ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA Y DƯỢC

LÊ THỊ HẢO

NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO HỆ DẪN THUỐC

NANO PACLITAXEL PHỐI HỢP CURCUMIN

VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÚNG LÊN

CÁC TẾ BÀO UNG THƯ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH DƯỢC HỌC

KHÓA: QH-2012

NGƯỜI HƯỚNG DẪN

1. TS. HÀ PHƯƠNG THƯ

2. PGS.TS. DƯƠNG THỊ LY HƯƠNG

Hà Nội – 2017

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể Khoa Y Dược, Đại

học Quốc Gia Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ để em hoàn thành khóa luận tốt

nghiệp này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô đã giảng dạy không

những về mặt kiến thức mà còn cả kinh nghiệm để em có một kiến thức nền vững

chắc trong suốt 5 năm học vừa qua.

Tiếp theo em xin bày tỏ sự tri ân và lòng biết ơn sâu sắc đến:

1. TS. Hà Phương Thư – Trưởng phòng vật liệu nano Y Sinh, Viện Hàn Lâm

Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

2. PGS.TS Dương Thị Ly Hương – Bộ môn Dược lý – Dược Lâm Sàng,

Khoa Y – Dược Đại học Quốc Gia Hà Nội.

3. Ths. Đỗ Hải Đoan, Phòng vật liệu nano Y Sinh, Viện Hàn Lâm Khoa học

và Công nghệ Việt Nam.

Đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cũng như tạo những điều kiện về tài

liệu tham khảo, phòng thí nghiệm cũng như kinh phí của đề tài để em có thể hoàn

thành khóa luận này trong những điều kiện tốt nhất.

Em xin cảm ơn đề tài cấp viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,

MS. VAST03.04, 2016-2017 (chủ nhiệm TS. Hà Phương Thư) đã tài trợ kinh phí

giúp em thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới toàn bộ các anh chị thuộc Viện Hàn Lâm

Khoa học và Công nghệ Việt Nam đặc biệt các anh chị thuộc phòng vật liệu nano Y

Sinh đã giúp đỡ, hỗ trợ em trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận này.

Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn quan

tâm động viên, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.

Dù đã rất cố gắng nhưng khóa luận của em vẫn khó tránh khỏi những thiếu

sót. Vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến phản hồi từ phía các thầy cô để

khóa luận thêm hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh Viên

Lê Thị Hảo

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Kí hiệu Diễn giải

CMC Nồng độ micel tới hạn

CUR Curcumin

DCM Dichloromethan

EE% Hiệu suất mang thuốc

EtOH Ethanol

FDA Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ

FTIR Quang phổ hồng ngoại chuyển đổi Fourier

L-LA L-lactic acid

NF-κB Yếu tố nhân Kappa B

PCL Poly- caprolacton

PEG Poly ethylen glycol

PGA Poly glycolic acid

PLA Poly Lactid

PLGA Poly lactic-co-glycolic acid

TEM Kính hiển vi điện tử truyền qua

TPGS Tocopheryl polyethylen glycol 1000 succinat

DANH MỤC CÁC HÌNH

Tên Hình

Trang

STT

Hình 1

5

Hình 2

6

Cơ chế nhắm đích bị động và chủ động của hệ phân phối thuốc có kích thước nano Cấu tạo của axit olic

Hình 3 ức độ biểu hiện của thụ thể olat trên các mô 7

thường và khối u

Hình 4 ột số hệ phân phối thuốc cấu trúc nano 10

Hình 5 11

Cấu trúc mixen tạo nên bởi copolyme (dạng di- block) không mang thuốc (a) và mang thuốc (b)

Hình 6 12

Hình 7 Công thức hóa học của PTX Công thức hóa học của Cur 13

Hình 8 Hình 9 15 16

Cấu trúc của L-LA Công thức của TPGS

Hình 10 Công thức của copolyme PLA-TPGS Hình 11 Hình ảnh của các hạt nano (PTX+Cur)/PLA- 17 17

TPGS

Hình 12 Copolyme PLA-TPGS được tạo bởi monome L- 19

Hình 13 23

Hình 14 24

28

Hình 15

Hình 16 30

Hình 17 LA và TPGS. Phổ hồng ngoại FTIR của nano (Cur+PTX)- PLA-TPGS-Fol với 5 tỉ lệ khác nhau giữa PLA và TPGS Phổ hồng ngoại FTIR của (1) Cur, (2) PTX, (3) Acid folic, (4) PLA-TPGS 1:1 và (5) (Cur+PTX)-PLA-TPGS-Fol với tỉ lệ PLA- TPGS 1:1 Hình ảnh FESEM của nano (Cur+PTX)-PLA- TPGS-Fol với 5 tỉ lệ khác nhau giữa PLA và TPGS (a) 1:1, (b) 2:1, (c) 1:3, (d) 2:1, (e) 3:1 Thế zeta của hạt nano (Cur +PTX) PLA-TPGS- Fol tại các tỉ lệ của PLA và TPGS: 1:3 (a), 1:2 (b), 1:1 (c), 2:1 (d), 3:1 (e) Phương trình đường chuẩn của Cur và PTX 31

DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng Trang STT

Bảng 1 20

Tỉ lệ và khối lượng của PLA và TPGS thực nghiệm

Bảng 2 Các dao động đặc trưng của các chất 21

Bảng 3 Các dao động đặc trưng của các chất 25

Bảng 4 28

Thế zeta của hệ nano tại 5 tỉ lệ khác nhau của PLA-TPGS

Bảng 5 Hiệu suất bọc thuốc của Curcumin và Paclitaxel 31

Bảng 6 32

Kết quả gây độc tế bào trên 4 dòng tế bào được chọn

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ........................................................................... 3

1.1. Tổng quan về ung thư ................................................................................ 3

1.2. Tổng quan về hệ phân phối thuốc mới - hệ nano ...................................... 4

1.2.1. Cơ chế hướng đích của hệ phân phối thuốc nano .................................. 5

1.2.2. Các vật liệu có thể dùng để tạo ra chất mang nano ............................... 8

1.3. Hệ phân phối thuốc nano mang đồng thời Paclitaxel và Curcumin dựa

trên copolyme PLA-TPGS ((Cur+PTX)-PLA-TPGS) .................................... 11

1.3.1. Paclitaxel ............................................................................................... 12

1.3.2. Curcumin ............................................................................................... 13

1.3.3. Tác dụng hiệp đồng của Curcumin và Paclitaxel ................................. 14

1.3.4. Tổng quan về hệ micel copolyme PLA-TPGS ....................................... 15

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......... 19

2.1. Nguyên liệu, đối tượng nghiên cứu .......................................................... 19

2.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 19

2.2.1. Tổng hợp copolyme PLA-TPGS ............................................................ 19

2.2.2. Chuẩn bị dung dịch TPGS gắn với folat ............................................... 21

2.2.3. Tổng hợp hạt nano (Cur + PTX)-PLA-TPGS gắn folat ........................ 21

2.2.4. Hiệu suất bọc thuốc (EE%) ................................................................... 22

2.2.5. Đánh giá các đặc trưng vật liệu ............................................................ 23

2.2.6. Đánh giá tác dụng gây độc tế bào ........................................................ 23

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN .................................................. 24

3.1. Tính đặc trưng vật liệu ............................................................................. 24

3.1.1. Quang phổ hồng ngoại chuyển đổi Fourier (FTIR) ............................. 24

3.1.2. Hình thái và kích thước ......................................................................... 27

3.2.3. Thế zeta ................................................................................................. 29

3.2. Hiệu suất bọc thuốc (EE %) ..................................................................... 32

3.3. Thử nghiệm gây độc tế bào ...................................................................... 33

CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ................................................... 36

TÀI LIỆU THAM KHẢO

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư hiện nay vẫn đang là một trong các nguyên nhân gây tử vong

hàng đầu trên thế giới. Sự phát triển của ung thư trong những năm gần đây đang

thực sự là một mối lo ngại lớn đối với các quốc gia trên thế giới và thu hút được

quan tâm rất lớn, không chỉ trong cộng đồng khoa học, đặc biệt là dược sĩ, các

nhà sinh học và hóa học, mà còn trong cộng đồng nói chung. Việc chữa trị ung

thư tiêu tốn rất nhiều công sức và tiền bạc. Tuy nhiên, các thuốc điều trị ung thư

truyền thống thường thiếu tính đặc hiệu đối với những tế bào ung thư và có độ

tan trong nước thấp. Chúng không những tiêu diệt tế bào ung thư mà còn tiêu

diệt cả những tế bào khỏe mạnh của cơ thể, do đó không đem lại hiệu quả chữa

trị cao và gây nên nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng. Do đó, nhu cầu cấp bách là

cần phát triển phương pháp điều trị ung thư không có hoặc rất ít tác dụng phụ

đến các tổ chức lành. Sự phát triển vượt trội của công nghệ nano trong thời gian

gần đây đã tạo ra những bước tiến đáng kể trong tất cả các lĩnh vực của khoa học

công nghệ. Trong ngành dược, các hệ phân phối thuốc nano đã cho thấy những

ưu thế vượt trội so với những hệ phân phối thuốc truyền thống. Các hệ phân phối

thuốc nano có thể hướng đích tác dụng chọn lọc tới các tế bào, khối u ung thư

theo hai cơ chế: hướng đích thụ động và hướng đích chủ động, nhờ đó giảm

thiểu tối đa tác dụng phụ của thuốc đến mô lành đồng thời tăng hiệu quả điều trị,

giảm liều thuốc cần sử dụng.

Song song với đó, sử dụng kết hợp các loại thuốc trong điều trị ung thư

cũng được xem như là một hướng tiếp cận đầy tiềm năng. Phối hợp thuốc

trong điều trị ung thư có thể tạo nên tác dụng hiệp đồng, giúp tăng hiệu quả trị

liệu, giảm thiểu tác dụng phụ, giảm liều dùng, ngăn chặn hoặc giảm hiện

tượng kháng đa thuốc.

Paclitaxel (PTX) là một trong những thuốc điều trị ung thư truyền

1

thống được chiết xuất từ vỏ của cây Taxus brevifolia, dùng để điều trị nhiều

bệnh ung thư như ung thư vú, buồng trứng, phổi …[41]. Tuy nhiên, việc sử

dụng PTX trong điều trị gây ra nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng như phản

ứng quá mẫn, gây độc thần kinh, mắt v.v… Điều đó có thể do độ tan trong

nước thấp của PTX cũng như tính chọn lọc đến các tế bào khối u kém [26,41].

Để giải quyết vấn đề này, cần làm tăng độ tan trong nước của PTX và hạn chế

tối đa tác dụng có hại đến cơ thể.

Curcumin(Cur) là một chất polyphenol màu vàng được chiết xuất từ rễ

của cây nghệ (Curcuma longa) sống phổ biến ở vùng khí hậu nhiệt đới Đông

Nam Á [39]. Cur đã được chứng minh không những có tác dụng chống oxy

hóa mạnh mà còn diệt được các tế bào ung thư với rất ít độc tính[3,12,45]. Sự

kết hợp của Cur và PTX cho tác dụng hiệp đồng ức chế sự phát triển của các

khối u do Cur ngăn cản PTX hoạt hóa yếu tố nhân Kappa B, là yếu tố làm bất

hoạt sự chết theo chương trình của tế bào [18]. Hơn nữa, Cur còn có khả năng

ức chế hoạt động của bơm tống thuốc P-Glycoprotein – một trong các cơ chế

của tế bào ung thư kháng lại PTX – nhờ đó tăng hiệu quả trị liệu của PTX.

Tuy nhiên Cur cũng có độ tan trong nước thấp và nhanh bị đào thải ra khỏi cơ

thể nên ứng dụng trong lâm sàng để điều trị ung thư bị giới hạn đáng kể [7].

Bởi những lý do trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “ Nghiên cứu

chế tạo hệ dẫn thuốc nano Paclitaxel phối hợp Curcumin và đánh giá tác

động của chúng lên các tế bào ung thư” với mục tiêu:

1). Bào chế hệ nano trên cơ sở copolyme PLA - TPGS mang đồng thời

PTX và Cur và gắn yếu tố hướng đích olat.

2

2). Đánh giá hiệu quả tác động của hệ trên một số tế bào ung thư.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. Tổng quan về ung thư

Ung thư là một thuật ngữ chung cho một nhóm lớn các bệnh có thể ảnh

hưởng đến bất kỳ phần nào của cơ thể. Các thuật ngữ khác được sử dụng là

các khối u ác tính và u. ột đặc tính của ung thư là tạo nhanh các tế bào bất

thường phát triển vượt ra ngoài phạm vi thông thường của chúng, và sau đó

có thể xâm nhập vào các bộ phận liền kề của cơ thể và lây lan đến các cơ

quan khác, quá trình thứ hai được gọi là di căn. Di căn là những nguyên nhân

chính gây tử vong do ung thư .

Tỷ lệ ung thư có xu hướng tăng nhanh ở phần lớn các nước trên thế

giới. Tổ chức Y tế thế giới(WHO) nhận định đây là đại dịch đang xảy ra trong

hiện tại. Ước tính mỗi năm trên toàn cầu có hơn 14,1 triệu người mới mắc và

8,2 triệu người chết do ung thư, trong đó gần 70% là ở các nước đang phát

triển và có thể tăng gấp đôi lên 14,6 triệu người vào năm 2035. Số lượng các

trường hợp mới mắc được dự kiến sẽ tăng khoảng 70% trong 2 thập kỷ tới.

Hiện khoảng 23 triệu người đang sống với ung thư. Nếu không có các biện

pháp can thiệp kịp thời thì các con số này sẽ tăng lên 30 triệu vào năm 2020.

Và cũng theo WHO, trong 178 quốc gia, vùng lãnh thổ có tỷ lệ mắc và tử

vong do ung thư nhiều nhất thế giới, Việt Nam đứng thứ 78. Năm bệnh ung

thư phổ biến nhất ở Việt Nam là ung thư gan, phổi, dạ dày, ung thư vú và ung

thư trực tràng [15].

Các phương pháp điều trị ung thư phổ biến hiện nay là phẫu thuật, xạ

trị và hóa trị. Trong hóa trị liệu, các dược chất phổ biến như cisplatin,

mitoxantron, estramustin, doxorubicin, etoposid, vinblastin,

paclitaxel,vinorelbin, hoặc kết hợp các loại thuốc với nhau đã được sử dụng

rộng rãi trong điều trị ung thư và cũng đã cải thiện chất lượng cuộc sống

[8,31,34]. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả trong diệt tế bào ung thư, các thuốc

này còn gây nhiều tác dụng không mong muốn trên tế bào lành. Do đó, công

3

cuộc tìm kiếm các thuốc mới, các liệu pháp điều trị mới, hoặc phối hợp các

dược chất với nhau để nâng cao hiệu quả điều trị, giảm thiểu tác dụng không

mong muốn vẫn đang là một thách thức đặt ra với các nhà khoa học. Do đó,

một nhu cầu cấp bách là cần tìm ra phương pháp điều trị ung thư không có

hoặc rất ít tác dụng phụ đến các cơ quan bình thường.

1.2. Tổng quan về hệ phân phối thuốc mới - hệ nano

Nhiều hệ phân phối thuốc đã và đang được nghiên cứu và phát triển

nhằm tăng khả năng vận chuyển và giải phóng thuốc tại những vùng khối u

mang bệnh và do đó giảm thiểu những tác động xấu tới những cơ quan của cơ

thể. Trong đó hệ phân phối thuốc nano có tiềm năng ứng dụng rất cao, thu hút

được nhiều sự quan tâm nghiên cứu và phát triển.

Công nghệ nano liên quan đến việc thiết kế, phân tích, bào chế các vật

liệu trong đó có ít nhất một chiều có kích thước từ 1-100 nm. Các vật liệu

nano có diện tích bề mặt lớn so với thể tích, các tính chất hóa, lý, sinh học của

chúng cũng rất khác biệt so với các vật liệu có kích thước lớn. Những tính

chất siêu việt này đã mở ra những cơ hội mới trong việc ứng dụng công nghệ

nano trong các lĩnh vực như y học và sinh học. Nhờ đó, thuật ngữ “y học

nano” đã được hình thành [28]. Mục tiêu của y học nano là áp dụng của công

nghệ nano vào y học cho việc phòng bệnh, chẩn đoán và trị liệu bằng cách

dùng vật liệu nano để thao tác các hệ thống sinh học ở mức độ tế bào hay

xuống thấp hơn nữa ở cấp độ phân tử. Những nghiên cứu trong y học nano

phần lớn liên quan đến việc mang thuốc đến các tế bào bệnh và chẩn đoán

bệnh ở mức phân tử. Với kích thước cỡ nano mét, các hệ phân phối thuốc

nano không chỉ giúp cải thiện tính tan của các thuốc không tan mà còn có khả

năng tập trung thuốc tại vùng khối u thông qua hai cơ chế hướng đích: bị

4

động và chủ động.

Hướng đích chủ động

Tế bào ung thư

Nhập bào

Tế bào nội mô

Hoạt chất có hoạt tính

Giải phóng hoạt chất trong tế bào

Hướng đích bị động

Mạch bạch huyết

Hình 1: Cơ chế nhắm đích bị động và chủ động của hệ phân phối thuốc

có kích thước nano

1.2.1. Cơ chế hướng đích của hệ phân phối thuốc nano

* Hướng đích bị động

Các nhà khoa học đã nhận thấy có sự khác biệt giữa vùng mô bình

thường khoẻ mạnh và mô ung thư, tế bào của vách huyết quản trong vùng mô

khoẻ mạnh có sự liên kết rất khít khao, trong khi đó ở vách huyết quản của

mô ung thư xuất hiện những khoảng hở có kích cỡ khoảng 600-800 nm. Phân

tử thuốc tự do có thể đi xuyên vách thông qua sự thẩm thấu và khuếch tán tự

động, có tác dụng và tiêu diệt các tế bào khỏe mạnh lẫn tế bào ung thư mà

không phân biệt. Ngược lại, nếu thuốc đưa vào cơ thể dưới dạng hạt có kích

thước nano, độ lớn của hạt không cho nó đi qua vách huyết quản của mô bình

thường nhưng có thể chui lọt qua những khoảng hở đi vào khối u ung thư [5].

5

Các nhà toán học còn có thể tính toán hình dạng tối ưu làm sao để hạt có thể

chui qua kẽ hở huyết quản với số lượng tối đa. Từ đó làm gợi ý đến việc

nghiên cứu phát triển các thuốc điều trị ung thư được bọc trong các hạt kích

thước nano nhằm tăng tính hướng đích, dẫn đến tăng hiệu quả điều trị bệnh.

Khi được đưa vào cơ thể, hạt nano mang thuốc sẽ theo hệ thống tuần

hoàn qua mạch máu để đến mô đích. Kích cỡ của hạt mang thuốc là một yếu

tố quan trọng cho việc vận chuyển thuốc. Kích cỡ này phải trong phạm vi từ 4

đến 400 nm. Nếu nhỏ hơn 4 nm, hạt sẽ nhanh chóng bị thải ra theo đường bài

tiết. Nếu lớn hơn 400 nm, hạt sẽ bị hệ thống miễn dịch phát hiện và loại trừ ra

khỏi cơ thể.

* Hướng đích chủ động:

Cơ chế hướng đích chủ động dựa trên những liên kết đặc hiệu cuả các

thụ thể có mặt trên tế bào ung thư đối với các tác nhân hướng đích đặc hiệu

đối với các thụ thể đó. ối loại tế bào ung thư sẽ có một hoặc nhiều thụ thể

đặc hiệu. Để đạt được khả năng nhắm đích có tính chọn lọc cao, những hệ

phân phối thuốc có thể được gắn với các yếu tố hướng đích như: hormon,

kháng thể, và những dẫn xuất của vitamin [27]. Trong đó hệ gắn thuốc với

axit olic được nghiên cứu ứng dụng nhiều trị liệu ung thư [24].

 Axit folic

Hình 2. C u t củ it ic Axit folic (Hình 2) là một vitamin rất cần thiết cho các quá trình

6

sinh tổng hợp nucleotid, vì vậy, nó được sử dụng để kéo dài quá trình sống

của tế bào. Tế bào thường vận chuyển folat qua màng thông qua những thụ

thể của folat (folat-receptor ( )). Những thụ thể của folat ( ) thường được

biểu hiện quá mức ở tế bào ung thư giúp những tế bào ác tính được cung cấp

đầy đủ nhu cầu vitamin cho sự phát triển của chúng [33].

 Thụ thể folat (FR) :

Thụ thể olat của người (khối lượng cỡ 38 kDa) bao gồm 3 dạng - ,

- , và - . ỗi dạng có khả năng bám dính khác nhau đối với olat.

Hằng số phân ly KD của mỗi dạng đối với olat lần lượt là: FR- = 0,1 n ,

FR- = 1 n , - = 0,4 n . Hằng số phân ly càng nhỏ cho thấy khả năng

bám dính càng cao. Vì có ái lực cao đối với olat, nên thụ thể - là đối

tượng được nghiên cứu khá kĩ trên các dòng tế bào ung thư. - chỉ biểu

hiện ở mức độ rất thấp trên các mô thường, song lại biểu hiện rất cao ở các

mô thư ác tính như: ung thư buồng trứng, ung thư dạ con, ung thư não,

thận… ức độ biểu hiện của thụ thể olat được biểu hiện qua lượng olat bám

trên một mg protein được tách ra từ các mô, khối u tương ứng. Mức độ biểu

hiện của thụ thể folat ở mô khối u cao hơn nhiều so với mô lành (Hình 3). Các

nhà khoa học có thể tận dụng các đặc điểm này để gắn folat lên các hệ phân

phối thuốc, giúp tăng khả năng bám dính của những hệ dẫn thuốc này lên tế

bào ung thư, qua đó tăng nồng độ của thuốc tại những vùng khối u và giảm

thiểu nồng độ của thuốc tại những cơ quan, tế bào lành.

7

Hình 3: M c độ bi u hiện củ th th t t ên m thư ng và khối u.

Cơ chế: Sau khi bám lên những thụ thể folat nằm trên bề mặt của tế

bào ung thư, những hệ gắn folat sẽ được tiếp nhận và vận chuyển vào bên

trong tế bào, tới những cơ quan nội bào gọi là endosom. Những endosom này

có pH nằm trong khoảng từ 4.3 đến 6.9, phổ biến nhất là 5.0. pH của endosom

có ảnh hưởng tới việc gắn của hệ olat vào thụ thể. Khi pH < 5 một số hệ gắn

folat sẽ bị tách ra khỏi thụ thể folat và tồn tại bên trong tế bào. Một số nghiên

cứu gần đây đã chỉ ra rằng, tổng số hệ gắn folat được nhập bào sẽ gần như tỉ

lệ thuận với số lượng thụ thể folat được biểu hiện trên một tế bào và tốc độ

tiếp nhận những hệ gắn folat của một tế bào ung thư trung bình là 1-3  105

phân tử tế bào giờ [42].

 Kết hợp copolyme và folat để tạo ra một hệ phân phối thuốc cấu

trúc nano có khả năng hướng đích chủ động

Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu được tiến hành dựa trên việc

kết hợp copolyme và olat để tạo ra các hệ phân phối thuốc nano hướng đích

mang lại nhiều tác dụng có lợi như các liposom, phức hợp polymer-thuốc, hạt

nano lipid, và micel copolymeric. Ví dụ, năm 2011, ing - Fa - Hsieh cùng

đồng nghiệp đã tiến hành tổng hợp hệ phân phối thuốc nano doxorubicin dựa

trên copolyme poly(ethylen glycol)-poly )-poly(ethylen glycol) gắn yếu tố

hướng đích olat ứng dụng trong điều trị ung thư vú [11]. Hay Wang J, Liu W

cùng các cộng sự năm 2011 cũng đã tiến hành tổng hợp hệ phân phối thuốc có

yếu tố hướng đích olat được tổng hợp từ monomethoxy-poly(ethylen glycol)-

b-poly(lactid)-paclitaxel (MPEG-PLA-paclitaxel) và d- -tocopheryl

polyethylen glycol 1000 succinat (TPGS)- olat đã chứng minh acid folic tăng

cường khả năng phân phối thuốc của hệ nano mang thuốc điều trị ung thư đến các tế bào ung thư [47].

1.2.2. Các vật liệu có thể dùng để tạo ra chất mang nano

Để chế tạo được những hệ phân phối thuốc điều trị ung thư có khả năng

8

nhắm đích tới tế bào ung thư như vậy, có hai vấn đề lớn được đặt ra. Thứ

nhất, những loại vật liệu nào phù hợp để có khả năng tạo ra những hệ chất

mang có kích thước nano, có khả năng tương hợp sinh học cao, an toàn cho

người bệnh. Thứ hai, lựa chọn những phối tử nào đặc hiệu đối với những thụ

thể đặc trưng đối với từng loại tế bào ung thư là việc rất quan trọng quyết

định tới khả năng nhắm đích và tính chọn lọc của việc điều trị.

Những hệ vật liệu sử dụng để bào chế những hệ phân phối thuốc phải

có khả năng tương thích sinh học cao, bảo vệ thuốc chống lại các quá trình

chuyển hóa và thải trừ trong cơ thể thông qua sự hoạt động của các loại

enzyme, không gây những phản ứng miễn dịch trong cơ thể và không gây độc

cho cơ thể. Có thể chia những vật liệu được sử dụng trong việc dẫn truyền

thuốc làm 3 loại [23]:

- Các hạt vô cơ có cấu trúc xốp ( hạt SiO2 xốp) hoặc rỗng ( hạt vàng rỗng)

- Các loại polyme thiên nhiên hoặc polyme tổng hợp

- Các hệ mang sinh học: virus

Một số hệ phân phối thuốc được tạo thành từ polyme được liệt kê trong

Hình 4. Trong số đó, các polyme được sử dụng để tạo chất mang nano dưới

dạng polymeric micel. Trong đó các polyme phân hủy sinh học vẫn được sử

dụng rộng rãi hơn cả. Các polyme phân hủy sinh học như poly- caprolacton

(PCL), poly lactid (PLA), poly glycolic acid (PGA), poly e-caprolacton, poly

lactic-co-glycolic acid (PLGA). Những polyme này đã được cục quản lý thực

phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ FDA, chứng minh là phân hủy sinh học, được

sử dụng trong nhiều nghiên cứu do có độc tính thấp với cơ thể. Với tính chất

kỵ nước giúp chúng có khả năng vận chuyển những loại thuốc ít tan trong

nước lớn nhưng đồng thời khả năng phân tán trong nước rất hạn chế, và tốc

độ phân hủy thấp trở thành rào cản để sản xuất hệ phân phối thuốc mới tiên

tiến [46]. Vì vậy, thông thường, khi sử dụng các loại polyme này như một hệ

phân phối thuốc, người ta thường sử dụng các chất nhũ hóa nhằm làm tăng

9

khả năng phân tán của hệ trong môi trường cơ thể, qua đó làm tăng khả năng

lưu thông trong hệ tuần hoàn. ặc dù vậy, khi sử dụng các chất nhũ hóa, kích

thích của hệ mang thuốc thường lớn, không nằm trong vùng kích thước từ

200-800 nm. Vì vậy, chúng dễ bị bắt giữ bởi các đại thực bào và bị phân hủy

bởi các enzyme trong hệ thống bài tiết của cơ thể. Đồng thời, với kích thước

lớn, khả năng phân tán của những hệ phân phối thuốc này vào những vùng

khối u ung thư bị giảm xuống.

Micel polyme

Hạt nano polyme

Phức hợp polyme - thuốc/protein

Phối tử hướng đích

Hoạt chất điều trị

Hình 4: Một số hệ phân phối thuốc c u t úc n n [37]. Để khắc phục nhược điểm này, các nhà khoa học đã tạo ra những

copolyme. Micel copolyme hoạt động như các chất mang nano với nhiều

thuận lợi, chẳng hạn như có độc tính thấp, tính ổn định cao và kích thước nhỏ.

Copolyme lưỡng tính, trong công thức gồm các cấu trúc kỵ nước và ưa nước.

10

Trong môi trường nước, chúng có thể tự tập hợp thành những cấu trúc vỏ- lõi

được gọi là micel copolymeric (Hình 5). Lõi kỵ nước có thể được coi như là

vi môi trường để kết hợp các loại thuốc kỵ nước và bảo vệ chúng khỏi bị phá

hủy trong khi lớp vỏ tham gia vào việc ổn định và cải thiện thời gian lưu của

Phần ưa nước Phần kị nước

các micel trong các hệ thống tuần hoàn [9].

Hình 5. C u t úc micel t nên bởi c p yme (d ng di-b ck) kh ng

m ng thuốc ( ) và m ng thuốc (b).

ột số polyme ưa nước như poly lactic acid (PLA) hoặc tocopheryl

polyethylen glycol 1000 succinat (TPGS) có thể được kết hợp để làm tăng tốc

độ phân hủy, giảm tính kỵ nước của các polyme phân hủy sinh học này, để

tạo ra các hệ thống copolymeric micel mới cũng đã được đưa vào nghiên cứu.

1.3. Hệ phân phối thuốc n n m ng đồng th i P c it e và Cu cumin

dự t ên copolyme PLA-TPGS ((Cur+PTX)-PLA-TPGS)

Bên cạnh việc nghiên cứu và phát triển những hệ phân phối thuốc mới,

một loạt các hợp chất tự nhiên có tác dụng chống ung thư kết hợp với các loại

thuốc điều trị ung thư đang được điều trị phổ biến hiện nay vào các hệ phân

phối thuốc nano cũng đang được nghiên cứu, phát triển, trong đó sự kết hợp

giữa Cur và PTX vẫn đang thu hút được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu từ các

11

dược sĩ, nhà khoa học.

1.3.1. Paclitaxel

PTX (Hình 6) được chiết xuất từ vỏ cây Taxus brevifolia, là một trong

những chất trị liệu hóa học hiệu quả nhất trong điều trị nhiều loại ung thư, bao

gồm ung thư buồng trứng, vú, đại tràng, bàng quang, thực quản, phổi, đa u tủy

và ung thư Kaposi [41].Tuy nhiên, do độ hòa tan kém (độ tan dưới 0,5mg/L)

và chỉ số điều trị thấp, ứng dụng lâm sàng của PTX là vẫn còn hạn chế. Bệnh

nhân sau khi dùng PTX đều bị rụng tóc, hơn 90% bênh nhân bị suy tủy... Một

số bệnh nhân bị các phản ứng phụ như như sung huyết, ngoại ban (39%), kém

ăn (25%), phù ngoại biên (10%)[13].

Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm sao nâng cao tính tan, nâng cao hiệu quả trị

liệu của PTX đồng thời làm giảm những hiệu ứng phụ do loại thuốc này gây

ra. Theo Sang Cheon Lee và cộng sự, copolyme dựa trên poly ethylen glycol

và poly(2-(4-vinylbenzyloxy)-N,N-diethylnicotinamid) đã có tác dụng làm

tăng độ tan của PTX [25].

12

Hình 6. C ng th c hó học củ PTX

1.3.2. Curcumin

Curcumin (Cur) [1,7-Bis (4-hydroxy-3-medithoxyphenyl) -1,6-

heptadien-3,5-dion] (Hình 7), một hợp chất màu vàng phân lập từ thân rễ cây

nghệ Curcuma longa. Cur nhận được sự quan tâm lớn từ các nhà khoa học vì

khả năng phòng ngừa ung thư của nó [6,19].

Hình 7. C ng th c hó học của Cur

Bột nghệ từ lâu đã được sử dụng trong ẩm thực Ấn Độ và trong y học

13

truyền thống châu Á để điều trị chứng khó tiêu hóa và viêm khớp. Curcumin

chiết xuất từ củ nghệ không chỉ là một chất chống oxy hóa mạnh, một hợp

chất chống viêm mà còn có tác dụng phòng và điều trị ung thư. Nhiều sản

phẩm từ curcumin đã được tổng hợp để điều trị ung thư (ung thư ruột, da, vú,

dạ dày, buồng trứng, tuyến tiền liệt, dạ dày, loét tá tràng, vv) [1,2,10,44]. ặc

dù curcumin đã được chứng minh là không độc hại và có các tác dụng chống

ung thư đầy hứa hẹn nhưng ứng dụng của nó vẫn bị hạn chế do khả năng hòa

tan trong nước và sinh khả dụng kém [48]. Theo kết quả nghiên cứu của

Donatella Paolino và các cộng sự được công bố vào năm 2016, sử dụng

copolyme methacrylic có thể làm tăng độ tan cũng như sinh khả dụng đường

uống của curcumin [32].

1.3.3. Tác dụng hiệp đồng của Curcumin và Paclitaxel

Một số nghiên cứu đã được tiến hành nhằm tìm ra rằng liệu có bất cứ

tác dụng hiệp đồng nào giữa Cur và PTX hay không. Và kết quả của những

nghiên cứu này chỉ ra rằng thực sự giữa chúng có tác dụng hiệp đồng để làm

tăng hiệu quả ức chế khối u qua trung gian NF-kappa B (NF-κB ).

NF-κB là một protein phức tạp, có vai trò kiểm soát sự phiên mã của

ADN, sự sản xuất cytokin, đáp ứng miễn dịch, trong nhiễm trùng virus và khả

năng sống của tế bào.... chúng có mặt trong rất nhiều loại tế bào người và

động vật. Trong các tế bào bình thường, thì NF-κB không được hoạt hóa nên

đáp ứng của tế bào với quá trình apoptosis (quá trình tế bào tự chết theo

chương trình) vẫn diễn ra bình thường. Đó là bởi vì N -κB hoạt hóa sẽ kiểm

soát gen anti-apoptosis đặc biệt là T A 1 và T A 2, do đó loại bỏ hoạt động

của họ enzym caspase - đóng vai trò chính trong các quá trình apoptosis. Việc

ức chế NF-κB có thể làm tế bào ngừng phân chia, tăng trưởng, gây chết hoặc

trở nên nhạy cảm hơn với các thuốc điều trị ung thư [23].

Hầu hết các chất điều trị ung thư đều hoạt hóa NF-kappa B trong đó có

PTX. Và Cur thì đã ức chế PTX trong quá trình hoạt hóa N -kappa B và làm

14

tăng hiệu quả ức chế khối u tăng sinh của PTX trong dòng tế bào ung thư vú

MDA-MB-231. Sự kết hợp của Cur và PTX cho phép suy ra sự ức chế tốt

hơn về sự tăng sinh tế bào, làm tế bào tự chết theo chương trình nhiều hơn khi

so sánh với việc chỉ dùng hoặc PTX hoặc Cur đơn thuần [18].

1.3.4. Tổng quan về hệ micel copolyme PLA-TPGS

 PLA

Poly-lactic acid (PLA) (Hình 8) là một polyme phân hủy sinh học và

tương thích sinh học, được sử dụng rộng rãi trong y sinh học để làm cho chất

mang nano an toàn và phân hủy sinh học để điều trị ung thư. Cục Thực phẩm

và Dược phẩm Hoa Kỳ ( DA) đã chấp thuận sử dụng của chúng trong các hệ

thống phân phối thuốc. Các monome của PLA tức là, L-lactic acid (L-LA),

mà có thể được tạo ra một cách hiệu quả bởi việc lên men từ các nguồn tái tạo

được như tinh bột và đường. PLA phân hủy đến monome của nó, L-LA, là

một chất chuyển hóa bình thường của con người [46].

Hình 8. C u t úc củ L-LA

 TPGS

TPGS (D- -tocopheryl polyethylen glycol 1000 succinat) (Hình 9)

được DA chấp thuận là dẫn xuất tan trong nước tự nhiên của Vitamin E

(PEGylated vitamin E). TPGS không tích điện và rất ưa nước, được sử dụng

như chất làm tăng độ tan, tăng cường hấp thụ và làm chất mang cho các công

15

thức khác nhau. TPGS chủ yếu được nghiên cứu trong liposom và hạt nano

polyme, giúp tăng cường sự hấp thu của tế bào, tăng khả năng gây độc tế bào

và cho thấy thời gian lưu kéo dài [22,30].

TPGS dễ hấp thụ trong ống tiêu hóa, và ức chế P-glycoprotein là thụ

thể vận chuyển đa thuốc, ở trong ruột tăng cường khả năng gây độc của chất

chống ung thư như doxorubicin, vinblastin, paclitaxel và curcumin [49,50].

Tiềm năng quan trọng đã được chứng minh cho TPGS là trong ứng dụng hạt

nano và các công nghệ dựa trên lipid để phân phối thuốc. Cấu trúc hóa học

của vitamin E TPGS gồm cả phần thân dầu và phần thân nước, dẫn đến nó có

tính chất amphiphilic. Hơn nữa, đuôi alkyl ưa mỡ và phần đầu ưa nước là

cồng kềnh và có diện tích bề mặt lớn. Đặc điểm như vậy khiến nó trở thành

một chất nhũ hóa tốt, có khả năng nhũ hóa một loạt các hệ thống thân nước-

dầu không thể trộn lẫn.

Hình 9. C ng th c của TPGS

Hệ micel PLA - TPGS được tổng hợp dựa trên sự kết hợp của monome

acid L-lactic (L-LA) đã được chứng minh là phân hủy sinh học nên an toàn

cho cơ thể [46] và D-a-tocopheryl polyethylen glycol 1000 succinat (TPGS)

có nguồn gốc từ vitamin E. Hệ có cấu trúc vỏ-lõi, với lớp vỏ ưa nước (TPGS)

và phần lõi kị nước (PLA) giúp làm tăng độ tan trong nước của các thuốc có

độ tan thấp. Copolyme PLA-TPGS (Hình 10) đã được ứng dụng vào nhiều hệ

16

phân phối thuốc nano bởi tính an toàn, phân hủy sinh học tự nhiên, khả năng

hướng đích tốt, cũng như dễ dàng tổng hợp được. Thêm vào đó, TPGS được

hấp thu một cách dễ dàng trong đường tiêu hóa và cũng có khả năng ức chế P-

glycoprotein, là một protein vận chuyển đa thuốc từ trong tế bào chất ngược

trở ra để bài tiết vào đường ruột. Do đó cải thiện khả năng gây độc tế bào của

nhiều hợp chất chống ung thư như doxorubicin, paclitaxel và curcumin [4,29].

Hình 10. C ng th c của copolyme PLA-TPGS

 Cơ chế m ng thuốc và c p yme PLA- TPGS

Đối với các micel copolyme PLA- TPGS lõi kỵ nước gồm chuỗi PLA

và đuôi alkyl thân nước của TPGS nên có thể bọc nhiều phân tử trị liệu nhỏ kị

nước. Cur và PTX đã được đóng gói vào các lõi vì kị nước của nó thông qua

sự tương tác kỵ nước, lực Van der Waals, vv. cung cấp một bề mặt ổn định

17

giữa thuốc và môi trường nước ngoài [22] (Hình 11).

PTX

18

Hình 11. Hình ảnh củ các h t nano (PTX+Cur)/PLA-TPGS

CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Nguyên liệu, đối tượng nghiên c u

 Tế bào:

 Dòng Hep-G2 (Human hepatocellular carcinoma – Ung thư gan)

 Dòng HeLa (HeLa cancer cell line – Dòng tế bào ung thư HeLa)

 Dòng LU-1 (Human lung adenocarcinoma – Ung thư biểu mô phổi)

 Dòng Vero (Vero cells – Tế bào biểu mô thận khỉ).

Các tế bào trên được lấy từ Viện hóa học các hợp chất thiên nhiên,

Viện Hàn Lâm.

 Hóa chất:

Acid lactic (3,6-dimethyl-1,4-dioxan-2,5-dion, C6H8O4), D-a-

Tocopheryl polyetylen glycol 1000 succinat (C33O5H54, vitamin E TPGS

hay TPGS), N-hydroxysuccinimid (NHS), 1-[3-dimethylamino) propyl]-3-

ethylcarbodiimid hydrochlorid (EDC), Thiếc Octoat (Sn(OOCC7H15)2),

Toluen, Dichlometan, Metanol, Ethanol, Curcumin, Paclitaxel.

Các hóa chất (trừ Cur) đều được mua từ Sigma- Aldrich và đạt độ sạch

phân tích. iêng Cur được mua từ viện hóa học, Viện Khoa học vật liệu, Viện

Hàn Lâm.

PTX được mua từ Sigma- Aldrich và đạt độ sạch phân tích, số lô

1537678.

Nước cất được sử dụng trong suốt quá trình thí nghiệm.

2.2. Phương pháp nghiên c u

2.2.1. Tổng hợp copolyme PLA-TPGS

Copolyme PLA-TPGS (Hình 12) được tổng hợp bằng phương pháp mở

vòng trùng hợp của L-LA và TPGS với sự có mặt của chất xúc tác octoat

thiếc [Sn (Oct)2] [38]. Tóm tắt, L-LA và TPGS với những tỉ lệ xác định được

19

cho vào một bình đáy tròn 50ml, và được hòa tan trong 20ml toluen cũng

được cho vào bình, hỗn hợp được đun nóng và khuấy bằng máy khuấy từ. Khi nhiệt độ đạt đến 110oC, 1ml Sn (Oct)2 (0,5% w / v) được hòa tan trong 10ml toluen và bổ sung vào bình cầu. Duy trì nhiệt độ ở 130oC trong suốt 7 tiếng để

thực hiện phản ứng mở vòng. Sản phẩm thu được sẽ được hòa tan trong

dichloromethan (DC ) và kết tủa trong methanol lạnh, ly tâm để thu được

kết tủa. Tủa thu được sau ly tâm đem sấy qua đêm, cuối cùng thu được

copolyme PLA-TPGS dạng bột màu trắng [17].

Hình 12. C p yme PLA-TPGS được t o bởi monome L-LA và TPGS

Để tối ưu hóa cấu trúc của hệ phân phối thuốc, chúng tôi tiến hành thay

đổi tỉ lệ khối lượng giữa PLA và TPGS để tìm ra tỉ lệ nào có sự kết hợp giữa

hiệu suất bọc thuốc, độ bền của hệ cũng như khả năng tiêu diệt các tế bào

khối u là tốt nhất, phục vụ cho các nghiên cứu về sau. Các mức tỷ lệ

20

PLA:TPGS (w w) được thực hiện trong nghiên cứu được liệt kê ở bảng sau:

Bảng 1. Tỉ lệ và khối ượng củ PLA và TPGS thực nghiệm

Tỉ lệ PLA: TPGS Khối ượng thử nghiệm(g)

PLA TPGS

1:1 0,2 0,2

1:2 0,2 0,4

1:3 0,2 0,6

2:1 0,4 0,2

3:1 0,6 0,2

2.2.2. Chuẩn bị dung dịch TPGS gắn với folat

Đầu tiên, 100mg TPGS cùng 8,8 mg axit aspartic và 10mg EDC được

hòa tan trong 10ml H2O, phản ứng được thực hiện ở nhiệt độ phòng, sau 24h

khuấy từ sẽ thu được dung dịch TPGS-COOH. Tiếp đó, 35mg axit olic,

11,4mg EDC, 3,96 mg ethylen diamin và 18mg NHS được hòa tan hoàn toàn trong 7ml dung dịch NH4OH 2 và khuấy từ 6h ở 50oC để tạo thành dung

dịch Folat đã hoạt hóa ( ol-NHS) đồng nhất. Sau đó, 100mg EDC và 25mg

NHS được thêm vào dung dịch TPGS-COOH trên, khuấy từ 2h ở nhiệt độ

phòng để thu được dung dịch TPGS-COOH hoạt hóa. Trong bước tiếp theo,

dung dịch này được nhỏ giọt từ từ vào dung dịch Fol-NHS và điều chỉnh pH đến 8. Cuối cùng dung dịch được khuấy từ tại 37oC trong 4h [40].

2.2.3. Tổng hợp hạt nano (Cur + PTX)-PLA-TPGS gắn folat

Đầu tiên, 10mg copolyme PLA-TPGS được cho vào 10ml DC và

khuấy từ trong 2h. Sau đó 10ml H2O được thêm vào hỗn hợp và tiếp tục

khuấy cho đến khi lớp DCM trở nên trong suốt thì thu lấy lớp nước ở phía

trên và thêm 1g TPGS vào lớp nước. Đồng thời, dung dịch của Cur và PTX

cũng được chuẩn bị bằng cách cho 4mg Cur và 4mg PTX cùng hòa tan vào

10ml EtOH. Tiếp đó dung dịch thuốc được nhỏ từ từ vào lớp nước đã thu phía

trên trong máy rung siêu âm. Sản phẩm sau khi rung siêu âm được khuấy từ

21

trong 24h ở nhiệt độ phòng. Sau đó tiến hành đuổi dung môi EtOH và thêm

vào 1ml dung dịch Folat đã hoạt hóa, khuấy từ trong 2h để tạo thành hạt nano

(Cur+PTX)-PLA-TPGS-Fol. Hỗn hợp sau cùng được đem đi ly tâm và thu lấy

phần dung dịch phía trên là phần chứa hệ phân phối thuốc nano để tiến hành

các thử nghiệm về sau.

2.2.4. Hiệu suất bọc thuốc (EE%)

Hiệu suất bọc thuốc (EE%) của PTX (hoặc Cur) của hệ nano được tính

toán bởi độ hấp thụ cực đại UV-Vis tại các bước sóng 430 nm (đặc trưng cho

Cur) và 227 nm (đặc trưng cho PTX) [14,20].

Quy trình [16,36]:

 Bước 1: Xác định phương trình đường chuẩn Cur và PTX

- Chuẩn bị dung dịch mẫu trắng (1) bao gồm EtOH : H2O với tỉ lệ 7:3

- Hòa tan hoàn toàn 2,000 mg Cur (PTX) trong 20,0ml dung dịch (1)

thu được dung dịch (2).

- Đường chuẩn bao gồm dãy 5 dung dịch chuẩn được chuẩn bị bằng

cách thêm các thể tích tương ứng của dung dịch (2), sau đó bổ sung cho đủ

10,00ml bằng dung dịch (1) như trong Bảng 2:

Bảng 2. Dãy nồng độ 5 dung dịch chuẩn

STT Thể tích dung dịch 1(ml)

Nồng độ (Cx) (mg/ml)

1 C1= 0,002 0,20

2 C2= 0,004 0,40

3 C3= 0,006 0,60

4 C4= 0,008 0,80

5 C5= 0,01 1,00

 Bước 2: Định lượng Cur PTX có trong dung dịch chứa hệ phân

phối thuốc nano (Cur+PTX)-PLA-TPGS-Fol

- Lấy 0,20 ml mỗi dung dịch chứa hệ (Cur+PTX)-PLA-TPGS-Fol

tương ứng với 5 tỉ lệ của PLA- TPGS thêm vào 3,50 ml dung dịch EtOH và

22

1,30 ml H2O.

- Tiến hành đo phổ hấp thụ UV-Vis và xác định độ hấp thụ cực đại của

5 dung dịch trên lần lượt ở các bước sóng 430 nm và 227 nm.

- Dựa vào phương trình đường chuẩn của Cur và PTX thu được ở Bước

1 để xác định hàm lượng Cur và PTX có trong dung dịch (Cur+PTX)-PLA-

TPGS-Fol.

 Bước 3: Hiệu suất bọc thuốc EE% được tính theo công thức:

Trong đó m = khối lượng

2.2.5. Đánh giá các đặc trưng vật liệu

 Quang phổ hồng ngoại chuyển đổi Fourier (FTIR)

Phổ hồng ngoại của copolyme PLA-TPGS, Cur, PTX và nano (Cur +

PTX)-PLA-TPGS- ol được xác định bằng phương pháp hạt pellet KBr trong

máy đo quang phổ hồng ngoại Perkin Elmer (Perkin Elmer Spectrum Two,

Waltham, assachusetts, U.S.A). Vùng khảo sát nằm trong khoảng 400 - 4000 cm-1 nhằm xác định liệu có tổng hợp thành công hay không hệ micel

(Cur+PTX)-PLA-TPGS-Fol.

 Xác định hình thái, kích thước hạt, thế zeta

Hình thái của hệ micel được xác định bằng máy đo SE Hitachi S-

4800. Thế zeta của hạt nano (Cur + PTX)-PLA-TPGS- ol được đo bởi bằng

phương pháp phổ tán xạ laze động (DLS) trên máy đo thế Zetasize phiên bản

7.03, Malvern instruments Ltd, Malvern, UK.

2.2.6. Đánh giá tác dụng gây độc tế bào

Phương pháp: Sử dụng phương pháp TT để đánh giá mức độ

sống/chết tế bào ung thư dưới tác dụng của hệ phân phối thuốc nano

(Cur+PTX)-PLA-TPGS-Fol với 5 tỉ lệ khác nhau của PLA-TPGS. Thử

nghiệm gây độc tế bào được tiến hành trên 4 dòng tế bào và tiến hành tại

Phòng Sinh học thực nghiệm, Viện hóa học các hợp chất thiên nhiên, Viện

23

Hàn Lâm và Khoa học Công nghệ Việt Nam [35].

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

3.1. Tính đặc t ưng vật liệu

3.1.1. Quang phổ hồng ngoại chuyển đổi Fourier (FTIR)

Các sản phẩm thu được trong các công đoạn được đặc trưng hóa bằng

phương pháp phân tích T- . Các liên kết đặc trưng của từng hợp chất được

thể hiện qua những dao động đặc trưng của các liên kết đó. Số liệu được trình

bày trong các kết quả thu được tương ứng. Các liên kết mới được hình thành

trong các hợp chất mới đều là những liên kết có mặt trong các hợp chất ban

đầu. Vì vậy, không xuất hiện các peak dao động mới trong các hợp chất mới,

chỉ có sự dịch chuyển về số sóng tương ứng với các liên kết đó.

Hình 13. Phổ hồng ngo i FTIR của nano (Cur+PTX)-PLA-TPGS-

Fol với 5 tỉ lệ khác nh u giữ PLA và TPGS

Nhận xét: Theo Hình 13 cho thấy phổ FTIR của các hạt nano tương

24

ứng với 5 tỉ lệ khác nhau của PLA và TPGS hầu như không có sự khác biệt.

Do đó, chúng tôi chọn phổ hồng ngoại của hệ nano tương ứng với tỉ lệ PLA:

TPGS là 1:1 để bàn luận và đánh giá chung về phổ FTIR cho cả 5 tỉ lệ.

Hình 14. Phổ hồng ngo i FTIR của (1) Cur, (2) PTX, (3) Acid folic,

(4) PLA-TPGS 1:1 và (5) (Cu +PTX)-PLA-TPGS-Fol với tỉ lệ PLA-

TPGS 1:1 .

Nhận xét: Theo Hình 14 và Bảng 3 phổ FTIR của (Cur + PTX)-PLA-

TPGS- ol 1:1 có sự thay đổi rõ ràng so với phổ FTIR của PTX tinh khiết, Cur

tinh khiết, axit olic và PLA-TPGS. Trong hình ảnh FTIR của PLA-TPGS đỉnh tại 1762cm-1 đặc trưng cho nhóm carbonyl (C=O) được dịch chuyển tới 1728 cm-1 trong phổ của (Cur + PTX)-PLA-TPGS-Fol 1:1. PTX được đặc trưng bởi dải C=O và C=C tại các đỉnh lần lượt là 1735 and 1644 cm-1, nhưng chúng có thể bị che bởi dải C=O của PLA-TPGS và Cur (1628 cm-1) . Đỉnh tại 1512 và 1458 cm-1 lần lượt được cho là của nhóm C=C ole ienic của Cur (1512 cm-1 đối với Cur tinh khiết) và vòng phenyl của axit folic (1485cm-1 trong phổ chuẩn). Dải C=C của PLA-TPGS (1546 cm-1) bị che phủ bởi C=C olefienic của Cur, do

25

đó nó không được nhìn thấy trong phổ FTIR của (Cur + PTX)-PLA-TPGS-Fol.

Cuối cùng, đỉnh đặc trưng cho liên kết C-N của PTX bị dịch chuyển từ 1245 đến 1280 cm-1. So với các phổ riêng lẻ PLA-TPGS, Cur, PTX, acid folic, phổ

hồng ngoại T- của hệ phân phối thuốc nano gắn folat chứa tất cả các peak

đặc trưng của PLA-TPGS, Cur, PTX và acid olic. Trong đó, vị trí của các peak

này có sự dịch chuyển so với các peak trong các chất đơn lẻ ban đầu. Tất cả các

phân tích trên chứng minh Cur và PTX đã được bọc thành công bởi khối

copolyme PLA-TPGS gắn folat để tạo thành hệ micel.

Bảng 3. Các d động đặc t ưng củ các ch t

Cur PTX Acid folic Copolyme PLA : (Cur + PTX)-

TPGS PLA-TPGS-Fol

1:1

1735 C=O 1756 C=O 1728 chồng

peak C=O của

PTX và PLA-

TPGS.

1644 C=C 1628 Chồng peak

C=O C=O của Cur và

C=C của PTX

1512 1546 C=C

C=O

olefienic

1485 vòng 1458 C=C của

phenyl folic acid

1245 C-N 1280 C-N của

26

PTX

3.1.2. Hình thái và kích thước

(a)

27

(b)

(c)

28

(d)

(e)

Hình 15. Hình ảnh FESEM của nano (Cur+PTX)-PLA-TPGS-Fol với 5

tỉ lệ khác nh u giữ PLA và TPGS ( ) 1:1, (b) 2:1, (c) 1:3, (d) 2:1, (e) 3:1.

Nhận xét: Theo lý thuyết hạt nano với kích thước nhỏ (dưới 200nm) có

thể kéo dài thời gian lưu thông trong hệ tuần hoàn và thâm nhập dễ dàng vào

khối u thông qua hiệu ứng tăng tính thấm và thời gian lưu (the Enhanced

Permeability and Retention effect) [3], do đó sự xâm nhập của hạt nano vào tế

bào khối u có thể được cải thiện và làm tăng hiệu quả điều trị. Có thể quan sát

rõ ràng từ Hình 15 rằng hạt nano (Cur + PTX)-PLA-TPGS-Fol hầu hết có

hình cầu với kích thước nhỏ khoảng 100nm và ít kết tập. Nhờ đó các hệ phân

phối thuốc được tạo ra có tiềm năng ứng dụng trong điều trị ung thư.

3.2.3. Thế zeta

Bảng 4. Thế zeta của hệ nano t i 5 tỉ lệ khác nh u của PLA-TPGS

Tỉ lệ phối hợp 1:3 1:2 1:1 2:1 3:1

PLA:TPGS

29

Thế zeta (mV) -27.60 -25.90 -15.50 -25.10 -28.40

Thế zeta

(a)

(b)

30

(c)

(d)

(e)

Hình 16. Thế zeta của h t nano (Cur +PTX) PLA-TPGS-Fol t i các

tỉ lệ củ PLA và TPGS: 1:3 ( ), 1:2 (b), 1:1 (c), 2:1 (d), 3:1 (e).

Nhận xét: Sự ổn định của hạt nano có thể được dự đoán thông qua thế

zeta, trị tuyệt đối của thế zeta càng cao thì hệ micel càng bền. Qua kết quả DLS

ở Bảng 4 và Hình 16 cho thấy tất cả hệ nano tổng hợp được đều có điện tích âm

31

nằm trong khoảng -15,5 đến -28,4 mV và được coi là tương đối ổn định.

3.2. Hiệu su t bọc thuốc (EE %)

2

1.8

y = 179.04x + 0.078 R² = 0.9994

1.6

1.4

1.2

1

0.8

0.6

0.4

0.2

0 0.000

0.002

0.004

0.006

0.008

0.010

0.012

0.7

0.6

y = 65.994x - 0.0309 R² = 0.9992

0.5

0.4

0.3

0.2

0.1

0

0

0.002

0.004

0.006

0.008

0.01

0.012

Hình 17. Phương t ình đư ng chuẩn củ Cu và PTX

Bảng 5. Hiệu su t bọc thuốc củ Cu và PTX

EE(%)

Cur PTX

32

Tỉ lệ của PLA/TPGS (w/w) 1:3 1:2 1:1 2:1 3:1 Cur được mang (mg/ml) 0,14 0,15 0,17 0,27 0,32 PTX được mang (mg/ml) 0,14 0,16 0,18 0,26 0,33 35,00 37,50 42,50 67,50 80,10 34,70 39,80 44,50 65,30 82,60

Theo kết quả trong Bảng 5, EE % cao nhất cho cả Cur và PTX là ở tỉ lệ

PLA/TPGS 3:1 với lần lượt là 80,10% và 82,60%. Trong khi đó, kết quả EE%

thấp nhất cũng đều là ở tỉ lệ PLA/TPGS 1:3 với chỉ khoảng 35% đối với cả 2

thuốc. Điều này có thể được lý giải bởi vì Cur và PTX đều có tính chất kị

nước nên nó sẽ tương tác với phần lõi kỵ nước PLA của hạt nano. Do đó khi

giảm khối lượng PLA (từ 3:1 đến 1:3) sẽ dẫn tới lượng thuốc được bắt giữ

trong lõi giảm và làm giảm EE%. So sánh EE% giữa 3 tỉ lệ 1:1, 1:2 và 1:3 thì

gần như là tương tự nhau, có thể do ở các tỉ lệ này có lượng PLA ban đầu là

giống nhau.

Tuy tại tỉ lệ 1:3 tỷ lệ bọc cả Cur và PTX là thấp nhất, nhưng nồng độ

của Cur là 0,14mg ml cao gấp hơn 12 lần so với độ tan của Cur tinh khiết

trong nước [43] , tương tự là khoảng 1400 lần so với PTX [21]. Như vậy, hệ

micel đã tổng hợp làm tăng đáng kể độ tan của Cur và PTX trong nước.

3.3. Thử nghiệm gây độc tế bà

Bảng 6. Kết quả gây độc tế bà t ên 4 dòng tế bà được chọn

Th

Phần t ăm sống củ các dòng tế bà (%) tích

mẫu S KH (l T Nhận ét mẫu mẫu/ml T Hep-G2 HeLa LU-1 Vero dịch thí

nghiệm

)

Dung - 100 100 100 100 m i

33

Nồng Chứng Dương 1,250,2 độ 5 0,00 2,50,40 29,151,20 (+) PTX tính 0 g/ml

Dương

100 tính 3 1,600,50 3,20,80 79,31,2 27,481,70

dòng TB (Cur+P

86,970, TX)- 50 57,830,80 12,680,90 28,951,40 30 1 PLA-

TPGS 91,661, 25 68,341,30 25,820,70 55,040,60 2:1 70

98,250, 12,5 76,51,30 87,310,30 30,601,50 60

Dương

100 tính 4 0,00 0,00 0,00 0,00

dòng TB (Cur+P

79,111, TX)- 50 52,81,70 2,340,20 4,290,30 90 2 PLA-

TPGS 85,41,6 25 61,650,60 17,061,80 38,581,20 3:1 0

92,50,7 12,5 66,50,40 78,251,90 20,80,30 0

Dương 54,651, 100 tính 3 0,00 0,00 6,30,50 30 dòng TB (Cur+P

79,260, TX)- 50 5,400,60 13,60,40 48,500,70 90 3 PLA-

TPGS 88,20,8 25 69,91,20 11,860,80 16,560,80 1:2 0

92,220, 12,5 82,41,40 25,760,10 20,890,20 40

34

100 Dương 4 (Cur+P 0,00 0,00 60,771, 0,00

90 tính 3 TX)-

dòng TB PLA-

TPGS 81,502, 50 0,00 50,200,90 3,540,20 1:3 20

85,200, 25 0,00 54,801,10 22,400,70 70

96,501, 12,5 0,00 70,971,20 29,500,50 30

Dương 13,201, 100 tính 4 0,00 0,00 0,00 80 dòng TB (Cur+P

75,700, TX)- 50 0,00 0,00 9,801,20 60 5 PLA-

TPGS 93,381, 25 58,10,60 9,041,30 11,330,40 1:1 90

98,50,4 12,5 71,20,90 12,10,70 35,921,50 0

Kết quả thu được được thể hiện trong Bảng 5 cho thấy, cả 5 hệ phân

phối thuốc đều dương tính trên ít nhất 3 dòng tế bào với tỉ lệ tế bào sống sót

thấp hoặc chết hoàn toàn, đôi khi thấp hơn so với dùng PTX đơn thuần. Trong

đó hệ với tỉ lệ PLA:TPGS là 1:1 thì dường như hiệu quả hơn các hệ còn lại vì

nó cho kết quả dương tính trên cả 4 dòng tế bào và tỉ lệ tế bào sống sót thấp

hơn. Qua kết quả thử nghiệm có thể thấy khả năng gây độc tế bào của các hệ

phân phối thuốc đã tổng hợp ở cả 5 tỉ lệ có khả năng gây độc mạnh tới các tế

bào ung thư và rõ ràng đều phụ thuộc vào liều. Do đó, PLA-TPGS kết hợp với

acid olic có thể là một cách hiệu quả, có tiềm năng để cải thiện sự phân phối

thuốc tới đích của các chất điều trị ung thư, qua đó làm giảm thiểu các tác

35

dụng không mong muốn của chúng đến cơ thể người bệnh .

CHƯƠNG 4

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

Trong nghiên cứu này, hạt nano dựa trên khối copolyme PLA-TPGS

mang đồng thời cả Cur và PTX đã được bào chế thành công. Tất cả 5 hệ phân

phối thuốc tổng hợp được tương ứng với 5 tỉ lệ khác nhau của giữa PLA và

TPGS đều cho kích thước hạt nhỏ nằm trong khoảng 100-200nm, hệ micel có

độ ổn định tương đối. Các hệ nano tổng hợp được đã cải thiện đáng kể độ tan

của cả Cur và PTX.

Hạt nano (Cur+PTX)-PLA-TPGS-Fol tổng hợp được có khả năng gây

độc mạnh lên các dòng tế bào khối u đã thử nghiệm, khả năng gây độc tế bào

đôi khi mạnh hơn khi so sánh với PTX đơn thuần do có yếu tố hướng đích

Folat và kích thước hạt nhỏ.

Tổng hợp từ các kết quả về hiệu suất bọc thuốc, kích thước, thế zeta và

thử nghiệm gây độc tế bào chúng tôi cho rằng hệ nano với tỉ lệ PLA:TPGS là

1:1 là tối ưu nhất. Xét về thế zeta hệ có tỉ lệ PLA:TPGS 1:1 tuy có độ bền

thấp hơn các hệ còn lại nhưng vẫn là một hệ khá ổn định. Hiệu suất bọc thuốc

tốt trên 40%, vì EE % lớn sẽ làm kích thước hạt lớn không thâm nhập được

vào trong các khối u và tế bào. Thêm vào đó, các hạt nano trong hệ này vẫn

có kích thước nhỏ hơn 200nm và khả năng gây độc đến tế bào khối u là tốt

nhất so với 4 hệ còn lại.

Do hạn chế về mặt nguồn lực nên trong thử nghiệm gây độc tế bào

chúng tôi chưa so sánh được hiệu quả gây độc tế bào khi chứng dương là Cur.

Bên cạnh đó thời gian các phân đoạn thí nghiệm thường kéo dài cùng với điều

kiện tài chính không cho phép chúng tôi được lặp lại thí nghiệm nhiều lần.

Sau nghiên cứu này, chúng tôi hy vọng có thể tiến hành thêm các

nghiên cứu liên quan đến việc thay đổi tỉ lệ giữa PLA-TPGS 1:1, Cur và PTX

nhằm tìm ra các xu thế thay đổi của hệ từ đó có thể tối ưu hóa công thức của

hệ nano hơn nữa. Bên cạnh đó, có thể tiến hành lại các thử nghiệm gây độc tế

36

bào để có thể tìm ra giá trị IC50.

1. Aggarwal B B, Kumar A, and Bharti A C (2003), "Anticancer Potential of

Curcumin: Preclinical and Clinical Studies",Anticancer Res, 23 (1A), 363-398.

2. Aggarwal B B, and Shishodia S (2006), "Molecular Targets of Dietary Agents

for Prevention and Therapy of Cancer",Biochem Pharmacol, 71 (10), 1397-1421.

3. Akhand A A, et al. (2001), "Glyoxal and Methylglyoxal Trigger Distinct Signals

for Map Family Kinases and Caspase Activation in Human Endothelial Cells",Free Radic

Biol Med, 31 (1), 20-30.

4. Akhtar N, et al. (2011), "The Emerging Role of P-Glycoprotein Inhibitors in

Drug Delivery: A Patent Review",Expert Opin Ther Pat, 21 (4), 561-576.

5. Alexandru Mihai Grumezescu A F (2017), "Nanostructures for Cancer Therapy",

(4), 197.

6. Anand P, Sundaram C, Jhurani S, Kunnumakkara A B, and Aggarwal B B

(2008), "Curcumin and Cancer: An "Old-Age" Disease with an "Age-Old"

Solution",Cancer Lett, 267 (1), 133-164.

7. Bayet-Robert M, et al. (2010), "Phase I Dose Escalation Trial of Docetaxel Plus

Curcumin in Patients with Advanced and Metastatic Breast Cancer",Cancer Biol Ther, 9

(1), 8-14.

8. Berry W R (2005), "The Evolving Role of Chemotherapy in Androgen-

Independent (Hormone-Refractory) Prostate Cancer",Urology, 65 (6 Suppl), 2-7.

9. Chen J, Xing M M Q, and Zhong W (2011), "Degradable Micelles Based on

Hydrolytically Degradable Amphiphilic Graft Copolymers

for Doxorubicin

Delivery",Polymer, 52 (4), 933-941.

10. Choi H, Chun Y S, Kim S W, Kim M S, and Park J W (2006), "Curcumin Inhibits

Hypoxia-Inducible Factor-1 by Degrading Aryl Hydrocarbon Receptor Nuclear Translocator: A

Mechanism of Tumor Growth Inhibition",Mol Pharmacol, 70 (5), 1664-1671.

11. Cuong N-V, Li Y-L, and Hsieh M-F (2012), "Targeted Delivery of Doxorubicin

to Human Breast Cancers by Folate-Decorated Star-Shaped Peg-Pcl Micelle",Journal of

Materials Chemistry, 22 (3), 1006-1020.

12. El-Moselhy M A, Taye A, Sharkawi S S, El-Sisi S F, and Ahmed A F (2011),

"The Antihyperglycemic Effect of Curcumin in High Fat Diet Fed Rats. Role of Tnf-Alpha

and Free Fatty Acids",Food Chem Toxicol, 49 (5), 1129-1140.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

13. Feng S, and Huang G (2001), "Effects of Emulsifiers on the Controlled Release

of Paclitaxel (Taxol) from Nanospheres of Biodegradable Polymers",J Control Release, 71

(1), 53-69.

14. Ghosh M, et al.

(2011), "Curcumin Nanodisks: Formulation and

Characterization",Nanomedicine : nanotechnology, biology, and medicine, 7 (2), 162-167.

15. , "Http://Www.Who.Int/Mediacentre/Factsheets/Fs297/En/".

16. , "In Vitro Comparative Studies of Zein Nanoparticles and Composite Chitosan

Thermogels Based Injectable Formulation of Doxorubicin", (2017)Journal of Drug

Delivery Science and Technology.

17. Jiang Z M, et al. (2015), "Crizotinib-Loaded Polymeric Nanoparticles in Lung

Cancer Chemotherapy",Med Oncol, 32 (7), 015-0636.

18. Kang H J, Lee S H, Price J E, and Kim L S (2009), "Curcumin Suppresses the

Paclitaxel-Induced Nuclear Factor-Kappab in Breast Cancer Cells and Potentiates the

Growth Inhibitory Effect of Paclitaxel in a Breast Cancer Nude Mice Model",Breast J, 15

(3), 223-229.

19. Karmakar S, Banik N L, Patel S J, and Ray S K (2006), "Curcumin Activated

Both Receptor-Mediated and Mitochondria-Mediated Proteolytic Pathways for Apoptosis

in Human Glioblastoma T98g Cells",Neurosci Lett, 407 (1), 53-58.

20. Kim M J, et al. (2011), "Preparation, Characterization, Cytotoxicity and Drug

Release Behavior of Liposome-Enveloped Paclitaxel/Fe3o4 Nanoparticles",J Nanosci

Nanotechnol, 11 (1), 889-893.

21. Konno T, Watanabe J, and Ishihara K (2003), "Enhanced Solubility of

Paclitaxel Using Water-Soluble

and Biocompatible

2-Methacryloyloxyethyl

Phosphorylcholine Polymers",J Biomed Mater Res A, 65 (2), 209-214.

22. Kutty R V, et al. (2015), "In Vivo and Ex Vivo Proofs of Concept That

Cetuximab Conjugated Vitamin E Tpgs Micelles Increases Efficacy of Delivered

Docetaxel against Triple Negative Breast Cancer",Biomaterials, 63 58-69.

23. Lassen M M J K M. (2010), "Evolution of Amide Bond Formation," Arkivoc,

189-250.

24. Leamon C P, and Reddy J A (2004), "Folate-Targeted Chemotherapy",Adv

Drug Deliv Rev, 56 (8), 1127-1141.

25. Lee S C, et al. (2007), "Hydrotropic Polymeric Micelles for Enhanced

Paclitaxel Solubility: In Vitro and in Vivo Characterization",Biomacromolecules, 8 (1),

202-208.

26. Miele E, Spinelli G P, Tomao F, and Tomao S (2009), "Albumin-Bound

Formulation of Paclitaxel (Abraxane Abi-007) in the Treatment of Breast Cancer",Int J

Nanomedicine, 4 99-105.

27. Moghimi S M, Hunter A C, and Murray J C (2001), "Long-Circulating and

Target-Specific Nanoparticles: Theory to Practice",Pharmacol Rev, 53 (2), 283-318.

28. Moghimi S M, Hunter A C, and Murray J C (2005), "Nanomedicine: Current

Status and Future Prospects",Faseb J, 19 (3), 311-330.

29. Mu L, and Feng S S (2003), "Plga/Tpgs Nanoparticles for Controlled Release

of Paclitaxel: Effects of the Emulsifier and Drug Loading Ratio",Pharm Res, 20 (11),

1864-1872.

30. Muthu M S, Kulkarni S A, Raju A, and Feng S S (2012), "Theranostic

Liposomes of Tpgs Coating for Targeted Co-Delivery of Docetaxel and Quantum

Dots",Biomaterials, 33 (12), 3494-3501.

31. Oh W K, Tay M H, and Huang J (2007), "Is There a Role for Platinum

Chemotherapy

in

the Treatment of Patients with Hormone-Refractory Prostate

Cancer?",Cancer, 109 (3), 477-486.

32. Paolino D, et al. (2016), "Improvement of Oral Bioavailability of Curcumin Upon

Microencapsulation with Methacrylic Copolymers",Frontiers in Pharmacology, 7 485.

33. Parker N, et al. (2005), "Folate Receptor Expression in Carcinomas and Normal

Tissues Determined by a Quantitative Radioligand Binding Assay",Anal Biochem, 338 (2),

284-293.

34. Petrylak D P (2005), "Future Directions in the Treatment of Androgen-

Independent Prostate Cancer",Urology, 65 (6 Suppl), 8-12.

35. Phan Q T, et al. (2016), "Characteristics and Cytotoxicity of Folate-Modified

Curcumin-Loaded Pla-Peg Micellar Nano Systems with Various Pla:Peg

Ratios",International Journal of Pharmaceutics, 507 (1), 32-40.

36. Phuong Thu H, et al. (2016), "Targeted Drug Delivery Nanosystems Based on

Copolymer Poly(Lactide)-Tocopheryl Polyethylene Glycol Succinate

for Cancer

Treatment",Advances in Natural Sciences: Nanoscience and Nanotechnology, 7 (1),

015001.

37. Prabhu R H, Patravale V B, and Joshi M D (2015), "Polymeric Nanoparticles

for Targeted Treatment

in Oncology: Current Insights",International Journal of

Nanomedicine, 10 1001-1018.

38. Sabharanjak S, and Mayor S (2004), "Folate Receptor Endocytosis and

Trafficking",Adv Drug Deliv Rev, 56 (8), 1099-1109.

39. Shishodia S, Sethi G, and Aggarwal B B (2005), "Curcumin: Getting Back to

the Roots",Ann N Y Acad Sci 206-217.

40. Singh R P, et al. (2016), "Transferrin Receptor Targeted Pla-Tpgs Micelles

Improved Efficacy and Safety in Docetaxel Delivery",Int J Biol Macromol, 83 335-344.

41. Singla A K, Garg A, and Aggarwal D (2002), "Paclitaxel and Its

Formulations",Int J Pharm, 235 (1-2), 179-192.

42. Slastnikova T A, Rosenkranz A A, Zalutsky M R, and Sobolev A S (2015),

"Modular Nanotransporters for Targeted Intracellular Delivery of Drugs: Folate Receptors

as Potential Targets",Current pharmaceutical design, 21 (9), 1227-1238.

43. Song Z, et al. (2011), "Curcumin-Loaded Plga-Peg-Plga Triblock Copolymeric

Micelles: Preparation, Pharmacokinetics and Distribution in Vivo",J Colloid Interface Sci,

354 (1), 116-123.

44. Srivastava K C, Bordia A, and Verma S K (1995), "Curcumin, a Major

Component of Food Spice Turmeric (Curcuma Longa) Inhibits Aggregation and Alters

Eicosanoid Metabolism in Human Blood Platelets",Prostaglandins Leukot Essent Fatty

Acids, 52 (4), 223-227.

45. Srivastava R M, Singh S, Dubey S K, Misra K, and Khar A (2011),

"Immunomodulatory

and

Therapeutic Activity

of

Curcumin",International

immunopharmacology, 11 (3), 331-341.

46. Vijayakumar M R, Muthu M S, and Singh S (2013), "Copolymers of

Poly(Lactic Acid) and D-Alpha-Tocopheryl Polyethylene Glycol 1000 Succinate-Based

Nanomedicines: Versatile Multifunctional Platforms

for Cancer Diagnosis and

Therapy",Expert Opin Drug Deliv, 10 (4), 529-543.

47. Wang J, et al. (2011), "Folate-Decorated Hybrid Polymeric Nanoparticles for

Chemically

and

Physically Combined

Paclitaxel Loading

and Targeted

Delivery",Biomacromolecules, 12 (1), 228-234.

48. Yallapu M M, Jaggi M, and Chauhan S C (2013), "Curcumin Nanomedicine: A

Road to Cancer Therapeutics",Current pharmaceutical design, 19 (11), 1994-2010.

49. Yang K Y, Lin L C, Tseng T Y, Wang S C, and Tsai T H (2007), "Oral

Bioavailability of Curcumin in Rat and the Herbal Analysis from Curcuma Longa by Lc-

Ms/Ms",J Chromatogr B Analyt Technol Biomed Life Sci, 853 (1-2), 183-189.

50. Zhang Z, and Feng S S (2006), "Nanoparticles of Poly(Lactide)/Vitamin E Tpgs

Copolymer for Cancer Chemotherapy: Synthesis, Formulation, Characterization and in

Vitro Drug Release",Biomaterials, 27 (2), 262-270.