TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -------------------
ĐẶNG THỊ PHƯƠNG THẢO
HOA DỌC CHIẾN HÀO CỦA XUÂN QUỲNH
TỪ GÓC NHÌN THẨM MĨ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -------------------
ĐẶNG THỊ PHƯƠNG THẢO
HOA DỌC CHIẾN HÀO CỦA XUÂN QUỲNH
TỪ GÓC NHÌN THẨM MĨ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LA NGUYỆT ANH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới Tiến sĩ La Nguyệt Anh, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong
suốt thời gian tiến hành.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam
cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn đã nhiệt tình giảng dạy, cảm
ơn Ban chủ nhiệm khoa và Ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện tốt nhất
cho tôi được học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018
Tác giả khóa luận
Đặng Thị Phương Thảo
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi,
dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ La Nguyệt Anh. Kết quả khóa luận chưa từng
được công bố trong bất kì công trình nào khác. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2018
Người cam đoan
Đặng Thị Phương Thảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 4
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ...................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 5
6. Cấu trúc khóa luận ................................................................................ 5
NỘI DUNG ............................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM MĨ VÀ THƠ
XUÂN QUỲNH ....................................................................................... 6
1.1. Những vấn đề lí luận .......................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm thẩm mĩ .......................................................................... 6
1.1.2. Những quan điểm tiếp cận vấn đề thẩm mĩ .................................... 7
1.1.3. Thơ ca như một hình thái thẩm mĩ đặc thù ................................... 10
1.2. Xuân Quỳnh và hành trình sáng tạo ................................................. 11
1.2.1. Tác giả Xuân Quỳnh ..................................................................... 11
1.2.2. Hành trình sáng tạo thơ ................................................................. 12
1.2.3. Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳnh và quan niệm thẩm mĩ thời
kháng chiến ............................................................................................. 14
Chương 2. VẺ ĐẸP NỘI DUNG TRONG TẬP THƠ HOA DỌC
CHIẾN HÀO CỦA XUÂN QUỲNH ...................................................... 17
2.1. Vẻ đẹp tâm hồn người công dân kháng chiến .................................. 17
2.1.1. Tinh thần yêu nước nồng nàn của những công dân kháng chiến .. 17
2.1.2. Tinh thần lạc quan của những công dân kháng chiến ................... 21
2.2. Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ thời kháng chiến .............................. 24
2.2.1. Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ với thiên chức làm mẹ .................. 24
2.2.2. Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ với vai trò là người yêu ................ 27
Chương 3. VẺ ĐẸP HÌNH THỨC TRONG TẬP THƠ HOA DỌC
CHIẾN HÀO CỦA XUÂN QUỲNH ...................................................... 30
3.1. Ngôn ngữ giản dị, giàu tính nhạc, tính biểu cảm ............................. 30
3.1.1. Ngôn ngữ giản dị, đời thường ....................................................... 30
3.1.2. Ngôn ngữ giàu tính nhạc, tính biểu cảm ....................................... 32
3.2. Giọng điệu trữ tình, nhiều sắc thái ................................................... 34
3.2.1. Giọng điệu chủ đạo đậm chất trữ tình ........................................... 34
3.2.2. Sắc thái phong phú ........................................................................ 37
KẾT LUẬN ............................................................................................. 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, khi nhắc đến Xuân Quỳnh ai cũng
biết đến bà với một phong cách và bản sắc riêng khá rõ nét. Xuân Quỳnh đã
sống và lao động nghệ thuật hết mình trên con đường sáng tác văn thơ, bà đã
để lại cho dân tộc một di sản văn học có giá trị. Bà là một gương mặt tiêu biểu
của lớp nhà thơ trẻ Việt Nam tham gia và trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Cuộc sống khắc nghiệt của chiến tranh đã tạo cho bà cảm hứng viết
những bài thơ về bom đạn, nhưng rõ hơn cả là mạch cảm hứng cuộc sống đời
thường với vai trò của một người mẹ, người vợ khi đất nước hòa bình – xây
dựng xã hội chủ nghĩa.
Ngòi bút của Xuân Quỳnh được thử thách qua năm tháng với nhiều thể
loại khác nhau. Thơ bà là tiếng nói của một tâm hồn phụ nữ thông minh đầy nữ
tính, là những tâm trạng, cảm xúc của một người vợ hết lòng với chồng, là tình
yêu, sự lo lắng, chở che của người mẹ dành cho con cái, của người thiếu nữ
dũng cảm chiến đấu vì đất nước vì độc lập dân tộc. Thơ Xuân Quỳnh cứ thế đi
vào lòng bạn đọc với những sự cảm nhận riêng.
Trong các tập thơ của Xuân Quỳnh, tập Hoa dọc chiến hào có một vị trí
đặc biệt trên hành trình nghệ thuật của bà và là một trong các sáng tác tiêu biểu
của thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hoa dọc chiến hào
gồm 28 bài thơ, nó vừa là cảm hứng chiến trận lại vừa là cảm hứng từ tình mẫu
tử thiêng liêng, mang một giá trị thẩm mĩ cao.
Một vinh dự lớn của Xuân Quỳnh là hai trong số các bài thơ của tập Hoa
dọc chiến hào được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông: Tiếng gà trưa
được giảng dạy ở chương trình Ngữ văn 7 [13;148], Sóng được giảng dạy ở
chương trình Ngữ văn 12 [7;154]. Các tác phẩm này của Xuân Quỳnh được tiếp
cận từ nhiều góc độ, hướng tới các năng lực của người học. Với mong muốn
1
tìm hiểu và bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ của người học và với vai người tiếp
nhận, tác giả khóa luận đã lựa chọn đề tài: “Hoa dọc chiến hào của Xuân
Quỳnh từ góc nhìn thẩm mĩ”.
Qua nghiên cứu đề tài này, chúng tôi kì vọng sẽ góp phần bồi đắp cho
học sinh những kiến thức, tình cảm, những điều mới mẻ đối với thi ca nói chung
và với tập thơ Hoa dọc chiến hào nói riêng. Tạo thêm cảm hứng, lòng yêu nghề
cho những người giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn và những người yêu
thích thơ Xuân Quỳnh.
2. Lịch sử vấn đề
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu của thế hệ thơ
trẻ chống Mỹ và có chỗ đứng riêng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuân
Quỳnh ra đi khi tài năng đang nở rộ, nhưng bà đã kịp để lại rất nhiều tác phẩm
thơ có giá trị cho đời. Sáng tác của bà đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm,
yêu mến. Các công trình nghiên cứu về các tác phẩm của Xuân Quỳnh không
chỉ đi sâu khám phá về nội dung, hình thức, phong cách riêng, cá tính riêng mà
đặc biệt quan tâm đến cả vẻ đẹp thơ bà.
Trong “Vẻ đẹp thơ Xuân Quỳnh” tác giả Nguyễn Xuân Nam đã chỉ ra
những nét đẹp của thơ Xuân Quỳnh qua các tập thơ Chồi biếc, Hoa dọc chiến
hào, Gió Lào cát trắng và Lời ru trên mặt đất. Qua những phân tích và dẫn
chứng ta sẽ có thêm những cách cảm nhận vẻ đẹp của các tác phẩm trong các
tập thơ. “Nếu trong tập thơ Chồi biếc, Xuân Quỳnh có mấy bài thơ về tình yêu
xuất sắc, thì trong tập Hoa dọc chiến hào, mấy bài thơ về các con nổi hơn cả.
Đó cũng là điều hợp quy luật: Khi mới lớn lên, tình yêu là xứ ước mơ, hy vọng.
Và khi ước mơ hy vọng người ta thường thiết tha sôi nổi. Khi đã là mẹ, người
phụ nữ lại dồn hết tình cảm cho con, kết tinh máu huyết của mình. Những lời
hát ru thể hiện rõ điều đó. Thật ra khi người mẹ nghiêng xuống vành nôi hát ru,
cái nhịp điệu êm đềm là dành để cho con dễ đi vào giấc ngủ, còn lời hát chính
2
là để tự nói với lòng mình” [10; 119]. Nguyễn Xuân Nam phải là người nghiên
cứu rất kĩ về Xuân Quỳnh mới có thể đưa ra những lời nhận xét chuẩn và sâu
sắc như vậy sau khi đọc xong các tập thơ và có sự đối chiếu, so sánh.
Trong bài “Nghĩ về Xuân Quỳnh – Con người và nhà thơ” nhà nghiên
cứu Lại Nguyên Ân viết: “Hai chục năm nay, thơ Xuân Quỳnh đã đi vào lòng
người đọc, trở thành tiếng nói tâm tình về những ngọt bùi cay đắng ở đời, tiếng
nói của tình yêu và tình mẫu tử, tiếng nói hồn hậu, dung dị, chứa đựng sự sống
đương thời mà cũng in dấu nếp nghĩ nếp cảm của tâm hồn người Việt Nam tự
xa xưa ” [10;161].
Tác giả Lưu Khánh Thơ trong bài “Xuân Quỳnh – Cuộc đời gửi lại trong
thơ” có viết: “Đọc những tác phẩm của Xuân Quỳnh, chúng ta gần như hình
dung được chị đã sống ra sao, đã yêu thương day dứt những gì? Lấy sự chân
thực làm điểm tựa cho cảm xúc sáng tạo của mình, các sáng tác của Xuân
Quỳnh là đời sống của chị, là những tâm trạng thật của chị trong mỗi bước vui
buồn của đời sống” [3;147-148].
Trong bài “Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh” Nguyễn Thị Tình
viết: “Trong muôn vàn phong cách thơ hiện đại, nữ sĩ Xuân Quỳnh để lại một
dấu ấn đặc biệt bởi một trái tim hồn hậu, đầy nữ tính và rất nhạy cảm trong thơ.
Đó là một hồn thơ đầy trăn trở, khắc khoải, lo âu. Ngay cả khi viết về những
điều bình dị nhất hay thể hiện những khát khao đời thường nhất thì thơ chị vân
mang bao dự cảm về cuộc đời chảy trôi vô định” [10;142].
Nói đến khía cạnh thẩm mĩ trong các tác phẩm thơ của Xuân Quỳnh cũng
chính là nói đến cái đẹp, đa số các bài thơ đẹp về nội dung, hình ảnh, đẹp cả về
ngôn từ được sử dụng. Tác giả Sao Thụy có viết trong bài “Thơ Xuân Quỳnh –
Tiếng nói của tình yêu và tình mẫu tử”: “Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu
biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong dàn đồng ca ấy, chị nổi lên với
một tiếng thơ đầy nữ tính. Vẻ đẹp ấy ở thơ Xuân Quỳnh là sự hội tụ của thiên
3
tính tự nhiên và ý thức phái tính của người phụ nữ hiện đại mà vẫn bảo lưu
được những giá trị truyền thống. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng thành thực của
một tâm hồn phụ nữ với cách cảm, cách nghĩ đặc trưng của giới mình, là tiếng
nói tâm tình về những ngọt bùi, đáng cay ở đời, tiếng nói của tình yêu và tình
mẫu tử” [10;197]. Nhưng để nghiên cứu về giá trị thẩm mĩ của riêng một tập
thơ nào đó của Xuân Quỳnh thì vẫn chưa có nhiều công trình, bài viết. Đặc biệt
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về giá trị thẩm mĩ qua tập Hoa
dọc chiến hào của Xuân Quỳnh. Trên cơ sở những gợi mở của các nhà nghiên
cứu đi trước, tác giả khóa luận tập trung làm rõ giá trị thẩm mĩ của thơ Xuân
Quỳnh qua đề tài: “Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳnh từ góc nhìn thẩm
mĩ”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả khóa luận đi tìm hiểu và khẳng
định những giá trị thẩm mĩ của tập thơ Hoa dọc chiến hào.
Bên cạnh đó khóa luận còn giúp nâng cao hiểu biết, nhận thức, năng lực
khám phá, cách tiếp cận và phân tích tác phẩm khác của Xuân Quỳnh từ góc
độ thẩm mĩ.
Khóa luận nghiên cứu thành công sẽ là tài liệu hữu ích cho những ai quan
tâm đến thơ Xuân Quỳnh nói chung và cho sinh viên chuyên ngành Ngữ văn,
chuyên ngành Văn học trong nghiên cứu, giảng dạy nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiếu lý thuyết thẩm mĩ và những quan điểm tiếp cận vấn đề thẩm
mĩ.
- Tìm hiểu vẻ đẹp nội dung (vẻ đẹp tinh thần) và vẻ đẹp hình thức của
tập thơ Hoa dọc chiến hào.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoa dọc chiến hào từ góc nhìn thẩm mĩ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập thơ Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳnh (1968).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp liên ngành.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
khóa luận gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung về thẩm mĩ và thơ Xuân Quỳnh
Chương 2. Vẻ đẹp nội dung trong tập thơ Hoa dọc chiến hào của Xuân
Quỳnh
Chương 3. Vẻ đẹp hình thức trong tập thơ Hoa dọc chiến hào của Xuân
Quỳnh
5
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM MĨ VÀ THƠ XUÂN QUỲNH
1.1. Những vấn đề lí luận
1.1.1. Khái niệm thẩm mĩ
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Thẩm mĩ là cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp”
[12;580].
Đấy là cách hiểu chung về thẩm mĩ. Qua khái niệm này, có thể thấy thẩm
mĩ là một hiện tượng mang tính chủ quan. Sự cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp
phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, hai yếu tố cơ bản là nhận thức về cái đẹp
và sự thụ hưởng cái đẹp.
Theo V.Belinsky, cảm xúc thẩm mĩ hay cảm xúc về cái đẹp – cái kiều
diễm “là một điều kiện làm nên phẩm giá con người”. Ông khẳng định: “phải
có nó mới có thể có được trí tuệ, phải có nó nhà bác học mới cất mình lên tới
những tư tuởng tầm cỡ thế giới, mới hiểu được bản chất và các hiện tượng trong
tính thống nhất của chúng; phải có nó người cộng sản mới có thể hiến dâng cho
tổ quốc những hoài vọng cá nhân, lẫn những lợi ích riêng tư của mình; phải có
nó con người mới không qụy ngã dưới sức đè nặng trĩu của cuộc đời và làm
nên những chiến công. Thiếu nó, thiếu đi cái cảm xúc ấy, sẽ không có thiên tài,
không có tài năng, không có trí thông minh, mà chỉ còn lại một thứ đầu óc tỉnh
táo một cách ti tiện cần thiết cho thói sinh hoạt thường ngày trong nhà, cho
những tính toán nhỏ nhen của bệnh ích kỉ” [17;1]. Ý kiến của V. Belinsky nhấn
mạnh yếu tố cốt lõi trong phẩm giá con người chính là sự thức nhận các giá trị
từ góc độ cái đẹp, từ qui luật của cái đẹp.
Cái đẹp đã xuất hiện từ rất lâu, nó có mặt trong mọi phương diện của
cuộc sống, từ tự nhiên, xã hội, tinh thần, vật chất. Ở mỗi lĩnh vực lại có những
quan điểm khác nhau về cái đẹp – về vấn đề thẩm mĩ.
6
1.1.2. Những quan điểm tiếp cận vấn đề thẩm mĩ
1.1.2.1. Từ quan niệm của mỹ học
Chúng ta biết rằng, mỹ học là một khoa học nghiên cứu bản chất của ý
thức thẩm mĩ và hoạt động thẩm mĩ của chính con người. Qua đó, khám phá,
phát minh ra những giá trị trên cơ sở qui luật của cái đẹp. Cũng chính vì vậy,
trong mỹ học, cái đẹp được xem là phạm trù mỹ học cơ bản và cũng là phạm
trù mỹ học trung tâm.
Xét về nguồn gốc của cái đẹp từ quan điểm của mỹ học:
Theo Kant thì “cái đẹp theo quan điểm chủ quan của con người”. Các
tư tưởng về vấn đề này được trình bày trong tác phẩm “Phê phán khả năng
phán đoán”. Kant khẳng định: “không có khoa học về cái đẹp, chỉ có phán đoán
cá nhân về cái đẹp”. Đẹp hay không còn phụ thuộc vào sở thích của mỗi người.
Ông chia cái đẹp thành bốn phương diện: cái đẹp về chất lượng; cái đẹp về số
lượng; cái đẹp về tương quan và cái đẹp về hình thái. Tất cả bốn phương diện
về cái đẹp đều do chủ quan của con người quyết định [8;11].
Khác với Kant, G.Hegel lại xuất phát từ những quan điểm trong hiện
tượng luận tinh thần để nghiên cứu về cái đẹp. Theo G.Hegel: “bản chất của cái
đẹp là biểu hiện của ý niệm tuyệt đối”. G.Hegel khẳng định ý niệm vận động
đến tuyệt đối thì sản sinh ra cái đẹp đầy đủ. Cái đẹp là biểu hiện đầy đủ của ý
niệm chung trong một hiện tượng cá biệt. Cái đẹp của nghệ thuật là sự biểu
hiện của tinh thần tuyệt đối trong hình tượng [8;11].
Theo Tsécnưsépxki “cái đẹp là cuộc sống”. Một thực thể đẹp là thực
thể trong đó ta nhìn thấy cuộc sống đúng như quan niệm của chúng ta. Một đối
tượng đẹp là đối tượng trong đó cuộc sống được thể hiện hay là nhắc ta nghĩ
đến cuộc sống [8;12].
Khác với ba khuynh hướng trên và tiếp thu một số thành tựu cơ bản
của ba khuynh hướng trên, xây dựng hệ thống lý luận về giá trị, C.Mác và
7
Ph.Ăngghen đã tiếp cận cái đẹp từ lao động, từ bản chất xã hội, từ quan hệ giá
trị.
Cái đẹp ra đời từ lao động:
“Trong quá trình lao động, trong quá trình tác động giữa đối tượng và
chủ thể nghệ thuật ra đời. Nghệ thuật xuất hiện vừa biểu hiện nhu cầu cao quý
của con người trong lao động vừa đánh dấu bước nhảy vọt lớn của lao động
thành thạo. Nghệ thuật là nơi tập trung cái đẹp và cái đẹp trong nghệ thuật
không chỉ là sự phản ánh cái đẹp trong hiện thực mà còn gắn với cái đẹp của tư
tưởng, tình cảm, khát vọng của con người” [8;13].
Cái đẹp là một giá trị:
“Thông qua quá trình tác động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, cải tạo bản
thân mình, con người dần dần phát hiện ra các giá trị của tự nhiên trong đó có
giá trị thẩm mĩ mà biểu hiện tập trung nhất là cái đẹp. C.Mác và Ph.Ăngghen
khẳng định, cái đẹp không phải là cái vốn có trong thiên nhiên thuần túy, cũng
không phải là cái được nhận thức một cách tùy tiện do cảm giác chủ quan của
cá nhân. Cái đẹp là một phạm trù giá trị. Nó xuất hiện và không ngừng phát
triển từ trong thực tiễn sản xuất và chiến đấu của xã hội, con người. Trong tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen cái đẹp ra đời, tồn tại và phát triển trong lao
động sản xuất, chinh phục tự nhiên, đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội. Bản
chất của cái đẹp là do những quan hệ xã hội quy định. Nhưng bản chất của cái
đẹp không phải sinh thành bất biến mà luôn luôn vận động, biến đổi và phát
triển của cuộc sống đặc biệt là của các quan hệ thẩm mĩ. Trong học thuyết giá
trị của C.Mác, C.Mác cho rằng cái đẹp phải có các thước đo xã hội. Học thuyết
giá trị là cơ sở quan trọng nhất không chỉ để minh chứng cho nguồn gốc và bản
chất của cái đẹp mà còn làm sáng tỏ ý nghĩa quan trọng của chính sự vận động
lịch sử của cái đẹp trong đời sống xã hội” [8;14].
Cái đẹp mang tính xã hội:
8
“Trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, những sự biến thiên của
mọi quan hệ xã hội kể cả quan hệ thẩm mĩ. Do đó cái đẹp cũng có số phận thăng
trầm cùng với những sự đổi thay của xã hội. Với việc phát hiện ra lao động là
nguồn gốc của cái đẹp, C.Mác còn phát hiện ra bản chất của cái đẹp. Bản chất
này không chỉ đơn thuần gắn với lao động mà còn gắn với các quá trình lịch sử
xã hội với những thước đo khác nhau của dân tộc, giai cấp, thời đại…” [8;14].
Xét về bản chất của cái đẹp nhà nghiên cứu Đào Duy Thanh có một
bài Blog bàn về bản chất cái đẹp, ông viết:
“Cái đẹp là một phạm trù trung tâm của mỹ học. Bởi vì, một mặt mỹ học
phải giải thích nguồn gốc, bản chất và quy luật chung của cái đẹp; mặt khác,
trong thế giới hiện thực có rất nhiều những hiện tượng thẩm mĩ cũng nằm trong
đối tượng nghiên cứu của mỹ học có quan hệ với cái đẹp như: cái xấu, cái bi,
cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn.
Cái đẹp giữ vị trí trung tâm của quan hệ thẩm mỹ, dùng để khái quát
những giá trị xã hội tích cực, khách quan, rộng rãi của hiện thực thẩm mỹ, xuất
phát từ thực tiễn, tồn tại dưới dạng hình tượng toàn vẹn, cụ thể – cảm tính phù
hợp với tình cảm, thị hiếu và lý tưởng thẩm mĩ của xã hội nhất định.
Như vậy, ngọn nguồn của bản chất vươn tới cái đẹp, sáng tạo theo quy
luật của cái đẹp, đầu tiên nằm trong bản chất tự nhiên, sinh học rồi phát triển
rộng ra xã hội trong tiến trình lịch sử của con người. Có hiểu như vậy mới khắc
phục được tính phiến diện trong sự cảm thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp”
[16;1]. Nghiên cứu của Đào Duy Thanh nhấn mạnh bản chất của cái đẹp.
Xét từ quan niệm của mỹ học thì cái đẹp được nghiên cứu theo nhiều
phương diện, trong đó phần lớn được tìm hiểu từ nguồn gốc, sự vận động đến
bản chất. Có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu cái đẹp và mỗi người lại có những
cách nhìn nhận, ý kiến khác nhau từ phạm trù thẩm mĩ. Khi nghiên cứu ta sẽ có
cái nhìn toàn diện hơn về cái đẹp.
1.1.2.2. Từ quan niệm của lí luận văn học
9
Nghệ thuật phản ánh hiện thực, tất cả các phạm vi của nghệ thuật đều
dựa trên mối quan hệ với con người. Nếu các ngành khoa học tìm đến các sự
vật, hiện tượng thẩm mĩ ở góc độ bản chất, quy luật của nó thì trong văn học là
đi khám phá, tìm hiểu mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh. Đối
tượng chính của nghệ thuật là con người.
Văn học nói chung và các tác phẩm văn học nói riêng thì đều phải có giá
trị thẩm mĩ. Trong nghệ thuật, lý tưởng thẩm mĩ góp phần định hướng tư duy
theo tiêu chí Chân – Thiện – Mỹ. Những người nghệ sĩ, qua hoạt động nghệ
thuật của mình, đã khẳng định những tư tưởng tiến bộ, nhằm phục vụ cho những
điều tốt điều thiện và những thứ cao cả đẹp đẽ. Luôn khát khao vươn tới cái
đẹp, nếu thiếu nó thì nghệ thuật sẽ mất đi sức mạnh cơ bản, sẽ không thể thanh
lọc tâm hồn con người và cải tạo xã hội. Cho nên, nghệ thuật không những phản
ánh qui luật của đời sống mà còn phản ánh cách đánh gía thẩm mĩ về đời sống.
1.1.3. Thơ ca như một hình thái thẩm mĩ đặc thù
Văn học nói chung, vốn là một hình thái ý thức xã hội như chính trị, tôn
giáo, đạo đức… Song đó là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, một hình thái
phản ánh thẩm mĩ. Đây cũng là cội nguồn tạo ra văn học, nghệ thuật, trong đó
có thơ ca.
Sự hình thành và phát triển của thơ xuất phát từ xúc cảm thăng hoa của
con người, là niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, khổ đau. Trạng thái tột cùng của
cảm xúc sẽ tạo thành năng lượng đặc biệt mà ở những chủ thể tài năng sự phát
khởi cảm xúc đó sẽ được kết lại trong ngôn ngữ đẹp, có vần điệu. Thơ quyến
rũ người đọc bằng cả niềm vui và nỗi buồn. Vì vậy trong thơ không chỉ niềm
vui mới đem đến cảm xúc đẹp, ngay cả nỗi buồn cũng có sức lay động, không
chỉ niềm vui an ủi ta, ngay cả nỗi buồn cũng động viên ta.
Trong thơ, các nhà lí luận cho rằng: “Lí tưởng thẩm mĩ là tiền đề và khởi
điểm của phản ánh thẩm mĩ”, là “tâm thế phản ánh nghệ thuật” của nhà văn”
10
[13;35]. Những vần thơ của Tố Hữu khi viết về Người con gái Việt Nam hay
Hãy nhớ lấy lời tôi đã “chạm đến gan ruột của nhiều người” (Vũ Quần Phương)
bởi đó là những xúc cảm chân thành về những người con anh hùng của đất
nước. Điểm chung trong lí tưởng thẩm mĩ của nhà thơ qua các bài thơ trên và
nhiều bài thơ khác của Tố Hữu là sự xúc động trước những tấm gương của
người anh hùng dân tộc, những người con kiên trung, bất khuất làm nên “thành
đồng Tổ quốc”.
Ở một phương diện khác thì lý tưởng thẩm mĩ cũng được cho là quyết
định, chi phối tính chất và phương thức phản ánh. Chính Tố Hữu đã có lần nói
về việc lựa chọn hình thức thể thơ khi ông viết trường ca Theo chân Bác.
Cũng theo các nhà lí luận, sự phản ánh thẩm mĩ luôn được tiến hành
trong quá trình tìm kiếm một sự thể hiện lí tưởng thẩm mĩ một cách hữu hiệu.
Việc lựa chọn một câu thơ đẹp, một từ đắt hay còn gọi là “nhãn tự” của bài thơ
cũng là kì vọng về sự hoàn mĩ trong hình thức thơ. Chính vì thế hình thức đẹp
trở thành điều kiện tất yếu để hoàn thiện phản ánh thẩm mĩ. E.Cassirer - Nhà
văn hóa Đức cũng cho rằng: “Nội dung của một bài thơ không thể tách rời khỏi
hình thức của nó là vần, điệu, luật, những hình thức này không phải là biện
pháp bề ngoài thuần túy để chép lại một cái gì trực quan cảm tính mà là bộ phận
hợp thành cơ bản của bản thân sự trực quan nghệ thuật” [13;37]. Nói cách khác
thì hình thức thẩm mĩ đã phân biệt nghệ thuật với các hình thức khác của thực
tại. Hay ngay trong văn học, đó cũng là yếu tố cơ bản phân biệt giữa thơ và văn
xuôi.
1.2. Xuân Quỳnh và hành trình sáng tạo
1.2.1. Tác giả Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh có tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng
10 năm 1942 tại làng La Khê, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay
là Hà Đông, Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình công chức, sớm mồ côi nên
11
lớn lên thiếu tình thương của mẹ, bố thường xuyên công tác xa gia đình, bà
được bà nội nuôi dạy từ nhỏ đến khi trưởng thành.
Lên 13 tuổi (năm 1955), Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn Văn công
nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa. Bà đã đi biểu diễn
ở nước ngoài và nhiều nơi. Từ năm 1962 đến 1964, Xuân Quỳnh theo học lớp
bồi dưỡng những người viết văn trẻ khoá I của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi
học xong, Xuân Quỳnh làm việc tại báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt Nam. Xuân
Quỳnh là hội viên từ năm 1967, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam
khoá III. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang
Vũ, trước đó Xuân Quỳnh kết hôn lần đầu tiên với một nhạc công violon của
Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và đã ly hôn. Từ năm 1978 đến lúc mất
Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
Ngày 29 tháng 8 năm 1988, định mệnh đã cướp đi mạng sống của Xuân
Quỳnh, một người nghệ sĩ đầy tài năng đang ở đỉnh cao văn học trong một tai
nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương , tỉnh Hải Dương,
cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ .
Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ
thuật năm 2001. Ngày 30 tháng 3 năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang ký
quyết định số 602 chính thức truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật cho cố nhà thơ Xuân Quỳnh với hai tập thơ là Lời ru trên mặt đất
và Bầu trời trong quả trứng.
1.2.2. Hành trình sáng tạo thơ
Trong sự nghiệp sáng tác của Xuân Quỳnh có thể chia thành hai giai
đoạn là trước và sau năm 1975. Trước năm 1975, Xuân Quỳnh là ngòi bút chiến
đấu, xây dựng tinh thần yêu nước, căm thù giặc. Các sáng tác vừa là những suy
nghĩ, trăn trở về vận mệnh dân tộc vừa là những xúc cảm trong tình yêu của
người phụ nữ trẻ đầy nhiệt huyết. Có thể kể tên các tập thơ tiêu biểu của giai
12
đoạn này: Tơ tằm – Chồi biếc (thơ, in chung, 1963); Hoa dọc chiến hào (thơ,
in chung, 1968); Gió lào cát trắng (thơ, 1974). Giai đoạn sau năm 1975, lúc
này Xuân Quỳnh đã có những sự chiêm nghiệm về cuộc sống, cái nhìn đa chiều
và sâu sắc hơn. Xuân Quỳnh sáng tác ở thời hậu chiến với sự trưởng thành trong
tình yêu, yêu hết mình nhưng vẫn lo lắng về sự chia cắt, lúc này Xuân Quỳnh
cũng là người mẹ với những sáng tác cho con. Có thể kể tên các tập thơ tiêu
biểu của giai đoạn này: Lời ru trên mặt đất (thơ, 1978); Sân ga chiều em đi
(thơ, 1984); Tự hát (thơ, 1984); Hoa cỏ may (thơ, 1989); Thơ Xuân Quỳnh
(1992, 1994); Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994).
Tập thơ đầu tay Tơ tằm – Chồi biếc giống như giấy thông hành để
Xuân Quỳnh bước vào làng thơ. Chồi biếc ra đời đã gây được sự chú ý của các
nhà thơ khác và bạn đọc, nó mang một cái chất tươi trẻ, hồn nhiên và nhận được
nhiều bài viết động viên để Xuân Quỳnh tự tin hơn. Với Xuân Quỳnh viết thơ
như là một cái “nghiệp”. Trước đây Xuân Quỳnh theo nghề diễn viên múa
nhưng đã đánh đổi tất cả để theo cái “nghiệp” thơ. Bà đưa hiện thực cuộc sống
vào thơ, khi đất nước chiến tranh chống đế quốc Mỹ bà viết Hoa dọc chiến hào
và Gió Lào cát trắng vừa để thể hiện tình cảm, tình yêu của chính mình dành
cho quê hương, đất nước, cho những người thân yêu.
Ngòi bút của Xuân Quỳnh đã khắc họa tất cả những cảm xúc, tâm hồn
của chính tác giả thành thơ, nơi chứa đựng những tình cảm sâu sắc nhất cho đất
nước, gia đình, người thân, tình yêu, niềm khát khao hạnh phúc và những nỗi
niềm lo lắng, khắc khoải của bản thân. Bà được đi đến nhiều nơi, sống trong
nhiều hoàn cảnh khác nhau cả khắc nghiệt, cả hòa bình. Xuân Quỳnh có điều
kiện thuận lợi để trau dồi thêm vốn sống, kiến thức, hiểu biết điều đó là một
phần làm cho thơ bà phong phú, đa dạng hơn khi viết về thiên nhiên, văn hóa
và bối cảnh nước ta. Thành công của Xuân Quỳnh tăng dần theo tháng năm vì
những cố gắng không ngừng nghỉ của bản thân: “Từ khi in bài thơ đầu tiên cho
13
tới giữa 1988, sửa soạn in tập thơ cuối cùng, Xuân Quỳnh đã có một chặng
đường thơ khoảng một phần tư thế kỉ. Nhìn vào thơ thấy con người này khá
thông thoáng. Cứ đều đều vài ba năm lại có một tập thơ ra đời. Trong khi nhiều
người bạn cùng trang lứa đã bỏ cuộc, nhiều người già đi, cũ đi hay tự lặp lại
mình trong thơ thì trên đại thể thơ Xuân Quỳnh vẫn giữ được cái duyên riêng
và có được cái hơi trẻ trung tươi tắn” [5;120]. Trong khi các tác giả cùng trang
lứa ngày càng mờ nhạt đi thì thơ Xuân Quỳnh vẫn còn mãi và có một giá trị to
lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại: “Trong nền văn học Việt Nam hiện
đại, Xuân Quỳnh là một tác giả nữ có phong cách và bản sắc riêng khá rõ nét.
Trải qua năm tháng sống và viết, yêu thương và lao động nghệ thuật hết mình,
Xuân Quỳnh đã để lại cho đời một di sản văn hóa thật đáng quý. Ngòi bút của
chị đã được thử thách qua thời gian với nhiều loại chủ đề khác nhau. Trong đó
có những bài thơ tình yêu đã đạt tới đỉnh cao. Dù đi vào vấn đề lớn của đất
nước hay trở về với những tình cảm riêng tư thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng là
tiếng nói rất riêng của một tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc sảo đầy nữ tính”
[3;147].
Vẻ đẹp thơ Xuân Quỳnh là vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ đã đi qua những
thiệt thòi, mất mát cá nhân, rồi những năm tháng đất nước chiến tranh. Ngày
đất nước giải phóng, bà cũng đã tắm mình trong niềm hân hoan của dân tộc và
rồi lại bộn bề trong những lo toan thường nhật. Thơ Xuân Quỳnh cho ta một
cảm nhận, sự khâm phục về người phụ nữ Việt Nam vừa truyền thống vừa hiện
đại.
1.2.3. Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳnh và quan niệm thẩm mĩ thời kháng
chiến
Trong phong trào thơ ca kháng chiến chống Mỹ, tập thơ Hoa dọc chiến
hào (thơ, in chung, 1968) đã ghi dấu ấn thành công của Xuân Quỳnh về cả tài
năng và khẳng định được vị trí của mình trong văn học kháng chiến cũng như
nền văn học Việt Nam hiện đại. Tập thơ này được Xuân Quỳnh viết trong những
14
ngày khói lửa chiến tranh, khi cả đất nước hành quân ra trận. Ba lô trên vai, bà
đã đi dọc chiến hào, có mặt nơi lửa đạn.
Tập thơ gồm 28 bài thơ, mang đậm cảm thức chiến tranh, trong đó phần
nhiều các bài thơ đều chứa đựng vẻ đẹp tâm hồn người công dân kháng chiến.
Bằng cách nói trực tiếp, nói thẳng, nói thật về không khí chiến tranh, con người
trong chiến đấu và với nhà thơ ấy cũng là cuộc sống đời thường, được thể hiện
qua một số bài thơ: Giữ lửa, Hậu phương, Chiến hào, Vết đạn trên tường. Tuy
vậy, cũng có những bài thơ mang nét tâm tư, cảm xúc riêng của tác giả: Mây,
Bay cao, Tiếng gà trưa, Gốc cây ngày bé. Trong tập thơ còn có những bài mang
đậm dấu ấn tâm hồn người phụ nữ liên quan đến các con: Khi con ra đời, Lời
ru, Đưa con đi sơ tán. Bài thơ nào cũng thấm thía sự lo âu, yêu thương con vô
bờ. Xuân Quỳnh với tài năng sáng tạo nghệ thuật của mình đã khiến cho người
đọc cảm nhận được những vẻ đẹp ấy thông qua bối cảnh lịch sử ác liệt của đất
nước chống đế quốc Mỹ.
Quan niệm thẩm mĩ thời kháng chiến trong thơ ca một phần dựa vào bối
cảnh lịch sử nước ta đang trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Ở
đó chứa đựng nét đẹp truyền thống của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Từ xa xưa đã có tinh thần đấu tranh, nó tiếp
tục được duy trì và bùng cháy mỗi khi có chiến tranh mà gần nhất là cuộc kháng
chiến chống Pháp của dân tộc giành thắng lợi. Trong hoàn cảnh chiến tranh,
quan niệm thẩm mĩ còn được thể hiện ở lực lượng tham gia chiến đấu và hậu
phương vững chắc là tất cả mọi người, không phân biệt già - trẻ, gái - trai, tuổi
tác, không phân biệt Bắc – Trung – Nam. Tất cả đều có một lòng yêu quê
hương, đất nước và căm thù giặc sâu sắc, có một tư tưởng là giải phóng đất
nước, đòi lại sự tự do dân tộc và thống nhất đất nước. Ngoài ra còn là sự hi sinh
của con người, đó là người chiến sĩ ngoài mặt trận, người cán bộ chỉ huy, của
người cha người mẹ có con ra tiền tuyến, của người vợ có chồng hành quân,
15
của những đứa trẻ không đầy đủ tình yêu thương của cha mẹ,… Tất cả những
ý trên đều thuộc về quan niệm thẩm mĩ thời kháng chiến trong thơ ca nói chung,
trong Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳnh cũng đầy đủ những quan niệm thẩm
mĩ đó.
Tìm hiểu về thẩm mĩ cũng như là về góc độ cái đẹp không phải là vấn đề
dễ dàng. Có rất nhiều các quan điểm tiếp cận vấn đề thẩm mĩ trong đó có quan
niệm cái đẹp từ mỹ học và từ quan niệm của lí luận văn học. Tác giả khóa luận
đã lựa chọn các quan niệm đó làm cơ sở lí luận cho nghiên cứu một tập thơ tiêu
biểu của Xuân Quỳnh là Hoa dọc chiến hào từ góc nhìn thẩm mĩ. Trong chương
một cũng đi tìm hiểu Xuân Quỳnh và hành trình sáng tạo thơ của bà. Khẳng
định được vị trí của tác giả trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam và tập thơ Hoa
dọc chiến hào là tập thơ tiêu biểu trong hành trình sáng tác của tác giả.
16
Chương 2
VẺ ĐẸP NỘI DUNG TRONG TẬP THƠ HOA DỌC CHIẾN HÀO
CỦA XUÂN QUỲNH
2.1. Vẻ đẹp tâm hồn người công dân kháng chiến
2.1.1. Tinh thần yêu nước nồng nàn của những công dân kháng chiến
Đất nước chiến tranh, nhân dân đứng lên chống giặc, Xuân Quỳnh và
hầu hết những thanh niên trẻ giàu lòng yêu nước của thế hệ bà không dứng
ngoài cuộc. Ba lô trên vai, bà đã có mặt nơi chiến hào. Bà đi thực tế trên chiến
trường quân khu IV những năm bom đạn ác liệt nhất và cũng là người đi nhiều
nơi, mỗi nơi bà đi qua đều để lại một dấu ấn đặc biệt trong thơ của mình. Tập
thơ Hoa dọc chiến hào cũng ra đời sau chuyến đi thực tế đó.
Trong tập thơ, Xuân Quỳnh đã làm hiện lên vẻ đẹp của những công dân
kháng chiến. Vẻ đẹp đó được thể hiện cụ thể thông qua truyền thống yêu quê
hương đất nước của dân tộc, con người Việt Nam.
Đầu tiên phải kể đến nhân vật trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, đó có thể
là người cha, người mẹ, là người con, người cháu...Là tất cả mọi người trong
xã hội, mọi tầng lớp, dù là chiến sĩ hay người ở hậu phương, là người trẻ hay
người già thì đều có một tình yêu đối với quê hương, đất nước lớn lao. Mọi
người hòa chung tinh thần chiến đấu, đặt việc chống Mỹ lên hàng đầu.
“Con sinh ra – Trên Tổ quốc con sinh
Giữa trang sử những ngày chống Mỹ
Cũng như bao anh hùng dũng sĩ
Con hôm nay trong lửa đạn ra đời”
(Khi con ra đời)
“Con” ở đây không chỉ riêng ai mà đại diện cho tất cả những con người
sinh ra trên Tổ quốc này, khi đất nước đang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
17
ác liệt. Từng thế hệ sau lại nối tiếp thế hệ đi trước viết nên những trang sử hào
hùng của dân tộc. Giữ gìn truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Bao
anh hùng đã hi sinh trước đó vì thực hiện sứ mệnh dân tộc, “con” sẽ là thế hệ
trẻ tiếp bước cho công cuộc kháng chiến bền bỉ đó đến khi nào giành thắng lợi
mới thôi.
Những chàng trai, cô gái thanh niên xung phong ra mặt trận. Những
người dân cùng chung tay hát bài ca đắp đường. Những người con sinh ra trong
bom đạn, đã nuôi trong mình một dòng máu anh hùng. Người cha phải xa con
thơ, xa gia đình, người mẹ nhớ con, hát ru con ngủ để tham gia kháng chiến.
Người mẹ già nuôi cán bộ, chiến sĩ mặc cho mọi khó khăn, nguy hiểm. Tinh
thần đoàn kết, truyền thống yêu nước của dân tộc đều dần dần hiện lên qua
những con người ấy. Những tình cảm bình dị giữa con người với con người,
giữa con người với tự nhiên cũng được diễn tả qua từng vần thơ.
“Tháng mười một đoàn con trai ra đi
Để lại sau lưng những luống cày mới vỡ
Màu đỏ xanh bờ vùng bờ thửa
Ngọn gió đông làm má ửng hồng
Giữa đường cày con sáo đứng bâng khuâng...”
(Hậu phương)
Nước ta là đất nước có truyền thống nông nghiệp trồng lúa nước, vì vậy
hình ảnh “luống cày”, “bờ thửa” chẳng hề xa lạ với mỗi con người. Xuân Quỳnh
đã chọn lựa những chi tiết rất sắc để đưa vào thơ mình, công cuộc kháng chiến
lên cao thì trai tráng tham gia vào các đoàn dân quân, xung phong đi đánh giặc,
bỏ lại sau lưng những luống cày mới vỡ để phục vụ mục đích kháng chiến hàng
đầu. Hình ảnh “con sáo” hay chính là chỉ những người phụ nữ - hậu phương ở
lại đứng bâng khuâng nhìn bóng người chồng, người yêu, người con dần khuất
xa.
18
“Những nhánh lúa theo tay người thẳng tắp
Như lòng thương nối tiếp không cùng
Của hậu phương gửi sâu vào thớ đất
Nỗi nhớ lên xanh cả cánh đồng!”
Nỗi buồn, nỗi nhớ có lớn bao nhiêu thì hậu phương vẫn phải tiếp tục
công việc của mình, đồng ruộng mênh mông, những nhánh lúa thẳng tắp được
Xuân Quỳnh thổi hồn vào thành lòng thương “nối tiếp không cùng” nghĩa là
không có giới hạn để diễn tả được, nỗi nhớ luôn thường trực như một chất dinh
dưỡng không thể thiếu làm cho “xanh cả cánh đồng”.
“Dẫu cha ông yêu thành phố ngày xưa
Từ thuở: Thăng-long phi chiến địa
Dẫu cháu con sau này bao thế hệ
Yêu Thủ đô qua lớp lớp lâu dài
Không bằng ta yêu Hà-nội hôm nay
Trong lửa đạn những ngày chống Mỹ”
(Lòng yêu thủ đô)
Các tầng lớp công dân yêu nước không chỉ trong thời bom đạn, trong lúc
đất nước có giặc ngoại xâm mà dù là thời bình thì tình yêu ấy vẫn như ngọn lửa
luôn cháy trong tim mỗi thế hệ. Nếu ông cha ta yêu thành phố trong thời kì
kháng chiến được thể hiện qua hành động xung phong ra mặt trận, cầm súng
chiến đấu, sắn sàng hi sinh vì Tổ quốc, không nghĩ đến lợi ích cá nhân thì về
sau các thế hệ con cháu yêu thủ đô trong thời bình thể hiện ở việc xây dựng đất
nước phát triển, hội nhập với các cường quốc trên thế giới. Đều là tình yêu quê
hương đất nước nhưng Xuân Quỳnh đã nhấn mạnh rằng tình yêu của thế hệ sau
sẽ không bằng thế hệ trước, vì họ phải trải qua những ngày tháng khó khăn nhất
mà khi hòa bình con cháu không thể hiểu hết được.
19
Tình yêu và sự quyết tâm đánh đuổi giặc Mỹ được Xuân Quỳnh thể hiện
qua những câu thơ đầy khí chất hào hùng:
“Dù mười, hai mươi năm
Đất này còn giặc Mỹ
Tóc ta dẫu đổi màu
Tuổi ta không còn trẻ
Ôi chiến hào chiến hào
Vẫn cứ còn mới mẻ
Với những lớp người sau
Lại lên đường diệt Mỹ”
(Chiến hào)
Những câu thơ như một lời tuyên bố, một lời thề rằng tóc có đổi màu,
tuổi có già đi, nếu đất này còn giặc Mỹ thì những lớp người sau sẽ lại lên đường
chiến đấu. Năm tháng có dài bằng nào thì “chiến hào” vẫn kiên cố giống như
tình yêu với dân tộc luôn được làm mới với năng lượng tràn đầy.
Rồi khi giành thắng lợi, bắt đầu đi vào công cuộc xây dựng đất nước:
“Những đoàn người hành quân qua đó
Đã trở về nhà máy, nông trường
Trong bàn tay người Thanh niên xung phong
Làm đường ấy – vết chai cũng mất
Chiếc áo trắng trên mình em làm mất
Trong đêm không đèn, đã rách từ lâu
Đoàn xe ra hỏa tuyến năm nào
Đã chạy trên những đường lớn khác”
(Chuyện con đường sau những năm chống Mỹ)
Những con người từng cầm súng trên xe dong duổi khắp mọi nẻo đường
lại trở về là những người công nhân giúp sức cho đất nước hội nhập toàn cầu.
20
Những đoàn xe ra hỏa tuyến giờ đã được chạy trên những con đường lớn thênh
thang.
Tâm hồn khát khao, hy vọng giành độc lập luôn âm ỉ cháy trong tim mỗi
con người, nó không phai nhạt đi mà càng ngày càng lớn mạnh từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Nếu chưa đánh đuổi giặc Mỹ thành công thì nhân dân ta vẫn
sẽ tiếp tục, bền bỉ ý chí và hành động quyết liệt hơn không màng thời gian hay
trong mọi hoàn cảnh.
2.1.2. Tinh thần lạc quan của những công dân kháng chiến
Dễ nhận thấy ở tập thơ một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, hồn nhiên, yêu
đời. Trong bối cảnh chiến tranh, Xuân Quỳnh đã đan cài lòng yêu quê hương
đất nước với tinh thần lạc quan của những công dân kháng chiến. Họ sẵn sàng
ra trận, dám hi sinh tính mạng của mình. Cái chết thường trực bên cạnh họ
nhưng ở mỗi người không thấy sự sợ hãi, chùn bước mà họ còn tự tạo ra cho
mình những niềm vui riêng. Trên đường hành quân họ nghe “xao động nắng
trưa”, nghe “tiếng gà nhảy ổ”. Cảm xúc về một thời tuổi thơ sống dậy:
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
Cục…cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
(Tiếng gà trưa)
Chỉ với một âm thanh của con gà kêu cục tác cục ta vào ban trưa khi
đang trên đường đi hành quân mà đã gợi lên trong tâm hồn tác giả những hình
ảnh thân quen nhất gắn liền với quê nhà với những kỉ niệm tuổi thơ bên người
bà yêu dấu. Phải có tâm hồn nhạy cảm thì Xuân Quỳnh mới có thể vừa nghe
21
tiếng gà trưa đã liên tưởng đến những kỉ niệm tuổi thơ của mình. Tác giả hay
lắng nghe những âm thanh gần gũi, quen thuộc, những biến chuyển của thời
gian, không gian, cảnh vật đều được cảm nhận một cách tinh tế. Tình yêu với
người bà kính yêu được thể hiện một cách đặc biệt, một phần cũng là do hoàn
cảnh cuộc đời của chính tác giả, Xuân Quỳnh sống với bà từ nhỏ, được bà chăm
nuôi, dạy dỗ, nên khi những hình ảnh, âm thanh quen thuộc trên con đường đi
hành quân cũng làm tác giả nhớ đến người bà của mình.
Không chỉ tinh tế qua âm thanh tiếng gà trưa mà Xuân Quỳnh còn tinh
tế trước những hình ảnh bình dị như đám mây bay trên bầu trời.
“Mây ơi phải mây bay
Đến miền Nam ta đó
Trong những đêm công đồn
Che mặt trăng đỡ tỏ
Mây đến những thao trường
Nơi mặt trời lửa đổ
Che lưng đồng chí ta”
(Mây)
Trên đường hành quân những đám mây theo cùng các đồng chí, đồng đội
được tác giả quan sát và liên tưởng đến những kí ức tuổi thơ. Hồi còn nhỏ yêu
mây vì mây tạo thành những hình khối kì lạ, mây giống hình dáng của mẹ, mây
giống hình con ngựa. Còn bây giờ lớn, mây là người bạn của chiến sĩ, mây che
đi ánh trăng tỏ để đồng đội ta công đồn, mây cũng làm dịu đi ánh mặt trời như
lửa thiêu để lưng chiến sĩ bớt cháy. Chỉ với hình ảnh đám mây rất giản dị cũng
tạo nên xúc cảm cho tác giả, qua đó thể hiện sự gần gũi của con người với thiên
nhiên và ngược lại thiên nhiên cũng bao bọc, che chở con người.
22
Xuân Quỳnh đi thực tế ở chiến trường ác liệt nhưng không chỉ viết về
những gì đau thương, xót xa của thực tại mà bà còn viết những vần thơ mang
tâm hồn yêu đời, hồn nhiên.
“Ơ anh phi công
Anh bay cao quá
Chắc nhìn xuống đây
Cái gì cũng bé
Con bò con nghé
Bằng con cua vàng
Cái ô-tô chạy
Giống con cánh cam”
(Bay cao)
Từ hình ảnh anh phi công làm nhiệm vụ kháng chiến, phải bay trên bầu
trời quan sát địch, tác giả khi miêu tả đã làm cho người đọc cảm thấy giảm bớt
không khí căng thẳng ấy bằng cách thổi vào thơ một sự lạc quan của một đứa
trẻ. Đứa trẻ chưa hiểu được thực tại tàn khốc như thế nào mà chỉ biết sống đúng
với lứa tuổi ngây thơ hồn nhiên nhất. Từ điểm nhìn là đôi mắt của đứa trẻ thì
nó hứng thú với máy bay, với anh phi công, ước muốn sau này trở thành phi
công. Ngoài ra nó còn có những suy nghĩ vô cùng đáng yêu, so sánh con bò,
con nghé chỉ bằng con cua, cái oto màu vàng chạy thì như con bọ cánh cam.
Thơ của Xuân Quỳnh thường viết cho trẻ em, có lẽ vậy mà tâm hồn bà nhiều
khi cũng như những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ chứa đầy sự lạc quan trong
cuộc sống.
Trong con người ấy luôn chan chứa một thứ tình cảm thiêng liêng dành
cho quê hương, đất nước dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào của chiến
tranh. Khi bắt gặp những hình ảnh, sự vật dù bé hay lớn đều khiến tình yêu ấy
bùng cháy lên.
23
2.2. Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ thời kháng chiến
2.2.1. Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ với thiên chức làm mẹ
Nói đến thơ Xuân Quỳnh phải nói đến thơ tình, bà là người luôn khao
khát yêu và được yêu, thơ mang đậm phong cách của giới nữ nhưng vẫn có dấu
ấn cá nhân không lẫn với bất kì người nào khác. Dù là trong kháng chiến thì
Xuân Quỳnh vẫn có những cách thức riêng để thể hiện tình yêu của mình. Vẻ
đẹp tâm hồn của người phụ nữ ấy là tình yêu của một người đàn bà truyền
thống: Người mẹ, người yêu, người vợ. Đó là những thiên chức cao quý của
giới nữ nói chung . Xuân Quỳnh thể hiện nó qua thơ, nơi gửi gắm những cảm
xúc cá nhân một cách đặc biệt nhất. Trong Hoa dọc chiến hào thì vẻ đẹp tâm
hồn người phụ nữ qua tình yêu thời kháng chiến được thể hiện ở hai thiên chức
của người phụ nữ là người mẹ và người yêu.
Xuân Quỳnh sinh ra trong hoàn cảnh mẹ mất sớm, bố công tác xa nhà,
sống dưới vòng tay yêu thương, bao bọc của bà. Nhưng dù có được bà chăm lo
thật tốt thì trong tâm hồn tác giả vẫn thiếu vắng đi tình cảm của người mẹ.
Chính vì vậy khi đến với thiên chức làm mẹ, Xuân Quỳnh luôn có một tình yêu
vô bờ bến dành cho các con, trong đó có cả con chung và con riêng. Bà không
phân biệt đối xử ai hơn ai kém mà luôn dành những gì tốt nhất cho các con.
Thơ là nơi gửi gắm những tình cảm, cảm xúc cá nhân của tác giả, mọi sự thay
đổi của thế giới xung quanh đều tác động đến tâm hồn người phụ nữ nhạy cảm
này. Con là nguồn cảm hứng mãnh liệt nhất và là đề tài có số lượng tác phẩm
lớn nhất mà bà đã sáng tác.
Một tâm hồn khát khao mang lại cuộc sống hạnh phúc cho các con, đầy
đủ tình yêu thương của cha mẹ. Nhưng mơ ước đơn giản ấy không dễ gì thực
hiện trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh. Xuân Quỳnh phải xa các con, đi
thực tế ở nhiều nơi. Nỗi nhớ các con được phát thành tiếng qua các lời ru trong
thơ, qua những người thân gắn liền với tuổi thơ của tác giả.
24
“…Con cò bay lả bay la…
Bà ru cháu ngủ buổi trưa
Nhỏ dần trong tiếng võng”
(Trưa hè)
Hình ảnh “con cò” trong ca dao Việt Nam và “tiếng võng” là một nét
truyền thống, in đậm bản sắc dân tộc, được người bà dùng làm lời ru bé trong
buổi trưa hè trên chiếc võng để mẹ đi cấy hợp tác. Xuân Quỳnh luôn mang
những nét đẹp truyền thống với những đạo lí ở đời.
Tuổi thơ của Xuân Quỳnh thiếu thốn tình cảm của mẹ chính vì vậy mà
tác giả luôn chan chứa tình cảm cho các con một phần như bù đắp những
khoảng trống trong tâm hồn mình vừa là sự bao bọc, che chở với chính những
người con của mình:
“Ngủ ngoan bé ơi!
Mẹ ngồi đưa nôi
Mẹ trông bé ngủ
Cái đầu xinh thế
Tóc mượt như tơ
Cái môi hồng thắm
Mỉm cười trong mơ”
(Ngủ ngoan bé ơi)
Trong mắt người mẹ nào thì con chẳng là đẹp nhất, lời ru đưa bé vào giấc
ngủ thật ngon, người mẹ dành thời gian ngắm nhìn đứa bé, tay thì đưa nôi, mắt
thì quan sát. Xuân Quỳnh miêu tả em bé với cái đầu xinh, mái tóc mượt như tơ,
cái môi đỏ thắm, trong mơ bé mỉm cười. Thật tinh tế khi quan sát từng chi tiết
rất nhỏ như vậy. Niềm hi vọng tác giả gửi vào giấc mơ của bé là sự hòa bình,
êm ả để bé được ngủ ngon trong chiếc nôi có mẹ đưa đều tay, được mẹ tính
25
những ngày tháng sau bé lớn lên như thế nào, ngoài kia sương rét cô dân quân
vẫn đi trong ngõ, chú bộ đội vẫn vẫn thức trông trăng và trông giấc ngủ cho bé.
“Con ở lại đây cùng các chị các anh
Với yêu thương của bà ngày đêm ấp ủ
Giữa đùm bọc của các cô các chú
Trăm nhớ thương mẹ gửi nơi này”
(Đưa con đi sơ tán)
Xuân Quỳnh xa con để đi đến các vùng đang có bom đạn ác liệt, gửi con
cho những người thân chăm sóc, mẹ con chia xa. Nối nhớ con ngày đêm ấp ủ,
thường trực trong tâm trí. Tình cảm ấy không phải của riêng Xuân Quỳnh mà
là của chung tất cả những người mẹ khác trong thời buổi bấy giờ.
“Ngủ yên con, ngủ đẫy giấc con nghe
Lời ru mẹ làm chiến hào che chở”
(Lời ru)
“Lời mẹ ru không chỉ ngọt ngào
Cái bống ngủ ngon, cánh cò bay mải
Bởi khi bay có cánh cò đã gãy
Trong lúc ngủ say cái bống vẫn giật mình”
(Khi con ra đời)
Tình yêu cho con ở đây thấm nhuần cả tính thời sự, nỗi lo âu, bất trắc
bởi ngoài kia bom đạn của kẻ thì vẫn đang ngày đêm rình rập, người mẹ chỉ
dám nói lướt qua “cánh cò đã gãy/cái bống giật mình” chứ không nói rõ ra cho
con nghe, con biết những tai họa ở xung quanh ngoài kia.
Qua hiện thực đời sống, người mẹ còn muốn truyền lại cho con, nhắc nhở
chính bản thân mình những nỗi đau dân tộc phải gánh chịu, truyền ngọn lửa yêu
26
nước cho con ngay từ bé, dẫu sau này đất nước có hòa bình thì cũng không được
quên những ngày tháng mà bao nhiêu người anh hùng phải hi sinh.
2.2.2. Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ với vai trò là người yêu
Tâm hồn Xuân Quỳnh lúc nào cũng luôn hướng đến hạnh phúc, trong
tình yêu thì Xuân Quỳnh yêu và cũng khao khát được yêu hết mình. Trong tập
Hoa dọc chiến hào có những bài thơ viết về tình yêu lứa đôi tiêu biếu nhất thể
hiện rõ nét nữ tính, mang một quan điểm vừa truyền thống vừa hiện đại trong
tình yêu.
“Tình yêu như tháng năm
Mang gió nồng nắng lửa
Anh hãy là đầm sen
Anh hãy là phượng đỏ”
(Tháng năm)
Xuân Quỳnh có một trái tim nhạy cảm, có thể cảm nhận được mọi thay
đổi dù là nhỏ nhất của người mình yêu. Câu thơ như một sự nghi ngờ của phận
nữ nhi thường gặp, ẩn chứa sâu xa của vần thơ ấy chính là niềm khát khao, thúc
giục người yêu có thể vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn thử thách, nhất là đang
trong thực tế chiến tranh thì lòng tin là thứ quan trọng hơn tất cả để có thể đến
với nhau. Tác giả dừng những sự vật, hình ảnh của tự nhiên một cách rất tài
tình, rất nên thơ, vừa giản dị, mang gam màu nóng thể hiện tình yêu cháy bỏng,
khát khao yêu. Không cần phải triết lí sâu sắc hay nói một cách thẳng thừng thì
người đọc vẫn nắm bắt được suy nghĩ, cảm xúc, tình cảm chân thành với nội
tâm đầy chất nữ tính của mình.
Trong tình yêu lứa đôi thì Xuân Quỳnh cũng luôn mang một dự cảm chia
cắt do trái tim người phụ nữ ấy từng bị tổn thương bởi sự chia tay với người
chồng đầu tiên. Xuân Quỳnh đã tin yêu hết mình, cuộc hôn nhân đầu tiên không
27
hạnh phúc thì trong bà vẫn luôn có một niềm tin vào tình yêu, khát khao một
hạnh phúc cháy bỏng, da diết. Tình cảm này thể hiện rõ nhất trong bài thơ Sóng.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Ở đây có các cặp phạm trù đối lập nhau “dữ dội” với “dịu êm”, “ồn ào”
với “lặng lẽ” nó là đặc điểm của sóng, hình tượng chủ đạo của bài thơ là sóng,
sóng ở đây vừa là sóng nước nhưng cũng là sóng tình, biện pháp ẩn dụ làm cái
tôi trữ tình của nhà thơ hóa thân thành sóng. Ở sông chật hẹp nên không thể
hiểu mình, sóng tìm ra tận biển để tìm câu trả lời hay chính là một tâm hồn
đang yêu khát khao hòa vào biển cả tình yêu rộng lớn kia.
Tình yêu ngày xưa hay ngày sau đều như nhau, không hề thay đổi.
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Tình yêu như con sóng luôn vĩnh hằng trong tự nhiên, nó đẹp nhất ở tuổi
xuân của con người, tình yêu của tuổi trẻ luôn rạo rực hơn cả. Xuất hiện nhân
vật “em” song song với “sóng” như là hai nhân vật khác nhau nhưng lại chính
là một, vừa tách riêng lại vừa bổ trợ làm rõ tâm trạng của người phụ nữ khi yêu.
Một tình yêu thủy chung, son sắt không thay đổi và nhân vật cũng đòi hỏi sự
chân thành của người yêu.
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - Một phương”
28
Với khát vọng được hòa quyện, được tan ra với biển lớn tình yêu thể hiện
một tình yêu cao thượng, hòa tình yêu cá nhân vào tình yêu chung của cộng đồng.
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Qua Sóng, Xuân Quỳnh cũng thể hiện một tư tưởng mới trong tình yêu.
Tình yêu là cái bất diệt, nó tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con
người. Với vị trí là nhà thơ nữ thì Xuân Quỳnh đã nói lên tiếng nói chung của
những người phụ nữ, tình yêu ở đây pha trộn giữa truyền thống và hiện đại,
điểm mới là người phụ nữ đã dám nói lên những khát vọng, ước muốn của mình
trong tình yêu chứ không phải tình yêu thầm kín nữa.
Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ qua tình yêu thời kháng chiến rất đa dạng,
nó vừa thể hiện tư tưởng, tâm hồn trong sáng của tác giả, lại vừa làm tăng giá
trị nghệ thuật của tập thơ.
Tập thơ Hoa học chiến hào đã góp phần làm nổi bật vẻ đẹp tinh thần đầy
màu sắc đa dạng của Xuân Quỳnh. Tâm hồn của người công dân kháng chiến
vừa giản dị vừa cao đẹp, hướng chung đến cái mục đích chung là giải phóng dân
tộc, thể hiện tính đoàn kết một lòng chống giặc, nêu cao tinh thần yêu nước, yêu
dân tộc của mọi tầng lớp người trong xã hội. Bên cạnh đó còn tinh thần lạc quan
của những người công dân kháng chiến. Họ lạc quan trong chính hoàn cảnh đất
nước đầy khói lửa, bom đạn, những con người ấy đã gửi gắm một niềm tin rằng
chiến tranh sẽ chấm dứt, đất nước Việt Nam sẽ hòa bình, giành lại độc lập dân
tộc. Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ cũng toát lên một cách đầy sắc nét, mang đậm
phong cách nữ tính của tác giả, qua đó thể hiện tình yêu trên các phương diện
tình cảm mẹ con và tình cảm lứa đôi. Tất cả đều là tiền đề cho sự phát triển thơ
Xuân Quỳnh.
29
Chương 3
VẺ ĐẸP HÌNH THỨC TRONG TẬP THƠ HOA DỌC CHIẾN HÀO
CỦA XUÂN QUỲNH
3.1. Ngôn ngữ giản dị, giàu tính nhạc, tính biểu cảm
3.1.1. Ngôn ngữ giản dị, đời thường
Xuân Quỳnh không có quan điểm sẽ xây dựng hệ thống ngôn từ trong
thơ một cách mĩ miều, chải chuốt. Tác giả đến với thơ rất tự nhiên theo cảm
xúc chính vì vậy mà ngôn ngữ trong thơ bà giản dị dễ tiếp nhận.
Ngôn ngữ là những lời ăn tiếng nói hàng ngày được Xuân Quỳnh đưa
vào thơ một cách tự nhiên, giản dị không trau chuốt:
“Vớt đất lên ta đắp con đường
Mưa hãy khoan mưa – nắng lên hỡi nắng
Nào gió đi – gió ơi, đừng lặng
Cho khô đường ta – khô lối về làng”
(Bài hát đắp đường)
Những hành động đắp đường của con người được đưa vào thơ một cách
tự nhiên, ngôn ngữ như những lời thủ thỉ với mưa, với nắng, với gió.
Tác giả cũng miêu tả những sự vật, hiện tượng diễn ra trong cuộc sống
thường ngày trong thơ:
“Tiếng gạo vo sàn sạt
Vịt gà kêu quang quác
Hôm nay – chiều ba mươi”
(Chiều ba mươi)
Những tiếng động chẳng xa lạ với mỗi người nông dân, tiếng sàn sạt khi
vo gạo, tiếng kêu quang quác của đàn vịt, đàn gà. Tất cả đều được tác giả cảm
nhận và đưa vào trong thơ mình với những cảm xúc riêng. Việc sử dụng ngôn
30
ngữ giản dị, đời thường như vậy giúp cho người đọc thấy gần gũi hơn, dễ đi
vào lòng người, vừa khơi gợi tâm hồn trẻ thơ của mỗi con người mỗi độ tết về.
Ngoài ra, Xuân Quỳnh sử dụng lối trò chuyện và cách nhân xưng rất thân
mật gần gũi:
“Em vẫy anh đó
Anh có thấy không
Mai kia em lớn
Em làm phi công”
(Bay cao)
Nhân vật xưng “em” gọi “anh”, câu thơ như một câu hỏi của em bé với
anh phi công đang lái máy bay trên bầu trời, thể hiện sự ngây thơ hồn nhiên.
Mơ ước của đứa bé là sau này lớn sẽ làm phi công. Bây giờ “em” còn bé chưa
hiểu được tại sao “anh” lại lái phi công, nhưng ẩn chứa sau ước muốn đó chính
là tâm tư của tác giả. Ngôn ngữ vô cùng giản dị nhưng lại mang những ý nghĩa
rất sâu xa.
Trong tình yêu, những người đang yêu nhau thường tự hỏi chính bản
thân mình rằng họ đã yêu từ bao giờ? Với một tâm hồn khát khao yêu và
được yêu thì Xuân Quỳnh cũng bộc bạch những suy tư ấy trong thơ mình với
ngôn ngữ thơ bình dị:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
(Sóng)
Tác giả hỏi rồi tự trả lời câu hỏi của chính mình rằng ngọn nguồn của
sóng là từ gió, thế còn gió bắt nguồn từ đâu thì không biết. Nhân vật trữ tình tự
31
hỏi chính mình “khi nào ta yêu nhau”. Tình yêu có khi vừa là sự hoài nghi, lo
lắng lại vừa là những gì rất tự nhiên, tự nhiên đến nỗi không thể cảm nhận được.
3.1.2. Ngôn ngữ giàu tính nhạc, tính biểu cảm
Xuân Quỳnh luôn biết cách tiếp nhận những giá trị nghệ thuật của thế hệ
trước. Về ngôn ngữ cũng vậy, bà kế thừa cách diễn đạt của ca dao, dân ca truyền
thống dân tộc. Ngôn ngữ trong thơ có ít những phá cách, phóng túng chính vì
thế mà nó giản dị, gần gũi, giàu tính biểu cảm và đó cũng chính là đặc trưng
nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh.
Trong tập thơ Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳnh ngôn ngữ được sử
dụng rất phong phú và đa dạng.
Đầu tiên có thể kể đến tính nhạc trong ngôn từ. Nó thể hiện qua cách
ngắt nhịp, gieo vần trong bài thơ. Xuân Quỳnh không quá chú ý đến niêm luật
mà tự do cho ngôn từ của mình hòa chung với cảm xúc khiến cho lời thơ giàu
nhạc tính. Như trong bài:
“Ngờ ngợ bóng ai xa
A! Đúng rồi bóng cha
Tôi ôm người nức nở:
Biết không con đợi chờ”
(Gặp cha)
Với thể thơ ngũ ngôn mang đến cho bài thơ sự gần gũi, dễ đọc. Cách
gieo vần “xa” với “cha”, “nở” với “chờ” ở bài thơ tạo nên nhịp điệu nhanh, rộn
ràng.
Trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
32
Qua cách diễn đạt và sử dụng ngôn từ ta thấy nó nhịp nhàng, sâu lắng
thể hiện cảm xúc của Xuân Quỳnh khi yêu, lời thơ cũng như là nhịp đập trái
tim của tác giả, vừa nồng nàn và da diết. Đoạn thơ này là một con sóng bắt đầu,
những đoạn thơ sau là những con sóng tiếp theo “trăm nghìn con sóng đó” rồi
tan ra “thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu”, tất cả đều ngập chìm
trong tình yêu.
Sự lặp lại của các thành tố ngôn ngữ cũng làm cho câu thơ tăng thêm tính
nhạc:
“Tiếng gà ai nhảy ổ
Cục...cục tác cục ta...
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
(Tiếng gà trưa)
Tiếng gà kêu cục ta cục tác tạo nên nhịp điệu cho câu thơ, nó cũng tác
động đến tâm trạng người dân quân. Nghe tiếng gà khiến bàn chân đỡ mỏi mệt,
buổi trưa xao động hơn phải chăng vì người chiến sĩ ấy còn đang mải nhớ về
những hồi niệm tuổi thơ. Sự lặp lại từ “nghe” ba lần làm cho câu thơ nhịp
nhàng, đều đặn như chính tiếng gà kêu đều đều.
“Trời là của anh
Cũng là của em
Nên gió là bạn
Mây là người quen”
(Bay cao)
Điệp từ “là” bốn lần trong đoạn thơ trên làm cho người đọc thấy sự tươi
trẻ với nhịp điệu nhanh khỏe, giống như một âm hưởng đang cao trào mà không
thể chậm lại.
33
Ngôn ngữ tự nhiên, chất liệu dân gian như ca dao, dân ca Xuân Quỳnh
sử dụng trong các bài thơ gần với lời ru:
“…Con cò bay lả bay la…
Bà ru cháu ngủ buổi trưa
Nhỏ dần trong tiếng võng
Dòng sông trôi phẳng lặng
Ngọn gió thổi hiu hiu
Nắng xanh vườn chuối tiêu
Thoảng mùi hương hoa lý”
(Trưa hè)
Những câu hát ru trong truyền thống thường được lấy trong ca dao dân
ca, những em bé lớn lên cùng với tiếng ru của mẹ, của bà. Trong thơ cũng áp
dụng những điệu ru ấy, nó nhẹ nhàng, sâu lắng đưa em bé vào giấc ngủ, mang
âm điệu thiết tha khiến cho cả cảnh vật cũng như muốn chìm vào giấc ngủ cùng
bé. Dòng sông không ồn ào mà trôi phẳng lặng, gió cũng thổi hiu hiu.
Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh giản dị đời thường, nó vừa truyền thống lại
vừa hiện đại. Tất cả tạo nên một Xuân Quỳnh rất khác không giống ai, một nữ
sĩ với sắc thái riêng, không pha trộn, không dập khuôn và người tiếp nhận dễ
nhận ra.
3.2. Giọng điệu trữ tình, nhiều sắc thái
3.2.1. Giọng điệu chủ đạo đậm chất trữ tình
Thơ ca là thế giới nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn ngữ không có tính nghệ
thuật chỉ nhằm mục đích chính là thông tin, nội dung được giới hạn chặt chẽ.
Ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng tìm cách truyền các quan điểm của nghệ sĩ
vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy cách cảm cách nghĩ về thế giới
theo cái nhìn của nhà thơ, nói cách khác ngôn ngữ mang đậm dấu ấn của cá tính
và phong cách nghệ sĩ. Xuân Quỳnh là một nhà thơ nhẹ nhàng mà tinh tế, vì
34
vậy giọng điệu chủ đạo trong thơ bà đậm chất trữ tình. Mỗi bài thơ của bà chính
là những cảm xúc, tình cảm, sự chiêm nghiệm từ cuộc sống tạo thành. Mọi vui
buồn, đắng cay hay ngọt ngào của cuộc đời đều được Xuân Quỳnh dùng ngòi
bút ghi lại trong thơ, bà lấy thế giới hiện thực làm nguồn cảm hứng cho cái tôi
trữ tình của mình nên giọng điệu đầu tiên phải kể đến là giọng giãi bày, tâm sự.
Xuân Quỳnh luôn khát khao có một hạnh phúc trọn vẹn trong đời sống
thường nhật, có thật chứ không phải hạnh phúc ở một cõi mơ ảo nào đó. Vì vậy
khi đã từng trải qua những cung bậc cảm xúc hạnh phúc – khổ đau, ngọt ngào
– cay đắng thì người đọc bắt gặp trong thơ bà sự giãi bày, tâm sự đậm chất trữ
tình. Trong Sóng sự giãy bày không còn là những lời thủ thỉ nhẹ nhàng nữa mà
giờ đây con người ấy muốn phá tan cái tủi hờn để tình cảm trong lòng được
thỏa mãn:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Thơ bà không trau chuốt câu chữ mà chỉ tập trung đến cảm xúc cá nhân,
muốn nói hết ra, không giấu giếm bất cứ điều gì trong lòng. Muốn cái tôi cá
nhân hòa với cái ta chung của những người phụ nữ đang yêu khác. Lời thơ có
lúc giản dị, mộc mạc như những lời nói đời thường nhưng nó vẫn gây được sự
xúc động đối với người tiếp nhận bởi những tình cảm chất chứa trong đó giống
với đại đa số tâm hồn phụ nữ trong tình yêu thời bấy giờ:
“Tình yêu như tháng năm
Mang gió nồng nắng lửa
Anh hãy là đầm sen
Anh hãy là phượng đỏ”
(Tháng năm)
35
Những tác giả nữ cùng thời với Xuân Quỳnh có ít người dám viết về
những chuyện riêng tư tình cảm cá nhân ra trước thiên hạ, điều này cho thấy
cái tôi trữ tình gan dạ của bà. Trong xã hội, người phụ nữ luôn là người thiệt
thòi, cả trong tình yêu cũng vậy, mấy người được hưởng hạnh phúc thực sự?
Xuân Quỳnh cũng không phải ngoại lệ, cuộc hôn nhân đầu tiên tan vỡ, nhưng
quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh không hề thay đổi, bà vẫn có một niềm
tin lớn lao vào tình yêu, vẫn muốn cháy hết mình cho tình yêu mà không hề hối
hận. Chính sự lạc quan ấy giúp bà gặp được Lưu Quang Vũ – người mang lại
hạnh phúc viên mãn cho bà, tạo nên vô vàn những cảm hứng trong thơ ca.
Tất cả những yêu thương, giận hờn, băn khoăn hiện ra dưới những câu
chữ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
(Sóng)
Xuân Quỳnh là một tác giả vừa có tài vừa có sắc nhưng cuộc đời gặp
nhiều biến cố. Bao nhiêu nỗi niềm khi không chia sẻ được với ai bà đều trải
lòng mình bằng những vần thơ tâm huyết.
Bên cạnh niềm giãi bày, tâm sự thì thơ Xuân Quỳnh còn chất chứa những
ngậm ngùi, suy ngẫm, mang nhiều nỗi lo âu. Ai trong chúng ta cũng đều mong
muốn được sống trong gia đình trọn vẹn hạnh phúc, đầy đủ tình yêu thương của
cha, của mẹ. Xuân Quỳnh có một tuổi thơ không trọn vẹn, mẹ mất sớm, cha
công tác xa, ở với bà từ nhỏ nên khi trở thành một người mẹ, tác giả luôn muốn
dành tình cảm, sự quan tâm đầy đủ nhất cho con. Tập thơ Hoa dọc chiến hào
36
ra đời trong thời chiến, Xuân Quỳnh đi thực tế xa nhà, bà viết về con bằng
những câu thơ thấm đẫm tình mẫu tử với sự ngậm ngùi, suy ngẫm về thực tại
khốc liệt:
“Hàng mi tơ vẫn khép giấc ngon lành
Con đâu biết máy bay thù gầm rít
Con chỉ nghe lời mẹ ru quấn quýt
Bom chuyển hầm con ngỡ tiếng nôi đưa
Hơi đất vào man mát giấc mơ
Con nào hay hơi lửa thù rát mặt!...”
(Lời ru)
Đứa trẻ còn quá nhỏ để biết nó được sinh ra tại thời buổi đất nước đang
đắm chìm trong bom đạn của giặc. Khi lời mẹ ru hòa với tiếng gầm rít của máy
bay thù trên nền trời, tiếng bom chuyển hầm thì con ngỡ tiếng nôi đưa. Những
khó khăn, khổ sở mà mẹ và dân ta phải chịu sẽ không diễn tả được cho con
hiểu.
Nỗi lo âu của một người mẹ mong con lớn lên trong hòa bình với mái
ấm gia đình, nỗi lo của người hậu phương dành cho các chiến sĩ ngoài chiến
trường, nỗi lo của người phụ nữ khát khao một tình yêu thủy chung son sắc đều
được thể hiện qua giọng điệu trữ tình một cách hài hòa nhất, bởi đó chính là lúc
tác giả hòa cái tôi vào cái ta chung, khiến cho người tiếp nhận đều bắt gặp trong
thơ những cảm xúc, tình cảm giống với chính họ.
3.2.2. Sắc thái phong phú
Mỗi nhà văn, nhà thơ luôn có những giọng điệu khác nhau cho những tác
phẩm của mình tạo nên cái tôi cá nhân. Khi đọc các tác phẩm nghệ thuật người
ta có thể nhận ra giọng điệu riêng của nhà thơ. Nhưng giọng điệu không đơn
thuần chỉ là cách nói, cách diễn đạt hay giọng truyền cảm mà ở đây là thái độ,
tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được
37
miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu
tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay
châm biếm.
Xuân Quỳnh cũng có giọng điệu riêng độc đáo tạo nên cái tôi và có giá
trị nghệ thuật riêng, giọng điệu là phương tiện chuyển tải hiện thực cuộc sống
vào trong thơ, mỗi tác phẩm của bà mang những giọng điệu khác nhau. Khi
nghiên cứu tập thơ Hoa dọc chiến hào, giọng điệu mà Xuân Quỳnh sử dụng là
giọng điệu của tâm hồn, của một người phụ nữ khác biệt với những người phụ
nữ khác. Bên cạnh đó thì tác giả còn sử dụng các giọng điệu khác phong phú.
Xuân Quỳnh là người phụ nữ yêu tự do, chính vì thế mà bà rất độc lập
và mạnh mẽ, nhưng đã là phụ nữ thì sẽ có lúc yếu mềm. Chính vì thế giọng
điệu trong thơ bà cũng có những lúc phóng khoáng, sôi nổi, khi thì lại trầm
ngâm, sâu lắng, ngọt ngào. Giọng thơ còn phụ thuộc vào những xúc cảm từ
cuộc sống của tác giả. Xuân Quỳnh từng trải qua một cuộc hôn nhân đổ vỡ, sau
đó mới đến với Lưu Quang Vũ, bà có con chung và con riêng, tác giả tham gia
vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Điều mà Xuân Quỳnh muốn nói còn
là cuộc đời, là suy nghĩ về con người, đất nước, về tình yêu và hạnh phúc.
Từ cảm quan của người phụ nữ, Xuân Quỳnh rất tinh tế sử dụng lời ru
làm giọng điệu sáng tác của mình:
“Mẹ ngồi đưa nôi
Mẹ trông bé ngủ
Cái đầu xinh thế
Tóc mượt như tơ
Cái môi hồng thắm
Mỉm cười trong mơ”
(Ngủ ngoan bé ơi)
38
Với cha mẹ thì giấc ngủ của con như chính niềm hạnh phúc được nuôi
dưỡng từng ngày và những lời hát ru da diết thấm đượm tình quê hương, thấm
đượm tình mẫu tử thiêng liêng luôn được chuyển tải bằng những lời ca tiếng
hát vỗ về cho giấc ngủ con trẻ.
“Dẫu con đi đến hết đời
Cũng không đi hết những lời mẹ ru”
(Lời ru)
Xuân Quỳnh trong thơ đã kết hợp lời ru với những câu ca dao tạo nên
giọng điệu truyền thống, vừa truyền tải gửi gắm tình cảm của mình, vừa bồi
dưỡng tâm hồn cho con trẻ:
“Mẹ lại hát ru con những bài ca đất nước:
... Vợ cấy... chồng cày... đồng cạn, đồng sâu
Và yêu nhau cởi áo cho nhau
Khi đã yêu mấy núi đèo cũng vượt
Tháp Mười ta có hoa sen đẹp nhất
Đất nước mình tên Bác cũng như hoa...
Ngủ yên con, ngủ đẫy giấc con nghe
Lời ru mẹ làm chiến hào che chở”
(Lời ru)
Các câu thơ chan chứa tình yêu, niềm tin, hi vọng và cả những suy tư của
người mẹ dành cho người con, là khúc điệu tâm hồn của chính tác giả.
Giọng thơ Xuân Quỳnh có lúc dịu dàng, ngọt ngào mà cũng có lúc lại rất
hồn nhiên, trong sáng:
“Nhìn tờ tranh trên vách
Bé nằm ngoan trong nôi
Ề à cùng đàn lợn
39
Bỗng toét miệng bé cười
Trẻ nhà ai nghịch ngợm
Ném pháo sang sân ngoài
Con Vàng nghe tiếng nổ
Vừa cắn lại vừa lùi”
(Chiều ba mươi)
Trẻ em cũng là một đề tài chính trong các sáng tác của Xuân Quỳnh, bà
là người yêu trẻ nhỏ, nên trong thơ bà luôn dành riêng những giọng điệu sảng
khoái, vui vẻ khi diễn tả trẻ con:
“Cúc cu…cù cu
Mẹ ơi đến giờ
Con gà gọi đấy
Bé mẹ chả quấy
Mẹ cứ đi làm
Con gà nó ngoan
Bé yêu nó lắm!”
(Con gà)
Các câu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, từ ngữ giống những lời nói, cách
nói của trẻ con giúp cho câu thơ có giọng điệu hồn nhiên, tươi trẻ và giống với
cách nghĩ của trẻ con. Xuân Quỳnh là mẹ nhưng giọng thơ viết về con lại cứ
như chính là lời của các con nói ra làm cho người tiếp nhận khó phân biệt được
giữa thơ người lớn và thơ trẻ con.
Giọng điệu thơ Xuân Quỳnh khá đa dạng, đặc biệt phải kể đến giọng điệu
khắc khoải, day dứt, bộc bạch trong thơ bà. Tác gỉa đặt ra câu hỏi cho chính
mình, cũng chính là câu hỏi mà trong tình yêu ai cũng muốn biết:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
40
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
(Sóng)
Nó mang một nỗi suy tư, hoài nghi mà không giải đáp được.
Giọng điệu băn khoăn, lo âu của người con đi lấy chồng mà không thể
về thăm mẹ. Dù chẳng cách núi sông mà sao nhìn cứ như nghìn trùng xa cách.
“Cô gái lấy chồng dù không cách núi sông
Quê mẹ nhìn về mênh mang nước trắng
Sao xa cách như một hòn đảo vắng
Biết gửi ai cho mẹ bát canh cần”
(Bài hát đắp đường)
Tác giả mượn ý câu ca dao: “Có con mà gả chồng gần/ Có bát canh cần
nó cũng đem cho”. Con gái đi lấy chồng là coi như mất con, lại còn trong thời
chiến thì khó lòng nào con cái có thể qua lại thăm nom cha mẹ vì lúc này tình
cảm thiêng liêng ấy còn phải nhường chỗ cho tình yêu đất nước.
Qua phân tích, giọng điệu Xuân Quỳnh trong thơ mang một sắc thái
riêng, đầy chất dung dị đời thường, vừa tự nhiên, phóng khoáng và đầy bản
năng tạo nên sự thành công trong giọng điệu thơ Xuân Quỳnh.
Có thể thấy hình thức nghệ thuật trong thơ Xuân Quỳnh vô cùng phong
phú, được thể hiện ở hai phương diện chính là ngôn ngữ và giọng điệu. Về
phương diện ngôn ngữ, Xuân Quỳnh sử dụng nhiều nhất là ngôn ngữ giản dị,
giàu tính nhạc, tính biểu cảm. Ngôn ngữ làm thoát ra ý thơ, dù sử dụng ngôn
ngữ như thế nào thì vẫn thu hút, lôi cuốn người đọc. Về phương diện giọng
điệu, tập thơ Hoa dọc chiến hào sử dụng giọng điệu trữ tình là chủ đạo cùng
với sắc thái phong phú. Xuân Quỳnh đã khẳng định được sự thông minh, khôn
khéo trong việc vận dụng ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ. Làm nên “cái tôi”
độc lập, cá tính.
41
KẾT LUẬN
1. Thẩm mĩ chính là cảm thụ về cái đẹp, đây là một vấn đề có ý nghĩa
quan trọng trong thực tiễn và lí luận, là phương diện cơ bản trong hoạt động
nghiên cứu văn học, khẳng định vị trí của nhà văn khi các tác phẩm được bạn
đọc tiếp nhận. Lịch sử nghiên cứu thẩm mĩ đã có nhiều công trình bàn về thẩm
mĩ ở góc độ cái đẹp. Tiêu biểu phải kể đến những quan điểm tiếp cận vấn đề
thẩm mĩ từ quan niệm của mỹ học và quan niệm của lí luận văn học. Từ đó làm
tiền đề để khai thác tập thơ Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳnh từ góc độ thẩm
mĩ.
2. Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ trẻ, sống và sáng tác trong thời kì
kháng chiến chống Mỹ ác liệt, bà được trao tặng những giải thưởng lớn có giá
trị góp phần khẳng định được vị trí, tài năng của mình. Qua tập thơ Hoa dọc
chiến hào tài năng của Xuân Quỳnh càng được thể hiện rõ nét thông qua những
giá trị nghệ thuật mà bà đem lại về vẻ đẹp tâm hồn của người công dân kháng
chiến và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ thời kháng chiến.
Với sự nhạy cảm, tinh tế trong tâm hồn, mọi sự biến chuyển của sự vật,
hiện tượng đều có tác động đến Xuân Quỳnh. Những hình ảnh, âm thanh gần
gũi, tự nhiên được thổi hồn vào thơ bà. Người công dân kháng chiến có thể là
mọi tầng lớp trong xã hội, cũng có thể chính bản thân tác giả giữ vai trò là một
người công dân trẻ kháng chiến. Tất cả các nhân vật đều tập trung làm nổi bật
tinh thần yêu nước nồng nàn và tinh thần lạc quan của những công dân kháng
chiến. Khát khao tự do chung cho dân tộc, gửi vào đó lòng căm thù giặc sâu
sắc, tinh thần đoàn kết gắn bó xóm làng, phát huy mọi truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Từ sự phân tích mọi giá trị nghệ thuật mà làm hiện rõ vẻ đẹp
tâm hồn của người công dân kháng chiến.
42
Các mối quan hệ tình yêu của con người với con người cũng là một phạm
trù thẩm mĩ, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ thể hiện ở hai cách nhìn, thứ
nhất là tình yêu của người mẹ dành cho người con, thứ hai là tình yêu nam nữ.
Ở mỗi phương diện lại có các cách diễn đạt khác nhau. Thiên chức làm mẹ của
phụ nữ nói chung, của Xuân Quỳnh nói riêng là một thứ tình cảm thiêng liêng,
cao quý, đáng trân trọng. Khi là mẹ Xuân Quỳnh gửi gắm tình yêu cho con trẻ,
niềm hi vọng về một mái ấm trọn vẹn cho con, truyền đạt những truyền thống
quý báu của dân tộc, những khát khao về sự yên bình tránh cho con những lo
sợ, mất mát. Tác giả cũng gửi gắm khát khao yêu và được yêu, niềm tin vào
hạnh phúc, cả những lo lắng về sự chia xa, dự cảm xấu trong tình yêu lứa đôi.
Thơ chính là cái nôi của cuộc sống, là người bạn tâm tình, chia sẻ thủy chung
với Xuân Quỳnh, tại đây tác giả được phép sống đúng với con người mình, mọi
cảm xúc, tâm trạng không cần che giấu mà cứ thế tạo thành vần thơ mang cho
người tiếp nhận những giá trị ở góc độ thẩm mỹ thật phong phú, đa nàu sắc.
3. Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳnh mang vẻ đẹp hình thức rất riêng.
Nó thể hiện qua cách sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu. Đối với nhiều nhà thơ
thì họ đều cố gắng trau chuốt, sáng tạo ngôn từ của mình một cách thật hoàn
mĩ, độc đáo. Nhưng Xuân Quỳnh thì không tập trung lựa chọn ngôn từ mà tự
cảm xúc tạo ra ngôn ngữ một cách tự nhiên nhất, chính vậy mà ngôn ngữ trong
tập thơ này vừa giản dị lại giàu tính biểu cảm. Ngôn ngữ trong thơ bà khi hoàn
chỉnh đến với người tiếp nhận giống như một bản nhạc, có lúc nhẹ nhàng du
dương khi thì cao trào sôi nổi. Bên cạnh đó giọng điệu cũng là một hình thức
tạo nên phong cách riêng của tác giả. Đó là giọng điệu trữ tình mang nhiều sắc
thái. Các hình thức nghệ thuật tiêu biểu đó đã để lại dấu ấn trong lòng độc giả.
Xuyên suốt tập thơ là cảm hứng từ những câu chuyện đời thường trong chuyến
đi thực tế ở chiến trường đầy bom đạn nhưng tâm hồn tác giả vẫn luôn hồn
nhiên, phóng khoáng.
43
Bằng tấm lòng yêu mến Xuân Quỳnh cùng với những tìm tòi của cá nhân,
chúng tôi muốn khẳng định giá trị của tập thơ Hoa dọc chiến hào và những
đóng góp của tác giả trong nền văn học nước nhà, khẳng định giá trị thẩm mĩ
của tập thơ sẽ mãi tồn tại cùng năm tháng.
44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại -Tiến trình & hiện tượng,
NXB Văn học, Hà Nội.
2. Trần Ngô Mỹ Hậu (2013), “Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh qua tập
thơ “Hoa dọc chiến hào” ”, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường đại học sư
phạm Hà Nội 2.
3. Nguyễn Thị Vi Khanh (tuyển chọn) (2016), Xuân Quỳnh Thơ và đời, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Long chủ biên (2008), Giáo trình văn học Việt Nam tập 2 (Từ
sau cách mạng tháng Tám 1945), NXb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
5. Vân Long tuyển chọn (2004), Xuân Quỳnh thơ và đời, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
6. Vũ Đại Lợi (2016), Mỹ học đại cương, https://prezi.com/tmii68xd7thf/my-
hoc-ai-cuong/ .
7. Phan Trọng Luận tổng chủ biên (2008), Ngữ văn 12, tập 1, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
8. Nguyễn Thu Nghĩa (2010), “Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về nguồn
gốc, bản chất và sự vận động của cái đẹp trong đời sống xã hội”, Luận án tiến
sĩ, Hà Nội.
9. Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, In lần thứ 9, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Nhóm trí thức Việt (tuyển chọn) (2016), Xuân Quỳnh thơ và đời, Nxb Văn
học, Hà Nội.
11. Lê Lưu Oanh (2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
12. Hoàng Phê chủ biên (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
13. Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên (2012), Ngữ văn 7, Tập 1, Tái bản lần thứ
9, Nxb Giáo dục Việt Nam.
14. Xuân Quỳnh (1968), Hoa dọc chiến hào, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Trần Đình Sử (2007), Giáo trình lí luận văn học, tập 1, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
16. Đào Duy Thanh (2014), “Bàn về bản chất cái đẹp”.http://daoduythanh999.
blogspot.com/2009/12/ban-chat-cua-cai-ep.html.
17. Vũ Duy Thông (1988), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam (1945 -
1975), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Nguyễn Anh Vũ biên soạn (2012), Xuân Quỳnh tác phẩm & lời bình, Nxb
Văn học, Hà Nội.