TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài: HỢP ĐỒNG VẬN TẢI VÀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI
THƯƠNG
Sinh viên thực hiện: Đỗ Thị Thanh Hiền
Lớp A1 – CN9
Giáo viên hướng dẫn: Vũ Hữu Tửu
Hà nội năm 2003
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI VÀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG. MỐI LIÊN QUAN MẬT THIẾT GIỮA HAI HỢP ĐỒNG. ................................................................................... 4
I HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG: .......................................... 4
1 KHÁI NIỆM ........................................................................................ 4
2 SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG. ................................................................................................... 5
II HỢP ĐỒNG VẬN TẢI ............................................................................ 6
1 ĐỊNH NGHĨA ...................................................................................... 6
2 SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VẬN TẢI. ................................. 7
3 MỐI QUAN HỆ GIỮA HĐ MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ HĐ VẬN TẢI. ............................................................................................................. 9
CHƯƠNG II: CÁC ĐIỀU KHOẢN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI .................................................................... 12
I HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ .................................. 12
1 CÁC ĐIỀU KIỆN CHUNG ................................................................ 12
2 CÁC ĐIỀU KHOẢN CHÍNH TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG .................................................................................... 15
II HỢP ĐỒNG VẬN TẢI. ......................................................................... 36
1 NHỮNG NGUYÊN TẮC CẦN QUÁN TRIỆT KHI LẬP HỢP ĐỒNG VẬN TẢI HÀNG HOÁ ............................................................................. 36
2 VẬN TẢI HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN. ................................ 51
3 CÁC PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI THƯỜNG DÙNG TRONG CHUYÊN CHỞ HÀNG HOÁ NGOẠI THƯƠNG BẰNG ĐƯỜNG BIỂN52
4 VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN................................................................. 54
III MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ VẬN TẢI BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG. ....................................................................................................... 72
1 VỊ TRÍ CỦA VẬN TẢI HÀNG KHÔNG ........................................... 72
2 ĐẶC ĐIỂM CỦA VẬN TẢI HÀNG KHÔNG ................................... 72
3 CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT CỦA VẬN TẢI HÀNG KHÔNG .. 74
IV VẬN TẢI HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG ................ 78
1 VẬN TẢI HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ. .............................................. 78
2 VẬN ĐƠN HÀNG KHÔNG (AIRWAY BILL - AWB) ..................... 80
3 CƯỚC PHÍ VẬN TẢI ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG .............................. 81
4 CÁC LOẠI CƯỚC PHÍ: ..................................................................... 82
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN TỐT HƠN NỮA VIỆC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG VÀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI .................................................................................................................. 86
I MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN TỐT HƠN NỮA VIỆC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG .......................................................... 86
1 GIAI ĐOẠN 1: CHUẨN BỊ ĐÀM PHÁN .......................................... 86
2 GIAI ĐOẠN 2: ĐÀM PHÁN .............................................................. 87
3 GIAI ĐOẠN 3: SAU ĐÀM PHÁN ..................................................... 89
II MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ LÀM TỐT HƠN NỮA VIỆC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG VẬN TẢI.......................................................................................... 89
1 GIAI ĐOẠN 1: CHUẨN BỊ ĐÀM PHÁN .......................................... 90
2 GIAI ĐOẠN 2: ĐÀM PHÁN .............................................................. 90
3 GIAI ĐOẠN 3: SAU ĐÀM PHÁN ..................................................... 90
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 95
LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường thế giới là một thể thống nhất, cơ cấu hàng hoá buôn bán mạnh mẽ.
Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đã làm
thay đổi các hình thức giao thương trên thị trường thế giới, tạo ra những phương
thức cạnh tranh ngày càng đa dạng, phức tạp. Đồng thời làm xuất hiện nhiều
hình thức cạnh tranh và các phương thức mua bán khác nhau. Các quốc gia
đều mong muốn và cố gắng thực hiện chính sách " mở cửa" nền kinh tế và như
vậy, hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại,
mở rộng quan hệ ngoại giao và buôn bán với hàng trăm quốc gia.
Hợp đồng mua bán hàng hoá là biểu hiện cụ thể của quan hệ ngoại thương giữa
các thương nhân với nhau. Đồng thời nó cũng là phương tiện để các chính sách
kinh tế của Nhà nước được thực thi trên thực tế.
Nếu như việc ký kết một hợp đồng mua bán Ngoại thương giữ một vai trò quan
trọng trong hoạt động ngoại thương , thì vận tải là khâu không thể thiếu được
trong các phương thức giao dịch và mua bán Quốc tế. Vận tải Quốc tế và ngoại
thương có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau và có tác dụng thúc đẩy nhau
cùng phát triển. Việc ký kết một hợp đồng chuyên chở cũng là vấn đề hết sức
cần thiết. Nó quyết định mức độ của vận tải và giá cả cạnh tranh.
Mối liên kết giữa Hợp đồng vận tải và Hợp đồng mua bán Ngoại thương rất mật
thiết. Hợp đồng vận tải là cơ sở để thực hiện Hợp đồng mua bán còn Hợp đồng
mua bán ngoại thương là nền tảng xác lập mối quan hệ giữa hai hợp đồng. Hợp
đồng mua bán quyết định nhưng hợp đồng vận tải lại tác động. Mối quan hệ đó
được thể hiện bằng việc có hợp đồng mua bán Ngoại thương rồi phát sinh nhu
cầu ký kết hợp đồng Vận tải.
Kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các tổ chức
được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu ở nước ta chỉ ra rằng: Hầu hết những tranh
Page 1
chấp xảy ra trong hoạt động kinh tế dối ngoại đều bắt nguồn từ quá trình thực
hiện các hợp đồng. Trong nhiều trường hợp sự tranh chấp ấy đã dẫn đến hậu
quả là những tổ chức xuất nhập khẩu của ta phải gánh chịu những thiệt thòi về
mặt kinh tế nhiều khi rất lớn. Bài học rút ra từ những vụ việc ấy chính là sự non
kém trong việc kết hợp kỹ thuật nghiệp vụ với kiến thức pháp lý và biểu hiện rõ
nét nhất là trong việc soạn thảo các hợp đồng xuất nhập khẩu.
Nhằm mục đích đạt được hiệu quả kinh tế cao trong lĩnh vực xuất nhập khẩu,
điều chủ yếu mà chúng ta phải quan tâm đó là bằng cách nào để có thể soạn ra
những Hợp đồng xuất nhập khẩu và hợp đồng vận tải với những điều khoản có
lợi nhất cho chúng ta và được đối tác chấp nhận. Chính vì mối liên quan mật
thiết này đã dẫn đến vấn đề bức xúc trong việc nghiên cứu và phân tích Hợp
đồng mua bán ngoại thương và Hợp đồng vận tải. Vì vậy tôi đã chọn đề tài "
Hợp đồng mua bán ngoại thương và Hợp đồng vận tải".
Tuy nhiên phạm vi đề cập ở đây chỉ giới hạn ở mối quan hệ Hợp đồng mua bán
ngoại thương và Hợp đồng vận tải dưới góc nhìn của một cán bộ nghiệp vụ
Thương mại chứ không phải là người nghiên cứu.
Đối tượng đề cập: Hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải các
thiết bị viễn thông tin học
Phương pháp đề cập: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng có kết hợp với
phương pháp phân tích và phê phán.
Bố cục của khoá luận gồm 3 chương:
CHƯƠNG I: Một số nét khái quát về hợp đồng vận tải và hợp đồng mua bán
ngoại thương. mối liên quan mật thiết giữa hai hợp đồng.
CHƯƠNG II: Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán ngoại thương và
hợp đồng vận tải
Page 2
CHƯƠNG III: Một số biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng
mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải.
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Khoa Kinh
tế Ngoại thương trường ĐH Ngoại thương và thầy Vũ Hữu Tửu. Qua luận văn
này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới sự giúp đỡ quý báu trên và mong rằng luận
văn đã nêu ra được những vấn đề cốt yếu khi ký kết một hợp đồng mua bán
ngoại thương, hợp đồng vận tải nói chung và cho các thiết bị viễn thông tin học
trong ngành viễn thông tin học của nước nhà nói riêng.
Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực rộng nên trong quá trình nghiên cứu không thể
tránh khỏi những thiếu xót. Tôi rất mong có được sự góp ý phê bình của các
thầy cô giáo để luận văn có tính khả thi cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Page 3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI VÀ
HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG. MỐI LIÊN QUAN MẬT
THIẾT GIỮA HAI HỢP ĐỒNG.
I Hợp đồng mua bán ngoại thương:
1 Khái niệm
Hợp đồng mua bán Ngoại thương hay còn gọi là hợp đồng mua bán Quốc tế hay
hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh
doanh ở các nước khác nhau, theo đó một Bên gọi là Bên xuất khẩu (Bên bán)
có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là Bên nhập khẩu
(Bên Mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá; Bên Mua có nghĩa vụ nhận
hàng và trả tiền hàng.
Định nghĩa trên đây nêu rõ:
Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận của các bên ký kết (các đương sự).
Chủ thể của hợp đồng này là Bên bán (bên xuất khẩu) và Bên Mua (bên nhập
khẩu). Họ có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao một giá trị
nhất định, và, để đổi lại, Bên Mua phải trả một đối giá (counter value) cân xứng
với giá trị đã được giao (contract with consideration).
Đối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài sản này biến
thành hàng hoá. Hàng hoá này có thể là hàng đặc định (specific goods) và cũng
có thể là hàng đồng loại (generic goods).
Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển quyền sở hữu hàng hoá (chuyển
chủ hàng hoá). Đây là sự khác biệt so với hợp đồng thuê mướn (vì hợp đồng
thuê mướn không tạo ra sự chuyển chủ), so với hợp đồng tặng biếu (vì hợp đồng
tặng biếu không có sự cân xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên.
Page 4
2 Sự ra đời và phát triển của Hợp đồng mua bán ngoại thương.
Hợp đồng mua bán ngoại thương được hình thành giữa các doanh nghiệp phải
có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau.
Loại hàng hoá đưa ra trao đổi ngoại thương phải được chính phủ các nước hữu
quan cho phép vận chuyển từ nước này sang nước khác, việc mua bán được tiến
hành theo ý chí của các chủ thể hợp đồng và không bị quốc gia nào ràng buộc.
Trong hoạt động ngoại thương việc lập văn bản Hợp đồng kinh tế để trao đổi
hàng hoá là yêu cầu bắt buộc, các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên
bán cùng bàn bạc thoả thuận.
Qua nhiều thế kỷ, từ thực tiễn Thương mại quốc tế đã dẫn đến sự hình thành các
tập quán Thương mại được áp dụng ở khắp mọi nơi và đối với từng mặt hàng.
Trong xã hội sự cạnh tranh gay gắt về lợi nhuận giữa các công ty, các nhà sản
xuất và các tập đoàn diễn ra quyết liệt, kết quả của sự cạnh tranh trong lĩnh vực
Thưng mại quốc tế đã tạo ra những tập quán.
Do sự phát triển của nền sản xuất, trong xã hội đã hình thành các tập đoàn độc
quyền trong từng lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Tập đoàn độc quyền về sản xuất và
phân phối máy tính xách tay như IBM, phân phối phần mềm cho hệ điêu hành
như Microsoft…Đối với mỗi tập đoàn lại có những " Tập quán Thương mại"
riêng của nó và những tập đoàn này thường từ chối ký kết các hợp đồng vụn vặt
và những hợp đồng với những điều kiện khác với những điều kiện do tập đoàn
đã quy định. Còn bên đối tác yếu hơn thì không thể đòi các điều kiện có lợi cho
mình và buộc phải theo các điều kiện mà tập đoàn đã quy định. Những tập đoàn
ký kết vơi nhau tạo điều kiện hình thành những tập quán ngành - hãng. Tập
quán thương mại về một mặt hàng do một tập đoàn lũng đoạn đã được sinh ra
như vậy. Trên cơ sở những tập quán đó đã hình thành những hợp đồng mẫu
trong Thương mại quốc tế.
Page 5
Sự phát triển các hợp đồng mẫu đã tạo điều kiện cho hai bên đương sự trong khi
đàm phán. Để ký kết hợp đồng mua bán chú trọng đến vấn đề cần phải thống
nhất như phẩm chất cụ thể của hàng hoá, giá cả, thời hạn và nơi giao hàng.
Trong các trường hợp đồng mẫu, phần lớn các văn bản hợp đồng đã in sẵn vào
một bản hợp đồng và ta khó sửa đối những điều kiện chung cũng như các điều
kiện khác. Do được xây dựng từ trước, nên các văn bản của hợp đồng mẫu kỹ
lưỡng hơn là đến khi đàm phán một dự thảo. Sử dụng hợp đồng mẫu, chúng ta
sẽ tiết kiệm được thời gian và sử dụng những kinh nghiệm của thực tiễn.
Các Hợp đồng mẫu ngày càng được sử dụng rộng rãi trong cùng ngành kinh tế.
Sự lan rộng của nó là kết quả của sự cố gắng tiêu chuẩn hoá các điều kiện
thương mại quốc tế. Ví dụ: như xây dựng Incorterms hay Uniform customs and
practice for Commeroial ducumentary credits. Hơn nữa các liên đoàn của ngành
đã xây dựng cho mỗi loại hàng một Hợp đồng mẫu. Những mẫu này thường
khác nhau ở phương pháp định giá ( FOB, CIF...) cách giao hàng ( Partical
shipment is allowed or prohibited ) Phương tiện vận tải, bảo hiểm hàng hoá hoặc
đóng gói...
Chính vì vậy, hợp đồng mẫu được sử dụng và phát triển rộng rãi.
II Hợp đồng vận tải
1 Định nghĩa
Hợp đồng vận tải bản chất của nó chính là những điều khoản trong việc thực
hiện nghiệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Giao nhận hàng hoá xuất
nhập khẩu là một khâu quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngoại
thương, là một nghiệp vụ tổng hợp, có liên quan đến luật lệ quốc gia và quốc tế.
Hợp đồng vận tải được ký trước lúc nhập hàng về. Tuy nhiên có khi hợp đồng
vận tải được ký cùng một lúc với Hợp đồng mua bán. Nói chung, hai hợp đồng
này phải đi song hành với nhau.
Page 6
Các điều khoản của hợp đồng mua bán phản ánh vào hợp đồng vận tải và hợp
đồng vận tải phản ảnh ý chí mua bán của các bên.
2 Sự ra đời và phát triển của vận tải.
2.1 Đặc điểm của vận tải
Theo nghĩa rộng, vận tải là một quy trình kỹ thuật của bất kỳ sự di chuyển vị trí
nào của vật phẩm và con người. Còn với ý nghĩa kinh tế (nghĩa hẹp), vận tải chỉ
bao gồm nhứngự di chuyển của vật phẩm và con người khi thoả mãn đồng thời
hai tính chất: là một hoạt động sản xuất vật chất và là một hoạt động kinh tế độc
lập.
Khi nói đến ngành sản xuất vận tải chúng ta có thể thấy nó có một số đặc điểm
chủ yếu như sau:
Sản xuất trong ngành vận tải là một quá trình tác động làm thay đổi về mặt
không gian của đối tượng chuyên chở.
Sản xuất trong ngành vận tải là một quá trình tác động làm thay đổi về mặt
không gian, chứ không phải là sự tác động về mặt kỹ thuật vào đối tượng lao
động, tức là đối tượng chuyên chở gồm hàng hoá và hành khách. Con người
thông qua công cụ vận tải (tư liệu lao động) tác động vào đối tượng chuyên chở
để gây ra sự thay đổi vị trí về không gian và thời gian của chúng.
Sản xuất trong ngành vận tải không sáng tạo ra sản phẩm vật chất mới.
Sản xuất trong ngành vận tải không sáng tạo ra sản phẩm vật chất mới mà sáng
tạo ra một sản phẩm đặc biệt gọi là sản phẩm vận tải. Sản phẩm vận tải là sự di
chuyển vị trí của đối tượng chuyên chở. Tuy vậy, sản phẩm này cũng có hai
thuộc tính của hàng hoá đó là:giá trị sử dụng và giá trị. Bản chất và hiệu quả
mong muốn của sản xuất trong ngành vận tải là thay đổi vị trí, chứ không phải
Page 7
làm thay đổi hình dáng, tính chất lý hoá của đối tượng chuyên chở.
Sản phẩm vận tải không tồn tại độc lập ngoài quá trình sản xuất ra nó.
Sản phẩm vận tải không tồn tại độc lập ngoài quá trình sản xuất ra nó. Sản phẩm
này không có một khoảng cách về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Khi quá
trình sản xuất trong vận tải kết thúc, thì đồng thời sản phẩm vận tải cũng được
tiêu dùng ngay.
Sản phẩm trong ngành vận tải không thể dự trữ được.
Để đáp ứng nhu cầu chuyên chở tăng lên đột biến trong xã hội, ngành vận tải chỉ
có thể dự trữ năng lực chuyên chở của công cụ vận tải như dự trữ toa xe, đầu
máy, ô tô, tăng tần suất phục vụ...
Từ những phân tích trên ta có thể kết luận : vận tải là một ngành sản xuất vật
chất đặc biệt, một ngành kinh tế độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Kết luận
này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn.
2.2 Sự ra đời và phát triển.
Vì ở đây, đối tượng chúng ta đề cập đến là vận tải trong các hợp đồng ngoại
thương nên chúng ta sẽ đi sâu về phần vận tải quốc tế.
Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá hoặc hành khách giữa hai hay
nhiều nước với nhau, tức là điểm đầu và điểm cuối của quá trình vận tải nằm
trên lãnh thổ của hai nước khác nhau. Nói một cách khác, vận tải quốc tế là quá
trình chuyên chở được tiến hành vượt ra phạm vi biên giới lãnh thổ của một
nước.
Sự ra đời và phát triển của vận tải quốc tế gắn liền với sự phân công lao động
quốc tế và sự buôn bán quốc tế. Sự hình thành và phát triển hệ thống vận tải
thống nhất của từng nước hoặc từng khu vực nhóm nước có ảnh hưởng rất lớn
đến sự hình thành và phát triển hệ thống vận tải
Page 8
trên phạm vi toàn thế giới. Vận tải quốc tế và ngoại thương có mối liên hệ chặt
chẽ, hữu cơ với nhau và có tác dụng thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Trước đây, vận tải quốc tế là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để buôn bán quốc tế
ra đời và phát triển. V. Lênin nói: "Vận tải là phương tiện vật chất của mối liên
hệ kinh tế với nước ngoài". Khi buôn bán quốc tế mở rộng và phát triển lại tạo ra
những yêu cầu để thúc đẩy vận tải quốc tế ngày càng phát triển hoàn thiện.
Hiện nay, tất cả các phương thức vận tải hiện đại đều tham gia phục vụ chuyên
chở hàng hoá trong buôn bán quốc tế, trong đó vận tải đường biển đóng vai trò
chủ đạo
3 Mối quan hệ giữa HĐ mua bán hàng hoá và HĐ vận tải.
Như ở trên chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa Hợp đồng vận tải và Hợp đồng
mua bán Thương mại rất mật thiết. Hợp đồng vận tải là cơ sở để thực hiện Hợp
đồng mua bán Thương mại và Hợp đồng mua bán ngoại thương - là nền tảng xác
lập mối quan hệ giữa hai hợp đồng. Thể hiện bằng việc có hợp đồng mua bán
Ngoại thương rồi phát sinh nhu cầu ký kết hợp đồng vận tải. Hợp đồng mua bán
quyết định nhưng hợp đồng vận tải lại tác động.
Kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các tổ chức
được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu ở nước ta chỉ ra rằng: Hầu hết những tranh
chấp xảy ra trong hoạt động kinh tế đối ngoại đều bắt nguồn từ quá trình thực
hiện các hợp đồng. Trong nhiều trường hợp sự tranh chấp ấy đã dẫn đến hậu
quả là những tổ chức xuất nhập khẩu của ta phải gánh chịu những thiệt thòi về
mặt kinh tế nhiều khi rất lớn. Bài học rút ra từ những vụ việc ấy chính là sự non
kém trong việc kết hợp kỹ thuật nghiệp vụ với kiến thức pháp lý và biểu hiện rõ
nét nhất là trong việc soạn thảo các hợp đồng xuất nhập khẩu.
Trong một hợp đồng mua bán ngọai thương ký kết giữa người bán (người xuất
khẩu) và người mua ( người nhập khẩu) có nhiều điều khoản khác nhau, trong
Page 9
đó có một điều khoản quy định về vận tải hàng hoá. Vận tải có tác dụng to lớn
đối với buôn bán quốc tế và được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây:
- Vận tải quốc tế đảm bảo chuyên chở khối lượng hàng hoá ngày một tăng trong
buôn bán quốc tế
Hiện nay, tổng khối lượng hàng hoá chuyên chở trong buôn bán quốc tế đạt tới
khoảng 7 tỷ tấn /năm, trong đó trên 3/4 được chuyên chở bằng đường biển. Khối
lượng hàng hoá buôn bán giữa hai nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có
yếu tố vận tải. Uyliam nhà nghiên cứu của Anh đã mô tả như sau: "khối lượng
hàng hoá lưu chuyển giữa hai nước tỷ lệ thuận với tích số của tiềm năng kinh tế
hai nước và tỷ lệ nghịch với khoảng cách chuyên chở của hai nước đó". Khoảng
cách chuyên chở càng xa, thì chi phí vận tải càng lớn. Chi phí vận tải chiếm
trong giá cả hàng hoá lớn sẽ hạn chế quan hệ buôn bán giữa các nước. Trái lại,
chi phí vận tải rẻ, tổ chức chuyên chở thuận tiện thì dung lượng hàng hoá trên
thị trường càng lớn.
- Vận tải quốc tế phát triển góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng hoá và cơ cấu thị
trường trong buôn bán quốc tế.
Trước đây, công cụ vận tải thô sơ, giá thành vận tải cao... nên đã hạn chế buôn
bán nhiều loại hàng, nhất là hàng nguyên nhiên liệu. Mặt khác, vận tải quốc tế
lúc bấy giờ cũng hạn chế trao đổi buôn bán với các thị trường xa xôi.
Vận tải quốc tế phát triển và hoàn thiện đã tạo điều kiện cho việc mở rộng chủng
loại các mặt hàng trong buôn bán quốc tế nói chung và thay đổi cơ cấu từng
nhóm mặt hàng nói riêng.
Hệ thống vận tải quốc tế mở rộng, giá thành vận tải trên cự ly dài giảm đã tạo
điều kiện mở rộng thị trường cung cấp và tiêu thụ. Do đó vận tải quốc tế góp
phần làm thay đổi cơ cấu thị trường trong buôn bán quốc tế. Cự ly chuyên chở
hàng hoá trung bình trong vận tải đường biển quốc tế ngày càng tăng lên, ví dụ
Page 10
năm 1985 là 3.967 hải lý, năm 1998 tăng lên 4.230 hải lý (1 hải lý = 1,85 km).
- Vận tải quốc tế có tác dụng bảo vệ tích cực hoặc làm xấu đi cán cân mậu dịch
và cán cân thanh toán.
Vận tải quốc tế có hai chức năng: phục vụ và kinh doanh. Chức năng phục vụ
thể hiện ở chỗ vận tải quốc tế đảm bảo phục vụ nhu cầu chuyên chở hàng hoá
nhập khẩu của mỗi nước. Chức năng kinh doanh thể hiện trong việc xuất khẩu
sản phẩm vận tải, nhất là sản phẩm vận tải đường biển. Xuất nhập khẩu sản
phảm vận tải là một hình thức xuất nhập khẩu vô hình rất quan trọng. Thu chi
ngoại tệ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu sản phẩm vận tải và các liên quan đến
vận tải quốc tế là một bộ phận quan trọng trong cán cân thanh toán quốc tế. Xuất
siêu sản phẩm vận tải quốc tế sẽ có tác dụng tốt đối với cán cân thanh toán quốc
tế. Ngược lại, thiếu hụt trong cán cân xuất nhập khẩu sản phẩm vận tải quốc tế
sẽ làm xấu đi cán cân thanh toán quốc tế.
Tóm lại, Vận tải quốc tế là một yếu tố không thể tách rời với buôn bán quốc tế.
"Ai nói đến buôn bán quốc tế cũng phải nói đến vận tải. Buôn bán quốc tế có
nghĩa là hàng hoá được thay đổi người sở hữu. Còn vận tải làm cho hàng hoá đó
bị thay đổi".
Page 11
CHƯƠNG II: CÁC ĐIỀU KHOẢN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HOÁ VÀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI
I Hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá
1 Các điều kiện chung
Hiện nay ở nước ta, do tính chất công việc nên có rất nhiều Tổng công ty và các
công ty Xuất nhập khẩu chuyên ngành.Ví dụ: Tổng Công ty Bưu chính viễn
thông, Công ty xuất nhập khẩu Cokyvina... Mỗi một Tổng Công ty hoặc Công ty
Xuất nhập khẩu đều có chức năng nhiệm vụ chính là phục vụ cho nhu cầu về
trao đôi hàng hoá ngoại thương trong ngành mình phụ trách. Do tính chất công
việc nên trong các thương vụ buôn bán, mỗi đơn vị đều có những hợp đồng mẫu
cho riêng mình, phù hợp với sự đặc thù của ngành và đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh mang lại hiệu quả cao.
Trong các hợp đồng đó, cho dù là hợp đồng xuất khẩu hay nhập khẩu, cũng cần
phải có điều kiện chung. Điều kiện chung phải được xây dựng như một cái ô cho
phép che chắn đến mức cao nhất những rủi ro pháp lý có thể phát sinh. Điều
kiện chung này sẽ được xây dựng sau khi có sự bàn bạc, thảo luận, phân định
các rủi ro pháp lý, giữa những bên có trách nhiệm trong hoạt động, những cán
bộ kinh doanh và những cán bộ pháp chế trong đơn vị đôi khi cả các luật gia
cũng được mời đến.
Để các điều kiện chung làm chọn chức năng bảo vệ quyền lợi một cách có hiệu
quả, chúng phải chính xác và đặc trưng cho hoạt động của của doanh nghiệp và
phải được các cán bộ kinh doanh nắm vững để có thể vận dụng chúng thành
thạo. Thông thường điều kiện chung được in ở mọi chứng từ thương mại. Ví dụ
ở mặt sau của giấy tờ dùng cho giao dịch thư tín, hoá đơn thương mại, hoá đơn
pro-forma... các điều kiện chung mang tính đặc thù của từng đơn vị kinh doanh
xuất nhập khẩu. Chẳng hạn điều kiện bán hàng của một Công ty kinh doanh
Page 12
lương thực thực phẩm phải khác với điều kiện chung của một Công ty kinh
doanh máy tính và thiết bị tin học.
Khi sử dụng Điều kiện chung ta phải chú ý rằng khi người bán trả lời chấp nhận
đơn đặt hàng của người mua và gửi kèm điều kiện chung bán hàng cho người
mua nếu người mua không có ý kiến gì khác thì các điều kiện chung này tạo
thành hợp đồng. Cũng tương tự như vậy khi người mua gửi kèm điều kiện chung
mua hàng trong thư trả lời chấp nhận đơn chào hàng của người bán. Các điều
kiện chung dù chẳng được ký chấp nhận vẫn được vận dụng không có bảo lưu
kể từ khi các điều kiện đó được các bên tham gia quan hệ hợp đồng biết đến.
Trường hợp cả hai bên, người bán và người mua đều gửi cho nhau điều kiện
chung của mình, trong đó có mâu thuẫn số điều khoản thì điều kiện nào sẽ được
điều chỉnh quan hệ hợp đồng? Khi có sự xung đột về điều kiện chung thì sự lựa
chọn phụ thuộc vào vấn đề thị trường thuộc về ai.
Một số vấn đề nữa đặt ra là không phải điều kiện chung thảo ra là có thể áp dụng
cho mọi thương vụ mua bán của đơn vị. Mỗi thương vụ có những đặc thù riêng
biệt mà ta phải đàm phán để quy định cụ thể . Khi có sự mâu thuẫn giữa những
điều khoản này với những điều kiện chung thì theo tập quán quốc tế "Cái riêng
áp chế cái chung" - do vậy những điều khoản ghi nhận rõ ràng áp chế các điều
khoản chung.
Trong mua bán quốc tế không chỉ các Điều kiện chung do các thương nhân thảo
ra, mà còn có những điều kiện chung do các tổ chức quốc tế soạn thảo. Các điều
kiện chung bán hàng xuất khẩu của các tổ chức này trở thành những công cụ
pháp lý để bảo vệ một cách tốt nhất những lợi ích vè tài chính và thương mại
cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu.
Đại bộ phận các điều kiện chung bán hàng đều có những điểm chung cả về mặt
hình thức cũnh như nội dung. Nét chung đó là về khuôn khổ chung và các quy
định riêng. Về mặt hình thức, phần khuôn khổ chung có tính không đổi, nó bao
Page 13
gồm các điều khoản mà nhà xuất khẩu hoặc có thể sử dụng chúng (với điều kiện
là chúng phù hợp với những nét đặc thù của sản phẩm hoặc tập quán nghề
nghiệp), hoặc thay đổi những quy định chung nhằm làm cho chúng phù hợp với
những điều mong muốn của người mua hoặc những mệnh lệnh bắt buộc của quy
chế địa phương. Nhìn chung, các điều kiện xuất khẩu đều quy định rằng "Chúng
có thể được áp dụng ngoại trừ những thay đổi mà hai bên có thể thoả thuận tiến
hành và được thừa nhận bằng văn bản"
Các quy định riêng được lập nên riêng rẽ. Nó bao gồm toàn bộ những điểm mà
các bên sẽ phải đàm phán có tính đến những nét đặc thù của hợp đồng. Những
điều khoản riêng này phải được lập ra tuỳ theo nhu cầu của từng doanh nghiệp.
Như vậy cho dù có khuôn khổ được định ra bởi các điều kiện chung, vẫn còn
một sự tự do lớn cho các bên tham gia ký kết hợp đồng nhằm làm cho những
quy định của điều kiện chung bán hàng xuất khẩu phù hợp với những hoạt động
của họ.
Xu hướng xây dựng các điều kiện chung bán hàng (mua hàng) ngày càng mở
rộng trên thế giới. Điều kiện chung tạo thuận lợi cho các bên khi đàm phán ký
kết hợp đồng tiết kiệm thời gian, chi phí và hạn chế tối đa rủi ro, tranh chấp do
sự quy định không rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Ngày nay, không
chỉ các công ty thảo ra điều kiện chung cho mình mà còn có các điều kiện chung
của các ngành.
Một hợp đồng cho dù được ký kết thông qua bản điều kiện chung bán hàng hoặc
mua hàng của một trong hai bên, hay bằng cách ký kết một hợp đồng riêng thì
nội dung của hợp đồng hay nói cụ thể là các điều khoản của hợp đồng vẫn luôn
là cái mà các bên ký kết quan tâm nhất. Chúng quy định quyền hạn và nghĩa vụ
của các bên, và chính các điều khoản hợp đồng cũng chứa đựng những lợi ích và
rủi ro có thể xảy ra đối với một trong hai bên. Các rủi ro pháp lý gắn với mỗi
thương vụ có thể giảm nhiều, thậm chí loại trừ hoàn toàn bằng cách xây dựng
Page 14
các điều khoản hợp đồng thích hợp.
Tuy nhiên, hợp đồng là sự thoả thuận ý chí của hai bên, sự ra đời của nó chính là
kết quả của quá trình đàm phán với bạn hàng. Không phải lúc nào ta cũng thảo
được một hợp đồng với các điều khoản hoàn toàn bất lợi Bạn hàng của mình. Và
tất nhiên, chắc chắn ta cũng không bao giờ đặt bút ký vào một hợp đồng mà
trong đó mỗi điều khoản là một cái bẫy cài với đầy rẫy những rủi ro và bất lợi
cho mình và doanh nghiệp của mình. Vấn đề là hợp đồng ký kết phải đảm bảo
sự bình đẳng về quyền lợi giữa các bên. Để làm tốt nhiệm vụ phòng ngừa rủi ro
đòi hỏi người cán bộ kinh doanh phải nắm được các điều khoản thông thường
của một hợp đồng xuất nhập khẩu để xây dựng các điều khoản đó.
Nói đến nội dung một hợp đồng nói chung, hợp đồng mua bán ngoại thương nói
riêng, việc phân biệt đâu là kỹ thuật nghiệp vụ, đâu là góc độ pháp lý là điều
không cần thiết. Để hợp đồng đảm bảo tính hợp pháp người ta nói về mặt pháp
lý, nhưng mục đích của hợp đồng mua bán ngoại thương là người bán thì nhận
được tiền còn người mua nhận được hàng mà mình thực sự muốn mua.
Như vậy, trong một bản hợp đồng mua bán ngoại thương, người ta phải biết kết
hợp hai mặt kỹ thuật nghiệp vụ với pháp lý một cách chặt chẽ. Ví dụ: về điều
khoản phẩm chất hàng hoá, mặt kỹ thật nghiệp vụ tập trung vào cơ sở để xác
định chất lượng như tỷ lệ chất hữu dung, quy cách dài, rộng, cao, công suất...
Nhưng ở khía cạnh pháp lý người ta cần phải tính đến giá trị pháp lý của giấy
chứng nhận phẩm chất do cơ quan giám định cấp cũng như ở đâu thì việc xác
định phẩm chất được coi là giá trị cuối cùng. Vì vậy nếu chỉ quy định khi giao
hàng người bán phải bảo đảm phẩm chất nh quy định trong hợp đồng là chưa đủ.
Mọi tranh chấp trong hoạt dộng kinh tế đối ngoại thường chỉ xảy ra chủ yếu
trong quá trình thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại thương mà thôi.
2 Các điều khoản chính trong hợp đồng mua bán ngoại thương
Page 15
2.1 Điều khoản tên hàng (Đối tượng hợp đồng)
Tên hàng là điều khoản đầu tiên trong một hợp đồng mua bán ngoại thương.
Trong buôn bán quốc tế do tính chất đa dạng của tên gọi đối với hàng hoá nhất
là khi tên hàng lại được dịch ra một ngôn ngữ khác, nếu không xác định tên
hàng một cách thống nhất và chính xác thì người ta không xác định rõ loại hàng
muốn mua bán. Ngay trong cùng một nước tên của một loại hàng ở mỗi vùng
cũng đã khác nhau. Để tránh sự hiểu nhầm có thể dẫn đến những tranh chấp
không cần thiết trong một hợp đồng ngoài tên hàng, có nhiều trường hợp tên
hàng ghi kèm theo cả việc mô tả hàng nhằm đảm bảo chắc chắn, ta nên dùng tên
hàng theo một số nguyên tắc sau:
Tên hàng cần ghi chính xác để tránh sự hiểu lầm hàng này sang hàng
khác. Ví dụ: Nếu chi ghi máy tính Pentium III... thì có thể bị nhầm giữa
máy tính xách tay với máy tính để bàn hay nếu chỉ ghi Cisco Router 3600
series không thôi thì sẽ không qui định được rõ là router 3640 hay 3620
và như vậy nếu có tranh chấp xảy ra thì ta không có cơ sở chính xác để
thắng kiện.
Ghi tên hàng kèm theo với địa danh sản xuất ra chúng. Ví dụ: Máy tính
Compaq Mỹ, Cisco Router 3600 Mexico.
Ghi tên hàng kèm theo tên chủ hãng sản xuất. Ví dụ: Máy tính Sun
Microsystem (Sun), hoặc máy tính IBM, HP, Cisco Router ....
Khi ký hợp đồng tuỳ theo từng tên hàng cụ thể mà chọn cách ghi cụ thể, tuyệt
đối tránh trường hợp ghi chung chung (Ví dụ máy tính Pentium mà không qui
định rõ Pentium mấy, của hãng nào, cấu hình ra sao? nếu có tranh chấp thì ta
không có cơ sở xác đáng để tranh kiện thành công. Cần phải ghi rõ như: Máy
tính IBM NetVista Pentium IV 2GHz-256Mb DDRam-HDD 40Gb-FDD
1,44Mb-CDRom 48X-AGP Card 32Mb-NIC 10/100Mbps-Monitor IBM 17"-
Page 16
Keyboard, Mouse IBM), tên hàng có thể ghi kèm theo năm sản xuất để khẳng
định hàng hoá. (Ví dụ: Thiết bị định tuyến - Router của Cisco được sản xuất từ
năm 2002 trở lại đây mới được đưa vào hệ thống mạng của Tổng Công ty Bưu
chính Viễn thông Việt nam)
Trong hợp đồng chúng ta nên ghi rõ tên hàng bằng tiếng Việt và bằng tiến nước
hữu quan hoặc bằng tiến Anh.
Nếu hợp đồng trao đổi nhiều loại hàng khác nhau hoặc một mặt hàng nhưng có
nhiều loại có đặc điểm chất lượng khác nhau thì có thể lập thành bản liệt kê (còn
gọi là phụ lục) đính kèm theo hợp đồng và là một bộ phận không thể tách rời của
hợp đồng, nhưng trong văn bản chính của hợp đồng cần phải có điều khoản bảo
lưu thích ứng cho vấn đề này. Chẳng hạn: "Bên A xuất bán cho Bên B các mặt
hàng được ghi trong bảng liệt kê đính kèm hợp đồng.
2.2 Điều khoản số lượng
Đây là điều khoản quan trọng nó góp phần vào việc xác định rõ đối tượng mua
bán và liên quan đến trách nhiệm nghĩa vụ của người mua và người bán, do vậy
việc lựa chọn đơn vị đo lường nào phải vừa căn cứ vào tính chất của bản thân
hàng hoá, vừa phải căn cứ vào tập quán buôn bán Quốc tế về đo lường mặt hàng
đó.
Quy định của thế giới về cách tính số lượng trên cơ sở đơn vị đo cũng rất khác
biệt nhau. Trong vệc xác định số lượng ghi trong hợp đồng, cần chọn và áp dụng
những đơn vị mang tính chất phổ biến và dễ hiểu, nhất là những đơn vị đo chiều
dài, diện tích, dung tích... sau đây là một số cách tính khác nhau trong thương
mại: Cho các mặt hàng đa dạng:
Khi tính bao thì một bao bông ở Ai Cập là 330 kg, ở Brazin là 180 kg.
Đơn vị đo chiều dài dùng chung là mét (m), centimet (cm)... nhưng có
Page 17
nước lại dùng inch = 2,45 cm; foot (= 12 inches = 0,304m)...
Ngoài ra một số đơn vị đo lường khác cũng được áp dụng trong thương
mại quốc tế như Dram (= 1,772 gam); Ouce (= 28,350 gam); Pound (=
453,39 gam); Longton (tấn dài = 1.016,47 kg); Shorton (tấn ngắn =
907,184 kg).
Do tính chất phức tạp của hệ thống đo lường được áp dụng trong thương mại
quốc tế nên khi xác định số lượng ghi trong hợp đồng mua bán ngoại thương,
nếu có liên quan đến đơn vị đo lường phức tạp cần lưu ý giải thích rõ.
Trong buôn bán quốc tế, có không ít trường hợp dù hợp đồng cụ thể quy định
tấn, mét ... nhưng khi thực hiện người bán không thể giao hàng chính xác 100%.
Để tránh bị người mua kiện, thông thường người ta ghi thêm phần cộng trừ (+)
phần trăm (ví dụ: 1000 tấn +10%) để tạo cho người bán có được một dung sai
hợp pháp mà khi giao hàng trong phạm vi cộng trừ ấy người bán có thể coi là đã
hoàn thành giao hàng. Đối với người mua thì việc chọn dung sai này có ý nghĩa
thực tế ở chỗ có thể tránh được trường hợp lãng phí phương tiện hoặc tiền hàng
(ví dụ: nếu phương tiện cho phép, người mua có thể yêu cầu giao tối đa (+) hoặc
ở thời điểm giao hàng, do giá hàng tăng cao so với lúc ký hợp đồng thì yêu cầu
giao số lượng tối thiểu (-) để đỡ bị thiệt thòi). Việc người bán, người mua được
chọn (±) là do hai bên thoả thuận ghi vào hợp đồng.
Trong những trường hợp, đối tượng hàng hoá thường biến động giá, nếu cần có
sự thoả thuận cụ thể việc tính giá đối với phần dung sai (+) để đề phòng một
trong hai bên lợi dụng sự biến động giá làm lợi cho mình. Phạm vi dung sai nếu
không được xác định và ghi trong hợp đồng thì thông thường được áp dụng theo
tập quán quốc tế hiện hành đối với hàng hoá. Ví dụ: tập quán quốc tế về buôn
bán ngũ cốc dung sai là ±5%, cà phê là ±3%, cao su là ±2,5%, gỗ là ±10% trọng
lượng hàng giao.
Page 18
Trong điều khoản này đôi khi người ta còn ghi tỷ lệ miễn trừ (-fromchise), tỷ lệ
này có nghĩa là nếu hao hụt dọc đường dưới mức này người bán không phải bồi
thường.
Cũng trong điều khoản này phương pháp xác định trọng lượng được xác định rõ.
Phải thoả thuận trọng lượng ghi trong hợp đồng, trọng lượng cả bì, trọng lượng
tính phải xác định một cách cụ thể. Trong những trường hợp khi ký hợp đồng
nếu thực xác định trọng lượng cả bì thì cần ghi trọng lượng tịnh và quy định
phương thức cung cấp số liệu về trọng lượng cả bì để đảm bảo cho việc thuê
phương tiện vận tải của người mua (ví dụ mua theo điều kiện FOB) sát thực tế.
Cần đặc biệt lưu ý đến địa điểm xác định khối lượng, trọng lượng và giá trị
pháp lý của việc xác định ấy. Thông thương nếu là người mua chúng ta cần thoả
thuận trong điều khoản này việc chọn bến đến là địa điểm cuối cùng để xác định
khối lượng, trọng lượng và chứng thư giám định do cơ quan giám định cấp ở
bến đến có giá trị cuối cùng. Sở dĩ như vậy vì hàng hoá trong buôn bán quốc tế
trước khi đến tay người mua thường phải trải qua một quãng đường dài và thời
gian hàng đi trên đường có khi là cả tháng hoặc hơn nữa. Trong điều kiện ấy có
rất nhiều nguyên nhân có thể gây nên sự hao hụt đối với hàng hoá (như hao hụt
tự nhiên, do thay đổi khí hậu, thời tiết, mất mát). Để tránh việc phải giải quyết
thiếu hụt mà nguyên nhân không do phía mình gây ra phương pháp chọn điểm
giám định khối lượng hàng hoá ở bến đến (cảng nhận hàng) được áp dụng khá
phổ biến trong thương mại quốc tế.
Đối với các thiết bị viễn thông, việc qui định rõ số lượng các thiết bị và phụ kiện
đi kèm là vô cùng quan trọng. Một thiết bị định tuyến (Router), thiết bị chuyển
mạch, phân tách kênh có khi chỉ dùng một (01 chassis) nhưng phụ kiện đi kèm
hay các module cần thiết và những sợi cable tương thích thì có khi dùng đến cả
chục nếu chỉ ghi chung chung một bộ (01 bộ) thì đến khi không lắp được hay lắp
lên không chạy được ta cũng khó mà tranh cãi được. Nên chi tiết thế nào, dùng
Page 19
số lượng ra sao, là điều cần thiết phải qui định rõ trong hợp đồng.
2.3 Điều khoản về quy cách phẩm chất
Đề cập đến điều khoản quy cách phẩm chất trong hợp đồng mua bán ngoại
thương người ta nhấn mạnh hai mặt, mặt chất lượng hàng hoá và phương pháp
kiểm tra cũng như địa điểm cuối cùng mà việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá
thuộc hợp đồng được tiến hành.
Trong trường hợp mua bán hàng theo mẫu, mẫu sẽ là chuẩn mực để người bán
giao hàng và người mua làm cơ sở để đối chiếu và xác định phẩm chất khi nhận
hàng.
Khi mua bán hàng theo mẫu người bán và người mua thường phải chọn ba mẫu
hàng đồng nhất như nhau: sau khi mẫu hàng đã được niêm phong, người bán giữ
một mẫu, người mua cũng phải giữ một mẫu và mẫu thứ ba người ta giao cho
một khác để làm đối chứng (người thứ ba này thông thường do người bán và
người mua chọn). Nếu khi nhận hàng mà người mua qua đối chiếu với mẫu hàng
của mình, thấy hàng không đúng như mẫu, người mua có thể khiếu nại với
người bán. Trong trường hợp ấy mẫu do người thứ ba giữ sẽ được đem ra làm
đối chứng. Người bán sẽ phải bồi thường khi hàng hoá của họ giao không đúng
mẫu đã thoả thuận trong hợp đồng.
Có những trường hợp hàng được mua bán trên cơ sở phẩm cấp (Category) hoặc
tiêu chuẩn (Standard). Đã mua hàng theo tiêu chuẩn phẩm cấp nào thì thì tiêu
chuẩn phẩm cấp ấy sẽ là cơ sở để xác định chất lượng hàng hoá khi giao. Khi
thoả thuận mua hàng theo phẩm cấp, tiêu chuẩn, người mua cần lưu ý tìm hiểu
và nắm chắc tiêu chuẩn, phẩm cấp, hiểu nội dung tiêu chuẩn phẩm cấp ấy một
cách chi tiết cụ thể, tránh tình trạng hiểu chung chung, mơ hồ mà vẫn chấp nhận.
Dựa vào quy cách hàng hoá (Như mua bán máy móc, thiết bị, phương tiện vận
tải...). Để đảm bảo xác định chính xác phẩm chất hàng hoá mình cần mua, người
Page 20
mua cần quan tâm đến vấn đề bảo hành và kiểm tra chất lượng đánh giá sau khi
vận hành. Trường hợp này nhằm khẳng định cho mình quyền được khiếu nại
người bán nếu hàng hoá (máy móc, thiết bị, xe cộ...) do người bán giao không
đạt quy cách như đã thoả thuận trong hợp đồng.
Thông thường, trách nhiệm kiểm tra để đảm bảo hàng đủ quy cách trước khi
giao hàng thuộc người bán. Còn việc có công nhận phẩm chất hàng hoá đúng
hợp đồng hay không lại là chuyện khác. Để đảm bảo nhận hàng đúng quy cách
phẩm chất, người mua cần lưu ý đến địa điểm cuối cùng mà phẩm chất được xác
định cũng như giá trị pháp lý của việc giám định phẩm chất ở vị trí đó. Vì vậy
trong hợp đồng mua bán ngoại thương, thường người mua buộc người bán phải
chấp nhận kết quả xác định phẩm chất mới có hợp đồng? Đối với hàng hoá phải
thông qua vận hành để kết luận thì biên bản giám định phẩm chất sau vận hành
có giá trị pháp lý. Đối với hàng hoá có quy định thời hạn bảo hành thì vấn đề
phẩm chất có phù hợp với hợp đồng hay không được xác định căn cứ vào kết
quả khắc phục khuyết tật hàng hoá. Vì vậy, mặc dù hàng đã di chuyển quyền sở
hữu, điểm di chuyển rủi ro từ người bán sang người mua từ khi qua hẳn lan can
tàu tại cảng xếp hàng chỉ là mang tính tương đối. Người bán không vì vậy mà
hoàn toàn hết trách nhiệm đối với hàng hoá của mình nếu người mua chứng
minh được hàng hoá có vấn đề về phẩm chất. Ngược lại người mua cũng không
vì quyền sở hữu hàng hoá đã di chuyển sang phía mình mà mất quyền đòi người
bán phải bồi thường.
Trong hợp đồng mua bán ngoại thương, nếu cần phải ghi rõ phương pháp xác
định phẩm chất hoặc phương tiện thiết bị để thí nghiệm. Cần tránh trường hợp
người bán xác định phẩm chất bằng phương pháp khác và người mua lại thử
bằng phương pháp khác.
Vấn đề phẩm chất qui cách hàng hoá xuất nhập khẩu bao giờ cũng là khâu yếu
nhất trong hợp đồng, nó có yêu cầu cao hơn về phẩm chất qui cách của hàng hoá
Page 21
giao dịch trong nội địa, đồng thời yêu cầu sự bảo đảm tính ổn định hơn về phẩm
chất qui các hàng hoá xuất nhập khẩu qua từng thời gian và từng chuyến hàng
xuất nhập khẩu. Bởi vậy việc kiểm tra phẩm chất qui cách hàng hoá phải tuân
theo các tiêu chuẩn và nguyên tắc của luật quốc tế hoặc tập quán quốc tế về xuất
nhập khẩu.
2.4 Điều khoản bao bì, đóng gói, ký mã hiệu
Ở khía cạnh pháp lý, bao bì, ký mã hiệu có một ý nghĩa quan trọng trong hợp
đồng. Nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng bao bì là bao bì phải đảm bảo bảo vệ
hàng hoá trong quá trình vận chuyển giao nhận, nhất là hàng hoá phải vận
chuyển bằng đường biển, phải trải qua nhiều vùng khí hậu và những phương tiện
vận chuyển khác nhau. Trong thực tiễn có nhiều trường hợp hàng hoá bị tổn thất
mà nguyên nhân là do bao bì không bảo vệ được hàng hoá. Tập quán buôn bán
Quốc tế hình thành ngay cả trong lĩnh vực bao bì. Thông thường, nếu trong hợp
đồng không có quy định cụ thể thì người bán sẽ sử dụng bao bì theo tập quán (cả
về nguyên liệu, hình dáng, kích thước) để đóng hàng của mình. Vì vậy người
mua cần lưu ý trong việc quy đinh bao bì một cách cụ thể để đảm bảo cho hàng
hoá mình mua giữ được phẩm chất. Trong mọi trường hợp nên tránh dùng các
khái niệm chung chung như bao bì phải phù hợp với vận chuyển, phải chắc
chắn, phải bảo vệ được hàng hoá ... Những quy định như vậy có thể dẫn đến hậu
quả tranh chấp sau này do quan niệm về sự phù hợp hoặc chắc chắn giữa người
mua và người bán thường không đồng nhất.
Mặt khác trong hợp đồng cần xác định bao bì do bên bán hay bên mua cung cấp.
Thông thường và phổ biến nhất trong thương mại quốc tế là người bán cung cấp
bao bì phù hợp với hàng hoá mà khi người mua nhận hàng không cần phải trả lại
cho người bán (trừ những trường hợp hàng hoá phải sử dụng loại bao bì đặc biệt
mà người bán yêu cầu phải trả lại sau khi người mua đã nhận hàng). Đồng thời
với việc xác định bên cung cấp bao bì, người ta phải xác định giá cả bao bì.
Page 22
Thông thường giá hàng bao giờ cũng gồm cả giá bao bì (Packing charges
included). Nhưng dù sao trong hợp đồng cũng nên cho thêm một dòng "Giá cả
trên đây bao gồm cả giá bao bì" cũng không thừa và về mặt pháp lý thì nó sẽ tạo
tính chặt chẽ hơn cho hợp đồng.
Xung quanh vấn đề ký mã hiệu, cần hiểu rằng để phân biệt được hàng hoá của
mình, người bán và người mua không có cách nào khác là sử dụng ký mã hiệu
ghi lên bao bì hàng hoá. Muốn tránh sự lẫn lộn và thất lạc đối với hàng hoá, khi
ký hợp đồng người ta không quên quy định với nhau ký mã hiệu như thế nào,
cách kẻ ký mã hiệu, chiều rộng, chiều cao và các mặt trên kiện hàng phải kẻ ký
mã hiệu (thông thường là hai mặt). Ngoài ký mã hiệu cần chú ý cả những ký
hiệu phụ nhưng hết sức quan trọng buộc phải có trên bao bì như ký hiệu về hàng
dễ cháy, dễ bị ướt, không được để ngược chiều, hàng dễ bị đổ vỡ, không lật
ngược... Loại ký hiệu này đối với những mặt hàng như: xăng, dầu thùng, hàng
tân dược, hàng thuỷ tinh, pha lê...
Việc kẻ mã ký hiệu phải đảm bảo nguyên tắc: sáng sủa dễ đọc, không phai màu,
không thấm nước, sơn (hoặc mực) không làm ảnh hưởng tới phẩm chất hàng
hoá.
2.5 Điều khoản về thời gian và địa điểm giao hàng
Thời gian giao hàng trong hợp đồng mua bán ngoại thương là một thời hạn nhất
định nào đó mà trong khoảng thời gian hàng phải được giao, hay nói cách khác
là thời hạn ngưòi bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua . Thời
hạn giao hàng có thể ngắn , dài tuỳ theo khối lượng hàng hoá hợp đồng . Trong
buôn bán quốc tế có nhiều cách quy định về thời hạn giao hàng ( giao ngay, giao
một lần giao một chuyến, giao thành nhiều chuyến, hoặc thời hạn mà người phải
giao xong ) .Việc quy định thời gian giao hàng vào một ngày cụ thể là không có
khả năng thực hiện trong buôn bán quốc tế, bởi nguời bán hay người mua bị phụ
Page 23
thuộc vào thời gian hàng hoá nằm trong quá trình vận tải trên biển hay các
phương tiện khác.
Người ta cũng có khoảng thời gian giao hàng theo khoảng thời gian theo tháng,
quý, năm .
Trong trường hợp nếu người bán muốn giao hàng trước thời hạn hoặc thay đổi
cách giao hàng thì phải được người mua chấp thuận . Nếu hàng lẻ ra phải giao
toan bộ mà người bán chuyển sang giao từng bộ phận thì ngày giao bộ phận cuối
cùng được coi là ngày giao hàng . Trường hợp nếu người bán giao hàng chậm có
thể bị người mua huỷ hợp đồng hoặc phạt giao chậm ( điều kiện chung giao
hàng SEV 1968- 1988 quy định phạt từ 0,05 % - 0,12 % trị giá hàng giao chậm
trên mỗi ngày giao chậm).
Tuy nhiên cũng cần lưu ý những trường hợp mà hợp đồng mua bán quy định
việc giao hàng của người bán chỉ có thể tiến hành trên cơ sở người mua đã thực
hiện xong một nghĩa vụ nào đó. Ví dụ hợp đồng quy định rằng người bán chỉ
giao hàng sau khi người mua đã mở L/C. Hoặc người mua phải cung cấp những
thông số để đảm bảo cho người bán sản xuất, hoặc thời hạn bắt buộc người mua
phải đưa đến địa điểm giao hàng. Trong những trườnghợp trên nếu người mua
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghiã vụ của mình thì người bán
chẳng những có quyền được giao hàng chậm mà có khi còn buộc người mua bồi
thường những thiệt hại xảy ra mà trực tiếp do người mua vi phạm nghĩa vụ gây
nên.
Về địa điểm giao hàng, cần chú ý rằng địa điểm giao hàng có liên quan rất chặt
chẽ đối với phương thức chuyên chở và đặc biệt liên quan đến điều kiện cơ sở
giao hàng. Địa điểm giao hàng gắn với biên giới chuyển quyền sở hữu và di
chuyển mọi rủi ro tổn thất từ người bán sang người mua. Cho nên khi ký hợp
đồng việc chọn điều kiện cơ sở giao hàng phải gắn liền với một địa điểm cụ thể.
Ví dụ FOB Hải Phòng, CIF cảng Sài Gòn, CIF Vladivostokz, FOB Singapore...
Page 24
Những địa danh đi kèm điều kiện cơ sở giao hàng là những địa điểm giao hàng
cụ thể.
Điều kiện cơ sở do hoạt động buôn bán quốc tế sáng tạo ra. Chúng làm cho hoạt
động xuất nhập khẩu đơn giản hơn và phần nào được tiêu chuẩn hoá.
Theo điều kiện FOB (Free on board): giao hàng trên tàu tại cảng qui định. Theo
điều kiện này, người bán phải đưa hàng xuống tàu tại cảng bốc hàng qui định
trong hợp đồng. Rủi ro mất mát và hư hại đối với hàng hoá chuyển từ người bán
sang người mua khi hàng ra khỏi lan can tàu, trách nhiệm của các bên như sau:
Trách nhiệm của người bán phải: Chịu mọi chi phí và rủi ro giao hàng lên
tàu mà người mua thuê tại cảng bốc hàng qui định trong thời hạn qui định
và trao cho người mua vận đơn đường biển. Việc xếp hàng vào khoang,
xếp gọn ghẽ hoặc rơi vãi không thuộc trách nhiệm của người bán và theo
tiêu chuẩn thuê tàu đã thông qua sẽ do người chủ tàu thực hiện và được
tính vào trị giá cước phí do người mua trả. Nếu như người bán nhận về
mính việc thuê sà lan thì việc này được thể hiện trong điều kiện FOB bằng
cách thêm vào đó chữ "C" thành FOBC.
Trách nhiệm của người mua phải: thuê tàu tính vào chi phí của mình và
thông báo kịp thời cho người bán về thời gian và địa điểm bốc hàng, tên
tàu, thời gian tàu đến, điều kiện bốc hàng. Rủi ro về tổn thất và mất mát
hàng chuyển từ người bán sang người mua vào thười điểm chuyển hàng
thực tế qua lan can tàu tại cảng bốc hàng hai bên đã thoả thuận.
Theo điều kiện CIF (Cost Insurance and Freight) tức là "Tiền hàng + Phí bảo
hiểm + Cước phí" đến cảng qui định. Theo điều kiện này thì trách nhiệm của các
bên như sau:
Trách nhiệm của người bán phải: Giao hàng đúng như hợp đồng qui định;
ký kết cà chịu phí tổn ký kết hợp đồng vận
Page 25
tải hàng hoá đến cảng qui định; xin giấy phép xuất khẩu; bốc hàng và chịu
phí tổn bốc hàng xuống tàu và thông báo cho người mua biết hàng đã
được bốc xuống tàu; phải cung cấp và chịu phí tổn cung cấp một hợp
đồng bảo hiểm rui ro về việc vận tải hàng trong hợp đồng, chịu rủi ro về
hàng hóa cho đến khi hàng qua khỏi lan can tàu tại cảng bốc hàng.
Trách nhiệm của người mua phải: Nhận chứng từ khi người bán xuất
trình, nếu chứng từ đó phù hợp với hợp đồng bán hàng và trả tiền như hợp
đồng qui định; chịu mọi chi phí và phí tổn hàng hoá kể từ lúc hàng đã qua
hẳn lan can tàu tại cảng bốc hàng và nhận hàng tại cảng qui định.
Trong tập quán buôn bán quốc tế khi xuất khẩu thường ký giá FOB và khi nhập
khẩu thường ký giá CIF. Điều này cũng được áp dụng đôi với các thiét bị viễn
thông tin học. Ngoài hai loại phổ biến trong mua bán ngoại thương còn áp dụng
các điều kiện cơ sở giao hàng như: Giao tại xưởng: EXW (Exworks), giao dọc
mạn tàu: FAS (Free alongside ship), cước phí và bảo hiểm tới đích: CIP
(insurance paid to…), giao tại biên giới: DAF (Delivery at frontier )…
2.6 Điều khoản giá cả
Điều khoản giá cả là trung tâm của hợp đồng mua bán ngoại thương. Người bán
và người mua có thể chấp nhận có châm chước những điều kiện khác của hợp
đồng, chứ khó mà chấp nhận những châm chước về giá cả. Trong hợp đồng xuất
nhập khẩu, người bán và người mua nhiều trường hợp không đi đến việc ký kết
hợp đồng chủ yếu là không thống nhất được giá bán và giá mua. Vì vậy khi xác
định giá trong hợp đông mua bán ngoại thương cần nêu rõ: đơn vị tính giá, giá
cơ sở, đồng tiền tính giá, phương pháp định giá và mức giá.
2.6.1. Xác định đơn vị tính giá
Căn cứ vào tính chất hàng hoá và tập quán buôn bán mặt hàng này trên thị
trường thế giới để xác định đơn vị tính như:
Page 26
Dựa vào đơn vị đo lường phổ biến cho mặt hàng đó như: kg, tấn, bộ,
chiếc..ví dụ như: một bộ máy tính nguyên chiếc sẽ bao gồm cả CPU và
màn hình (monitor), hay một bộ thiêt bị định tuyến Cisco 2509 sẽ bao
gồm đầy đủ phần mềm (software ) cũng như dây cab (cable) đi kèm.
Đối với quặng mỏ, hoá chất có thể căn cứ vào một đơn vị trọng lượng
kèm hàm lượng thành phần chính trong hàng hoá: chẳng hạn như giá 1MT
quặng nhôm hàm lượng 42% là 130 USD.
2.6.2. Giá cơ sở
Điều kiện cơ sở giaohàng có ảnh hưởng lớn đến giá hàng trong hợp đồng. Giá
cơ sở căn cứ vào chí phí chuyên chở, phí bảo hiểm, phí lưu kho …Giá cơ sở
thường qui định phù hợp với những thwtsj ngữ "FOB", "CIF, "FAS"…đồng thời
ghi kèm theo địa danh điểm giao hàng khi ký hợp đồng.
2.6.3. Đồng tiền tính giá
Trong hợp đồng mua bán ngoại thương, giá có thể được tính bằng đồng tiền của
nước xuất khẩu hoặc nước nhập khẩu hoặc của nước thứ ba mà không bị ràng
buộc gì. Tập quán buôn bán quốc tế có ảnh hưởng đến việc chọn đồng tiền để
thoả thuận giá từng loại mặt hàng. Ví dụ trong mua bán cao su, kim loại màu
người ta tính bằng giá đồng Bảng Anh, còn trong mua bán thiết bị viễn thông ở
nước ta thường dùng đồng tiền đô la Mỹ (USD)
2.6.4. Phương pháp định giá
Hai bên thoả thuận việc định giá vào thời điểm ký kết hợp đồng hoặc trong thời
gian hợp đồng đang có hiệu lực hoặc thời điểm thực hiện thanh toán. Tuỳ theo
Page 27
phương pháp tính giá mà áp dụng các loại giá sau cho thích hợp: Giá cố định,
giá linh hoạt, giá trượt.
Trong hợp đồng mua bán các thiết bị viễn thông tin học thường thì áp dụng giá
cố định. (Giá này được qui định khi ký kết hợp đồng và không thay đổi trong
suốt quá trình thực hiện hợp đồng)
2.6.5. Xác định mức giá
Khi định mức giá các bên thường dựa vào hai loại giá: giá công bố và giá tính
toán. Đối với hợp đồng mua bán thiết bị viên thông thì thường chỉ áp dụng giá
công bố.
Giá công bố là giá được đăng trong những ấn phảm của các hãng, giá này thông
thường được coi như giá quốc tế, đó là giá của những hựop đồng xuất nhập khẩu
lớn và được thanh toán bằng những đồng tiền tự do chuyển đổi.
Giá công bố bao gồm các loại: Giá hướng dẫn, giá yết bảng tại các sở giao dịch,
giá đấu thầu, giá xuất nhập khẩu trung bình. Và thường chúng ta dùng giá đấu
thầu (là loại giá sát với giá giao dịch vì theo thường lệ nó phản ánh những hợp
đồng thực)
2.6.6. Sự giảm giá
Giảm giá là cách vận dụng khá phổ biến trong buôn bán quốc tế hiện nay. Sở dĩ
như vậy vì có nhiều nguyên nhân dẫn đến phải giảm giá. Giảm giá có thể xảy ra
trong trường hợp do người mua đã trả tiền hàng gọn và sớm cho người bán.
Trong trường hợp đó người bán có điều kiện quay nhanh nguồn vốn của mình.
Thông thường một tỷ lệ như vậy được áp dụng đối với việc trả ngay là 3%, trả
trong nửa tháng là 2%, trả trong một tháng là 1% (tính từ ngày giao hàng).
Trong trường hợp do bán hàng trái vụ người bán có thể giảm giá để khuyến
khích người mua hoặc có trường hợp do người mua mua với số lượng lớn ,
Page 28
người bán cũng ưu tiên giảm giá cho người mua hoặc có khi tuy khối lượng
không lớn nhưng để chiếm lĩnh thị trường, duy trì quan hệ lâu dài và mở rộng
khả năng kích thích tiêu thụ người ta vẫn có thể thực hiện giảm giá cho người
mua.
Giảm giá về số lượng là sự giảm giá cho người mua với số lượng lớn hoặc đặt
hàng sản xuất thường xuyên nhăm thu hút sự quan tâm của người mua và nhằm
duy trì những mối quan hệ mà giúp nhà sản xuất giữ được bạn hàng thường
xuyên.
Ngoài những trường hợp trên người mua còn được hưởng quyền giảm giá trong
một số trường hợp khác mặc dù có thể hợp đồng không quy định. Đó là trường
hợp do người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng mà người mua không
trả lại hàng, hoặc người bán giao hàng chậm (nhất là hàng có tính thời vụ).
Trong những trường hợp như vậy thường người mua đòi giảm giá và không ít
trường hợp người bán buộc phải chấp nhận yêu cầu chính đáng của người mua.
Sự giảm giá chung thông thường được áp dụng chung với giá thị trường hoặc
giá tham khảo, áp dụng rộng rãi khi ký kết hợp đồng mua bán về máy móc, thiết
bị nói chung và thiết bị viên thông nói riêng thường từ 20-40%.
Giảm giá như thế nào, giảm trong trường hợp nào là do người mua và người bán
thoả thuận. Vì vậy các bên ký kết cần lưu ý xác định, lựa chọn hình thức giảm
giá phù hợp với từng loại hàng hoá để có thể mang lại lợi ích cho cả hai bên và
quy định rõ trong hợp đồng.
2.7 Điều khoản thanh toán
Khi qui định nội dung điều khoản thanh toán trong hợp đồng các bên phải nêu
rõ: dùng loại tiền nào để thanh toán; thời hạn thanh toán; phương thức thanh
toán và hình thức thanh toán.
Page 29
Thông thường trong hợp đồng mua bán thiết bị viễn thông tin học, chúng ta qui
định đồng tiền thanh toán là đồng đô la Mỹ (USD), thời hạn thanh toán sẽ được
ấn định và qui định rõ trong hợp đồng. Phương thức thanh toán thường là bằng
tiền mặt; có khi thanh toán tiền ngay từng phần hoặc thanh toán ứng trước
(advance payment) và cũng có thể thanh toán thông qua tín dụng.
Đôi với phương thức thanh toán, trong buôn bán quốc tế người ta dùng nhiều
phương thức thanh toán khác nhau, nhưng khi chọn một phương thức thanh toán
nào đó để áp dụng trong hợp đồng người mua hoặc người bán đều xuất phát từ
việc bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu ở vị trí của người bán, người ta sẽ chọn
phương thức thanh toán nhằm không những đảm bảo chắc chắn thu dược tiền
hàng mà còn thu được nhanh nhất. Còn ở vị trí người mua, họ sẽ chọn phương
thức nào để đảm bảo chỉ thanh toán khi mình đã thực sự nhận được hàng hoá.
Sau đây là một số phương thức thanh toán chủ yếu:
Phương thức nhờ thu (Collection) được thực hiện thông qua ngân hàng
bằng viêc người bán sau khi giao xong hàng phải lập hối phiếu và ký phát
hối phiếu đó gửi cho người mua. Trên cơ sở hối phiếu đó ngân hàng sẽ
thu tiền hộ người bán. Tuy nhiên sử dụng phương thức này người bán
không thể bảo đảm chắc chắn có thu được tiền hàng hay không. Mặt khác
việc trả tiền phụ thuộc vào người mua cho nên có thể bị thanh toán chậm
vì ngân hàng chỉ có chức năng là người trung gian thu hộ mà thôi. Vì vậy
đối với khách hàng chưa thực sự có tín nhiệm và chưa thực sự tin cậy
nhau người ta tránh sử dụng phương thức này ( khi ở địa vị người bán).
Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary Credit) được sử dụng
thông dụng nhất trong quan hệ thanh toán quốc tế. tính ưu việt của
phương thức này thể hiện ở chỗ, khả năng bảo dảm thanh toán chắc chắn
hơn và ngân hàng không còn đóng vai trò trung gian đơn thuần như trong
phương thức nhờ thu mà họ thưc sự là người đứng ra đảm bảo việc thanh
Page 30
toán. Thông qua một thư tín dụng (Letter of Credit viết tắt là L/C) ngân
hàng mở theo yêu cầu của người mua cho người bán, ngân hàng đứng ra
cam kết trả tiền cho người bán khi người bán thực hiện đúng những quy
định do người mua đưa ra trong L/C. Như vậy ngân hàng chỉ mở L/C cho
người mua khi ngân hàng xác định được rằng người mua có đầy đủ khả
năng thanh toán.
Khi sử dụng phương thức thanh toán này ta cần lưu ý rằng L/C hình thành trên
cơ sở của hợp đồng mua bán giữa hai bên , nhưng do ngân hàng không tham gia
ký kết hợp đồng mà chỉ căn cứ vào yêu cầu mở L/C của người mua để cam kết
trả tiền hộ người mua cho người bán nên L/C mang tính độc lập với hợp đồng
ngay cả trong trường hợp người mua vì muốn huỷ hợp đồng, đưa thêm vào L/C
những điều kiện để người bán do không có khả năng đáp ứng và buộc phải huỷ
hợp đồng thì ngân hàng cũng không nắm được. Có những loại thư tín dụng như:
Thư tín dụng không huỷ ngang (Irrevocable letter of credit), thư tín dụng chuyển
nhượng (Transferable letter of credit), thư tín dụng tuần hoàn (Back to back
letter of credit)... và một loại thư tín dụng khác. Trong những loại thư tín dụng
đã đề cập trên đây, mỗi loại đều có chức năng và nội dung riêng. Vì lẽ đó khi
chọn sử dụng một loại nào thì một mặt người chọn phải nắm vững nội dung,
chức năng và vai trò của chúng, mặt khác cần căn cứ vào việc mua bán cụ thề để
chọn loại thư tín dụng nào buộc người có nghĩa vụ mở phải áp dụng và ghi cụ
thể vào hợp đồng loại tín dụng thư, thời hạn chậm nhất phải mở thư tín dụng.
Thường thường để tránh những rủi ro và đảm bảo được thanh toán, trong các
hợp đồng xuất nhập khẩu ta quy định phương thức thanh toán là mở L/C không
huỷ ngang. Đây cũng là phương thức được dùng nhiều nhát trong hợp đồng mua
bán thiết bị viễn thông tin học của ta vì những hợp đồng này trị giá thường rất
cao
Đối với các hợp đồng xuất khẩu, nếu chúng ta là người bán thì cần lưu tâm đặc
Page 31
biệt đến vấn đề này. Chúng ta buộc người mua phải mở L/C vào một thời điểm
thích hợp. Ví dụ: chậm nhất là 20 ngày trước ngày bắt đầu giao hàng, người mua
phải mở cho người bán hưởng lợi L/C không huỷ ngang qua ngân hàng. Nếu đã
quy định như vậy trong hợp đồng thì người mua không mở L/C hoặc mở chậm
hơn thời hạn quy định trong hợp đồng, người bán có quyền lùi thời hạn giao
hàng hoặc không giao hàng mà vẫn không chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra.
Trong điều khoản thanh toán cũng nêu rõ Ngân hàng mà người bán yêu cầu
người mua mở L/C để việc thanh toán được thực hiện trót lọt, người bán phải
chọn ngân hàng có quan hệ tốt với ngân hàng của nước mình.
Để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng, trong một vài trường hợp nếu là người bán
nên quy định: người mua phải chịu phạt bội ước vì không mở L/C mà không có
lý do chính đáng để đề phòng người mua thông qua hành vi đó để huỷ hợp đồng.
Đối với hợp đồng nhập khẩu, nếu chúng ta là người mua cũng phải đưa ra những
điều kiện như người bán không giao hàng khi thư tín dụng đã được mở theo
đúng hợp đồng thì phải bồi thường chi phí mở L/C và lãi suất ngân hàng.
Thanh toán bằng điện chuyển tiền TTR (Telegraphic transfer): TTR chỉ nên
dùng với những bạn hàng quen thuộc có tín nhiệm.
Còn ngược lại, đối với các hợp đồng nhập khẩu, mức % phải TTR ngay sau khi
ký hợp đồng càng ít càng có lợi. Phần còn lại sẽ TTR sau khi nhận được B/L gốc
hoặc bằng Fax. Dùng phương thức thanh toán bằng TTR có lợi hơn trong các
hợp đồng nhập khẩu vì ta dễ chiếm dụng vốn của người bán, thậm chí hàng
nhận xong đã lâu mà chưa thanh toán.
Nếu thanh toán bằng TTR trong các hợp đồng nhập khẩu phải quy định chi tiết
các loại chứng từ và số lượng của chúng mà người bán cần phải chuyển cho
người mua và phải chuyển bằng DHL để đảm bảo an toàn. Trong các hợp đồng
nhập khẩu nên tránh điều khoản phải TTR 100% giá trị hợp đồng ngay sau khi
Page 32
ký hợp đồng, vì làm như vậy người bán dễ chiếm dụng vốn của chúng ta. Còn
đối với hợp đồng xuất khẩu nên có điều khoản phạt về thanh toán chậm để buộc
người mua thanh toán tiền ngay, không bị đọng vốn.
Trong các loại hợp đồng mua bán ngoại thương cụ thể, các bên nghiên cứu ích
lợi của từng loại hình thức thanh toán mà thoả thuận chọn một hình thức thích
hợp có lợi ích cho cả hai bên và ghi cụ thể vào bản hợp đồng để căn cứ vào đó
thực hiện một cách nghiêm túc.
2.8 Điều khoản về bảo hành
Trong các hợp đồng mua bán về máy móc thiết bị nói chung và về các thiết bị
viễn thông tin học nói riêng điều khoản về bảo hành thường phải được qui định
rõ trong hợp đồng. Điều khoản này phải xác định rõ khối lượng hàng người bán
phải bảo hành, thời hạn bảo hành (thường là một năm, nhưng cũng có khi là ba
năm), nghĩa vụ của người bán trong từng trường hợp phát hiện có khuyết tật
hoặc không phù hợp với hợp đồng. Khối lượng bảo hành phụ thuộc vào tính chất
của hàng hoá và các điều kiện kỹ thuật của hợp đồng. Nếu trong thời hạn bảo
hành mà thiết bị máy móc bị hỏng hóc hoặc không thích hợp với điều khoản của
hợp đồng, thì người bán có nghĩa vụ tiến hành chịu mọi phí tổn và theo sự lựa
chọn của người mua khắc phục thiếu sót hoặc thay thế thiết bị hỏng hóc bằng
thiết bị mới chất lượng tốt và giao không chậm trễ tại địa điểm đã thoả thuận
trong hợp đồng trước khi bồi thường sửa chữa, tất nhiên bến bán được quyền
xác minh lý do thiết bị, hàng hóc bị hỏng, người mua hoặc người sử dụng có lỗi
không. Nếu có thì trách nhiệm sẽ xử lý khác, và được sự đồng ý cả hai bên.
Trong trường hợp người mua tự khắc phục sự hư hỏng của thiết bị máy móc
bằng tài lực của mình thì người bán có nghĩa vụ bồi hoàn những chi phí cho
người mua. Nếu như khuyết tật hai bên không thể khắc phục được thì người mua
có quyền từ chối hợp đồng hoặc yêu cầu người bán giảm giá thiết bị hoặc đổi
thiết bị mới. Trong trường hợp này người bán có
Page 33
trách nhiệm hoàn trả mọi khoản tiền mà người mua đã thanh toán theo hợp đồng
(nếu từ chối hợp đồng) kể cả lãi suất năm đã xác định và bồi thường mọi thiệt
hại đã gây ra cho người mua. Nói chung thì hai bên đều cố gắng giải quyết bằng
đám phán và thương thảo đến một quyết định ở giữa để tránh thiệt hại đối với cả
hai bên.
2.9 Điều khoản bất khả kháng
Trong giao dịch trên thị trường thế giới, người ta thường quy định những trường
hợp mà nếu xảy ra bên đương sự sẽ hoàn toàn hoặc trong một chừng mực nào đó
miễn hay hoãn thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng. Hợp đồng sẽ không được
thực hiện mà không ai bị coi là phải chịu trách nhiệm. Những trường hợp đó là
các sự kiện bất khả kháng và chúng có đặc điểm là: Không thể lường trước,
không thể khắc phục được, có tính khách quan và nó xảy ra trước khi thực hiện
hợp đồng.
Khi gặp các trường hợp bất khả kháng thì thời hạn thực hiện hợp đồng được kéo
dài tương ứng với thời gian xảy ra bất khả kháng công với thời gian khắc phục
các hậu quả của nó. Tuy nhiên để tránh thiệt hại xảy ra do trường hợp bất khả
kháng kéo dài, người bán cần quy định một thời hạn nào đó để nếu bất khả
kháng kéo dài quá thời hạn này, người bán có thể tiến hành huỷ hợp đồng để
tránh những thiệt hại do hàng để quá lâu, nhất là các mặt hàng lương thực, hàng
tươi sống, hàng dược phẩm... Chẳng hạn có thể quy đinh đối với mặt hàng tươi
sống:"Nếu một sự kiện tạo nên bất khả kháng kéo dài quá 15 ngày hợp đồng này
được huỷ bỏ bằng cách gửi bảo đảm bằng thông báo". Ngoài ra trong điều khoản
này cần phải quy định "Khi xảy ra bất khả kháng theo tinh thấn của hợp đồng
này, bên chịu tác động của bất khả kháng phải có trách nhiệm báo ngay cho bên
kia vào lúc bắt đầu và chấm dứt của sự kiện", để làm căn cứ xác định thời gian
bất khả kháng xảy ra, từ đó các bên có cách đối phó thích hợp.
Page 34
Khi xây dựng các hợp đồng ngoại thương, các Công ty Xuất nhập khẩu phải đưa
ra điều khoản này vào. Danh mục bất khả kháng càng dài thì người bán càng nhẹ
bớt trách nhiệm trong trường hợp không thực hiện được hợp đồng.
2.10 Điều khoản huỷ hợp đồng
Để người bán chủ động trong một số trường hợp như bất khả kháng kéo dài,
người mua không đưa tàu đến nhận hàng (Bán FOB) hai bên không đi đến thoả
thuận chung khi đàm phán lại giá... điều khoản này cần được đưa vào hợp đồng.
Người bán phải thảo rõ ràng các trường hợp cho phép huỷ hợp đồng vì hiệu quả
của điều khoản này phụ thuộc rất nhiều vào việc nó có được quy đinh rõ ràng
trong hợp đồng hay không?
Điều khoản này cũng là một phương tiện tuyệt vời để bắt đối phương tôn trọng
thoả thuận trong hợp đồng. Ví dụ trong điều khoản về thời hạn giao hàng có quy
định là giao hàng sau ngày kể từ ngày mở L/C. Như vậy việc giao hàng thực
hiện hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc ý chí người mua.
Có hai cách ghi nhận việc huỷ hợp đồng: hoặc người bán thông báo cho đối
phương biết bằng thư bảo đảm, hoặc huỷ bỏ không báo trước bằng điều khoản: "
Trường hợp quy định ở điều ... không được tôn trọng, hợp đồng này được huỷ
bỏ..."
Tuy nhiên đây cũng là điều kiêng kỵ đối với cả hai bên và nên tránh nhất.
2.11 Điều khoản về trọng tài
Về mặt lý thuyết, điều khoản trọng tài không phải là điều khoản chủ yếu của hợp
đồng mua bán ngoại thương. Điều đó có nghĩa là hợp đồng có thể không có thoả
thuận về trọng tài cũng vẫn có hiệu lực. Song trên thực tế không hiếm trường
hợp do không thoả thuận trước về trọng tài không chặt chẽ mà vụ tranh chấp đi
vào chỗ bế tắc.
Page 35
Những trường hợp thường gặp là: Hợp đồng không có điều khoản về trọng tài,
luật pháp các nước trên thế giới đều công nhận tính độc lập của thoả thuận về
trọng tài. Các bên đương sự có thể thoả thuận về trọng tài ở bất cứ thời điểm
nào: trong khi ký hợp đồng, sau khi hợp đồng đã được ký kết hoặc khi xảy ra
tranh chấp mà các bên đương sự không thể giải quyết bằng con đường thương
lượng.
Có một số hợp đồng mua bán ngoại thương quy định giải quyết tranh chấp tại
nơi không đúng thẩm quyền. Ví dụ: thoả thuận giải quyết tranh chấp tại toà án
dân sự hoặc trọng tài kinh tế - Trong khi đó phạm vi xét xử của trọng tài kinh tế
nhà nước là các tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện các hợp đồng trong nước -
trong khi có trọng tài thương mại hoặc trọng tài ngoại thương là những trọng tài
với chức năng và quyền hạn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện
các hợp đồng ngoại thương.
Tâm lý thông thường ai cũng muốn hợp đồng được ký kết và thực hiện thuận
lợi. Tuy nhiên thực tế thường luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro bất trắc. Vì
vậy một điều khoản trọng tài xuất hiện trong hợp đồng là hợp lý và chăt chẽ sẽ
giúp chúng ta giải quyết dứt điểm nhanh chóng những tranh chấp phát sinh, tiết
kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc.
Trong điều khoản về trọng tài ở các hợp đồng xuất khẩu, người mua và người
bán có thể thoả thuận chỉ định trọng tài của bất cứ quốc gia nào. Nhưng tốt hơn
cả là các đơn vị ngoại thương của ta quy định các tranh chấp sẽ đưa ra giải quyết
tại hội đồng trọng tài ngoại thương bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp
Việt Nam ( nay là Trung tâm trọng tài quốc tế của Việt Nam).
II Hợp đồng vận tải.
1 Những nguyên tắc cần quán triệt khi lập hợp đồng vận tải hàng hoá
Trong phần hợp đồng mua bán, tôi đã đề cập đến quan hệ giữa Hợp đồng mua
Page 36
bán ngoại thương và Hợp đồng chuyên chở. Chuyên chở hàng hoá giữ vai trò
quan trọng và là khâu chủ yếu để thực hiện việc di chuyển quyền sở hữu hàng
hoá từ người bán sang người mua. Chính vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu
những nguyên tắc và quán triệt nguyên tắc này khi lập một hợp đồng vận tải
Theo thông lệ, có quan hệ kinh tế với nhau thì phải ký hợp đồng để định rõ
trách nhiệm và cơ sở xử lý khi xáy ra tranh chấp. Vì vậy, hợp đồng phải ghi rõ
căn cứ vào Pháp lệnh HĐKT ngày 28.8.89 của Hội đồng Nhà nước và Nghị định
17 ngày 16.1.1990 của HĐBT và các quy chế vận tải phù hợp (đường bộ, đường
sông, đường biển, đường không, bộ luật hàng hải) cũng như vào các chỉ tiêu kế
hoạch... Hợp đồng phải được thoả thuận trên tinh thần bình đẳng, hợp tác và
phải được thủ trưởng hai bên đại diện ký chịu trách nhiệm.
1.1 Nguyên tắc thuê chở, nhận chở
Khi ký hợp đồng, tức hai bên đã có sẵn yêu cầu và khả năng đáp ứng. Để tạo
thuận lợi cho nhau, hai bên được phép thoả thuận thuê chuyến (5T, 7T, 10T,
100T…), thuê chở hàng lẻ, thuê chở khoán từng khối lượng hàng nhất định…
Thuê theo hình thức nào phải ghi rõ vào hợp đồng, ghi cụ thể, loại hàng gửi vận
chuyển, tính chất hàng hoá (kỵ ướt, dễ vỡ…), đơn vị tính (tấn, bao…). Đối với
đơn vị tính nếu chưa xác định được, hai bên phải quy đổi theo quy định của Nhà
nước và được thoả thuận nếu Nhà nước chưa có qui định. Trong hợp đồng vận
chuyển, hai bên thường không quan tâm ghi cụ thể vào hợp đồng nên dẫn đến
khó khăn khi tính cước, phí nhiên liệu,…
Cần lưu ý: Bên vận tải có quyền không nhận chở những loại hàng sau:
Hàng cấm lưu thông, hàng hoá phải có giấy phép lưu thông mà bên chủ
hàng không có hoặc giấy tờ không hợp lệ.
Hàng hoá đã có lệnh của Nhà nước cấm chuyên chở ngược chiều.
Page 37
Hàng hoá mà bao bì không đúng qui cách, không đảm bảo an toàn khi vận
chuyển.
Hàng hoá nguy hiểm, cần có thiết bị đặc biệt an toàn và để bảo đảm được
phẩm chất mà bên vận tải không có thiết bị âý, trừ trường hợp bên chủ
hàng có khả năng cung cấp thiết bị.
Đối với hàng quá khổ, quá nặng, vượt kích thước hoặc quá mức trọng tải
của phương tiện hoặc quá mức chịu đựng của đường, cầu, phà, bên chủ
hàng cần bàn bạc trước từ 10 ngày đến 1 tháng với cơ quan giao thông
vận tải hoặc hoặc bên vận tải nơi chở hàng đi.
Trường hợp vận chuyển đột xuất có tính khẩn cấp theo lệnh Thủ tướng,
Bộ trưởng Giao thông vận tải hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thì phải hoãn
thực hiện hợp đồng vận tải đã ký với các chủ hàng khác và có trách nhiệm
báo cho chủ hàng đó biết, đồng thời báo cáo cho cơ quan chủ quản của
mình rõ. Những hàng hoá được tạm hoãn này phải được tiếp tục vận
chuyển sau khi thi hành xong lệnh đột xuất.
Nếu vận chuyển đột xuất khác nghĩa là không phải thi hành các lệnh như trên
bên vận tải chỉ nhận chở nếu có khả năng. Trường hợp này, bên chủ hàng phải
trả thêm cho bên vận tải một khoản tiền do hai bên thoả thuận và ngoài ra, chủ
hàng còn phải đài thọ phí tổn cho bên vận tải, vì vận chuyển đột xuất làm lỡ
hợp đồng đã ký với chủ hàng khác.
Về thứ tự ưu tiên vận chuyển: Bên vận tải sẽ vận chuyển trước đối với hàng hoá
đã có kế hoạch vận chuyển dự trù trước và đã ký hợp đồng vận tải. Hàng gửi
trước hoặc xe xin trước thì chở trước và ngược lại. Nếu nhiều chủ hàng gửi hàng
hoặc xin xe cùng một lúc mà khả năng phương tiện không đáp ứng thì ưu tiên
vận tải phải được thi hành theo thứ tự như sau:
Page 38
Hàng tươi sống, hàng dễ biến chất (đối với vận tải bằng ô tô).
Hàng nguy hiểm.
Hàng thường.
Hoặc đối với đường biển thì:
Hàng thuộc loại vật tư chủ yếu của Nhà nước: lương thực, phân bón, than,
vật liệu xây dựng, xăng dầu…
Hàng phục vụ các chỉ tiêu xuất khẩu.
Hàng dễ biến chất, nguy hiểm.
Hàng thường.
Sau khi đã ký xong hợp đồng, muốn yêu cầu vận chuyển, bên chủ hàng phải làm
giấy xác báo (giấy phải được thủ trưởng hoặc đại diện xí nghiệp vận tải ký và
đóng dấu) trước 48 giờ. Đã xác báo nếu có thay đổi, phải xác báo lại trước 36
giờ. Bên vận tải phải xác báo cho chủ hàng biết số lượng và trọng tải xe có thể
cung cấp 24 giờ trước khi chủ hàng giao hàng. Trường hợp chủ hàng làm giấy
xác báo xin xe chậm, nếu bên vận tải không chuẩn bị kịp thì chậm nhất sau 24
giờ phải giao hàng cho bên vận tải. Nếu chủ hàng không xác báo xin xe thì vận
tải không chịu trách nhiệm.
Chủ hàng phải làm vận đơn theo từng chuyến hàng, viết rõ ràng, không tẩy xoá,
gạch bỏ, viết thêm, viết chồng hay dán chồng. Trường hợp sửa chữa, xoá bỏ…
phải có chữ ký chứng thực của đại diện đơn vị đã được giao ký hợp đồng. Chủ
hàng phải có trách nhiệm về những điều mình ghi vào vận đơn.
Chủ hàng phải đính theo vận đơn các giấy tờ khác nếu các cơ quan chuyên trách
cần kiểm soát. Nếu không thì phải chịu trách nhiệm do hậu quả để thiếu trên
như: phải chịu phạt chờ đợi, hàng bị hư hỏng
Page 39
hoặc hàng bị tịch thu vẫn phải trả cước. Bên vận tải để thiếu giấy tờ vê mặt giao
thông hợp lệ thì cũng phải nhận mọi trách nhiệm do hậu quả dó.
1.2 Nguyên tắc giao nhận hàng vận chuyển
Giao nhận hàng hoá nhanh gọn, tốt là biểu hiện thực hiện kế hoạch tốt, vận
chuyển tốt, bảo quản tài sản Nhà nước được chu đáo, năng suất phương tiện
được khai thác hợp lý, quan hệ giữa vận tải với chủ hàng tốt. Quan trọng hơn
nữa là dễ dàng qui được trách nhiệm cho hai bên. Muốn vậy khi lập hợp đồng
cần lưu ý.
Hợp đồng phải ấn định thật cụ thể và chính xác địa điểm giao nhận (ghi rõ thành
phố, phường, xã, đường phố…) để không gây lãng phí và ảnh hưởng đến kế
hoạch vận chuyển, đồng thời làm cơ sở cho việc tính cự ly, tính cước và nhiên
liệu. Địa điểm giao nhận là nơi phương tiện ra vào được an toàn thuận tiện (VD:
vận chuyển gỗ chỉ nhận ở bãi 2…) Nếu vì đường xá xấu, phương tiện không vào
được, chủ hàng phải sửa đường hoặc tổ chức xếp dỡ, giao nhận hàng tại tại nơi
cuối cùng mà phương tiện có thể vào được. Trường hợp chủ hàng không có
hàng hoặc chưa có hàng để giao khi phương tiện đến thì sau 30 ohút (đối với ô
tô), chủ hnàg phải chứng nhận cho phương tiện về hoặc yêu cầu phương tiện chờ
thêm 1 giờ, nếu qúa 1 giờ mà bên vận tải không thấy không đồng ý thì chủ hàng
cũng phải chứng nhận cho xe về, chủ hàng phải trả giá cước của loại hàng hoá
thấp nhất. Trường hợp không tìm được người nhận bên vận tải sau 30 phút xe
đến yêu cầu chính quyền địa phương xác nhận phương tiện có đến. Bên vận tải
có quyền từ chối không nhận hàng, nếu chủ hàng giao không đúng loại hàng ghi
trong hợp đồng, nếu phương tiện được điều động không thích hợp với loại hàng
ấy.
Hợp đồng phải ghi rõ phương pháp giao nhận: nhận sao, giao vậy, ghi cụ thể,
tránh chung chung.
Page 40
Có thể qui ước tuỳ theo tính chất hàng hoá mà ghi cả vào văn bản hợp đồng, các
phương thức giao nhận như sau:
Theo trọng lượng, thể tích.
Theo nguyên hầm.
Theo nguyên bao, nguyên đai, nguyên kiện.
Mớm nước phương tiện vận tải thuỷ.
v.v….
Hàng nhận như thế nào, nếu giao đúng như vậy thì bên vận tải sẽ không chịu
trách nhiệm , kể cả nếu có thiếu hụt hoặc hư hỏng bên trong, đối với hàng
nguyên đai, nguyên kiện.
Hai bên cần kiểm tra kỹ lưỡng hàng hoá trước khi tiến hành giao nhận hàng đẻ
bảo vệ tài sản Nhà nước và để qui trách nhiệm, bên vận tải chú ý kiểm tra trước
khi nhận hàng, chú ý bao bì và đóng gói đúng qui cách không? có ký mã hiệu
chưa? Chủ hàng chú ý khi nhận hàng nếu thấy nghi vấn thì lập biên bản cùng ký
xác nhận để làm cơ sở giải quyết, đồng thời gửi cho cơ quan cấp trên để báo cáo.
Theo nguyên tắc: hàng đã được giao nhận xong, có xác nhận của hai bên thì bên
vận tải sẽ không chịu trách nhiệm nếu hàng có sự hư hỏng, mất mát. Nếu trong
hợp đồng vận tải, hai bên cùng không quan tâm ghi cụ thể phương thức giao
nhận, thông thường hay ghi nhận sao giao vậy và khi có mất mát thì tranh cãi và
đưa đến cơ quan trọng tài kinh tế để giải quyết, về cơ sở pháp lý không chặt chẽ
rất khó giải quyết.
Đối với hàng hoá có quy định tỷ lệ hao hụt, hai bên phải căn cứ vào quy định
Nhà nước mà ghi cụ thể vào hợp đồng và vận dơn. Nếu Nhà nước chưa có quy
định thì hai bên được thoả thuận, nhưng không được tuỳ tiện làm thiệt hại tài sản
Page 41
Nhà nước.
Trường hợp chủ hàng có cử áp tải, thì phải ghi rõ có áp tải và nhiệm vụ cụ thẻ
của áp tải vào hợp đồng và vận đơn. Nguyên tắc, nếu có áp tải, bên vận tải
không chịu trách nhiệm hàng mất mát, hư hỏng vì người áp tải có nhiệm vụ bảo
vệ hàng hoá cũng như giải quyết các thủ tục liên quan đến hàng hoá trên dường.
Nhưng sẽ chịu trách nhiệm, nếu điều khiển phương tiện không đúng kỹ thuật,
không giúp đỡ người áp tải bảo vệ hàng hoá hoặc có hanhf vi vô trách nhiệm
khác. Các trường hợp sau đây, chủ hàng phải cử người áp tải:
Hàng quý giá như kim cương, vàng bạc;
Hàng thịt, cá, hoa tươi, đòi hỏi di đường phải ướp;
Súc vật sống cần cho ăn dọc đường;
Hàng nguy hiểm;
Các loại súng ống, đạn dược;
Linh cữu, thi hài.
Những loại hàng khác, tuỳ chủ hàng nếu xét thấy cần thiết thì cử áp tải, không
bắt buộc.
Trong hợp đồng vận tải, chủ hàng thường xem nhẹ điều khoản này, thậm chí
không xem hợp đồng đã in sẵn việc chịu trách nhiệm cử áp tải, nên khi có mất
mát hàng hoá, chủ hàng không đòi bồi thường được.
Phải ghi rõ vào hợp đồng trách nhiệm của bên vận tải về việc làm vệ sinh
phương tiện, chi phí chủ hàng đài thọ.
1.3 Nguyên tắc xếp dỡ hàng hoá
Xếp dỡ hàng hoá góp phần bảo vệ tốt hàng hoá và phương tiện, giúp cho
Page 42
phương tiện tăng vòng quay vận chuyển, đồng thời tăng năng suất vận chuyển.
Xét về nguyên tắc chung thì bên vận tải phụ trách xếp dỡ tại các địa điểm có tổ
chức xếp dỡ cua cơ quan giao thông vận tải (bến xe, trạm trung chuyển, cảng, kể
cả các xí nghiệp, công, nông, lâm trường, các kho…) phí tổn xếp dỡ chủ hàng
chịu. Việc giao và nhận hàngdo chủ hàng đảm nhiệm. Trong trường hợp chủ
hàng phụ trách xếp dỡ thì bên vận tải có trách nhiệm hướng dẫn về kỹ thuật xếp
dỡ.
Tại các địa điểm có chuyển tải mà không có áp tải đi theo, bên vận tải phải xếp
dỡ nhưng chỉ được hưởng chi phí nếu tại địa điểm này cơ quan giao thông vận
tải dã có thông báo trước.
Xếp dỡ phải được tiến hành cả ngày lẫn đêm kể cả ngày lễ và chủ nhật, chủ hàng
phải báo trước 24 giờ, khi xếp dỡ ngày lễ và chủ nhật cần ghi rõ vào hợp đồng,
tuy nhiên nếu khó khăn về bến bãi, phương tiện bốc dỡ, hai bên có thể thoả
thuận thời gian xếp dỡ cho phù hợp với thực tế và ghi vào hợp đồng để làm cơ
sở tính thưởng phạt. Đây là quyền lợi của chủ hàng, nên chủ hàng luôn luôn phải
quan tâm.
Thời hạn chuẩn bị xếp dỡ đối với ô tô là: mỗi lần xe đến địa điểm giao nhận
hàng, nếu chủ hàng đảm nhiệm thì phải bắt đầu xếp dỡ sau 30 phút, đối với
đường sông là 3 giờ, đường biển là 2 giờ sau giờ bên vận tải báo phương tiện
đến bến. Hai bên cần qui định và ghi vào hợp đồng thời hạn này để có cơ sở tính
phạt chờ đợi khi đã qua thời gian chuẩn bị, thực tế nếu có khó khăn về thuê
mướn huy động nhân công, hai bên được phép thương lượng kéo dài thêm thời
hạn chuẩn bị và ghi rõ vào hợp đồng (chẳng hạn 1/2 ngày đối với ô tô hoặc
sàlan..)
Tuỳ từng loại phương tiện và loại hàng, trong trường hợp nhà nước chưa ban
hành định mức cụ thể, thì hai bên được thoả thuận định mức thích hợp ghi vào
Page 43
hợp đồng và vận đơn, căn cứ vào đó mà ấn định thời gian xếp dỡ. Cần chú ý có
thưởng phạt để nâng cao trách nhiệm và động viên khuyến khích.
1.4 Cước phụ phí vận tải và cách thanh toán
Trong vận tải ngoài giá cước chính, bên vận tải còn được thu các khoản phụ phí
vận tải (nếu có) theo thể lệ hiện hành như: phí tổn điều xe (đường sông gọi là
huy động phí), cước qua phà, chi phí chuyển tải, phí tổn vật dụng chèn lót,
chuồng củi, giá chênh lệch xăng, đầu, lệ phí bến đỗ, kê khai giá trị hàng hoá,
cảng phí, hoa tiêu phí…
Tiền cước được tính theo giá cước quy định của nhà nước, căn cứ theo loại
hàng, loại đường phù hợp. Trường hợp cự ly chưa xác định được, hai bên phải
lấy ý kiến của cơ quan giao thông vận tải Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương
hoặc Bộ Giao thông vận tải để xác định rõ cự ly nơi luồng tuyến đó gặp trở ngại
(cầu, đường, lòng sông…) không đi được, để làm cơ sở thoả thuận luồng tuyến
khác.
Nếu thuê cả chuyến hoặc thuê cả hầm thì chủ hàng phải trả cước cả chuyến hoặc
cả hầm, thuê theo khối lượng hay trọng lượng hàng thực tế đã vận chuyển hoặc
thuê chở súc vật sống không phải đóng chuồng cũi thì ước tính theo đầu súc vật.
Nếu quãng đường đến địa điểm lấy hàng quá 3 cây số mà xe chạy không thì bên
chủ hàng phải trả cho bên vận chuyển một khoản phí tổn gọi là phí tổn điều xe,
kể từ cây số thứ tư, phí tổn điều xe tính cả lượt đi và lượt về, mỗi lượt bằng 50%
giá cước đường dài của loại hàng cấp bậc thấp nhất (trong đường sông) huy
động phí được tính từ cây số thứ 3 đối với phương tiện cơ giới và cây số thứ 2
đối với phương tiện thô sơ. Trường hợp thực hiện kế hoạch vận chuyển nhiều
chuyến liên tục trong một thời gian, bên vận tải cũng chỉ thu phí tổn điều xe
(huy động phí) 1 lần, chủ hàng có trách nhiệm bố trí chỗ để phương tiện và nơi
ăn ngủ cho bên vận tải.
Page 44
Qua thực tế nhận thấy rằng hai bên cần lưu ý ghi rõ vào hợp đồng việc tính phạt
phương tiện bị chờ đợi hoặc trả tiền công nhân chờ đợi… để góp phần nâng cao
trách nhiệm hai bên. Việc tính tiền phạt này phải căn cứ vào giá quy định của
Nhà nước.
Do đặc điểm của ngành vận tải: xe lăn bánh được xem là sản xuất ra sản phẩm
và hoạt động không được Nhà nước cấp vốn lưu động nên bên vận tải được thu
ngay cước phí và phụ phí, sau khi đã nhận xong hàng hoá và làm xong giấy vận
chuyển, chứ không phải chờ chở xong và làm xong phiếu giao nhận hàng, có xác
nhận của hai bên rồi mới thanh toán, cụ thể như sau:
Đối với hợp đồng vận chuyển từng chuyến thì thanh toán ngay trước mỗi
chuyến.
Đối với hợp đồng vận chuyển hàng quí, hàng tháng hoặc nhiều chuyến
liên tục trong thời gian trên 10 ngày thì thanh toán trước 10 ngày 1 lần
(nếu vận chuyển bằng ô tô) và thanh toán chậm nhất 3 ngày sau khi vận
chuyển xong hàng hoá của mỗi chuyến (đối với đường sông).
Nếu công việc xếp dỡ do bên vận tải phụ trách, bên chủ hàng phải thanh toán
phí tổn xếp dỡ cùng một lúc với thanh toán cước phí. Trường hợp có các phụ phí
dọc đường và các bến đậu, bên vận tải phải có chứng từ và chủ hàng phải thanh
toán lại sau khi nhận hàng.
Việc thanh toán phải căn cứ vào thể lệ thanh toán của ngân hàng mà chọn hình
thức thích hợp. Nếu bên chủ hàng là tư nhân không có tài khoản ở ngân hàng thì
có thể thanh toán bằng tiền mặt. Trước mỗi chuyến vận tải bên vận tải phải gửi
vận đơn cho ngân hàng để ngân hàng làm cơ sở giúp thanh toán cước phụ phí vì
vận đơn là chứng từ duy nhất để làm cơ sở thanh toán cước phí.
Chủ hàng thanh toán chậm phải chịu phạt lãi theo thể lệ ngân hàng.
Page 45
Trong việc thực hiện hợp đồng vận tải, thường chủ hàng hay giữ tiền cước để
khấu trừ bồi thường hàng hoá bị hư hỏng mất mát. Điều này trái với qui định của
Nhà nước về hợp đồng vận tải.
1.5 Nguyên tắc bồi thường và phạt vi phạm hợp đồng
Bên nào trong quá trình thực hiện hợp đồng để xảy ra vi phạm hợp đồng sẽ bị
phạt vi phạm chế độ HĐKT và nếu dỡ chậm hoặc đưa phương tiện đến lấy hàng
chậm thì phải phạt bồi thường phí tổn chờ đợi theo qui định Nhà nước.
Hàng hoá vận chuyển bị mất sẽ phải bồi thường theo giá thị trường tự do ở thời
điểm nơi hàng đến.
Hàng hoá vận chuyển bị hư hỏng nếu:
Thuộc loại hàng không sửa chữa được như lương thực, thực phẩm, nông
lâm, thổ sản, thuỷ sản bị giảm phẩm chất thì dựa trên cơ sở phẩm chất
hàng hoá khi nhận chở và khi giao hàng mà hai bên thoả thuận tỷ lệ bồi
thường. Nếu không thoả thuận được thì hai bên yêu cầu cơ quan chuyên
môn giám định và xác nhận tỷ lệ bồi thường.
Thuộc loại có thể sửa chữa được như máy móc, dụng cụ, phụ tùng… thì
chủ hàng sửa chữa, bên vận tải đài thọ phí tổn. Nếu sửa chữa xong mà vẫn
không phục hồi được như cũ thì bên vận tải phải bồi thường theo loại
hàng hư hỏng không sửa chữa được.
Hợp đồng phải ghi rõ trách nhiệm vật chất của hai bên nhưng việc giải quyết
tiền bồi thường và thanh toán cước phải tách riêng. Nguyên tắc không được trừ
nợ hai bên phải đòi hỏi giải quyết cho kịp thời, khoản nào ra khoản đó.
Trường hợp hàng không đóng gói, khai không đúng sự thật, bên chủ hàng phải
chịu phạt bằng 20% số tiền cước phải trả.
Page 46
Cần chú ý để có cơ sở pháp lý giải quyết tiền phạt và bồi thường mọi việc gì xảy
ra trong quá trình vận chuyển và giao nhận, 2 bên phải lập biên bản minh chứng.
1.6 Các trường hợp được miẽn bồi thường, miễn cước phí
1.6.1. Bên vận tải có trách nhiệm bảo quản tốt hàng hoá vận
chuyển nhưng nếu gặp các trường hợp sau thì sẽ được xét
miễn giảm bồi thường.
Thiệt hại vì tai nạn, hoặc do thiên tai gây ra mà bên vận tải đã chuẩn bị
mọi phương tiện đề phòng và đã cố gắng hết sức phòng ngừa nhưng
không khắc phục được;
Hàng đóng gói, đã được qui ước giao nhận theo số lượng mà khi trả hàng,
thùng hàng bao bì nguyên vẹn, dấu cặp trì, gắn xi, niêm phong, đai kiện
không thay đổi, nhưng hàng hoá bên trong bị thiệt hại hoặc hư hỏng;
Người áp tải (nếu có) không làm tròn nhiệm vụ bảo quản ghi trong hợp
đồng và vận đơn;
Hàng hoá phải huỷ bỏ dọc đường hoặc bị truy thu, trưng dụng do lệnh của
Nhà nước;
Ký mã hiệu ghi thiếu hoặc sai;
Hàng hoá tự biến chất, hư thối, bốc hơi, hoặc giảm phẩm chất trong
trường hợp phương tiện bị các cơ quan kiểm soát của Nhà nước giữ lại
quá thời hạn vận chuyển mà không do lỗi bên vận tải;
Hoả hoạn không do lỗi bên vận tải;
Cấp cứu sinh mạng người, phương tiện và hàng hoá;
Súc vật chết không do lỗi bên vận tải;
Page 47
Hàng hoá bị mất mát hư hỏng do lỗi của chủ hàng;
1.6.2. Chủ hàng sẽ được miễn cước phí và phụ phí trong các
trường hợp sau:
Hàng bị mất trong những trường hợp mà bên vận tải chịu trách nhiệm bồi
thường;
Hàng bị mất mát, hao hụt do thiên tai, đã cố gắng phòng ngừa khắc phục
không được.
Phần hao hụt quá tỷ lệ đối với hàng hoá có quy định tỷ lệ hao hụt.
Cần chú ý hai bên ký hợp đồng không được tuỳ tiện xét cho miễn giảm. Muốn
miễn giảm phải có đầy đủ chứng lý kèm theo. Trường hợp hàng bị mất, bên vận
tải đã giải quyết bồi thường, hoặc chưa giải quyết, nhưng sau đó tìm lại được thì
bên chủ hàng phải nhận số hàng này và phải trả bồi thường nếu đã nhận.
Nguyên tắc bồi thường là phải bồi thường bằng tiền, không thực hiện bằng hiện
vật.
Các trường hợp sau đây sẽ được miễn tiền phạt chờ đợi:
Bão lụt mưa to, không điều khiển được phương tiện vận tải, không xếp dỡ
hàng được;
Luồng đường bị tạm cấm, bị ách tắc giao thông;
Phương tiện vận tải bị trưng dụng, công nhân phải đi làm công tác khẩn
cấp theo lệnh điều động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
1.7 Thời hiệu hợp đồng
Hợp đồng phải ghi rõ thời gian hiệu lực thi hành, vì nó có nhiều tác dụng:
Page 48
Giúp cho hai bên phấn đấu hoàn thành đúng thời hạn hợp đồng.
Làm cơ sở xem xét bên nào vi phạm hợp đồng để trọng tài kinh tế xử lý
đúng.
Giúp cho hai bên đề cao được trách nhiệm của mình đối với hợp đồng,
không để lãng phí phương tiện, nhiên liệu, hàng hoá. Làm ăn có tính toán
đến hiệu quả kinh tế và giúp đỡ lẫn nhau.
Giúp cho việc thực hiện chỉ tiêu vận chuyển là từ lúc hàng hoá được xếp
xong vào phương tiện đến lúc phương tiện đến bến trả hàng. Nếu bên vận
tải đảm nhận cả việc xếp dỡ thì thời gian xếp hàng ở bến đi và dỡ hàng ở
bên đến được tính vào thời gian vận chuyển. Bên vận tải có trách nhiệm
vận chuyển hàng hoá đúng theo thời hạn mà hai bên đã thoả thuận với
nhau trong hợp đồng và bên chủ hàng phải đảm bảo có hàng hoá cho bên
vận tải vận chuyển.
Cần chú ý để cho thời hạn vận chuyển được hai bên thoả thuận trong hợp đồng
thực hiện tốt, hai bên ký hợp đồng phải căn cứ theo từng loại đường, cầu,
phương tiện vận tải và tính chất từng loại hàng mà ấn định cho chính xác và cụ
thể, phải tránh khuynh hướng sau:
Đối với bên vận tải, nên sắp xếp điều phương tiện có kế hoạch, biết chủ động
đáp ứng nhu cầu của chủ hàng, nhất là chủ hàng có kế hoạch vận chuyển được
báo trước. Không nên điềuphương tiện cho các chủ hàng ngoài kế hoạch trước
trong khi chủ hàng trong kế hoạch chưa ký hợp đồng, mặc dù đang có yêu cầu…
Hợp đồng được ký và thực hiện phải trên cơ sở bình đẳng và cùng chịu trách
nhiệm. Do đó khi hai bên thoả thuận được thời gian vận chuyển là phải cố gắng
thực hiện, cókhó khăn phải kịp thời bàn tìm biện pháp giảiquyết, không bên nào
được đơn phương huỷ bỏ và sửa đổi hợp đồng.
Page 49
Thực hiện hoàn tất hợp đồng hai bên ký hợp đồng phải họp thanh lý HĐ để tổng
kết công việc, rút ra kinh nghiệm cho hợp đồng sau, đồng thời tổng thanh
toáncác khoản cước phụ phí, tiền phạt, bồi thường và điều chỉnh các khoản thu
thừa thiếu nếu có trong quá trình thực hiện hợp đồng. Biên bản thanh lý là cơ sở
pháp lý xác nhận trasch nhiệm giải quyết của mỗi bên đối với các tồn tại sau khi
thực hiện hợp đồng, do đó hai bên phải bàn bạc kỹ, xác định số liệu và trách
nhiệm thật cụ thể, chính xác. Bên vận tải chịu trách nhiệm chủ trì mời chủ hàng
đến dự họp thanh lý vào một thời gian và địa điểm dự kiến trong hợp đồng.
Để tránh cho đơn vị thiệt hại trong quá trình vận chuyển, các đơn vị vận tải cũng
như chủ hàng cần mua bảo hiểm (ký hợp đồng bảo hiểm với chi nhánh bảo
hiểm) đối với loại hàng quan trọng hoặc trị giá hàng hoá vận chuyển khá lớn.
1.8 Những việc cần thiết khi ký hợp đồng - Phòng ngừa xảy ra vi phạm hoặc
tranh chấp.
Hợp đồng ký xong ngoài các bản hai bên giữ, cần phải gửi thêm cho Ngân hàng
mà hai bên có mở tài khoản để làm cơ sở cho vay và thanh toán.
Hợp đồng phải được thủ trưởng đơn vị của hai bên ký tên và đóng dấu. Nếu vì
một vài điều khoản mà hai bên chưa thống nhất thì ghi vào hợp đồng, mỗi bên
vẫn còn bảo lưu quan điểm của mình, thì hai bên vẫn ký hợp đồng với các điều
đã thống nhất, còn những điều chưa thống nhất nên ghi rõ vào hợp đồng ý kiến
bảo lưu của hai bên báo cáo cho cơ quan chủ quản cấp trên xử lý.
Trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp vận tải (Nhà nước và tập thể…)
thường khoán vận chuyển cho từng đầu phương tiện (kể cả khoán cho đi khai
thác hàng), nhiều chủ hàng hay ký trực tiếp với lái xe, chủ tàu…, không ký với
đơn vị vận tải. Về nguyên tắc của hợp đồng là không đúng, nhưng quan trọng
hơn là khi có tranh chấp xảy ra (như mất mát hàng hoá…) thì đơn vị vận tải chủ
quản không chịu trách nhiệm giải quyết và cơ quan trọng tài cũng không xem
Page 50
xét, giải quyết được, do hợp đồng không phảt hai pháp nhân ký với nhau. Vì vậy
chủ hàng nên kiên quyết tránh kiểu ký hợp đồng trên. Lưu ý việc ký hợp đồng
theo giấy giới thiệu cũng không đảm bảo nguyên tắc.
Trong thực tế có rất nhiều phương thức vận tải, nhưng ở đây chúng ta sẽ đi sâu
vào nghiên cứu về vận tải biển và vận tải hàng không.
2 Vận tải hàng hoá bằng đường biển.
Đối với nước ta, vận tải đường biển có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt
động xuất nhập khẩu. Trên thế giới vận tải biển đã đảm nhận từ 70% - 80% tổng
khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Đối với Việt Nam, hiện nay tỷ lệ đó đạt
95% hoặc hơn nữa.
Tuy nhiên việc chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu có liên quan đến việc thực
hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, nhưng trong hợp đồng chuyên chở, những
vấn đề quyền và nghĩa vụ chỉ phát sinh giữa người chuyên chở và người gửi
hàng ( có thể là người bán, người mua hoặc những đại diện của họ).
Theo các quy định của điều ước quốc tế về hàng hoá hoặc về vận đơn đường
biển thì " Người chuyên chở" là bất cứ người nào mà chính mình hoặc được họ
uỷ thác đứng tên ký hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng đường biển với người
gửi hàng. Còn " Người gửi hàng" là bất kỳ người nào mà chính mình ký hoặc
được người khác đứng tên mình ký thay cho mình một hợp đồng chuyên chở:
hoặc bất kỳ người nào mà chính mình tiến hành hoặc được người khác thay
mình tiến hành thực sự giao hàng hoá cho người chuyên chở liên quan đến Hợp
đồng chuyên chở đường biển.
"Hợp đồng chuyên chở bằng đường biển" là bất kỳ hợp đồng nào mà theo đó
người chuyên chở đảm nhận chuyên chở hàng hoá bằng đường biển từ một cảng
này đến một cảng khác để thu tiền cước.
Page 51
Để chuyên chở hàng hoá của mình, người thuê chuyên chở có thể ký kết những
hợp đồng thuê nguyên chuyến ( gọi là thuê tàu chuyến) hoặc chỉ cần lưu cước
tàu chợ đối với những lô hàng lẻ không đủ một chuyến tàu. Trong những trường
hợp như vậy, sử dụng tàu chợ (Liner) có lợi vì tàu chợ theo những luồng nhất
định và theo lịch trình nhất định.
3 Các phương thức vận tải thường dùng trong chuyên chở hàng hoá
ngoại thương bằng đường biển
3.1 Tàu chợ
3.1.1. Khái niệm về thuê tàu chợ
Tàu chợ là loại tàu chở hàng chạy thường xuyên trên một tuyến đường nhất
định, ghé vào các cảng quy định và theo một lịch trình định trước.
Thuê tàu chợ (Booking Shipping Space) là việc chủ hàng liên hệ với chủ tàu
hoặc đại lý của chủ tàu yêu cầu dành chỗ trên tàu để chuyên chở hàng hoá từ
một cảng này đến một cảng khác.
3.1.2. Đặc điểm:
Tàu chạy giữa các cảng theo một lịch trình do chủ tàu định trước về thời gian và
không gian.
Chứng từ điều chỉnh các mối quan hệ trong thuê tàu chợ là Vận đơn đường biển
(Bill of LAding - B/L). Vận đơn đường biển là bằng chứng của một hợp đồng
vận tải hàng hoá bằng đường biển (Contract of Carriage By Sea).
Khi thuê tàu chợ chủ hàng không được tự do thoả thuận các điều kiện, điều
khoản chuyên chở mà phải tuân thủ các điều kiện in sẵn của Vận đơn dường
biển.
Cước phí trong thuê tàu chợ thường bao gồm cả chi phí xếp dỡ hàng hoá và
Page 52
được tính toán theo biểu cước (Tariff) của hãng tàu. Biểu cước này có hiệu lực
trong thời gian tương đối dài, chủ tàu đóng vai trò là người chuyên chở. Người
chuyên chở là một bên của hợp đồng vận tải và là người chịu trách nhiệm về
hàng hoá trong suốt quá trình vận chuyển.
Các chủ tàu chợ thường cùng nhau thành lập các Công hội tàu chợ (Liner
Conference) hoặc Công hội cước phí (Freight Conference) để khống chế thị
trường và nâng cao khả năng cạnh tranh. Các công ty thuộc Công hội gọi là
Conference Lines.
Có thể sử dụng phương thức thuê tàu chợ khi chủ hàng có hàng bách hoá, số
lượng tuỳ ý (vừa và nhỏ) và cảng xếp dỡ nằm trong lịch trình của tàu.
3.2 Tàu chuyến (Voyage Chartering)
3.2.1. Khái niệm về thuê tàu chuyến
Tàu chuyến là tàu chuyên chở hàng hoá giữa hai hoặc nhiều cảng thao yêu cầu
của chủ hàng trên cơ sở một hợp đồng thuê tàu.
Thuê tàu chuyến là việc chủ hàng liên hệ với chủ tàu hoặc đại diện của chủ tàu
yêu cầu thuê toàn bộ con tàu để chuyên chở hàng hoá từ một hoặc nhiều cảng
xếp dỡ theo yêu cầu của chủ hàng.
3.2.2. Đặc điểm
Phương thức thuê tàu chuyến có đặc đIểm:
Tàu không chạy theo lịch trình cố định như tàu chợ mà theo yêu cầu của khách
hàng.
Văn bản đIều chỉnh mối quan hệ giữa các bên trong thuê tàu chuyến là Hợp
đồng thuê tàu chuyến (Voyage Charter - C/P) và Vận đơn đường biển. Hợp đồng
thuê tàu chuyến được ký kết giữa người thuê tàu (Charterer) và người chuyên
Page 53
chở (chủ tàu hoặc người quản lý tàu), trong đó người chuyên chở (Carrier) cam
kết chuyên chở hàng hoá để giao cho người nhận hàngở cảng đến, còn người
thuê tàu cam kết trả tiền cước chuyên chở theo mức hai bên đã thoả thuận.
Khi xếp hàng lên tàu hoặc khi nhận hàng để xếp, người chuyên chở sẽ cấp Vận
đơn đường biển. Vận đơn này đIều chỉnh mối quan hệ giữa người chuyên chở
với người gửi hàng, giữa người chuyên chở với người nhận hàng hoặc người
cầm B/L.
Người thuê tàu có thể tự do thoả thuận, mặc cả về đIều kiện chuyên chở và giá
cước trong hợp đồng thuê tàu.
Giá cước trong thuê tàu chuyến có thể gồm cả chi phí xếp dỡ hoặc không là do
thoả thuận của hai bên. Giá cước được tính theo trọng lượng hàng, thể tích hàng
hoá hoặc theo giá thuê bao (Lumpsum) cho một chuyến.
Chủ tàu có thể đóng vai là người chuyên chở hoặc không.
Tàu chuyến thường được dùng khi thuê chở dầu và hàng khối lượng lớn như:
than đá, quặng, ngũ cốc, bô xít, phốt phát, xi măng, phân bón… và người thuê
tàu phải có một khối lượng hàng hoá tương đối lớn để đủ xếp một tàu.
4 Vận đơn đường biển
4.1 Khái niệm chức năng của vận đơn đường biển
Vận đơn đường biển (Bill of Lading, Ocean Bill of Lading, Master Bill of
Lading) là một chứng từ chứng minh cho một hợp đồng vận tải đường biển, cho
việc nhận hàng hoặc xếp hàng của người chuyên chở và bằng vận đơn này,
người chuyên chở cam kết sẽ giao hàng khi xuất trình nó.
Từ khái niệm trên, ta thấy người cấp vận đơn là người chuyên chở, chủ tàu hoặc
người được họ uỷ quyền, khi hàng đã được xếp lên tàu hoặc khi nhận hàng để
Page 54
xếp.
Khi cấp vận đơn, người chuyên chở, chủ tàu hoặc đại diện của họ phải ký vào
vận đơn và ghi rõ tư cách pháp lý. Trong thực tế, vận đơn thường do người
chuyên chở, chủ tàu, thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở, chủ tàu
hay thuyền trưởng ký.
Để thanh toán được tiền hàng theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C), bất cứ
ai ký vận đơn đều phải ghi rõ tên công ty, tên, họ của mình, tư cách pháp lý của
người ký. Ví dụ: Signed by… As the Carrier (do… ký là Người chuyên chở).
Signed by Mr… As the Master (do Ông… ký là Thuyền trưởng).
Signed by Vietfracht As Agent for the Carrier (ký bởi Vietfracht là Đại lý của
người chuyên chở).
Signed by Mr… on Behalf of Mr… As the Master (do Ông… ký thay mặt
Ông… là Thuyền trưởng).
Vận đơn đường biển được phát hành theo các bản gốc (Original) và bản sao
(Copy). Các bản gốc được phát hành theo bộ. Một bộ có thể gồm nhiều bản gốc
duy nhất hay 2,3, bản gốc giống nhau. Khi thanh toán tiền hàng theo phương
thức tín dụng chứng từ, người bán phải xuất trình trọn bộ (Full Set) vận đơn gốc
mới được thanh toán tiền hàng. Bộ vận đơn gốc được chuyển qua hệ thống ngân
hàng đến cho người nhận hàng để đi nhận hàng.
Muốn nhận được hàng, người nhận hàng phải xuất trìnhmột bản vận đơn gốc
cho người chuyên chở. Khi một bản vận đơn gốc đã được xuất trình để nhận
hàng thì các bản gốc khác sẽ không còn giá trị. Các bản sao được cấp theo yêu
cầu của người gửi hàng. Trên bản sao thường ghi "Copy Non - Negotiable".
Vận đơn đường biển có 3 chức năng quan trọng sau:
Page 55
Là biên lai nhận hàng để chở của người chuyên chở. Vận đơn là bằng chứng
hiển nhiên của người chuyên chở đã nhận hàng để chở. Vân đơn chứng minhcho
số lượng, khối lượng, tình trạng của hàng hoá như lúc nhận ở cảng đi, khi người
nhận xuất trình vận đơn phù hợp.
Là chứng từ sở hữu (Document of Title) những hàng hoá mô tả trên vận đơn. Ai
có vận đơn trong tay, người đó có quyền đòi sở hữu hàng hoá ghi trên đó. Do
tính chất sở hữu nên vận đơn là một chứng từ lưu thông được (Negotiable).
Người ta có thể mua bán, chuyển nhượng hàng hoá ghi trên vận đơn bằng cách
mua bán, chuyển nhượng vận đơn.
Là bằng chứng của hợp đồng vận tải (Contract of Carriage) đã được ký kết giữa
các bên. Mặc dù bản thân vận đơn đường biển không phải là một hợp đồng vận
tải, vì nó chỉ có chữ ký của một bên, nhưng vận đơn có giá trị như một hợp đồng
vận tải đường biển. Nó không những điều chỉnh mối quan hệ giữa người chuyên
chở và người nhận hàng hoặc người cầm vận đơn. Nội dung của vận đơn không
chỉ được thể hiện bằng những điều khoản trên đó, mà bị chi phối bởi các Công
ước quốc tế về vận đơn và vận tải đường biển.
4.2 Nguồn luật điều chỉnh vận đơn đường biển
4.2.1. Sự hình thành các Quy tắc Hague, Hague - Visby và
Humburg
Vận đơn của các hãng tàu có thể khác nhau về hình thức và nội dung chi tiết các
điều khoản. Nhưng tất cả các vận đơn được phát hành liên quan đến vận chuyển
hàng hoá bằng đường biển quốc tế đều do một nguồn luật duy nhất điều chỉnh -
đó là Công ước quốc tế về vận đơn và vận tải đường biển. Các quy phạm pháp
luật quốc tế này quy định những vấn đề quan trọng trong chuyên chở hàng hoá
bằng đường biển như: trách nhiệm của người chuyên chở, người gửi hàng, hình
thức và nội dung của vận đơn, thông báo tổn thất, khiếu nại và kiện tụng… Đặc
Page 56
biệt về trách nhiệm của người chuyên chở, các bên không được quy định ít hơn,
thấp hơn mức quy định của các Công ước. Nếu trên vận đơn có quy định trách
nhiệmcủa người chuyên chở thấp hơn mức quy định của Công ước thì vận đơn
đó sẽ vô hiệu lực.
Các Công ước quốc tế về vận đơn và vận tải đường biển điều chỉnh vận đơn đến
nay bao gồm:
Công ước quốc tế để thông nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển,
ký kết tại Brussels ngày 25/8/1924 (The International Convention for
Reunification of Certain Rules Relating to Bill of Lading dated Brusels
August 25, 1924), gọi tắt là Công ước Brussels 1924, Công ước này còn
được gọi là Quy tắc Hague (Hague Rules) đã có hiệu lức năm 1931, đến
nay đã có gần 90 nước tham gia.
Nghị định thư Visby 1968, sửa đổi Công ước Brussels 1924, có hiệu lực
từ ngày 23/6/1977, cùng với Quy tắc Hague tạo thành Quy tắc Hague -
Visby (Hague - Visby Rules).
Công ước của Liên Hợp Quốc về chuyên chở bằng đường biển, ký kết tại
Hamburg năm 1978 (The UN Convention on the Carriage of Goods by
Sea), gọi tắt là Công ước Hamburg hay Quy tắc Hamburg (Hamburg
Rules). (Công ước này có hiệu lực từ ngày 1/11/1992, sau khi có đủ 20
nước phê chuẩn, gia nhập.).
Ba Quy tắc nói trên đang song song tồn tại và đồng thời có hiệu lực là nguồn
luật điều chỉnh về vận đơn đường biển. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng của các
Công ước này khác nhau.
4.2.2. Phạm vi áp dụng của các Quy tắc Hague, Hague -
Visby, Hamburg
Page 57
Quy tắc Hague: Quy tắc này áp dụng cho tất cả các vận đơn phát hành ở
một nước tham gia Công ước Brussels 1924.
Quy tắc này không áp dụng cho hợp đồng thuê tàu (Charter Party), nhưng nếu
vận đơn được phát hành trong trường hợp chuyên chở theo một hợp đồng thuê
tàu, thì vận đơn phải tuân thủ theo Quy tắc này.
Quy Tắc Hague - Visby: Quy tắc này áp dụng cho mọi vận đơn liên quan đến
chuyên chở hàng hóa giữa các cảng, nếu:
Vận đơn phát hành ở một nước tham gia Quy tắc này, hoặc
Chuyên chở hàng hoá từ một nước tham gia, hoặc
Vận đơn quy định rằng Quy tắc này hoặc luật lệ bất kỳ nước nào chấp
nhận Quy tắc này là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng.
Các nước đã phê chuẩn hoặc gia nhập Quy tắc Hague - Visby (tính đến
25/3/1996) gồm: Australia, Bỉ, Đan Mạch, Ba LAn, Ai Cập, Páp, Grudia, Phần
lan, Ecuado, Singapore, Srilanca, Thuỵ Điển, Italy, Nhật, Thuỵ Sĩ, Libăng,
News Zealand, Hà Lan, Luxembourg, Tây Ban Nha, Syri, Na Uy, Mexico, Cộng
hoà Ả Rập Syria, Tonga.
Quy tắc Hamburg: Quy tắc này áp dụng cho tất cả các hợp đồng chuyên chở
hàng hoá bằng đường biển giữa hai nước, nếu:
Cảng xếp hàng hoặc dỡ hàng quy định trong hợp đồng nằm ở một nước
tham gia Công ước, hoặc
Một trong các cảng dỡ hàng lựa chọn quy định trong hợp đồng là cảng dỡ
hàng thực tế và cảng đó nằm ở một nước tham gia Công ước, hoặc Vận
đơn đường biển hoặc chứng từ khác chứng minh cho một hợp đồng vận
tải đường biển được phát hành ở một nước tham gia Công ước, hoặc
Page 58
Vận đơn đường biển hoặc chứng từ khác chứng minh cho một hợp đồng
vận tải đường biển quy định rằng Quy tắc này hoặc luật lệ của bất cứ
nước nào công nhận Công nước này là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng.
Các điều khoản của Quy tắc này sẽ áp dụng mà không phụ thuộc vào quốc tịch
của tàu, của người chuyên chở, người chuyên chở thực tế, người gửi hàng, người
nhận hàng hoặc bất kỳ người liên quan nào. Quy tắc này không áp dụng cho hợp
đồng thuê tàu. Tuy vậy, nếu một vận đơn được phát hành theo hợp đồng thuê
tàu, thì các điều khoản của Quy tắc này sẽ được áp dụng cho vận đơn nếu vận
đơn đó điều chỉnh mối quan hệ giữa người chuyên chở với người cầm vận đơn
không phải là người thuê tàu.
Các nước đã phê chuẩn Công ước Hamburg gồm: Áo, Barbadoa, Bostwana,
Burkina Fasco, Cameroon, Chile, CH Séc, Ai Cập, Guynea, Gambia, Gruzia,
Hungari, Kenya, Lebanon, Lesotho, Malawi, Morroco, Nigeria, Rumania,
Senegal, Sierra Leone, Tazania, Tunisia, Uganda, Zambia và 29 nước khác đã
ký nhưng chưa phê chuẩn.
4.2.3. Phân loại vận đơn đường biển
Dựa vào đặc điểm của hành trình, tình trạng hàng hoá, ghi chú nhận xét trên vận
đơn, khả năng chuyển nhượng của vận đơn… có thể phân loại như sau:
4.2.3.1. Căn cứ vào việc đã xếp hàng hay chưa, có hai
loại:
Vận đơn đã xếp hàng (Shipped on Board B/L): là vận đơn do người chuyên chở
hoặc đại diện người chuyên chở cấp khi hàng hoá đã xếp lên tàu. Đây là loại vận
đơn dược dùng phổ biến, vì người mua khi yêu cầu xuất trình bộ chứng từ để
thanh toán tiền hàng thường yêu cầu xuất trình vận đơn đã xếp hàng, tức là hàng
hoá đã thực sự được xếp lên tàu. Việc đã xếp hàng lên tàu (On Board) được thể
hiện trên vận đơn như sau:
Page 59
Nếu trên vận đơn (ở góc dưới bên phải) có chữ in sẵn "nhận để xếp"
(Received for Shipment hoặc Taken in Charge), thì khi Thuyền trưởng ký
vận đơn, phải ghi thêm chữ "đã xếp hàng lên tàu ngày, tháng, năm"để
chứng minh cho việc đã xếp hàng, thể hiện bằng tiếng Anh là "Laden on
Board 5 October 1997" hoặc "Shipped on Board 5 October 1997" và ngày
đó là ngày giao hàng.
Nếu trên vận đơn đã ghi sẵn chữ "Shipped on Board", thì không cần ghi gì
thêm để chứng minh cho việc đã xếp, mà ngày ký vận đơn là ngày xếp
hàng lên tàu, cũng là ngày giao hàng.
Vận đơn nhận để xếp (Received for Shippment B/L): là vận đơn do người
chuyên chở cấp, khi người chuyên chở nhận hàng (ở kho hoặc ở bãi) để xếp lên
con tàu ghi trên B/L, tức là hàng hoá thực tế chưa được xếp lên tàu. Loại vận
đơn này có thể bị Ngân hàng từ chối thanh toán, trừ phi thư tín dụng (L/C) quy
định cho phép. Khi hàng đã thực sự được xếp lên tàu, có thể đóng dấu hoặc ghi
thêm chữ "đã xếp" để biến thành vận đơn đã xếp hàng.
4.2.3.2. Căn cứ vào khả năng lưu thông có ba loại:
+ Vận đơn theo lệnh (Order B/L): là vận đơn tren đó không ghi rõ tên, địa chỉ
của người nhận hàng mà ghi chữ "theo lệnh" (to Order) hoặc có ghi tên người
nhận hàng đòng thời ghi thêm chữ "hoặc theo lệnh" (or Order). Trren vận đơn
theo lệnh có thể ghi rõ theo lệnh của người gửi hàng, của người nhận hàng, của
Ngân hàng. Nếu không ghi rõ theo lệnh của ai thì hiểu là theo lệnh của người
gửi hàng.
Vận đơn theo lệnh có đặc điểm là có thể chuyển nhượng được cho người khác
bằng cách ký hậu (Endorsemant). Nếu là vận đơn theo lệnh của người gửi hàng,
thì người gửi hàng phải ký hậu, người nhận hàng mới được nhận hàng. Có thể
ký hậu để trống (in Blank), ký hậu cho một người cụ thể hay theo lênh của một
Page 60
người nào đó. Nếu không ký hậu, chỉ người gửi hàng mới nhận được hàng. Vận
đơn ký phát theo lệnh của một Ngân hàng trong trường hợp Ngân hàng muốn
khống chế hàng hoá của người nhập khẩu (người nhập khẩu vay tiền của Ngân
hàng để mua hàng). Để nhận được hàng phải có ký hậu chuyển nhượng của
Ngân hàng vào vận đơn.
Vận đơn theo lệnh được sử dụng rộng rãi trong buôn bán quốc tế, bởi vì nó là
một chứng từ có thể lưu thông được.
+ Vận đơn đích danh (Straight B/L): là vận đơn mà trên đó có ghi rõ tên, địa chỉ
của người nhận hàng mà không có hoặc đã bị xoá bỏ chữ "or Order". Chỉ người
có tên ghi trên vận đơn mới nhận được hàng. Loại vận đơn này không thể
chuyển nhượng được bằng ký hậu.
+ Vận đơn cho người cầm (B/L to Bearer): là vận đơn trong đó:
Có ghi rõ chữ "cho người cầm" (To Bearer), hoặc:
Phát hành theo lệnh của một người hưởng lợi và người đó đã ký hậu để
trống mà không chỉ định một người hưởng lợi khác.
Vận đơn này có nhiều rủi ro đối với người gửi hàng, vì bất kỳ người nào có vận
đơn trong tay đều có thể nhận được hàng.
4.2.3.3. Căn cứ vào nhận xét ghi chú trên hoá vận đơn,
có hai loại:
+ Vận đơn sạch hay hoàn hảo (Clean B/L): Vận đơn hoàn hảo là vận đơn trên đó
không có những điều khoản nói rõ ràng rằng hàng hoá hoặc bao bì có khuyết tật.
Hay nói một cách khác, trên vận đơn không có những ghi chú, nhận xét xấu
hoặc những bảo lưu về tình trạng bên ngoài của hàng hoá.
Những điều ghi chung chung như: "người gửi hàng xếp và đếm, niêm phong và
kẹp chì", "không biét về số lượng, phẩm chất, nội
Page 61
dung bên trong", "bao bì dùng lại, thùng cũ"… không làm mất tính hoàn hảo của
vận đơn. Một vận đơn mà người chuyên chở hay đại diện của họ không ghi chú
gì thì coi như là vận đơn hoàn hảo.
Lấy được vận đơn hoàn hảo có ý nghĩa quan trọng trong thương mại quốc tế.
Người mua cũng như Ngân hàng đều yêu cầu phải có vận đơn hoàn hảo, vận
đơn hoàn hảo là bằng chứng hiển nhiên (Prima Facie Evidence) của việc xếp
hàng tốt.
Muốn lấy được vận đơn hoàn hảo, thì khi xếp hàng lên tàu phải đảm bảo hàng
không bị hư hỏng, đổ vỡ, bao bì không rách, không bị ướt và trông bên ngoài là
tốt, nghĩa là phải có một Biên lai Thuyên phó (Maste's Receipt) sạch. Trong
trường hợp Biên lai Thuyền phó không sạch, người gửi hàng có thể xuất trình
thư bảo đảm (Letter of Indemnity) cam kết chịu mọi hậu quả xảy ra, để yêu cầu
Thyền trưởng cấp vận đơn hoàn hảo. Tuy nhiên, Thư bảo đảm đó không có giá
trị pháp lý, không được các toà án thừa nhận, nên các Thuyền trưởng khôn
ngoan thường không chấp nhận.
+ Vận đơn không hoàn hảo (Unclean B/L - Faul B/L - Claused B/L): Ngược lại
với vận đơn hoàn hảo, vận đơn không hoàn hảo trên có những ghi chú, nhận xét
xấu hoặc những bảo lưu về hàng hoá và bao bì. Ví dụ, vận đơn bị Thuyền trưởng
ghi chú: ký mã hiệu không rõ, một số bao bì bị rách, thùng chảy, nhiều hòm các
tông bị ướt… Vận đơn không hoàn hảo không được ngân hàng chấp nhận để
thanh toán tiền hàng.
4.2.3.4. Căn cứ vào hành trình vận chuyển, có ba loại:
+ Vận đơn đi thẳng (Direct B/L): là vận đơn được sử dụng trong trường hợp
hàng hoá được chuyên chở từ cảng xếp hàng đến cảng dỡ hàng bằng một con
tàu, tức hàng hoá không phải chuyển tải ở cảng dọc đường.
+ Vận đơn đi suốt (Throught B/L): là vận đơn được sử dụng trong trường hợp
Page 62
hàng hoá được chuyên chở từ cảng xếp hàng đến cảng dỡ hàng cuối cùng bằng
hai hay nhiều con tàu khác nhau của hai hay nhiều người chuyên chở, tức hàng
hoá phải chuyển tải ở cảng dọc đường. Vận đơn đi suốt có đặc điểm:
Có điều khoản cho phép chuyển tải.
Có ghi rõ cảng đi, cảng đến, cảng (có thể cả tên tàu) chuyển tải.
Người cấp vận đơn đi suốt phải chịu trách nhiệm về hàng hoá trong suốt
hành trình đường biển từ cảng đi cho đến cảng đích, kể cả trên chặng
đường do người chuyên chở khác thực hiện.
+ Vận đơn (chứng từ) đa phương thức (vận tải liên hợp): Vận đơn vận tải đa
phương thức (Multimodal Transport B/L) hay vận đơn vận tải liên hợp
(Combined Transport B/L) là vận đơn được sử dụng trong trường hợp hàng hoá
được chuyên chở từ nơi đi đến nơi đến bằng hai hay nhiều phương thức vận tải
khác nhau. Loại vận đơn này có nhiều tên gọi như: Combined Transport B/L,
B/L for Combined Transport Shipment or Port to Port Shipment, Multimodal
Transport Document. Vận đơn này có đặc điểm:
Trên vận đơn thường ghi rõ nơi nhận hàng để chở và nơi giao hàng, người
cấp B/L này phải là người chuyên chở hoặc MTO.
Ghi rõ việc được phép chuyển tải, các phương thức vận tải tham gia và
nơi chuyển tải.
Người cấp vận đơn này phải chịu trách nhiệm về hàng hoá từ nơi nhận
hàng để chở (có thể nằm sâu trong nội địa) đến nơi giao hàng (có thể nằm
sâu trong nội địa của nước đến).
4.2.3.5. Một số loại vận đơn, chứng từ khác
+ Vận đơn do người giao nhận cấp: Như đã nói ở trên, vận đơn là do người
Page 63
chuyên chở hay đại diện của họ cấp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
người giao nhận (Freight Forwarder) không chỉ làm đại lý, nhận uỷ thác giao
nhận hàng hoá XNK, mà họ còn cung cấp dịch vụ vận tải, tức là đóng vai trò
người chuyên chở thì họ có thể cấp vận đơn. Vận đơn mà người giao nhận là các
vận đơn do FIATA (Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận) phát hành và bao
gồm các loại sau:
Vận đơn vận tải đa phương thức của FIATA (FBL): vận đơn này do
FIATA phát hành, đã được phòng Thương mại quốc tế và Ngân hàng
chấp nhận. Vận đơn này do người giao nhận cấp khi chuyên chở hàng hoá
bằng vận tải đa phương thức hoặc vận tải đường biển. Vận đơn này được
cũng các Ngân hàng chấp nhận khi thanh toán bằng L/C, vì khi cấp vận
đơn này, người giao nhận phải đóng vai trò là người chuyên chở hoặc
người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO).
Forwarder's Certificate of Transport (FCT): Giấy chứng nhận vận tải này
do người giao nhận cấp cho người gửi hàng, xác nhận nghĩa vụ của người
giao nhận phải giao hàng tại cảng đến thông qua đại lý do người giao
nhận chỉ định.
House B/L: Vận đơn gom hàng này do người giao nhận cấp cho người gửi
hàng lẻ, khi người giao nhận cung cấp dịch vụ gom hàng trong vận tải
đường biển cung như vận tải hàng không. Vận đơn này chưa được phòng
Thương mại quốc tế thông qua, người gom hàng cấp vận đơn này có thể
đóng vai trò người chuyên chở hoặc không, vì vậy, trong nhiều trường
hợp nó không đáp ứng yêu cầu của L/C, nên có xu hướng bị thay thế bằng
FBL.
+ Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu (Charter Party B/L): là vận đơn được phát
hành trong trường hợp hàng hoá được chuyên chở theo một hợp đồng thuê tàu
chuyến và trên đó có ghi câu: "phụ thuộc vào
Page 64
hợp đồng thuê tàu" hoặc câu "sử dụng với hợp đồng thuê tàu" (to be Used with
Charter Party). Ví dụ vận đơn CONGENBILL được phát hành để sử dụng cùng
với hợp đồng thuê tàu mẫu "GENCON", có ghi câu: "All Term and Condition as
Overleaf are here with Incorporate" (tất cả các điều kiện, điều khoản ở mặt sau
được gắn liền theo đây).
Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu do chủ tàu hoặc Thuyền trưởng hoặc đại diện
của họ ký phát. Do có một câu như trên nên vận đơn này không còn tính độc lập
nữa phải phụ thuộc vào một văn bản khác là hợp đồng thuê tàu, mà nội dung của
hợp đồng này do các bên thoả thuận. Nếu người thuê đồng thời là người gửi
hàng ghi trên vận đơn thì vận đơn này chỉ là một biên lai nhận hàng. Nhưng khi
vận đơn này được ký hậu để chuyển nhượng cho người thứ ba thì nó lại điều
chỉnh mối quan hệ giữa người thuê tàu, người chuyên chở và người thứ ba đó
(hoặc người cầm vận đơn), nên nó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với
nguồn luật điều chỉnh vận đơn. Vì vậy, loại vận đơn này chỉ được Ngân hàng
chấp nhận để thanh toán khi thư tín dụng cho phép.
+ Vận đơn đã xuất trình tại cảng gửi (B/L Surrendered): Thông thường muốn
nhận hàng tại cảng đến, người nhận hàng phải xuất trình vận đơn gốc. Trong
thực tế có nhiều trường hợp , hàng đã đến nhưng vận đơn lại chưa đến, do đó
không nhận được hàng. Để khắc phục tình trạng này và để tiết kiệm chi phí gửi
vận đơn gốc, trong những năm gần đây người ta dùng một loại vận đơn gọi là
vận đơn đã xuất trình tại cảng gửi. Đây là loại vận đơn thông thường, chỉ khác là
khi cấp vận đơn này, người chuyên chở hoặc đại lý đóng thêm dấu "đã xuất
trình" (Surrendered), đồng thời điện báo "Exprees Release" cho đại lý tại cảng
đến biết để đại lý giao hàng cho người nhận mà không cần xuất trình B/L gốc.
Người gửi hàng chỉ cần Fax bản vận đơn này đến người nhận hàng là người
nhận có thể nhận được hàng.
+ Giấy gửi hàng đường biển (Sea WayBill): Do sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật
Page 65
trong ngành vận tải, nên tốc độ đưa hàng trong thương mại quốc tế rất nhanh
chóng. Như đã nói ở trên, nhiều trường hợp hàng đến cảng đích, nhưng vận đơn
gửi qua Ngân hàng hoặc bưu điện vẫn chưa tới. Người nhận không nhận được
hàng. Hơn nữa, trong những năm qua cuộc cách mạng về thông tin diễn ra mạnh
mẽ đã giúp cho các nước trên thế giới sử dụng mạng vi tính một cách rộng rãi
tạo ra một khả năng buôn bán thông qua trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) mà
không cần chứng từ, kể cả vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển cùng với
một loạt giấy tờ, chứng từ khác trong thương mại quốc tế có thể trở thành trở
ngại và tốn kém. Vì vậy, để làm bước đệm cho một nền thương mại quốc tế
không cần chứng từ trong tương lai, người ta đã đề nghị sử dụng một chứng từ
không lưu thông (Non - Negotiable) để thay thế vận đơn truyền thống đó là
"Giấy gửi đường biển". 'Giấy gửi đường biển" này có ưu điểm là người nhận có
thể nhận hàng khi xuất trình giấy tờ, chứng từ để nhận dạng, chứ không cần xuất
trình bản thân "Giấy gửi hàng đường biển". Nhược điểm của nó là không thể
dùng để khống chế hàng hoá, vì vậy hiện tại "Giấy gửi hàng đường biển" chỉ
mới được dùng để gửi các dụng cụ gia đình, hàng mẫu, hàng triển lãm, hàng phi
mậu dịch… và trong buôn bán theo phương thức ghi sổ (Open Account Trading)
với bạn hàng tin cậy.
+ Vận đơn bên thứ ba (Third Party B/L): là vận đơn mà trên đó ghi người hưởng
lợi L/C không phải là người gửi hàng (Shipper) mà là người khác. Vận đơn này
sử dụng trong trường hợp khi một nhà máy, xí nghiẹp xuất khẩu uỷ thác qua một
đơn vị xuất nhập khẩu. Nếu L/C có quy định chấp nhận cả vận đơn bên thứ ba
thì có nghĩa là vận đơn và các chứng từ gửi hàng khác được phép ghi tên người
gửi hàng không phải là người hưởng lợi L/C, chứ không liên quan đến người ký
phát chứng từ.
+ Vận đơn có thể thay đổi (Switch B/L): là vận đơn cho phép thay đổi một số
chi tiết trên B/L như: cảng dỡ, cảng xếp hàng, số lượng hàng, người gửi, ngày
ký…
Page 66
+ Biên lai Thuyền phó (Mate's Recceipt): là biên lai ghi chép việc xếp hàng lên
tàu do Thuyền trưởng hoặc Thuyền phó lập. Biên lai này ghi số lượng, khối
lượng, tình trạng hàng hoá xếp lên tàu và là cơ sở để cấp vận đơn.
4.2.3.6. Nội dung của vận đơn đường biển
Theo Quy tắc Hamburg, vận đơn đường biển ngoài các chi tiết khác phải có các
chi tiết sau đây:
Tính chất chung của hàng hoá, những mã hiệu chính để nhận dạng hàng
hóa, tính chất nguy hiểm của hàng hoá (nếu có), số lượng, trọng lượng
của hàng hoá, các chi tiết khác do người gửi hàng cung cấp.
Tình trạng bên ngoài của hàng hoá.
Tên và trụ sở kinh doanh chính của người chuyên chở.
Tên người gửi hàng.
Tên người nhận hàng nếu do người gửi hàng chỉ định.
Cảng xếp hàng theo hợp đồng vận tải đường biển và ngày mà người
chuyên chở nhận hàng để chở.
Cảng dỡ hàng.
Số lượng bản vận đơn gốc.
Nơi phát hành vận đơn.
Chữ ký của người chuyên chở hoặc người thay mặt người chuyên chở.
Khoản cước phí do người nhận trả.
Điều nói về việc áp dụng Công ước.
Page 67
Diều nói về việc hàng sẽ hoặc có thể chở trên boong.
Ngày hoặc thời hạn giao hàng tại cảng dỡ, nếu có thoả thuận giữa các bên.
Thoả thuận tăng thêm giới hạn trách nhiệm (nếu có).
Về mặt hình thức, vận đơn của các hãng tàu thường một khuôn mẫu tương đối
giống nhau. Các vận đơn đều gồm hai mặt. Mặt trước được chia thành từng ô và
có các chi tiết, theo thứ tự từ trên xuống dưới là: tên hãng tàu, người gửi hàng,
người nhận hàng, bên thông báo, tên tàu, cảng xếp, cảng dỡ, số vận đơn, số
phiếu lưu cước tham chiếu xuất khẩu, đại lý giao nhận, nơi xuất xứ của hàng
hoá, những chi tiết do người gửi hàng cung cấp (tên hàng, ký mã hiệu, trọng
lượng, số lượng, thể tích, số Container…), cước phí, phụ phí, cước trả trước hay
sau, số lượng bản gốc, ngày phát hành vận đơn, ngày xếp hàng hay ngày nhận
hàng, chữ ký… Mặt sau của vận đơn in sẵn các điều kiện, điều khoản chuyên
chở (Terms and Condition of Carriage) như: các định nghĩa, các điều khoản tối
cao, cước phí và phụ phí, trách nhiệm của người chuyên chở, đi thuê lại, thông
báo tổn thất và thời hạn khiếu nại, giao hàng, kiểm tra hàng hoá, Container do
người gửi hàng đóng, hàng dễ vỡ, hàng nguy hiểm, cầm giữ hàng, tổn thất
chung, giải quyết trang chấp, điều khoản hai tàu đâm va nhau cùng có lỗi, điều
khoản New Jason…
Cũng giống như Hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng chuyên chở hàng
hoá bằng đường biển bị điều chỉnh bởi các nguồn luật khác nhau.
Điều ước quốc tế quan trọng nhất hiện hành điều chỉnh quan hệ hợp đồng
chuyên chở hàng hoá bằng đường biển là công ước quốc tế Brussels 1924 được
sửa đổi năm 1978. Hiện nay trong vận chuyển hàng hoá đường biển, để đơn giản
quá trình ký kết hợp đồng, nhiều hãng tàu đã soạn thảo các Hợp đồng mẫu (Ví
du mẫu hợp đồng Gencon áp dụng cho bách hoá, hay Centrocon áp dụng cho
hàng lương thực...) là những mẫu hợp đồng được sử dụng khá phổ biến trong
Page 68
vận chuyển đường biển quốc tế.
Thông thường một hợp đồng chuyên chở cũng bao gồm những điều khoản trong
đó quyền và nghĩa vụ giữa người chuyên chở và người thuê chuyên chở được
thoả thuận. Tuy nhiên do mẫu hợp đồng chuyên chở thường do người cho thuê (
hãng tàu) soạn thảo nên trong đó chứa đựng nhiều điều khoản mang tính chất
cửa quyền mà khi sử dụng nó nếu người thuê không xem xét để sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp yêu cầu của mình thì dễ rơi vào tình trạng bất lợi khi thực hiện. Dù
cho trong vận tải biển có nhiều loại hợp đồng được áp dụng nhưng chúng
thường có nội dung tương đối giống nhau.
4.3 Một số điều khoản lưu ý khi sử dụng hợp đồng mẫu
Khi sử dụng các mẫu hợp đồng, người thuê cần lưu ý một số khía cạnh pháp lý
sau:
4.3.1. Về điều khoản tên tàu
Khi ký hợp đồng, người chuyên chở và người thuê có thể xác định tên cụ thể
con tàu, cũng có thể xác định một con tàu theo điều kiện nào đó sẽ được người
cho thuê đưa đến và người thuê chấp nhận ( tàu thay thế).Vì tuổi tàu có liên
quan đến vấn đề bảo hiểm hàng hoá và cước phí (Thông thường bảo hiểm hàng
hoá chuyên chở trên những con tàu già bao giờ cũng đắt ơn là chuyên chở trên
tàu trẻ, vì rủi ro dễ dàng xảy ra đối với tàu già, tàu cũ), cho nên việc chọn tàu
như thế nào là quyền của người thuê và khả năng đáp ứng của người cho thuê.
Về những đặc tính của con tàu như mớn nước, cấu tạo chiều dài, rộng, cao cần
được chú ý vì nó liên quan đến khả năng vào r acảng đích. Ví dụ: nếu mớn nước
sâu nhất ở cảng đích chỉ có 12 feet mà mớn nước của tàu khi chở đầy hàng là 15
feet thì con tàu chắc chắn sẽ không thể cập cầu và do đó việc chuyển tải hàng
hoá sẽ xáy ra và phát sinh vấn đề chi phí. Cơ cấu cần cẩu tàu cũng cần chú ý
nhất là khi tàu phải vào những cảng mà phải dỡ hàng bằng phương tiện bốc dỡ
Page 69
trên bờ còn hạn chế (Ví dụ: cẩu để dỡ hàng nặng, hàng chở bằng container trong
khi trên tàu chở loại hàng đó).
Về điều khoản khả năng đi biển của con tàu nói lên con tàu có bảo đảm đi trên
biển để chở hàng hoá đến đích không. Trách nhiêm phải làm cho tàu có khả
năng đi biển thuộc về người chuyên chở, nhưng người cho thuê không vì vậy mà
quên buộc người bán chứng minh vấn đề này. Điều quan trọng nữa là người thuê
tàu để chở hàng nên cần lưu ý đến cấu tạo hầm tàu và hệ thống thông gió của
tàu.
4.3.2. Điều khoản tên hàng
Trong hợp đồng chuyên chở tên hàng được xác định ngay khi ký hợp đồng. Nếu
trong hợp đồng mua bán ngoại thương đã xác định tỷ lệ cộng thì trong hợp đồng
chuyên chở cũng cần xác định một tỷ lệ non kém cho phép tương tự để tạo thuận
lợi cho người gửi hàng và chuyên chở. Tỷ lệ này có thể cộng 10% đối với lô
hàng có khối lượng non.
4.3.3. Điều khoản địa điểm xếp hàng và dỡ hàng
Cần được xác định cụ thể càng tốt bởi vì nếu xác định chung chung thì trong
nhiều trường hợp chuyên chở sẽ lợi dụng và không đưa tàu đến đúng vị trí mà
người thuê vận chuyển mong muốn.
4.3.4. Điều khoản đi chệch đường:
Là điều khoản mà chủ tàu đưa ra nhằm giành cho họ được quyền vào bất cứ
cảng nào hay nhằm bất kỳ mục đích gì để buộc người chuyên chở đưa con tàu đi
đúng hướng từ cảng xếp đến cảng dỡ, người thuê tàu phải chú ý sửa đối điều
khoản này và chỉ chấp nhận việc đi chệch đường vì những lý do hợp lý ( như
cứu tàu hoặc sinh mạng trên biển, do phải tránh bão, sóng thần...)
Page 70
4.3.5. Điều khoản thông báo tàu:
Cần quy định rõ trách nhiệm của chủ tàu hoặc đại lý của họ trong việc thông báo
cho người thuê tàu để họ biết và chuẩn bị hàng xếp xuống tàu. Thông báo cần
quy định phải tiến hành hai lần ( Dự kiến ngày tàu đến cảng xếp hàng và tàu đã
vào cảng và sẵn sàng xếp hàng).
Thông báo sẵn sàng xếp hàng chỉ có thể được tiến hành sau khi tàu đã làm xong
mọi thủ tục tại cảng (Thủ tục Hải quan, biên phòng, vệ sinh, kiểm dịch...) Cho
nên nếu thông báo đó gửi trước khi làm thủ tục thì chỉ có giá trị là một dự báo
tàu đến và tàu không được vin vào đó để bắt đầu tính thời gian bốc dỡ.
4.3.6. Điều khoản xếp dỡ hàng hoá
Điều khoản này quy định trách nhiệm xếp dỡ hàng thuộc về ai.
Thông thường theo hợp đồng chuyên chở thì trách nhiệm này thuộc về người
chuyên chở. Do phải chịu trách nhiệm xếp dỡ nên việc cung cấp vật liệu chèn lót
cũng thuộc về họ chứ không thuộc về người thuê. Trong các hợp đông chuyên
chở, người chuyên chở thường thoả thuận với người thuê tàu mức bốc dỡ (bao
nhiêu tấn? ngày?) và theo đó nếu việc xếp dỡ chậm lại sẽ bị phạt và ngược lại
xếp dỡ vượt mức sẽ được thưởng. Thưởng phạt sẽ được áp dụng chủ yếu trong
những trường hợp xếp dỡ được quy định là trách nhiệm của người thuê hay
người nhận hàng.
4.3.7. Điều khoản cước phí
Quy định về mức cước trả cho từng tấn hàng hoặc toàn bộ lô hàng được chuyên
chở, đồng thời cũng quy định thời gian và nơi thanh toán.
Ngoài những điều khoản trên, thông thường trong các hợp đồng vận chuyển còn
có các điều khoản khác như đình công, điều
Page 71
khoản đóng băng, điều khoản chiến tranh, va đập...
Từ những điều khoản của các hợp đồng chuyên chở, chúng ta có thể rút ra
những điểm chủ yếu về quyền và nghĩa vụ của người chuyên chở và người thuê
chuyên chở. Đó cũng là cơ sở để phân định trách nhiệm mỗi bên trong trường
hợp có rủi ro tổn thất xảy ra đối với hàng hoá trong quá trình chuyên chở trên
biển.
Nhìn chung, trong các hợp đồng chuyên chở có những điều khoản là giống nhau,
tuy nhiên bên canh đó nó cũng có những điểm quy định riêng cho từng loại hợp
đồng. Sau đây chúng ta sẽ cùng tham khảo nội dung của một hợp đồng tiêu biểu
trong các loại Hợp đồng vận tải:
III Một vài nét khái quát về vận tải bằng đường hàng không.
1 Vị trí của vận tải hàng không
Ngày nay vận chuyển hàng không đóng vai trò quan trọng trong buôn bán quốc
tế, những hàng hoá có giá trị cao, nhạy cảm về thời gian và mau hỏng ngày càng
được vận chuyển nhiều bằng đường hàng không. Vận tải hàng không chiếm
khoảng 20 - 30 % tổng kim ngạch của buôn bán quốc tế.
So với các phương thức vận tải khác thì vận tải hàng không đứng vị trí số 2.
Hàng không vận chuyển 1% khối lượng hàng hoá nhưng trị giá của nó chiếm
33%. Vận tải hàng không có vị trí quan trọng trong giao lưu kinh tế giữa các
nước, là cầu nối giữa các nền văn hoá của các dân tộc, là phương tiện chính
trong du lịch quốc tế. Nó là một mắt xích quan trọng trong quy trình tổ chức vận
tải đa phương thức quốc tế.
2 Đặc điểm của vận tải hàng không
Tuyến đường trong vận tải hàng không là không trung gian và hầu như là đường
thẳng, không phụ thuộc vào địa hình mặt đất, mặt nước, không phải đầu tư xây
Page 72
dựng. Thông thường, tuyến đường tuyến đường hàng không bao giờ cũng ngắn
hơn tuyến đường sắt và đường ô tô khoảng 20% và tuyến đường sông khoảng
10%.
Tốc độ vận tải hàng không cao, thời gian vận chuyển ngắn. Nếu chúng ta so
sánh trên một quáng đường vận chuyển dài 500 km, thì máy bay bay mất 1 tiếng
đồng hồ, còn tàu hoả đi mất 8,3 tiếng, ô tô chạy mất khoảng 10 tiếng và tàu biển
đi mất khoảng 27 tiếng.
Vận tải hàng không an toàn nhất: so với các phương thức vận tải khác thì vận tải
hàng không ít tổn thất nhất, vì do thời gian vận chuyển ngắn nhất, trang thiết bị
phục vụ vận chuyển hiện đại nhất, máy bay bay ở độ cao tren 9.000 mét trên
tầng điện ly, nên trừ lúc cất cánh, hạ cánh, máy bay hầu như không bị tác động
bởi các điều kiện thiên nhiên như: sét, mưa bão... trong hành trình chuyên chở.
Vận tải hàng không luôn đòi hỏi sử dụng công nghệ cao: do có tốc độ cao, phục
vụ chuyên chở hành khách, một số hàng hoá có giá trị cao, hàng cứu trợ khẩn
cấp... là chính, nên đòi hỏi phải an toàn tuyệt đối trong quá trình chuyên chở.
Vận tải hàng không không cho phép sai sót dù là nhỏ nhất, vì thế vận tải hàng
không đòi hỏi những tiêu chuẩn rất khắt khe về công nghệ kỹ thuât.
Vận tải hàng không cung cấp các dịch vụ có tiêu chuẩn chất lượng cao hơn hẳn
so với phương thức vận tải khác và được đơn giản hoá về thủ tục, giấy tờ do
máy bay bay thẳng, ít qua các trạm kiểm tra, kiểm soát...
Tuy vậy, vận tải hàng không cũng có một số hạn chế nhất định:
Cước phí vận tải hàng không cao nhất, do chi phí trang thiết bị hiện đại, chi phí
sân bay, chi phí khấu hao máy bay, chi phí dịch vụ cao... Nếu so sánh cước phí
vận chuyển 1 kg hàng hoá trên cùng một tuyến đường từ Nhật đến Luân Đôn, thì
cước phí bằng máy bay mất 5,5 USD, trong khi đó bằng tàu biển chỉ mất 0,7
USD. So sánh với cước phí vận tải đường sắt và ô tô thì cước phí vận tải hàng
Page 73
không vẫn cao gấp từ 2 đến 4 lần.
Vận tải hàng không bị hạn chế đối với chuyên chở hàng hoá có khối lượng lớn,
hàng cồng kềnh, do máy bay có trọng tải và dung tích nhỏ.
Vận tải hàng không đòi hỏi đầu tư lớn về cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện
máy bay, sân bay, đào tạo nhân lực, xây dựng hệ thống kiểm soát không lưu, đặt
chỗ toàn cầu, chi phí tham gia các Tổ chức quốc tế về hàng không...
3 Cơ sở vật chất kỹ thuật của vận tải hàng không
3.1 Cảng hàng không (Airport)
Cảng hàng không (hay còn gọi là sân bay) là toàn bộ diện tích mặt đất, thậm chí
cả mặt nước cộng với toàn bộ các cơ sở hạ tầng gồm đường cất hạ cánh, các toà
nhà, nhà ga, kho tàng liên quan đến sự di chyển của hành khách và hàng hoá do
máy bay chuyên chở đến. Như vậy, sân bay là nơi cất hạ cánh của máy bay và là
nơi cung cấp các dịch vụ cho hành khách và hàng hoá.
Sân bay gồm một số khu vực chính sau đây:
Đường cất hạ cánh của máy bay,
Nơi đỗ và cất giữ máy bay,
Khu vực điều hành bay,
Khu vực đưa đón khách,
Khu vực giao nhận hàng hoá,
Khu vực quản lý hành chính...
Khu vực giao nhận hàng hoá thường gồm:
Trạm giao nhận hàng xuất khẩu: là nơi tiến hành kiểm tra hàng hoá, làm
Page 74
thủ tục thông quan, lập chứng từ về hàng hoá, giao hàng hoá xuất khẩu,
đóng hàng hoá vào các công cụ vận tải, xếp hàng lên máy bay, lưu kho
trước khi xếp lên máy bay...
Tram giao nhận hàng nhập khẩu: là nơi làm thủ tục thông quan, kiểm tra
và giao hàng cho người nhận hàng...
Trạm giao nhận hàng chuyển tải: là nơi tập trung hàng hoá chuyển tải, nơi
tiến hành các thủ tục để giao cho các hãng hàng không chuyển tiếp...
Người kinh doanh dịch vụ ở đây thường là các hãng hàng không là thành
viên của IATA làm đại lý cho nhau.
3.2 Máy bay ( Aircraft/ Airplane)
Máy bay là cơ sở vật chất chủ yếu của vận tải hàng không. Tuỳ thuộc vào mục
đích, tính năng kỹ thuật, nước sản xuất, máy bay được phân thành các loại:
3.2.1. Căn cứ vào đối tượng chuyên chở, gồm có:
Máy bay chở hành khách (Passenger Aircraft): là máy bay dùng chủ yếu để
chuyên chở hành khách, đồng thời có thể chuyên chở một lượng ít hàng hoá và
hành lý của hành khách ở boong dưới (Lower Deck). Loại nỳ thường có tần suất
bay rất cao và có tiện nghi tốt để phục vụ hành khách.
Máy bay chở hàng hoá (All Cargo Aircraft): là máy bay chủ yếu dùng để chuyên
chở hàng hoá. Loại máy bay này có thể hàng chục, hàng trăm tấn hàng/chuyến.
Tần suất bay thấp, chi phí hoạt động nhiều, chỉ thích hợp với các hãng hàng
không có tiềm năng lớn và kinh doanh ở những khu vực có nguồn hàng luân
chuyển lớn và ổn định...
Máy bay hỗn hợp (Combined Aircraft/Mixed Aircraft): là loại máy bay vừa
chuyên chở hành khách vừa chuyên chở hàng hoá ở cả boong chính và boong
dưới. Loại máy bay này còn gọi là máy bay thay đổi nhanh (Quick Change) tuỳ
Page 75
theo số lượng hành khách hoặc hàng hoá cần chuyên chở
3.2.2. Căn cứ vào động cơ, gồm có:
Máy bay động cơ Piston như các loại: máy bay DC3, Lockheed của Mỹ...
Máy bay động cơ tua bin cánh quạt (Turbo - Pro) như: Viscount 700, Britana
310...
Máy bay động cơ tua bin phản lực như các loại: A320, Boing 747, Boing 767...
3.2.3. Căn cứ vào nước sản xuất
Những nước sản xuất máy bay dân dụng lớn trên thế giới là: Mỹ, Anh, Pháp,
Nga, Italia, Hà Lan...
3.2.4. Căn cứ vào số ghế trên máy bay
Loại nhỏ: từ 50 đến dưới 100 ghế,
Loại trung bình: từ trên 100 đến 200 ghế,
Loại lớn: từ trên 200 ghế trở lên.
Đối với máy bay chở hàng hoá, người ta có thể căn cứ vào số ghế để quy đổi
thành tấn hàng hoá mà máy bay có thể chuyên chở được.
3.3 Công cụ xếp dỡ và vận chuyển hàng hoá tại sân bay
3.3.1. Công cụ xếp dỡ, vận chuyển hàng hoá tại sân bay
Gồm hai loại chính: Công cụ xếp dỡ hàng hoá lên xuống máy bay và các công
cụ vận chuyển hàng hoá từ sân bay đến máy bay:
Xe vận chuyển Container/Pallet (Container/Pallet Transport),
Page 76
Xe nâng hàng (Forklift Truck) để xếp dỡ Container và Pallet,
Thiết bị nâng Container/Pallet (Container/Pallet Loarder),
Băng chuyền hàng rời (Self PropelledConveyor/Bulk Cargo Loarder),
Giá đỡ hay rơ - moóc dùng để chở Container/Pallet (không có động cơ
riêng)...
3.3.2. Các thiết bị xếp hàng theo đơn vị (Unit Loard Divive)
Là các công cụ hay thiết bị dùng để ghép các kiện hàng nhỏ hay các kiện hàng
riêng biệt thành các kiện hàng lớn theo tiêu chuẩn nhất định phù hợp với cấu
trúc của các khoang chứa hàng trên máy bay), gồm có:
Pallet: là một bục phẳng có kích thước tiêu chuẩn dùng để tập hợp hàng
hoá trên đó nhằm thuận lợi cho việc xếp dỡ, bảo quản trong suốt quá trình
chuyên chở. Theo bảng xếp loại của IATA và tạp chí Boing 1994, Pallet
gồm : Pallet máy bay (Aircraft Pallet) và Pallet không chuyên dụng cho
máy bay (Non Aircraft Pallet).
Igloo: là một cái lồng không có đáy, làm bằng thép hoặc sợi thuỷ tinh
hoặc vật liệu phù hợp dùng để chụp lên Pallet nhằm giữ chặt hàng, sau đó
có trùm hoặc không trùm lưới lên trên tuỳ thuộc vào loại Igloo. Igloo có
2 loại chính là: Igloo không kết cấu (Non Structural Igloo) và Igloo kết
cấu (Structural Igloo).
Lưới Pallet máy bay (Aircraft Pallet - Net): là lưới hay đai sử dụng trùm
lên Pallet máy bay để giữ chặt hàng. Lưới không tự tạo thành một đơn vị
hàng hoá, mà chỉ góp phần tạo nên đơn vị hàng hoá
Container: Container chở máy bay gồm hai loại chính:
Page 77
Container theo tiêu chuẩn của IATA: là những Container sản xuất chuyên
dụng để chuyên chở hàng hoá bằng máy bay, không thích hợp với chuyên
chở hàng hoá bằng các công cụ vận tải khác như ô tô, tàu biển.
Container đa phương thức: Loại container này không chỉ dùng chuyên chở
hàng hoá bằng máy bay, nó có thể dùng cho chuyên chở bằng các phương
tiện vận tải khác. Đối với máy bay, loại này được chuyên chở trên boong
chính. Container đa phương thức gồm 6 loại: 1A, 1B, 1C, 1D, 1E, 1F
được tiêu chuẩn hoá theo tiêu chuẩn của ISO số 1496/VII.
IV Vận tải hàng hoá bằng đường hàng không
1 Vận tải hàng không quốc tế.
Đối với vận tải hàng không nói chung và vận tải hàng không quốc tế nói riêng,
ngoài việc phải tuân thủ những điều chỉnh của các Công ước, Quy tắc, Nghị
định thư về vận tải hàng không thì chúng ta cần lưu ý một số điểm sau đây khi
tham gia ký kết một Hợp đồng vận tải hàng không:
1.1 Trách nhiệm của người chuyên chở đường hàng không đối với hàng hoá.
1.1.1. Thời hạn trách nhiệm
- Người chuyên chở chịu trách nhiệm đối với hàng hoá trong quá trình vận
chuyển bằng máy bay. Vận chuyển hàng hoá bằng máy bay bao gồm giai đoạn
mà hàng hoá nằm trong sự bảo quản của người chuyên chở ở trong cảng hàng
không, trong máy bay và ở bất kỳ nơi nào, nếu hạ cánh ngoài cảng hàng không.
- Vận chuyển hàng hoá bằng máy bay không bao gồm vận chuyển đường bộ,
đường biển, đường sông, trừ phi nhằm thực hiện hợp đồng vận tải không có
chuyển tải.
1.1.2. Cơ sở trách nhiệm
Page 78
- Người chuyên chở hàng không chịu trách nhiệm về thiệt hại khi hàng hoá bị
mất mát, hao hụt hay bị chậm giao hàng (sau 7 ngày kể từ ngày lẽ ra hàng phải
tới hoặc người chuyên chở tuyên bố bị mất hàng, thì người nhận hàng có quyền
kiện người chuyên chở. Điều 13, Mục 3 của Công ước Vác - sa - va 1929).
- Người chuyên chở được miễn trách nhiệm nếu chứng minh được rằng anh ta
và đại lý đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết hoặc không thể áp dụng được
những biện pháp như vậy để tránh thiệt hại.
- Người chuyên chở cũng được miễn trách nhiệm nếu chứng minh được thiệt hại
trong việc hoa tiêu, chỉ huy bay, vận hành máy bay.
1.1.3. Giới hạn trách nhiệm
- Trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoá được giới hạn bằng số
tiền là 250 Fr. vàng/1 Kg theo Công ước Vác - sa - va Và Nghị định thư Hague.
Theo Hiệp định Montreal 1996 giới hạn trách nhiệm là 9,07 USD/1 Pound,
tương đương với 20 USD/1Kg.
- Nếu hàng hoá đã kê khai giá trị ở nơi giao hàng vào lúc giao hàng cho người
chuyên chở, thì trách nhiệm giới hạn là giá trị đã kê khai, trừ khi người chuyên
chở chứng minh được rằng giá trị đã kê khai lớn hơn giá trị thực sự của hàng
hoá.
- Theo Nghị định thư Guatemala, giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở
đối với hàng hoá là 250 Fr. vàng/1 Kg. Theo các Nghị định thư Montreal năm
1975 số 1, 2, 3, 4, giới hạn ttrách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hóa
là 17 SDR/1 Kg.
1.1.4. Khiếu nại người chuyên chở bằng đường hàng không
* Thời gian thông báo tổn thất và khiếu nại người chuyên chở
Page 79
Trường hợp thiệt hại: phải khiếu nại ngay khi phát hiện ra thiệt hại và
chậm nhất trong vòng 7 ngày.
Trường hợp chậm giao hàng: khiếu nại trong vonhg 14 ngày, kể từ ngày
hàng hoá lẽ ra phải phải đặt dưới sự định đoạt của rngười nhận hàng.
* Thời gian khởi kiện
Thời hạn khởi kiện là 1 năm, kể từ ngày máy bay phải đến hoặc từ ngày việc vận
chuyển chấm dứt
2 Vận đơn hàng không (Airway Bill - AWB)
2.1 Khái niệm
Vận đơn hàng không (AWB) là một chứng từ vận chuyển hàng hoá và là bằng
chứng của việc ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng máy bay, về điều
kiện của hợp đồng và việc đã tiếp nhận hàng hoá để vận chuyển (Luật dân dụng
hàng không qui định)
Vận đơn hàng không là chứng từ không giao dịch được (Non Negociable) bằng
cách ký hậu thông thường.
2.2 Chức năng của vận đơn hàng không.
Vận đơn hàng không có các chức năng sau:
Là bằng chứng của hợp đồng vận tải được ký kết giứ ngời chuyên chở và
người gửi hàng
Là bằng chứng chứng nhận việc nhận hàng của người chuyên chở hàng
không
Là hoá đơn thanh toán cước phí (Freight bill)
Page 80
Là giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate)
Là chứng từ khai hải quan
Là bản hướng dẫn đối với nhân viên hàng không.
3 Cước phí vận tải đường hàng không
3.1 Khái niệm về cước phí
Cước phí (Charge): là số tiền phải trả cho việc vận chuyển lô hàng hoặc cho các
dịch vụ liên quan đến chuyên chở. Mức cước hay giá cước (rate) là số tiền mà
người chuyên chở thu trên một đơn vị khối lượng hàng hoá vận chuyển.
3.2 Cơ sở tính cước phí
Cước có thế tính trên cơ sở trọng lượng, nếu là lô hàng nhỏ và thuốc loại hàng
nặng
Cước tính theo thể tích hay dung tích chiếm chỗ trên máy bay đối với hàng nhẹ
hoặc cồng kềnh.
Cước tính theo giá trị đối với hàng hoá có giá trị cao trên một đơn vị trọng lượng
hoặc đơn vị thể tích.
Tổng tiền cước được tính bằng cách: nhân số đơn vị hàng hoá chịu cước với
mức cước. Tuy nhiên, tiền cước không được nhỏ hơn cước tối thiểu đã qui định.
Cước vận chuyển hàng hoá bằng đương hàng không quốc tế được qui định trong
các biển cước do IATA ban hành: Quyển thứ nhất "Qui tắc TACT" (The Air
CArgo Tariff Rules) một năm ban hành 2 lần. Quyển thứ hai "Cước TACT" hai
tháng ban hành một lần> Quyển thứ hai gồm cuốn: Cuốn 1 về cước toàn thế
giới, trừ Bắc Mỹ, Cuốn 2 về cước Bắc Mỹ gồm cước đi, đến và cước nội hạt của
Canada và Mỹ
Page 81
4 Các loại cước phí:
4.1 Cước hàng bách hoá (General Cargo Rate - GCR):
Là cước áp dụng cho nhóm hàng bách hoá thông thường vận huyển giữa hai
điểm. Số lượng hàng hoá càng lớn, mức cước càng giảm. Cước hàng bách hoá
thường được tính theo từng mức trọng lượng hàng hoá: đến 45kg, từ 45-100kg,
từ 100-250kg, từ 250-500k, từ 500-1.000kg, từ 1.000-2.000kg…
4.2 Cước tối thiểu (Minimum Rate - M):
Là mức cước mà thấp hơn thế thì các hãng Hàng không coi là không kinh tế khi
vận chuyển một lô hàng dù là một kiện rất nhỏ. Thực tế khi tính cước bao giờ
cũng cao hơn hoặc bằng cước tối thiểu. Cước tối thiểu do IATA quy định trong
TACT.
4.3 Cước đặc biệt (Special Cargo Rate - SCR):
Thường thấp hơn cước GCR và áp dụng cho hàng hoá đặc biệt trên những tuyến
đường nhất định.
Mục đích là để chào giá cạnh tranh nhằm cho phép sử dụng tối ưu khả năng
chuyên chở của hãng Hàng không.
Trọng lượng tối thiểu để áp dụng tính cước là 100kg.
Theo TACT thì những hàng hoá áp dụng tính cước SCR đợc chia làm 10 nhóm:
0001 đến 0009; 2.000 đến 2.999; 3.000 đến 3.999; 4.000 đến 4.999; 5.000 đến
5.999; 6.000 đến 6.999; 7.000 - 7.999; 8.000 - 8.999; 9.000 - 9.999.
4.4 Cước phân loại hàng (Class Rate/Commodity Classification Rate -
CR/CCR):
Được tính trên cơ sở 0% so với cước hàng bách hoá, áp dụng đối với những mặt
Page 82
hàng không có cước riêng trên một số tuyến nhất định.
Cước Class Rate gồm một số loại chính là: động vật sống, hàng giá trị cao như
vàng, bạc, đồ trang sức, tạp chí, sách báo, hành lý gửi như hàng hoá, hài cốt
(Human Remains) bằng 50% cước GCR…
4.5 Cước cho mọi loại hàng (Freight All Kinds - FAK):
Là mức cước áp dụng chung cho mọi loại hàng hoá xếp chung trong một
Container.
4.6 Cước ULD (ULD Rate):
Là cước tính cho hàng hoá chuyên chở trong các ULD. Cước này thấp hơn cước
hàng rời, khi tính chỉ căn cứ vào loại và số lượng ULD, không căn cứ vào hàng
hoá (số lượng và chủng loại hàng).
4.7 Cước hàng chậm:
Là cước tính cho lô hàng gửi chậm. Cước này thường thấp hơn cước hàng gửi
nhanh và hàng thông thường, vì các hãng Hàng không khuyến khích loại hàng
gửi chậm.
4.8 Cước thống nhất (Unified Cargo Rate):
Là cước áp dụng khi hàng hoá chuyên chở qua nhiều chặng, người chuyên chở
chỉ áp dụng một loại giá cước dù giá cước chuyên chở phải áp dụng cho các
chặng là khác nhau. Cước này có thể thấp hơn tổng tiền cước mà chủ hàng phải
trả riêng cho từng người chuyên chở.
4.9 Cước gửi hàng nhanh (Priority Rate):
Còn gọi là cước ưu tiên, áp dụng cho lô hàng gửi gấp trong vòng 3 tiếng đồng
hồ, kể từ khi người chuyên chở nhận hàng. Cước này thường bằng 130- 140%
Page 83
của cước GCR.
4.10 Cước hàng gộp (Group Rate):
Là cước áp dụng cho những khách hàng thường xuyên gửi hàng nguyên cả
Container hay Pallet (thường là Đại lý hay người gom hàng hay người giao
nhận). Tại Hội nghị Athens năm 1969, IATA cho phép các hãng Hàng không
thuộc IATA giảm tối đa là 30% so với GCR cho đại lý, người giao nhận.
*******
Tóm lại , hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải (ngoại thương) là
hai cam kết khác hẳn nhau:
Về chủ thể của Hợp đồng mua bán ngoại thương là bên mua và bên bán;
của hợp đồng vận tải ngoại thương là cam kết chủ hàng với người vận tải
Về đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương là hàng hoá; của hợp
đồng vận tải ngoại thương là quãng đường
Về giá cả của hợp đồng mua bán ngoại thương là giá hàng được hình
thành do sự thoả thuận của hai bên, còn của hợp đồng vận tải ngoại
thương là giá cước.
Về luật pháp điều chỉnh hợp đồng của hợp đồng mua bán ngoại thương
là luật pháp liên quan đến việc mua bán hàng hoá, còn của hợp đồng vận
tải là luật và công ước vận chuyển hàng hoá như công ước Brussels,
Visby, Hamburg.
Tuy nhiên, hai loại hợp đồng này lại có những điểm chung, ví dụ như:
Về số lượng hàng: Số lượng hàng mua bán bao nhiêu thì vận tải bấy nhiêu
Về thời hạn giao hàng: Hàng được giao vào thời hạn nào thì tàu chở được
Page 84
thuê để chở hàng vào lúc đó.
Về điều kiện vận tải: Hợp đồng mua bán ký như thế nào thi trong hợp
đồng vận tải ký như thế
Page 85
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN TỐT HƠN
NỮA VIỆC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG VÀ
HỢP ĐỒNG VẬN TẢI
I Một số biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng
ngoại thương
Việc đàm phán để đi đến một hợp đồng mua bán ngoại thương là vấn đề vô
cùng quan trọng. Thông qua đàm phán ta có thể thuyết phục được bạn hàng
theo những điều khoản và phương thức mà ta mong muốn nếu chúng ta đàm
phán tốt.
Đàm phán được chia thành ba giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị đàm phán, giai
đoạn đàm phán và giai đoạn sau đàm phán. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu
từng giai đoạn này;
1 Giai đoạn 1: chuẩn bị đàm phán
Đây là giai đoạn quan trọng nhất, nó quyết định 80% kết quả của đàm phán.
Trong giai đoạn này, nhà đàm phán phải chuẩn bị kỹ càng về ba mặt sau:
Thu thập thông tin
Trước khi đàm phán cần nắm được những thông tin như:
Đối phương có lợi gì trong thương vụ này,
Ta có lợi gì trong thương vụ này
Đối phương là ai và đại diện cho đối phương là người như thế nào?
Page 86
Những thông tin gì có thể cung cấp cho đối phương
Khuynh hướng thị trường ra sao?
vv…
Chuẩn bị chiến lược
Trước khi đàm phán ta cần xác định tư duy chủ đạo của mình là tư duy chiến
lược (Strategic thinking) hay tư duy ứng phó (incremental thinking).
Những công cụ và phương tiện ta sẽ dùng là gì? (hăng hái, nhiệt tình hay
lãnh đạm, thờ ơ, đơn giản và thúc ép hay lạnh nhạt và xa lánh)
Chuẩn bị kế hoạch
Trước khi đàm phán, cần phải xác định mục tiêu của cuộc đàm phán (yêu
cầu tối đa, tối thiểu, giá cả cao nhất và giá cả thấp nhất…), những nhượng bộ
có thể phải thực hiện, những đòi hỏi đổi lại cho mỗi nhượng bộ đó..
Ta cũng phải sắp xếp về nhân sự cho cuộc đàm phán (trong đoàn đàm phán
nên gồm có những ai?)
Việc tiếp tân cũng không kém phần quan trọng trong việc đưa đàm phán đến
thắng lợi cuối cùng.
2 Giai đoạn 2: đàm phán
Trong quá trình đàm phán, các bên cần luôn luôn thực hiện những nguyên
tắc sau:
Lễ phép, lịch sự
Page 87
Hoà khí và thiện cảm
Không xa rời mục tiêu đã định
Chủ động
Để mở đầu cuộc đàm phán, người ta có thể sử dụng một trong những cách
sau:
Mở đầu làm dịu căng thẳng
Mở đầu kiếm cớ
Mở đầu kích thích trí tưởng của đối phương
Mở đầu trực tiếp (nhanh chóng chuyển vào nội dung chính)
Đi vào đàm phán, cần tranh thủ sự đồng tình của đối phương về từng vấn đề
một. Muốn vậy, những phương pháp thường dùng là:
Trình bày với vể bề ngoài thật thà
Khéo léo sử dụng chữ "nhưng"
Nêu ra những câu hỏi để đối phương trả lời và tự thuyết phục chính họ
Đề ra yêu cầu ban đầu cao rồi chủ động giảm dần yêu cầu của mình
Đưa ra phương án để đối phương tự lựa chọn
Cuối cùng, cần thúc đẩy ra quyết định bằng văn bản
Nhằm góp phần tạo nên thành công cho cuộc đàm phán, thái độ của các cán
bộ trong đàm phán cũng là một yếu tố quan trọng. Hạn chế trao đổi, tranh
Page 88
luận riêng mang tính chất nội bộ, bởi có thể bị lộ ý định nếu bên đối tác hiểu
được tiếng nước mình.
Nhạy bén đánh gía tình hình diễn biến của cuộc đàm phán để quyết định ở
mức nào là vừa phải do việc cương quyết giữ vững đề nghị của mình với khả
năng đối tác chấp nhận được. Phải biết nhượng bộ lúc nào, ở mức độ nào để
đảm bảo vừa có lợi cho ta đồng thời gây được sự thoả mãn cho đối phương.
3 Giai đoạn 3: sau đàm phán
Sau đàm phán, cần phải tỏ rõ thiện chí thực hiện những gì đã đạt được trong
cuộc đàm phán. Tuy nhiên, cũng lại cần phải tỏ ra rất sẵn sàng xem xét lại
những điều thoả thuận nào đó
Việc theo dõi thực hiện cần phải có sổ sách và tuần kỳ đối chiếu, kiểm điểm
cùng đối phương.
Mỗi cuộc đàm phán là một khoá học mà đối với những người có ý chí cầu
tiến, mỗi bên đều có thể rút ra cho mình những bài học để tự hoàn thiện
mình.
Đàm phán có thể thông qua giao dịch thư tín, cũng có thể qua điện thoại hay
gặp gỡ trực tiếp. Tuy nhiên việc đàm phán bằng cách trực tiếp gặp gỡ nhau
sẽ tạo điều kiện cho việc hiểu biết nhau tốt hơn và duy trì được quan hệ tốt
lâu dài với nhau. Bên cạnh đó cũng phải thấy rằng đây là hình thức đàm
phán khó khăn nhất trong các hình thức đàm phán. Vì vậy cần phải luôn
luôn học hỏi, trau dồi và tỉnh táo trong mọi trường hợp.
II Một số biện pháp để làm tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng vận tải
Cũng như ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, việc ký kết một hợp đồng vận
Page 89
tải cũng vô cùng quan trọng và cũng được chia ra làm ba giai đoạn.
1 Giai đoạn 1: chuẩn bị đàm phán
Cần nắm vững thực tế vận tải như:
Trên quãng đường đó có đường tàu chợ hay không?
Đường tàu chuyến thì cước phí ra sao?
Tàu chuyến có khó thuê không?
Tàu container có không?
v.v…
2 Giai đoạn 2: đàm phán
Cần nắm vững những thay đổi trên quãng đường, những quy định mới trên
quãng đường đó để vận dụng cho thích nghi.
3 Giai đoạn 3: sau đàm phán
Cần xem xét có những điều cần rút kinh nghiệm cho thời gian tới như:
Khai tên hàng, lấy vận đơn như thế nào? Khai cước phí ra sao?
v.v…
Trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp vận tải ( Nhà nước và tập thể…)
thường khoán vận chuyển cho từng đầu phương tiện (kể cả khoán cho đi
khai thác hàng), nhiều chủ hàng hay ký trực tiếp với lái xe, chủ tàu…, không
ký với đơn vị vận tải. Về nguyên tắc của hợp đồng là không đúng, nhưng
quan trọng hơn là có tranh chấp xảy ra (như mất
Page 90
mát hàng hoá…) thì đơn vị vận tải chủ quản không chịu trách nhiệm giải
quyết và cơ quan trọng tài cũng không xem xét giải quyết được, do hợp
đồng không phải hai pháp nhân ký với nhau. Vì vậy, chủ hàng nên kiên
quyết tránh kiểu ký hợp đồng trên. Lưu ý việc ký hợp đồng theo giấy giới
thiệu cũng không đảm bảo nguyên tắc.
Soạn thảo bản hợp đồng với nôi dung thật cụ thể về loại hàng, khối lượng,
phương thức giao nhận cụ thể, tỷ lệ hao hụt, áp tải, giá cước và nên có trách
nhiệm vật chất (thưởng phạt…) để hai bên cùng có trách nhiệm với hợp
đồng và khi có tranh chấp đưa đến cơ quan trọng tài thì việc xem xét giải
quyết sẽ thuận lợi, rõ ràng. Chủ hàng cần tránh tư tưởng ký hợp đồng vận tải
miễn sao có được phương tiện vân chuyển theo yêu cầu chở hàng của mình,
trong khi nội dung hợp đồng quá đơn giản chỉ thể hiện được khối lượng
hàng vận chuyển, giá cả thanh toán và người đại diện là ai ký vào cũng
được, thì rất rắc rối khi có hậu quả xảy ra.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có phát sinh thêm các sự kiện mới
như đổi địa điểm giao nhận, thay đổi loại hàng, chờ kho…thì hai bên cần
làm phụ lục hợp đồng cụ thể, rõ ràng, tránh không nên thoả thuận bằng
miệng, sẽ không có cơ sở giải quyết khi có tranh chấp.
Hợp đồng ký xong ngoài các văn bản hai bên giữ, cần phải gửi thêm cho
Ngân hàng mà hai bên có tài khoản để làm cơ sở cho vay và thanh toán
Hợp đồng phải được thủ trưởng đơn vị của hai bên ký tên và đóng dấu. Nếu
vì một vài điều khoản mà hai bên chưa thống nhất thì ghi vào hợp đồng, mỗi
bên vẫn còn bảo lưu quan điểm của mình, thì hai bên vẫn ký hợp đồng với
các điều kiện đã thống nhất, còn những điều chưa thống nhất nên ghi rõ vào
Page 91
hợp đồng ý kiến bảo lưu của hai bên báo cáo cơ quan chủ quản cấp trên xử
lý.
Cần nắm vững chế độ thưởng phạt của hợp đồng vận tải để vận dụng tốt hơn
trong khi
thanh
toán
tiền
thưởng (dispatch money) và
tiền phạt
(Demuerrage) này.
Để thực hiện tốt hơn nữa hợp đồng vận tải và hợp đồng mua bán ngoại
thương, Nhà nước phải có chính sách xuất nhập khẩu rõ ràng và phù hợp, lên
được số lượng (quota) cho mỗi hàng hoá dự kiến nhập khẩu trong năm, để từ
đó lựa chọn được phương thức cũng như đối tác để ký kết hợp đồng vận
chuyển phù hợp.
Để thực hiện tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp
đồng vận tải cho các thiết bị viễn thông của nước nhà, các doanh nghiệp
cũng như các ban ngành bưu chính viễn thông cần nẵm rõ mục tiêu đề ra của
Tổng Công ty bưu chính viễn thông trong từng giai đoạn.
Giai đoạn 2002-2005, với mục tiêu hội nhập thế giới và ra nhập AFTA,
Chính phủ và cục bưu chính viễn thông đang lên chính sách và kế hoạch để
keu gọi đầu tư, đảy mạnh nguồn vốn ODA, BCC, tái đầu tư trong nước, mở
rộng các nguồn vốn từ có để nhập thêm công nghệ và các dịch vụ viễn thông
mới để tiến đến ngang bẵng với nền viễn thông trong khu vực, tạo sức cạnh
tranh trên thị trường, hoà mạng với thế giới, đưa giá cước điện thoại và
internet xuống phù hợp với khả năng tiêu dùng của người dân.
Chỉ tiêu kế hoạch đến năm 2005 đặt ra là phải tăng tốc phát triển các khu
vực, các tỉnh,.. năng cao hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất, yêu cầu các chủ
đầu tư, các đơn vị trực thuộc lập dự án đầu tư, tư vấn để xin đầu tư, xin
Page 92
nguòn vốn từ Tổng Công ty Bưu chính viễn thông. Khi dự án khả thi và
được phê duyệt thì cần tiến hành đấu thầu và gọi thầu Quốc tế. Về qui chế
đấu thầu, cần nghiên cứu kỹ các NĐ42/CP, 43/CP và gần đây nhất là
NĐ88/CP.
Việc lựa chọn nhà thắng thầu phải dựa vào công nghệ, giá cả, dịch vụ hậu
mãi và khả năng tài chính cũng như chiến lược của đôí tác dự định đầu tư
vào nước ta. Bên cạnh đó cũng cần phải nắm rõ qui định số 91 về quản lý
NK thiết bị máy móc của Thủ Tướng chính phủ và thông tư hướng dẫn
04TM-ĐT ký ngày 30/4/93 của bộ thương mại hướng dẫn thực hiện quyết
định. Đồng thời cũng phải nắm rõ các quic chế, qui định về quản lý hàng hoá
xuất nhập khẩu để dự trù, tính toán mức thuế xuất cần thiết.
Sau khi có kết quả phê duyệt, cần thực hiện đàm phán ký kết hợp đồng. Dựa
vào những điều khoản và nguyên tắc đã trình bày ở trên để tiến hành. Cần
lưu ý đối với thiết bị toàn bộ, công nghệ cao dưới sự quản lý của nhà nước,
cần nhập khẩu và đưa vào những công nghệ đáp ứng công nghệ tiến tiến,
không bị lạc hậu. Với các thiết bị hay công nghệ dưới sự quản lý chuyên
ngành thì cần phải có giấy phép của bộ bưu chính viễn thông. Những hợp
đồng trị giá trên 500.000 USD phải có giấy phép của Bộ Thương mại và nếu
trị giá lớn hơn 10.000.000 USD thì cần có giấy phép của Bộ Tài chính.
Bên cạnh đó cũng đưa ra phương thức vận chuyển phù hợp với từng loại mặt
hàng. Có những hàng cần phải đựơc vận chuyển bằng đường hàng không để
tránh bớt rủi ro đổ vỡ, hư hỏng trong quá trình vận chuyển bằng đường biển
nhưng cũng có hàng phải vận chuyển bằng đường biển do quá kích cỡ hay
Page 93
để giảm bớt chi phí…
Page 94
KẾT LUẬN
Hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải ngoại thương là hai
hợp đồng quan trọng nhất trong buôn bán quốc tế của ngành ngoại thương ở
nước ta. Hai hợp đồng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong kinh
doanh có cái được ký kết trước, có cái được ký kết sau. Là một cán bộ kinh
doanh, tôi thấy cần phải có nhận định về mối quan hệ giữa hai hợp đồng này.
Trong 90 trang của luận văn này, tôi đã:
Trình bày các nguyên tắc cơ bản trước khi ký kết hợp đồng mua bán
ngoại thương và hợp đồng vận tải
Trình bày các điều khoản của hai loại hợp đồng này
Trình bày về các văn bản, nhất là về các loại vận đơn, có liên quan
đến các chứng từ của hợp đồng này.
Trình bày các loại cước phí có liên quan
Một số qui định và những vấn đề liên quan cần lưu ý khi ký kết một
hợp đồng mua bán ngoại thương các thiết bị, công nghệ tin học cho
nước nhà.
Bằng phương pháp so sánh, đối chiếu hai loại hợp đồng này chúng ta thấy
đây là hai loại hợp đồng cơ bản trong quan hệ kinh tế thương mại đối ngoại.
Trên thực tế trong ngành bưu chính viễn thông tin học, bằng phương pháp
phân tích chúng ta đã thấy có những phương thức khác nhau trong quá trình
ký hợp đồng nói trên.
Page 95
Dựa vào những điều cơ bản được trình bày trong luận văn này, chúng ta đúc
kết ra được những nguyên tắc nhất định. Vì vậy trước khi ký kết chúng ta
cần lưu ý, nghiên cứu kỹ để hai hợp đồng này được ký kết rõ ràng.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cám ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của
thầy Vũ Hữu Tửu cùng sự giảng dạy tận tâm của toàn bộ giáo viên trường
Đại học Ngoại thương trong suốt thời gian học tập đã giúp tôi hoàn thành
luận văn này.
Page 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách: Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - Vũ Hữu Tửu
2. Sách: Vận tải và giao nhận trong ngoại thương - PGS.TS. Nguyễn
Hồng Đàm (Chủ biên), GS.TS. Hoàng Văn Châu, PGS.TS Nguyễn
Như Tiến, TS. Vũ Sĩ Tuấn
3. Những điều kiện thương mại Quốc tế - Incoterm 2000 – Nhà xuất bản
khoa học và kỹ thuật
4. Soạn thảo hợp đồng kinh tế - Nguyễn Quang, Anh Minh
5. Hợp đồng kinh tế và chế định về tài phán trong kinh doanh tại Việt
nam - Bùi Thị Khuyên, Phạm Văn Phấn, Phạm Thị Thuỳ Dương
6. Những lỗi thường gặp trong ký kết hợp đồng dân sự, kinh tế, thương
mại – Nguyễn Thu Thảo.
7. Thời báo kinh tế Việt nam Số: 57 (9/4), 58 (11/4), 60 (14/4), 62
(18/4), 64 (21/4), 67 (26/4)
Page 97
PHỤ LỤC
I. QUI ĐỊNH SỐ 299/TMDLXN NGÀY 9-4-1992 CỦA BỘ THƯƠNG
MẠI VÀ DU LỊCH VỀ VIỆC KÝ KẾT VÀ QUẢN LÝ HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HOÁ NGOẠI THƯƠNG (HĐMBNT)
Trong khi chờ ban hành Luật Thương mại;
Để việc giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương phù
hợp với Luật pháp Việt nam, tập quán Thương mại quốc tế;
Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu;
Bộ Thương mại và Du lịch qui định như sau:
I. Qui định chung
Điều 1. Mọi việc mua bán trao đổi hàng hoá và dịch vụ tại Điều 1,
Nghị định số 114/HĐBT ngày 7-4-1992 của Hội đồng Bộ trưởng phải được
thực hiện bằng hợp đồng mua bán ngoại thương.
Điều 2. Chủ thể về phía Việt nam của hợp đồng mua bán ngoại
thương.
2.1. Chỉ các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do
Bộ Thương mại và Du lịch cấp mới ddược quyền giao dịch, ký kết hợp đồng
mua bán ngoại thương.
Các doanh nghiệp chưa có giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu
không có quyền giao dịch ký hợp đồng mua bán ngoại thương, mọi hợp
đồng mua bán ngoại thương do các doanh nghiệp này ký đều không co hiệu
lực.
2.2. Người có thẩm quyền thay mặt cho doanh nghiệp xuất, nhập khẩu
ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương là giám đốc (hoặc phó giám đốc),
hoặc người được giám đốc uỷ quyền hợp pháp bằng văn bản.
Điều 3. Đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương:
3.1. Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương phải
là hàng không thuộc danh mục hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, nếu là
hàng quản lý bằng hạn ngạch thì phải có phiếu hạn ngạch.
3.2. Doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được ký kết hợp
đồng mua bán những hàng hoá ghi trong giấy phép kinh doanh xuất, nhập
khẩu.
Điều 4. Hình thức hợp đồng mua bán ngoại thương.
4.1. Hợp đồng mua bán ngoại thương phải được làm bằng văn bản
mới có hiệu lực. Thư từ, điện tín, telex, fax, cũng được coi là văn bản. Mọi
hình thức thoả thuận bằng miệng đều không có hiệu lực.
4.2. Mọi sửa đổi bổ sung hợp đồng mua bán ngoại thương phải được
làm bằng văn bản.
Điều 5. Giao dịch, ký kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài.
5.1.Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt nam khi giao
dịch ký kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài, phải nắm được năng lực
quản lý, khả năng tài chính và tín nhiệm thương mại của họ.
5.2. Không giao dịch và ký kết hợp đồng với những người không có
thẩm quyền đại diện như các văn phòng đại diện của nước ngoài tại Việt
nam hoặc các đại diện bất hợp pháp của nước ngoài.
II. Qui định về nội dung của hợp đồng mua bán ngoại thương
Điều 6. Những điều khoản chủ yếu của hợp đồng:
6.1. Tên hàng
- Ghi đúng tên thương mại và nhãn hiệu thương mại của hàng hoá.
- Khi cần thiết phải ghi rõ cả công dụng của hàng hoá để phân biệt các
loại hàng cùng tên.
6.2. Số lượng
- Số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập quán thương
mại quốc tế.
- Phương pháp xác định số lượng.
- Địa điểm xác định số lượng.
- Tỷ lệ dung sai (tuỳ theo từng loại hàng).
6.3. Quy cách phẩm chất:
- Những yếu tố chủ yếu về quy cách, phẩm chất của hàng hoá và
phương pháp xác định.
- Trách nhiệm của người bán và người mua đối với việc kiểm tra quy
cách, phẩm chất, thời gian và địa điểm kiểm tra.
6.4. Thời hạn và địa điểm giao hàng.
- Thời hạn giao hàng.
- Địa điểm giao hàng.
6.5. Giá cả và điều kiện giao hàng:
- Giá hàng phải căn cứ theo giá quốc tế, phù hợp với những quy định
của Nhà nước và thích ứng với từng điều kiện giao hàng cơ sở.
- Giá hàng không được tách rời các điều kiện giao hàng cơ sở (FOB,
CF, CIF… theo Incoterm nào).
- Điều kiện giao hàng cơ sở phù hợp với khả năng và hiệu quả về giao
nhận, vận chuyển, bảo hiểm…
6.6. Phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán:
- Đồng tiền thanh toán (lựa chọn đồng tiền thanh toán thích hợp).
- Thanh toán theo L/C: điều kiện của L/C phải phù hợp với các điều
kiện của hợp đồng; số liệu, chứng từ thanh toán phải đáp ứng các yêu cầu
nghiêm ngặt của L/C.
- ủy thác thu (D/A, D/P).
- Thanh toán theo TTR; chỉ áp dụng đối với các bạn hàng quen biết và
có tín nhiệm.
- Đổi hàng: phải thanh toán qua Ngân hàng Việt nam, phải quy định
cụ thể số lượng và trị giá hàng đổi; phải cân đối trị giá giữ hàng xuất và hàng
nhập.
Điều 7. Những điều khoản khác của hợp đồng:
7.1. Bao bì ký mã hiệu.
7.2. Giám định hàng hoá (số lượng, quy cách, phẩm chất, tổn thất).
- Phải chọn một tổ chức giám định trung lập và có uy tín.
- Thời gian và địa điểm giám định (nơi giao hàng hay nơi nhận hàng).
- Giá trị quản lý của biên bản giám định (có giá trị cuối cùng hay
không).
7.3. Các trường hợp miễn trách.
- Trường hợp bất khả kháng.
- Lỗi của bên kia hoặc bên thứ ba.
- Các trường hợp miễn trách do hai bên thoả thuận.
7.4. Chế tài
- Phạt vi phạm hợp đồng (giao hàng chậm, thanh toán chậm, thông
báo tin tầu, tin hàng chậm…).
- Bồi thường thiệt hại (giao hàng không đúng quy cách, phẩm chất,
thiếu số lượng, không giao hàng, không khiếu nại…).
- Giải quyết bằng trọng tài (chọn tổ chức trọng tài thích hợp, chọn luật
áp dụng…).
7.5. Bảo hành, bảo dưỡng; giám sát, kiểm tra việc giao hàng, cử
chuyên gia lắp ráp, vận hành, hướng dẫn sử dụng…
7.6. Điều kiện có hiệu lực và thời hạn hiệu lực hợp đồng.
Đối với hợp đồng mua bán thiết bị toàn bộ, sở hữu công nghiệp, dây
chuyền sản xuất, hợp đồng dịch vụ, ngoài các điều khoản chung nêu trên,
cần có thêm:
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật.
- Các bản chào giá có kèm catalogue.
III. Điều khoản thi hành.
Điều 8. Bộ Thương mại và Du lịch có quyền giám sát, kiểm tra và có
trách nhiệm hướng dẫn việc giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua
bán ngoại thương.
Điều 9. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có quyền chủ
động và chịu trách nhiệm chính trong việc giao dịch, ký kết và thực hiện hợp
đồng mua bán ngoại thương đúng luật pháp và tập quán thương mại, bảo
đảm lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của Nhà nước.
Chậm nhất 20 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng mua bán ngoại thương,
các doanh nghiệp phải gửi một bản chính (nếu bản sao, phải có công chứng)
về Bộ Thương mại và Du lịch (Phòng cấp giấy phép khu vực). Sau 7 ngày,
kể từ ngày nhận hợp đồng (đối với hàng hoá thông thường), nếu Phòng giấy
phép không có ý kiến gì khác thì doanh nghiệp có quyền yêu cầu được nhận
giấy phép xuất nhập khẩu.
Điều 10. Những hành vi vi phạm các quy định nói trên sẽ bị xử lý theo
luật pháp hiện hành.
Bộ trưởng
Bộ thương mại và du lịch
Lê Văn Triết
II. HỢP ĐỒNG THAM KHẢO
(Xin tham khảo hợp đồng đã được ký kết giữa Công ty Vật tư Bưu điện I – Cokyvina và Công ty Datacraft Singapore)
III. BỘ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI.
CÁC CHỨNG TỪ CÓ LIÊN QUAN
(Xin tham khảo hợp đồng đã được ký kết giữa Công ty Cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT với Công ty Hewlett-Packard Singapore)