nam công nhận là Địa chí Văn Nghệ dân gian. Đồng thời phong danh hiệu cho các
bậc nghệ nhân này. Các làng nghề truyền thống như: Khảm trai sơn mài Chuyên
Mỹ, Giầy da Phú Yên, Cỏ tế Phú Túc, mộc Tân Dân, may Vân Từ...
Phú Xuyên thực sự xứng danh là một vùng Văn hóa đậm đà góp thêm phần
làm phong phú đa dạng vào sự phát triển văn hóa của đất nước.
1.2.2. Các giá trị lịch sử
Làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên
Từ năm 2011, huyện Phú Xuyên chọn ngày 26/10 hằng năm là ngày vinh danh
làng nghề của huyện, từ đó đến nay Lễ hội đã tổ chức thành công 5 lần (2 năm quy
mô cấp huyện, 3 năm quy mô cấp xã). Năm 2017, Lễ hội tiếp tục được tổ chức quy
mô cấp huyện.
Sở dĩ huyện thường niên tổ chức Lễ hội vinh danh làng nghề là nhằm tri ân
những bậc tiền nhân đã có công truyền nghề. Khuyến khích sự phát triển và tạo cơ
hội để quảng bá, tiếp thị, mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu sản phẩm của
làng nghề; Biểu dương, khen thưởng, động viên, ghi nhận các tổ chức, cá nhân trên
địa bàn huyện có thành tích trong việc đóng góp lữu giữ, xây dựng, phát triển nghề,
làng nghề. Bên cạnh đó, Lễ hội còn khẳng định vai trò, vị trí của làng nghề đối với
sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nông thôn mới của huyện. Đồng thời
củng cố, nâng cao giá trị văn hóa, lịch sử của các làng nghề và vị thế mảnh đất, con
người Phú Xuyên.
“Đồng thời với 101 di tích văn hóa được các cấp công nhận và xếp hạng, đình
thôn Giẽ Hạ (Kiến trúc đời Lê Chính Hòa – 1686) đã được xếp hạng cấp quốc gia.
Theo Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã ghi trong cuốn "Theo dòng lịch sử”
NXB -VHTT-Hà Nội-1999 tại trang 374 rằng: "Đình Giẽ Hạ cực kỳ hoành tráng và
hiếm quý. Một trong mười ngôi đình còn sót lại đến nay". Rồi bia chùa Diên Phúc,
4 bia đá thời Lê ở cổng đình Giẽ Hạ, trong đó có bia Lê Phúc Thái - 1647 - đứng
23
trên lưng rùa, giống như 82 bia đá ở Văn Miếu - đã được UNESCO công nhận là di
sản Văn hóa thế giới”.[26].
“Đình Mai Xá ở xã Quang Lãng, Phú Xuyên Hà Nội thờ Lục vị đại vương, họ
Nguyễn tên Vật, Lôi, Quảng, Quán, Linh, Lặc công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp
loạn 12 sứ quân”.[40].
“Đình Sảo Thượng ở xã Quang Lãng, Phú Xuyên [40] Hà Nội thờ Nguyễn Vật
- hiệu Hiển Vật đại vương có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân.
Đặc biệt, Đạo quân của ông Nguyễn Vật đã tiến về Trường Châu đánh thắng sứ
quân Trần Hồ”.
“Phú Xuyên còn là một trong những huyện có nhiều tướng nhất trong cả nước:
Có tới 9 vị tướng trong một huyện. Đó là: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Trung
tướng Nguyễn Phúc Thanh, Trung tướng Nguyễn Đức Soát, Trung tướng Nguyễn
Đức Sơn, Thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc, Thiếu tướng Hoàng Văn Hoặc, Thiếu
tướng Mai Văn Lý, Thiếu tướng Phùng Thế Quảng và Thiếu tướng Nguyễn Kim
Cách. Cựu phó thủ tướng Vũ Khoan, ông tổ nghề báo Nguyễn Văn Vĩnh ở Phượng
Dực, Tiến sĩ Tạ Đăng Vọng, thủy tổ họ tạ ở Nam Quất Ông Lê bạch hồng,cựu thứ
trưởng, Tổng giám đốc bảo hiểm Việt Nam quê ở làng Đào Xá”.
1.2.3. Các giá trị kinh tế
Phú Xuyên là huyện có nhiều nghề và nhiều làng nghề truyền thống lâu đời.
Nhằm tôn vinh Tổ nghề, tri ân các bậc tiền nhân đã có công tạo dựng nghề và
truyền nghề cho các thế hệ con cháu, từ năm 2011 huyện lấy ngày 26 tháng 10 hằng
năm là “Ngày vinh danh làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên”. Năm 2011,
2014, 2017 tổ chức Lễ hội vinh danh làng nghề truyền thống cấp huyện; năm 2012,
2013, 2016 tổ chức Lễ hội vinh danh làng nghề cấp xã (Khảm trai, sơn mài Chuyên
Mỹ, Da giầy Phú Yên, Cỏ tế Phú Túc). Toàn huyện có 156/156 làng, cụm dân cư có
nghề, chiếm 100%, có 78 làng nghề được duy trì và phát triển mạnh; 40 làng nghề
đã được UBND thành phố Hà Nội công nhận làng nghề truyền thống. Tiêu biểu là
các làng nghề khảm trai (xã Chuyên Mỹ), mây tre đan (xã Phú Túc), chế biến lâm
sản, nông sản, thực phẩm, dệt may (xã Vân Từ), cơ khí (thị trấn Phú Minh), dệt lưới
chã (xã Quang Trung), da giầy (xã Phú Yên), đồ mộc (xã Văn Nhân, Tân Dân), sản
24
xuất hương (xã Văn Hoàng), bánh kẹo (xã Hoàng Long) … Đứng thứ 3/30 quận,
huyện của Thủ đô về số làng có nghề.[35]
“Số hộ sản xuất TTCN năm 2017: có 24.500 hộ; Số lao động sản xuất TTCN
là 39.939 chiếm 37,3 %; Giá trị sản xuất TTCN làng nghề ước đạt 4.550,00 tỷ đồng;
Thu nhập bình quân của lao động làm nghề đạt 52 triệu đồng/năm. Có 385 công ty,
doanh nghiệp; 06 HTX công nghiệp; 08 tổ chức, quỹ tín dụng; 03 hiệp hội sản xuất,
kinh doanh liên quan về sản xuất TTCN, làng nghề”.[35]
"Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Phú Xuyên giai đoạn 2008 - 2017
đạt 5,36% năm. Tổng giá trị sản xuất năm 2017 cao gấp 5,56 lần so với năm 2008,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. " - Chánh Văn phòng UBND huyện
Phú Xuyên Trương Đại Dương.[32]
“Định hướng phát triển kinh tế của huyện Phú Xuyên theo Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện Phú Xuyên lần thứ XXIII đã đề ra đó là: Cơ cấu kinh tế: CN-TTCN-
XD chiếm 40%; NN chiếm 26%; TM-DV chiếm 34%. Thu ngân sách tăng 15% trở
lên. Xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá ổn định, bền vững, tạo nên
giá trị sản xuất cao trên một ha canh tác để cung cấp lương thực, thực phẩm cho
thành phố. Tập trung xây dựng khu công nghiệp phụ trợ phía Nam Thủ đô Hà Nội
với quy mô khoảng 500 ha, Phát triển tiểu thủ công nghiệp đặc biệt là các nghề
truyền thống của địa phương để giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân”.
1.3. Sự cần thiết phải bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền
thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội
* “Các làng nghề ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội vẫn còn lưu giữ
nhiều giá trị có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa
phương”
“Phú Xuyên được coi là một trong những mảnh đất vàng cho du lịch làng
nghề, bởi nơi đây tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng nhất của Hà Nội hiện nay.
Nhiều làng nghề được hình thành từ rất lâu đời, cách đây hàng vài trăm năm như:
làng nghề khảm trai Chuyên Mỹ có từ thế kỷ XI; nặn Tò he ở Xuân La xã Phượng
Dực có cách đây 300 năm; nghề đan cỏ tế ở xã Phú Túc...”
25
“Các làng nghề ở huyện Phú Xuyên ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
công nghiệp hóa của đất nước đã tạo ra những giá trị kinh tế giúp cho người dân ở địa
bàn huyện Phú Xuyên có công ăn việc làm giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, các mặt
hàng không những được trao đổi buôn bán trong nước mà còn xuất khẩu ra nước
ngoài, bên cạnh những giá trị về kinh tế các làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên
còn đem lại những giá trị văn hóa đặc trưng của làng nghề tạo nên sự phong phú, đa
dạng góp phần thúc đẩy sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước”.
Các làng nghề truyền thống ở huyện Phú xuyên đã góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế chung ở huyện Phú Xuyên. Những năm gần đây, các làng nghề đã tạo
ra sản phẩm, mẫu mã đa dạng, mang đậm nét văn hóa riêng biệt, tìm được thị
trường ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… Một số sản phẩm mây giang đan
được xuất khẩu sang các nước trên thế giới như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản…
Phát huy thế mạnh là huyện có nhiều làng nghề để quảng bá giới thiệu sản
phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế bền vững, thực hiện Nghị quyết Đảng bộ huyện khóa
XXIV (nhiệm kỳ 2015 - 2020), Huyện ủy Phú Xuyên đã ban hành Chương trình số
05-CTr/HU về phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch giai đoạn 2015 -
2020. Từ đây, UBND huyện đã tích cực phối hợp với các sở, ngành triển khai xây
dựng thương hiệu và tuyến du lịch cho các làng nghề. "Tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân của Phú Xuyên giai đoạn 2008 - 2017 đạt 5,36% năm. Tổng giá trị sản xuất
năm 2017 cao gấp 5,56 lần so với năm 2008, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực. “(Chánh Văn phòng UBND huyện Phú Xuyên Trương Đại Dương).[32]
“Tính đến nay, huyện có 156/156 làng, cụm dân cư làm nghề, chiếm 100%, có
78 làng nghề được duy trì và phát triển. Trong đó, có 9 làng khảm trai, 10 làng đan
cỏ tế, 10 làng sản xuất đồ mộc, 12 làng may mặc và làm giày; 40 thôn được TP
công nhận làng nghề; 497 công ty, DN, 6 HTX công nghiệp, 3 hiệp hội hoạt động
sản xuất, kinh doanh liên quan đến sản xuất tiểu thủ công nghiệp (TTCN), làng
nghề. Hiện, toàn huyện có 24.500 hộ sản xuất TTCN, với 39.939 lao động, chiếm
37,3%. Giá trị sản xuất TTCN làng nghề ước đạt 4.550 tỷ đồng, thu nhập bình quân
lao động làm nghề đạt 52 triệu đồng/năm. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
26
DN, làng nghề ngày một phát triển góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy phát triển
kinh tế.” [35]
“Cùng với quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế là quá trình phát huy thế mạnh
du lịch. Trưởng phòng Kinh tế huyện Phú Xuyên Nguyễn Hữu Chi phấn khởi cho
biết: Thời gian qua, sản xuất công nghiệp - xây dựng từng bước tăng trưởng mạnh
mẽ, tỷ trọng ngành trong cơ cấu kinh tế tăng từ 51% năm 2008 lên 66,05% năm
2017. Tính đến giữa năm 2018, số làng nghề của huyện tăng 32 làng so với năm
2008. Trong đó, số làng được công nhận làng nghề truyền thống tăng từ 37 làng
năm 2008 lên 43 làng năm 2018. Số lượng làng nghề ngày một tăng đã giúp giải
quyết việc làm cho lao động trong các làng nghề và vùng phụ cận. Nhờ có làng
nghề, đời sống Nhân dân được cải thiện, đẩy lùi số hộ nghèo, góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội.”[32]
Chủ tịch UBND huyện Phú Xuyên Nguyễn Ngọc Sơn chia sẻ, thời gian qua,
UBND huyện cùng các cơ quan, Doanh nghiệp gấp rút hoàn thiện đưa vào hoạt
động khu công nghiệp hỗ trợ Nam Hà Nội rộng gần 80ha và 3 cụm công nghiệp
làng nghề xã Đại Thắng, Phú Túc, Phú Yên. Cùng với đó, 11 xã đã bố trí được
227,78ha đất để quy hoạch thêm 19 cụm công nghiệp làng nghề. Đây được coi là
tiền đề quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và du lịch làng nghề. “Nhờ có sự quan
tâm của thành phố và huyện trong việc đầu tư vào du lịch làng nghề giúp số lượng
khách du lịch đến tham quan, mua sắm tại làng nghề ngày một tăng. Từ năm 2016
đến nay, toàn huyện đã thu hút trên 300 đoàn khách trong và ngoài nước với gần
6.000 lượt người đến tham quan, mua sắm các sản phẩm làng nghề”.[32]
“Bên cạnh đó các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên còn góp phần
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn, góp phần xóa
đói giảm nghèo: Người nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp thường theo mùa
vụ nên thường xuyên có những thời gian nhàn rỗi dẫn đến dư thừa sức lao động.
Trong lúc nhàn rỗi, người nông dân có thể tham gia vào sản xuất các sản phẩm
truyền thống. Không những sức lao động sẽ được sử dụng triệt để mà việc sản xuất
còn tăng thu nhập cho các hộ gia đình, đảm bảo cuộc sống. Đặc biệt, các ngành
27
nghề truyền thống không kén chọn nên có thể sử dụng lao động với độ tuổi rất
phong phú. Có thể là người già, trẻ em và cả người khuyết tật. Chính vì thế, làng
nghề truyền thống đã, đang và sẽ giải quyết vấn đề việc làm cho rất nhiều người,
giảm bớt gánh nặng cho nhà nước”.
Bên cạnh việc thúc đẩy kinh tế phát triển thì cùng với đó là sự phát triển của
văn hóa, xã hội. “Theo Bà Phạm Hải Hoa - Bí thư Huyện ủy Phú Xuyên: Năm
2017, với sự quyết liệt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành, huyện Phú
Xuyên đã đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Tổng
giá trị sản xuất đạt trên 8.000 tỷ đồng (bằng 102,1% kế hoạch đề ra); Trong đó: Giá
trị sản xuất nông, lâm, thủy sản là 1.604,3 tỷ đồng (đạt 100,5% kế hoạch, tăng
3,16% so với năm 2016). Giá trị sản xuất Công nghiệp - Xây dựng 4.861,4 tỷ đồng
(đạt 102,2% kế hoạch, tăng 9% so với năm 2016). Giá trị sản xuất Thương mại -
Dịch vụ là 1560.01 tỷ đồng (đạt 103,7% kế hoạch, tăng 7,8% so với năm 2016). Tốc
độ tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 7,2%, vượt kế hoạch đề ra (từ 6,5-7,0%).”[37]
“Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tính đến ngày 30/11/2017 là: 172 tỷ
đồng (đạt 162% so với dự toán thành phố Hà Nội giao 172/106 tỷ đồng; đạt 107,5%
so với dự toán HĐND huyện giao 172/160 tỷ đồng). Trong năm 2017, trên địa bàn
huyện Phú Xuyên có 5 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; Có 7 trường công lập đạt
chuẩn quốc gia và có 04 xã hoàn thành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới. Đời sống văn hóa xã hội của người dân được đáp ứng và ngày càng
được nâng cao.” [37]
* Việc bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú
Xuyên, thành phố Hà Nội góp phần quan trọng vào công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị của làng nghề truyền thống ở nước ta nói chung. Từ đó, góp phần vào
việc thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
“Đánh giá về tiềm năng phát triển du lịch làng nghề ở huyện Phú Xuyên, ông
Nguyễn Xuân Hoản - đại diện Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội - cho biết: “Việc
phát triển du lịch làng nghề sẽ khai thác được giá trị văn hoá của nghề, làng nghề và
28
hỗ trợ phát triển sản xuất, quảng bá thương hiệu, tăng cường khả năng tiêu thụ sản
phẩm theo hướng “xuất khẩu tại chỗ”thông qua chào bán sản phẩm cho khách du
lịch đến địa phương”.[38]. Và rõ ràng, trên thực tế, các làng nghề ở Phú Xuyên
ngoài các sản phẩm truyền thống, còn có rất nhiều tiềm năng về du lịch gắn liền với
giá trị về cảnh quan, sinh thái, di tích văn hoá đình, chùa, ẩm thực…và các làng
nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên không những đem lại những giá trị văn hóa
lịch sử mà còn mang lại những giá trị kinh tế nhằm phát triển kinh tế làng nghề góp
phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.”
“Phát huy các giá trị làng nghề truyền thống kết hợp với mở rộng giao lưu văn
hóa đã làm giàu thêm bản sắc văn hóa và làm thăng hoa giá trị văn hóa trong bối
cảnh toàn cầu hóa.”
“Từ xưa đến nay không có nền văn hóa nào tự thân phát triển bằng sự “đóng
kín” mà muốn phát triển phải luôn được bồi đắp bởi nhiều nền văn hóa khác. Vì
vậy, việc giao lưu, mở rộng văn hóa đã làm giàu thêm bản sắc văn hóa, đồng thời
làm thăng hoa và lan tỏa văn hóa của mình đến khắp nơi luôn là khuynh hướng của
mọi cộng đồng, mọi dân tộc, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.”
* Các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà
Nội hiện nay đang có nguy cơ bị mai một do tác động của nền kinh tế thị trường và
do việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang bùng nổ, với sự mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại sự đa dạng sản phẩm của các làng nghề truyền thống của
huyện Phú Xuyên không chỉ buôn bán trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài
và chịu sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường.
“Tuy nhiên ngày nay, việc giữ được những nghề truyền thống là vô cùng khó
khăn, khi có thầy giỏi, nhưng trò lại hiếm, và để có thể học nghề rồi trở thành một
nghệ nhân còn là một con đường dài hơn nữa. Nhiều nghề truyền thống đang dần bị
mai một, nhiều làng nghề truyền thống dần bị mất đi, hoạt động đơn lẻ. Nó kéo theo
việc mất đi giá trị kinh tế có đóng góp không nhỏ trong sự phát triển kinh tế đất
29
nước, trong việc quảng bá hình ảnh của Việt Nam bởi mảnh đất vàng cho du lịch
làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên một trong những nét đẹp truyền thống,
văn hóa truyền thống của người Việt. Vì vậy, việc tìm biện pháp để bảo tồn và phát
huy các giá trị của làng nghề truyền thống là cần thiết…”
“Trong thời kì hội nhập quốc tế, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường, công
nghiệp hóa hiện đại hóa, các làng nghề truyền thống đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn và thử thách. Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này. Nguyên
nhân khách quan là do sản phẩm làng nghề làm ra không có thị trường tiêu thụ.
Thay vì sử dụng những sản phẩm thủ công, khách hàng sẽ ưu tiên lựa chọn những
sản phẩm công nghiệp có giá thành rẻ và nhiều mẫu mã hơn. Nguyên nhân chủ quan
phát triển từ chính bên trong các làng nghề truyền thống. Số thợ làng nghề, các nghệ
nhân đã ở tuổi “xưa nay hiếm”, còn lớp trẻ chưa thật sự có tình yêu với nghề truyền
thống. Chính vì vậy, trước biến cố của thời gian, nhiều làng nghề đang có nguy cơ
bị xóa sổ. Ví dụ như làng nghề khảm trai truyền thống xã chuyên mỹ đặc biệt là ở
thôn Thượng phát triển mạnh mẽ làng nghề trong giai đoạn năm 2002 đến năm
2010 trong thôn chiếm đến hơn 95% hộ gia đình làm nghề khảm trai truyền thống,
Tuy nhiên trong giai đoạn mấy năm gần đây từ năm 2015 đến năm 2019 thì trong
thôn đã giảm đi số lượng hộ gia đình làm nghề truyền thống chỉ còn đến 70%. Tiếp
đến là làng nghề đan võng thôn Thao Nội đã giảm từ 90% hộ gia đình theo nghề
xuống còn 65%. Làng nghề đan tơ lưới thôn Thao Ngoại cũng giảm đáng kể và
không còn phát triển mạnh.”
“Một số làng nghề truyền thống cần được tạo điều kiện để góp phần bảo tồn và
phát triển như: Làng nghề đan võng thôn Thao Nội (xã Sơn Hà, huyện Phú Xuyên);
Làng nghề đan tơ lưới thôn Thao Ngoại (xã Sơn Hà, huyện Phú Xuyên); Làng nghề
đan guột tế thôn Trung Lập (xã Trí Trung, huyện Phú Xuyên); Làng nghề thêu Đại
Đồng (Thị trấn Phú Xuyên, huyện Phú Xuyên), làng nghề khảm trai truyền thống
(thôn ngọ, xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên)…”
“Nhà nước, chính quyền địa phương cần phải có những biện pháp hỗ trợ để
quy hoạch và phát triển làng nghề. Bên cạnh đó, chính bản thân các làng nghề cần
30
phải có những bước thay đổi về mẫu mã, tích cực quảng bá thương hiệu,…để giúp
làng nghề tồn tại trong thời kì đổi mới và cả sau này.”
1.4. Những yếu tố chủ yếu ảnh hƣởng tới hoạt động bảo tồn và phát huy các giá
trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội
1.4.1. Các văn bản, chính sách đối với hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị
của làng nghề truyền thống
“Chính sách của nhà nước ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại phát triển của làng
nghề. Trong một thời gian dài trước đây (mà chúng ta thường gọi trước đổi mới),
chúng ta phủ nhận các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Chính vì vậy hoạt
động sản xuất kinh doanh trong làng nghề đều là hợp tác, tập thể với chế độ ăn chia
quân bình cho các lao động khoẻ, yếu già trẻ, làm nhiều, ít, tích cức hay không tích
cực đều ngang nhau. Trên thực tế chính sách này không kích thích được sự phát
triển kinh tế nói chung và kinh tế làng nghề nói riêng. Nhận thấy những hạn chế
trong đường lối chính sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện
công cuộc đổi mới mà quan trọng nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong sự
đổi mới này Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh
tế (như kinh tế hộ, kinh tế tư nhân... ). Chính sách kinh tế mới đã phù hợp với mong
muốn của nhân dân và thời kỳ mới nên đã thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Các làng nghề có điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát triển.”
“Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đặc biệt sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính
trị (1988) với chính sách kinh tế nhiều thành phần, hộ gia đình được công nhận là
chủ thể kinh tế thì các làng nghề phát triển mạnh mẽ.”
“Sau những năm 1990, mô hình kinh tế thị trường và chính sách mở cửa, đặc
biệt quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện mở rộng thị trường cho làng
nghề, đồng thời còn làm cho làng nghề phải cạnh tranh với nhiều loại sản phẩm trên
thị trường.”
“Nhờ có các văn bản chính sách của Nhà nước về hoạt động bảo tồn và phát
huy các giá trị của làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên đã góp phần giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm
31
nghèo: người nông dân có thể tham gia vào sản xuất các sản phẩm truyền thống.
Không những sức lao động sẽ được sử dụng triệt để mà việc sản xuất còn tăng thu
nhập cho các hộ gia đình, đảm bảo cuộc sống. Đặc biệt, các ngành nghề truyền
thống không kén chọn nên có thể sử dụng lao động với độ tuổi rất phong phú. Có
thể là người già, trẻ em và cả người khuyết tật. Chính vì thế, làng nghề truyền thống
đã, đang và sẽ giải quyết vấn đề việc làm cho rất nhiều người, giảm bớt gánh nặng
cho nhà nước đồng thời đời sống xã hội của người dân được cải thiện và nâng cao
cũng góp phần thúc đẩy hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề
truyền thống trong huyện.”
1.4.2. Sự nhận thức và trình độ tay nghề của con người tham gia vào quá trình
sản xuất ở các làng nghề truyền thống
Các làng nghề ở Phú Xuyên là kết hợp giữa làm ruộng với nghề thủ công lúc
nông nhàn nhưng mỗi người thợ thủ công đều trân trọng giá trị làng nghề, họ luôn
nhắc nhở con cháu phải sống chết với nghề, vì với họ nghề của mình như hơi thở,
như một nét truyền thống văn hóa không thể nào thiếu. Dù đã có những lúc trong
lịch sử, do những biến động xã hội mà nghề phải trải qua những thăng trầm biến cố
tưởng như không thể gượng nổi nhưng với lòng yêu nghề, những người thợ thủ
công làng nghề Phú Xuyên đã gìn giữ được nét văn hóa làng nghề cho đến tận ngày
nay, điều này thể hiện rõ nhất thông qua lịch sử trăm năm tồn tại và phát triển của
các làng nghề nơi đây. Trân trọng các giá trị làng nghề còn được thể hiện ở việc
người dân huyện Phú Xuyên từ lâu đời đã có những thiết chế tôn vinh các nghệ
nhân trong làng có công lưu giữ và truyền dạy những bí quyết nghề gia truyền bằng
hình thức ghi công vào gia phả của làng nghề.
Ứng xử của những người làm nghề tại Phú Xuyên với xã hội đầu tiên được thể
hiện ở chữ tín trong kinh doanh. Dân ta có câu: “Một lần bất tín, vạn lần bất tin”. Ví
dụ như hương ước của làng nghề mây tre đan Phú Túc ghi rõ: Người nào làm đồ giả
để lừa người khác, gây sự bất tín thì phải phạt thật nặng, đem đánh đòn và xóa tên
khỏi phường nghề. Điều này chứng tỏ chữ tín luôn được dân làng nghề Phú Túc nói
riêng cũng như các làng nghề ở huyện Phú Xuyên rất coi trọng, nhưng chữ tín của
32
người thợ thủ công không chỉ dừng lại ở sự coi trọng mà còn chính là đạo đức nghề
nghiệp và trình độ của người thợ.
Chữ tín cũng như trình độ tay nghề đối với người dân làng nghề được đánh giá
qua chất lượng sản phẩm, bởi thời gian giao hàng, quan hệ khách hàng, bạn hàng,
quan hệ giữa một bên là cung cấp nguyên nhiên liệu, một bên là người sản xuất và
những người làm thuê. Tất cả những yếu tố này được thể hiện rõ nhất qua số lượng
sản phẩm tiêu thụ và chất lượng sản phẩm. Số lượng sản phẩm bao nhiêu và chất
lượng sản phẩm bao nhiêu thể hiện uy tín của làng. Muốn giữ uy tín thì phải có sản
phẩm tốt, muốn làm được như vậy thì người thợ thủ công phải tỉ mẩn trong từng
công đoạn, từ việc chọn lựa nguyên liệu cho đến khâu thành phẩm. Chính vì vậy
trong làm ăn thì chữ tín được đặt lên hàng đầu, chữ tín nó thể hiện ở trình độ nhận
thức của người làm nghề cao hay thấp và nó cũng thể hiện một phần trình độ tay
nghề của người nghệ nhân và hai yếu tố này cũng góp phần thúc đẩy quá trình bảo
tồn và phát huy các giá trị làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên.
1.4.3. Chất lượng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và lưu thông các sản phẩm ở
làng nghề truyền thống
“Cơ sở hạ tầng ở các làng nghề nói riêng còn nghèo nàn, có nhiều cản trở sự
phát triển các làng nghề. Mặc dù hiện nay hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hệ
thống điện phần nào đáp ứng được nhu cầu cho các làng nghề tuy nhiên đang còn
nhiều bất cập, giao thông còn khó khăn, ách tắc do vậy việc giao lưu kinh tế phát
triển, thị trường tiêu thụ sản phẩm không chỉ ở địa phương mà còn vươn tới thị
trường gặp nhiều cản trở hơn nữa nguồn nguyên liệu phải vận chuyển từ các nơi xa
về thì hệ thống giao thông quyết định trực tiếp chi phí hạ giá thành.”
“Hệ thống cung cấp điện nước tốt, giá rẻ không qua các đơn vị quản lý trung
gian, sẽ giúp làng nghề sản xuất liên tục, giảm chi phí, tăng năng suất, đảm bảo chất
lượng sản phẩm. Tiếp theo, hệ thống dịch vụ thông tin tốt sẽ giúp các cơ sở sản xuất
kinh doanh trong làng nghề nắm bắt kịp thời những thông tin về nhu cầu, giá cả,
mẫu mã, chất lượng, thị hiếu để có sự điều chỉnh kịp thời nhanh nhạy, đáp ứng yêu
cầu thị trường. Khi chất lượng cơ sở hạ tầng được cải thiện và nâng cao thì mọi
33
khâu trong hoạt động sản xuất đều diễn ra thuận lợi và góp phần thúc đẩy hoạt động
bảo tồn và phát huy các giá trị làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên.”
1.4.4. Chất lượng các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất các sản phẩm truyền thống
1.4.4.1. Vốn đầu tư
“Vốn quyết định có tổ chức sản xuất hay không, vốn quyết định quy mô sản xuất
của các chủ thể sản xuất kinh doanh trong làng nghề. Hiện nay, các cơ sở sản xuất kinh
doanh trong làng nghề phải có lượng vốn lớn để đầu tư công nghệ, đổi mới trang thiết
bị ở một số công đoạn sản xuất phù hợp để thay thế lao động thủ công, tăng năng suất
lao động, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu mở rộng thị trường.”
“Về quy mô vốn tại các hộ gia đình làng nghề truyền thống không thể so sánh
với các cơ sở sản xuất trong các lĩnh vực khác. Mặt khác khối lượng vốn còn phụ
thuộc vào ngành nghề sản xuất. Các làng nghề trên địa bàn huyện Phú Xuyên đòi
hỏi vốn lớn như các làng nghề sản xuất đồ gỗ, giày da…vì chi phí nguyên liệu cũng
như công đoạn sản xuất phức tạp hơn. Ngược lại một số làng nghề sản xuất không
đòi hỏi vốn đầu tư nhiều như: mây tre đan, thêu ren...”
“Cơ cấu nguồn vốn tại các làng nghề bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn
vốn nước ngoài. Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài có thể nói ở làng nghề là rất ít,
còn nguồn vốn trong nước bao gồm: Vốn tự có là nguồn vốn của các chủ thể sản
xuất kinh doanh trong làng nghề được tích lũy lại, nguồn vốn này quá nhỏ bé so với
nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất hay đổi mới trang bị kỹ thuật, nó chiếm khoảng
trên 90% tổng số vốn đầu tư của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn tín
dụng phi chính bao gồm vốn vay mượn trong gia đình, dòng họ, bạn bè người thân.
Nguồn vốn tín dụng chính thức vay từ các quỹ tín dụng địa phương, ngân hàng
thương mại, tuy nhiên do thủ tục cho vay phức tạp, lượng vốn cho vay còn ít, thời
gian vay ngắn nên thực tế hiệu quả của nguồn vốn này còn thấp so với nhu cầu.
Hiện nay có một số làng nghề còn được nhận một khoản vốn vay ưu đãi được trích
ra từ các chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo, vốn của các tổ chức xã hội,
đoàn thể.”
34
1.4.4.2. Chất lượng nguyên, vật liệu
“Cũng như bất kỳ quá trình sản xuất, khối lượng, chủng loại nguyên vật liệu
và khoảng cách giữa nguồn cung cấp nguyên liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng, giá thành, lợi nhuận của các doanh nghiệp. Nguồn nguyên liệu chính tại địa
phương trong nước, đây chính là lợi thế của làng nghề. Thị trường nguyên liệu
không chính thức, phương thức thanh toán do hai bên tự thỏa thuận, phụ thuộc thời
vụ do tư thương cung cấp nên giá cả lên xuống theo mùa. Sử dụng nguyên liệu đa
dạng hoặc thay thế sẽ là xu hướng cần được quan tâm để làng nghề phát triển của
huyện Phú Xuyên.”
“Nguyên vật liệu luôn gắn liền với sản phẩm và chất lượng sản phẩm. chất
lượng của nguyên liệu có tốt thì sản phẩn mới có chất lượng cao. Tuy vậy giá cả của
nguyên vật liệu phải hợp lý bảo đảm cho sản phẩm và kinh doanh có lãi thì mới
được chấp nhận. Để đáp ứng đa dạng nhu cầu tiêu dùng cần đa dạng nguyên liệu sử
dụng, có như vậy sản xuất kinh doanh mới đạt hiệu quả cao.”
Bên cạnh nguồn nguyên liệu trong nước thì cũng có một số nguyên liệu phải
nhập từ nước ngoài ví dụ như nguyên liệu về trai ốc phải nhập từ Trung Quốc về
Việt Nam để phục vụ cho quá trình sản xuất của các làng nghề khảm trai truyền
thống xã Chuyên Mỹ và để sản xuất ra một sản phẩm mẫu mã đẹp, chất lượng tốt
thì phải khắt khe ngay từ khâu chọn nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu có chất lượng
cao thì sẽ tạo ra được sản phẩm có chất lượng tốt đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng cả về mẫu mã và chất lượng sản phẩm từ đó tạo nên uy tín của người thợ,
người kinh doanh làng nghề.
1.4.5. Phong tục, tập quán truyền thống của địa phương
“Mỗi vùng miền lại có những phong tục tập quán của riêng mình và huyện Phú
Xuyên cũng vậy. Trong những ngày lễ tết, họ lại làm ra những sản phẩm cho chính họ,
những sản phẩm này được nhiều người biết đến và tiêu dùng chúng. Những người có
khả năng kinh doanh đã sản xuất ra để bán và hình thành làng nghề ví dụ như: sản
phẩm tranh khảm trai của xã Chuyên Mỹ; sản phẩm mây tre đan của xã Phú Túc; sản
phẩm tranh thêu của thị trấn Đại Đồng, sản phẩm giày da Phú Yên…”
35
“Thực tế cho thấy các làng nghề tồn tại, phát triển được do có sự kế tục của
đời con, đời cháu, nghề được bậc tiền bối truyền cho lớp hậu sinh bằng miệng,
những bí quyết nghề nghiệp trong làng nghề được giữ bí mật khắt khe. Điều này
không tránh khỏi sự thất truyền vì một nguyên nhân nào đó. Tóm lại nhân tố truyền
thống có ảnh hưởng quyết định đến sự hưng vong của làng nghề. Lưu giữ và phát
huy được những yếu tố truyền thống nó là sức mạnh nội sinh và nhờ đó hoạt động
bảo tồn và phát huy các giá trị làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên được
diễn ra thuận lợi và đạt kết quả cao.”
36
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG MỘT SỐ GIÁ TRỊ CầN ĐƢỢC BẢO TÔN VÀ PHÁT HUY
CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN
CỦA THỰC TRẠNG
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm hình thành có sự ảnh
hƣởng đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống
ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
“Huyện Phú Xuyên là đơn vị hành chính của Thủ đô, nằm ở phía Nam thành
phố Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô 40km; phía Bắc giáp huyện Thường Tín; phía
Nam giáp huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam; phía Đông giáp sông Hồng và huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên; phía Tây giáp huyện Ứng Hòa, Hà Nội.”
“Với diện tích đất tự nhiên 17.104,6ha; trong đó, đất canh tác trồng trọt là
11.329,9ha chiếm 66,24%; đất ở 1.120,9ha chiếm 6,95%; đất chuyên dùng chiếm
3.235,9ha chiếm 18,92%; còn lại là đất chưa sử dụng. Trước đây Phú Xuyên là
vùng đất trũng, có cốt đất thấp so với một số đơn vị lân cận, phía Đông cao hơn
phía Tây, nên về mùa mưa bão hay bị ngập úng, lụt lội. Một số xã giáp sông Hồng
có đất pha cát, còn gọi là đất màu, diện tích khoảng 2000ha.” [36]
“Trên địa bàn huyện có trên 30km sông chảy qua đó là sông Hồng, sông Nhuệ,
sông Duy Tiên, sông Lương, sông Vân Đình. Phú Xuyên cũng có hệ thống giao
thông rất thuận lợi, có tuyến đường sắt Bắc-Nam dài gần 12km chạy qua, tuyến
đường thủy sông Hồng dài 17km, tuyến đường cao tốc Pháp Vân-Cầu Giẽ dài 7km,
điểm đầu đường Cầu Giẽ-Ninh Bình, đường Quốc lộ 1A dài 12km trên địa bàn
huyện, đó là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội của Phú Xuyên.”
“Hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu được sử dụng kết hợp đảm bảo cho sản
xuất nông nghiệp, có 43 trạm bơm trực tiếp đổ nước ra sông Nhuệ tiêu úng cho các
xã phía Tây; trạm bơm Khai Thái công suất 25000m3/giờ, bơm nước ra sông Hồng
tiêu úng cho diện tích 4.200ha phía Đông, ngoài ra có trạm bơm Thụy Phú lấy nước
sông Hồng để cấp nước tưới cho các xã miền Đông.”
37
“Phú Xuyên có dân số gần 20 vạn người, tỷ lệ người lao động trong khu vực
sản xuất nông nghiệp chiếm 60% tổng số lao động; bình quân mỗi năm tăng thêm
khoảng 2000 lao động.”
“Về giáo dục-đào tạo: trên địa bàn huyện có một trường trung cấp nghề và một
trường Cao đẳng nghề, hàng năm đào tạo khoảng trên 1000 học viên với các ngành
nghề đa dạng, phong phú.”
“Về y tế: có 01 bệnh viện cấp huyện nay đang được nâng cấp thành bệnh viện
tuyến vùng, giải quyết ngày một tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.”
“Về kinh tế: Phú Xuyên có tiềm năng đất đai trù phú và nguồn lao động dồi
dào. Về nông nghiệp, miền Đông huyện chiếm 17,4% diện tích đất canh tác, là vùng
đất bãi phù sa màu mỡ, thuận lợi cho phát triển hoa màu, cây công nghiệp, chăn
nuôi; miền Tây huyện với hơn 60% diện tích canh tác là vựa lúa quan trọng của Thủ
đô, có khả năng lớn về nuôi cá nước ngọt, các loại gia cầm, gia súc.”
2.1.2. Đặc điểm hình thành các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên,
thành phố Hà Nội
“Phú Xuyên là huyện nằm ở phía Nam Thành phố Hà Nội - Thủ đô nước
CHXHCN Việt Nam. Phú Xuyên có vinh hạnh được sinh ra trong cái nôi của nền
văn minh Đồng bằng sông Hồng. Vùng đất cổ xứ Đoài, trấn Sơn Nam xưa. Cho nên
còn lưu giữ được những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc nói chung và của Kinh
đô Thăng Long nói riêng.”
“Cùng với quy hoạch chung của thành phố và quy hoạch vùng, từ năm 2015
và những năm tiếp theo, Phú Xuyên trở thành chuỗi đô thị vệ tinh quan trọng kết
nối với đô thị trung tâm. Mặt khác, nếu được tiếp nhận các trường đại học, các bệnh
viện lớn, các công trình văn hóa, thể thao và du lịch chuyển dịch từ nội thành sẽ tạo
ra diện mạo mới cho Phú Xuyên phát triển nhanh, bền vững trong tiến trình đổi mới
đất nước.”
“Phú Xuyên, con sông giàu có mà tổ tiên xưa chọn chữ đặt tên này là mảnh
đất trù phú, từ thiên nhiên, thổ nhưỡng, địa lý, địa hình đến con người và văn hóa
nơi đây…tất cả đều lôi cuốn, hấp dẫn các nhà đầu tư, đối tác trong và ngoài nước.
Đây là mảnh đất hứa hẹn tiềm năng phát triển cho những ai biết tìm về.”
38
“Chính vì vậy, Phú Xuyên cũng là cái nôi của rất nhiều làng nghề nổi tiếng như:
giày da Phú Yên, may mặc Vân Từ, khảm trai Chuyên Mỹ, đồ gỗ Tân Dân, Văn Nhân,
cơ kim khí Đại Thắng được bày bán ở nhiều các quận nội thành Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh và nhiều địa phương khác trên cả nước. Sản phẩm mây tre đan, cỏ tế Phú
Túc được xuất khẩu sang thị trường các nước Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ. Kinh tế từ
tiểu thủ công nghiệp đã góp phần giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho người
nông dân, ổn định tình hình chính trị ở cơ sở. Đến nay, trên địa bàn huyện có 37 làng
được công nhận làng nghề theo tiêu chí cấp thành phố trong số 98/138 làng của toàn
huyện có nghề (bằng 71%). Sản phẩm của các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đã
có chỗ đứng trên thị trường trong nước và thế giới.”
2.2. Thực trạng một số giá trị cần đƣợc bảo tồn và phát huy của các làng nghề
truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội
2.2.1. Thực trạng các giá trị văn hóa
“Có thể nói lịch sử phát triển của văn hoá làng nghề luôn gắn liền với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trước tiên làng nghề là phương thức
sản xuất truyền thống có bề dày lịch sử lâu đời, là nơi hội tụ và kết tinh những nét
văn hoá truyền thống đặc trưng của Việt Nam.”
“Mỗi làng nghề có một nét lịch sử về nguồn gốc hình thành và phát triển tạo
nên bản sắc văn hoá riêng của mỗi làng nghề. Nhiều làng nghề đã nổi bật lên trong
lịch sử văn hoá, văn minh của Việt Nam. Văn hoá làng nghề ở huyện Phú Xuyên
còn thể hiện nét văn hoá qua hoạt động lễ hội, hoạt động mua bán sản phẩm và
phong cảnh của làng nghề, các hoạt động lễ hội thụ hưởng thành quả lao động sau
một năm làm việc vất vả hay hoạt động giỗ tổ bày tỏ sự tri ân đến ông tổ của làng
nghề hàng năm là những hoạt động mang đậm nét văn hoá, thu hút nhiều người
quan tâm.”
“Bên cạnh đó, những mối quan hệ truyền thống, tương trợ lẫn nhau giữa
những người sản xuất ở làng nghề và các hoạt động mua bán phường hội hàng ngày
tạo nên bản sắc riêng của các làng nghề. Cảnh quan của làng nghề huyện Phú
Xuyên với hình ảnh cây đa, bến nước sân đình và chùa chiền cũng thể hiện nét văn
hoá đặc trưng của mỗi làng nghề.”
39
“Xét về góc độ vai trò của văn hoá làng nghề ở huyện Phú Xuyên đối với phát
triển kinh tế - xã hội thì chúng ta rõ ràng nhận thấy rằng làng nghề không chỉ là nơi
sản xuất hàng hoá mà còn là môi trường phát triển văn hoá- kinh tế - xã hội, đồng
thời là chiếc nôi của công nghệ truyền thống. Những nét văn hoá này từ lâu không
thể thiếu và làm phong phú văn hoá của Việt Nam, nhiều làng nghề đã đi vào thơ
ca, được đề cập trong các tác phẩm văn học - lịch sử. Ngành nghề truyền thống đặc
biệt là các nghề thủ công truyền thống chính là di sản qúi giá mà ông cha ta đã tạo
lập để lại cho thế hệ sau.”
“Làng nghề huyện Phú Xuyên là môi trường bảo tồn và lưu giữ những bí
quyết, tinh hoa nghề truyền thống từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo nên những lớp
nghệ nhân tài năng của làng nghề. Làng nghề ở huyện Phú Xuyên còn gắn với văn
hoá bởi sản phẩm làng nghề đa dạng, phổ biến và gần gũi với sinh hoạt thường ngày
của người dân như: Mây tre, thêu, gốm sứ, gỗ mỹ nghệ, khảm trai ốc truyền thống,
giày da.... Mỗi sản phẩm làng nghề phản ánh sinh động sinh hoạt của dân cư, những
phong cảnh, phong tụ tập quán hay sự kiện nổi bật của Việt Nam.”
“Bên cạnh việc quan tâm phát triển làng nghề, Phú Xuyên đặc biệt chú trọng
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Những lễ giỗ Tổ nghề, tôn
vinh nghệ nhân, các lễ hội văn hóa dân gian được tổ chức hằng năm. Đình thờ tổ
nghề, các di tích lịch sử - văn hóa được tôn tạo; các loại hình nghệ thuật truyền
thống như hò cửa đình, múa hát bài bông, ca trù, chầu văn được lưu giữ. Sự tinh tế
trong kỹ năng làm nghề để tạo ra những sản phẩm hàng hóa chất lượng cao và đầy
tính nhân văn, kết tinh của tâm hồn, trí tuệ và đôi bàn tay tài hoa của người thợ thủ
công đang tiếp tục được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trên quê hương
Phú Xuyên.”
“Lĩnh vực văn hóa đạt được những kết quả nhất định như tổ chức đội văn nghệ
quần chúng tham gia liên hoan ca múa nhạc “Đảng - Mùa Xuân - Dân tộc” do thành
phố tổ chức, đạt giải A toàn đoàn; tổ chức Hội nghị sinh hoạt CLB thơ nhân ngày
Thơ Việt Nam lần thứ XVII; phối hợp với các xã tổ chức các hoạt động biểu diễn
nghệ thuật nhân kỷ niệm 89 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
(03/02/1930 - 03/02/2019) và Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019.”[36].
40
“Nhưng xét trên đà phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cần
có cách nhìn nhận thực tế hơn trong mối quan hệ của người dân với xã hội mà trước
tiên về mặt huyết thống, dòng họ và hàng xóm láng giềng sẽ có nhiều thay đổi trong
tương lai. Trước những thay đổi về cách thức lao động nghề nghiệp, tiêu dùng,
những giá trị ứng xử của lối sống truyền thống vẫn còn lưu đậm, đặc biệt là trong
cộng đồng làng nghề truyền thống. Nhưng xen vào đã có những biến đổi, tiếp biến
không nhẹ trong lối sống hay trong sản xuất phát triển, sản phẩm làng nghề bán ra
thị trường nhiều, tính cạnh tranh lớn, các đơn hàng được đặt trên nguyên tắc pháp
lý, yếu tố tình cảm bị giảm đi. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã dẫn đến sự
cạnh tranh giữa các làng nghề, giữa các gia đình trong làng nghề với nhau. Do sản
xuất cùng một loại hàng hoá, các gia đình trong làng nghề thường cạnh tranh nhau
trong việc thu hút khách hàng, giá cả sản phẩm, các chế độ hậu mãi… dó đó nhiều
khi đã xảy ra các hành vi ứng xử không lành mạnh trong kinh doanh buôn bán để
tranh giành khách hàng. Mặt trái ấy đã ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ ứng xử của
hộ gia đình sản xuất theo đó những giá trị văn hóa ứng xử làng nghề cũng giảm đi.”
“Nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển của làng nghề truyền thống Việt Nam
nói chung và làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên nói riêng đã dẫn đến mối
quan hệ xã hội, cách ứng xử trong cộng đồng làng xã, giao lưu văn hoá làng nghề đã
có nhiều chuyển biến tiêu cực, giá trị văn hoá trong cộng đồng làng xã bị phai mờ
như quan hệ làng xóm bị rạn vỡ, tình làng nghĩa xóm có xu hướng bị mờ nhạt, ứng
xử văn hoá của một số cá nhân trong làng bị chi phối quá nhiều bởi đồng tiền mà
bất chấp tất cả, quan hệ ứng xử trong huyết thống, họ hàng không còn được gắn bó
như xưa. Từ thái độ thuận theo tự nhiên để tồn tại thì ngày nay dần chuyển sang
khai thác sự ưu đãi của tự nhiên, cải biến tự nhiên theo sự đòi hỏi gấp gáp của con
người và mong muốn làm chủ nó một cách vô thức. Do đó con người với sức mạnh
của trí tuệ và tính cộng đồng không chỉ dừng ở việc thích ứng và chống đỡ tự nhiên,
mà đã chủ động gây ra các hành vi ngược với lẽ thuận mà tự nhiên vốn có.”
“Nhận xét và đánh giá thực trạng các giá trị văn hóa ở huyện Phú Xuyên ta
thấy. Việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong huyện trước tác
41
động của toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, đã và đang tác động mạnh mẽ đến
mọi mặt trong đời sống văn hóa, xã hội. Xét về lĩnh vực văn hoá, toàn cầu hoá
không chỉ tạo ra cơ hội cho huyện Phú Xuyên mở rộng sự giao lưu, hiểu biết và
xích lại gần nhau, mà còn đặt những giá trị văn hoá truyền thống của huyện trước
nhiều thách thức to lớn. Để giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của
huyện, cần: thứ nhất, tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách
mạng của huyện; thứ hai, đẩy mạnh việc giáo dục pháp luật; thứ ba, xác lập bản lĩnh
văn hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.”
“Thật vậy, những mặt trái, những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đã và
đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng.
Đặc biệt, một số giá trị đạo đức tốt đẹp, thiêng liêng… vốn có vị trí quan trọng
trong hệ giá trị văn hoá truyền thống của huyện Phú Xuyên nói riêng và của dân tộc
Việt Nam nói chung đang có nguy cơ bị mai một và tha hoá. Chẳng hạn, lối sống
tình nghĩa, đậm chất nhân văn kiểu “thương người như thể thương thân”, “một con
ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”… vốn là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của
nền văn hóa làng xã Việt Nam đã từng tồn tại hàng ngàn năm nay đang bị mai một,
mờ nhạt dần. Ở không ít nơi, cả thành thị lẫn nông thôn, ngay cả trong huyện Phú
Xuyên một bộ phận dân cư đã chịu ảnh hưởng của lối sống ích kỷ, hẹp hòi, lấy lối
sống theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng” thay cho lối sống rất “con người” trước đây.
Không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến cho rằng, đạo đức ở một bộ phận nhân dân,
đặc biệt là ở tầng lớp thanh, thiếu niên đang có xu hướng "trượt dốc". Đây thực sự
là những tín hiệu “báo động đỏ” trong đời sống đạo đức ở địa bàn huyện Phú Xuyên
và ở nước ta hiện nay. Một hệ quả khác mà toàn cầu hoá kinh tế mang lại là thị
trường hàng hoá với số lượng lớn, chủng loại đa dạng và giá rẻ… Sự thâm nhập tràn
lan các loại hàng hoá đa dạng đã tác động mạnh và làm thay đổi tâm lý, nhân cách
và lối sống của không ít người dân. Nó vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con
người, vừa kích thích tâm lý tiêu dùng trong mọi tầng lớp xã hội, tạo điều kiện để
hình thành lối sống hưởng thụ, xã hội tiêu dùng. Chính điều này đã làm cho một bộ
phận không nhỏ trong nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên có tâm lý coi trọng các
42
giá trị vật chất, xem nhẹ các giá trị tinh thần và dẫn đến sự hình thành lối sống
hưởng thụ, thực dụng, xa hoa lãng phí, xa lạ với lối sống giản dị, tiết kiệm – những
phẩm chất truyền thống quý báu của con người Việt Nam. Cùng với sự xuất hiện
của lối sống chạy theo những giá trị vật chất là sự nảy sinh tâm lý hướng ngoại,
thích dùng hàng ngoại, coi thường các sản phẩm do chính chúng ta sản xuất, kể cả
hàng hoá có chất lượng cao. Điều này không chỉ kìm hãm sự phát triển của các
ngành sản xuất trong nền kinh tế nước ta, mà còn tác động một cách tiêu cực đến tư
duy và lối sống của nhân dân.”
2.2.2. Thực trạng các giá trị lịch sử
“Huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội, mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn
hóa, cách mạng và anh hùng. Đây là một địa phương có truyền thống lịch sử, văn
hoá, cách mạng, ở đó còn lưu giữ được nhiều di tích từ thời kỳ tiền - sơ sử đến các
di tích của các thời lịch sử sau này. Theo danh mục các di tích đã xếp hạng của tỉnh
Hà Tây (cũ) và của thành phố Hà Nội, tính đến tháng 12/2015, toàn huyện có 413
DTLSVH với các loại di tích đa dạng như: Đình, chùa, đền, miếu, cổng làng, văn
chỉ, quán, di tích cách mạng, nhà thờ danh nhân, nhà thờ đạo Thiên Chúa giáo….
Trong đó có 112 di tích đã được xếp hạng, với 38 di tích cấp quốc gia, 74 di tích
cấp tỉnh/thành phố, các di tích còn lại đang tiếp tục làm hồ sơ đề nghị các cấp khảo
cứu xếp hạng. Về loại hình di tích ở xã/phường có 03 loại hình: Di tích khảo cổ học,
di tích lịch sử và di tích kiến trúc nghệ thuật.”
“Về phương diện văn hóa phi vật thể, Phú Xuyên còn lưu giữ được những giá
trị như "Hò Cửa Đình và múa hát Bài Bông”ở làng Phú Nhiêu (xã Quang Trung);
Nghề nặn Tò he ở thôn Xuân La (xã Phượng Dực) và hát Ca Trù ở thôn Chanh
Thôn (xã Văn Nhân). Phú Xuyên còn có các làng nghề truyền thống như: Khảm trai
- Sơn mài xã Chuyên Mỹ, nghề Giầy da - xã Phú Yên, nghề đan Cỏ tế - xã Phú Túc,
nghề mộc ở xã Tân Dân, xã Văn Nhân, nghề may mặc (may Complet) ở xã Vân
Từ... Các lễ hội cổ truyền nổi tiếng như: Hội vật lầu (Thị trấn Phú Xuyên), hội đánh
gậy ở Thượng Liễu (xã Tân Dân), Hội chạy lợn ở Trại Diền (xã Hồng Thái), Hội
rước nước ở Cát Bi (xã Thụy Phú)... Theo điều tra của BQL DT&DT thành phố Hà
43
Nội năm 2014 cho biết, tính đến nay ở Phú Xuyên đã có 94 DSVH phi vật thể tại
các làng, khu dân cư được thành phố công nhận. Với những giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể tiêu biểu như vậy vấn đề bảo tồn và phát huy đã trở thành một nhiệm
vụ cấp thiết đặt ra cho các nhà quản lý.”
“Trong thời gian qua, công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa (DT LSVH) tại
huyện Phú Xuyên đã được các cấp và các ngành quan tâm và đạt được những kết
quả đáng kể. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc:
Nhiều di tích xuống cấp trầm trọng như: Đình Đa Chất xã Đại Xuyên, đình Cổ Chế
xã Phúc Tiến…, trong khi đó nguồn kinh phí nhà nước cũng như tại cơ sở các địa
phương còn rất hạn hẹp, chế độ cho người trông coi trực tiếp tại di tích chưa có quy
định cụ thể của thành phố; tình trạng tự ý xây dựng, tôn tạo và tu bổ (ốp lát gạch
hoa, gạch men, bê tông cốt thép…) làm biến dạng di tích đã và đang xảy ra tại một
số địa phương trong huyện, đặc biệt là hệ thống các di tích chưa được xếp hạng.
Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước tới các làng, thôn,… chưa được quan tâm; việc hưởng
ứng tham gia bảo vệ, phát huy giá trị di tích trên địa bàn huyện của người dân còn
hạn chế. Vì vậy, hơn bao giờ hết, công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị
DTLSVH của huyện Phú Xuyên trong giai đoạn hiện nay cần được tăng cường và
nâng cao hiệu quả hoạt động để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao
của nhân dân; nhu cầu nghiên cứu, tham quan du lịch của khách trong, ngoài nước,
tạo nền móng vững bền góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.”
“Phát huy giá trị DTLSVH gồm các hoạt động: Tổ chức tham quan tại di tích;
quảng bá di tích trên các phương tiện truyền thông đại chúng; xuất bản các ấn phẩm
giới thiệu di tích; đưa di tích đến với ngành công nghiệp du lịch phát huy giá trị di
sản văn hóa (DSVH) là một hoạt động nhằm khai thác những giá trị của di sản để
phục vụ và đáp ứng nhu cầu của xã hội, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước, đồng thời góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân đối với việc
bảo vệ DSVH dân tộc. Phát huy: “làm cho cái hay, cái tốt nhân thêm tác dụng, thúc
đẩy tiếp tục nảy nở nhiều hơn”.”
44
“Nhận xét và đáng giá thực trạng các giá trị lịch sử ta thấy với 413 di tích gồm
di tích đã được xếp hạng và những di tích chưa xếp hạng; Di tích tập trung dày đặc ở
06 xã như: Hồng Thái, Hoàng Long, Vân Từ, Phú Túc, thị trấn Phú Xuyên, Tân
Dân... với 186 di tích chiếm trên 45,04% tổng số di tích toàn huyện. Bên cạnh đó,
một số xã/thị trấn như thị trấn Phú Minh, Đại Thắng, Minh Tân, Nam Triều, Sơn Hà,
Phượng Dực, Hồng Minh, Quang Trung... mỗi xã/thị trấn chỉ có 03 - 16 di tích.”
“Qua nghiên cứu kết quả tình hình xếp hạng di tích cho thấy, ở huyện Phú
Xuyên có nhiều di tích kiến trúc nghệ thuật vào thời Lê đã trùng tu và được xây
dựng bổ sung vào thời Nguyễn như: Đình làng Giẽ Thượng... Vì vậy, trong quyết
định xếp hạng các di tích này được xác định có niên đại vào thời Lê - Nguyễn. Đó
là những công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị văn hóa tiêu biểu cần được quan
tâm trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích cấp Quốc gia tại vùng
đất đang trong quá trình đô thị hoá nhanh như hiện nay.”
“Trong những năm qua, huyện Phú Xuyên đã vận dụng và thực hiện tốt Luật
Di sản Văn hóa và các văn bản quy phạm pháp luật trong việc bảo vệ và phát huy
giá trị DTLSVH. Quá trình thực hiện công tác chuyên môn như: kiểm kê, xếp hạng
di tích, nghiên cứu khoa học về di tích; bảo vệ chống vi phạm di tích, tu bổ, tôn tạo
di tích; phát huy gía trị di tích. Các hình thức thu hút nguồn lực cho tu bổ, tôn tạo và
phát huy giá trị di tích ngày càng được mở rộng và nâng cao hiệu quả. Việc thanh
tra, kiểm tra, phát hiện sai phạm và xử lý đơn thư khiếu nại về DTLSVH được thực
hiện thường xuyên và nghiêm túc, góp phần hạn chế những vi phạm. Các hình thức
đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nhằm nâng cao kiến thức và năng lực quản lý di
tích cho lực lượng làm công tác này được chú trọng, góp phần giữ gìn và phát huy
giá trị của di tích. Tuyên truyền trong nhân dân pháp luật về DTLSVH; nhờ đó mà
các giá trị của các DTLSVH trên địa bàn ngày càng được nâng cao, nhất là trong
việc nâng cao nhận thức và giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay.”
2.2.3. Thực trạng các giá trị kinh tế
“Làng nghề ở huyện Phú Xuyên gắn với giá trị văn hoá và lịch sử của địa
phương nên rõ ràng có thể phát triển kinh tế - xã hội như phát triển du lịch làng
45
nghề để thu hút khách du lịch. Du khách muốn đến làng nghề tham quan phong
cảnh, nếp sống sinh hoạt và công nghệ sản xuất truyền thống của làng nghề, nhiều
du khách muốn đến làng nghề để quan sát những thao tác khéo léo của các nghệ
nhân và được tận tay làm ra sản phẩm thủ công truyền thống. Như vậy có thể thấy
rằng văn hoá làng nghề ở huyện Phú Xuyên chi phối rất nhiều yếu tố để phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.”
“Các làng nghề ở huyện Phú Xuyên tạo ra nhiều sản phẩm, mẫu mã đa dạng,
mang đậm nét văn hóa riêng của mỗi làng nghề trong huyện; tạo dựng được thị
trường rộng lớn như: Thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và
quốc tế như: Nga, Mỹ, Ba Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia,.. đã
giải quyết việc làm cho trên 80% lao động trong các làng nghề và vùng phụ cận, đời
sống của nhân dân các làng nghề được cải thiện rõ rệt, số hộ khá và giàu tăng
nhanh, số hộ nghèo giảm, nhiều công trình phúc lợi được xây dựng, bộ mặt nông
thôn ngày càng đổi mới, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế- xã hội của
huyện Phú Xuyên.”
“Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Phú Xuyên lần thứ XXIV chủ trương giữ
vững và phát triển các ngành nghề truyền thống. Huyện ủy ban hành Chương trình
số 05-CTr/HU, ngày 08/01/2016 về phát triển làng nghề truyền thống gắn với du
lịch làng nghề huyện Phú Xuyên giai đoạn 2015 - 2020, đề ra 5 nhiệm vụ trọng tâm,
12 chỉ tiêu chủ yếu, 3 khâu đột phá, trong đó có nhiệm vụ về phát triển tiểu thủ công
nghiệp, làng nghề là: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh
tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, tích cực áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào
sản xuất. Tập trung phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch làng nghề;
nâng cao chất lượng, hiệu quả về sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề; đảm bảo
kinh tế của huyện phát triển bền vững. Để đảm bảo cho làng nghề phát triển, bảo
tồn và phát huy các yếu tố truyền thống, sử dụng nhiều lao động tại chỗ, sử dụng
nguồn nguyên liệu trong nước, chú trọng phát triển các sản phẩm thủ công thế mạnh
như khảm trai, sơn mài, cỏ tế, da giày; gắn sản xuất làng nghề với hoạt động du lịch
văn hóa, lễ hội truyền thống… thì ngay lúc này đây, làng nghề Phú Xuyên phải vượt
46
qua được những thách thức, khó khăn về mẫu mã đơn điệu, phương thức sản xuất
manh mún, nhỏ lẻ, thiếu lực lượng thợ lành nghề và nắm bắt khoa học công nghệ
cao đáp ứng nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó là tình trạng ô nhiễm môi trường làng
nghề, sức cạnh tranh về thị trường chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của làng
nghề truyền thống huyện vốn nổi tiếng từ hàng trăm năm; sự đầu tư cho việc xây
dựng và quảng bá thương hiệu còn nhiều hạn chế.”
Về lĩnh vực kinh tế, tổng giá trị sản xuất ước đạt 2.936,3 tỷ đồng (bằng
105,64% so với cùng kỳ năm 2018). Trong đó, giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản
ước đạt 427,9 tỷ đồng (bằng 96,9% so với cùng kỳ năm 2018), giá trị sản xuất công
nghiệp - xây dựng ước đạt 2.019,5 tỷ đồng (bằng 107,34% so cùng kỳ năm 2018),
giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ đạt 488,9 tỷ đồng (bằng 107,06% so với cùng
kỳ năm 2018).[36]
Ngành nghề, dịch vụ tại địa phương chưa được đầu tư mở rộng quy mô sản
xuất, thị trường tiêu thụ còn nhỏ lẻ. Do thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai, dịch
bệnh xảy ra thường xuyên. Nguồn thu ngân sách địa phương còn thấp và tăng chậm;
nhu cầu chi ngân sách ngày càng lớn; khả năng cân đối thu chi ngân sách trên địa
bàn cũng gặp khó khăn. Trình độ của người lao động vẫn còn thấp, thiếu nguồn lao
động có chất lượng cao nên chưa đáp ứng được nhu cầu sản phẩm của thi trường, do
đó mà số sản phẩm đưa ra thị trường còn thấp. Khoa học - công nghệ, giáo dục -
đào tạo, y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân chưa đáp ứng được yêu cầu. Cơ sở
hạ tầng tuy đã được sửa chửa, nâng cấp nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội nên khó vận động bà con tham gia nhiệt tình các hoạt động tổ
chức cho công tác phát triển làng nghề.
Bên cạnh những thuận lợi thì làng nghề còn gặp không ít những khó khăn, cần
khắc phục. Đó là công nghệ còn lạc hậu tốn thời gian làm tăng giá thành sản phẩm,
chiến lược marketing sản phẩm còn nhiều hạn chế nên thu hút khách hàng còn
chậm, trình độ quản lý của chủ hộ sản xuất chưa cao gây khó khăn cho việc tiếp cận
công nghệ mới cũng như thị trường mới. Những khó khăn đó sẽ tạo cho làng nghề
nơi đây những thách thức cần phải vượt qua để tồn tại và phát triển bền vững. Đó là
47
làng nghề có thể bị mai một, sản phẩm làng nghề sẽ bị giảm giá, làm giả làm nhái
do đó làm mất niềm tin của khách hàng, mẫu mã sản phẩm không theo kịp thị hiếu
sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm với hàng hoá thay thế khác, hay khó
khăn về nguồn nguyên liệu đối với các làng nghề ở huyện Phú Xuyên... Tóm lại
ngoài những thuận lợi, những cơ hội thì bên cạnh đó còn có rất nhiều những khó
khăn và thách thức đòi hỏi nhiều cấp, ngành cũng như địa phương và những chủ cơ
sở sản xuất cần tham gia cùng nhau giải quyết để làng nghề truyền thống nơi đây
được phát triển và tồn tại mãi cũng thời gian.
“Nhận xét và đánh giá thực trạng các giá trị kinh tế ta thấy cùng với sự phát
triển của khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức, toàn cầu hoá đã trở thành xu thế
khách quan, có tác động mạnh mẽ không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà còn ở các
lĩnh vực chính trị, xã hội và văn hoá. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này... vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu
cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”. Thật vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện thời,
toàn cầu hoá không chỉ mang lại thời cơ lớn, mà còn tạo ra những thách thức không
nhỏ đối với tất cả các quốc gia, đặc biệt là với các nước đang phát triển trong trào
lưu hội nhập quốc tế. Toàn cầu hoá đang đặt chúng ta trước những thách thức lớn
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.”
“Xác định phát triển kinh tế là trung tâm thì giữ gìn, bảo tồn các di sản văn
hoá là nhiệm vụ then chốt. Gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc, xây
dựng tiêu chí người Phú Xuyên thanh lịch, văn minh. Động viên nhân dân nâng cao
tinh thần bảo vệ các di sản văn hoá; phát huy xã hội hoá trong bảo vệ tôn tạo các di
tích, tu sửa các di tích để trở thành các điểm tham quan du lịch. Bằng hình thức xã
hội hoá tiếp tục xây dựng để 100% số thôn, làng, khu dân cư có Nhà văn hoá và các
thiết chế văn hóa phục vụ cho văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao đủ điều kiện phục
vụ cho các lứa tuổi, các đối tượng. Khuyến khích củng cố và phát triển mạnh hơn
văn hoá phi vật thể; đầu tư để các điểm văn hoá: Hò cửa đình, múa hát Bài bông, Ca
trù, nghề nặn Tò he... được mở rộng và phát triển. Duy trì và tổ chức tốt các lễ hội
48
truyền thống của các địa phương đặc biệt là tôn vinh và tổ chức lễ hội vinh danh các
làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện. Củng cố và tạo điều kiện để các câu lạc
bộ, các đội văn nghệ phát triển có hiệu quả. Chính sách đầu tư xây dựng, tu sửa và
phát triển các điểm văn hóa sẽ đẩy mạnh dịch vụ du lịch và khi du lịch phát triển
mạnh sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong huyện Phú Xuyên góp phần vào sự phát
triển của đất nước.”
2.3. Nguyên nhân của thực trạng
2.3.1. Nguyên nhân của thành tựu
“Thứ nhất, huyện Phú Xuyên là đơn vị hành chính cấp huyện của Thủ đô,
nằm trong địa bàn tương đối thuận lợi, nằm ở phía Nam thành phố Hà Nội, cách
trung tâm Thủ đô 40 km; phía Bắc giáp huyện Thường Tín; phía Tây giáp huyện
Ứng Hòa; phía Nam giáp huyện Duy Tiên- Tỉnh Hà Nam; phía Đông giáp sông
Hồng và huyện Khoái Châu - Tỉnh Hưng Yên, một vị trí địa lý thuận lợi không
phải địa phương nào cũng có. Sản phẩm trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ dễ dàng cho khâu tiêu thụ, nâng cao hiệu quả kinh tế, từng bước cải
thiện bộ mặt xã hội.”
Thứ hai, huyện Phú Xuyên có điều kiện đất đai, địa hình, khí hậu thuận lợi cho
việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất chuyên canh và thâm canh tăng vụ,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển các làng nghề truyền thống giúp
nâng cao thu nhập và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện.
Thứ ba, huyện Phú Xuyên là một huyện có truyền thống văn hóa lâu đời,
nhân dân cần cù chịu khó, biết tự mình vượt lên khó khăn. Đến nay cơ bản đại bộ
phận người dân trong huyện là ổn định và phát triển. Hệ thống điện được chú trọng
đầu tư. Văn hóa giáo dục ngày càng được quan tâm đầu tư nhiều hơn, từng bước đa
dạng các loại hình giáo dục đảm bảo 100% số trẻ em trong độ tuổi được đến trường.
“Thứ tư, để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững, Phú Xuyên triển
khai chương trình xây dựng và phát triển làng nghề truyền thống huyện giai đoạn
2011 - 2015. Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 có 100% làng có nghề. Đây là
cơ hội để ngành nghề Phú Xuyên phát triển. Vừa qua, UBND thành phố Hà nội đã
49
có quyết định công nhận làng Dệt lưới chã thôn Văn Lãng, xã Quang Trung là làng
nghề truyền thống. Như vậy, đến nay Phú Xuyên có 38 làng nghề truyền thống đã
được thành phố công nhận.”
“Thế mạnh của Phú Xuyên là có nhiều làng nghề, có vị trí địa lý thuận lợi,
diện tích đất nông nghiệp rộng và đang được chuyển đổi, khai thác theo hướng nâng
cao hiệu quả, năng suất cây trồng.”
“Thời gian này, huyện Phú Xuyên tiếp tục cụ thể hóa nghị quyết Đảng bộ
huyện khóa XXIII, tập trung quy hoạch xây dựng các khu, cụm điểm công nghiệp
làng nghề, xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn.”
“Thứ năm, các chủ trương chính sách, Nghị quyết của Đảng được Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện bám sát đúng với thực tế của địa phương, công
tác điều hành đã kịp thời và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên và cán
bộ công chức tại địa bàn huyện Phú Xuyên.”
Nhìn chung các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên như làng nghề
mây tre đan Phú Túc, giày da Phú Xuyên hay làng Mộc Tân Dân... là những làng
nghề truyền thống đã tồn tại ở nhiều thế kỉ trước và được lưu truyền phát triển đến
ngày nay.. Ở nơi đây từng người dân luôn có ý thức truyền nghề nhằm gìn giữ
những gì mà tổ tiên để lại đồng thời cũng giữ cho con cháu một nghề mang lại thu
nhập ổn định. Những người thợ, những nghệ nhân ở các làng nghề với tay nghề
khéo léo đã tạo ra những sản phẩm không những bền, đẹp mà còn ngày càng phong
phú và đa dạng. Xã hội phát triển tạo cơ hội cho lớp trẻ có tâm huyết với nghề cổ
truyền được học hỏi nghiên cứu và thổi hồn vào sản phẩm, đã sáng tạo ra nhiều sản
phẩm tinh xảo có mặt trên thị trường trong và ngoài nước và đáp ứng được nhu cầu
thị hiếu của nhiều đối tượng khách hàng, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát
triển bền vững của làng nghề. Những điểm mạnh này cũng đã tạo cho các làng nghề
ở Phú Xuyên những cơ hội nhất định trong việc hợp tác tiêu thụ những sản phẩm
mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, giày da, ...đáp ứng được nhu cầu của một tầng lớp có
thu nhập cao và góp phần nâng cao mức sống cho người dân làng nghề.
50
2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất, ngành nghề, dịch vụ tại địa phương chưa được đầu tư mở rộng quy
mô sản xuất, thị trường tiêu thụ còn nhỏ lẻ.
Thứ hai, do thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai, dịch bệnh xẩy ra thường xuyên.
Nguồn thu ngân sách địa phương còn thấp và tăng chậm; nhu cầu chi ngân sách ngày
càng lớn; khả năng cân đối thu chi ngân sách trên địa bàn cũng gặp khó khăn.
Thứ ba, là huyện có nguồn lao động dồi dào, chất lượng lao động ngày càng được
cải thiện. Tuy nhiên, trình độ của người lao động vẫn còn thấp, thiếu nguồn lao động có
chất lượng cao nên chưa đáp ứng được nhu cầu sản phẩm của thị trường.
Thứ tư, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế và chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân chưa đáp ứng được yêu cầu. Cơ sở hạ tầng tuy đã được sửa chửa,
nâng cấp nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội nên khó
vận động bà con tham gia nhiệt tình các hoạt động tổ chức cho công tác phát triển
làng nghề.
Bên cạnh những thành tựu thì các làng nghề còn mắc phải một số hạn chế,
cần khắc phục. Đó là công nghệ còn lạc hậu tốn thời gian làm tăng giá thành sản
phẩm, chiến lược marketing sản phẩm còn nhiều hạn chế nên thu hút khách hàng
còn chậm, trình độ quản lý của chủ hộ sản xuất chưa cao gây khó khăn cho việc tiếp
cận công nghệ mới cũng như thị trường mới. Những khó khăn đó sẽ tạo cho làng
nghề nơi đây những thách thức cần phải vượt qua để tồn tại và phát triển bền vững.
Đó là làng nghề có thể bị mai một, sản phẩm làng nghề sẽ bị giảm giá, làm giả làm
nhái do đó làm mất niềm tin của khách hàng, mẫu mã sản phẩm không theo kịp thị
hiếu sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm với hàng hoá thay thế khác, hay
khó khăn về nguồn nguyên liệu đối với làng nghề truyền thống...
Tóm lại ngoài những thành tựu thì bên cạnh đó còn có rất nhiều những mặt
hạn chế đòi hỏi nhiều cấp, ngành cũng như địa phương và những chủ cơ sở sản xuất
cần tham gia cùng nhau giải quyết để làng nghề truyền thống nơi đây được phát
triển và tồn tại mãi cũng thời gian.
51
Chƣơng 3
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ XUYÊN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Một số nguyên tắc trong việc đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở
huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội
3.1.1. Nguyên tắc toàn diện
“Từ việc nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về
sự phát triển rút ra từ phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực.”
“Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ
với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú. Do đó, khi
nhận thức về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan
điểm phiến diện chỉ xem xét sự vật, hiện tượng ở một vài mối liên hệ đã vội vàng
kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng. Ví dụ như khi tìm hiểu nguyên
nhân vì sao các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên ngày càng mai một dần
đi thì trước hết phải xem xét phương pháp sản xuất thủ công, tiếp đến là đến điều
kiện sản xuất, chất lượng của nguyên liệu, yếu tố vốn, yếu tố đầu ra, yếu tố về đa
dạng mẫu mã của sản phẩm, yếu tố quảng bá thị trường của các làng nghề… có như
vậy mới mong tìm ra nguyên nhân khắc phục tình trạng mai một của các làng nghề
truyền thống ở huyện Phú Xuyên.”
“Trên cơ sở quán triệt quan điểm toàn diện trong mọi hoạt động nhận thức và
thực tiễn, quan điểm toàn diện đặt ra các yêu cầu cơ bản sau:”
“Thứ nhất, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật, hiện
tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các mặt của chính
sự vật và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác kể cả mối
liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Cần tránh quan điểm phiến diện, chỉ xem
xét sự vật, hiện tượng ở một hay một vài mối liên hệ đã vội vàng đi đến kết luận về
bản chất sự vật. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.”
52
“Thứ hai, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất yếu… để hiểu rõ bản chất của sự vật và có
phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động
của bản thân. Chúng ta phải xem xét thấu đáo và phân biệt từng mối liên hệ,
tránh xem xét lan man, giàn trải và làm nổi bật lên cái cơ bản nhất, quan trọng
nhất của sự vật, hiện tượng đó.”
“Thứ ba, quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào những sai lầm của
chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Thực chất của chủ nghĩa chiết trung là sự
kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ tạo nên một hình ảnh không đúng về sự vật,
hiện tượng. Thực chất của thuật ngụy biện là sự đánh tráo có dụng ý, phản ánh sai
lệch, xuyên tạc sự vật, hiện tượng. Do vậy trong hoạt động thực tiễn, theo quan
điểm toàn diện khi tác động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý tới những
mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới mối liên hệ của những sự vật, hiện
tượng khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các
phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho các hoạt
động của bản thân.”
Chẳng hạn như, để thực hiện mục tiêu: Phát triển các làng nghề truyền thống ở
huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội thì một mặt chúng ta phải phát huy các yếu tố
nội lực vốn có trong các làng nghề; mặt khác phải biết tận dụng các yếu tố từ bên
ngoài, biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, biết tận dụng các nguồn vốn đầu
tư từ bên ngoài để phát triển các làng nghề từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế của đất nước.
“Thực hiện tốt những yêu cầu trên của quan điểm toàn diện giúp chúng ta có
cái nhìn sâu sắc và thấu đáo tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng, từ đó chúng ta
có thể đưa ra được các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát
huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.”
3.1.2. Nguyên tắc kết hợp giữa bảo tồn và phát huy
“Bảo tồn di sản (heritage preservation) được hiểu như là các nỗ lực nhằm bảo
vệ và giữ gìn sự tồn tại của di sản theo dạng thức vốn có của nó.Về quan điểm bảo
53
tồn cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng trên thế giới vẫn tựu trung hai quan
điểm đó là: Bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế thừa.”
“Phát huy trên cơ sở sàng lọc, duy trì và làm phong phú thêm những nét đẹp
văn hóa vốn có. Phát huy giá trị văn hóa là những hành động hướng đích nhằm đưa
sản phẩm văn hóa vào trong thực tiễn xã hội, trở thành tiềm năng và nội lực góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh
thần cho con người.”
“Để phát triển các làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên thì phải biết kết
hợp chặt chẽ hai yếu tố đó là bảo tồn và phát huy:”
“Để bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống, huyện Phú Xuyên, thành
phố Hà Nội đã đưa ra các giải pháp cụ thể như xây dựng vùng nguyên liệu ổn định.
Theo đó, đối với những nguyên liệu là sản phẩm nông nghiệp, trong điều kiện diện
tích đất phục vụ cho sản xuất nguyên liệu ngày càng thu hẹp, cần đẩy mạnh áp dụng
công nghệ hiện đại để tăng năng suất sản xuất nguyên liệu. Các làng nghề nên ký
kết hợp đồng với đối tác, trong đó ràng buộc những điều khoản cụ thể, rõ ràng để
xây dựng vùng nguyên liệu ổn định về số lượng và giá cả.”
“Đồng thời, hỗ trợ các làng nghề tìm kiếm thị trường tiêu thụ, kết hợp một
cách hợp lý giữa truyền thống và công nghệ hiện đại,cùng với quá trình sản xuất thủ
công thì bên cạnh đó áp dụng một phần công nghệ vào một số công đoạn của quá
trình sản xuất, đồng thời vẫn kế thừa kinh nghiệm trong quy trình chế tác ở những
công đoạn thể hiện sự tinh xảo, nét đặc trưng của sản phẩm. Từ đó có thể sản xuất
ra sản phẩm nhanh hơn, mẫu mã phong phú hơn, giá thành rẻ hơn nhưng vẫn giữ
được nét tinh xảo, đặc trưng truyền thống. Việc xuất khẩu các mặt hàng thủ công
truyền thống từ các làng nghề sản xuất ra đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
khu vực nông thôn, đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.”
“Ngoài ra, huyện Phú Xuyên chủ trương phát triển làng nghề nhưng phải gắn
với bảo vệ môi trường. Đối với những làng nghề ít gây ô nhiễm môi trường như đan
lát mây tre thì vẫn có thể sản xuất, kinh doanh ở hộ gia đình. Đối với một số làng
nghề gây ô nhiễm môi trường trong một số khâu nhất định cần di rời những khâu
54
trong chuỗi công đoạn sản xuất gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu dân cư. Đối với
những làng nghề truyền thống gây ô nhiễm môi trường nặng nề thì cần hình thành
các cụm công nghiệp tập trung để bố trí làng nghề.”
3.1.3. Nguyên tắc tính hiệu quả
“Các biện pháp nêu ra nhằm vào mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị làng nghề truyền thống ở huyện
Phú Xuyên. Những biện pháp nêu ra nhằm vào việc từng bước cải tiến chất lượng
và hiệu quả của hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị làng nghề truyền thống.
Xuất phát từ nguyên tắc tính hiệu quả, những biện pháp đề xuất cần mang lại hiệu
quả trong hoàn cảnh cụ thể và trong thời điểm nhất định.”
3.1.4. Nguyên tắc tính khả thi
“Khả thi”theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là khả năng thực hiện. Như vậy một
hoạt động bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống có tính khả thi là một
hoạt động có khả năng thực hiện trên thực tế hay nói cách khác là có khả năng phát
triển kinh tế mà không chỉ dừng lại ở trên giấy.Việc đảm bảo tính khả thi của hoạt
động bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống là một yêu cầu quan trọng
được đặt ra.
“Tính khả thi của hoạt động bảo tồn và phát huy bao gồm sự phù hợp giữa quy
định của hoạt động bảo tồn và phát huy với yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của
xã hội và điều kiện đảm bảo để thực hiện.”
“Nếu hoạt động bảo tồn và phát huy phản ánh chính xác, kịp thời những vấn đề
đặt ra từ thực tiễn trong các làng nghề, chứa đựng những phương hướng phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế- xã hội và yêu cầu quản lý nhà nước sẽ tạo “đòn bẩy”tăng
trưởng kinh tế - xã hội góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.”
“Hoạt động bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống ở huyện Phú
Xuyên phải đáp ứng những yêu cầu sau đây để có tính khả thi:”
“Nội dung của hoạt động bảo tồn và phát huy phải phù hợp với các điều kiện
kinh tế- xã hội hiện đại.”
“Hoạt động bảo tồn và phát huy phải đảm bảo tính hợp pháp, tính đồng bộ
thống nhất, đưa ra các phương hướng minh bạch, rõ ràng, chi tiết có khả năng thi
hành ngay.”
55
“Tính khả thi là một yếu tố “cần”của hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị
của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.”
3.2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và
phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố
Hà Nội
3.2.1. Hoàn thiện các văn bản, chính sách đối với hoạt động bảo tồn và phát huy
các giá trị của làng nghề truyền thống
“Mục đích của biện pháp: Hoàn thiện các chính sách quản lý, hỗ trợ của nhà nước,
địa phương nhằm đảm bảo cho sự phát triển các làng nghề trong huyện Phú Xuyên.”
“Chính sách quản lý, hỗ trợ của nhà nước, địa phương là nhân tố không thể
thiếu được để đảm bảo cho sự phát triển làng nghề. Những năm qua huyện Phú
Xuyên đã có nhiều chính sách, chương trình tác động rất lớn phát triển các làng
nghề truyền thống trên địa bàn.”
Nội dung thực hiện:
“- Huyện phải khuyến khích sự phát triển của các làng nghề thông qua hoạt
động vinh danh hàng năm, tạo cơ hội mở rộng quan hệ tiếp thị, quảng bá sản phẩm,
thương hiệu sản phẩm trong và ngoài nước.”
“+ Huyện đã triển khai, thực hiện Chương trình số 09 - CTr/HU ngày
21/11/2011 của Huyện ủy Phú Xuyên về “xây dựng và phát triển làng nghề truyền
thống huyện Phú Xuyên”giai đoạn 2011 - 2015”.”
“+ Hàng năm huyện tổ chức ngày vinh danh làng nghề truyền thống thông qua
quảng bá và xây dựng thương hiệu sản phẩm cho làng nghề. Năm tới tiếp tục triển
khai xây dựng thương hiệu tập thể cho sơn mài khảm trai Chuyên Mỹ.”
“- Tổ chức mở 15 lớp nhân cấy, truyền nghề tiểu thủ công nghiệp cho khoảng
500 lao động trên địa bàn huyện. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia
hội chợ, hội thi sáng tạo mẫu mã...”
“- Tập huấn nâng cao năng lực quản lý, kinh doanh cho các chủ cơ sở sản xuất
làng nghề. Kiện toàn và tập huấn công tác quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ
theo dõi lĩnh vực công nghiệp - TTCN xã, thị trấn. Tổ chức các đoàn đi tham quan,
56
học tập mô hình tiên tiến trong sản xuất, áp dụng tiến bộ KHKT, xử lý ô nhiễm môi
trường của các làng nghề; cụm, điểm công nghiệp ngoài huyện, thành phố.”
Điều kiện thực hiện:
- Phải có sự thống nhất trong chỉ đạo từ cấp Trung ương cho đến cấp địa
phương từ việc ban hành cho đến thực hiện các chính sách.
- Cần có các chủ trương chính sách cụ thể:
Nhà nước ban hành các chủ trương, chính sách từ Trung ương đến địa phương
đều khuyến khích phát triển nghề và làng nghề. Nhà nước có những chính sách
khuyến khích thu hút đầu tư vốn, công nghệ, máy móc hiện đại vào các làng nghề.
“Rõ ràng qua các chính sách, các chương trình của huyện đã và đang xây dựng
một huyện tác động rất lớn đến phát triển sản xuất tại các làng nghề trên địa bàn
huyện. Qua đó, huyện cũng cần tiếp tục có chính sách hỗ trợ kinh phí để quy hoạch
các điểm công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề, xây dựng thương hiệu cho
các làng nghề của huyện. Xây dựng và triển khai đề án quy hoạch bảo tồn và phát
triển nghề, làng nghề Hà Nội giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020. Triển khai các
danh mục của đề án được phê duyệt trên địa bàn huyện Phú Xuyên.”
- Cần có hòm thư riêng để liên lạc; để tất cả những thông tin, những nghị định
hay chính sách mới được đề ra đều được đưa vào hòm thư ấy đảm bảo tránh mất
mát tài liệu. Hay các vấn đề được yêu cầu cũng sẽ nhanh chóng được giải quyết hơn
tránh việc lẫn vào với các thư đến khác.
- Cần tổ chức các cuộc họp thường niên với các đại biểu gồm cả cơ quan chức
năng cùng với những người đứng đầu trong các doanh nghiệp thuộc địa bàn huyện
Phú Xuyên cùng với các nhà thầu để có sự gắn kết, đánh giá kịp thời, và sự ủng hộ
cần thiết.
- Cần có nguồn vốn đầu tư: “Nhận thấy được tầm quan trọng của vốn cho làng
nghề và cho các hộ sản xuất kinh doanh phát triển, Đảng uỷ UBND xã đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi để các hộ được vay vốn ngân hàng, theo báo cáo của ngân hàng
phát triển nông nghiệp nông thôn huyện Phú Xuyên, như xã Phú Yên hàng năm có
số dư nợ gần 30 tỷ đồng lớn nhất trong 28 xã thị trấn, ngoài ngân hàng nông nghiệp
có một số hộ đã vay vốn ở các ngân hàng khác với số dư nợ trên 10 tỷ đồng.”
57
- Cần có sự ủng hộ và sự ý thức được trách nhiệm của bản thân người dân đối
với việc bảo tồn và phát huy các giá trị làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên,
thành phố Hà Nội để các chủ trương, chính sách của Nhà nước được thực hiện tối
đa và đem lại hiệu quả cao.
3.2.2. Nâng cao nhận thức và trình độ tay nghề của con người tham gia vào quá
trình sản xuất ở các làng nghề truyền thống
Mục đích của biện pháp: Để người dân có nhận thức đúng đắn về giá trị của
các làng nghề và có trình độ tay nghề chuyên môn cao từ đó đẩy mạnh công tác
tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác của người dân .
Vấn đề phổ biến, nâng cao tri thức hiểu biết về di sản văn hoá đối với cộng đồng
dân cư là một mục tiêu quan trọng của quá trình phát triển làng nghề. Ngoài việc đưa ra
các giải pháp để bảo vệ lễ hội, trị thức hay kỹ năng nghề thì vấn đề đẩy mạnh công tác
tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác của người dân cũng rất quan trọng.
Nội dung thực hiện: “Chúng ta nhận thức rằng, sự nghiệp bảo tồn và phát huy
di sản văn hoá nói chung chỉ có thể đẩy mạnh và đạt hiệu quả khi người dân tự giác
tham gia. Do đó việc giáo dục nâng cao ý thức tự giác của người dân, khơi dậy ở họ
lòng tự hào đối với di sản văn hoá của cộng đồng mình là công việc có ý nghĩa quan
trọng để hướng người dân chủ động tìm tòi, sưu tầm và bảo tồn các loại hình di sản
văn hoá cũng như các giá trị làng nghề của địa phương.”
“- Muốn có được điều ấy, chúng ta cần tăng cường giáo dục thẩm mỹ, giáo dục
sự hiểu biết các tri thức văn hóa về giá trị của các làng nghề truyền thống ở huyện
Phú Xuyên, từ đó khơi dậy và nhân lên niềm đam mê, ý thức bảo vệ các giá trị của
làng nghề truyền thống trong huyện. Phương thức giáo dục của chúng ta từ xưa đến
nay là gắn lý thuyết với thực hành, gắn nhà trường với địa phương. Nội dung các môn
học đều có đề cập đến giáo dục giá trị truyền thống (hay giáo dục di sản).”
“Trong chương trình xây dựng và phát triển làng nghề, nhân dân tích cực, có
hai nội dung liên quan đến bảo vệ và phát huy giá trị làng nghề truyền thống: Tổ
chức đời sống văn hóa tinh thần trong từng địa phương gắn với việc khai thác văn
hóa dân gian; chăm sóc di sản gắn với tìm hiểu các di tích lịch sử, văn hóa. Có
58
nghĩa là bao gồm cả việc giáo dục các giá trị truyền thống và giáo dục thông qua
các giá trị truyền thống, làm cho người dân hiểu biết về làng nghề truyền thống, từ
đó có tình cảm, đạo đức, niềm tự hào về các giá trị truyền thống của huyện Phú
Xuyên nói riêng, của dân tộc, đất nước nói chung.”
- “Cần phổ biến các quy định, cần thiết phải giải thích và cụ thể hoá, thể chế
hoá các quy định chung của Nhà nước và thành phố thì cần nắm rõ và gắn lợi ích
của người dân khi tham gia các hoạt động bảo tồn. Đây cũng là cách thức thu hút
đông đảo người dân tham gia lưu giữ di sản văn hoá truyền thống của mình và nâng
cao trình độ nhận thức của người dân về hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị
làng nghề truyền thống của huyện mình.”
- “Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục, tuyên truyền về các giá trị làng nghề
truyền thống cũng như các điều kiện dành cho nó (kinh phí, thời gian, nhân lực…)
cần được đầu tư đúng mức. Các nội dung giáo dục về giá trị làng nghề truyền thống
cần được vận dụng linh hoạt vào đặc điểm của địa phương, cần khai thác sâu và
rộng về tiềm năng của các làng nghề để có thể phát huy các giá trị của nó. Việc giáo
dục về giá trị làng nghề truyền thống cho thế hệ trẻ Phú Xuyên và toàn thể người
dân địa phương muốn phát huy hết hiệu quả của nó, cần phải có chỉ đạo, hướng dẫn
và tạo điều kiện đầy đủ của các cơ quan chức năng.”
- “Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì việc vận động tuyên truyền để
nâng cao ý thức tự giác của người dân cần gắn kết cuộc vận động xã hội hoá trong
công tác bảo tồn. Chỉ khi người dân có ý thức trong việc bảo tồn di sản văn hoá của
mình thì mọi khó khăn đều có thể giải quyết được nhanh chóng và hiệu quả.”
“Có thể nói cộng đồng văn hoá được xác lập thông qua những giá trị văn hoá
trên cả hai phương diện phi vật thể và vật thể do chính cộng đồng sáng tạo ra trong
quá trình tồn tại của mình. Cư dân làng nghề được xem đó là một cộng đồng và ở một
góc độ nào đó được xem là một cộng đồng văn hoá. Vì vậy vấn đề nâng cao vai trò
của cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá làng nghề là một mục
tiêu quan trọng của quá trình phát triển làng nghề bằng các phương tiện khác nhau
như tuyên truyền trên loa phát thanh của xã, các chương trình trên đài truyền hình,
xây dựng chuyên mục làng nghề truyền thống, viết sách giới thiệu về làng nghề...”
59
- Ngoài ra có thể vận dụng trong việc nâng cao nhận thức cho cộng đồng như:
tổ chức, tuyên truyền giáo dục cộng đồng; giúp cho cộng đồng hiểu rõ hơn về bản
sắc văn hoá làng và văn hoá nghề; khuyến khích họ tham gia tích cực vào các
chương trình bảo tồn di sản văn hoá làng nghề.
- Cần tạo mọi điều kiện cho các nghệ nhân, thợ giỏi có thể truyền dạy cho các
thế hệ nối tiếp những kỹ năng, kỹ xảo nghề; ý thức về nghề nghiệp thông qua việc
thể hiện của từng cá nhân, cộng đồng trong việc tôn vinh các vị tổ nghề và những
nghệ nhân làng nghề thông qua các cuộc thi, các phong trào thi đua làng nghề…
Điều kiện thực hiện:
“Để có thể nâng cao được ý thức của người dân là một điều không dễ dàng gì
cần có thời gian. Bởi những thứ đã thuộc về thói quen là rất khó thay đổi.
- Cần có đội ngũ cán bộ nghiêm túc đảm bảo việc làm gương cho người dân
- Đội ngũ Đoàn thanh niên phải luôn được trau dồi, học tập và truyền tải
những chính sách, chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước đề tuyên truyền tới
người dân.
- Cần có nguồn kinh phí luôn ổn định cho việc vận động tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu về các giá trị làng nghề truyền thống.
Làm thế nào để nâng cao tri thức hiểu biết về di sản văn hoá đối với cộng
đồng dân cư tại các làng nghề truyền thống ở huyện Phú xuyên thì trước tiên chúng
ta cần phải xác định rõ hai mục tiêu:
- Thứ nhất, Cộng đồng phải tự nhận thức được những giá trị của văn hoá làng
mà chính họ sẽ là người có trách nhiệm trong công cuộc bảo tồn và phát huy.
- Thứ hai, Cộng đồng phải nhận thức được giá trị của văn hoá nghề. Từ đó để có
được sự phát triển bền vững của văn hoá làng nghề, mặc dù trong quá trình vận động
và phát triển văn hoá làng nghề cũng sẽ luôn có sự biến đổi, chuyển động rõ nét.
- Nâng cao tri thức hiểu biết về di sản văn hoá trước tiên phòng văn hoá
huyện Phú Xuyên cần kết hợp với các xã, các làng trong huyện tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về di sản văn hoá để mọi tầng lớp nhân dân hiểu về quyền và
nghĩa vụ của mình.
60
- “Cần có các phương tiện thông tin đại chúng như các trang mạng, báo đài,
các kênh truyền hình là kênh chuyển tiếp quan trọng, phổ biến rộng khắp và kịp thời
các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành về di sản văn hoá, bảo tồn và phát
huy các làng nghề truyền thống của địa phương.”
- “Cần động viên sự tham gia của nhân dân và sự ủng hộ của dư luận đối với
sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản, nhất là những vấn đề liên quan đến
cộng đồng như: tu bổ, chống vi phạm di tích văn hoá, bảo tồn di sản văn hoá...vấn
đề quan trọng là ngành văn hoá cần thường xuyên hướng dẫn, tổ chức kiểm tra,
giám sát việc thực hiện pháp luật về di sản văn hoá, tham mưu xây dựng cơ chế,
chính sách thúc đẩy công tác xã hội hoá hoạt động bảo tồn di sản văn hoá.”
- “Muốn động viên được sự tham gia của nhân dân thì cần phải tổ chức các
cuộc sinh hoạt, hội thảo, các cuộc họp với các ban ngành để tuyên truyền từ Trung
ương đến từng địa phương về giá trị đem lại của các làng nghề truyền thống từ đó
nâng cao nhận thức cũng như ý thức của người dân về hoạt động bảo tồn và phát
huy các giá trị làng nghề truyền thống.”
3.2.3. Hoàn thiện chất lượng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và lưu thông các
sản phẩm ở làng nghề truyền thống
Mục đích của biện pháp: Bảo đảm tốt nhất về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt
động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên.
Nội dung của biện pháp:
- “Huyện Phú Xuyên phải chú trọng công tác quy hoạch phát triển làng nghề,
điểm công nghiệp làng nghề, xây dựng kết cấu hạ tầng làng nghề như giao thông,
điện, hệ thống cấp nước, thoát nước thải... gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn
mới. Phối hợp triển khai các dự án phát triển làng nghề truyền thống kết hợp với du
lịch làng nghề sơn khảm Ngọ Hạ; dự án xử lý môi trường làng nghề chế biến lương
thực thực phẩm thôn Tân Độ xã Hồng Minh, giai đoạn 2011 - 2015 theo QĐ số
554/QĐ - UBND ngày 27/01/2011 của UBND thành phố Hà Nội.”
- Xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội:
“Xây dựng, sửa chữa, nâng cấp mở rộng tuyến đường bộ của địa bàn các làng
nghề trong huyện. Cùng với nó là việc xây dựng hệ thống đèn cao áp chiếu sáng
trên các tuyến đường để thuận lợi cho việc di chuyển.”
61
“Đường làng ngõ xóm đã được bê tông hóa nhưng chưa có một hệ thống cống
rãnh phù hợp nên đường xá vẫn thường xuyên bị úng ngập, nước thải bị ứ đọng.
Chính vì vậy cần phải tiến hành nâng cấp hệ thống cống rãnh thoát nước để giải
quyết tình trạng úng ngập nhất là vào mùa mưa.”
“Xây dựng hệ thống xử lý rác thải trong quá trình sản xuất làm giảm mức độ ô
nhiễm môi trường tại các làng nghề truyền thống đặc biệt là làng nghề khảm trai xã
Chuyên Mỹ và nghề sơn mài thôn Bối Khê... Sử dụng các thiết bị chụp hút khí thải
và bụi như: Thiết bị lọc tĩnh, lọc túi tùy theo mức độ công suất của làng nghề mà sử
dụng công suất hợp lý đảm bảo lượng khí thải không vượt quá 50mg/m3N. Xây
dựng ống khói hợp lý đảm bảo khí phát tán đều ra môi trường.”
“Xây dựng, nâng cấp hệ thống thông tin liên lạc tại làng như xây dựng các
điểm truy cập internet công cộng, các cột điện thoại công cộng, các phương tiện
truyền thông đại chúng: Đài phát thanh của thôn, phát hành theo định kì các ấn
phẩm giới thiệu về các làng nghề truyền thống trong huyện Phú Xuyên....”
“Xây dựng và mở rộng cơ sở y tế của huyện Phú Xuyên nói chung và nên mở
thêm một vài trung tâm y tế tại các xã để có thể đáp ứng được nhu cầu của khách du
lịch trong những trường hợp cần thiết.”
“Đây không chỉ là những cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho phát triển ngành
du lịch nói riêng mà nó còn phục vụ cho những nhu cầu phát triển kinh tế xã hội
chung của các làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.”
- Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển du lịch:
“Tiến hành xây dựng, mở rộng, nâng cấp các cơ sở nhà hàng phục vụ nhu cầu
ăn uống của du khách, đảm bảo được số lượng cũng như chất lượng phục vụ.”
“Cần xây dựng những nhà nghỉ đạt tiêu chuẩn để phục vụ nhu cầu lưu trú của
du khách.”
“Trùng tu tôn tạo, bảo vệ các công trình di tích của các làng có ý nghĩa lịch sử,
văn hóa, xã hội:”
“Phải có chính sách trùng tu, tôn tạo, bảo vệ các công trình di tích như đình,
chùa, đền, văn chỉ, một cách cụ thể để vừa giữ được các công trình di tích vừa
không làm mất đi những giá trị văn hóa truyền thống mà nó mang trong mình.”
62
Điều kiện thực hiện:
- Cần có các chính sách, chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước về việc
nâng cấp chất lượng cơ sở hạ tầng.
- Cần có nguồn vốn ổn định trong việc hỗ trợ quá trình nâng cấp cơ sở hạ tầng
và phải có chính sách thu hút nguồn vốn từ bên ngoài.
“Đối với các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống cần: Bố trí lại và
tận dụng tối đa mặt bằng, lối đi lại trong cơ sở sản xuất hợp lí vừa phục vụ sản xuất,
vừa thuận lợi cho quá trình sinh hoạt, đồng thời dành những khoảng không gian cần
thiết cho khách tham quan du lịch nếu có. Trường hợp các cơ sở sản xuất có mong
muốn và nhu cầu thì được thuê đất hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất tại các cụm
công nghiệp làng nghề.”
“Đối với huyện Phú xuyên cần: Nghiên cứu triển khai các hình thức ưu đãi
(miễn, giảm) cho các cơ sở sản xuất làng nghề được thuê đất hoặc giao đất có thu
tiền sử dụng đất đối với những mảnh đất, khu đất còn thừa hoặc chưa sử dụng để
phục vụ sản xuất làng nghề.”
3.2.4. Nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất các sản
phẩm truyền thống
Mục đích của biện pháp: Tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp
và đa dạng.
Nội dung của biện pháp: Cần phải chú trọng thu hút vốn đầu tư, kiểm tra giám
sát thật chặt khâu nhập nguyên vật liệu để quá trình sản xuất được đẩy mạnh và sản
phẩm đạt chất lượng cao nhất.
- Thứ nhất về vốn đầu tư:Nguồn vốn đầu tư: Cần có sự ổn định và kịp thời về
nguồn vốn đầu tư không chỉ vốn đầu tư của Nhà nước, vay vốn ngân hàng mà cả sự
ổn định, đảm bảo trong vốn đầu tư của các doanh nghiệp.
* Đối với các hộ sản xuất
“Tăng vốn vay cho sản xuất ngành nghề từ nguồn vốn tín dụng đầu tư, quỹ hỗ
trợ phát triển, quỹ quốc gia xúc tiến việc làm. Ngân hàng phục vụ người nghèo và
các ngân hàng chuyên kinh doanh tăng vốn cho vay với lãi suất ưu đãi, có thời hạn
từ 1- 2 năm cho các cơ sở sản xuất trong làng thuần nông mới cấy nghề.”
63
“Các cơ sở sản xuất khi đầu tư phát triển thì được dùng tài sản hình thành từ
vốn vay (nếu tài sản hiện có không đủ thế chấp) để thế chấp ngân hàng và được
UBND huyện tái bảo lãnh vốn mức tối đa ở mức độ nhất định của một dự án.”
“Các ngân hàng thương mại và quỹ hỗ trợ phát triển nâng cao trách nhiệm
trong việc tạo điều kiện vốn cho sản xuất ngành nghề trên cơ sở thẩm định chắc
chắn hiệu quả của dự án. Nghiên cứu sửa đổi quy định thế chấp khi vay vốn cho sát
với từng loại hình doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề.”
“Tổ chức các cơ quan tư vấn giúp cơ sở sản xuất xây dựng các dự án đầu tư
phát triển sản xuất khả thi, hiệu quả và tạo điều kiện để các cơ sở được vay vốn
thuận lợi.”
“Cần tăng cường huy động các nguồn vốn khác như vốn của người lao động,
vốn trong quỹ tín dụng nhân dân, vốn đầu tư trong và ngoài nước. Trong đó cần tập
trung chỉ đạo nâng cao mức vốn và hiệu quả hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân
gắn liền với địa bàn ngành nghề.”
“Khai thác triệt để các khoản vốn trợ cấp từ bên ngoài thông qua các chương
trình, dự án doanh nghiệp vừa và nhỏ trong làng nghề.”
* Đối với huyện Phú Xuyên
“Khuyến khích các tổ chức tín dụng trên địa bàn huyện tăng cường công tác
quảng bá, cung cấp thông tin đến các cơ sở sản xuất, làng nghề về các chương trình
tín dụng ưu đãi của nhà nước.”
“Các Ngân hàng thương mại (nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn) trên địa bàn triển khai các hình thức cho các cơ sở sản xuất làng nghề
vay vốn heo quy định hiện hành.”
“Bên cạnh đó, Các cơ quan quản lý như Trung tâm Khuyến công, phòng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cần cung cấp thông tin, chỉ dẫn kịp thời để
các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp làng nghề có thể tiếp cận các nguồn vốn dễ dàng,
thuận lợi, nhất là các nguồn vốn ưu đãi từ ngân hàng Phát triển, ngân hàng Chính
sách xã hội…”
64
- Thứ hai về chất lượng nguyên vật liệu:
* Đối với cơ sở sản xuất
“Đối với các làng nghề ví dụ như làng nghề mây tre đan hiện nay vẫn đang
làm gia công cho các doanh nghiệp, nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra phụ
thuộc hoàn toàn vào họ, như vậy làng nghề sẽ gặp khó khăn khi không có đơn đặt
hàng của doanh nghiệp, vì vậy trong tương lai các cơ sở sản xuất làng nghề cần
phải nghiên cứu phát triển sản phẩm và thị trường mới, có như vậy mới chủ động
trong sản xuất, tạo sự yên tâm cho người lao động, đảm bảo cho làng nghề phát
triển. Đây là một công việc lớn và rất khó khăn các cơ sở, cá nhân đơn lẻ khó có
thể thực hiện được mà phải có sự liên kết của cả làng nghề kết hợp với sự giúp đỡ,
hỗ trợ của Nhà nước.”
“Đối với các làng nghề có nguyên liệu nhập khẩu nhiều như mộc và giày da
thì cơ sở sản xuất cần: Dự tính nhu cầu sử dụng nguyên liệu hàng năm, hàng quý
trên cơ sở số liệu thống kê sản lượng tiêu thụ qua các năm trước và dự báo nhu cầu
tiêu thụ trong năm để lập kế hoạch nhập khẩu, dự trữ nguyên liệu, chủ động cho sản
xuất và giảm chi phí.”
* Đối với huyện Phú Xuyên
“Cần chủ động nghiên cứu các thị trường nhập khẩu về số lượng, chủng loại,
chất lượng, giá cả nguyên liệu cùng các điều kiện, thủ tục nhập khẩu để cung cấp
thông tin cho các chủ cơ sở sản xuất. Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất
trong việc nhập khẩu thông qua việc hướng dẫn, giải quyết các thủ tục cần thiết để
nhập khẩu nguồn nguyên liệu được nhanh chóng, dễ dàng như nhập khẩu gỗ, đót từ
Trung Quốc, Lào, Cumpuchia.”
Điều kiện thực hiện:
- Cần phải có các chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề thu hút và hỗ
trợ vốn đầu tư cho các làng nghề.
- Cần kêu gọi hỗ trợ vay vốn và nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong
và ngoài địa phương.
- Cần hoàn thiện cơ chế để các cơ sở sản xuất làng nghề tiếp cận được với
nguồn vốn tín dụng, vốn vay từ các ngân hàng thương mại với thủ tục nhanh gọn,
thông thoáng.
65
- Kinh phí đóng góp của người dân trong vùng, những người con của làng
đang làm việc trong và ngoài nước.
- Đóng góp từ tấm lòng của du khách thập phương, qua công đức.
3.2.5. Giữ gìn và phát huy các phong tục, tập quán truyển thống của địa phương
có tác dụng tích cực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát huy
các giá trị của làng nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội
Mục đích của biện pháp: Bảo vệ bản sắc văn hóa của địa phương nói riêng và
của đất nước nói chung và làm giàu sức mạnh nội sinh cho đất nước.
Nội dung của biện pháp:
-“Cần nắm vững di sản cổ truyền làm nền tảng cho việc bảo tồn và phát huy
những giá trị của nó. Vấn đề ở chỗ, nắm vững di sản văn hoá cổ truyền (hay còn gọi
là truyền thống) có nghĩa ngoài những hiểu biết mang tính lý luận, nhiều loại hình
di sản văn hoá cần được hiểu và nắm vững kỹ năng thực hành chúng.”
-“Muốn giữ gìn và phát huy các phong tục, tập quán truyển thống làng nghề
thì trước hết phải quan tâm đến nghệ nhân, bởi họ chính là những nhân tố quan
trọng lưu giữ và bảo tồn nghề truyền thống. Vì vậy đào tạo truyền nghề là vấn đề
đóng vai trò quan trọng nhằm trao truyền cho thế hệ trẻ nắm vững kiến thức cũng
như kỹ năng thực hành trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị của làng nghề
truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.”
-“Vấn đề đào tạo, truyền dạy phải rất đa dạng cùng với sự tham gia và kết hợp
của nhiều cơ quan, đoàn thể, của nhà trường và gia đình. Muốn vậy cần cải thiện
các chương trình đào tạo tại các trường dạy nghề, cải tiến và tiêu chuẩn hoá nội
dung chương trình đào tạo thợ thủ công, đưa môn mỹ thuật vào các chương trình
đào tạo thợ từ thấp đến cao.”
-“Đồng thời bố trí đào tạo kiến thức về khoa học, kỹ thuật phù hợp với từng
nghề. Nâng cao hiệu quả công tác truyền dạy nghề, tránh thất truyền nghề truyền
thống, trung tâm dạy nghề của huyện cần liên kết với những nghệ nhân ở các làng
nghề tham gia xây dựng chương trình đào tạo nghề phù hợp với đầu ra sản phẩm
của địa phương.”
66
-“Đồng thời tiến hành thay đổi phương thức truyền nghề, trong đó chú trọng
xây dựng chương trình, giáo trình giảng dạy một cách khoa học, hiện đại, ứng
dụng công nghệ hiện đại vào đào tạo, tăng cường thiết bị nâng cao chất lượng cơ
sở dạy nghề để người lao động yên tâm học nghề và người nghệ nhân yên tâm
truyền nghề.”
-“Nghiên cứu các chương trình dạy nghề thông qua đĩa ghi hình để phát triển
rộng việc dạy nghề thủ công truyền thống tới thế hệ trẻ tiếp cận một cách nhanh nhất.”
-“Phong tục tập quán là một thành tố của di sản văn hóa phi vật thể, tồn tại lâu
dài trong đời sống văn hóa của cộng đồng làng xã. Cùng với sự biến đổi trong tín
ngưỡng, lễ hội, phong tục tập quán của làng nghề nơi đây cũng có sự biến đổi khá
rõ nét. Cần lưu giữ và phát huy các phong tục tập quán thông qua việc tổ chức các
lễ hội hằng năm theo đặc trưng riêng của mỗi làng.”
“Những quy định trong hương ước của các làng nghề về phong tục được biểu
hiện thông qua tín ngưỡng và lễ hội. Ở đó cộng đồng làng phải tuân theo và thực
hành qua các thế hệ. Trải qua thời gian, phong tục cũng được thay đổi, trước hết là
những quy định của làng về các lĩnh vực trong đời sống của người dân trong làng.
Theo Tạp chí Di sản văn hoá số 4-2003 của tác giả Lê Thị Minh Lý có viết:”
“Làng nghề Việt Nam không chỉ phản ánh mối quan hệ giữa “nghề”với
“nghiệp”mà còn chứa đựng những giá trị tinh thần đậm nét được phản ánh qua các
tập tục, tín ngưỡng, lễ hội và nhiều quy định khác. Điều đầu tiên phải nói đến các
“quy lệ”của các làng nghề. Quy lệ là các quy ước, luật lệ để gìn giữ bí quyết nghề,
để bảo tồn nghề của dòng họ hay của cộng đồng làng xã. Có thể nói các làng nghề
thủ công đều có bí quyết. Việc giữ „bí quyết nghề”không chỉ đơn thuần là giữ nghề
mà còn chi phối các mối quan hệ xã hội khác như quan hệ hôn nhân không lấy
người địa phương khác, hoặc việc truyền nghề chỉ đóng khung trong một số đối
tượng cụ thể như chỉ truyền cho con trai hoặc chỉ truyền cho con trưởng, cháu đích
tôn.”[15, tr.50]
-“Xu hướng hiện nay con người đi du lịch thường hướng về các giá trị văn
hoá truyền thống cổ xưa, vì vậy việc phát triển du lịch văn hoá làng nghề là vô
67
cùng cần thiết vì nó mang lại rất nhiều thuận lợi cho cả hoạt động du lịch và sản
xuất ở làng nghề. Cần đầu tư các chính sách về phát triển du lịch văn hoá làng
nghề vì du lịch văn hóa làng nghề đem lại những nguồn lợi to lớn cho địa phương,
góp phần bảo tồn những nét đẹp văn hoá độc đáo của dân tộc, giải quyết công ăn
việc làm cho một lượng lớn lao động tại chỗ và cải thiện đời sống nhân dân.”
Điều kiện thực hiện:
-“Cần có chính sách của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn và phát huy các
phong tục, tập quán truyền thống của địa phương.”
-“Cần có ngồn vốn ổn định để phục vụ hoạt động tổ chức lễ hội truyền thống
góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống của địa phương.”
-“Mỗi người dân phải tự nhận thức và tự ý thức được đối với việc gìn giữ và
phát huy các giá trị truyền thống ở địa phương mình.”
-“Phải tuyên truyền giáo dục ý thức cho người dân về ý nghĩa của các phong
tục tập quán truyền thống của địa phương và từ đó đề cao trách nhiệm bảo tồn và
phát huy các phong tục tập quán ở địa phương.”
-“Một vấn đề quan trọng khác cần được tiến hành đó là quảng bá sản phẩm thủ
công truyền thống tới thị trường trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức đa dạng
khác nhau, nhằm tạo thương hiệu cho sản phẩm, kích thích sản xuất. Đây là một
trong các biện pháp giữ cho nghề truyền thống tồn tại lâu dài.”
68
KẾT LUẬN
“Trải qua lịch sử thăng trầm, bước sang thế kỉ XXI Phú Xuyên phát triển với
đặc thù riêng, Huyện Phú Xuyên phát triển với những làng nghề truyền thống. Từ
những đặc trưng về kinh tế - văn hóa - xã hội, tâm lý, tập quán và những điều kiện
tự nhiên thuận lợi nên Phú Xuyên đã tồn tại hàng trăm làng nghề truyền thống với
bề dày lịch sử. Làng nghề truyền thống huyện Phú Xuyên là nơi lưu giữ và phát
triển tinh hoa văn hóa của dân tộc với những kĩ năng truyền từ đời này sang đời
khác và mỗi làng nghề là một kho báu trong đó lưu giữ một khối lượng đáng kể
những tinh hoa văn hóa của dân tộc, nhất là tinh hoa văn hóa cổ truyền. Trong đó,
việc hình thành, tồn tại và phát triển các làng nghề truyền thống là một phần không
thể thiếu trong tính đa dạng của làng xã Việt Nam.”
“Trước những thay đổi mạnh mẽ của kinh tế - chính trị - xã hội các làng nghề
huyện Phú Xuyên đang chuyển mình với những thay đổi cả về mặt tích cực và tiêu
cực vì vậy cần thiết phải bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống
ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Vậy tại sao phải bảo tồn và phát huy những
giá trị truyền thống đó? Thứ nhất, các làng nghề ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà
Nội vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của địa phương. Thứ hai, Việc bảo tồn và phát huy các giá trị của làng
nghề truyền thống ở huyện Phú Xuyên góp phần quan trọng vào công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị của làng nghề truyền thống ở nước ta nói chung. Từ đó, góp
phần vào việc thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thứ ba, Các giá trị của làng nghề truyền thống ở
huyện Phú Xuyên hiện nay đang có nguy cơ bị mai một do tác động của nền kinh tế
thị trường và do việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.”
“Bên cạnh việc quan tâm phát triển làng nghề, Phú Xuyên đặc biệt chú trọng
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Những lễ giỗ Tổ nghề, tôn
vinh nghệ nhân, các lễ hội văn hóa dân gian được tổ chức hằng năm. Đình thờ tổ
nghề, các di tích lịch sử - văn hóa được tôn tạo; các loại hình nghệ thuật truyền
thống như hò cửa đình, múa hát bài bông, ca trù, chầu văn được lưu giữ.”
69
“Tuy nhiên bên cạnh những giá trị làng nghề truyền thống với những truyền
thống văn hóa tốt đẹp, những cơ hội trong phát triển kinh tế - xã hội, huyện Phú
Xuyên còn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, huyện Phú Xuyên đang
gặp những vấn đề phát sinh từ vấn đề ngành nghề, dịch vụ tại địa phương chưa
được đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ còn nhỏ lẻ. Do thời tiết
diễn biến phức tạp, thiên tai, dịch bệnh xẩy ra thường xuyên. Nguồn thu ngân sách
địa phương còn thấp và tăng chậm; nhu cầu chi ngân sách ngày càng lớn; khả năng
cân đối thu chi ngân sách trên địa bàn cũng gặp khó khăn. Huyện có nguồn lao động
dồi dào, chất lượng lao động ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, trình độ của
người lao động vẫn còn thấp, thiếu nguồn lao động có chất lượng cao nên chưa đáp
ứng được nhu cầu sản phẩm của thi trường. Khoa học - công nghệ, giáo dục - đào
tạo, y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân chưa đáp ứng được yêu cầu. Cơ sở hạ
tầng tuy đã được sửa chửa, nâng cấp nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội nên khó vận động bà con tham gia nhiệt tình các hoạt động tổ
chức cho công tác phát triển làng nghề.”
“Từ những thực trạng trên, khóa luận đã đưa ra một số biện pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề
truyền thống ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Là một người con sinh ra và
lớn lên trên mảnh đất Phú Xuyên, bản thân tôi luôn tự hào và ý thức được những giá
trị mình đang được trông thấy và có trong mình. Nghiên cứu này là giới hạn trong
việc tìm hiểu, nghiên cứu của một cá nhân sinh viên là những đóng góp nhỏ bé của
cá nhân tôi, cái nhìn của một người trẻ về quê hương mình.”
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.A. Radugin (1990), “Từ điển Bách khoa Văn hoá học”, Viện nghiên cứu Văn
hoá nghệ thuật, Hà Nội.
2. Ashworth (1997), “Elenments of planning and managing heritage sites, in Nuryanti,
W., Tourism and Heritage Management, Gadjah Mada University Press”.
3. Nguyễn Duy Bắc (2008), “Sự biến đổi các giá trị văn hoá trong bối cảnh xây
dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Từ điển Bách khoa và
Viện Văn hoá, Hà Nội.
4. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2010), “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
vật thể ở Thăng Long - Hà Nội”, Nxb Hà Nội.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), “Thông tư 116/2006/TT-BNN
ngày 18/2/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc quy định rõ
tiêu chí, thủ tục công nhận làng nghề truyền thống, làng nghề, nghề truyền thống”.
6. Phan Đại Doãn (2001), “Làng Việt Nam, một số vấn đề kinh tế - xã hội - văn
hoá”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), “Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Quý Đức (2005), “Vai trò của văn hoá trong sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp vùng đồng bằng Sông Hồng”, Nxb Văn
hoá Thông tin và Viện Văn hoá, Hà Nội.
9. Trương Minh Hằng (2006), Làng nghề truyền thống mỹ nghệ miền Bắc, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
10. Hồ Chí Minh (2000), “Toàn tập”, Tập 3.tr431, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Mai Thế Hởn (2000), “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH,
HĐH ở vùng ven thủ đô Hà Nội”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội.
12. Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND huyện Phú Xuyên (Chủ biên) (2005),
“Đất Phú Xuyên - Người Phú Xuyên”, Sở VH&TT tỉnh Hà Tây (cũ) xuất bản
năm 2005, Hà Tây.
71
13. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2013), “Đến với nghề mây tre đan Lưu Thượng xã Phú
Túc”, Tạp chí doanh nghiệp và thương mại online, số (7), trang 33-38.
14. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2004), ““Bảo tồn và phát huy” hay “kế thừa và phát
triển” văn hoá dân tộc trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, “Kỷ yếu
Hội thảo “60 năm đề cương Văn hoá Việt Nam (1945-2003)”, Nxb Viện Văn
hoá - Thể thao, Hà Nội.
15. Lê Thị Minh Lý (2012), “Làng nghề và việc bảo tồn giá trị văn hoá phi vật
thể”, Tạp chí Di sản Văn hoá, số (4), tr. 68-71.
16. Dương Bá Phượng (2001), “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá
trình công nghiệp hóa”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Phạm Thị Phượng (2010), “Nghiên cứu tiêu thụ sản phẩm của một số làng
nghề huyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang”, Luận Văn thạc sĩ kinh tế nông nghiệp,
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
18. Phạm Côn Sơn (2004), “Làng nghề truyền thống Việt Nam”, Nxb Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội.
19. Nguyễn Vĩnh Thanh (2006), “Xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề
truyền thống ở đồng bằng sông Hồng hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
20. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (2005), “Floklore một số thuật ngữ đương
đại”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Võ Quang Trọng (chủ biên) (2010), “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
phi vật thể ở Thăng Long - Hà Nội”, Nxb Hà Nội.
22. UBND TP Hà Nội (2004), Quy hoạch phát triển nghề và làng nghề thành phố
Hà Nội đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015.
23. UBND TP Hà Nội (2011), “Đề án Bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề Hà
Nội giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020”.
24. Lưu Tuyết Vân (1999), “Một số vấn đề về làng nghề ở nước ta hiện nay”, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số (5), trang 64 – 68.
25. Bùi Văn Vượng (2002), “Đề án phục hồi làng nghề truyền thống Việt Nam”,
NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
72
26. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (1996), “Nghề thủ công truyền thống Việt Nam
và các vị tổ nghề”, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
27. Trần Quốc Vượng (1999), “Theo dòng lịch sử”, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
28. Trần Quốc Vượng và Đỗ Thị Hảo (2000), “Làng nghề, phố nghề Thăng Long -
Hà Nội”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
29. Trần Quốc Vượng (2000), “Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm”, Nxb Văn
hoá Dân tộc, Hà Nội.
30. Trần Quốc Vượng (2007), “Cơ sở văn hoá Việt Nam”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2004), “Từ điển tiếng Việt”, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
32. http://kinhtedothi.vn/huyen-phu-xuyen-nang-tam-thuong-hieu-lang-nghe-
321451.html.
33. http://www.dch.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=390&c=63.
34. http://www.spnttw.edu.vn/articledetail.aspx?articleid=3814&sitepageid=650.
35. https://phuxuyen.hanoi.gov.vn/lang-nghe-truyen-thong/-
/view_content/1999950-giu-gin-va-phat-trien-lang-nghe-truyen-thong-huyen-
phu-xuyen.html.
36. http://www.doisongtieudung.vn/huyen-phu-xuyen-tp-ha-noi-suc-vuon-len-ben-
bi-20190425003637743.html.
37. http://truyenthongphattrien.org/huyen-phu-xuyen-ha-noi-lang-nghe-truyen-
thong-la-mot-the-manh-trong-phat-trien-kinh-te.html/.
38. https://dantri.com.vn/vong-quay-du-lich/tiem-nang-san-co-phat-trien-du-lich-
lang-nghe-phu-xuyen-20151027224912306.htm.
39. https://www.wattpad.com/423390-van-hoa-unesco.
40. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%BA_Xuy%C3%AAn.
73