TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài: HỢP ĐỒNG VẬN TẢI VÀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI

THƯƠNG

Sinh viên thực hiện: Đỗ Thị Thanh Hiền

Lớp A1 – CN9

Giáo viên hướng dẫn: Vũ Hữu Tửu

Hà nội năm 2003

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................... 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI VÀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG. MỐI LIÊN QUAN MẬT THIẾT GIỮA HAI HỢP ĐỒNG. ................................................................................... 4

I HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG: .......................................... 4

1 KHÁI NIỆM ........................................................................................ 4

2 SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG. ................................................................................................... 5

II HỢP ĐỒNG VẬN TẢI ............................................................................ 6

1 ĐỊNH NGHĨA ...................................................................................... 6

2 SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VẬN TẢI. ................................. 7

3 MỐI QUAN HỆ GIỮA HĐ MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ HĐ VẬN TẢI. ............................................................................................................. 9

CHƯƠNG II: CÁC ĐIỀU KHOẢN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI .................................................................... 12

I HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ .................................. 12

1 CÁC ĐIỀU KIỆN CHUNG ................................................................ 12

2 CÁC ĐIỀU KHOẢN CHÍNH TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG .................................................................................... 15

II HỢP ĐỒNG VẬN TẢI. ......................................................................... 36

1 NHỮNG NGUYÊN TẮC CẦN QUÁN TRIỆT KHI LẬP HỢP ĐỒNG VẬN TẢI HÀNG HOÁ ............................................................................. 36

2 VẬN TẢI HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN. ................................ 51

3 CÁC PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI THƯỜNG DÙNG TRONG CHUYÊN CHỞ HÀNG HOÁ NGOẠI THƯƠNG BẰNG ĐƯỜNG BIỂN52

4 VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN................................................................. 54

III MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ VẬN TẢI BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG. ....................................................................................................... 72

1 VỊ TRÍ CỦA VẬN TẢI HÀNG KHÔNG ........................................... 72

2 ĐẶC ĐIỂM CỦA VẬN TẢI HÀNG KHÔNG ................................... 72

3 CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT CỦA VẬN TẢI HÀNG KHÔNG .. 74

IV VẬN TẢI HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG ................ 78

1 VẬN TẢI HÀNG KHÔNG QUỐC TẾ. .............................................. 78

2 VẬN ĐƠN HÀNG KHÔNG (AIRWAY BILL - AWB) ..................... 80

3 CƯỚC PHÍ VẬN TẢI ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG .............................. 81

4 CÁC LOẠI CƯỚC PHÍ: ..................................................................... 82

CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN TỐT HƠN NỮA VIỆC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG VÀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI .................................................................................................................. 86

I MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN TỐT HƠN NỮA VIỆC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG .......................................................... 86

1 GIAI ĐOẠN 1: CHUẨN BỊ ĐÀM PHÁN .......................................... 86

2 GIAI ĐOẠN 2: ĐÀM PHÁN .............................................................. 87

3 GIAI ĐOẠN 3: SAU ĐÀM PHÁN ..................................................... 89

II MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ LÀM TỐT HƠN NỮA VIỆC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG VẬN TẢI.......................................................................................... 89

1 GIAI ĐOẠN 1: CHUẨN BỊ ĐÀM PHÁN .......................................... 90

2 GIAI ĐOẠN 2: ĐÀM PHÁN .............................................................. 90

3 GIAI ĐOẠN 3: SAU ĐÀM PHÁN ..................................................... 90

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 95

LỜI NÓI ĐẦU

Thị trường thế giới là một thể thống nhất, cơ cấu hàng hoá buôn bán mạnh mẽ.

Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đã làm

thay đổi các hình thức giao thương trên thị trường thế giới, tạo ra những phương

thức cạnh tranh ngày càng đa dạng, phức tạp. Đồng thời làm xuất hiện nhiều

hình thức cạnh tranh và các phương thức mua bán khác nhau. Các quốc gia

đều mong muốn và cố gắng thực hiện chính sách " mở cửa" nền kinh tế và như

vậy, hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại,

mở rộng quan hệ ngoại giao và buôn bán với hàng trăm quốc gia.

Hợp đồng mua bán hàng hoá là biểu hiện cụ thể của quan hệ ngoại thương giữa

các thương nhân với nhau. Đồng thời nó cũng là phương tiện để các chính sách

kinh tế của Nhà nước được thực thi trên thực tế.

Nếu như việc ký kết một hợp đồng mua bán Ngoại thương giữ một vai trò quan

trọng trong hoạt động ngoại thương , thì vận tải là khâu không thể thiếu được

trong các phương thức giao dịch và mua bán Quốc tế. Vận tải Quốc tế và ngoại

thương có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau và có tác dụng thúc đẩy nhau

cùng phát triển. Việc ký kết một hợp đồng chuyên chở cũng là vấn đề hết sức

cần thiết. Nó quyết định mức độ của vận tải và giá cả cạnh tranh.

Mối liên kết giữa Hợp đồng vận tải và Hợp đồng mua bán Ngoại thương rất mật

thiết. Hợp đồng vận tải là cơ sở để thực hiện Hợp đồng mua bán còn Hợp đồng

mua bán ngoại thương là nền tảng xác lập mối quan hệ giữa hai hợp đồng. Hợp

đồng mua bán quyết định nhưng hợp đồng vận tải lại tác động. Mối quan hệ đó

được thể hiện bằng việc có hợp đồng mua bán Ngoại thương rồi phát sinh nhu

cầu ký kết hợp đồng Vận tải.

Kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các tổ chức

được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu ở nước ta chỉ ra rằng: Hầu hết những tranh

Page 1

chấp xảy ra trong hoạt động kinh tế dối ngoại đều bắt nguồn từ quá trình thực

hiện các hợp đồng. Trong nhiều trường hợp sự tranh chấp ấy đã dẫn đến hậu

quả là những tổ chức xuất nhập khẩu của ta phải gánh chịu những thiệt thòi về

mặt kinh tế nhiều khi rất lớn. Bài học rút ra từ những vụ việc ấy chính là sự non

kém trong việc kết hợp kỹ thuật nghiệp vụ với kiến thức pháp lý và biểu hiện rõ

nét nhất là trong việc soạn thảo các hợp đồng xuất nhập khẩu.

Nhằm mục đích đạt được hiệu quả kinh tế cao trong lĩnh vực xuất nhập khẩu,

điều chủ yếu mà chúng ta phải quan tâm đó là bằng cách nào để có thể soạn ra

những Hợp đồng xuất nhập khẩu và hợp đồng vận tải với những điều khoản có

lợi nhất cho chúng ta và được đối tác chấp nhận. Chính vì mối liên quan mật

thiết này đã dẫn đến vấn đề bức xúc trong việc nghiên cứu và phân tích Hợp

đồng mua bán ngoại thương và Hợp đồng vận tải. Vì vậy tôi đã chọn đề tài "

Hợp đồng mua bán ngoại thương và Hợp đồng vận tải".

Tuy nhiên phạm vi đề cập ở đây chỉ giới hạn ở mối quan hệ Hợp đồng mua bán

ngoại thương và Hợp đồng vận tải dưới góc nhìn của một cán bộ nghiệp vụ

Thương mại chứ không phải là người nghiên cứu.

Đối tượng đề cập: Hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải các

thiết bị viễn thông tin học

Phương pháp đề cập: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng có kết hợp với

phương pháp phân tích và phê phán.

Bố cục của khoá luận gồm 3 chương:

CHƯƠNG I: Một số nét khái quát về hợp đồng vận tải và hợp đồng mua bán

ngoại thương. mối liên quan mật thiết giữa hai hợp đồng.

CHƯƠNG II: Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán ngoại thương và

hợp đồng vận tải

Page 2

CHƯƠNG III: Một số biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng

mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải.

Trong quá trình nghiên cứu tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Khoa Kinh

tế Ngoại thương trường ĐH Ngoại thương và thầy Vũ Hữu Tửu. Qua luận văn

này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới sự giúp đỡ quý báu trên và mong rằng luận

văn đã nêu ra được những vấn đề cốt yếu khi ký kết một hợp đồng mua bán

ngoại thương, hợp đồng vận tải nói chung và cho các thiết bị viễn thông tin học

trong ngành viễn thông tin học của nước nhà nói riêng.

Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực rộng nên trong quá trình nghiên cứu không thể

tránh khỏi những thiếu xót. Tôi rất mong có được sự góp ý phê bình của các

thầy cô giáo để luận văn có tính khả thi cao.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Page 3

CHƯƠNG I: MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI VÀ

HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG. MỐI LIÊN QUAN MẬT

THIẾT GIỮA HAI HỢP ĐỒNG.

I Hợp đồng mua bán ngoại thương:

1 Khái niệm

Hợp đồng mua bán Ngoại thương hay còn gọi là hợp đồng mua bán Quốc tế hay

hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh

doanh ở các nước khác nhau, theo đó một Bên gọi là Bên xuất khẩu (Bên bán)

có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là Bên nhập khẩu

(Bên Mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá; Bên Mua có nghĩa vụ nhận

hàng và trả tiền hàng.

Định nghĩa trên đây nêu rõ:

Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận của các bên ký kết (các đương sự).

Chủ thể của hợp đồng này là Bên bán (bên xuất khẩu) và Bên Mua (bên nhập

khẩu). Họ có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao một giá trị

nhất định, và, để đổi lại, Bên Mua phải trả một đối giá (counter value) cân xứng

với giá trị đã được giao (contract with consideration).

Đối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài sản này biến

thành hàng hoá. Hàng hoá này có thể là hàng đặc định (specific goods) và cũng

có thể là hàng đồng loại (generic goods).

Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển quyền sở hữu hàng hoá (chuyển

chủ hàng hoá). Đây là sự khác biệt so với hợp đồng thuê mướn (vì hợp đồng

thuê mướn không tạo ra sự chuyển chủ), so với hợp đồng tặng biếu (vì hợp đồng

tặng biếu không có sự cân xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên.

Page 4

2 Sự ra đời và phát triển của Hợp đồng mua bán ngoại thương.

Hợp đồng mua bán ngoại thương được hình thành giữa các doanh nghiệp phải

có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau.

Loại hàng hoá đưa ra trao đổi ngoại thương phải được chính phủ các nước hữu

quan cho phép vận chuyển từ nước này sang nước khác, việc mua bán được tiến

hành theo ý chí của các chủ thể hợp đồng và không bị quốc gia nào ràng buộc.

Trong hoạt động ngoại thương việc lập văn bản Hợp đồng kinh tế để trao đổi

hàng hoá là yêu cầu bắt buộc, các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên

bán cùng bàn bạc thoả thuận.

Qua nhiều thế kỷ, từ thực tiễn Thương mại quốc tế đã dẫn đến sự hình thành các

tập quán Thương mại được áp dụng ở khắp mọi nơi và đối với từng mặt hàng.

Trong xã hội sự cạnh tranh gay gắt về lợi nhuận giữa các công ty, các nhà sản

xuất và các tập đoàn diễn ra quyết liệt, kết quả của sự cạnh tranh trong lĩnh vực

Thưng mại quốc tế đã tạo ra những tập quán.

Do sự phát triển của nền sản xuất, trong xã hội đã hình thành các tập đoàn độc

quyền trong từng lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Tập đoàn độc quyền về sản xuất và

phân phối máy tính xách tay như IBM, phân phối phần mềm cho hệ điêu hành

như Microsoft…Đối với mỗi tập đoàn lại có những " Tập quán Thương mại"

riêng của nó và những tập đoàn này thường từ chối ký kết các hợp đồng vụn vặt

và những hợp đồng với những điều kiện khác với những điều kiện do tập đoàn

đã quy định. Còn bên đối tác yếu hơn thì không thể đòi các điều kiện có lợi cho

mình và buộc phải theo các điều kiện mà tập đoàn đã quy định. Những tập đoàn

ký kết vơi nhau tạo điều kiện hình thành những tập quán ngành - hãng. Tập

quán thương mại về một mặt hàng do một tập đoàn lũng đoạn đã được sinh ra

như vậy. Trên cơ sở những tập quán đó đã hình thành những hợp đồng mẫu

trong Thương mại quốc tế.

Page 5

Sự phát triển các hợp đồng mẫu đã tạo điều kiện cho hai bên đương sự trong khi

đàm phán. Để ký kết hợp đồng mua bán chú trọng đến vấn đề cần phải thống

nhất như phẩm chất cụ thể của hàng hoá, giá cả, thời hạn và nơi giao hàng.

Trong các trường hợp đồng mẫu, phần lớn các văn bản hợp đồng đã in sẵn vào

một bản hợp đồng và ta khó sửa đối những điều kiện chung cũng như các điều

kiện khác. Do được xây dựng từ trước, nên các văn bản của hợp đồng mẫu kỹ

lưỡng hơn là đến khi đàm phán một dự thảo. Sử dụng hợp đồng mẫu, chúng ta

sẽ tiết kiệm được thời gian và sử dụng những kinh nghiệm của thực tiễn.

Các Hợp đồng mẫu ngày càng được sử dụng rộng rãi trong cùng ngành kinh tế.

Sự lan rộng của nó là kết quả của sự cố gắng tiêu chuẩn hoá các điều kiện

thương mại quốc tế. Ví dụ: như xây dựng Incorterms hay Uniform customs and

practice for Commeroial ducumentary credits. Hơn nữa các liên đoàn của ngành

đã xây dựng cho mỗi loại hàng một Hợp đồng mẫu. Những mẫu này thường

khác nhau ở phương pháp định giá ( FOB, CIF...) cách giao hàng ( Partical

shipment is allowed or prohibited ) Phương tiện vận tải, bảo hiểm hàng hoá hoặc

đóng gói...

Chính vì vậy, hợp đồng mẫu được sử dụng và phát triển rộng rãi.

II Hợp đồng vận tải

1 Định nghĩa

Hợp đồng vận tải bản chất của nó chính là những điều khoản trong việc thực

hiện nghiệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Giao nhận hàng hoá xuất

nhập khẩu là một khâu quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngoại

thương, là một nghiệp vụ tổng hợp, có liên quan đến luật lệ quốc gia và quốc tế.

Hợp đồng vận tải được ký trước lúc nhập hàng về. Tuy nhiên có khi hợp đồng

vận tải được ký cùng một lúc với Hợp đồng mua bán. Nói chung, hai hợp đồng

này phải đi song hành với nhau.

Page 6

Các điều khoản của hợp đồng mua bán phản ánh vào hợp đồng vận tải và hợp

đồng vận tải phản ảnh ý chí mua bán của các bên.

2 Sự ra đời và phát triển của vận tải.

2.1 Đặc điểm của vận tải

Theo nghĩa rộng, vận tải là một quy trình kỹ thuật của bất kỳ sự di chuyển vị trí

nào của vật phẩm và con người. Còn với ý nghĩa kinh tế (nghĩa hẹp), vận tải chỉ

bao gồm nhứngự di chuyển của vật phẩm và con người khi thoả mãn đồng thời

hai tính chất: là một hoạt động sản xuất vật chất và là một hoạt động kinh tế độc

lập.

Khi nói đến ngành sản xuất vận tải chúng ta có thể thấy nó có một số đặc điểm

chủ yếu như sau:

Sản xuất trong ngành vận tải là một quá trình tác động làm thay đổi về mặt

không gian của đối tượng chuyên chở.

Sản xuất trong ngành vận tải là một quá trình tác động làm thay đổi về mặt

không gian, chứ không phải là sự tác động về mặt kỹ thuật vào đối tượng lao

động, tức là đối tượng chuyên chở gồm hàng hoá và hành khách. Con người

thông qua công cụ vận tải (tư liệu lao động) tác động vào đối tượng chuyên chở

để gây ra sự thay đổi vị trí về không gian và thời gian của chúng.

Sản xuất trong ngành vận tải không sáng tạo ra sản phẩm vật chất mới.

Sản xuất trong ngành vận tải không sáng tạo ra sản phẩm vật chất mới mà sáng

tạo ra một sản phẩm đặc biệt gọi là sản phẩm vận tải. Sản phẩm vận tải là sự di

chuyển vị trí của đối tượng chuyên chở. Tuy vậy, sản phẩm này cũng có hai

thuộc tính của hàng hoá đó là:giá trị sử dụng và giá trị. Bản chất và hiệu quả

mong muốn của sản xuất trong ngành vận tải là thay đổi vị trí, chứ không phải

Page 7

làm thay đổi hình dáng, tính chất lý hoá của đối tượng chuyên chở.

Sản phẩm vận tải không tồn tại độc lập ngoài quá trình sản xuất ra nó.

Sản phẩm vận tải không tồn tại độc lập ngoài quá trình sản xuất ra nó. Sản phẩm

này không có một khoảng cách về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Khi quá

trình sản xuất trong vận tải kết thúc, thì đồng thời sản phẩm vận tải cũng được

tiêu dùng ngay.

Sản phẩm trong ngành vận tải không thể dự trữ được.

Để đáp ứng nhu cầu chuyên chở tăng lên đột biến trong xã hội, ngành vận tải chỉ

có thể dự trữ năng lực chuyên chở của công cụ vận tải như dự trữ toa xe, đầu

máy, ô tô, tăng tần suất phục vụ...

Từ những phân tích trên ta có thể kết luận : vận tải là một ngành sản xuất vật

chất đặc biệt, một ngành kinh tế độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Kết luận

này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn.

2.2 Sự ra đời và phát triển.

Vì ở đây, đối tượng chúng ta đề cập đến là vận tải trong các hợp đồng ngoại

thương nên chúng ta sẽ đi sâu về phần vận tải quốc tế.

Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá hoặc hành khách giữa hai hay

nhiều nước với nhau, tức là điểm đầu và điểm cuối của quá trình vận tải nằm

trên lãnh thổ của hai nước khác nhau. Nói một cách khác, vận tải quốc tế là quá

trình chuyên chở được tiến hành vượt ra phạm vi biên giới lãnh thổ của một

nước.

Sự ra đời và phát triển của vận tải quốc tế gắn liền với sự phân công lao động

quốc tế và sự buôn bán quốc tế. Sự hình thành và phát triển hệ thống vận tải

thống nhất của từng nước hoặc từng khu vực nhóm nước có ảnh hưởng rất lớn

đến sự hình thành và phát triển hệ thống vận tải

Page 8

trên phạm vi toàn thế giới. Vận tải quốc tế và ngoại thương có mối liên hệ chặt

chẽ, hữu cơ với nhau và có tác dụng thúc đẩy nhau cùng phát triển.

Trước đây, vận tải quốc tế là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để buôn bán quốc tế

ra đời và phát triển. V. Lênin nói: "Vận tải là phương tiện vật chất của mối liên

hệ kinh tế với nước ngoài". Khi buôn bán quốc tế mở rộng và phát triển lại tạo ra

những yêu cầu để thúc đẩy vận tải quốc tế ngày càng phát triển hoàn thiện.

Hiện nay, tất cả các phương thức vận tải hiện đại đều tham gia phục vụ chuyên

chở hàng hoá trong buôn bán quốc tế, trong đó vận tải đường biển đóng vai trò

chủ đạo

3 Mối quan hệ giữa HĐ mua bán hàng hoá và HĐ vận tải.

Như ở trên chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa Hợp đồng vận tải và Hợp đồng

mua bán Thương mại rất mật thiết. Hợp đồng vận tải là cơ sở để thực hiện Hợp

đồng mua bán Thương mại và Hợp đồng mua bán ngoại thương - là nền tảng xác

lập mối quan hệ giữa hai hợp đồng. Thể hiện bằng việc có hợp đồng mua bán

Ngoại thương rồi phát sinh nhu cầu ký kết hợp đồng vận tải. Hợp đồng mua bán

quyết định nhưng hợp đồng vận tải lại tác động.

Kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các tổ chức

được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu ở nước ta chỉ ra rằng: Hầu hết những tranh

chấp xảy ra trong hoạt động kinh tế đối ngoại đều bắt nguồn từ quá trình thực

hiện các hợp đồng. Trong nhiều trường hợp sự tranh chấp ấy đã dẫn đến hậu

quả là những tổ chức xuất nhập khẩu của ta phải gánh chịu những thiệt thòi về

mặt kinh tế nhiều khi rất lớn. Bài học rút ra từ những vụ việc ấy chính là sự non

kém trong việc kết hợp kỹ thuật nghiệp vụ với kiến thức pháp lý và biểu hiện rõ

nét nhất là trong việc soạn thảo các hợp đồng xuất nhập khẩu.

Trong một hợp đồng mua bán ngọai thương ký kết giữa người bán (người xuất

khẩu) và người mua ( người nhập khẩu) có nhiều điều khoản khác nhau, trong

Page 9

đó có một điều khoản quy định về vận tải hàng hoá. Vận tải có tác dụng to lớn

đối với buôn bán quốc tế và được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây:

- Vận tải quốc tế đảm bảo chuyên chở khối lượng hàng hoá ngày một tăng trong

buôn bán quốc tế

Hiện nay, tổng khối lượng hàng hoá chuyên chở trong buôn bán quốc tế đạt tới

khoảng 7 tỷ tấn /năm, trong đó trên 3/4 được chuyên chở bằng đường biển. Khối

lượng hàng hoá buôn bán giữa hai nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có

yếu tố vận tải. Uyliam nhà nghiên cứu của Anh đã mô tả như sau: "khối lượng

hàng hoá lưu chuyển giữa hai nước tỷ lệ thuận với tích số của tiềm năng kinh tế

hai nước và tỷ lệ nghịch với khoảng cách chuyên chở của hai nước đó". Khoảng

cách chuyên chở càng xa, thì chi phí vận tải càng lớn. Chi phí vận tải chiếm

trong giá cả hàng hoá lớn sẽ hạn chế quan hệ buôn bán giữa các nước. Trái lại,

chi phí vận tải rẻ, tổ chức chuyên chở thuận tiện thì dung lượng hàng hoá trên

thị trường càng lớn.

- Vận tải quốc tế phát triển góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng hoá và cơ cấu thị

trường trong buôn bán quốc tế.

Trước đây, công cụ vận tải thô sơ, giá thành vận tải cao... nên đã hạn chế buôn

bán nhiều loại hàng, nhất là hàng nguyên nhiên liệu. Mặt khác, vận tải quốc tế

lúc bấy giờ cũng hạn chế trao đổi buôn bán với các thị trường xa xôi.

Vận tải quốc tế phát triển và hoàn thiện đã tạo điều kiện cho việc mở rộng chủng

loại các mặt hàng trong buôn bán quốc tế nói chung và thay đổi cơ cấu từng

nhóm mặt hàng nói riêng.

Hệ thống vận tải quốc tế mở rộng, giá thành vận tải trên cự ly dài giảm đã tạo

điều kiện mở rộng thị trường cung cấp và tiêu thụ. Do đó vận tải quốc tế góp

phần làm thay đổi cơ cấu thị trường trong buôn bán quốc tế. Cự ly chuyên chở

hàng hoá trung bình trong vận tải đường biển quốc tế ngày càng tăng lên, ví dụ

Page 10

năm 1985 là 3.967 hải lý, năm 1998 tăng lên 4.230 hải lý (1 hải lý = 1,85 km).

- Vận tải quốc tế có tác dụng bảo vệ tích cực hoặc làm xấu đi cán cân mậu dịch

và cán cân thanh toán.

Vận tải quốc tế có hai chức năng: phục vụ và kinh doanh. Chức năng phục vụ

thể hiện ở chỗ vận tải quốc tế đảm bảo phục vụ nhu cầu chuyên chở hàng hoá

nhập khẩu của mỗi nước. Chức năng kinh doanh thể hiện trong việc xuất khẩu

sản phẩm vận tải, nhất là sản phẩm vận tải đường biển. Xuất nhập khẩu sản

phảm vận tải là một hình thức xuất nhập khẩu vô hình rất quan trọng. Thu chi

ngoại tệ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu sản phẩm vận tải và các liên quan đến

vận tải quốc tế là một bộ phận quan trọng trong cán cân thanh toán quốc tế. Xuất

siêu sản phẩm vận tải quốc tế sẽ có tác dụng tốt đối với cán cân thanh toán quốc

tế. Ngược lại, thiếu hụt trong cán cân xuất nhập khẩu sản phẩm vận tải quốc tế

sẽ làm xấu đi cán cân thanh toán quốc tế.

Tóm lại, Vận tải quốc tế là một yếu tố không thể tách rời với buôn bán quốc tế.

"Ai nói đến buôn bán quốc tế cũng phải nói đến vận tải. Buôn bán quốc tế có

nghĩa là hàng hoá được thay đổi người sở hữu. Còn vận tải làm cho hàng hoá đó

bị thay đổi".

Page 11

CHƯƠNG II: CÁC ĐIỀU KHOẢN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG

HOÁ VÀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI

I Hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá

1 Các điều kiện chung

Hiện nay ở nước ta, do tính chất công việc nên có rất nhiều Tổng công ty và các

công ty Xuất nhập khẩu chuyên ngành.Ví dụ: Tổng Công ty Bưu chính viễn

thông, Công ty xuất nhập khẩu Cokyvina... Mỗi một Tổng Công ty hoặc Công ty

Xuất nhập khẩu đều có chức năng nhiệm vụ chính là phục vụ cho nhu cầu về

trao đôi hàng hoá ngoại thương trong ngành mình phụ trách. Do tính chất công

việc nên trong các thương vụ buôn bán, mỗi đơn vị đều có những hợp đồng mẫu

cho riêng mình, phù hợp với sự đặc thù của ngành và đảm bảo cho hoạt động

kinh doanh mang lại hiệu quả cao.

Trong các hợp đồng đó, cho dù là hợp đồng xuất khẩu hay nhập khẩu, cũng cần

phải có điều kiện chung. Điều kiện chung phải được xây dựng như một cái ô cho

phép che chắn đến mức cao nhất những rủi ro pháp lý có thể phát sinh. Điều

kiện chung này sẽ được xây dựng sau khi có sự bàn bạc, thảo luận, phân định

các rủi ro pháp lý, giữa những bên có trách nhiệm trong hoạt động, những cán

bộ kinh doanh và những cán bộ pháp chế trong đơn vị đôi khi cả các luật gia

cũng được mời đến.

Để các điều kiện chung làm chọn chức năng bảo vệ quyền lợi một cách có hiệu

quả, chúng phải chính xác và đặc trưng cho hoạt động của của doanh nghiệp và

phải được các cán bộ kinh doanh nắm vững để có thể vận dụng chúng thành

thạo. Thông thường điều kiện chung được in ở mọi chứng từ thương mại. Ví dụ

ở mặt sau của giấy tờ dùng cho giao dịch thư tín, hoá đơn thương mại, hoá đơn

pro-forma... các điều kiện chung mang tính đặc thù của từng đơn vị kinh doanh

xuất nhập khẩu. Chẳng hạn điều kiện bán hàng của một Công ty kinh doanh

Page 12

lương thực thực phẩm phải khác với điều kiện chung của một Công ty kinh

doanh máy tính và thiết bị tin học.

Khi sử dụng Điều kiện chung ta phải chú ý rằng khi người bán trả lời chấp nhận

đơn đặt hàng của người mua và gửi kèm điều kiện chung bán hàng cho người

mua nếu người mua không có ý kiến gì khác thì các điều kiện chung này tạo

thành hợp đồng. Cũng tương tự như vậy khi người mua gửi kèm điều kiện chung

mua hàng trong thư trả lời chấp nhận đơn chào hàng của người bán. Các điều

kiện chung dù chẳng được ký chấp nhận vẫn được vận dụng không có bảo lưu

kể từ khi các điều kiện đó được các bên tham gia quan hệ hợp đồng biết đến.

Trường hợp cả hai bên, người bán và người mua đều gửi cho nhau điều kiện

chung của mình, trong đó có mâu thuẫn số điều khoản thì điều kiện nào sẽ được

điều chỉnh quan hệ hợp đồng? Khi có sự xung đột về điều kiện chung thì sự lựa

chọn phụ thuộc vào vấn đề thị trường thuộc về ai.

Một số vấn đề nữa đặt ra là không phải điều kiện chung thảo ra là có thể áp dụng

cho mọi thương vụ mua bán của đơn vị. Mỗi thương vụ có những đặc thù riêng

biệt mà ta phải đàm phán để quy định cụ thể . Khi có sự mâu thuẫn giữa những

điều khoản này với những điều kiện chung thì theo tập quán quốc tế "Cái riêng

áp chế cái chung" - do vậy những điều khoản ghi nhận rõ ràng áp chế các điều

khoản chung.

Trong mua bán quốc tế không chỉ các Điều kiện chung do các thương nhân thảo

ra, mà còn có những điều kiện chung do các tổ chức quốc tế soạn thảo. Các điều

kiện chung bán hàng xuất khẩu của các tổ chức này trở thành những công cụ

pháp lý để bảo vệ một cách tốt nhất những lợi ích vè tài chính và thương mại

cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu.

Đại bộ phận các điều kiện chung bán hàng đều có những điểm chung cả về mặt

hình thức cũnh như nội dung. Nét chung đó là về khuôn khổ chung và các quy

định riêng. Về mặt hình thức, phần khuôn khổ chung có tính không đổi, nó bao

Page 13

gồm các điều khoản mà nhà xuất khẩu hoặc có thể sử dụng chúng (với điều kiện

là chúng phù hợp với những nét đặc thù của sản phẩm hoặc tập quán nghề

nghiệp), hoặc thay đổi những quy định chung nhằm làm cho chúng phù hợp với

những điều mong muốn của người mua hoặc những mệnh lệnh bắt buộc của quy

chế địa phương. Nhìn chung, các điều kiện xuất khẩu đều quy định rằng "Chúng

có thể được áp dụng ngoại trừ những thay đổi mà hai bên có thể thoả thuận tiến

hành và được thừa nhận bằng văn bản"

Các quy định riêng được lập nên riêng rẽ. Nó bao gồm toàn bộ những điểm mà

các bên sẽ phải đàm phán có tính đến những nét đặc thù của hợp đồng. Những

điều khoản riêng này phải được lập ra tuỳ theo nhu cầu của từng doanh nghiệp.

Như vậy cho dù có khuôn khổ được định ra bởi các điều kiện chung, vẫn còn

một sự tự do lớn cho các bên tham gia ký kết hợp đồng nhằm làm cho những

quy định của điều kiện chung bán hàng xuất khẩu phù hợp với những hoạt động

của họ.

Xu hướng xây dựng các điều kiện chung bán hàng (mua hàng) ngày càng mở

rộng trên thế giới. Điều kiện chung tạo thuận lợi cho các bên khi đàm phán ký

kết hợp đồng tiết kiệm thời gian, chi phí và hạn chế tối đa rủi ro, tranh chấp do

sự quy định không rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Ngày nay, không

chỉ các công ty thảo ra điều kiện chung cho mình mà còn có các điều kiện chung

của các ngành.

Một hợp đồng cho dù được ký kết thông qua bản điều kiện chung bán hàng hoặc

mua hàng của một trong hai bên, hay bằng cách ký kết một hợp đồng riêng thì

nội dung của hợp đồng hay nói cụ thể là các điều khoản của hợp đồng vẫn luôn

là cái mà các bên ký kết quan tâm nhất. Chúng quy định quyền hạn và nghĩa vụ

của các bên, và chính các điều khoản hợp đồng cũng chứa đựng những lợi ích và

rủi ro có thể xảy ra đối với một trong hai bên. Các rủi ro pháp lý gắn với mỗi

thương vụ có thể giảm nhiều, thậm chí loại trừ hoàn toàn bằng cách xây dựng

Page 14

các điều khoản hợp đồng thích hợp.

Tuy nhiên, hợp đồng là sự thoả thuận ý chí của hai bên, sự ra đời của nó chính là

kết quả của quá trình đàm phán với bạn hàng. Không phải lúc nào ta cũng thảo

được một hợp đồng với các điều khoản hoàn toàn bất lợi Bạn hàng của mình. Và

tất nhiên, chắc chắn ta cũng không bao giờ đặt bút ký vào một hợp đồng mà

trong đó mỗi điều khoản là một cái bẫy cài với đầy rẫy những rủi ro và bất lợi

cho mình và doanh nghiệp của mình. Vấn đề là hợp đồng ký kết phải đảm bảo

sự bình đẳng về quyền lợi giữa các bên. Để làm tốt nhiệm vụ phòng ngừa rủi ro

đòi hỏi người cán bộ kinh doanh phải nắm được các điều khoản thông thường

của một hợp đồng xuất nhập khẩu để xây dựng các điều khoản đó.

Nói đến nội dung một hợp đồng nói chung, hợp đồng mua bán ngoại thương nói

riêng, việc phân biệt đâu là kỹ thuật nghiệp vụ, đâu là góc độ pháp lý là điều

không cần thiết. Để hợp đồng đảm bảo tính hợp pháp người ta nói về mặt pháp

lý, nhưng mục đích của hợp đồng mua bán ngoại thương là người bán thì nhận

được tiền còn người mua nhận được hàng mà mình thực sự muốn mua.

Như vậy, trong một bản hợp đồng mua bán ngoại thương, người ta phải biết kết

hợp hai mặt kỹ thuật nghiệp vụ với pháp lý một cách chặt chẽ. Ví dụ: về điều

khoản phẩm chất hàng hoá, mặt kỹ thật nghiệp vụ tập trung vào cơ sở để xác

định chất lượng như tỷ lệ chất hữu dung, quy cách dài, rộng, cao, công suất...

Nhưng ở khía cạnh pháp lý người ta cần phải tính đến giá trị pháp lý của giấy

chứng nhận phẩm chất do cơ quan giám định cấp cũng như ở đâu thì việc xác

định phẩm chất được coi là giá trị cuối cùng. Vì vậy nếu chỉ quy định khi giao

hàng người bán phải bảo đảm phẩm chất nh quy định trong hợp đồng là chưa đủ.

Mọi tranh chấp trong hoạt dộng kinh tế đối ngoại thường chỉ xảy ra chủ yếu

trong quá trình thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại thương mà thôi.

2 Các điều khoản chính trong hợp đồng mua bán ngoại thương

Page 15

2.1 Điều khoản tên hàng (Đối tượng hợp đồng)

Tên hàng là điều khoản đầu tiên trong một hợp đồng mua bán ngoại thương.

Trong buôn bán quốc tế do tính chất đa dạng của tên gọi đối với hàng hoá nhất

là khi tên hàng lại được dịch ra một ngôn ngữ khác, nếu không xác định tên

hàng một cách thống nhất và chính xác thì người ta không xác định rõ loại hàng

muốn mua bán. Ngay trong cùng một nước tên của một loại hàng ở mỗi vùng

cũng đã khác nhau. Để tránh sự hiểu nhầm có thể dẫn đến những tranh chấp

không cần thiết trong một hợp đồng ngoài tên hàng, có nhiều trường hợp tên

hàng ghi kèm theo cả việc mô tả hàng nhằm đảm bảo chắc chắn, ta nên dùng tên

hàng theo một số nguyên tắc sau:

 Tên hàng cần ghi chính xác để tránh sự hiểu lầm hàng này sang hàng

khác. Ví dụ: Nếu chi ghi máy tính Pentium III... thì có thể bị nhầm giữa

máy tính xách tay với máy tính để bàn hay nếu chỉ ghi Cisco Router 3600

series không thôi thì sẽ không qui định được rõ là router 3640 hay 3620

và như vậy nếu có tranh chấp xảy ra thì ta không có cơ sở chính xác để

thắng kiện.

 Ghi tên hàng kèm theo với địa danh sản xuất ra chúng. Ví dụ: Máy tính

Compaq Mỹ, Cisco Router 3600 Mexico.

 Ghi tên hàng kèm theo tên chủ hãng sản xuất. Ví dụ: Máy tính Sun

Microsystem (Sun), hoặc máy tính IBM, HP, Cisco Router ....

Khi ký hợp đồng tuỳ theo từng tên hàng cụ thể mà chọn cách ghi cụ thể, tuyệt

đối tránh trường hợp ghi chung chung (Ví dụ máy tính Pentium mà không qui

định rõ Pentium mấy, của hãng nào, cấu hình ra sao? nếu có tranh chấp thì ta

không có cơ sở xác đáng để tranh kiện thành công. Cần phải ghi rõ như: Máy

tính IBM NetVista Pentium IV 2GHz-256Mb DDRam-HDD 40Gb-FDD

1,44Mb-CDRom 48X-AGP Card 32Mb-NIC 10/100Mbps-Monitor IBM 17"-

Page 16

Keyboard, Mouse IBM), tên hàng có thể ghi kèm theo năm sản xuất để khẳng

định hàng hoá. (Ví dụ: Thiết bị định tuyến - Router của Cisco được sản xuất từ

năm 2002 trở lại đây mới được đưa vào hệ thống mạng của Tổng Công ty Bưu

chính Viễn thông Việt nam)

Trong hợp đồng chúng ta nên ghi rõ tên hàng bằng tiếng Việt và bằng tiến nước

hữu quan hoặc bằng tiến Anh.

Nếu hợp đồng trao đổi nhiều loại hàng khác nhau hoặc một mặt hàng nhưng có

nhiều loại có đặc điểm chất lượng khác nhau thì có thể lập thành bản liệt kê (còn

gọi là phụ lục) đính kèm theo hợp đồng và là một bộ phận không thể tách rời của

hợp đồng, nhưng trong văn bản chính của hợp đồng cần phải có điều khoản bảo

lưu thích ứng cho vấn đề này. Chẳng hạn: "Bên A xuất bán cho Bên B các mặt

hàng được ghi trong bảng liệt kê đính kèm hợp đồng.

2.2 Điều khoản số lượng

Đây là điều khoản quan trọng nó góp phần vào việc xác định rõ đối tượng mua

bán và liên quan đến trách nhiệm nghĩa vụ của người mua và người bán, do vậy

việc lựa chọn đơn vị đo lường nào phải vừa căn cứ vào tính chất của bản thân

hàng hoá, vừa phải căn cứ vào tập quán buôn bán Quốc tế về đo lường mặt hàng

đó.

Quy định của thế giới về cách tính số lượng trên cơ sở đơn vị đo cũng rất khác

biệt nhau. Trong vệc xác định số lượng ghi trong hợp đồng, cần chọn và áp dụng

những đơn vị mang tính chất phổ biến và dễ hiểu, nhất là những đơn vị đo chiều

dài, diện tích, dung tích... sau đây là một số cách tính khác nhau trong thương

mại: Cho các mặt hàng đa dạng:

 Khi tính bao thì một bao bông ở Ai Cập là 330 kg, ở Brazin là 180 kg.

 Đơn vị đo chiều dài dùng chung là mét (m), centimet (cm)... nhưng có

Page 17

nước lại dùng inch = 2,45 cm; foot (= 12 inches = 0,304m)...

 Ngoài ra một số đơn vị đo lường khác cũng được áp dụng trong thương

mại quốc tế như Dram (= 1,772 gam); Ouce (= 28,350 gam); Pound (=

453,39 gam); Longton (tấn dài = 1.016,47 kg); Shorton (tấn ngắn =

907,184 kg).

Do tính chất phức tạp của hệ thống đo lường được áp dụng trong thương mại

quốc tế nên khi xác định số lượng ghi trong hợp đồng mua bán ngoại thương,

nếu có liên quan đến đơn vị đo lường phức tạp cần lưu ý giải thích rõ.

Trong buôn bán quốc tế, có không ít trường hợp dù hợp đồng cụ thể quy định

tấn, mét ... nhưng khi thực hiện người bán không thể giao hàng chính xác 100%.

Để tránh bị người mua kiện, thông thường người ta ghi thêm phần cộng trừ (+)

phần trăm (ví dụ: 1000 tấn +10%) để tạo cho người bán có được một dung sai

hợp pháp mà khi giao hàng trong phạm vi cộng trừ ấy người bán có thể coi là đã

hoàn thành giao hàng. Đối với người mua thì việc chọn dung sai này có ý nghĩa

thực tế ở chỗ có thể tránh được trường hợp lãng phí phương tiện hoặc tiền hàng

(ví dụ: nếu phương tiện cho phép, người mua có thể yêu cầu giao tối đa (+) hoặc

ở thời điểm giao hàng, do giá hàng tăng cao so với lúc ký hợp đồng thì yêu cầu

giao số lượng tối thiểu (-) để đỡ bị thiệt thòi). Việc người bán, người mua được

chọn (±) là do hai bên thoả thuận ghi vào hợp đồng.

Trong những trường hợp, đối tượng hàng hoá thường biến động giá, nếu cần có

sự thoả thuận cụ thể việc tính giá đối với phần dung sai (+) để đề phòng một

trong hai bên lợi dụng sự biến động giá làm lợi cho mình. Phạm vi dung sai nếu

không được xác định và ghi trong hợp đồng thì thông thường được áp dụng theo

tập quán quốc tế hiện hành đối với hàng hoá. Ví dụ: tập quán quốc tế về buôn

bán ngũ cốc dung sai là ±5%, cà phê là ±3%, cao su là ±2,5%, gỗ là ±10% trọng

lượng hàng giao.

Page 18

Trong điều khoản này đôi khi người ta còn ghi tỷ lệ miễn trừ (-fromchise), tỷ lệ

này có nghĩa là nếu hao hụt dọc đường dưới mức này người bán không phải bồi

thường.

Cũng trong điều khoản này phương pháp xác định trọng lượng được xác định rõ.

Phải thoả thuận trọng lượng ghi trong hợp đồng, trọng lượng cả bì, trọng lượng

tính phải xác định một cách cụ thể. Trong những trường hợp khi ký hợp đồng

nếu thực xác định trọng lượng cả bì thì cần ghi trọng lượng tịnh và quy định

phương thức cung cấp số liệu về trọng lượng cả bì để đảm bảo cho việc thuê

phương tiện vận tải của người mua (ví dụ mua theo điều kiện FOB) sát thực tế.

Cần đặc biệt lưu ý đến địa điểm xác định khối lượng, trọng lượng và giá trị

pháp lý của việc xác định ấy. Thông thương nếu là người mua chúng ta cần thoả

thuận trong điều khoản này việc chọn bến đến là địa điểm cuối cùng để xác định

khối lượng, trọng lượng và chứng thư giám định do cơ quan giám định cấp ở

bến đến có giá trị cuối cùng. Sở dĩ như vậy vì hàng hoá trong buôn bán quốc tế

trước khi đến tay người mua thường phải trải qua một quãng đường dài và thời

gian hàng đi trên đường có khi là cả tháng hoặc hơn nữa. Trong điều kiện ấy có

rất nhiều nguyên nhân có thể gây nên sự hao hụt đối với hàng hoá (như hao hụt

tự nhiên, do thay đổi khí hậu, thời tiết, mất mát). Để tránh việc phải giải quyết

thiếu hụt mà nguyên nhân không do phía mình gây ra phương pháp chọn điểm

giám định khối lượng hàng hoá ở bến đến (cảng nhận hàng) được áp dụng khá

phổ biến trong thương mại quốc tế.

Đối với các thiết bị viễn thông, việc qui định rõ số lượng các thiết bị và phụ kiện

đi kèm là vô cùng quan trọng. Một thiết bị định tuyến (Router), thiết bị chuyển

mạch, phân tách kênh có khi chỉ dùng một (01 chassis) nhưng phụ kiện đi kèm

hay các module cần thiết và những sợi cable tương thích thì có khi dùng đến cả

chục nếu chỉ ghi chung chung một bộ (01 bộ) thì đến khi không lắp được hay lắp

lên không chạy được ta cũng khó mà tranh cãi được. Nên chi tiết thế nào, dùng

Page 19

số lượng ra sao, là điều cần thiết phải qui định rõ trong hợp đồng.

2.3 Điều khoản về quy cách phẩm chất

Đề cập đến điều khoản quy cách phẩm chất trong hợp đồng mua bán ngoại

thương người ta nhấn mạnh hai mặt, mặt chất lượng hàng hoá và phương pháp

kiểm tra cũng như địa điểm cuối cùng mà việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá

thuộc hợp đồng được tiến hành.

Trong trường hợp mua bán hàng theo mẫu, mẫu sẽ là chuẩn mực để người bán

giao hàng và người mua làm cơ sở để đối chiếu và xác định phẩm chất khi nhận

hàng.

Khi mua bán hàng theo mẫu người bán và người mua thường phải chọn ba mẫu

hàng đồng nhất như nhau: sau khi mẫu hàng đã được niêm phong, người bán giữ

một mẫu, người mua cũng phải giữ một mẫu và mẫu thứ ba người ta giao cho

một khác để làm đối chứng (người thứ ba này thông thường do người bán và

người mua chọn). Nếu khi nhận hàng mà người mua qua đối chiếu với mẫu hàng

của mình, thấy hàng không đúng như mẫu, người mua có thể khiếu nại với

người bán. Trong trường hợp ấy mẫu do người thứ ba giữ sẽ được đem ra làm

đối chứng. Người bán sẽ phải bồi thường khi hàng hoá của họ giao không đúng

mẫu đã thoả thuận trong hợp đồng.

Có những trường hợp hàng được mua bán trên cơ sở phẩm cấp (Category) hoặc

tiêu chuẩn (Standard). Đã mua hàng theo tiêu chuẩn phẩm cấp nào thì thì tiêu

chuẩn phẩm cấp ấy sẽ là cơ sở để xác định chất lượng hàng hoá khi giao. Khi

thoả thuận mua hàng theo phẩm cấp, tiêu chuẩn, người mua cần lưu ý tìm hiểu

và nắm chắc tiêu chuẩn, phẩm cấp, hiểu nội dung tiêu chuẩn phẩm cấp ấy một

cách chi tiết cụ thể, tránh tình trạng hiểu chung chung, mơ hồ mà vẫn chấp nhận.

Dựa vào quy cách hàng hoá (Như mua bán máy móc, thiết bị, phương tiện vận

tải...). Để đảm bảo xác định chính xác phẩm chất hàng hoá mình cần mua, người

Page 20

mua cần quan tâm đến vấn đề bảo hành và kiểm tra chất lượng đánh giá sau khi

vận hành. Trường hợp này nhằm khẳng định cho mình quyền được khiếu nại

người bán nếu hàng hoá (máy móc, thiết bị, xe cộ...) do người bán giao không

đạt quy cách như đã thoả thuận trong hợp đồng.

Thông thường, trách nhiệm kiểm tra để đảm bảo hàng đủ quy cách trước khi

giao hàng thuộc người bán. Còn việc có công nhận phẩm chất hàng hoá đúng

hợp đồng hay không lại là chuyện khác. Để đảm bảo nhận hàng đúng quy cách

phẩm chất, người mua cần lưu ý đến địa điểm cuối cùng mà phẩm chất được xác

định cũng như giá trị pháp lý của việc giám định phẩm chất ở vị trí đó. Vì vậy

trong hợp đồng mua bán ngoại thương, thường người mua buộc người bán phải

chấp nhận kết quả xác định phẩm chất mới có hợp đồng? Đối với hàng hoá phải

thông qua vận hành để kết luận thì biên bản giám định phẩm chất sau vận hành

có giá trị pháp lý. Đối với hàng hoá có quy định thời hạn bảo hành thì vấn đề

phẩm chất có phù hợp với hợp đồng hay không được xác định căn cứ vào kết

quả khắc phục khuyết tật hàng hoá. Vì vậy, mặc dù hàng đã di chuyển quyền sở

hữu, điểm di chuyển rủi ro từ người bán sang người mua từ khi qua hẳn lan can

tàu tại cảng xếp hàng chỉ là mang tính tương đối. Người bán không vì vậy mà

hoàn toàn hết trách nhiệm đối với hàng hoá của mình nếu người mua chứng

minh được hàng hoá có vấn đề về phẩm chất. Ngược lại người mua cũng không

vì quyền sở hữu hàng hoá đã di chuyển sang phía mình mà mất quyền đòi người

bán phải bồi thường.

Trong hợp đồng mua bán ngoại thương, nếu cần phải ghi rõ phương pháp xác

định phẩm chất hoặc phương tiện thiết bị để thí nghiệm. Cần tránh trường hợp

người bán xác định phẩm chất bằng phương pháp khác và người mua lại thử

bằng phương pháp khác.

Vấn đề phẩm chất qui cách hàng hoá xuất nhập khẩu bao giờ cũng là khâu yếu

nhất trong hợp đồng, nó có yêu cầu cao hơn về phẩm chất qui cách của hàng hoá

Page 21

giao dịch trong nội địa, đồng thời yêu cầu sự bảo đảm tính ổn định hơn về phẩm

chất qui các hàng hoá xuất nhập khẩu qua từng thời gian và từng chuyến hàng

xuất nhập khẩu. Bởi vậy việc kiểm tra phẩm chất qui cách hàng hoá phải tuân

theo các tiêu chuẩn và nguyên tắc của luật quốc tế hoặc tập quán quốc tế về xuất

nhập khẩu.

2.4 Điều khoản bao bì, đóng gói, ký mã hiệu

Ở khía cạnh pháp lý, bao bì, ký mã hiệu có một ý nghĩa quan trọng trong hợp

đồng. Nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng bao bì là bao bì phải đảm bảo bảo vệ

hàng hoá trong quá trình vận chuyển giao nhận, nhất là hàng hoá phải vận

chuyển bằng đường biển, phải trải qua nhiều vùng khí hậu và những phương tiện

vận chuyển khác nhau. Trong thực tiễn có nhiều trường hợp hàng hoá bị tổn thất

mà nguyên nhân là do bao bì không bảo vệ được hàng hoá. Tập quán buôn bán

Quốc tế hình thành ngay cả trong lĩnh vực bao bì. Thông thường, nếu trong hợp

đồng không có quy định cụ thể thì người bán sẽ sử dụng bao bì theo tập quán (cả

về nguyên liệu, hình dáng, kích thước) để đóng hàng của mình. Vì vậy người

mua cần lưu ý trong việc quy đinh bao bì một cách cụ thể để đảm bảo cho hàng

hoá mình mua giữ được phẩm chất. Trong mọi trường hợp nên tránh dùng các

khái niệm chung chung như bao bì phải phù hợp với vận chuyển, phải chắc

chắn, phải bảo vệ được hàng hoá ... Những quy định như vậy có thể dẫn đến hậu

quả tranh chấp sau này do quan niệm về sự phù hợp hoặc chắc chắn giữa người

mua và người bán thường không đồng nhất.

Mặt khác trong hợp đồng cần xác định bao bì do bên bán hay bên mua cung cấp.

Thông thường và phổ biến nhất trong thương mại quốc tế là người bán cung cấp

bao bì phù hợp với hàng hoá mà khi người mua nhận hàng không cần phải trả lại

cho người bán (trừ những trường hợp hàng hoá phải sử dụng loại bao bì đặc biệt

mà người bán yêu cầu phải trả lại sau khi người mua đã nhận hàng). Đồng thời

với việc xác định bên cung cấp bao bì, người ta phải xác định giá cả bao bì.

Page 22

Thông thường giá hàng bao giờ cũng gồm cả giá bao bì (Packing charges

included). Nhưng dù sao trong hợp đồng cũng nên cho thêm một dòng "Giá cả

trên đây bao gồm cả giá bao bì" cũng không thừa và về mặt pháp lý thì nó sẽ tạo

tính chặt chẽ hơn cho hợp đồng.

Xung quanh vấn đề ký mã hiệu, cần hiểu rằng để phân biệt được hàng hoá của

mình, người bán và người mua không có cách nào khác là sử dụng ký mã hiệu

ghi lên bao bì hàng hoá. Muốn tránh sự lẫn lộn và thất lạc đối với hàng hoá, khi

ký hợp đồng người ta không quên quy định với nhau ký mã hiệu như thế nào,

cách kẻ ký mã hiệu, chiều rộng, chiều cao và các mặt trên kiện hàng phải kẻ ký

mã hiệu (thông thường là hai mặt). Ngoài ký mã hiệu cần chú ý cả những ký

hiệu phụ nhưng hết sức quan trọng buộc phải có trên bao bì như ký hiệu về hàng

dễ cháy, dễ bị ướt, không được để ngược chiều, hàng dễ bị đổ vỡ, không lật

ngược... Loại ký hiệu này đối với những mặt hàng như: xăng, dầu thùng, hàng

tân dược, hàng thuỷ tinh, pha lê...

Việc kẻ mã ký hiệu phải đảm bảo nguyên tắc: sáng sủa dễ đọc, không phai màu,

không thấm nước, sơn (hoặc mực) không làm ảnh hưởng tới phẩm chất hàng

hoá.

2.5 Điều khoản về thời gian và địa điểm giao hàng

Thời gian giao hàng trong hợp đồng mua bán ngoại thương là một thời hạn nhất

định nào đó mà trong khoảng thời gian hàng phải được giao, hay nói cách khác

là thời hạn ngưòi bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua . Thời

hạn giao hàng có thể ngắn , dài tuỳ theo khối lượng hàng hoá hợp đồng . Trong

buôn bán quốc tế có nhiều cách quy định về thời hạn giao hàng ( giao ngay, giao

một lần giao một chuyến, giao thành nhiều chuyến, hoặc thời hạn mà người phải

giao xong ) .Việc quy định thời gian giao hàng vào một ngày cụ thể là không có

khả năng thực hiện trong buôn bán quốc tế, bởi nguời bán hay người mua bị phụ

Page 23

thuộc vào thời gian hàng hoá nằm trong quá trình vận tải trên biển hay các

phương tiện khác.

Người ta cũng có khoảng thời gian giao hàng theo khoảng thời gian theo tháng,

quý, năm .

Trong trường hợp nếu người bán muốn giao hàng trước thời hạn hoặc thay đổi

cách giao hàng thì phải được người mua chấp thuận . Nếu hàng lẻ ra phải giao

toan bộ mà người bán chuyển sang giao từng bộ phận thì ngày giao bộ phận cuối

cùng được coi là ngày giao hàng . Trường hợp nếu người bán giao hàng chậm có

thể bị người mua huỷ hợp đồng hoặc phạt giao chậm ( điều kiện chung giao

hàng SEV 1968- 1988 quy định phạt từ 0,05 % - 0,12 % trị giá hàng giao chậm

trên mỗi ngày giao chậm).

Tuy nhiên cũng cần lưu ý những trường hợp mà hợp đồng mua bán quy định

việc giao hàng của người bán chỉ có thể tiến hành trên cơ sở người mua đã thực

hiện xong một nghĩa vụ nào đó. Ví dụ hợp đồng quy định rằng người bán chỉ

giao hàng sau khi người mua đã mở L/C. Hoặc người mua phải cung cấp những

thông số để đảm bảo cho người bán sản xuất, hoặc thời hạn bắt buộc người mua

phải đưa đến địa điểm giao hàng. Trong những trườnghợp trên nếu người mua

không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghiã vụ của mình thì người bán

chẳng những có quyền được giao hàng chậm mà có khi còn buộc người mua bồi

thường những thiệt hại xảy ra mà trực tiếp do người mua vi phạm nghĩa vụ gây

nên.

Về địa điểm giao hàng, cần chú ý rằng địa điểm giao hàng có liên quan rất chặt

chẽ đối với phương thức chuyên chở và đặc biệt liên quan đến điều kiện cơ sở

giao hàng. Địa điểm giao hàng gắn với biên giới chuyển quyền sở hữu và di

chuyển mọi rủi ro tổn thất từ người bán sang người mua. Cho nên khi ký hợp

đồng việc chọn điều kiện cơ sở giao hàng phải gắn liền với một địa điểm cụ thể.

Ví dụ FOB Hải Phòng, CIF cảng Sài Gòn, CIF Vladivostokz, FOB Singapore...

Page 24

Những địa danh đi kèm điều kiện cơ sở giao hàng là những địa điểm giao hàng

cụ thể.

Điều kiện cơ sở do hoạt động buôn bán quốc tế sáng tạo ra. Chúng làm cho hoạt

động xuất nhập khẩu đơn giản hơn và phần nào được tiêu chuẩn hoá.

Theo điều kiện FOB (Free on board): giao hàng trên tàu tại cảng qui định. Theo

điều kiện này, người bán phải đưa hàng xuống tàu tại cảng bốc hàng qui định

trong hợp đồng. Rủi ro mất mát và hư hại đối với hàng hoá chuyển từ người bán

sang người mua khi hàng ra khỏi lan can tàu, trách nhiệm của các bên như sau:

 Trách nhiệm của người bán phải: Chịu mọi chi phí và rủi ro giao hàng lên

tàu mà người mua thuê tại cảng bốc hàng qui định trong thời hạn qui định

và trao cho người mua vận đơn đường biển. Việc xếp hàng vào khoang,

xếp gọn ghẽ hoặc rơi vãi không thuộc trách nhiệm của người bán và theo

tiêu chuẩn thuê tàu đã thông qua sẽ do người chủ tàu thực hiện và được

tính vào trị giá cước phí do người mua trả. Nếu như người bán nhận về

mính việc thuê sà lan thì việc này được thể hiện trong điều kiện FOB bằng

cách thêm vào đó chữ "C" thành FOBC.

 Trách nhiệm của người mua phải: thuê tàu tính vào chi phí của mình và

thông báo kịp thời cho người bán về thời gian và địa điểm bốc hàng, tên

tàu, thời gian tàu đến, điều kiện bốc hàng. Rủi ro về tổn thất và mất mát

hàng chuyển từ người bán sang người mua vào thười điểm chuyển hàng

thực tế qua lan can tàu tại cảng bốc hàng hai bên đã thoả thuận.

Theo điều kiện CIF (Cost Insurance and Freight) tức là "Tiền hàng + Phí bảo

hiểm + Cước phí" đến cảng qui định. Theo điều kiện này thì trách nhiệm của các

bên như sau:

 Trách nhiệm của người bán phải: Giao hàng đúng như hợp đồng qui định;

ký kết cà chịu phí tổn ký kết hợp đồng vận

Page 25

tải hàng hoá đến cảng qui định; xin giấy phép xuất khẩu; bốc hàng và chịu

phí tổn bốc hàng xuống tàu và thông báo cho người mua biết hàng đã

được bốc xuống tàu; phải cung cấp và chịu phí tổn cung cấp một hợp

đồng bảo hiểm rui ro về việc vận tải hàng trong hợp đồng, chịu rủi ro về

hàng hóa cho đến khi hàng qua khỏi lan can tàu tại cảng bốc hàng.

 Trách nhiệm của người mua phải: Nhận chứng từ khi người bán xuất

trình, nếu chứng từ đó phù hợp với hợp đồng bán hàng và trả tiền như hợp

đồng qui định; chịu mọi chi phí và phí tổn hàng hoá kể từ lúc hàng đã qua

hẳn lan can tàu tại cảng bốc hàng và nhận hàng tại cảng qui định.

Trong tập quán buôn bán quốc tế khi xuất khẩu thường ký giá FOB và khi nhập

khẩu thường ký giá CIF. Điều này cũng được áp dụng đôi với các thiét bị viễn

thông tin học. Ngoài hai loại phổ biến trong mua bán ngoại thương còn áp dụng

các điều kiện cơ sở giao hàng như: Giao tại xưởng: EXW (Exworks), giao dọc

mạn tàu: FAS (Free alongside ship), cước phí và bảo hiểm tới đích: CIP

(insurance paid to…), giao tại biên giới: DAF (Delivery at frontier )…

2.6 Điều khoản giá cả

Điều khoản giá cả là trung tâm của hợp đồng mua bán ngoại thương. Người bán

và người mua có thể chấp nhận có châm chước những điều kiện khác của hợp

đồng, chứ khó mà chấp nhận những châm chước về giá cả. Trong hợp đồng xuất

nhập khẩu, người bán và người mua nhiều trường hợp không đi đến việc ký kết

hợp đồng chủ yếu là không thống nhất được giá bán và giá mua. Vì vậy khi xác

định giá trong hợp đông mua bán ngoại thương cần nêu rõ: đơn vị tính giá, giá

cơ sở, đồng tiền tính giá, phương pháp định giá và mức giá.

2.6.1. Xác định đơn vị tính giá

Căn cứ vào tính chất hàng hoá và tập quán buôn bán mặt hàng này trên thị

trường thế giới để xác định đơn vị tính như:

Page 26

 Dựa vào đơn vị đo lường phổ biến cho mặt hàng đó như: kg, tấn, bộ,

chiếc..ví dụ như: một bộ máy tính nguyên chiếc sẽ bao gồm cả CPU và

màn hình (monitor), hay một bộ thiêt bị định tuyến Cisco 2509 sẽ bao

gồm đầy đủ phần mềm (software ) cũng như dây cab (cable) đi kèm.

 Đối với quặng mỏ, hoá chất có thể căn cứ vào một đơn vị trọng lượng

kèm hàm lượng thành phần chính trong hàng hoá: chẳng hạn như giá 1MT

quặng nhôm hàm lượng 42% là 130 USD.

2.6.2. Giá cơ sở

Điều kiện cơ sở giaohàng có ảnh hưởng lớn đến giá hàng trong hợp đồng. Giá

cơ sở căn cứ vào chí phí chuyên chở, phí bảo hiểm, phí lưu kho …Giá cơ sở

thường qui định phù hợp với những thwtsj ngữ "FOB", "CIF, "FAS"…đồng thời

ghi kèm theo địa danh điểm giao hàng khi ký hợp đồng.

2.6.3. Đồng tiền tính giá

Trong hợp đồng mua bán ngoại thương, giá có thể được tính bằng đồng tiền của

nước xuất khẩu hoặc nước nhập khẩu hoặc của nước thứ ba mà không bị ràng

buộc gì. Tập quán buôn bán quốc tế có ảnh hưởng đến việc chọn đồng tiền để

thoả thuận giá từng loại mặt hàng. Ví dụ trong mua bán cao su, kim loại màu

người ta tính bằng giá đồng Bảng Anh, còn trong mua bán thiết bị viễn thông ở

nước ta thường dùng đồng tiền đô la Mỹ (USD)

2.6.4. Phương pháp định giá

Hai bên thoả thuận việc định giá vào thời điểm ký kết hợp đồng hoặc trong thời

gian hợp đồng đang có hiệu lực hoặc thời điểm thực hiện thanh toán. Tuỳ theo

Page 27

phương pháp tính giá mà áp dụng các loại giá sau cho thích hợp: Giá cố định,

giá linh hoạt, giá trượt.

Trong hợp đồng mua bán các thiết bị viễn thông tin học thường thì áp dụng giá

cố định. (Giá này được qui định khi ký kết hợp đồng và không thay đổi trong

suốt quá trình thực hiện hợp đồng)

2.6.5. Xác định mức giá

Khi định mức giá các bên thường dựa vào hai loại giá: giá công bố và giá tính

toán. Đối với hợp đồng mua bán thiết bị viên thông thì thường chỉ áp dụng giá

công bố.

Giá công bố là giá được đăng trong những ấn phảm của các hãng, giá này thông

thường được coi như giá quốc tế, đó là giá của những hựop đồng xuất nhập khẩu

lớn và được thanh toán bằng những đồng tiền tự do chuyển đổi.

Giá công bố bao gồm các loại: Giá hướng dẫn, giá yết bảng tại các sở giao dịch,

giá đấu thầu, giá xuất nhập khẩu trung bình. Và thường chúng ta dùng giá đấu

thầu (là loại giá sát với giá giao dịch vì theo thường lệ nó phản ánh những hợp

đồng thực)

2.6.6. Sự giảm giá

Giảm giá là cách vận dụng khá phổ biến trong buôn bán quốc tế hiện nay. Sở dĩ

như vậy vì có nhiều nguyên nhân dẫn đến phải giảm giá. Giảm giá có thể xảy ra

trong trường hợp do người mua đã trả tiền hàng gọn và sớm cho người bán.

Trong trường hợp đó người bán có điều kiện quay nhanh nguồn vốn của mình.

Thông thường một tỷ lệ như vậy được áp dụng đối với việc trả ngay là 3%, trả

trong nửa tháng là 2%, trả trong một tháng là 1% (tính từ ngày giao hàng).

Trong trường hợp do bán hàng trái vụ người bán có thể giảm giá để khuyến

khích người mua hoặc có trường hợp do người mua mua với số lượng lớn ,

Page 28

người bán cũng ưu tiên giảm giá cho người mua hoặc có khi tuy khối lượng

không lớn nhưng để chiếm lĩnh thị trường, duy trì quan hệ lâu dài và mở rộng

khả năng kích thích tiêu thụ người ta vẫn có thể thực hiện giảm giá cho người

mua.

Giảm giá về số lượng là sự giảm giá cho người mua với số lượng lớn hoặc đặt

hàng sản xuất thường xuyên nhăm thu hút sự quan tâm của người mua và nhằm

duy trì những mối quan hệ mà giúp nhà sản xuất giữ được bạn hàng thường

xuyên.

Ngoài những trường hợp trên người mua còn được hưởng quyền giảm giá trong

một số trường hợp khác mặc dù có thể hợp đồng không quy định. Đó là trường

hợp do người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng mà người mua không

trả lại hàng, hoặc người bán giao hàng chậm (nhất là hàng có tính thời vụ).

Trong những trường hợp như vậy thường người mua đòi giảm giá và không ít

trường hợp người bán buộc phải chấp nhận yêu cầu chính đáng của người mua.

Sự giảm giá chung thông thường được áp dụng chung với giá thị trường hoặc

giá tham khảo, áp dụng rộng rãi khi ký kết hợp đồng mua bán về máy móc, thiết

bị nói chung và thiết bị viên thông nói riêng thường từ 20-40%.

Giảm giá như thế nào, giảm trong trường hợp nào là do người mua và người bán

thoả thuận. Vì vậy các bên ký kết cần lưu ý xác định, lựa chọn hình thức giảm

giá phù hợp với từng loại hàng hoá để có thể mang lại lợi ích cho cả hai bên và

quy định rõ trong hợp đồng.

2.7 Điều khoản thanh toán

Khi qui định nội dung điều khoản thanh toán trong hợp đồng các bên phải nêu

rõ: dùng loại tiền nào để thanh toán; thời hạn thanh toán; phương thức thanh

toán và hình thức thanh toán.

Page 29

Thông thường trong hợp đồng mua bán thiết bị viễn thông tin học, chúng ta qui

định đồng tiền thanh toán là đồng đô la Mỹ (USD), thời hạn thanh toán sẽ được

ấn định và qui định rõ trong hợp đồng. Phương thức thanh toán thường là bằng

tiền mặt; có khi thanh toán tiền ngay từng phần hoặc thanh toán ứng trước

(advance payment) và cũng có thể thanh toán thông qua tín dụng.

Đôi với phương thức thanh toán, trong buôn bán quốc tế người ta dùng nhiều

phương thức thanh toán khác nhau, nhưng khi chọn một phương thức thanh toán

nào đó để áp dụng trong hợp đồng người mua hoặc người bán đều xuất phát từ

việc bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu ở vị trí của người bán, người ta sẽ chọn

phương thức thanh toán nhằm không những đảm bảo chắc chắn thu dược tiền

hàng mà còn thu được nhanh nhất. Còn ở vị trí người mua, họ sẽ chọn phương

thức nào để đảm bảo chỉ thanh toán khi mình đã thực sự nhận được hàng hoá.

Sau đây là một số phương thức thanh toán chủ yếu:

 Phương thức nhờ thu (Collection) được thực hiện thông qua ngân hàng

bằng viêc người bán sau khi giao xong hàng phải lập hối phiếu và ký phát

hối phiếu đó gửi cho người mua. Trên cơ sở hối phiếu đó ngân hàng sẽ

thu tiền hộ người bán. Tuy nhiên sử dụng phương thức này người bán

không thể bảo đảm chắc chắn có thu được tiền hàng hay không. Mặt khác

việc trả tiền phụ thuộc vào người mua cho nên có thể bị thanh toán chậm

vì ngân hàng chỉ có chức năng là người trung gian thu hộ mà thôi. Vì vậy

đối với khách hàng chưa thực sự có tín nhiệm và chưa thực sự tin cậy

nhau người ta tránh sử dụng phương thức này ( khi ở địa vị người bán).

 Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary Credit) được sử dụng

thông dụng nhất trong quan hệ thanh toán quốc tế. tính ưu việt của

phương thức này thể hiện ở chỗ, khả năng bảo dảm thanh toán chắc chắn

hơn và ngân hàng không còn đóng vai trò trung gian đơn thuần như trong

phương thức nhờ thu mà họ thưc sự là người đứng ra đảm bảo việc thanh

Page 30

toán. Thông qua một thư tín dụng (Letter of Credit viết tắt là L/C) ngân

hàng mở theo yêu cầu của người mua cho người bán, ngân hàng đứng ra

cam kết trả tiền cho người bán khi người bán thực hiện đúng những quy

định do người mua đưa ra trong L/C. Như vậy ngân hàng chỉ mở L/C cho

người mua khi ngân hàng xác định được rằng người mua có đầy đủ khả

năng thanh toán.

Khi sử dụng phương thức thanh toán này ta cần lưu ý rằng L/C hình thành trên

cơ sở của hợp đồng mua bán giữa hai bên , nhưng do ngân hàng không tham gia

ký kết hợp đồng mà chỉ căn cứ vào yêu cầu mở L/C của người mua để cam kết

trả tiền hộ người mua cho người bán nên L/C mang tính độc lập với hợp đồng

ngay cả trong trường hợp người mua vì muốn huỷ hợp đồng, đưa thêm vào L/C

những điều kiện để người bán do không có khả năng đáp ứng và buộc phải huỷ

hợp đồng thì ngân hàng cũng không nắm được. Có những loại thư tín dụng như:

Thư tín dụng không huỷ ngang (Irrevocable letter of credit), thư tín dụng chuyển

nhượng (Transferable letter of credit), thư tín dụng tuần hoàn (Back to back

letter of credit)... và một loại thư tín dụng khác. Trong những loại thư tín dụng

đã đề cập trên đây, mỗi loại đều có chức năng và nội dung riêng. Vì lẽ đó khi

chọn sử dụng một loại nào thì một mặt người chọn phải nắm vững nội dung,

chức năng và vai trò của chúng, mặt khác cần căn cứ vào việc mua bán cụ thề để

chọn loại thư tín dụng nào buộc người có nghĩa vụ mở phải áp dụng và ghi cụ

thể vào hợp đồng loại tín dụng thư, thời hạn chậm nhất phải mở thư tín dụng.

Thường thường để tránh những rủi ro và đảm bảo được thanh toán, trong các

hợp đồng xuất nhập khẩu ta quy định phương thức thanh toán là mở L/C không

huỷ ngang. Đây cũng là phương thức được dùng nhiều nhát trong hợp đồng mua

bán thiết bị viễn thông tin học của ta vì những hợp đồng này trị giá thường rất

cao

Đối với các hợp đồng xuất khẩu, nếu chúng ta là người bán thì cần lưu tâm đặc

Page 31

biệt đến vấn đề này. Chúng ta buộc người mua phải mở L/C vào một thời điểm

thích hợp. Ví dụ: chậm nhất là 20 ngày trước ngày bắt đầu giao hàng, người mua

phải mở cho người bán hưởng lợi L/C không huỷ ngang qua ngân hàng. Nếu đã

quy định như vậy trong hợp đồng thì người mua không mở L/C hoặc mở chậm

hơn thời hạn quy định trong hợp đồng, người bán có quyền lùi thời hạn giao

hàng hoặc không giao hàng mà vẫn không chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra.

Trong điều khoản thanh toán cũng nêu rõ Ngân hàng mà người bán yêu cầu

người mua mở L/C để việc thanh toán được thực hiện trót lọt, người bán phải

chọn ngân hàng có quan hệ tốt với ngân hàng của nước mình.

Để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng, trong một vài trường hợp nếu là người bán

nên quy định: người mua phải chịu phạt bội ước vì không mở L/C mà không có

lý do chính đáng để đề phòng người mua thông qua hành vi đó để huỷ hợp đồng.

Đối với hợp đồng nhập khẩu, nếu chúng ta là người mua cũng phải đưa ra những

điều kiện như người bán không giao hàng khi thư tín dụng đã được mở theo

đúng hợp đồng thì phải bồi thường chi phí mở L/C và lãi suất ngân hàng.

Thanh toán bằng điện chuyển tiền TTR (Telegraphic transfer): TTR chỉ nên

dùng với những bạn hàng quen thuộc có tín nhiệm.

Còn ngược lại, đối với các hợp đồng nhập khẩu, mức % phải TTR ngay sau khi

ký hợp đồng càng ít càng có lợi. Phần còn lại sẽ TTR sau khi nhận được B/L gốc

hoặc bằng Fax. Dùng phương thức thanh toán bằng TTR có lợi hơn trong các

hợp đồng nhập khẩu vì ta dễ chiếm dụng vốn của người bán, thậm chí hàng

nhận xong đã lâu mà chưa thanh toán.

Nếu thanh toán bằng TTR trong các hợp đồng nhập khẩu phải quy định chi tiết

các loại chứng từ và số lượng của chúng mà người bán cần phải chuyển cho

người mua và phải chuyển bằng DHL để đảm bảo an toàn. Trong các hợp đồng

nhập khẩu nên tránh điều khoản phải TTR 100% giá trị hợp đồng ngay sau khi

Page 32

ký hợp đồng, vì làm như vậy người bán dễ chiếm dụng vốn của chúng ta. Còn

đối với hợp đồng xuất khẩu nên có điều khoản phạt về thanh toán chậm để buộc

người mua thanh toán tiền ngay, không bị đọng vốn.

Trong các loại hợp đồng mua bán ngoại thương cụ thể, các bên nghiên cứu ích

lợi của từng loại hình thức thanh toán mà thoả thuận chọn một hình thức thích

hợp có lợi ích cho cả hai bên và ghi cụ thể vào bản hợp đồng để căn cứ vào đó

thực hiện một cách nghiêm túc.

2.8 Điều khoản về bảo hành

Trong các hợp đồng mua bán về máy móc thiết bị nói chung và về các thiết bị

viễn thông tin học nói riêng điều khoản về bảo hành thường phải được qui định

rõ trong hợp đồng. Điều khoản này phải xác định rõ khối lượng hàng người bán

phải bảo hành, thời hạn bảo hành (thường là một năm, nhưng cũng có khi là ba

năm), nghĩa vụ của người bán trong từng trường hợp phát hiện có khuyết tật

hoặc không phù hợp với hợp đồng. Khối lượng bảo hành phụ thuộc vào tính chất

của hàng hoá và các điều kiện kỹ thuật của hợp đồng. Nếu trong thời hạn bảo

hành mà thiết bị máy móc bị hỏng hóc hoặc không thích hợp với điều khoản của

hợp đồng, thì người bán có nghĩa vụ tiến hành chịu mọi phí tổn và theo sự lựa

chọn của người mua khắc phục thiếu sót hoặc thay thế thiết bị hỏng hóc bằng

thiết bị mới chất lượng tốt và giao không chậm trễ tại địa điểm đã thoả thuận

trong hợp đồng trước khi bồi thường sửa chữa, tất nhiên bến bán được quyền

xác minh lý do thiết bị, hàng hóc bị hỏng, người mua hoặc người sử dụng có lỗi

không. Nếu có thì trách nhiệm sẽ xử lý khác, và được sự đồng ý cả hai bên.

Trong trường hợp người mua tự khắc phục sự hư hỏng của thiết bị máy móc

bằng tài lực của mình thì người bán có nghĩa vụ bồi hoàn những chi phí cho

người mua. Nếu như khuyết tật hai bên không thể khắc phục được thì người mua

có quyền từ chối hợp đồng hoặc yêu cầu người bán giảm giá thiết bị hoặc đổi

thiết bị mới. Trong trường hợp này người bán có

Page 33

trách nhiệm hoàn trả mọi khoản tiền mà người mua đã thanh toán theo hợp đồng

(nếu từ chối hợp đồng) kể cả lãi suất năm đã xác định và bồi thường mọi thiệt

hại đã gây ra cho người mua. Nói chung thì hai bên đều cố gắng giải quyết bằng

đám phán và thương thảo đến một quyết định ở giữa để tránh thiệt hại đối với cả

hai bên.

2.9 Điều khoản bất khả kháng

Trong giao dịch trên thị trường thế giới, người ta thường quy định những trường

hợp mà nếu xảy ra bên đương sự sẽ hoàn toàn hoặc trong một chừng mực nào đó

miễn hay hoãn thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng. Hợp đồng sẽ không được

thực hiện mà không ai bị coi là phải chịu trách nhiệm. Những trường hợp đó là

các sự kiện bất khả kháng và chúng có đặc điểm là: Không thể lường trước,

không thể khắc phục được, có tính khách quan và nó xảy ra trước khi thực hiện

hợp đồng.

Khi gặp các trường hợp bất khả kháng thì thời hạn thực hiện hợp đồng được kéo

dài tương ứng với thời gian xảy ra bất khả kháng công với thời gian khắc phục

các hậu quả của nó. Tuy nhiên để tránh thiệt hại xảy ra do trường hợp bất khả

kháng kéo dài, người bán cần quy định một thời hạn nào đó để nếu bất khả

kháng kéo dài quá thời hạn này, người bán có thể tiến hành huỷ hợp đồng để

tránh những thiệt hại do hàng để quá lâu, nhất là các mặt hàng lương thực, hàng

tươi sống, hàng dược phẩm... Chẳng hạn có thể quy đinh đối với mặt hàng tươi

sống:"Nếu một sự kiện tạo nên bất khả kháng kéo dài quá 15 ngày hợp đồng này

được huỷ bỏ bằng cách gửi bảo đảm bằng thông báo". Ngoài ra trong điều khoản

này cần phải quy định "Khi xảy ra bất khả kháng theo tinh thấn của hợp đồng

này, bên chịu tác động của bất khả kháng phải có trách nhiệm báo ngay cho bên

kia vào lúc bắt đầu và chấm dứt của sự kiện", để làm căn cứ xác định thời gian

bất khả kháng xảy ra, từ đó các bên có cách đối phó thích hợp.

Page 34

Khi xây dựng các hợp đồng ngoại thương, các Công ty Xuất nhập khẩu phải đưa

ra điều khoản này vào. Danh mục bất khả kháng càng dài thì người bán càng nhẹ

bớt trách nhiệm trong trường hợp không thực hiện được hợp đồng.

2.10 Điều khoản huỷ hợp đồng

Để người bán chủ động trong một số trường hợp như bất khả kháng kéo dài,

người mua không đưa tàu đến nhận hàng (Bán FOB) hai bên không đi đến thoả

thuận chung khi đàm phán lại giá... điều khoản này cần được đưa vào hợp đồng.

Người bán phải thảo rõ ràng các trường hợp cho phép huỷ hợp đồng vì hiệu quả

của điều khoản này phụ thuộc rất nhiều vào việc nó có được quy đinh rõ ràng

trong hợp đồng hay không?

Điều khoản này cũng là một phương tiện tuyệt vời để bắt đối phương tôn trọng

thoả thuận trong hợp đồng. Ví dụ trong điều khoản về thời hạn giao hàng có quy

định là giao hàng sau ngày kể từ ngày mở L/C. Như vậy việc giao hàng thực

hiện hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc ý chí người mua.

Có hai cách ghi nhận việc huỷ hợp đồng: hoặc người bán thông báo cho đối

phương biết bằng thư bảo đảm, hoặc huỷ bỏ không báo trước bằng điều khoản: "

Trường hợp quy định ở điều ... không được tôn trọng, hợp đồng này được huỷ

bỏ..."

Tuy nhiên đây cũng là điều kiêng kỵ đối với cả hai bên và nên tránh nhất.

2.11 Điều khoản về trọng tài

Về mặt lý thuyết, điều khoản trọng tài không phải là điều khoản chủ yếu của hợp

đồng mua bán ngoại thương. Điều đó có nghĩa là hợp đồng có thể không có thoả

thuận về trọng tài cũng vẫn có hiệu lực. Song trên thực tế không hiếm trường

hợp do không thoả thuận trước về trọng tài không chặt chẽ mà vụ tranh chấp đi

vào chỗ bế tắc.

Page 35

Những trường hợp thường gặp là: Hợp đồng không có điều khoản về trọng tài,

luật pháp các nước trên thế giới đều công nhận tính độc lập của thoả thuận về

trọng tài. Các bên đương sự có thể thoả thuận về trọng tài ở bất cứ thời điểm

nào: trong khi ký hợp đồng, sau khi hợp đồng đã được ký kết hoặc khi xảy ra

tranh chấp mà các bên đương sự không thể giải quyết bằng con đường thương

lượng.

Có một số hợp đồng mua bán ngoại thương quy định giải quyết tranh chấp tại

nơi không đúng thẩm quyền. Ví dụ: thoả thuận giải quyết tranh chấp tại toà án

dân sự hoặc trọng tài kinh tế - Trong khi đó phạm vi xét xử của trọng tài kinh tế

nhà nước là các tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện các hợp đồng trong nước -

trong khi có trọng tài thương mại hoặc trọng tài ngoại thương là những trọng tài

với chức năng và quyền hạn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện

các hợp đồng ngoại thương.

Tâm lý thông thường ai cũng muốn hợp đồng được ký kết và thực hiện thuận

lợi. Tuy nhiên thực tế thường luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro bất trắc. Vì

vậy một điều khoản trọng tài xuất hiện trong hợp đồng là hợp lý và chăt chẽ sẽ

giúp chúng ta giải quyết dứt điểm nhanh chóng những tranh chấp phát sinh, tiết

kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc.

Trong điều khoản về trọng tài ở các hợp đồng xuất khẩu, người mua và người

bán có thể thoả thuận chỉ định trọng tài của bất cứ quốc gia nào. Nhưng tốt hơn

cả là các đơn vị ngoại thương của ta quy định các tranh chấp sẽ đưa ra giải quyết

tại hội đồng trọng tài ngoại thương bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp

Việt Nam ( nay là Trung tâm trọng tài quốc tế của Việt Nam).

II Hợp đồng vận tải.

1 Những nguyên tắc cần quán triệt khi lập hợp đồng vận tải hàng hoá

Trong phần hợp đồng mua bán, tôi đã đề cập đến quan hệ giữa Hợp đồng mua

Page 36

bán ngoại thương và Hợp đồng chuyên chở. Chuyên chở hàng hoá giữ vai trò

quan trọng và là khâu chủ yếu để thực hiện việc di chuyển quyền sở hữu hàng

hoá từ người bán sang người mua. Chính vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu

những nguyên tắc và quán triệt nguyên tắc này khi lập một hợp đồng vận tải

Theo thông lệ, có quan hệ kinh tế với nhau thì phải ký hợp đồng để định rõ

trách nhiệm và cơ sở xử lý khi xáy ra tranh chấp. Vì vậy, hợp đồng phải ghi rõ

căn cứ vào Pháp lệnh HĐKT ngày 28.8.89 của Hội đồng Nhà nước và Nghị định

17 ngày 16.1.1990 của HĐBT và các quy chế vận tải phù hợp (đường bộ, đường

sông, đường biển, đường không, bộ luật hàng hải) cũng như vào các chỉ tiêu kế

hoạch... Hợp đồng phải được thoả thuận trên tinh thần bình đẳng, hợp tác và

phải được thủ trưởng hai bên đại diện ký chịu trách nhiệm.

1.1 Nguyên tắc thuê chở, nhận chở

Khi ký hợp đồng, tức hai bên đã có sẵn yêu cầu và khả năng đáp ứng. Để tạo

thuận lợi cho nhau, hai bên được phép thoả thuận thuê chuyến (5T, 7T, 10T,

100T…), thuê chở hàng lẻ, thuê chở khoán từng khối lượng hàng nhất định…

Thuê theo hình thức nào phải ghi rõ vào hợp đồng, ghi cụ thể, loại hàng gửi vận

chuyển, tính chất hàng hoá (kỵ ướt, dễ vỡ…), đơn vị tính (tấn, bao…). Đối với

đơn vị tính nếu chưa xác định được, hai bên phải quy đổi theo quy định của Nhà

nước và được thoả thuận nếu Nhà nước chưa có qui định. Trong hợp đồng vận

chuyển, hai bên thường không quan tâm ghi cụ thể vào hợp đồng nên dẫn đến

khó khăn khi tính cước, phí nhiên liệu,…

Cần lưu ý: Bên vận tải có quyền không nhận chở những loại hàng sau:

 Hàng cấm lưu thông, hàng hoá phải có giấy phép lưu thông mà bên chủ

hàng không có hoặc giấy tờ không hợp lệ.

 Hàng hoá đã có lệnh của Nhà nước cấm chuyên chở ngược chiều.

Page 37

 Hàng hoá mà bao bì không đúng qui cách, không đảm bảo an toàn khi vận

chuyển.

 Hàng hoá nguy hiểm, cần có thiết bị đặc biệt an toàn và để bảo đảm được

phẩm chất mà bên vận tải không có thiết bị âý, trừ trường hợp bên chủ

hàng có khả năng cung cấp thiết bị.

 Đối với hàng quá khổ, quá nặng, vượt kích thước hoặc quá mức trọng tải

của phương tiện hoặc quá mức chịu đựng của đường, cầu, phà, bên chủ

hàng cần bàn bạc trước từ 10 ngày đến 1 tháng với cơ quan giao thông

vận tải hoặc hoặc bên vận tải nơi chở hàng đi.

 Trường hợp vận chuyển đột xuất có tính khẩn cấp theo lệnh Thủ tướng,

Bộ trưởng Giao thông vận tải hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thì phải hoãn

thực hiện hợp đồng vận tải đã ký với các chủ hàng khác và có trách nhiệm

báo cho chủ hàng đó biết, đồng thời báo cáo cho cơ quan chủ quản của

mình rõ. Những hàng hoá được tạm hoãn này phải được tiếp tục vận

chuyển sau khi thi hành xong lệnh đột xuất.

Nếu vận chuyển đột xuất khác nghĩa là không phải thi hành các lệnh như trên

bên vận tải chỉ nhận chở nếu có khả năng. Trường hợp này, bên chủ hàng phải

trả thêm cho bên vận tải một khoản tiền do hai bên thoả thuận và ngoài ra, chủ

hàng còn phải đài thọ phí tổn cho bên vận tải, vì vận chuyển đột xuất làm lỡ

hợp đồng đã ký với chủ hàng khác.

Về thứ tự ưu tiên vận chuyển: Bên vận tải sẽ vận chuyển trước đối với hàng hoá

đã có kế hoạch vận chuyển dự trù trước và đã ký hợp đồng vận tải. Hàng gửi

trước hoặc xe xin trước thì chở trước và ngược lại. Nếu nhiều chủ hàng gửi hàng

hoặc xin xe cùng một lúc mà khả năng phương tiện không đáp ứng thì ưu tiên

vận tải phải được thi hành theo thứ tự như sau:

Page 38

 Hàng tươi sống, hàng dễ biến chất (đối với vận tải bằng ô tô).

 Hàng nguy hiểm.

 Hàng thường.

Hoặc đối với đường biển thì:

 Hàng thuộc loại vật tư chủ yếu của Nhà nước: lương thực, phân bón, than,

vật liệu xây dựng, xăng dầu…

 Hàng phục vụ các chỉ tiêu xuất khẩu.

 Hàng dễ biến chất, nguy hiểm.

 Hàng thường.

Sau khi đã ký xong hợp đồng, muốn yêu cầu vận chuyển, bên chủ hàng phải làm

giấy xác báo (giấy phải được thủ trưởng hoặc đại diện xí nghiệp vận tải ký và

đóng dấu) trước 48 giờ. Đã xác báo nếu có thay đổi, phải xác báo lại trước 36

giờ. Bên vận tải phải xác báo cho chủ hàng biết số lượng và trọng tải xe có thể

cung cấp 24 giờ trước khi chủ hàng giao hàng. Trường hợp chủ hàng làm giấy

xác báo xin xe chậm, nếu bên vận tải không chuẩn bị kịp thì chậm nhất sau 24

giờ phải giao hàng cho bên vận tải. Nếu chủ hàng không xác báo xin xe thì vận

tải không chịu trách nhiệm.

Chủ hàng phải làm vận đơn theo từng chuyến hàng, viết rõ ràng, không tẩy xoá,

gạch bỏ, viết thêm, viết chồng hay dán chồng. Trường hợp sửa chữa, xoá bỏ…

phải có chữ ký chứng thực của đại diện đơn vị đã được giao ký hợp đồng. Chủ

hàng phải có trách nhiệm về những điều mình ghi vào vận đơn.

Chủ hàng phải đính theo vận đơn các giấy tờ khác nếu các cơ quan chuyên trách

cần kiểm soát. Nếu không thì phải chịu trách nhiệm do hậu quả để thiếu trên

như: phải chịu phạt chờ đợi, hàng bị hư hỏng

Page 39

hoặc hàng bị tịch thu vẫn phải trả cước. Bên vận tải để thiếu giấy tờ vê mặt giao

thông hợp lệ thì cũng phải nhận mọi trách nhiệm do hậu quả dó.

1.2 Nguyên tắc giao nhận hàng vận chuyển

Giao nhận hàng hoá nhanh gọn, tốt là biểu hiện thực hiện kế hoạch tốt, vận

chuyển tốt, bảo quản tài sản Nhà nước được chu đáo, năng suất phương tiện

được khai thác hợp lý, quan hệ giữa vận tải với chủ hàng tốt. Quan trọng hơn

nữa là dễ dàng qui được trách nhiệm cho hai bên. Muốn vậy khi lập hợp đồng

cần lưu ý.

Hợp đồng phải ấn định thật cụ thể và chính xác địa điểm giao nhận (ghi rõ thành

phố, phường, xã, đường phố…) để không gây lãng phí và ảnh hưởng đến kế

hoạch vận chuyển, đồng thời làm cơ sở cho việc tính cự ly, tính cước và nhiên

liệu. Địa điểm giao nhận là nơi phương tiện ra vào được an toàn thuận tiện (VD:

vận chuyển gỗ chỉ nhận ở bãi 2…) Nếu vì đường xá xấu, phương tiện không vào

được, chủ hàng phải sửa đường hoặc tổ chức xếp dỡ, giao nhận hàng tại tại nơi

cuối cùng mà phương tiện có thể vào được. Trường hợp chủ hàng không có

hàng hoặc chưa có hàng để giao khi phương tiện đến thì sau 30 ohút (đối với ô

tô), chủ hnàg phải chứng nhận cho phương tiện về hoặc yêu cầu phương tiện chờ

thêm 1 giờ, nếu qúa 1 giờ mà bên vận tải không thấy không đồng ý thì chủ hàng

cũng phải chứng nhận cho xe về, chủ hàng phải trả giá cước của loại hàng hoá

thấp nhất. Trường hợp không tìm được người nhận bên vận tải sau 30 phút xe

đến yêu cầu chính quyền địa phương xác nhận phương tiện có đến. Bên vận tải

có quyền từ chối không nhận hàng, nếu chủ hàng giao không đúng loại hàng ghi

trong hợp đồng, nếu phương tiện được điều động không thích hợp với loại hàng

ấy.

Hợp đồng phải ghi rõ phương pháp giao nhận: nhận sao, giao vậy, ghi cụ thể,

tránh chung chung.

Page 40

Có thể qui ước tuỳ theo tính chất hàng hoá mà ghi cả vào văn bản hợp đồng, các

phương thức giao nhận như sau:

 Theo trọng lượng, thể tích.

 Theo nguyên hầm.

 Theo nguyên bao, nguyên đai, nguyên kiện.

 Mớm nước phương tiện vận tải thuỷ.

 v.v….

Hàng nhận như thế nào, nếu giao đúng như vậy thì bên vận tải sẽ không chịu

trách nhiệm , kể cả nếu có thiếu hụt hoặc hư hỏng bên trong, đối với hàng

nguyên đai, nguyên kiện.

Hai bên cần kiểm tra kỹ lưỡng hàng hoá trước khi tiến hành giao nhận hàng đẻ

bảo vệ tài sản Nhà nước và để qui trách nhiệm, bên vận tải chú ý kiểm tra trước

khi nhận hàng, chú ý bao bì và đóng gói đúng qui cách không? có ký mã hiệu

chưa? Chủ hàng chú ý khi nhận hàng nếu thấy nghi vấn thì lập biên bản cùng ký

xác nhận để làm cơ sở giải quyết, đồng thời gửi cho cơ quan cấp trên để báo cáo.

Theo nguyên tắc: hàng đã được giao nhận xong, có xác nhận của hai bên thì bên

vận tải sẽ không chịu trách nhiệm nếu hàng có sự hư hỏng, mất mát. Nếu trong

hợp đồng vận tải, hai bên cùng không quan tâm ghi cụ thể phương thức giao

nhận, thông thường hay ghi nhận sao giao vậy và khi có mất mát thì tranh cãi và

đưa đến cơ quan trọng tài kinh tế để giải quyết, về cơ sở pháp lý không chặt chẽ

rất khó giải quyết.

Đối với hàng hoá có quy định tỷ lệ hao hụt, hai bên phải căn cứ vào quy định

Nhà nước mà ghi cụ thể vào hợp đồng và vận dơn. Nếu Nhà nước chưa có quy

định thì hai bên được thoả thuận, nhưng không được tuỳ tiện làm thiệt hại tài sản

Page 41

Nhà nước.

Trường hợp chủ hàng có cử áp tải, thì phải ghi rõ có áp tải và nhiệm vụ cụ thẻ

của áp tải vào hợp đồng và vận đơn. Nguyên tắc, nếu có áp tải, bên vận tải

không chịu trách nhiệm hàng mất mát, hư hỏng vì người áp tải có nhiệm vụ bảo

vệ hàng hoá cũng như giải quyết các thủ tục liên quan đến hàng hoá trên dường.

Nhưng sẽ chịu trách nhiệm, nếu điều khiển phương tiện không đúng kỹ thuật,

không giúp đỡ người áp tải bảo vệ hàng hoá hoặc có hanhf vi vô trách nhiệm

khác. Các trường hợp sau đây, chủ hàng phải cử người áp tải:

 Hàng quý giá như kim cương, vàng bạc;

 Hàng thịt, cá, hoa tươi, đòi hỏi di đường phải ướp;

 Súc vật sống cần cho ăn dọc đường;

 Hàng nguy hiểm;

 Các loại súng ống, đạn dược;

 Linh cữu, thi hài.

Những loại hàng khác, tuỳ chủ hàng nếu xét thấy cần thiết thì cử áp tải, không

bắt buộc.

Trong hợp đồng vận tải, chủ hàng thường xem nhẹ điều khoản này, thậm chí

không xem hợp đồng đã in sẵn việc chịu trách nhiệm cử áp tải, nên khi có mất

mát hàng hoá, chủ hàng không đòi bồi thường được.

Phải ghi rõ vào hợp đồng trách nhiệm của bên vận tải về việc làm vệ sinh

phương tiện, chi phí chủ hàng đài thọ.

1.3 Nguyên tắc xếp dỡ hàng hoá

Xếp dỡ hàng hoá góp phần bảo vệ tốt hàng hoá và phương tiện, giúp cho

Page 42

phương tiện tăng vòng quay vận chuyển, đồng thời tăng năng suất vận chuyển.

Xét về nguyên tắc chung thì bên vận tải phụ trách xếp dỡ tại các địa điểm có tổ

chức xếp dỡ cua cơ quan giao thông vận tải (bến xe, trạm trung chuyển, cảng, kể

cả các xí nghiệp, công, nông, lâm trường, các kho…) phí tổn xếp dỡ chủ hàng

chịu. Việc giao và nhận hàngdo chủ hàng đảm nhiệm. Trong trường hợp chủ

hàng phụ trách xếp dỡ thì bên vận tải có trách nhiệm hướng dẫn về kỹ thuật xếp

dỡ.

Tại các địa điểm có chuyển tải mà không có áp tải đi theo, bên vận tải phải xếp

dỡ nhưng chỉ được hưởng chi phí nếu tại địa điểm này cơ quan giao thông vận

tải dã có thông báo trước.

Xếp dỡ phải được tiến hành cả ngày lẫn đêm kể cả ngày lễ và chủ nhật, chủ hàng

phải báo trước 24 giờ, khi xếp dỡ ngày lễ và chủ nhật cần ghi rõ vào hợp đồng,

tuy nhiên nếu khó khăn về bến bãi, phương tiện bốc dỡ, hai bên có thể thoả

thuận thời gian xếp dỡ cho phù hợp với thực tế và ghi vào hợp đồng để làm cơ

sở tính thưởng phạt. Đây là quyền lợi của chủ hàng, nên chủ hàng luôn luôn phải

quan tâm.

Thời hạn chuẩn bị xếp dỡ đối với ô tô là: mỗi lần xe đến địa điểm giao nhận

hàng, nếu chủ hàng đảm nhiệm thì phải bắt đầu xếp dỡ sau 30 phút, đối với

đường sông là 3 giờ, đường biển là 2 giờ sau giờ bên vận tải báo phương tiện

đến bến. Hai bên cần qui định và ghi vào hợp đồng thời hạn này để có cơ sở tính

phạt chờ đợi khi đã qua thời gian chuẩn bị, thực tế nếu có khó khăn về thuê

mướn huy động nhân công, hai bên được phép thương lượng kéo dài thêm thời

hạn chuẩn bị và ghi rõ vào hợp đồng (chẳng hạn 1/2 ngày đối với ô tô hoặc

sàlan..)

Tuỳ từng loại phương tiện và loại hàng, trong trường hợp nhà nước chưa ban

hành định mức cụ thể, thì hai bên được thoả thuận định mức thích hợp ghi vào

Page 43

hợp đồng và vận đơn, căn cứ vào đó mà ấn định thời gian xếp dỡ. Cần chú ý có

thưởng phạt để nâng cao trách nhiệm và động viên khuyến khích.

1.4 Cước phụ phí vận tải và cách thanh toán

Trong vận tải ngoài giá cước chính, bên vận tải còn được thu các khoản phụ phí

vận tải (nếu có) theo thể lệ hiện hành như: phí tổn điều xe (đường sông gọi là

huy động phí), cước qua phà, chi phí chuyển tải, phí tổn vật dụng chèn lót,

chuồng củi, giá chênh lệch xăng, đầu, lệ phí bến đỗ, kê khai giá trị hàng hoá,

cảng phí, hoa tiêu phí…

Tiền cước được tính theo giá cước quy định của nhà nước, căn cứ theo loại

hàng, loại đường phù hợp. Trường hợp cự ly chưa xác định được, hai bên phải

lấy ý kiến của cơ quan giao thông vận tải Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương

hoặc Bộ Giao thông vận tải để xác định rõ cự ly nơi luồng tuyến đó gặp trở ngại

(cầu, đường, lòng sông…) không đi được, để làm cơ sở thoả thuận luồng tuyến

khác.

Nếu thuê cả chuyến hoặc thuê cả hầm thì chủ hàng phải trả cước cả chuyến hoặc

cả hầm, thuê theo khối lượng hay trọng lượng hàng thực tế đã vận chuyển hoặc

thuê chở súc vật sống không phải đóng chuồng cũi thì ước tính theo đầu súc vật.

Nếu quãng đường đến địa điểm lấy hàng quá 3 cây số mà xe chạy không thì bên

chủ hàng phải trả cho bên vận chuyển một khoản phí tổn gọi là phí tổn điều xe,

kể từ cây số thứ tư, phí tổn điều xe tính cả lượt đi và lượt về, mỗi lượt bằng 50%

giá cước đường dài của loại hàng cấp bậc thấp nhất (trong đường sông) huy

động phí được tính từ cây số thứ 3 đối với phương tiện cơ giới và cây số thứ 2

đối với phương tiện thô sơ. Trường hợp thực hiện kế hoạch vận chuyển nhiều

chuyến liên tục trong một thời gian, bên vận tải cũng chỉ thu phí tổn điều xe

(huy động phí) 1 lần, chủ hàng có trách nhiệm bố trí chỗ để phương tiện và nơi

ăn ngủ cho bên vận tải.

Page 44

Qua thực tế nhận thấy rằng hai bên cần lưu ý ghi rõ vào hợp đồng việc tính phạt

phương tiện bị chờ đợi hoặc trả tiền công nhân chờ đợi… để góp phần nâng cao

trách nhiệm hai bên. Việc tính tiền phạt này phải căn cứ vào giá quy định của

Nhà nước.

Do đặc điểm của ngành vận tải: xe lăn bánh được xem là sản xuất ra sản phẩm

và hoạt động không được Nhà nước cấp vốn lưu động nên bên vận tải được thu

ngay cước phí và phụ phí, sau khi đã nhận xong hàng hoá và làm xong giấy vận

chuyển, chứ không phải chờ chở xong và làm xong phiếu giao nhận hàng, có xác

nhận của hai bên rồi mới thanh toán, cụ thể như sau:

 Đối với hợp đồng vận chuyển từng chuyến thì thanh toán ngay trước mỗi

chuyến.

 Đối với hợp đồng vận chuyển hàng quí, hàng tháng hoặc nhiều chuyến

liên tục trong thời gian trên 10 ngày thì thanh toán trước 10 ngày 1 lần

(nếu vận chuyển bằng ô tô) và thanh toán chậm nhất 3 ngày sau khi vận

chuyển xong hàng hoá của mỗi chuyến (đối với đường sông).

Nếu công việc xếp dỡ do bên vận tải phụ trách, bên chủ hàng phải thanh toán

phí tổn xếp dỡ cùng một lúc với thanh toán cước phí. Trường hợp có các phụ phí

dọc đường và các bến đậu, bên vận tải phải có chứng từ và chủ hàng phải thanh

toán lại sau khi nhận hàng.

Việc thanh toán phải căn cứ vào thể lệ thanh toán của ngân hàng mà chọn hình

thức thích hợp. Nếu bên chủ hàng là tư nhân không có tài khoản ở ngân hàng thì

có thể thanh toán bằng tiền mặt. Trước mỗi chuyến vận tải bên vận tải phải gửi

vận đơn cho ngân hàng để ngân hàng làm cơ sở giúp thanh toán cước phụ phí vì

vận đơn là chứng từ duy nhất để làm cơ sở thanh toán cước phí.

Chủ hàng thanh toán chậm phải chịu phạt lãi theo thể lệ ngân hàng.

Page 45

Trong việc thực hiện hợp đồng vận tải, thường chủ hàng hay giữ tiền cước để

khấu trừ bồi thường hàng hoá bị hư hỏng mất mát. Điều này trái với qui định của

Nhà nước về hợp đồng vận tải.

1.5 Nguyên tắc bồi thường và phạt vi phạm hợp đồng

Bên nào trong quá trình thực hiện hợp đồng để xảy ra vi phạm hợp đồng sẽ bị

phạt vi phạm chế độ HĐKT và nếu dỡ chậm hoặc đưa phương tiện đến lấy hàng

chậm thì phải phạt bồi thường phí tổn chờ đợi theo qui định Nhà nước.

Hàng hoá vận chuyển bị mất sẽ phải bồi thường theo giá thị trường tự do ở thời

điểm nơi hàng đến.

Hàng hoá vận chuyển bị hư hỏng nếu:

 Thuộc loại hàng không sửa chữa được như lương thực, thực phẩm, nông

lâm, thổ sản, thuỷ sản bị giảm phẩm chất thì dựa trên cơ sở phẩm chất

hàng hoá khi nhận chở và khi giao hàng mà hai bên thoả thuận tỷ lệ bồi

thường. Nếu không thoả thuận được thì hai bên yêu cầu cơ quan chuyên

môn giám định và xác nhận tỷ lệ bồi thường.

 Thuộc loại có thể sửa chữa được như máy móc, dụng cụ, phụ tùng… thì

chủ hàng sửa chữa, bên vận tải đài thọ phí tổn. Nếu sửa chữa xong mà vẫn

không phục hồi được như cũ thì bên vận tải phải bồi thường theo loại

hàng hư hỏng không sửa chữa được.

Hợp đồng phải ghi rõ trách nhiệm vật chất của hai bên nhưng việc giải quyết

tiền bồi thường và thanh toán cước phải tách riêng. Nguyên tắc không được trừ

nợ hai bên phải đòi hỏi giải quyết cho kịp thời, khoản nào ra khoản đó.

Trường hợp hàng không đóng gói, khai không đúng sự thật, bên chủ hàng phải

chịu phạt bằng 20% số tiền cước phải trả.

Page 46

Cần chú ý để có cơ sở pháp lý giải quyết tiền phạt và bồi thường mọi việc gì xảy

ra trong quá trình vận chuyển và giao nhận, 2 bên phải lập biên bản minh chứng.

1.6 Các trường hợp được miẽn bồi thường, miễn cước phí

1.6.1. Bên vận tải có trách nhiệm bảo quản tốt hàng hoá vận

chuyển nhưng nếu gặp các trường hợp sau thì sẽ được xét

miễn giảm bồi thường.

 Thiệt hại vì tai nạn, hoặc do thiên tai gây ra mà bên vận tải đã chuẩn bị

mọi phương tiện đề phòng và đã cố gắng hết sức phòng ngừa nhưng

không khắc phục được;

 Hàng đóng gói, đã được qui ước giao nhận theo số lượng mà khi trả hàng,

thùng hàng bao bì nguyên vẹn, dấu cặp trì, gắn xi, niêm phong, đai kiện

không thay đổi, nhưng hàng hoá bên trong bị thiệt hại hoặc hư hỏng;

 Người áp tải (nếu có) không làm tròn nhiệm vụ bảo quản ghi trong hợp

đồng và vận đơn;

 Hàng hoá phải huỷ bỏ dọc đường hoặc bị truy thu, trưng dụng do lệnh của

Nhà nước;

 Ký mã hiệu ghi thiếu hoặc sai;

 Hàng hoá tự biến chất, hư thối, bốc hơi, hoặc giảm phẩm chất trong

trường hợp phương tiện bị các cơ quan kiểm soát của Nhà nước giữ lại

quá thời hạn vận chuyển mà không do lỗi bên vận tải;

 Hoả hoạn không do lỗi bên vận tải;

 Cấp cứu sinh mạng người, phương tiện và hàng hoá;

 Súc vật chết không do lỗi bên vận tải;

Page 47

 Hàng hoá bị mất mát hư hỏng do lỗi của chủ hàng;

1.6.2. Chủ hàng sẽ được miễn cước phí và phụ phí trong các

trường hợp sau:

 Hàng bị mất trong những trường hợp mà bên vận tải chịu trách nhiệm bồi

thường;

 Hàng bị mất mát, hao hụt do thiên tai, đã cố gắng phòng ngừa khắc phục

không được.

 Phần hao hụt quá tỷ lệ đối với hàng hoá có quy định tỷ lệ hao hụt.

Cần chú ý hai bên ký hợp đồng không được tuỳ tiện xét cho miễn giảm. Muốn

miễn giảm phải có đầy đủ chứng lý kèm theo. Trường hợp hàng bị mất, bên vận

tải đã giải quyết bồi thường, hoặc chưa giải quyết, nhưng sau đó tìm lại được thì

bên chủ hàng phải nhận số hàng này và phải trả bồi thường nếu đã nhận.

Nguyên tắc bồi thường là phải bồi thường bằng tiền, không thực hiện bằng hiện

vật.

Các trường hợp sau đây sẽ được miễn tiền phạt chờ đợi:

 Bão lụt mưa to, không điều khiển được phương tiện vận tải, không xếp dỡ

hàng được;

 Luồng đường bị tạm cấm, bị ách tắc giao thông;

 Phương tiện vận tải bị trưng dụng, công nhân phải đi làm công tác khẩn

cấp theo lệnh điều động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

1.7 Thời hiệu hợp đồng

Hợp đồng phải ghi rõ thời gian hiệu lực thi hành, vì nó có nhiều tác dụng:

Page 48

 Giúp cho hai bên phấn đấu hoàn thành đúng thời hạn hợp đồng.

 Làm cơ sở xem xét bên nào vi phạm hợp đồng để trọng tài kinh tế xử lý

đúng.

 Giúp cho hai bên đề cao được trách nhiệm của mình đối với hợp đồng,

không để lãng phí phương tiện, nhiên liệu, hàng hoá. Làm ăn có tính toán

đến hiệu quả kinh tế và giúp đỡ lẫn nhau.

 Giúp cho việc thực hiện chỉ tiêu vận chuyển là từ lúc hàng hoá được xếp

xong vào phương tiện đến lúc phương tiện đến bến trả hàng. Nếu bên vận

tải đảm nhận cả việc xếp dỡ thì thời gian xếp hàng ở bến đi và dỡ hàng ở

bên đến được tính vào thời gian vận chuyển. Bên vận tải có trách nhiệm

vận chuyển hàng hoá đúng theo thời hạn mà hai bên đã thoả thuận với

nhau trong hợp đồng và bên chủ hàng phải đảm bảo có hàng hoá cho bên

vận tải vận chuyển.

Cần chú ý để cho thời hạn vận chuyển được hai bên thoả thuận trong hợp đồng

thực hiện tốt, hai bên ký hợp đồng phải căn cứ theo từng loại đường, cầu,

phương tiện vận tải và tính chất từng loại hàng mà ấn định cho chính xác và cụ

thể, phải tránh khuynh hướng sau:

Đối với bên vận tải, nên sắp xếp điều phương tiện có kế hoạch, biết chủ động

đáp ứng nhu cầu của chủ hàng, nhất là chủ hàng có kế hoạch vận chuyển được

báo trước. Không nên điềuphương tiện cho các chủ hàng ngoài kế hoạch trước

trong khi chủ hàng trong kế hoạch chưa ký hợp đồng, mặc dù đang có yêu cầu…

Hợp đồng được ký và thực hiện phải trên cơ sở bình đẳng và cùng chịu trách

nhiệm. Do đó khi hai bên thoả thuận được thời gian vận chuyển là phải cố gắng

thực hiện, cókhó khăn phải kịp thời bàn tìm biện pháp giảiquyết, không bên nào

được đơn phương huỷ bỏ và sửa đổi hợp đồng.

Page 49

Thực hiện hoàn tất hợp đồng hai bên ký hợp đồng phải họp thanh lý HĐ để tổng

kết công việc, rút ra kinh nghiệm cho hợp đồng sau, đồng thời tổng thanh

toáncác khoản cước phụ phí, tiền phạt, bồi thường và điều chỉnh các khoản thu

thừa thiếu nếu có trong quá trình thực hiện hợp đồng. Biên bản thanh lý là cơ sở

pháp lý xác nhận trasch nhiệm giải quyết của mỗi bên đối với các tồn tại sau khi

thực hiện hợp đồng, do đó hai bên phải bàn bạc kỹ, xác định số liệu và trách

nhiệm thật cụ thể, chính xác. Bên vận tải chịu trách nhiệm chủ trì mời chủ hàng

đến dự họp thanh lý vào một thời gian và địa điểm dự kiến trong hợp đồng.

Để tránh cho đơn vị thiệt hại trong quá trình vận chuyển, các đơn vị vận tải cũng

như chủ hàng cần mua bảo hiểm (ký hợp đồng bảo hiểm với chi nhánh bảo

hiểm) đối với loại hàng quan trọng hoặc trị giá hàng hoá vận chuyển khá lớn.

1.8 Những việc cần thiết khi ký hợp đồng - Phòng ngừa xảy ra vi phạm hoặc

tranh chấp.

Hợp đồng ký xong ngoài các bản hai bên giữ, cần phải gửi thêm cho Ngân hàng

mà hai bên có mở tài khoản để làm cơ sở cho vay và thanh toán.

Hợp đồng phải được thủ trưởng đơn vị của hai bên ký tên và đóng dấu. Nếu vì

một vài điều khoản mà hai bên chưa thống nhất thì ghi vào hợp đồng, mỗi bên

vẫn còn bảo lưu quan điểm của mình, thì hai bên vẫn ký hợp đồng với các điều

đã thống nhất, còn những điều chưa thống nhất nên ghi rõ vào hợp đồng ý kiến

bảo lưu của hai bên báo cáo cho cơ quan chủ quản cấp trên xử lý.

Trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp vận tải (Nhà nước và tập thể…)

thường khoán vận chuyển cho từng đầu phương tiện (kể cả khoán cho đi khai

thác hàng), nhiều chủ hàng hay ký trực tiếp với lái xe, chủ tàu…, không ký với

đơn vị vận tải. Về nguyên tắc của hợp đồng là không đúng, nhưng quan trọng

hơn là khi có tranh chấp xảy ra (như mất mát hàng hoá…) thì đơn vị vận tải chủ

quản không chịu trách nhiệm giải quyết và cơ quan trọng tài cũng không xem

Page 50

xét, giải quyết được, do hợp đồng không phảt hai pháp nhân ký với nhau. Vì vậy

chủ hàng nên kiên quyết tránh kiểu ký hợp đồng trên. Lưu ý việc ký hợp đồng

theo giấy giới thiệu cũng không đảm bảo nguyên tắc.

Trong thực tế có rất nhiều phương thức vận tải, nhưng ở đây chúng ta sẽ đi sâu

vào nghiên cứu về vận tải biển và vận tải hàng không.

2 Vận tải hàng hoá bằng đường biển.

Đối với nước ta, vận tải đường biển có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt

động xuất nhập khẩu. Trên thế giới vận tải biển đã đảm nhận từ 70% - 80% tổng

khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Đối với Việt Nam, hiện nay tỷ lệ đó đạt

95% hoặc hơn nữa.

Tuy nhiên việc chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu có liên quan đến việc thực

hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, nhưng trong hợp đồng chuyên chở, những

vấn đề quyền và nghĩa vụ chỉ phát sinh giữa người chuyên chở và người gửi

hàng ( có thể là người bán, người mua hoặc những đại diện của họ).

Theo các quy định của điều ước quốc tế về hàng hoá hoặc về vận đơn đường

biển thì " Người chuyên chở" là bất cứ người nào mà chính mình hoặc được họ

uỷ thác đứng tên ký hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng đường biển với người

gửi hàng. Còn " Người gửi hàng" là bất kỳ người nào mà chính mình ký hoặc

được người khác đứng tên mình ký thay cho mình một hợp đồng chuyên chở:

hoặc bất kỳ người nào mà chính mình tiến hành hoặc được người khác thay

mình tiến hành thực sự giao hàng hoá cho người chuyên chở liên quan đến Hợp

đồng chuyên chở đường biển.

"Hợp đồng chuyên chở bằng đường biển" là bất kỳ hợp đồng nào mà theo đó

người chuyên chở đảm nhận chuyên chở hàng hoá bằng đường biển từ một cảng

này đến một cảng khác để thu tiền cước.

Page 51

Để chuyên chở hàng hoá của mình, người thuê chuyên chở có thể ký kết những

hợp đồng thuê nguyên chuyến ( gọi là thuê tàu chuyến) hoặc chỉ cần lưu cước

tàu chợ đối với những lô hàng lẻ không đủ một chuyến tàu. Trong những trường

hợp như vậy, sử dụng tàu chợ (Liner) có lợi vì tàu chợ theo những luồng nhất

định và theo lịch trình nhất định.

3 Các phương thức vận tải thường dùng trong chuyên chở hàng hoá

ngoại thương bằng đường biển

3.1 Tàu chợ

3.1.1. Khái niệm về thuê tàu chợ

Tàu chợ là loại tàu chở hàng chạy thường xuyên trên một tuyến đường nhất

định, ghé vào các cảng quy định và theo một lịch trình định trước.

Thuê tàu chợ (Booking Shipping Space) là việc chủ hàng liên hệ với chủ tàu

hoặc đại lý của chủ tàu yêu cầu dành chỗ trên tàu để chuyên chở hàng hoá từ

một cảng này đến một cảng khác.

3.1.2. Đặc điểm:

Tàu chạy giữa các cảng theo một lịch trình do chủ tàu định trước về thời gian và

không gian.

Chứng từ điều chỉnh các mối quan hệ trong thuê tàu chợ là Vận đơn đường biển

(Bill of LAding - B/L). Vận đơn đường biển là bằng chứng của một hợp đồng

vận tải hàng hoá bằng đường biển (Contract of Carriage By Sea).

Khi thuê tàu chợ chủ hàng không được tự do thoả thuận các điều kiện, điều

khoản chuyên chở mà phải tuân thủ các điều kiện in sẵn của Vận đơn dường

biển.

Cước phí trong thuê tàu chợ thường bao gồm cả chi phí xếp dỡ hàng hoá và

Page 52

được tính toán theo biểu cước (Tariff) của hãng tàu. Biểu cước này có hiệu lực

trong thời gian tương đối dài, chủ tàu đóng vai trò là người chuyên chở. Người

chuyên chở là một bên của hợp đồng vận tải và là người chịu trách nhiệm về

hàng hoá trong suốt quá trình vận chuyển.

Các chủ tàu chợ thường cùng nhau thành lập các Công hội tàu chợ (Liner

Conference) hoặc Công hội cước phí (Freight Conference) để khống chế thị

trường và nâng cao khả năng cạnh tranh. Các công ty thuộc Công hội gọi là

Conference Lines.

Có thể sử dụng phương thức thuê tàu chợ khi chủ hàng có hàng bách hoá, số

lượng tuỳ ý (vừa và nhỏ) và cảng xếp dỡ nằm trong lịch trình của tàu.

3.2 Tàu chuyến (Voyage Chartering)

3.2.1. Khái niệm về thuê tàu chuyến

Tàu chuyến là tàu chuyên chở hàng hoá giữa hai hoặc nhiều cảng thao yêu cầu

của chủ hàng trên cơ sở một hợp đồng thuê tàu.

Thuê tàu chuyến là việc chủ hàng liên hệ với chủ tàu hoặc đại diện của chủ tàu

yêu cầu thuê toàn bộ con tàu để chuyên chở hàng hoá từ một hoặc nhiều cảng

xếp dỡ theo yêu cầu của chủ hàng.

3.2.2. Đặc điểm

Phương thức thuê tàu chuyến có đặc đIểm:

Tàu không chạy theo lịch trình cố định như tàu chợ mà theo yêu cầu của khách

hàng.

Văn bản đIều chỉnh mối quan hệ giữa các bên trong thuê tàu chuyến là Hợp

đồng thuê tàu chuyến (Voyage Charter - C/P) và Vận đơn đường biển. Hợp đồng

thuê tàu chuyến được ký kết giữa người thuê tàu (Charterer) và người chuyên

Page 53

chở (chủ tàu hoặc người quản lý tàu), trong đó người chuyên chở (Carrier) cam

kết chuyên chở hàng hoá để giao cho người nhận hàngở cảng đến, còn người

thuê tàu cam kết trả tiền cước chuyên chở theo mức hai bên đã thoả thuận.

Khi xếp hàng lên tàu hoặc khi nhận hàng để xếp, người chuyên chở sẽ cấp Vận

đơn đường biển. Vận đơn này đIều chỉnh mối quan hệ giữa người chuyên chở

với người gửi hàng, giữa người chuyên chở với người nhận hàng hoặc người

cầm B/L.

Người thuê tàu có thể tự do thoả thuận, mặc cả về đIều kiện chuyên chở và giá

cước trong hợp đồng thuê tàu.

Giá cước trong thuê tàu chuyến có thể gồm cả chi phí xếp dỡ hoặc không là do

thoả thuận của hai bên. Giá cước được tính theo trọng lượng hàng, thể tích hàng

hoá hoặc theo giá thuê bao (Lumpsum) cho một chuyến.

Chủ tàu có thể đóng vai là người chuyên chở hoặc không.

Tàu chuyến thường được dùng khi thuê chở dầu và hàng khối lượng lớn như:

than đá, quặng, ngũ cốc, bô xít, phốt phát, xi măng, phân bón… và người thuê

tàu phải có một khối lượng hàng hoá tương đối lớn để đủ xếp một tàu.

4 Vận đơn đường biển

4.1 Khái niệm chức năng của vận đơn đường biển

Vận đơn đường biển (Bill of Lading, Ocean Bill of Lading, Master Bill of

Lading) là một chứng từ chứng minh cho một hợp đồng vận tải đường biển, cho

việc nhận hàng hoặc xếp hàng của người chuyên chở và bằng vận đơn này,

người chuyên chở cam kết sẽ giao hàng khi xuất trình nó.

Từ khái niệm trên, ta thấy người cấp vận đơn là người chuyên chở, chủ tàu hoặc

người được họ uỷ quyền, khi hàng đã được xếp lên tàu hoặc khi nhận hàng để

Page 54

xếp.

Khi cấp vận đơn, người chuyên chở, chủ tàu hoặc đại diện của họ phải ký vào

vận đơn và ghi rõ tư cách pháp lý. Trong thực tế, vận đơn thường do người

chuyên chở, chủ tàu, thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở, chủ tàu

hay thuyền trưởng ký.

Để thanh toán được tiền hàng theo phương thức tín dụng chứng từ (L/C), bất cứ

ai ký vận đơn đều phải ghi rõ tên công ty, tên, họ của mình, tư cách pháp lý của

người ký. Ví dụ: Signed by… As the Carrier (do… ký là Người chuyên chở).

Signed by Mr… As the Master (do Ông… ký là Thuyền trưởng).

Signed by Vietfracht As Agent for the Carrier (ký bởi Vietfracht là Đại lý của

người chuyên chở).

Signed by Mr… on Behalf of Mr… As the Master (do Ông… ký thay mặt

Ông… là Thuyền trưởng).

Vận đơn đường biển được phát hành theo các bản gốc (Original) và bản sao

(Copy). Các bản gốc được phát hành theo bộ. Một bộ có thể gồm nhiều bản gốc

duy nhất hay 2,3, bản gốc giống nhau. Khi thanh toán tiền hàng theo phương

thức tín dụng chứng từ, người bán phải xuất trình trọn bộ (Full Set) vận đơn gốc

mới được thanh toán tiền hàng. Bộ vận đơn gốc được chuyển qua hệ thống ngân

hàng đến cho người nhận hàng để đi nhận hàng.

Muốn nhận được hàng, người nhận hàng phải xuất trìnhmột bản vận đơn gốc

cho người chuyên chở. Khi một bản vận đơn gốc đã được xuất trình để nhận

hàng thì các bản gốc khác sẽ không còn giá trị. Các bản sao được cấp theo yêu

cầu của người gửi hàng. Trên bản sao thường ghi "Copy Non - Negotiable".

Vận đơn đường biển có 3 chức năng quan trọng sau:

Page 55

Là biên lai nhận hàng để chở của người chuyên chở. Vận đơn là bằng chứng

hiển nhiên của người chuyên chở đã nhận hàng để chở. Vân đơn chứng minhcho

số lượng, khối lượng, tình trạng của hàng hoá như lúc nhận ở cảng đi, khi người

nhận xuất trình vận đơn phù hợp.

Là chứng từ sở hữu (Document of Title) những hàng hoá mô tả trên vận đơn. Ai

có vận đơn trong tay, người đó có quyền đòi sở hữu hàng hoá ghi trên đó. Do

tính chất sở hữu nên vận đơn là một chứng từ lưu thông được (Negotiable).

Người ta có thể mua bán, chuyển nhượng hàng hoá ghi trên vận đơn bằng cách

mua bán, chuyển nhượng vận đơn.

Là bằng chứng của hợp đồng vận tải (Contract of Carriage) đã được ký kết giữa

các bên. Mặc dù bản thân vận đơn đường biển không phải là một hợp đồng vận

tải, vì nó chỉ có chữ ký của một bên, nhưng vận đơn có giá trị như một hợp đồng

vận tải đường biển. Nó không những điều chỉnh mối quan hệ giữa người chuyên

chở và người nhận hàng hoặc người cầm vận đơn. Nội dung của vận đơn không

chỉ được thể hiện bằng những điều khoản trên đó, mà bị chi phối bởi các Công

ước quốc tế về vận đơn và vận tải đường biển.

4.2 Nguồn luật điều chỉnh vận đơn đường biển

4.2.1. Sự hình thành các Quy tắc Hague, Hague - Visby và

Humburg

Vận đơn của các hãng tàu có thể khác nhau về hình thức và nội dung chi tiết các

điều khoản. Nhưng tất cả các vận đơn được phát hành liên quan đến vận chuyển

hàng hoá bằng đường biển quốc tế đều do một nguồn luật duy nhất điều chỉnh -

đó là Công ước quốc tế về vận đơn và vận tải đường biển. Các quy phạm pháp

luật quốc tế này quy định những vấn đề quan trọng trong chuyên chở hàng hoá

bằng đường biển như: trách nhiệm của người chuyên chở, người gửi hàng, hình

thức và nội dung của vận đơn, thông báo tổn thất, khiếu nại và kiện tụng… Đặc

Page 56

biệt về trách nhiệm của người chuyên chở, các bên không được quy định ít hơn,

thấp hơn mức quy định của các Công ước. Nếu trên vận đơn có quy định trách

nhiệmcủa người chuyên chở thấp hơn mức quy định của Công ước thì vận đơn

đó sẽ vô hiệu lực.

Các Công ước quốc tế về vận đơn và vận tải đường biển điều chỉnh vận đơn đến

nay bao gồm:

 Công ước quốc tế để thông nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển,

ký kết tại Brussels ngày 25/8/1924 (The International Convention for

Reunification of Certain Rules Relating to Bill of Lading dated Brusels

August 25, 1924), gọi tắt là Công ước Brussels 1924, Công ước này còn

được gọi là Quy tắc Hague (Hague Rules) đã có hiệu lức năm 1931, đến

nay đã có gần 90 nước tham gia.

 Nghị định thư Visby 1968, sửa đổi Công ước Brussels 1924, có hiệu lực

từ ngày 23/6/1977, cùng với Quy tắc Hague tạo thành Quy tắc Hague -

Visby (Hague - Visby Rules).

 Công ước của Liên Hợp Quốc về chuyên chở bằng đường biển, ký kết tại

Hamburg năm 1978 (The UN Convention on the Carriage of Goods by

Sea), gọi tắt là Công ước Hamburg hay Quy tắc Hamburg (Hamburg

Rules). (Công ước này có hiệu lực từ ngày 1/11/1992, sau khi có đủ 20

nước phê chuẩn, gia nhập.).

Ba Quy tắc nói trên đang song song tồn tại và đồng thời có hiệu lực là nguồn

luật điều chỉnh về vận đơn đường biển. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng của các

Công ước này khác nhau.

4.2.2. Phạm vi áp dụng của các Quy tắc Hague, Hague -

Visby, Hamburg

Page 57

 Quy tắc Hague: Quy tắc này áp dụng cho tất cả các vận đơn phát hành ở

một nước tham gia Công ước Brussels 1924.

Quy tắc này không áp dụng cho hợp đồng thuê tàu (Charter Party), nhưng nếu

vận đơn được phát hành trong trường hợp chuyên chở theo một hợp đồng thuê

tàu, thì vận đơn phải tuân thủ theo Quy tắc này.

Quy Tắc Hague - Visby: Quy tắc này áp dụng cho mọi vận đơn liên quan đến

chuyên chở hàng hóa giữa các cảng, nếu:

 Vận đơn phát hành ở một nước tham gia Quy tắc này, hoặc

 Chuyên chở hàng hoá từ một nước tham gia, hoặc

 Vận đơn quy định rằng Quy tắc này hoặc luật lệ bất kỳ nước nào chấp

nhận Quy tắc này là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng.

Các nước đã phê chuẩn hoặc gia nhập Quy tắc Hague - Visby (tính đến

25/3/1996) gồm: Australia, Bỉ, Đan Mạch, Ba LAn, Ai Cập, Páp, Grudia, Phần

lan, Ecuado, Singapore, Srilanca, Thuỵ Điển, Italy, Nhật, Thuỵ Sĩ, Libăng,

News Zealand, Hà Lan, Luxembourg, Tây Ban Nha, Syri, Na Uy, Mexico, Cộng

hoà Ả Rập Syria, Tonga.

Quy tắc Hamburg: Quy tắc này áp dụng cho tất cả các hợp đồng chuyên chở

hàng hoá bằng đường biển giữa hai nước, nếu:

 Cảng xếp hàng hoặc dỡ hàng quy định trong hợp đồng nằm ở một nước

tham gia Công ước, hoặc

 Một trong các cảng dỡ hàng lựa chọn quy định trong hợp đồng là cảng dỡ

hàng thực tế và cảng đó nằm ở một nước tham gia Công ước, hoặc Vận

đơn đường biển hoặc chứng từ khác chứng minh cho một hợp đồng vận

tải đường biển được phát hành ở một nước tham gia Công ước, hoặc

Page 58

 Vận đơn đường biển hoặc chứng từ khác chứng minh cho một hợp đồng

vận tải đường biển quy định rằng Quy tắc này hoặc luật lệ của bất cứ

nước nào công nhận Công nước này là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng.

Các điều khoản của Quy tắc này sẽ áp dụng mà không phụ thuộc vào quốc tịch

của tàu, của người chuyên chở, người chuyên chở thực tế, người gửi hàng, người

nhận hàng hoặc bất kỳ người liên quan nào. Quy tắc này không áp dụng cho hợp

đồng thuê tàu. Tuy vậy, nếu một vận đơn được phát hành theo hợp đồng thuê

tàu, thì các điều khoản của Quy tắc này sẽ được áp dụng cho vận đơn nếu vận

đơn đó điều chỉnh mối quan hệ giữa người chuyên chở với người cầm vận đơn

không phải là người thuê tàu.

Các nước đã phê chuẩn Công ước Hamburg gồm: Áo, Barbadoa, Bostwana,

Burkina Fasco, Cameroon, Chile, CH Séc, Ai Cập, Guynea, Gambia, Gruzia,

Hungari, Kenya, Lebanon, Lesotho, Malawi, Morroco, Nigeria, Rumania,

Senegal, Sierra Leone, Tazania, Tunisia, Uganda, Zambia và 29 nước khác đã

ký nhưng chưa phê chuẩn.

4.2.3. Phân loại vận đơn đường biển

Dựa vào đặc điểm của hành trình, tình trạng hàng hoá, ghi chú nhận xét trên vận

đơn, khả năng chuyển nhượng của vận đơn… có thể phân loại như sau:

4.2.3.1. Căn cứ vào việc đã xếp hàng hay chưa, có hai

loại:

Vận đơn đã xếp hàng (Shipped on Board B/L): là vận đơn do người chuyên chở

hoặc đại diện người chuyên chở cấp khi hàng hoá đã xếp lên tàu. Đây là loại vận

đơn dược dùng phổ biến, vì người mua khi yêu cầu xuất trình bộ chứng từ để

thanh toán tiền hàng thường yêu cầu xuất trình vận đơn đã xếp hàng, tức là hàng

hoá đã thực sự được xếp lên tàu. Việc đã xếp hàng lên tàu (On Board) được thể

hiện trên vận đơn như sau:

Page 59

 Nếu trên vận đơn (ở góc dưới bên phải) có chữ in sẵn "nhận để xếp"

(Received for Shipment hoặc Taken in Charge), thì khi Thuyền trưởng ký

vận đơn, phải ghi thêm chữ "đã xếp hàng lên tàu ngày, tháng, năm"để

chứng minh cho việc đã xếp hàng, thể hiện bằng tiếng Anh là "Laden on

Board 5 October 1997" hoặc "Shipped on Board 5 October 1997" và ngày

đó là ngày giao hàng.

 Nếu trên vận đơn đã ghi sẵn chữ "Shipped on Board", thì không cần ghi gì

thêm để chứng minh cho việc đã xếp, mà ngày ký vận đơn là ngày xếp

hàng lên tàu, cũng là ngày giao hàng.

Vận đơn nhận để xếp (Received for Shippment B/L): là vận đơn do người

chuyên chở cấp, khi người chuyên chở nhận hàng (ở kho hoặc ở bãi) để xếp lên

con tàu ghi trên B/L, tức là hàng hoá thực tế chưa được xếp lên tàu. Loại vận

đơn này có thể bị Ngân hàng từ chối thanh toán, trừ phi thư tín dụng (L/C) quy

định cho phép. Khi hàng đã thực sự được xếp lên tàu, có thể đóng dấu hoặc ghi

thêm chữ "đã xếp" để biến thành vận đơn đã xếp hàng.

4.2.3.2. Căn cứ vào khả năng lưu thông có ba loại:

+ Vận đơn theo lệnh (Order B/L): là vận đơn tren đó không ghi rõ tên, địa chỉ

của người nhận hàng mà ghi chữ "theo lệnh" (to Order) hoặc có ghi tên người

nhận hàng đòng thời ghi thêm chữ "hoặc theo lệnh" (or Order). Trren vận đơn

theo lệnh có thể ghi rõ theo lệnh của người gửi hàng, của người nhận hàng, của

Ngân hàng. Nếu không ghi rõ theo lệnh của ai thì hiểu là theo lệnh của người

gửi hàng.

Vận đơn theo lệnh có đặc điểm là có thể chuyển nhượng được cho người khác

bằng cách ký hậu (Endorsemant). Nếu là vận đơn theo lệnh của người gửi hàng,

thì người gửi hàng phải ký hậu, người nhận hàng mới được nhận hàng. Có thể

ký hậu để trống (in Blank), ký hậu cho một người cụ thể hay theo lênh của một

Page 60

người nào đó. Nếu không ký hậu, chỉ người gửi hàng mới nhận được hàng. Vận

đơn ký phát theo lệnh của một Ngân hàng trong trường hợp Ngân hàng muốn

khống chế hàng hoá của người nhập khẩu (người nhập khẩu vay tiền của Ngân

hàng để mua hàng). Để nhận được hàng phải có ký hậu chuyển nhượng của

Ngân hàng vào vận đơn.

Vận đơn theo lệnh được sử dụng rộng rãi trong buôn bán quốc tế, bởi vì nó là

một chứng từ có thể lưu thông được.

+ Vận đơn đích danh (Straight B/L): là vận đơn mà trên đó có ghi rõ tên, địa chỉ

của người nhận hàng mà không có hoặc đã bị xoá bỏ chữ "or Order". Chỉ người

có tên ghi trên vận đơn mới nhận được hàng. Loại vận đơn này không thể

chuyển nhượng được bằng ký hậu.

+ Vận đơn cho người cầm (B/L to Bearer): là vận đơn trong đó:

 Có ghi rõ chữ "cho người cầm" (To Bearer), hoặc:

 Phát hành theo lệnh của một người hưởng lợi và người đó đã ký hậu để

trống mà không chỉ định một người hưởng lợi khác.

Vận đơn này có nhiều rủi ro đối với người gửi hàng, vì bất kỳ người nào có vận

đơn trong tay đều có thể nhận được hàng.

4.2.3.3. Căn cứ vào nhận xét ghi chú trên hoá vận đơn,

có hai loại:

+ Vận đơn sạch hay hoàn hảo (Clean B/L): Vận đơn hoàn hảo là vận đơn trên đó

không có những điều khoản nói rõ ràng rằng hàng hoá hoặc bao bì có khuyết tật.

Hay nói một cách khác, trên vận đơn không có những ghi chú, nhận xét xấu

hoặc những bảo lưu về tình trạng bên ngoài của hàng hoá.

Những điều ghi chung chung như: "người gửi hàng xếp và đếm, niêm phong và

kẹp chì", "không biét về số lượng, phẩm chất, nội

Page 61

dung bên trong", "bao bì dùng lại, thùng cũ"… không làm mất tính hoàn hảo của

vận đơn. Một vận đơn mà người chuyên chở hay đại diện của họ không ghi chú

gì thì coi như là vận đơn hoàn hảo.

Lấy được vận đơn hoàn hảo có ý nghĩa quan trọng trong thương mại quốc tế.

Người mua cũng như Ngân hàng đều yêu cầu phải có vận đơn hoàn hảo, vận

đơn hoàn hảo là bằng chứng hiển nhiên (Prima Facie Evidence) của việc xếp

hàng tốt.

Muốn lấy được vận đơn hoàn hảo, thì khi xếp hàng lên tàu phải đảm bảo hàng

không bị hư hỏng, đổ vỡ, bao bì không rách, không bị ướt và trông bên ngoài là

tốt, nghĩa là phải có một Biên lai Thuyên phó (Maste's Receipt) sạch. Trong

trường hợp Biên lai Thuyền phó không sạch, người gửi hàng có thể xuất trình

thư bảo đảm (Letter of Indemnity) cam kết chịu mọi hậu quả xảy ra, để yêu cầu

Thyền trưởng cấp vận đơn hoàn hảo. Tuy nhiên, Thư bảo đảm đó không có giá

trị pháp lý, không được các toà án thừa nhận, nên các Thuyền trưởng khôn

ngoan thường không chấp nhận.

+ Vận đơn không hoàn hảo (Unclean B/L - Faul B/L - Claused B/L): Ngược lại

với vận đơn hoàn hảo, vận đơn không hoàn hảo trên có những ghi chú, nhận xét

xấu hoặc những bảo lưu về hàng hoá và bao bì. Ví dụ, vận đơn bị Thuyền trưởng

ghi chú: ký mã hiệu không rõ, một số bao bì bị rách, thùng chảy, nhiều hòm các

tông bị ướt… Vận đơn không hoàn hảo không được ngân hàng chấp nhận để

thanh toán tiền hàng.

4.2.3.4. Căn cứ vào hành trình vận chuyển, có ba loại:

+ Vận đơn đi thẳng (Direct B/L): là vận đơn được sử dụng trong trường hợp

hàng hoá được chuyên chở từ cảng xếp hàng đến cảng dỡ hàng bằng một con

tàu, tức hàng hoá không phải chuyển tải ở cảng dọc đường.

+ Vận đơn đi suốt (Throught B/L): là vận đơn được sử dụng trong trường hợp

Page 62

hàng hoá được chuyên chở từ cảng xếp hàng đến cảng dỡ hàng cuối cùng bằng

hai hay nhiều con tàu khác nhau của hai hay nhiều người chuyên chở, tức hàng

hoá phải chuyển tải ở cảng dọc đường. Vận đơn đi suốt có đặc điểm:

 Có điều khoản cho phép chuyển tải.

 Có ghi rõ cảng đi, cảng đến, cảng (có thể cả tên tàu) chuyển tải.

 Người cấp vận đơn đi suốt phải chịu trách nhiệm về hàng hoá trong suốt

hành trình đường biển từ cảng đi cho đến cảng đích, kể cả trên chặng

đường do người chuyên chở khác thực hiện.

+ Vận đơn (chứng từ) đa phương thức (vận tải liên hợp): Vận đơn vận tải đa

phương thức (Multimodal Transport B/L) hay vận đơn vận tải liên hợp

(Combined Transport B/L) là vận đơn được sử dụng trong trường hợp hàng hoá

được chuyên chở từ nơi đi đến nơi đến bằng hai hay nhiều phương thức vận tải

khác nhau. Loại vận đơn này có nhiều tên gọi như: Combined Transport B/L,

B/L for Combined Transport Shipment or Port to Port Shipment, Multimodal

Transport Document. Vận đơn này có đặc điểm:

 Trên vận đơn thường ghi rõ nơi nhận hàng để chở và nơi giao hàng, người

cấp B/L này phải là người chuyên chở hoặc MTO.

 Ghi rõ việc được phép chuyển tải, các phương thức vận tải tham gia và

nơi chuyển tải.

 Người cấp vận đơn này phải chịu trách nhiệm về hàng hoá từ nơi nhận

hàng để chở (có thể nằm sâu trong nội địa) đến nơi giao hàng (có thể nằm

sâu trong nội địa của nước đến).

4.2.3.5. Một số loại vận đơn, chứng từ khác

+ Vận đơn do người giao nhận cấp: Như đã nói ở trên, vận đơn là do người

Page 63

chuyên chở hay đại diện của họ cấp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,

người giao nhận (Freight Forwarder) không chỉ làm đại lý, nhận uỷ thác giao

nhận hàng hoá XNK, mà họ còn cung cấp dịch vụ vận tải, tức là đóng vai trò

người chuyên chở thì họ có thể cấp vận đơn. Vận đơn mà người giao nhận là các

vận đơn do FIATA (Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội giao nhận) phát hành và bao

gồm các loại sau:

 Vận đơn vận tải đa phương thức của FIATA (FBL): vận đơn này do

FIATA phát hành, đã được phòng Thương mại quốc tế và Ngân hàng

chấp nhận. Vận đơn này do người giao nhận cấp khi chuyên chở hàng hoá

bằng vận tải đa phương thức hoặc vận tải đường biển. Vận đơn này được

cũng các Ngân hàng chấp nhận khi thanh toán bằng L/C, vì khi cấp vận

đơn này, người giao nhận phải đóng vai trò là người chuyên chở hoặc

người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO).

 Forwarder's Certificate of Transport (FCT): Giấy chứng nhận vận tải này

do người giao nhận cấp cho người gửi hàng, xác nhận nghĩa vụ của người

giao nhận phải giao hàng tại cảng đến thông qua đại lý do người giao

nhận chỉ định.

 House B/L: Vận đơn gom hàng này do người giao nhận cấp cho người gửi

hàng lẻ, khi người giao nhận cung cấp dịch vụ gom hàng trong vận tải

đường biển cung như vận tải hàng không. Vận đơn này chưa được phòng

Thương mại quốc tế thông qua, người gom hàng cấp vận đơn này có thể

đóng vai trò người chuyên chở hoặc không, vì vậy, trong nhiều trường

hợp nó không đáp ứng yêu cầu của L/C, nên có xu hướng bị thay thế bằng

FBL.

+ Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu (Charter Party B/L): là vận đơn được phát

hành trong trường hợp hàng hoá được chuyên chở theo một hợp đồng thuê tàu

chuyến và trên đó có ghi câu: "phụ thuộc vào

Page 64

hợp đồng thuê tàu" hoặc câu "sử dụng với hợp đồng thuê tàu" (to be Used with

Charter Party). Ví dụ vận đơn CONGENBILL được phát hành để sử dụng cùng

với hợp đồng thuê tàu mẫu "GENCON", có ghi câu: "All Term and Condition as

Overleaf are here with Incorporate" (tất cả các điều kiện, điều khoản ở mặt sau

được gắn liền theo đây).

Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu do chủ tàu hoặc Thuyền trưởng hoặc đại diện

của họ ký phát. Do có một câu như trên nên vận đơn này không còn tính độc lập

nữa phải phụ thuộc vào một văn bản khác là hợp đồng thuê tàu, mà nội dung của

hợp đồng này do các bên thoả thuận. Nếu người thuê đồng thời là người gửi

hàng ghi trên vận đơn thì vận đơn này chỉ là một biên lai nhận hàng. Nhưng khi

vận đơn này được ký hậu để chuyển nhượng cho người thứ ba thì nó lại điều

chỉnh mối quan hệ giữa người thuê tàu, người chuyên chở và người thứ ba đó

(hoặc người cầm vận đơn), nên nó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với

nguồn luật điều chỉnh vận đơn. Vì vậy, loại vận đơn này chỉ được Ngân hàng

chấp nhận để thanh toán khi thư tín dụng cho phép.

+ Vận đơn đã xuất trình tại cảng gửi (B/L Surrendered): Thông thường muốn

nhận hàng tại cảng đến, người nhận hàng phải xuất trình vận đơn gốc. Trong

thực tế có nhiều trường hợp , hàng đã đến nhưng vận đơn lại chưa đến, do đó

không nhận được hàng. Để khắc phục tình trạng này và để tiết kiệm chi phí gửi

vận đơn gốc, trong những năm gần đây người ta dùng một loại vận đơn gọi là

vận đơn đã xuất trình tại cảng gửi. Đây là loại vận đơn thông thường, chỉ khác là

khi cấp vận đơn này, người chuyên chở hoặc đại lý đóng thêm dấu "đã xuất

trình" (Surrendered), đồng thời điện báo "Exprees Release" cho đại lý tại cảng

đến biết để đại lý giao hàng cho người nhận mà không cần xuất trình B/L gốc.

Người gửi hàng chỉ cần Fax bản vận đơn này đến người nhận hàng là người

nhận có thể nhận được hàng.

+ Giấy gửi hàng đường biển (Sea WayBill): Do sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật

Page 65

trong ngành vận tải, nên tốc độ đưa hàng trong thương mại quốc tế rất nhanh

chóng. Như đã nói ở trên, nhiều trường hợp hàng đến cảng đích, nhưng vận đơn

gửi qua Ngân hàng hoặc bưu điện vẫn chưa tới. Người nhận không nhận được

hàng. Hơn nữa, trong những năm qua cuộc cách mạng về thông tin diễn ra mạnh

mẽ đã giúp cho các nước trên thế giới sử dụng mạng vi tính một cách rộng rãi

tạo ra một khả năng buôn bán thông qua trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) mà

không cần chứng từ, kể cả vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển cùng với

một loạt giấy tờ, chứng từ khác trong thương mại quốc tế có thể trở thành trở

ngại và tốn kém. Vì vậy, để làm bước đệm cho một nền thương mại quốc tế

không cần chứng từ trong tương lai, người ta đã đề nghị sử dụng một chứng từ

không lưu thông (Non - Negotiable) để thay thế vận đơn truyền thống đó là

"Giấy gửi đường biển". 'Giấy gửi đường biển" này có ưu điểm là người nhận có

thể nhận hàng khi xuất trình giấy tờ, chứng từ để nhận dạng, chứ không cần xuất

trình bản thân "Giấy gửi hàng đường biển". Nhược điểm của nó là không thể

dùng để khống chế hàng hoá, vì vậy hiện tại "Giấy gửi hàng đường biển" chỉ

mới được dùng để gửi các dụng cụ gia đình, hàng mẫu, hàng triển lãm, hàng phi

mậu dịch… và trong buôn bán theo phương thức ghi sổ (Open Account Trading)

với bạn hàng tin cậy.

+ Vận đơn bên thứ ba (Third Party B/L): là vận đơn mà trên đó ghi người hưởng

lợi L/C không phải là người gửi hàng (Shipper) mà là người khác. Vận đơn này

sử dụng trong trường hợp khi một nhà máy, xí nghiẹp xuất khẩu uỷ thác qua một

đơn vị xuất nhập khẩu. Nếu L/C có quy định chấp nhận cả vận đơn bên thứ ba

thì có nghĩa là vận đơn và các chứng từ gửi hàng khác được phép ghi tên người

gửi hàng không phải là người hưởng lợi L/C, chứ không liên quan đến người ký

phát chứng từ.

+ Vận đơn có thể thay đổi (Switch B/L): là vận đơn cho phép thay đổi một số

chi tiết trên B/L như: cảng dỡ, cảng xếp hàng, số lượng hàng, người gửi, ngày

ký…

Page 66

+ Biên lai Thuyền phó (Mate's Recceipt): là biên lai ghi chép việc xếp hàng lên

tàu do Thuyền trưởng hoặc Thuyền phó lập. Biên lai này ghi số lượng, khối

lượng, tình trạng hàng hoá xếp lên tàu và là cơ sở để cấp vận đơn.

4.2.3.6. Nội dung của vận đơn đường biển

Theo Quy tắc Hamburg, vận đơn đường biển ngoài các chi tiết khác phải có các

chi tiết sau đây:

 Tính chất chung của hàng hoá, những mã hiệu chính để nhận dạng hàng

hóa, tính chất nguy hiểm của hàng hoá (nếu có), số lượng, trọng lượng

của hàng hoá, các chi tiết khác do người gửi hàng cung cấp.

 Tình trạng bên ngoài của hàng hoá.

 Tên và trụ sở kinh doanh chính của người chuyên chở.

 Tên người gửi hàng.

 Tên người nhận hàng nếu do người gửi hàng chỉ định.

 Cảng xếp hàng theo hợp đồng vận tải đường biển và ngày mà người

chuyên chở nhận hàng để chở.

 Cảng dỡ hàng.

 Số lượng bản vận đơn gốc.

 Nơi phát hành vận đơn.

 Chữ ký của người chuyên chở hoặc người thay mặt người chuyên chở.

 Khoản cước phí do người nhận trả.

 Điều nói về việc áp dụng Công ước.

Page 67

 Diều nói về việc hàng sẽ hoặc có thể chở trên boong.

 Ngày hoặc thời hạn giao hàng tại cảng dỡ, nếu có thoả thuận giữa các bên.

 Thoả thuận tăng thêm giới hạn trách nhiệm (nếu có).

Về mặt hình thức, vận đơn của các hãng tàu thường một khuôn mẫu tương đối

giống nhau. Các vận đơn đều gồm hai mặt. Mặt trước được chia thành từng ô và

có các chi tiết, theo thứ tự từ trên xuống dưới là: tên hãng tàu, người gửi hàng,

người nhận hàng, bên thông báo, tên tàu, cảng xếp, cảng dỡ, số vận đơn, số

phiếu lưu cước tham chiếu xuất khẩu, đại lý giao nhận, nơi xuất xứ của hàng

hoá, những chi tiết do người gửi hàng cung cấp (tên hàng, ký mã hiệu, trọng

lượng, số lượng, thể tích, số Container…), cước phí, phụ phí, cước trả trước hay

sau, số lượng bản gốc, ngày phát hành vận đơn, ngày xếp hàng hay ngày nhận

hàng, chữ ký… Mặt sau của vận đơn in sẵn các điều kiện, điều khoản chuyên

chở (Terms and Condition of Carriage) như: các định nghĩa, các điều khoản tối

cao, cước phí và phụ phí, trách nhiệm của người chuyên chở, đi thuê lại, thông

báo tổn thất và thời hạn khiếu nại, giao hàng, kiểm tra hàng hoá, Container do

người gửi hàng đóng, hàng dễ vỡ, hàng nguy hiểm, cầm giữ hàng, tổn thất

chung, giải quyết trang chấp, điều khoản hai tàu đâm va nhau cùng có lỗi, điều

khoản New Jason…

Cũng giống như Hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng chuyên chở hàng

hoá bằng đường biển bị điều chỉnh bởi các nguồn luật khác nhau.

Điều ước quốc tế quan trọng nhất hiện hành điều chỉnh quan hệ hợp đồng

chuyên chở hàng hoá bằng đường biển là công ước quốc tế Brussels 1924 được

sửa đổi năm 1978. Hiện nay trong vận chuyển hàng hoá đường biển, để đơn giản

quá trình ký kết hợp đồng, nhiều hãng tàu đã soạn thảo các Hợp đồng mẫu (Ví

du mẫu hợp đồng Gencon áp dụng cho bách hoá, hay Centrocon áp dụng cho

hàng lương thực...) là những mẫu hợp đồng được sử dụng khá phổ biến trong

Page 68

vận chuyển đường biển quốc tế.

Thông thường một hợp đồng chuyên chở cũng bao gồm những điều khoản trong

đó quyền và nghĩa vụ giữa người chuyên chở và người thuê chuyên chở được

thoả thuận. Tuy nhiên do mẫu hợp đồng chuyên chở thường do người cho thuê (

hãng tàu) soạn thảo nên trong đó chứa đựng nhiều điều khoản mang tính chất

cửa quyền mà khi sử dụng nó nếu người thuê không xem xét để sửa đổi, bổ sung

cho phù hợp yêu cầu của mình thì dễ rơi vào tình trạng bất lợi khi thực hiện. Dù

cho trong vận tải biển có nhiều loại hợp đồng được áp dụng nhưng chúng

thường có nội dung tương đối giống nhau.

4.3 Một số điều khoản lưu ý khi sử dụng hợp đồng mẫu

Khi sử dụng các mẫu hợp đồng, người thuê cần lưu ý một số khía cạnh pháp lý

sau:

4.3.1. Về điều khoản tên tàu

Khi ký hợp đồng, người chuyên chở và người thuê có thể xác định tên cụ thể

con tàu, cũng có thể xác định một con tàu theo điều kiện nào đó sẽ được người

cho thuê đưa đến và người thuê chấp nhận ( tàu thay thế).Vì tuổi tàu có liên

quan đến vấn đề bảo hiểm hàng hoá và cước phí (Thông thường bảo hiểm hàng

hoá chuyên chở trên những con tàu già bao giờ cũng đắt ơn là chuyên chở trên

tàu trẻ, vì rủi ro dễ dàng xảy ra đối với tàu già, tàu cũ), cho nên việc chọn tàu

như thế nào là quyền của người thuê và khả năng đáp ứng của người cho thuê.

Về những đặc tính của con tàu như mớn nước, cấu tạo chiều dài, rộng, cao cần

được chú ý vì nó liên quan đến khả năng vào r acảng đích. Ví dụ: nếu mớn nước

sâu nhất ở cảng đích chỉ có 12 feet mà mớn nước của tàu khi chở đầy hàng là 15

feet thì con tàu chắc chắn sẽ không thể cập cầu và do đó việc chuyển tải hàng

hoá sẽ xáy ra và phát sinh vấn đề chi phí. Cơ cấu cần cẩu tàu cũng cần chú ý

nhất là khi tàu phải vào những cảng mà phải dỡ hàng bằng phương tiện bốc dỡ

Page 69

trên bờ còn hạn chế (Ví dụ: cẩu để dỡ hàng nặng, hàng chở bằng container trong

khi trên tàu chở loại hàng đó).

Về điều khoản khả năng đi biển của con tàu nói lên con tàu có bảo đảm đi trên

biển để chở hàng hoá đến đích không. Trách nhiêm phải làm cho tàu có khả

năng đi biển thuộc về người chuyên chở, nhưng người cho thuê không vì vậy mà

quên buộc người bán chứng minh vấn đề này. Điều quan trọng nữa là người thuê

tàu để chở hàng nên cần lưu ý đến cấu tạo hầm tàu và hệ thống thông gió của

tàu.

4.3.2. Điều khoản tên hàng

Trong hợp đồng chuyên chở tên hàng được xác định ngay khi ký hợp đồng. Nếu

trong hợp đồng mua bán ngoại thương đã xác định tỷ lệ cộng thì trong hợp đồng

chuyên chở cũng cần xác định một tỷ lệ non kém cho phép tương tự để tạo thuận

lợi cho người gửi hàng và chuyên chở. Tỷ lệ này có thể cộng 10% đối với lô

hàng có khối lượng non.

4.3.3. Điều khoản địa điểm xếp hàng và dỡ hàng

Cần được xác định cụ thể càng tốt bởi vì nếu xác định chung chung thì trong

nhiều trường hợp chuyên chở sẽ lợi dụng và không đưa tàu đến đúng vị trí mà

người thuê vận chuyển mong muốn.

4.3.4. Điều khoản đi chệch đường:

Là điều khoản mà chủ tàu đưa ra nhằm giành cho họ được quyền vào bất cứ

cảng nào hay nhằm bất kỳ mục đích gì để buộc người chuyên chở đưa con tàu đi

đúng hướng từ cảng xếp đến cảng dỡ, người thuê tàu phải chú ý sửa đối điều

khoản này và chỉ chấp nhận việc đi chệch đường vì những lý do hợp lý ( như

cứu tàu hoặc sinh mạng trên biển, do phải tránh bão, sóng thần...)

Page 70

4.3.5. Điều khoản thông báo tàu:

Cần quy định rõ trách nhiệm của chủ tàu hoặc đại lý của họ trong việc thông báo

cho người thuê tàu để họ biết và chuẩn bị hàng xếp xuống tàu. Thông báo cần

quy định phải tiến hành hai lần ( Dự kiến ngày tàu đến cảng xếp hàng và tàu đã

vào cảng và sẵn sàng xếp hàng).

Thông báo sẵn sàng xếp hàng chỉ có thể được tiến hành sau khi tàu đã làm xong

mọi thủ tục tại cảng (Thủ tục Hải quan, biên phòng, vệ sinh, kiểm dịch...) Cho

nên nếu thông báo đó gửi trước khi làm thủ tục thì chỉ có giá trị là một dự báo

tàu đến và tàu không được vin vào đó để bắt đầu tính thời gian bốc dỡ.

4.3.6. Điều khoản xếp dỡ hàng hoá

Điều khoản này quy định trách nhiệm xếp dỡ hàng thuộc về ai.

Thông thường theo hợp đồng chuyên chở thì trách nhiệm này thuộc về người

chuyên chở. Do phải chịu trách nhiệm xếp dỡ nên việc cung cấp vật liệu chèn lót

cũng thuộc về họ chứ không thuộc về người thuê. Trong các hợp đông chuyên

chở, người chuyên chở thường thoả thuận với người thuê tàu mức bốc dỡ (bao

nhiêu tấn? ngày?) và theo đó nếu việc xếp dỡ chậm lại sẽ bị phạt và ngược lại

xếp dỡ vượt mức sẽ được thưởng. Thưởng phạt sẽ được áp dụng chủ yếu trong

những trường hợp xếp dỡ được quy định là trách nhiệm của người thuê hay

người nhận hàng.

4.3.7. Điều khoản cước phí

Quy định về mức cước trả cho từng tấn hàng hoặc toàn bộ lô hàng được chuyên

chở, đồng thời cũng quy định thời gian và nơi thanh toán.

Ngoài những điều khoản trên, thông thường trong các hợp đồng vận chuyển còn

có các điều khoản khác như đình công, điều

Page 71

khoản đóng băng, điều khoản chiến tranh, va đập...

Từ những điều khoản của các hợp đồng chuyên chở, chúng ta có thể rút ra

những điểm chủ yếu về quyền và nghĩa vụ của người chuyên chở và người thuê

chuyên chở. Đó cũng là cơ sở để phân định trách nhiệm mỗi bên trong trường

hợp có rủi ro tổn thất xảy ra đối với hàng hoá trong quá trình chuyên chở trên

biển.

Nhìn chung, trong các hợp đồng chuyên chở có những điều khoản là giống nhau,

tuy nhiên bên canh đó nó cũng có những điểm quy định riêng cho từng loại hợp

đồng. Sau đây chúng ta sẽ cùng tham khảo nội dung của một hợp đồng tiêu biểu

trong các loại Hợp đồng vận tải:

III Một vài nét khái quát về vận tải bằng đường hàng không.

1 Vị trí của vận tải hàng không

Ngày nay vận chuyển hàng không đóng vai trò quan trọng trong buôn bán quốc

tế, những hàng hoá có giá trị cao, nhạy cảm về thời gian và mau hỏng ngày càng

được vận chuyển nhiều bằng đường hàng không. Vận tải hàng không chiếm

khoảng 20 - 30 % tổng kim ngạch của buôn bán quốc tế.

So với các phương thức vận tải khác thì vận tải hàng không đứng vị trí số 2.

Hàng không vận chuyển 1% khối lượng hàng hoá nhưng trị giá của nó chiếm

33%. Vận tải hàng không có vị trí quan trọng trong giao lưu kinh tế giữa các

nước, là cầu nối giữa các nền văn hoá của các dân tộc, là phương tiện chính

trong du lịch quốc tế. Nó là một mắt xích quan trọng trong quy trình tổ chức vận

tải đa phương thức quốc tế.

2 Đặc điểm của vận tải hàng không

Tuyến đường trong vận tải hàng không là không trung gian và hầu như là đường

thẳng, không phụ thuộc vào địa hình mặt đất, mặt nước, không phải đầu tư xây

Page 72

dựng. Thông thường, tuyến đường tuyến đường hàng không bao giờ cũng ngắn

hơn tuyến đường sắt và đường ô tô khoảng 20% và tuyến đường sông khoảng

10%.

Tốc độ vận tải hàng không cao, thời gian vận chuyển ngắn. Nếu chúng ta so

sánh trên một quáng đường vận chuyển dài 500 km, thì máy bay bay mất 1 tiếng

đồng hồ, còn tàu hoả đi mất 8,3 tiếng, ô tô chạy mất khoảng 10 tiếng và tàu biển

đi mất khoảng 27 tiếng.

Vận tải hàng không an toàn nhất: so với các phương thức vận tải khác thì vận tải

hàng không ít tổn thất nhất, vì do thời gian vận chuyển ngắn nhất, trang thiết bị

phục vụ vận chuyển hiện đại nhất, máy bay bay ở độ cao tren 9.000 mét trên

tầng điện ly, nên trừ lúc cất cánh, hạ cánh, máy bay hầu như không bị tác động

bởi các điều kiện thiên nhiên như: sét, mưa bão... trong hành trình chuyên chở.

Vận tải hàng không luôn đòi hỏi sử dụng công nghệ cao: do có tốc độ cao, phục

vụ chuyên chở hành khách, một số hàng hoá có giá trị cao, hàng cứu trợ khẩn

cấp... là chính, nên đòi hỏi phải an toàn tuyệt đối trong quá trình chuyên chở.

Vận tải hàng không không cho phép sai sót dù là nhỏ nhất, vì thế vận tải hàng

không đòi hỏi những tiêu chuẩn rất khắt khe về công nghệ kỹ thuât.

Vận tải hàng không cung cấp các dịch vụ có tiêu chuẩn chất lượng cao hơn hẳn

so với phương thức vận tải khác và được đơn giản hoá về thủ tục, giấy tờ do

máy bay bay thẳng, ít qua các trạm kiểm tra, kiểm soát...

Tuy vậy, vận tải hàng không cũng có một số hạn chế nhất định:

Cước phí vận tải hàng không cao nhất, do chi phí trang thiết bị hiện đại, chi phí

sân bay, chi phí khấu hao máy bay, chi phí dịch vụ cao... Nếu so sánh cước phí

vận chuyển 1 kg hàng hoá trên cùng một tuyến đường từ Nhật đến Luân Đôn, thì

cước phí bằng máy bay mất 5,5 USD, trong khi đó bằng tàu biển chỉ mất 0,7

USD. So sánh với cước phí vận tải đường sắt và ô tô thì cước phí vận tải hàng

Page 73

không vẫn cao gấp từ 2 đến 4 lần.

Vận tải hàng không bị hạn chế đối với chuyên chở hàng hoá có khối lượng lớn,

hàng cồng kềnh, do máy bay có trọng tải và dung tích nhỏ.

Vận tải hàng không đòi hỏi đầu tư lớn về cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện

máy bay, sân bay, đào tạo nhân lực, xây dựng hệ thống kiểm soát không lưu, đặt

chỗ toàn cầu, chi phí tham gia các Tổ chức quốc tế về hàng không...

3 Cơ sở vật chất kỹ thuật của vận tải hàng không

3.1 Cảng hàng không (Airport)

Cảng hàng không (hay còn gọi là sân bay) là toàn bộ diện tích mặt đất, thậm chí

cả mặt nước cộng với toàn bộ các cơ sở hạ tầng gồm đường cất hạ cánh, các toà

nhà, nhà ga, kho tàng liên quan đến sự di chyển của hành khách và hàng hoá do

máy bay chuyên chở đến. Như vậy, sân bay là nơi cất hạ cánh của máy bay và là

nơi cung cấp các dịch vụ cho hành khách và hàng hoá.

Sân bay gồm một số khu vực chính sau đây:

 Đường cất hạ cánh của máy bay,

 Nơi đỗ và cất giữ máy bay,

 Khu vực điều hành bay,

 Khu vực đưa đón khách,

 Khu vực giao nhận hàng hoá,

 Khu vực quản lý hành chính...

Khu vực giao nhận hàng hoá thường gồm:

 Trạm giao nhận hàng xuất khẩu: là nơi tiến hành kiểm tra hàng hoá, làm

Page 74

thủ tục thông quan, lập chứng từ về hàng hoá, giao hàng hoá xuất khẩu,

đóng hàng hoá vào các công cụ vận tải, xếp hàng lên máy bay, lưu kho

trước khi xếp lên máy bay...

 Tram giao nhận hàng nhập khẩu: là nơi làm thủ tục thông quan, kiểm tra

và giao hàng cho người nhận hàng...

 Trạm giao nhận hàng chuyển tải: là nơi tập trung hàng hoá chuyển tải, nơi

tiến hành các thủ tục để giao cho các hãng hàng không chuyển tiếp...

Người kinh doanh dịch vụ ở đây thường là các hãng hàng không là thành

viên của IATA làm đại lý cho nhau.

3.2 Máy bay ( Aircraft/ Airplane)

Máy bay là cơ sở vật chất chủ yếu của vận tải hàng không. Tuỳ thuộc vào mục

đích, tính năng kỹ thuật, nước sản xuất, máy bay được phân thành các loại:

3.2.1. Căn cứ vào đối tượng chuyên chở, gồm có:

Máy bay chở hành khách (Passenger Aircraft): là máy bay dùng chủ yếu để

chuyên chở hành khách, đồng thời có thể chuyên chở một lượng ít hàng hoá và

hành lý của hành khách ở boong dưới (Lower Deck). Loại nỳ thường có tần suất

bay rất cao và có tiện nghi tốt để phục vụ hành khách.

Máy bay chở hàng hoá (All Cargo Aircraft): là máy bay chủ yếu dùng để chuyên

chở hàng hoá. Loại máy bay này có thể hàng chục, hàng trăm tấn hàng/chuyến.

Tần suất bay thấp, chi phí hoạt động nhiều, chỉ thích hợp với các hãng hàng

không có tiềm năng lớn và kinh doanh ở những khu vực có nguồn hàng luân

chuyển lớn và ổn định...

Máy bay hỗn hợp (Combined Aircraft/Mixed Aircraft): là loại máy bay vừa

chuyên chở hành khách vừa chuyên chở hàng hoá ở cả boong chính và boong

dưới. Loại máy bay này còn gọi là máy bay thay đổi nhanh (Quick Change) tuỳ

Page 75

theo số lượng hành khách hoặc hàng hoá cần chuyên chở

3.2.2. Căn cứ vào động cơ, gồm có:

Máy bay động cơ Piston như các loại: máy bay DC3, Lockheed của Mỹ...

Máy bay động cơ tua bin cánh quạt (Turbo - Pro) như: Viscount 700, Britana

310...

Máy bay động cơ tua bin phản lực như các loại: A320, Boing 747, Boing 767...

3.2.3. Căn cứ vào nước sản xuất

Những nước sản xuất máy bay dân dụng lớn trên thế giới là: Mỹ, Anh, Pháp,

Nga, Italia, Hà Lan...

3.2.4. Căn cứ vào số ghế trên máy bay

 Loại nhỏ: từ 50 đến dưới 100 ghế,

 Loại trung bình: từ trên 100 đến 200 ghế,

 Loại lớn: từ trên 200 ghế trở lên.

Đối với máy bay chở hàng hoá, người ta có thể căn cứ vào số ghế để quy đổi

thành tấn hàng hoá mà máy bay có thể chuyên chở được.

3.3 Công cụ xếp dỡ và vận chuyển hàng hoá tại sân bay

3.3.1. Công cụ xếp dỡ, vận chuyển hàng hoá tại sân bay

Gồm hai loại chính: Công cụ xếp dỡ hàng hoá lên xuống máy bay và các công

cụ vận chuyển hàng hoá từ sân bay đến máy bay:

 Xe vận chuyển Container/Pallet (Container/Pallet Transport),

Page 76

 Xe nâng hàng (Forklift Truck) để xếp dỡ Container và Pallet,

 Thiết bị nâng Container/Pallet (Container/Pallet Loarder),

 Băng chuyền hàng rời (Self PropelledConveyor/Bulk Cargo Loarder),

 Giá đỡ hay rơ - moóc dùng để chở Container/Pallet (không có động cơ

riêng)...

3.3.2. Các thiết bị xếp hàng theo đơn vị (Unit Loard Divive)

Là các công cụ hay thiết bị dùng để ghép các kiện hàng nhỏ hay các kiện hàng

riêng biệt thành các kiện hàng lớn theo tiêu chuẩn nhất định phù hợp với cấu

trúc của các khoang chứa hàng trên máy bay), gồm có:

 Pallet: là một bục phẳng có kích thước tiêu chuẩn dùng để tập hợp hàng

hoá trên đó nhằm thuận lợi cho việc xếp dỡ, bảo quản trong suốt quá trình

chuyên chở. Theo bảng xếp loại của IATA và tạp chí Boing 1994, Pallet

gồm : Pallet máy bay (Aircraft Pallet) và Pallet không chuyên dụng cho

máy bay (Non Aircraft Pallet).

 Igloo: là một cái lồng không có đáy, làm bằng thép hoặc sợi thuỷ tinh

hoặc vật liệu phù hợp dùng để chụp lên Pallet nhằm giữ chặt hàng, sau đó

có trùm hoặc không trùm lưới lên trên tuỳ thuộc vào loại Igloo. Igloo có

2 loại chính là: Igloo không kết cấu (Non Structural Igloo) và Igloo kết

cấu (Structural Igloo).

 Lưới Pallet máy bay (Aircraft Pallet - Net): là lưới hay đai sử dụng trùm

lên Pallet máy bay để giữ chặt hàng. Lưới không tự tạo thành một đơn vị

hàng hoá, mà chỉ góp phần tạo nên đơn vị hàng hoá

 Container: Container chở máy bay gồm hai loại chính:

Page 77

 Container theo tiêu chuẩn của IATA: là những Container sản xuất chuyên

dụng để chuyên chở hàng hoá bằng máy bay, không thích hợp với chuyên

chở hàng hoá bằng các công cụ vận tải khác như ô tô, tàu biển.

 Container đa phương thức: Loại container này không chỉ dùng chuyên chở

hàng hoá bằng máy bay, nó có thể dùng cho chuyên chở bằng các phương

tiện vận tải khác. Đối với máy bay, loại này được chuyên chở trên boong

chính. Container đa phương thức gồm 6 loại: 1A, 1B, 1C, 1D, 1E, 1F

được tiêu chuẩn hoá theo tiêu chuẩn của ISO số 1496/VII.

IV Vận tải hàng hoá bằng đường hàng không

1 Vận tải hàng không quốc tế.

Đối với vận tải hàng không nói chung và vận tải hàng không quốc tế nói riêng,

ngoài việc phải tuân thủ những điều chỉnh của các Công ước, Quy tắc, Nghị

định thư về vận tải hàng không thì chúng ta cần lưu ý một số điểm sau đây khi

tham gia ký kết một Hợp đồng vận tải hàng không:

1.1 Trách nhiệm của người chuyên chở đường hàng không đối với hàng hoá.

1.1.1. Thời hạn trách nhiệm

- Người chuyên chở chịu trách nhiệm đối với hàng hoá trong quá trình vận

chuyển bằng máy bay. Vận chuyển hàng hoá bằng máy bay bao gồm giai đoạn

mà hàng hoá nằm trong sự bảo quản của người chuyên chở ở trong cảng hàng

không, trong máy bay và ở bất kỳ nơi nào, nếu hạ cánh ngoài cảng hàng không.

- Vận chuyển hàng hoá bằng máy bay không bao gồm vận chuyển đường bộ,

đường biển, đường sông, trừ phi nhằm thực hiện hợp đồng vận tải không có

chuyển tải.

1.1.2. Cơ sở trách nhiệm

Page 78

- Người chuyên chở hàng không chịu trách nhiệm về thiệt hại khi hàng hoá bị

mất mát, hao hụt hay bị chậm giao hàng (sau 7 ngày kể từ ngày lẽ ra hàng phải

tới hoặc người chuyên chở tuyên bố bị mất hàng, thì người nhận hàng có quyền

kiện người chuyên chở. Điều 13, Mục 3 của Công ước Vác - sa - va 1929).

- Người chuyên chở được miễn trách nhiệm nếu chứng minh được rằng anh ta

và đại lý đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết hoặc không thể áp dụng được

những biện pháp như vậy để tránh thiệt hại.

- Người chuyên chở cũng được miễn trách nhiệm nếu chứng minh được thiệt hại

trong việc hoa tiêu, chỉ huy bay, vận hành máy bay.

1.1.3. Giới hạn trách nhiệm

- Trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoá được giới hạn bằng số

tiền là 250 Fr. vàng/1 Kg theo Công ước Vác - sa - va Và Nghị định thư Hague.

Theo Hiệp định Montreal 1996 giới hạn trách nhiệm là 9,07 USD/1 Pound,

tương đương với 20 USD/1Kg.

- Nếu hàng hoá đã kê khai giá trị ở nơi giao hàng vào lúc giao hàng cho người

chuyên chở, thì trách nhiệm giới hạn là giá trị đã kê khai, trừ khi người chuyên

chở chứng minh được rằng giá trị đã kê khai lớn hơn giá trị thực sự của hàng

hoá.

- Theo Nghị định thư Guatemala, giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở

đối với hàng hoá là 250 Fr. vàng/1 Kg. Theo các Nghị định thư Montreal năm

1975 số 1, 2, 3, 4, giới hạn ttrách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hóa

là 17 SDR/1 Kg.

1.1.4. Khiếu nại người chuyên chở bằng đường hàng không

* Thời gian thông báo tổn thất và khiếu nại người chuyên chở

Page 79

 Trường hợp thiệt hại: phải khiếu nại ngay khi phát hiện ra thiệt hại và

chậm nhất trong vòng 7 ngày.

 Trường hợp chậm giao hàng: khiếu nại trong vonhg 14 ngày, kể từ ngày

hàng hoá lẽ ra phải phải đặt dưới sự định đoạt của rngười nhận hàng.

* Thời gian khởi kiện

Thời hạn khởi kiện là 1 năm, kể từ ngày máy bay phải đến hoặc từ ngày việc vận

chuyển chấm dứt

2 Vận đơn hàng không (Airway Bill - AWB)

2.1 Khái niệm

Vận đơn hàng không (AWB) là một chứng từ vận chuyển hàng hoá và là bằng

chứng của việc ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng máy bay, về điều

kiện của hợp đồng và việc đã tiếp nhận hàng hoá để vận chuyển (Luật dân dụng

hàng không qui định)

Vận đơn hàng không là chứng từ không giao dịch được (Non Negociable) bằng

cách ký hậu thông thường.

2.2 Chức năng của vận đơn hàng không.

Vận đơn hàng không có các chức năng sau:

 Là bằng chứng của hợp đồng vận tải được ký kết giứ ngời chuyên chở và

người gửi hàng

 Là bằng chứng chứng nhận việc nhận hàng của người chuyên chở hàng

không

 Là hoá đơn thanh toán cước phí (Freight bill)

Page 80

 Là giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate)

 Là chứng từ khai hải quan

 Là bản hướng dẫn đối với nhân viên hàng không.

3 Cước phí vận tải đường hàng không

3.1 Khái niệm về cước phí

Cước phí (Charge): là số tiền phải trả cho việc vận chuyển lô hàng hoặc cho các

dịch vụ liên quan đến chuyên chở. Mức cước hay giá cước (rate) là số tiền mà

người chuyên chở thu trên một đơn vị khối lượng hàng hoá vận chuyển.

3.2 Cơ sở tính cước phí

Cước có thế tính trên cơ sở trọng lượng, nếu là lô hàng nhỏ và thuốc loại hàng

nặng

Cước tính theo thể tích hay dung tích chiếm chỗ trên máy bay đối với hàng nhẹ

hoặc cồng kềnh.

Cước tính theo giá trị đối với hàng hoá có giá trị cao trên một đơn vị trọng lượng

hoặc đơn vị thể tích.

Tổng tiền cước được tính bằng cách: nhân số đơn vị hàng hoá chịu cước với

mức cước. Tuy nhiên, tiền cước không được nhỏ hơn cước tối thiểu đã qui định.

Cước vận chuyển hàng hoá bằng đương hàng không quốc tế được qui định trong

các biển cước do IATA ban hành: Quyển thứ nhất "Qui tắc TACT" (The Air

CArgo Tariff Rules) một năm ban hành 2 lần. Quyển thứ hai "Cước TACT" hai

tháng ban hành một lần> Quyển thứ hai gồm cuốn: Cuốn 1 về cước toàn thế

giới, trừ Bắc Mỹ, Cuốn 2 về cước Bắc Mỹ gồm cước đi, đến và cước nội hạt của

Canada và Mỹ

Page 81

4 Các loại cước phí:

4.1 Cước hàng bách hoá (General Cargo Rate - GCR):

Là cước áp dụng cho nhóm hàng bách hoá thông thường vận huyển giữa hai

điểm. Số lượng hàng hoá càng lớn, mức cước càng giảm. Cước hàng bách hoá

thường được tính theo từng mức trọng lượng hàng hoá: đến 45kg, từ 45-100kg,

từ 100-250kg, từ 250-500k, từ 500-1.000kg, từ 1.000-2.000kg…

4.2 Cước tối thiểu (Minimum Rate - M):

Là mức cước mà thấp hơn thế thì các hãng Hàng không coi là không kinh tế khi

vận chuyển một lô hàng dù là một kiện rất nhỏ. Thực tế khi tính cước bao giờ

cũng cao hơn hoặc bằng cước tối thiểu. Cước tối thiểu do IATA quy định trong

TACT.

4.3 Cước đặc biệt (Special Cargo Rate - SCR):

Thường thấp hơn cước GCR và áp dụng cho hàng hoá đặc biệt trên những tuyến

đường nhất định.

Mục đích là để chào giá cạnh tranh nhằm cho phép sử dụng tối ưu khả năng

chuyên chở của hãng Hàng không.

Trọng lượng tối thiểu để áp dụng tính cước là 100kg.

Theo TACT thì những hàng hoá áp dụng tính cước SCR đợc chia làm 10 nhóm:

0001 đến 0009; 2.000 đến 2.999; 3.000 đến 3.999; 4.000 đến 4.999; 5.000 đến

5.999; 6.000 đến 6.999; 7.000 - 7.999; 8.000 - 8.999; 9.000 - 9.999.

4.4 Cước phân loại hàng (Class Rate/Commodity Classification Rate -

CR/CCR):

Được tính trên cơ sở 0% so với cước hàng bách hoá, áp dụng đối với những mặt

Page 82

hàng không có cước riêng trên một số tuyến nhất định.

Cước Class Rate gồm một số loại chính là: động vật sống, hàng giá trị cao như

vàng, bạc, đồ trang sức, tạp chí, sách báo, hành lý gửi như hàng hoá, hài cốt

(Human Remains) bằng 50% cước GCR…

4.5 Cước cho mọi loại hàng (Freight All Kinds - FAK):

Là mức cước áp dụng chung cho mọi loại hàng hoá xếp chung trong một

Container.

4.6 Cước ULD (ULD Rate):

Là cước tính cho hàng hoá chuyên chở trong các ULD. Cước này thấp hơn cước

hàng rời, khi tính chỉ căn cứ vào loại và số lượng ULD, không căn cứ vào hàng

hoá (số lượng và chủng loại hàng).

4.7 Cước hàng chậm:

Là cước tính cho lô hàng gửi chậm. Cước này thường thấp hơn cước hàng gửi

nhanh và hàng thông thường, vì các hãng Hàng không khuyến khích loại hàng

gửi chậm.

4.8 Cước thống nhất (Unified Cargo Rate):

Là cước áp dụng khi hàng hoá chuyên chở qua nhiều chặng, người chuyên chở

chỉ áp dụng một loại giá cước dù giá cước chuyên chở phải áp dụng cho các

chặng là khác nhau. Cước này có thể thấp hơn tổng tiền cước mà chủ hàng phải

trả riêng cho từng người chuyên chở.

4.9 Cước gửi hàng nhanh (Priority Rate):

Còn gọi là cước ưu tiên, áp dụng cho lô hàng gửi gấp trong vòng 3 tiếng đồng

hồ, kể từ khi người chuyên chở nhận hàng. Cước này thường bằng 130- 140%

Page 83

của cước GCR.

4.10 Cước hàng gộp (Group Rate):

Là cước áp dụng cho những khách hàng thường xuyên gửi hàng nguyên cả

Container hay Pallet (thường là Đại lý hay người gom hàng hay người giao

nhận). Tại Hội nghị Athens năm 1969, IATA cho phép các hãng Hàng không

thuộc IATA giảm tối đa là 30% so với GCR cho đại lý, người giao nhận.

*******

Tóm lại , hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải (ngoại thương) là

hai cam kết khác hẳn nhau:

 Về chủ thể của Hợp đồng mua bán ngoại thương là bên mua và bên bán;

của hợp đồng vận tải ngoại thương là cam kết chủ hàng với người vận tải

 Về đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương là hàng hoá; của hợp

đồng vận tải ngoại thương là quãng đường

 Về giá cả của hợp đồng mua bán ngoại thương là giá hàng được hình

thành do sự thoả thuận của hai bên, còn của hợp đồng vận tải ngoại

thương là giá cước.

 Về luật pháp điều chỉnh hợp đồng của hợp đồng mua bán ngoại thương

là luật pháp liên quan đến việc mua bán hàng hoá, còn của hợp đồng vận

tải là luật và công ước vận chuyển hàng hoá như công ước Brussels,

Visby, Hamburg.

Tuy nhiên, hai loại hợp đồng này lại có những điểm chung, ví dụ như:

 Về số lượng hàng: Số lượng hàng mua bán bao nhiêu thì vận tải bấy nhiêu

 Về thời hạn giao hàng: Hàng được giao vào thời hạn nào thì tàu chở được

Page 84

thuê để chở hàng vào lúc đó.

 Về điều kiện vận tải: Hợp đồng mua bán ký như thế nào thi trong hợp

đồng vận tải ký như thế

Page 85

CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN TỐT HƠN

NỮA VIỆC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG VÀ

HỢP ĐỒNG VẬN TẢI

I Một số biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng

ngoại thương

Việc đàm phán để đi đến một hợp đồng mua bán ngoại thương là vấn đề vô

cùng quan trọng. Thông qua đàm phán ta có thể thuyết phục được bạn hàng

theo những điều khoản và phương thức mà ta mong muốn nếu chúng ta đàm

phán tốt.

Đàm phán được chia thành ba giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị đàm phán, giai

đoạn đàm phán và giai đoạn sau đàm phán. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu

từng giai đoạn này;

1 Giai đoạn 1: chuẩn bị đàm phán

Đây là giai đoạn quan trọng nhất, nó quyết định 80% kết quả của đàm phán.

Trong giai đoạn này, nhà đàm phán phải chuẩn bị kỹ càng về ba mặt sau:

 Thu thập thông tin

Trước khi đàm phán cần nắm được những thông tin như:

 Đối phương có lợi gì trong thương vụ này,

 Ta có lợi gì trong thương vụ này

 Đối phương là ai và đại diện cho đối phương là người như thế nào?

Page 86

 Những thông tin gì có thể cung cấp cho đối phương

 Khuynh hướng thị trường ra sao?

 vv…

 Chuẩn bị chiến lược

Trước khi đàm phán ta cần xác định tư duy chủ đạo của mình là tư duy chiến

lược (Strategic thinking) hay tư duy ứng phó (incremental thinking).

Những công cụ và phương tiện ta sẽ dùng là gì? (hăng hái, nhiệt tình hay

lãnh đạm, thờ ơ, đơn giản và thúc ép hay lạnh nhạt và xa lánh)

 Chuẩn bị kế hoạch

Trước khi đàm phán, cần phải xác định mục tiêu của cuộc đàm phán (yêu

cầu tối đa, tối thiểu, giá cả cao nhất và giá cả thấp nhất…), những nhượng bộ

có thể phải thực hiện, những đòi hỏi đổi lại cho mỗi nhượng bộ đó..

Ta cũng phải sắp xếp về nhân sự cho cuộc đàm phán (trong đoàn đàm phán

nên gồm có những ai?)

Việc tiếp tân cũng không kém phần quan trọng trong việc đưa đàm phán đến

thắng lợi cuối cùng.

2 Giai đoạn 2: đàm phán

Trong quá trình đàm phán, các bên cần luôn luôn thực hiện những nguyên

tắc sau:

 Lễ phép, lịch sự

Page 87

 Hoà khí và thiện cảm

 Không xa rời mục tiêu đã định

 Chủ động

Để mở đầu cuộc đàm phán, người ta có thể sử dụng một trong những cách

sau:

 Mở đầu làm dịu căng thẳng

 Mở đầu kiếm cớ

 Mở đầu kích thích trí tưởng của đối phương

 Mở đầu trực tiếp (nhanh chóng chuyển vào nội dung chính)

Đi vào đàm phán, cần tranh thủ sự đồng tình của đối phương về từng vấn đề

một. Muốn vậy, những phương pháp thường dùng là:

 Trình bày với vể bề ngoài thật thà

 Khéo léo sử dụng chữ "nhưng"

 Nêu ra những câu hỏi để đối phương trả lời và tự thuyết phục chính họ

 Đề ra yêu cầu ban đầu cao rồi chủ động giảm dần yêu cầu của mình

 Đưa ra phương án để đối phương tự lựa chọn

Cuối cùng, cần thúc đẩy ra quyết định bằng văn bản

Nhằm góp phần tạo nên thành công cho cuộc đàm phán, thái độ của các cán

bộ trong đàm phán cũng là một yếu tố quan trọng. Hạn chế trao đổi, tranh

Page 88

luận riêng mang tính chất nội bộ, bởi có thể bị lộ ý định nếu bên đối tác hiểu

được tiếng nước mình.

Nhạy bén đánh gía tình hình diễn biến của cuộc đàm phán để quyết định ở

mức nào là vừa phải do việc cương quyết giữ vững đề nghị của mình với khả

năng đối tác chấp nhận được. Phải biết nhượng bộ lúc nào, ở mức độ nào để

đảm bảo vừa có lợi cho ta đồng thời gây được sự thoả mãn cho đối phương.

3 Giai đoạn 3: sau đàm phán

Sau đàm phán, cần phải tỏ rõ thiện chí thực hiện những gì đã đạt được trong

cuộc đàm phán. Tuy nhiên, cũng lại cần phải tỏ ra rất sẵn sàng xem xét lại

những điều thoả thuận nào đó

Việc theo dõi thực hiện cần phải có sổ sách và tuần kỳ đối chiếu, kiểm điểm

cùng đối phương.

Mỗi cuộc đàm phán là một khoá học mà đối với những người có ý chí cầu

tiến, mỗi bên đều có thể rút ra cho mình những bài học để tự hoàn thiện

mình.

Đàm phán có thể thông qua giao dịch thư tín, cũng có thể qua điện thoại hay

gặp gỡ trực tiếp. Tuy nhiên việc đàm phán bằng cách trực tiếp gặp gỡ nhau

sẽ tạo điều kiện cho việc hiểu biết nhau tốt hơn và duy trì được quan hệ tốt

lâu dài với nhau. Bên cạnh đó cũng phải thấy rằng đây là hình thức đàm

phán khó khăn nhất trong các hình thức đàm phán. Vì vậy cần phải luôn

luôn học hỏi, trau dồi và tỉnh táo trong mọi trường hợp.

II Một số biện pháp để làm tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng vận tải

Cũng như ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, việc ký kết một hợp đồng vận

Page 89

tải cũng vô cùng quan trọng và cũng được chia ra làm ba giai đoạn.

1 Giai đoạn 1: chuẩn bị đàm phán

Cần nắm vững thực tế vận tải như:

 Trên quãng đường đó có đường tàu chợ hay không?

 Đường tàu chuyến thì cước phí ra sao?

 Tàu chuyến có khó thuê không?

 Tàu container có không?

 v.v…

2 Giai đoạn 2: đàm phán

Cần nắm vững những thay đổi trên quãng đường, những quy định mới trên

quãng đường đó để vận dụng cho thích nghi.

3 Giai đoạn 3: sau đàm phán

Cần xem xét có những điều cần rút kinh nghiệm cho thời gian tới như:

 Khai tên hàng, lấy vận đơn như thế nào? Khai cước phí ra sao?

 v.v…

Trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp vận tải ( Nhà nước và tập thể…)

thường khoán vận chuyển cho từng đầu phương tiện (kể cả khoán cho đi

khai thác hàng), nhiều chủ hàng hay ký trực tiếp với lái xe, chủ tàu…, không

ký với đơn vị vận tải. Về nguyên tắc của hợp đồng là không đúng, nhưng

quan trọng hơn là có tranh chấp xảy ra (như mất

Page 90

mát hàng hoá…) thì đơn vị vận tải chủ quản không chịu trách nhiệm giải

quyết và cơ quan trọng tài cũng không xem xét giải quyết được, do hợp

đồng không phải hai pháp nhân ký với nhau. Vì vậy, chủ hàng nên kiên

quyết tránh kiểu ký hợp đồng trên. Lưu ý việc ký hợp đồng theo giấy giới

thiệu cũng không đảm bảo nguyên tắc.

Soạn thảo bản hợp đồng với nôi dung thật cụ thể về loại hàng, khối lượng,

phương thức giao nhận cụ thể, tỷ lệ hao hụt, áp tải, giá cước và nên có trách

nhiệm vật chất (thưởng phạt…) để hai bên cùng có trách nhiệm với hợp

đồng và khi có tranh chấp đưa đến cơ quan trọng tài thì việc xem xét giải

quyết sẽ thuận lợi, rõ ràng. Chủ hàng cần tránh tư tưởng ký hợp đồng vận tải

miễn sao có được phương tiện vân chuyển theo yêu cầu chở hàng của mình,

trong khi nội dung hợp đồng quá đơn giản chỉ thể hiện được khối lượng

hàng vận chuyển, giá cả thanh toán và người đại diện là ai ký vào cũng

được, thì rất rắc rối khi có hậu quả xảy ra.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có phát sinh thêm các sự kiện mới

như đổi địa điểm giao nhận, thay đổi loại hàng, chờ kho…thì hai bên cần

làm phụ lục hợp đồng cụ thể, rõ ràng, tránh không nên thoả thuận bằng

miệng, sẽ không có cơ sở giải quyết khi có tranh chấp.

Hợp đồng ký xong ngoài các văn bản hai bên giữ, cần phải gửi thêm cho

Ngân hàng mà hai bên có tài khoản để làm cơ sở cho vay và thanh toán

Hợp đồng phải được thủ trưởng đơn vị của hai bên ký tên và đóng dấu. Nếu

vì một vài điều khoản mà hai bên chưa thống nhất thì ghi vào hợp đồng, mỗi

bên vẫn còn bảo lưu quan điểm của mình, thì hai bên vẫn ký hợp đồng với

các điều kiện đã thống nhất, còn những điều chưa thống nhất nên ghi rõ vào

Page 91

hợp đồng ý kiến bảo lưu của hai bên báo cáo cơ quan chủ quản cấp trên xử

lý.

Cần nắm vững chế độ thưởng phạt của hợp đồng vận tải để vận dụng tốt hơn

trong khi

thanh

toán

tiền

thưởng (dispatch money) và

tiền phạt

(Demuerrage) này.

Để thực hiện tốt hơn nữa hợp đồng vận tải và hợp đồng mua bán ngoại

thương, Nhà nước phải có chính sách xuất nhập khẩu rõ ràng và phù hợp, lên

được số lượng (quota) cho mỗi hàng hoá dự kiến nhập khẩu trong năm, để từ

đó lựa chọn được phương thức cũng như đối tác để ký kết hợp đồng vận

chuyển phù hợp.

Để thực hiện tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp

đồng vận tải cho các thiết bị viễn thông của nước nhà, các doanh nghiệp

cũng như các ban ngành bưu chính viễn thông cần nẵm rõ mục tiêu đề ra của

Tổng Công ty bưu chính viễn thông trong từng giai đoạn.

Giai đoạn 2002-2005, với mục tiêu hội nhập thế giới và ra nhập AFTA,

Chính phủ và cục bưu chính viễn thông đang lên chính sách và kế hoạch để

keu gọi đầu tư, đảy mạnh nguồn vốn ODA, BCC, tái đầu tư trong nước, mở

rộng các nguồn vốn từ có để nhập thêm công nghệ và các dịch vụ viễn thông

mới để tiến đến ngang bẵng với nền viễn thông trong khu vực, tạo sức cạnh

tranh trên thị trường, hoà mạng với thế giới, đưa giá cước điện thoại và

internet xuống phù hợp với khả năng tiêu dùng của người dân.

Chỉ tiêu kế hoạch đến năm 2005 đặt ra là phải tăng tốc phát triển các khu

vực, các tỉnh,.. năng cao hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất, yêu cầu các chủ

đầu tư, các đơn vị trực thuộc lập dự án đầu tư, tư vấn để xin đầu tư, xin

Page 92

nguòn vốn từ Tổng Công ty Bưu chính viễn thông. Khi dự án khả thi và

được phê duyệt thì cần tiến hành đấu thầu và gọi thầu Quốc tế. Về qui chế

đấu thầu, cần nghiên cứu kỹ các NĐ42/CP, 43/CP và gần đây nhất là

NĐ88/CP.

Việc lựa chọn nhà thắng thầu phải dựa vào công nghệ, giá cả, dịch vụ hậu

mãi và khả năng tài chính cũng như chiến lược của đôí tác dự định đầu tư

vào nước ta. Bên cạnh đó cũng cần phải nắm rõ qui định số 91 về quản lý

NK thiết bị máy móc của Thủ Tướng chính phủ và thông tư hướng dẫn

04TM-ĐT ký ngày 30/4/93 của bộ thương mại hướng dẫn thực hiện quyết

định. Đồng thời cũng phải nắm rõ các quic chế, qui định về quản lý hàng hoá

xuất nhập khẩu để dự trù, tính toán mức thuế xuất cần thiết.

Sau khi có kết quả phê duyệt, cần thực hiện đàm phán ký kết hợp đồng. Dựa

vào những điều khoản và nguyên tắc đã trình bày ở trên để tiến hành. Cần

lưu ý đối với thiết bị toàn bộ, công nghệ cao dưới sự quản lý của nhà nước,

cần nhập khẩu và đưa vào những công nghệ đáp ứng công nghệ tiến tiến,

không bị lạc hậu. Với các thiết bị hay công nghệ dưới sự quản lý chuyên

ngành thì cần phải có giấy phép của bộ bưu chính viễn thông. Những hợp

đồng trị giá trên 500.000 USD phải có giấy phép của Bộ Thương mại và nếu

trị giá lớn hơn 10.000.000 USD thì cần có giấy phép của Bộ Tài chính.

Bên cạnh đó cũng đưa ra phương thức vận chuyển phù hợp với từng loại mặt

hàng. Có những hàng cần phải đựơc vận chuyển bằng đường hàng không để

tránh bớt rủi ro đổ vỡ, hư hỏng trong quá trình vận chuyển bằng đường biển

nhưng cũng có hàng phải vận chuyển bằng đường biển do quá kích cỡ hay

Page 93

để giảm bớt chi phí…

Page 94

KẾT LUẬN

Hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải ngoại thương là hai

hợp đồng quan trọng nhất trong buôn bán quốc tế của ngành ngoại thương ở

nước ta. Hai hợp đồng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong kinh

doanh có cái được ký kết trước, có cái được ký kết sau. Là một cán bộ kinh

doanh, tôi thấy cần phải có nhận định về mối quan hệ giữa hai hợp đồng này.

Trong 90 trang của luận văn này, tôi đã:

 Trình bày các nguyên tắc cơ bản trước khi ký kết hợp đồng mua bán

ngoại thương và hợp đồng vận tải

 Trình bày các điều khoản của hai loại hợp đồng này

 Trình bày về các văn bản, nhất là về các loại vận đơn, có liên quan

đến các chứng từ của hợp đồng này.

 Trình bày các loại cước phí có liên quan

 Một số qui định và những vấn đề liên quan cần lưu ý khi ký kết một

hợp đồng mua bán ngoại thương các thiết bị, công nghệ tin học cho

nước nhà.

Bằng phương pháp so sánh, đối chiếu hai loại hợp đồng này chúng ta thấy

đây là hai loại hợp đồng cơ bản trong quan hệ kinh tế thương mại đối ngoại.

Trên thực tế trong ngành bưu chính viễn thông tin học, bằng phương pháp

phân tích chúng ta đã thấy có những phương thức khác nhau trong quá trình

ký hợp đồng nói trên.

Page 95

Dựa vào những điều cơ bản được trình bày trong luận văn này, chúng ta đúc

kết ra được những nguyên tắc nhất định. Vì vậy trước khi ký kết chúng ta

cần lưu ý, nghiên cứu kỹ để hai hợp đồng này được ký kết rõ ràng.

Một lần nữa, tôi xin chân thành cám ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của

thầy Vũ Hữu Tửu cùng sự giảng dạy tận tâm của toàn bộ giáo viên trường

Đại học Ngoại thương trong suốt thời gian học tập đã giúp tôi hoàn thành

luận văn này.

Page 96

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách: Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - Vũ Hữu Tửu

2. Sách: Vận tải và giao nhận trong ngoại thương - PGS.TS. Nguyễn

Hồng Đàm (Chủ biên), GS.TS. Hoàng Văn Châu, PGS.TS Nguyễn

Như Tiến, TS. Vũ Sĩ Tuấn

3. Những điều kiện thương mại Quốc tế - Incoterm 2000 – Nhà xuất bản

khoa học và kỹ thuật

4. Soạn thảo hợp đồng kinh tế - Nguyễn Quang, Anh Minh

5. Hợp đồng kinh tế và chế định về tài phán trong kinh doanh tại Việt

nam - Bùi Thị Khuyên, Phạm Văn Phấn, Phạm Thị Thuỳ Dương

6. Những lỗi thường gặp trong ký kết hợp đồng dân sự, kinh tế, thương

mại – Nguyễn Thu Thảo.

7. Thời báo kinh tế Việt nam Số: 57 (9/4), 58 (11/4), 60 (14/4), 62

(18/4), 64 (21/4), 67 (26/4)

Page 97

PHỤ LỤC

I. QUI ĐỊNH SỐ 299/TMDLXN NGÀY 9-4-1992 CỦA BỘ THƯƠNG

MẠI VÀ DU LỊCH VỀ VIỆC KÝ KẾT VÀ QUẢN LÝ HỢP ĐỒNG MUA

BÁN HÀNG HOÁ NGOẠI THƯƠNG (HĐMBNT)

Trong khi chờ ban hành Luật Thương mại;

Để việc giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương phù

hợp với Luật pháp Việt nam, tập quán Thương mại quốc tế;

Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của các doanh nghiệp kinh doanh xuất

nhập khẩu;

Bộ Thương mại và Du lịch qui định như sau:

I. Qui định chung

Điều 1. Mọi việc mua bán trao đổi hàng hoá và dịch vụ tại Điều 1,

Nghị định số 114/HĐBT ngày 7-4-1992 của Hội đồng Bộ trưởng phải được

thực hiện bằng hợp đồng mua bán ngoại thương.

Điều 2. Chủ thể về phía Việt nam của hợp đồng mua bán ngoại

thương.

2.1. Chỉ các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do

Bộ Thương mại và Du lịch cấp mới ddược quyền giao dịch, ký kết hợp đồng

mua bán ngoại thương.

Các doanh nghiệp chưa có giấy phép kinh doanh xuất, nhập khẩu

không có quyền giao dịch ký hợp đồng mua bán ngoại thương, mọi hợp

đồng mua bán ngoại thương do các doanh nghiệp này ký đều không co hiệu

lực.

2.2. Người có thẩm quyền thay mặt cho doanh nghiệp xuất, nhập khẩu

ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương là giám đốc (hoặc phó giám đốc),

hoặc người được giám đốc uỷ quyền hợp pháp bằng văn bản.

Điều 3. Đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương:

3.1. Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán ngoại thương phải

là hàng không thuộc danh mục hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, nếu là

hàng quản lý bằng hạn ngạch thì phải có phiếu hạn ngạch.

3.2. Doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được ký kết hợp

đồng mua bán những hàng hoá ghi trong giấy phép kinh doanh xuất, nhập

khẩu.

Điều 4. Hình thức hợp đồng mua bán ngoại thương.

4.1. Hợp đồng mua bán ngoại thương phải được làm bằng văn bản

mới có hiệu lực. Thư từ, điện tín, telex, fax, cũng được coi là văn bản. Mọi

hình thức thoả thuận bằng miệng đều không có hiệu lực.

4.2. Mọi sửa đổi bổ sung hợp đồng mua bán ngoại thương phải được

làm bằng văn bản.

Điều 5. Giao dịch, ký kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài.

5.1.Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt nam khi giao

dịch ký kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài, phải nắm được năng lực

quản lý, khả năng tài chính và tín nhiệm thương mại của họ.

5.2. Không giao dịch và ký kết hợp đồng với những người không có

thẩm quyền đại diện như các văn phòng đại diện của nước ngoài tại Việt

nam hoặc các đại diện bất hợp pháp của nước ngoài.

II. Qui định về nội dung của hợp đồng mua bán ngoại thương

Điều 6. Những điều khoản chủ yếu của hợp đồng:

6.1. Tên hàng

- Ghi đúng tên thương mại và nhãn hiệu thương mại của hàng hoá.

- Khi cần thiết phải ghi rõ cả công dụng của hàng hoá để phân biệt các

loại hàng cùng tên.

6.2. Số lượng

- Số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập quán thương

mại quốc tế.

- Phương pháp xác định số lượng.

- Địa điểm xác định số lượng.

- Tỷ lệ dung sai (tuỳ theo từng loại hàng).

6.3. Quy cách phẩm chất:

- Những yếu tố chủ yếu về quy cách, phẩm chất của hàng hoá và

phương pháp xác định.

- Trách nhiệm của người bán và người mua đối với việc kiểm tra quy

cách, phẩm chất, thời gian và địa điểm kiểm tra.

6.4. Thời hạn và địa điểm giao hàng.

- Thời hạn giao hàng.

- Địa điểm giao hàng.

6.5. Giá cả và điều kiện giao hàng:

- Giá hàng phải căn cứ theo giá quốc tế, phù hợp với những quy định

của Nhà nước và thích ứng với từng điều kiện giao hàng cơ sở.

- Giá hàng không được tách rời các điều kiện giao hàng cơ sở (FOB,

CF, CIF… theo Incoterm nào).

- Điều kiện giao hàng cơ sở phù hợp với khả năng và hiệu quả về giao

nhận, vận chuyển, bảo hiểm…

6.6. Phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán:

- Đồng tiền thanh toán (lựa chọn đồng tiền thanh toán thích hợp).

- Thanh toán theo L/C: điều kiện của L/C phải phù hợp với các điều

kiện của hợp đồng; số liệu, chứng từ thanh toán phải đáp ứng các yêu cầu

nghiêm ngặt của L/C.

- ủy thác thu (D/A, D/P).

- Thanh toán theo TTR; chỉ áp dụng đối với các bạn hàng quen biết và

có tín nhiệm.

- Đổi hàng: phải thanh toán qua Ngân hàng Việt nam, phải quy định

cụ thể số lượng và trị giá hàng đổi; phải cân đối trị giá giữ hàng xuất và hàng

nhập.

Điều 7. Những điều khoản khác của hợp đồng:

7.1. Bao bì ký mã hiệu.

7.2. Giám định hàng hoá (số lượng, quy cách, phẩm chất, tổn thất).

- Phải chọn một tổ chức giám định trung lập và có uy tín.

- Thời gian và địa điểm giám định (nơi giao hàng hay nơi nhận hàng).

- Giá trị quản lý của biên bản giám định (có giá trị cuối cùng hay

không).

7.3. Các trường hợp miễn trách.

- Trường hợp bất khả kháng.

- Lỗi của bên kia hoặc bên thứ ba.

- Các trường hợp miễn trách do hai bên thoả thuận.

7.4. Chế tài

- Phạt vi phạm hợp đồng (giao hàng chậm, thanh toán chậm, thông

báo tin tầu, tin hàng chậm…).

- Bồi thường thiệt hại (giao hàng không đúng quy cách, phẩm chất,

thiếu số lượng, không giao hàng, không khiếu nại…).

- Giải quyết bằng trọng tài (chọn tổ chức trọng tài thích hợp, chọn luật

áp dụng…).

7.5. Bảo hành, bảo dưỡng; giám sát, kiểm tra việc giao hàng, cử

chuyên gia lắp ráp, vận hành, hướng dẫn sử dụng…

7.6. Điều kiện có hiệu lực và thời hạn hiệu lực hợp đồng.

Đối với hợp đồng mua bán thiết bị toàn bộ, sở hữu công nghiệp, dây

chuyền sản xuất, hợp đồng dịch vụ, ngoài các điều khoản chung nêu trên,

cần có thêm:

- Luận chứng kinh tế kỹ thuật.

- Các bản chào giá có kèm catalogue.

III. Điều khoản thi hành.

Điều 8. Bộ Thương mại và Du lịch có quyền giám sát, kiểm tra và có

trách nhiệm hướng dẫn việc giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua

bán ngoại thương.

Điều 9. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có quyền chủ

động và chịu trách nhiệm chính trong việc giao dịch, ký kết và thực hiện hợp

đồng mua bán ngoại thương đúng luật pháp và tập quán thương mại, bảo

đảm lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của Nhà nước.

Chậm nhất 20 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng mua bán ngoại thương,

các doanh nghiệp phải gửi một bản chính (nếu bản sao, phải có công chứng)

về Bộ Thương mại và Du lịch (Phòng cấp giấy phép khu vực). Sau 7 ngày,

kể từ ngày nhận hợp đồng (đối với hàng hoá thông thường), nếu Phòng giấy

phép không có ý kiến gì khác thì doanh nghiệp có quyền yêu cầu được nhận

giấy phép xuất nhập khẩu.

Điều 10. Những hành vi vi phạm các quy định nói trên sẽ bị xử lý theo

luật pháp hiện hành.

Bộ trưởng

Bộ thương mại và du lịch

Lê Văn Triết

II. HỢP ĐỒNG THAM KHẢO

(Xin tham khảo hợp đồng đã được ký kết giữa Công ty Vật tư Bưu điện I – Cokyvina và Công ty Datacraft Singapore)

III. BỘ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI.

CÁC CHỨNG TỪ CÓ LIÊN QUAN

(Xin tham khảo hợp đồng đã được ký kết giữa Công ty Cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT với Công ty Hewlett-Packard Singapore)