ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ----------------------
VỪ A SÀ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC TÌM HIỂU VIỆC SỬ DỤNG KIẾN THỨC BẢN ĐỊA CỦA ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC H’MÔNG TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TẠI XÃ LONG HẸ, HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
NHẰM THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Hệ đào tạo : Chính quy
Định hướng đề tài : Hướng nghiên cứu
Chuyên ngành : Kinh tế Nông nghiệp
Khoa : Kinh tế và Phát triển nông thôn
Khóa : 2015 - 2019
Thái Nguyên - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ----------------------
VỪ A SÀ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC TÌM HIỂU VIỆC SỬ DỤNG KIẾN THỨC BẢN ĐỊA CỦA ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC H’MÔNG TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TẠI XÃ LONG HẸ, HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
NHẰM THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Hệ đào tạo
: Chính quy
Định hướng đề tài : Hướng nghiên cứu
Chuyên ngành : Kinh tế Nông nghiệp
Khoa : Kinh tế và Phát triển nông thôn
Khóa : 2015 - 2019
Giáo viên hướng dẫn : TS. Kiều Thị Thu Hương
Thái Nguyên - 2019
i
LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa
KT&PTNT Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình
của cô giáo, giảng viên hướng dẫn TS. Kiều Thị Thu Hương, em đã tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu việc sử dụng kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc
H’mông trong sản xuất nông nghiệp tại xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu, tỉnh
Sơn La nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu”.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ
nhiệm khoa KT&PTNT, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng tất cả các
thầy – cô đã tận tình dìu dắt trong suốt thời gian học tập tại trường.
Đặt biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn tới cô giáo TS. Kiều Thị Thu Hương, đã
tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và hướng dẫn để em hoàn thành khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới cán bộ xã, UBND xã Long Hẹ đã nhiệt tình chỉ
bảo, hướng dẫn em khi em về địa phương thực tập và tạo mọi điều kiện giúp đỡ em
hoàn thành khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè và người thân đã giúp đỡ em tận tình trong
quá trình nghiên cứu khóa luận.
Do điều kiện thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế, bài khóa luận của em
không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
các thầy – cô giáo và bạn bè để bài khóa luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái nguyên, tháng 6 năm 2019
Sinh viên
Vừ A Sà
ii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Các hình thức tham gia của cộng đồng địa phương. ................................ 12
Bảng 2.2. Xu hướng biến đổi khí hậu ở xã Long Hẹ. ............................................... 25
Bảng 4.1. Thống kê phân loại đất theo mục đích sử dụng tại xã Long Hẹ năm 2018. ..... 36
Bảng 4.2. Cơ cấu cây trồng nông nghiệp của xã Long Hẹ năm 2018. ...................... 37
Bảng 4.3. Số lượng đàn gia súc, gia cầm tại xã Long Hẹ năm 2018. ....................... 38
Bảng 4.4. Tác động của biến đổi khí hậu đến trồng trọt. .......................................... 47
Bảng 4.5. Tác động của biến đổi khí hậu đến chăn nuôi. ......................................... 49
Bảng 4.6. Kết quả phân loại nhóm cây trồng xã Long Hẹ. ....................................... 50
Bảng 4.7. Cây trồng và vật nuôi bản địa có khả năng thích ứng BĐKH trên địa bàn
xã Long Hẹ. ............................................................................................................... 51
Bảng 4.8. Lịch canh tác nương của người H’mông. ................................................. 54
Bảng 4.9. Kinh nghiệm trong dự báo thời tiết của dân tộc H’mông tại xã Long Hẹ. ......... 55
Bảng 4.10. Kiến thức bản địa về trồng trọt. .............................................................. 60
Bảng 4.11. Kiến thức bản địa về chăn nuôi. ............................................................. 61
iii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1. Biểu đồ lượng mưa trung bình tháng trong năm tại xã Long Hẹ. ............. 44
Hình 4.2. Biểu đồ số giờ nắng các tháng trong năm tại xã Long Hẹ. ....................... 45
Hình 4.3. Biểu đồ nhiệt độ trung bình các tháng trong năm tại xã Long Hẹ. ........... 46
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HTTTCĐ : Hiện tượng thời tiết cực đoan.
EU : Châu Âu.
MONRE : Bộ tài nguyên môi trường.
NAMA : Các hành động giảm nhẹ biến đổi khí hậu phù hợp với điều kiện
quốc gia.
RRA : Đánh giá nhanh nông thôn.
HĐND : Hội đồng nhân dân.
UBMTTQVN : Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam.
PTDTBT : Phổ thông dân tộc bán trú.
HTXNN : Hợp tác xã nông nghiệp.
: Viện Nghiên cứu Quốc tế. IIRR
: Tổ chức nghiên cứu liên Chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên IPCC
hiệp Quốc.
:Tổ chức chiến lược cắt giảm thảm họa của Liên hiệp Quốc. ISDC
: Liên hiệp quốc. LHQ
: Phát triển nông thôn. PTNT
: Ủy ban nhân dân. UBND
v
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC HÌNH ......................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... iv
MỤC LỤC ................................................................................................................... v
PHẦN 1: MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài. ...................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu. ............................................................................................ 2
1.2.1. Mục tiêu chung. ................................................................................................. 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể. ................................................................................................. 3
1.3. Ý nghĩa của đề tài. ................................................................................................ 3
1.3.1. Ý nghĩa khoa học. ............................................................................................. 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn. .............................................................................................. 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ................................................................ 5
2.1. Cơ sở lý luận. ....................................................................................................... 5
2.1.1. Các khái niệm liên quan. ................................................................................... 5
2.1.2. Những nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu. ................................................. 6
2.1.3. Thích ứng với biến đổi khí hậu. ........................................................................ 8
2.1.4. Khái niệm kiến thức bản địa và sử dụng kiến thức bản địa trong thích ứng với
biến đổi khí hậu. ........................................................................................................ 15
2.2. Cơ sở thực tiễn. .................................................................................................. 17
2.2.1. Biến đổi khí hậu trên thế giới. ......................................................................... 17
2.2.2. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam. ......................................................................... 20
2.2.3. Tác động của biến đổi khí hậu đối với đời sống của nông dân đồng bào dân
tộc H’mông tại xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. ................................ 23
2.2.4. Vài nét phong tục văn hóa của đồng bào dân tộc H’mông trên địa bàn xã
Long Hẹ. .................................................................................................................... 25
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 31
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ..................................................................... 31
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................... 31
vi
3.1.2 Phạm vi nghiên cứu. ......................................................................................... 31
3.2. Nội dung nghiên cứu. ......................................................................................... 31
3.3. Phương pháp nghiên cứu. ................................................................................... 31
3.3.1. Thu thập số liệu thứ cấp. ................................................................................. 31
3.3.2. Thu thập số liệu sơ cấp. ................................................................................... 32
3.3.3. Phương pháp xử lý số liệu. .............................................................................. 33
3.3.4. Phương pháp phân tích số liệu. ....................................................................... 33
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..................................................................... 34
4.1. Đặc điểm của vùng nghiên cứu. ......................................................................... 34
4.1.1. Điều kiện tự nhiên. .......................................................................................... 34
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội. ............................................................................... 36
4.1.3. Những thuận lợi và khó khăn. ......................................................................... 42
4.2. Đánh giá hiện tượng thời tiết cực đoan và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến
sản xuất nông nghiệp. ................................................................................................ 43
4.2.1. Đánh giá hiện tượng thời tiết cực đoan trên địa bàn xã Long Hẹ. .................. 43
4.2.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp. ............................. 47
4.3. Các kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc H'mông trong đời sống sinh hoạt và
sản xuất. ..................................................................................................................... 49
4.3.1. KTBĐ của đồng bào dân tộc H’mông trong sản xuất. .................................... 49
4.3.2. KTBĐ của đồng bào dân tộc H’mông trong dự báo thời tiết.......................... 55
4.3.3. Đặc điểm canh tác của đồng bào dân tộc H’mông. ......................................... 56
4.3.4. KTBĐ của đồng bào dân tộc H'mông trong phương pháp chọn giống........... 59
4.3.5. Những kiến thức và kinh nghiệm nhằm thích ứng BĐKH của đồng bào dân
tộc H’mông tại xã Long Hẹ. ...................................................................................... 60
4.3.6 . Phương thức thu hoạch và bảo quản nông sản của dân tộc H’mông. ............ 62
4.4. Những Thuận lợi và khó khăn của đồng bào dân tộc H’mông trong việc vận
dụng các kiến thức bản địa trong thích ứng với BĐKH........................................... 62
4.4.1. Thuận lợi. ........................................................................................................ 62
4.4.2. Khó khăn. ........................................................................................................ 63
4.5. Đề xuất một số mô hình cây trồng thích ứng với BĐKH dựa vào kiến thức bản
địa. ............................................................................................................................. 65
vii
4.5.1. Mô hình trồng cây Táo mèo. ........................................................................... 65
4.5.2. Mô hình trồng cây Sa nhân. ............................................................................ 71
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................ 75
5.1. Kết luận. ............................................................................................................. 75
5.1.1. Thực trạng BĐKH gây ảnh hưởng tới cây trồng vật nuôi tại xã Long Hẹ. .... 75
5.1.2. Các KTBĐ của đồng bào dân tộc H’mông sản xuất nông nghiệp trong thích
ứng BĐKH. ............................................................................................................... 76
5.1.3. Thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng kiến thức bản địa của đồng bào dân
tộc H’mông trên địa bàn xã Long Hẹ. ....................................................................... 77
5.1.4. Đề xuất nhân rộng mô hình. ............................................................................ 79
5.2. Kiến nghị. ........................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 81
I. Tài liệu tiếng việt .................................................................................................. 81
II. Tài liệu Internet ................................................................................................... 82
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 83
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là vấn đề đang được toàn nhân loại quan tâm,
BĐKH đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống kinh tế xã hội và môi trường của
nhân loại. Trong những năm qua nhiều nơi trên thế giới đã phải chịu nhiều thiên tai
nguy hiểm như sóng thần, bão tố, nắng nóng kéo dài, nhiệt độ tăng lên, lũ lụt, hạn
hán,…gây thiệt hại về tính mạng con người và trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Chính những điều này đã ảnh hưởng đến điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
và chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước chịu ảnh hưởng của BĐKH
nhất trên thế giới, với các hiện tượng thời tiết khí hậu cực đoan như nhiệt độ tăng,
nước biển dâng, triều cường, xâm nhập mặn xảy ra nhiều hơn; hạn hán, lũ lụt và
thay đổi lượng mưa, trong đó hiện tượng xâm nhập mặn là vấn đề tác động trực tiếp
vào đời sống người dân vùng ven biển, đặc biệt là nông dân trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp.
Nước ta với 2/3 dân số phụ thuộc vào hoạt động sản xuất nông nghiệp thì sự
thay đổi và biến đổi này là điều khó khăn cho ngành nông nghiệp của chúng ta; đây
là ngành chịu tác động trực tiếp của khí hậu và bị tổn thương nhất do BĐKH. Nhận
thức rõ ảnh hưởng của BĐKH, Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ban hành Quyết định
số 270/QĐ-BNN-KHCN, ngày 05/9/2008 về Chương trình hành động thích ứng với
BĐKH cho ngành nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2008 – 2020, nhằm nâng cao
khả năng giảm thiểu và thích ứng với BĐKH, đảm bảo phát triển nông nghiệp ổn
định, bền vững lâu dài.
Miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng có đặc điểm khí hậu
nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới khu vực gió mùa Đông Nam Á, ở đây khí
hậu theo mùa rõ rệt, mùa mưa nóng ẩm từ tháng 5 đến tháng 11 chiếm 70 - 80%
lượng nước trong năm, mùa khô từ tháng 11 đến 4 năm sau, lượng mưa chỉ chiếm
20 - 25% lượng mưa trong năm, khí hậu lạnh về mùa đông, nóng ẩm về mùa hạ.
Trong đó, xã Long Hẹ là xã vùng 3 đặc biệt khó khăn của huyện Thuận Châu tỉnh
Sơn La, xã cách trung tâm huyện hớn 48km; có tổng diện tích đất tự nhiên 11.558
2
ha trong đó đất Nông nghiệp là 9.457 ha (gồm đất sản xuất nông nghiệp: 3.172 ha,
đất lâm nghiệp: 6.278 ha); đất phi nông nghiệp 225,62 ha trong đó riêng đất ở 103
ha; đất chưa sử dụng 1.875.5 ha. Nông nghiệp là nền kinh tế chủ yếu của xã. Xã
Long Hẹ có địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi suối, núi nền đường giao thông đi lại
còn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các thôn bản vùng cao.Trong những năm qua trên
địa bàn xuất hiện các hiện tượng thời tiết cực đoan kéo dài như sương muối, rét
đậm, nắng nóng kéo dài thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp; lũ quét, sạt lở đất thất
thường,... làm cho nền nông nghiệp của xã đang bị đe dọa. Tình hình dịch bệnh trên
cây trồng ngày một gia tăng, nông dân bị mất mùa thường xuyên phải thay đổi
giống cây trồng mới, năng suất, chất lượng, nông sản giảm mạnh, ảnh hưởng tới
sinh kế nông dân và nhất là người dân ở các bản vùng cao. Với những gì đang xảy
ra và còn tiếp tục sẽ đến trong những năm tiếp theo. Ngành nông nghiệp của huyện
đã chỉ đạo và xây dựng nhiều dự án, đề tài nghiên cứu về BĐKH nhưng chủ yếu thử
nghiệm chọn tạo giống cây trồng thích ứng, đưa một số giống mới có khả năng
chống chịu với BĐKH. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nhiều kết quả nghiên cứu,
đánh giá các hoạt động thích ứng với BĐKH của hộ nông dân, đặc biệt là các hộ
người dân tộc H'mông trong sản xuất nông nghiệp. Để tìm hiểu các biện pháp thích
ứng của bà con dân tộc H’mông áp dụng các kiến thức bản địa để ứng phó với biến
đổi khí hậu và tìm hiểu các cơ quan có liên quan hướng dẫn nông dân thực hiện các
biện pháp, hoạt động để thích ứng với các hiện tượng thời tiết biến động phức tạp,
tôi lựa chọn đề tài “Tìm hiểu việc sử dụng kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc
H’mông trong sản xuất nông nghiệp tại xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu, tỉnh
Sơn La nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu các kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc H’mông tại
xã Long Hẹ trong sản xuất nông nghiệp nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, đưa ra
định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng các
kiến thức bản địa giúp bà con dân tộc H’mông có thêm kiến thức để ứng phó với
biến đổi khí hậu hiện nay và trong tương lai.
3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu được những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và tình hình sản
xuất nông nghiệp tại xã Long Hẹ.
- Tìm hiểu được việc sử dụng các kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc
h’mông trong sản xuất nông nghiệp để ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Đánh giá được những thuận lợi khó khăn của đồng bào dân tộc H’mông
trong việc vận dụng KTBĐ và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp
dụng hoạt động thích ứng với hiện tượng biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan.
- Đưa ra và đề xuất được mô hình thích ứng BĐKH sử dụng kiến thức bản
địa của đồng bào dân tộc H’mông trong sản xuất nông nghiệp.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài bổ sung thông tin về tác động của BĐKH và tìm hiểu các kiến thức
bản địa của đồng bào dân tộc H’mông trong sản xuất nông nghiệp để thích ứng với
biến đổi khí hậu.
Xác định, bổ sung một số hoạt động thích ứng với BĐKH và các kiến thức
bản địa của đồng bào dân tộc H’mông trong sản xuất nông nghiệp để thích ứng với
BĐKH.
Cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và cơ quan
quản lý tài nguyên thiên nhiên trong giảm thiểu rủi ro và thích ứng với biến
đổi khí hậu.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua đề tài xác định được các hoạt động thích ứng với BĐKH và các kiến
thức bản địa của đồng bào dân tộc H’mông trong sản xuất nông nghiệp để ứng phó
với BĐKH, từ đó làm cơ sở để đánh giá, lựa chọn các phương pháp, biện pháp thích
hợp nhất để giảm thiểu tác động của BĐKH tới đời sống và sản xuất nông nghiệp
của đồng bào dân tộc H’mông tại xã Long Hẹ huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở giúp cho người dân trong sản xuất
nông nghiệp tại xã Long Hẹ nhận thức được tầm quan trọng của các hoạt động thích
ứng với BĐKH các kiến thức bản địa của người dân trong ứng phó với BĐKH, để
4
nâng cao đời sống và sản xuất của người dân vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn cả
nước.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để nhân rộng, ứng dụng các hoạt động
thích ứng với BĐKH và các kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc H'mông trong
ứng phó với BĐKH.
Vận dụng kiến thức bản địa cũng như thực tiễn của người dân trong
cuộc sống và sản xuất để thích ứng với biến đổi khí hậu.
Xây dựng được kế hoạch phòng tránh thiên tai, có hệ thống thông tin
liên lạc và xây dựng được lực lượng nòng cốt có chuyên môn, nghiệp vụ về
giảm nhẹ thiên tai, lực lượng tình nguyện viên để hướng dẫn và hỗ trợ nhân
dân trong công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
5
PHẦN 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Các khái niệm liên quan
Biến đổi khí hậu là những ảnh hưởng có hại của khí hậu, là những biến đổi
trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến
thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của hệ sinh thái tự nhiên hoặc đến hoạt
động hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người (Theo
Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH).[13]
Nghiên cứu của ISDC (2008), đưa ra khái niệm về BĐKH: là sự biến động
giữa năm này và năm khác được ghi nhận qua các số liệu thống kê của các điều kiện
bất thường như: Bão, lụt, hạn hán bất thường. Quan điểm ở đây về BĐKH chính là
sự ghi nhận lại những hiện tượng bất thường theo thời gian. Mốc đánh dấu thời gian
BĐKH từ 30 năm trở lên.[13]
Theo Rex và đồng tác giả (2007), BĐKH ở Việt Nam đó là gia tăng nhiệt độ
và ngày càng nóng hơn vào mùa hè và nhiệt độ cực thấp, kéo dài vào mùa đông,
cũng như tần suất, cường độ của lụt, hạn, bão, rét hại và mưa thất thường xảy ra
trong năm. BĐKH là những thay đổi của các yếu tố khí hậu hoặc các hiện tượng khí
hậu cực đoan không theo một xu thế nhất định (khoảng thời gian xem xét ngắn hơn
BĐKH). BĐKH với các biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển
dâng là do các hoạt động kinh tế - xã hội của con người gây phát thải quá mức gây
hiệu ứng nhà kính.[6]
Định nghĩa chung nhất cho sự biến đổi khí hậu. BĐKH là sự thay đổi các đặc
điểm mang tính thống kê của hệ thống khí hậu khi xét đến những chu kỳ dài hoặc
hàng thập kỷ hoặc lâu hơn, mà không kể đến các nguyên nhân theo đó, những thay
đổi bất thường trên những chu kỳ ngắn hơn một vài thập kỷ, như El Nino, không thể
hiện sự thay đổi khí hậu. Thuật ngữ này đôi khi được sử dụng để nhắc đến những
trường hợp đặc biệt của biến đổi khí hậu do tác động của hoạt động con người; ví
dụ, trong công ước khung của Liên hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (United Nations
Framework Convention on Climate Change) định nghĩa biến đổi khí hậu là "là sự
6
thay đổi của khí hậu mà hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp do tác động của hoạt động con
người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu và ngoài ra là những biến
thiên tự nhiên của khí hậu được quan sát trên một chu kỳ thời gian dài". Trong định
nghĩa cuối thay đổi khí hậu đồng nghĩa với ấm lên toàn cầu.[7]
2.1.2. Những nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu
2.1.2.1. Nguyên nhân do tự nhiên
Những nhân tố có thể làm cho sự biến đổi khí hậu xuất hiện là thay đổi bức xạ
khí quyển, bao gồm các quá trình như biến đổi bức xạ mặt trời, độ lệch quỹ đạo của
Trái Đất, quá trình kiến tạo núi, kiến tạo trôi dạt lục địa và sự thay đổi nồng độ khí
nhà kính. Nhiều phản ứng khác nhau của môi trường về biến đổi khí hậu có thể tăng
cường hoặc giảm bớt các biến đổi ban đầu. Một số thành phần của hệ thống khí hậu,
chẳng hạn như các đại dương và chỏm bằng, phản ứng chậm với biến đổi bức xạ
mặt trời vì khối lượng lớn. Do đó, hệ thống khí hậu có thể mất hàng thế kỷ hoặc lâu
hơn để phản ứng hoàn toàn với những biến đổi từ bên ngoài.[13]
Bao gồm thay đổi cường độ sáng của Mặt trời, xuất hiện các điểm đen Mặt
trời (Sunspots), các hoạt động núi lửa, thay đổi đại dương, thay đổi quỹ đạo quay
của trái đất.bao gồm các biến đổi trong cường độ ánh sáng mặt trời.[3]
Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng lượng
chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ thể là từ khi
tạo thành Mặt trời đến nay gần 4,5 tỷ năm cường độ sáng của Mặt trời đã tăng lên
hơn 30%. Như vậy có thể thấy khoảng thời gian khá dài như vậy thì sự thay đổi
cường độ sáng mặt trời là không ảnh hưởng đáng kể đến BĐKH.[5]
Núi lửa phun trào - Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí
quyển một lượng cực kỳ lớn khối lượng sulfur dioxide (SO2), hơi nước, bụi và tro
vào bầu khí quyển. Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến khí hậu trong
nhiều năm. Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí được phun ra bởi núi lửa, các sol khí
phản chiếu lại bức xạ (năng lượng) mặt trời trở lại vào không gian vì vậy chúng có
tác dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt trái đất.
Đại dương ngày nay - Các đại dương là một thành phần chính của hệ thống
khí hậu. Dòng hải lưu di chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành tinh. Thay đổi
trong lưu thông đại dương có thể ảnh hưởng đến khí hậu thông qua sự chuyển động
7
của CO2 vào trong khí quyển. Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất - Trái đất quay
quanh Mặt trời với một quỹ đạo. Trục quay có góc nghiêng 23,5°. Thay đổi độ
nghiêng của quỹ đạo quay trái đất có thể dẫn đến những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay
đổi cực kỳ nhỏ có thể tính đến thời gian hàng tỷ năm, vì vậy có thể nói không ảnh
hưởng lớn đến BĐKH.[7]
2.1.2.2. Nguyên nhân do con người gây ra
Trái đất chịu sự tác động mạnh mẽ của con người hàng nghìn năm qua,các
hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên của con người với số lượng không ngừng
tăng lên, nhất là từ thế kỷ 18 thời kỳ nhảy vọt về công nghiệp, khoa học kĩ thuật.
Cho tới ngày nay các nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt, không những thế nó còn
mang lại những hậu quả hết sức nặng nề khi con người chỉ biết khai thác mà không
biết bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên.[1]
Theo các kết quả nghiên cứu và công bố từ Ủy Ban Liên Chính Phủ về
BĐKH thì nguyên nhân gây ra BĐKH chủ yếu là do các hoạt động của con người.
Trong hoàn cảnh biến đổi khí hậu, các yếu tố nhân sinh cũng ảnh hưởng đến khí
hậu. Quan điểm khoa học về biến đổi khí hậu được nhiều người đồng ý là “khí hậu
đang thay đổi và những thay đổi này một phần lớn do tác động của con người”. Do
đó, các cuộc thảo luận đang hướng vào 2 cách, một là giảm tác động của con người
và tìm cách thích nghi với sự biến đổi đã từng xảy ra trong quá khứ và được dự kiến
xảy ra trong tương lai.[13]
Vấn đề được quan tâm nhất trong yếu tố nhân sinh là việc tăng thêm lượng
khí CO2 do đốt nhiên liệu hóa thạch, tạo thành các sol khí tồn tại trong khí quyển và
sản xuất xi măng. Các yếu tố khác như sử dụng đất, sự suy giảm ôzôn và phá rừng,
cũng góp phần quan trọng làm ảnh hưởng đến khí hậu, vi khí hậu.
Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng
ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than,
dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu
ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất. Những số liệu về
hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các lõi băng được khoan ở
Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và tan băng (khoảng
18.000 năm trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển chỉ khoảng 180 - 200 ppm
8
(phần triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp (280
ppm). Từ khoảng năm 1.800, hàm lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con số
300ppm và đạt 379 ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với thời kỳ
tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm
qua.[6]
Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí metan (CH4), oxit nitơ (N2O)
cũng tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỉ) và 270 ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên
1774 ppb (151%) và 319 ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất khí
chlorofluorocarbon vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn gấp
nhiều lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ozon bình lưu, chỉ mới có trong khí
quyển do con người sản xuất ra kể từ khi công nghiệp làm lạnh, hóa mỹ phẩm phát
triển.Đánh giá khoa học của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) cho thấy, việc
tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng
lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng,… đóng góp khoảng một nửa
(46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất
nông nghiệp khoảng 9% các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%,
còn lại (3%) là từ các hoạt động khác.[13]
2.1.3. Thích ứng với biến đổi khí hậu
2.1.3.1. Khái niệm thích ứng với biến đổi khí hậu
Thích ứng là một khái niệm rất rộng và khi áp dụng vào lĩnh vực BĐKH nó
được dùng trong rất nhiều trường hợp. Sự thích ứng với khí hậu là một quá trình
qua đó con người làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khoẻ, đời
sống và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại.[6]
Khả năng thích ứng đề cập đến mức độ điều chỉnh có thể trong hành động,
xử lý, cấu trúc của hệ thống đối với những biến đổi dự kiến có thể xảy ra hay thực
sự đã và đang xảy ra của khí hậu. Sự thích ứng có thể là tự phát hay được chuẩn bị
trước và có thể được thực hiện để đối phó với những biến đổi trong nhiều điều kiện
khác nhau.[7]
Sự thích ứng còn có nghĩa là tất cả những phản ứng đối với BĐKH nhằm làm
giảm tính dễ bị tổn thương. Sự thích ứng cũng còn có nghĩa là các hành động tận
dụng những cơ hội thuận lợi mới nảy sinh do BĐKH. Trong việc đánh giá những
9
tác động của BĐKH, nhất thiết phải kể đến sự thích ứng. Cây cối, động vật và con
người không thể tiếp tục tồn tại một cách đơn giản như trước khi có BĐKH nhưng
hoàn toàn có thể thay đổi các hành vi của mình. Cây cối, động vật và các hệ sinh
thái có thể di cư sang một khu vực mới. Con người cũng có thể thay đổi hành vi để
đối phó với những điều kiện khí hậu khác nhau, nếu như cần thiết thì cũng có thể di
cư. Để giải thích đầy đủ về tính dễ bị tổn thương do BĐKH, sự đánh giá tác động
cần phải tính đến quá trình tất yếu sẽ xảy ra: sự thích ứng của các đối tượng tác
động. Không có đánh giá về những quá trình thích ứng, nghiên cứu tác động sẽ
không thể đánh giá chính xác và đầy đủ những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH. Một
lý do nữa cho đánh giá thích ứng là giúp cho những nhà lập chính sách biết có thể
làm gì để giảm thiểu các rủi ro của BĐKH.[6]
2.1.3.2. Thích ứng với biến đổi khí hậu dựa trên cộng đồng
BĐKH là một trong những thách thức mà người nghèo phải đối mặt. Để có
thể giảm nhẹ tình trạng dễ bị tổn thương một cách hiệu quả, việc thích ứng với biến
đổi khí hậu phải là một phần trong công tác ứng phó tổng thể với biến đổi khí hậu
và có mục đích xây dựng khả năng chống đỡ và phục hồi để cộng đồng đứng vững
trước một loạt những cú sốc và căng thẳng mà họ phải đối mặt. Những biện pháp
truyền thống đối phó với BĐKH như xây dựng hệ thống đê, mương, các công trình
điều tiết và phân lũ, dự báo thời tiết,… đang được khai thác tích cực. Tuy nhiên,
những chiến lược thích ứng với BĐKH hiện nay sẽ thay đổi khái niệm thích ứng
chuyển từ bị động đối phó thành chủ động phòng ngừa, đưa những ảnh hưởng tiềm
ẩn của BĐKH như là một chỉ dẫn quan trọng cho việc hoạch định chính sách, khác
với kiểu thích ứng “trong và chờ” truyền thống. Thích ứng dựa vào cộng đồng đòi
hỏi cách tiếp cận tổng hợp, kết hợp giữa kiến thức bản địa với các chiến lược tiên
tiến nhằm giải quyết tình trạng dễ bị tổn thương trong khi vẫn tăng cường năng lực
thích ứng để đối mặt với những thách thức và biến động mới. Thích ứng dựa vào
cộng đồng liên quan đến 4 chiến lược.
- Thúc đẩy các chiến lược sinh kế có khả năng chống đỡ và phục hồi, cùng
lúc kết hợp với đa dạng hóa nguồn thu nhập và nâng cao năng lực lập kế hoạch và
quản lý rủi ro.
10
- Các chiến lược giảm nhẹ rủi ro do thiên tai để giảm tác động của hiểm họa,
đặc biệt là lên những hộ gia đình và cá nhân dễ bị tổn thương.
- Nâng cao năng lực cho xã hội dân sự tại địa phương và các cơ quan chính
phủ để họ có thể hỗ trợ tốt hơn các cộng đồng, hộ gia đình và cá nhân trong nỗ lực
ứng phó với biến đổi khí hậu của nhóm các đối tượng này.
- Vận động chính sách và huy động xã hội để giải quyết những nguyên nhân
gốc rễ của tình trạng dễ bị tổn thương, chẳng hạn như quản trị kém, thiếu sự kiểm
soát đối với các nguồn lực, hoặc tiếp cận hạn chế tới các dịch vụ cơ bản.[5]
2.1.3.3. Các nhóm phương pháp thích ứng với biến đổi khí hậu
Có rất nhiều phương pháp thích ứng có khả năng được thực hiện trong việc
đối phó với BĐKH. Bản báo cáo đánh giá thứ 2 của Ban liên chính phủ (IPCC) đã
đề cập, miêu tả 228 phương pháp thích ứng khác nhau (IPCC, 1995). Cách phân
loại phổ biến là chia các phương pháp thích ứng ra làm 8 nhóm.
+ Chấp nhận tổn thất: Tất cả các phương pháp thích ứng khác có thể được so
sánh với cách phản ứng cơ bản: “không làm gì cả”, ngoại trừ chịu đựng hay chấp
nhận tổn thất. Trên lý thuyết chấp nhận tổn thất xảy ra khi bên chịu tác động không
có khả năng chống chọi lại bằng bất kỳ cách nào (hay ở cộng đồng rất nghèo khó)
hay ở nơi mà giá phải trả cho các hoạt động thích ứng là cao so với sự rủi ro hay
thiệt hại có thể.
+ Chia sẻ tổn thất: Loại phản ứng này liên quan đến việc chia sẻ những tổn
thất giữa một cộng đồng dân cư lớn. Cách thích ứng này thường xảy ra trong một
cộng đồng truyền thống và trong xã hội công nghệ cao, phức tạp. Trong xã hội
truyền thống, nhiều cơ chế tồn tại để chia sẻ những tổn thất giữa cộng đồng mở
rộng, như giữa các hộ gia đình, họ hàng, làng mạc hay các cộng đồng nhỏ tương tự.
Các cộng đồng lớn phát triển cao chia sẻ những tổn thất thông qua cứu trợ của cộng
đồng, phục hồi và tái thiết các quỹ công cộng. Chia sẻ tổn thất cũng có thể được
thực hiện thông qua bảo hiểm cá nhân.
+ Làm thay đổi nguy cơ: Ở một mức độ nào đó người ta có thể kiểm soát
được những mối nguy hiểm từ môi trường. Đối với một số hiện tượng “tự nhiên”
như là lũ lụt hay hạn hán, những biện pháp thích hợp là công tác kiểm soát lũ lụt
(đắp đập, đào mương, đắp đê). Đối với BĐKH, có thể điều chỉnh thích hợp làm
11
chậm tốc độ BĐKH bằng cách làm giảm phát thải khí nhà kính và cuối cùng là ổn
định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển. Theo hệ thống của UNFCCC, những
phương pháp được đề cập đó được coi là sự giảm nhẹ BĐKH và là phạm trù khác
với các biện pháp thích ứng.
+ Ngăn ngừa các tác động: Là hệ thống các phương pháp thường dùng để
thích ứng từng bước và ngăn chặn các tác động của biến đổi và bất ổn về khí hậu.
+ Thay đổi cách sử dụng: Khi những rủi ro của BĐKH cho là sự tiếp tục các
hoạt động kinh tế là không thể được hoặc rất mạo hiểm, người ta có thể thay đổi
cách sử dụng. Ví dụ một người nông dân có thể chọn việc thay thế bằng những cây
trồng khác phù hợp với thời tiết khí hậu khác. Tương tự, đất trồng trọt có thể trở
thành đồng cỏ hay rừng, hoặc có những cách sử dụng khác như làm khu giải trí, làm
nơi trú ẩn của động vật hoang dã hay công viên quốc gia.
+ Thay đổi hoặc chuyển địa điểm: Một sự đối phó mạnh mẽ hơn là thay
đổi/chuyển địa điểm của các hoạt động kinh tế. Ví dụ việc chuyển các cây trồng chủ
chốt và canh tác ra khỏi khu vực ngập úng, sạt lở đến khu vực khác thuận lợi hơn và
có thể thích hợp hơn cho cây trồng.
+ Nghiên cứu: Quá trình thích ứng có thể phát triển bằng cách nghiên cứu
lĩnh vực công nghệ mới và phương pháp mới về thích ứng.
+ Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: Một kiểu hoạt động
thích ứng khác là sự phổ biến kiến thức thông qua các chiến dịch thông tin công
cộng và giáo dục dẫn đến việc thay đổi hành vi. Những hoạt động đó trước đây ít
được để ý đến và ít được ưu tiên, nhưng nay tầm quan trọng của chúng tăng lên do
cần có sự hợp tác của nhiều cộng đồng, lĩnh vực, khu vực trong việc thích ứng với
BĐKH.
Như vậy, sự thích ứng diễn ra ở trong tự nhiên và hệ thống kinh tế xã hội của
con người. Thích ứng với BĐKH điều quan trọng chính là sự phù hợp với điều kiện tự nhiên và khả năng kinh tế, phong tục tập quán của con người ở mỗi vùng miền khác nhau. Trong đề tài này, sẽ nghiên cứu sâu vào các biện pháp ngăn ngừa tác
động và thay đổi phương pháp canh tác của nông hộ tại vùng nghiên cứu như thế nào nhằm thích ứng với BĐKH và việc sử dụng các kiến thức bản địa của đồng bào
dân tộc thiểu số trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu nơi đây.[6]
12
2.1.3.4. Bài học và thách thức trong thích ứng dựa vào cộng đồng
Mặc dù, thích ứng dựa vào cộng đồng mới được phát triển gần đây nhưng đã xuất hiện những thách thức nhất định và một số bài học đã được đúc kết, bên cạnh
những vấn đề liên quan tới tính sẵn có và mức độ tin cậy của nguồn thông tin và dữ
liệu về BĐKH, chất lượng quá trình tham vấn trong thích ứng dựa vào cộng đồng,
nhân rộng mô hình, kiểm tra và đánh giá. Có thể kể tới các vấn đề chính sau:[2]
Bảng 2.1: Các hình thức tham gia của cộng đồng địa phương.
Hình thức Đặc điểm
Người tham gia được thông báo về những gì đã, đang và
sẽ xảy ra. Những thông tin này được cung cấp bởi chính
Tham gia bị động
quyền địa phương hay từ những dự án. Tuy nhiên, không có sự lắng nghe những ý kiến phản hồi từ cộng đồng. Những thông tin được đem ra chia sẻ thuộc về những
chuyên gia bên ngoài
Người dân tham gia bằng cách trả lời các câu hỏi được
Tham gia bằng đưa ra bởi các nghiên cứu viên thực địa bằng phương
cách cung cấp pháp bảng hỏi hay các phương pháp tương tự. Người dân
thông tin địa phương không có cơ hội tham gia vào quá trình tìm ra
kết quả, cũng như kiểm chứng tính chính xác
Người tham gia cùng thảo luận và các nhà khoa học/điều
tra nghe những quan điểm này. Những nhà khoa học này
sẽ xác định các vấn đề và giải pháp, có thể có sự điều Tham gia thông chỉnh nhỏ từ những phản hồi của người dân. Tuy nhiên, qua thảo luận quá trình tham vấn cộng đồng này lại không bao gồm quá
trình ra quyết định, và những nhà khoa học này không bắt
buộc phải xem xét tới quan điểm của cộng đồng
Mọi người tham gia bằng các cung cấp nguồn lực (như nhân lực) để đổi lại với thức ăn, tiền mặt hay các giá trị
Tham gia với những động cơ về mặt vật chất
vật chất tương tự. Nhiều nghiên cứu triển khai trên đồng ruộng rơi vào trường hợp này khi người dân nhường đất canh tác cho các nhà khoa học, nhưng họ lại không tham gia vào quá trình triển khai thử nghiệm hay học hỏi. Do đó, có thể thấy là, mọi người cũng sẽ kết thúc việc tham
gia nếu các động cơ vật chất không còn
Tham gia ở chức Người dân tham gia bằng cách lập những nhóm phù hợp
13
năng nhất định với những yêu cầu đặt ra trước đó của dự án. Sự tham gia
này không phải ngay từ giai đoạn đầu quá trình lập kế hoạch của dự án mà thường sau khi những quyết định
quan trọng đã được thông qua. Phương thức này có tính
phụ thuộc nhiều vào những đối tượng bên ngoài hơn là
chính cộng đồng
Sự tham gia của cộng đồng ngay từ đầu quá trình xây
dựng dự án ở địa phương. Do đó họ có thể có những
quyết định liên quan tới các kế hoạch hành động,và thiết
lập một tổ chức chính quyền địa phương mới – hay tăng
cường năng lực cho chính quyền hiện tại. Nó có xu Tham gia có tính hướng liên quan tới phương pháp nghiên cứu mang tính tương tác
liên ngành – tức là xem xét tới nhiều quan điểm khác nhau, áp dụng quá trình nghiên cứu tổng hợp và có cấu
trúc. Nhóm tham gia này đại diện cho quyết định của
cộng đồng, do đó đảm bảo cộng đồng có tác động trong
việc duy trì cơ cấu tổ chức hay thực hiện chính sách
(Nguồn: Pretty 1995)[7]
2.1.3.5. Những thích ứng trong sản xuất Nông nghiệp
- Thích nghi trong chọn giống: việc có được giống tốt thích nghi với điều
kiện của vùng là yếu tố quan trọng, quyết định đến năng suất, chất lượng cũng như
khả năng chống chịu với những thay đổi của các tác nhân từ bên ngoài. Vì vậy trong
bối cảnh diễn biến của BĐKH, thích nghi trên phương diện chọn giống tốt là điều
kiện đảm bảo năng suất và chất lượng của nông sản.[6]
Như vậy, để thích nghi với BĐKH trong hoạt động sản xuất nông nghiệp chúng
ta cần lựa chọn những giống có khả năng thích nghi trước tác động của BĐKH. Đặc
biệt là những giống có nguồn gốc bản địa, đã trải qua một thời gian dài chuyển đổi
để thích nghi trong những điều kiện sản xuất khó khăn. Mặt khác trong quá trình
nghiên cứu thích nghi với BĐKH trong lĩnh vực giống cây trồng và vật nuôi cần
phải nghiên cứu từng loại giống thích nghi trong mỗi vùng và điều kiện cụ thể.
- Thích nghi phương thức sản xuất: bao gồm thay đổi cơ cấu cây trồng trên
một đơn vị diện tích hay liên kết các loại cây trồng và vật nuôi trong một hệ thống
sản xuất. Việc thay thế phương thức sản xuất độc canh bằng các phương thức kết
14
hợp nhiều cây, con. Thay đổi phương thức sản xuất quá chú trọng vào đầu tư phân
bón và kỹ thuật công nghệ cao bằng các kiến thức bản địa thích hợp trong điều kiện
BĐKH, đặc biệt là đối với nông dân có điều kiện kinh tế thấp.[7]
Để thích nghi với các BĐKH các vùng khác nhau, phải có cách bảo tồn trong
nông nghiệp, chất hữu cơ trong đất và đối phó với các rủi ro trong sản xuất. Vì vậy
việc luân canh cây trồng, mô hình nông lâm kết hợp, hệ thống cây trồng bậc thang
và các hệ thống canh tác kết hợp khai thác đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều vùng
được xem là thích nghi trong phương thức sản xuất.
- Thời vụ sản xuất của hệ thống cây trồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố thời tiết
khí hậu vì vậy hệ thống thông tin dự báo các điều kiện thời tiết và khí hậu liên quan
đến BĐKH là cần thiết để xác định thời vụ thích hợp cho mỗi loại cây trồng. Vì vậy
cách tiếp cận kết hợp giữa khoa học khí tượng/khí hậu và khoa học cây trồng/vật
nuôi xuất hiện là cách duy nhất để thích nghi với BĐKH trong tương lai.
Nông dân ở khu vực Đông Nam Á đã trải qua thời gian dài để điều chỉnh
trong thực hành quản lý sản xuất và trong đó thay đổi, luồng lách thời vụ sản xuất
được xem như một hình thức trong thích nghi với BĐKH . Thông qua hệ thống
cảnh báo về những BĐKH trong tương lai, người dân đã điều chỉnh mùa vụ sản
xuất phù hợp với những thay đổi đó. Xác định thời gian thực hiện các hoạt động
canh tác tốt trong điều kiện khí hậu mới.Thay đổi thời gian cho mùa vụ gieo trồng
là xác định được thời điểm để thu hoạch sản phẩm nông nghiệp ngoài đồng để tránh
lũ lụt, hạn hán xảy ra. Mặt khác, thay đổi thời gian cho mùa vụ sản xuất liên hệ đến
thay đổi nhiệt độ và lượng mưa của mùa vụ trước và các dự báo của mùa vụ sau.
Nhiều nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy hình thức thích nghi này bao gồm xác
định lịch thời vụ sản xuất của cây trồng và vật nuôi như thời điểm bón phân hóa
học, phân bổ hệ thống thủy lợi, thu hoạch, che phủ cho cây, gieo trồng và làm
đất,… Bố trí mùa vụ thích hợp trong việc thực hành các hoạt động sản xuất của mùa
vụ tăng trưởng của cây trồng và vật nuôi làm tăng thêm tiềm năng tối đa năng suất
cây trồng vật nuôi trong điều kiện thiết hụt về ẩm độ và căng thẳng về nhiệt.[1]
- Kỹ thuật canh tác: Chấp nhận đổi mới kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp
là một trong những chủ trương trong chiến lược thích ứng với BĐKH đề cập đến
nhiều nhất. Thích nghi trong lĩnh vực này tập trung vào những đặc điểm của hệ
15
thống sản xuất; đặc tính của người sản xuất để xác định được mức độ ảnh hưởng
của các quyết định của họ để đưa ra các lựa chọn thích nghi.
Thích nghi trong lĩnh vực kỹ thuật canh tác rất phong phú và đa dạng tùy
thuộc vào loại BĐKH, điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên của vùng cũng như nhận
thức của người dân, điều này được thể hiện rõ thông qua kiến thức bản địa. Kiến
thức bản địa là cái cơ bản nhất để đưa ra các quy định ở cấp độ địa phương trong
nhiều cộng đồng nông thôn. Nó không chỉ có giá trị văn hóa mà còn là cơ sở cho
các nhà khoa học và các nhà lập kế hoạch để cải thiện các điều kiện ở cộng đồng
nông thôn. Kết hợp chặt chẽ giữa kiến thức bản địa trong các chính sách cho BĐKH
có thể dẫn đến phát triển hiệu quả, sự tham gia của cộng đồng và đạt được tính bền
vững.[6]
2.1.4. Khái niệm kiến thức bản địa và sử dụng kiến thức bản địa trong thích ứng
với biến đổi khí hậu
2.1.4.1. Khái niệm
Kiến thức bản địa (KTBĐ) là hệ thống tri thức mà người dân ở một cộng
đồng tích lũy và phát triển dựa trên kinh nghiệm, đã được kiểm nghiệm qua thực
tiễn và thường xuyên thay đổi để thích nghi với môi trường xã hội.
Kiến thức bản địa (indigenous knowledge), kiến thức địa phương (local
knowledge) hay tri thức truyền thống (traditional knowledge) là hệ thống tri thức
mà người dân ở một cộng đồng tích lũy và phát triển dựa trên kinh nghiệm, đã được
kiểm nghiệm qua thực tiễn và thường xuyên thay đổi để thích nghi với môi trường
văn hóa, xã hội.[14]
Kiến thức bản địa (KTBĐ) là kho tàng kiến thức rộng lớn và vô cùng quý báu
của cộng đồng các dân tộc trên khắp mọi miền đất nước, là một yếu tố cấu thành
bản sắc văn hóa của từng dân tộc nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. Trong
sản xuất nông - lâm nghiệp và quản lý nguồn tài nguyên thiên, KTBĐ đóng vai trò
quan trọng trong việc duy trì và phát triển các kỹ thuật phù hợp với điều kiện cụ thể
về kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục của từng địa phương, vùng miền, nhất là
trong điều kiện biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra rõ rệt như hiện nay.[6]
Khái niệm kiến thức bản địa hay kiến thức địa phương dùng để chỉ những
thành phần kiến thức hoàn thiện được duy trì, phát triển trong một thời gian dài với
16
sự tương tác qua lại rất gần gũi giữa con người với môi trường tự nhiên. Tập hợp
những hiểu biết, kiến thức và ý nghĩa này là một phần của tổng hòa văn hoá bao
gồm cả hệ thống ngôn ngữ, cách định danh và phân loại, phương thức sử dụng tài
nguyên, các lễ nghi, giá trị tinh thần và thế giới quan.
Những kiến thức này là cơ sở để đưa ra những quyết định về nhiều phương
diện cơ bản của cuộc sống hàng ngày tại địa phương như săn bắn, hái lượm, đánh
cá, canh tác và chăn nuôi, sản xuất lương thực, nước, sức khoẻ và sự thích nghi với
những thay đổi của môi trường và xã hội. Hơn nữa, trái với kiến thức chính thống,
những kiến thức không chính thống được truyền miệng từ đời này sang đời khác và
rất hiếm khi được ghi chép lại.[6]
2.1.4.2. Đặc điểm của kiến thức bản địa
KTBĐ có đặc tính phân cấp độ thuộc lứa tuổi, giới tính và đặc điểm của nhóm
xã hội. Có những kiến thức chung, được tất cả mọi người trong cộng đồng hiểu biết;
có những kiến thức bản địa tồn tại theo gia đình, dòng họ chỉ phạm vi một số người
hiểu biết; lại có những kiến chuyên nghiệp – chuyên biệt, chỉ có ở một số người
mang tính đặc thù.[15]
Dựa trên kinh nghiệm: Được hình thành trong quá trình nghiệm sinh (trải
nghiệm và đúc kết thành tri thức).
Thường xuyên được kiểm nghiệm qua hàng thế kỷ sử dụng: Luôn có sự chọn
lọc trong quá trình vận động của cuộc sống.
Thích nghi với đặc điểm văn hoá và môi trường: Phù hợp với môi trường tự nhiên
và xã hội của các cộng đồng người. Phản ánh một đặc tính phổ biến của văn hoá là
đồng quy (các cộng đồng người sinh sống trong các điều kiện tự nhiên giống nhau,
sẽ có các đặc điểm văn hóa tương đồng).
Năng động và luôn thay đổi: Không phải là một cấu trúc nhất thành bất biến,
luôn có sự tích hợp sau quá trình phát triển tự thân hoặc tiếp biến văn hoá.[15]
2.1.4.3. Giá trị và vai trò của kiến thức bản địa trong thích ứng với BĐKH dựa vào
cộng đồng
Sự đa dạng về hệ thống cây trồng, vật nuôi trong hệ thống góp phần cải thiện
và duy trì các dịch vụ hệ sinh thái, tăng cường khả năng thích ứng với BĐKH, giảm
tính dễ bị tổn thương tại cộng đồng.[15]
17
Sử dụng các giống cây trồng, vật nuôi bản địa có khả năng thích ứng cao với
điều kiện tự nhiên tại địa phương do các giống bản địa đã được chọn lọc và kiểm
nghiệm qua thời gian và được cộng đồng chấp nhận. Các giống cây trồng/vật nuôi
bản địa thường có khả năng chống chịu tốt, ít bị dịch bệnh hơn so với các giống mới
và không yêu cầu đầu tư thâm canh cao phù hợp với nhiều người kể cả người
nghèo.[7]
KTBĐ là nền tảng cơ bản cho sự tự cung tự cấp và tự quyết của người dân
giúp cho người dân chủ động, ít bị phụ thuộc vào bên ngoài giảm tình trạng dễ bị
tổn thương tại cộng đồng do BĐKH gây ra.
Người dân đã quen với các kỹ thuật bản địa nên họ có thể hiểu, vận dụng và
duy trì các kỹ thuật đó tốt hơn so với các kỹ thuật mới đưa vào từ bên ngoài nên
kinh nghiệm và tiếng nói của cộng đồng được phát huy và sử dụng có hiệu quả.
KTBĐ cung cấp thêm các giải pháp, lựa chọn trong quá trình thích ứng với
BĐKH. Nhờ đó, mà người dân địa phương có thêm các lựa chọn khi đưa ra các giải
pháp, mô hình phù hợp với cộng đồng nhằm thích ứng với BĐKH thay vì phụ thuộc
vào các yếu tố từ bên ngoài (giống, kỹ thuật mới) (ADC, Báo cáo nghiên cứu Kiến
thức bản địa thích ứng với Biến đổi khí hậu, 2013.[14]
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Biến đổi khí hậu trên thế giới
Khí hậu của trái đất đang nóng lên, theo tổ chức liên Chính phủ về BĐKH
(IPCC) thì sự nóng lên của khí hậu trái đất không còn đơn thuần là vấn đề môi
trường mà đã trở thành vấn đề của sự phát triển. Sự biến đổi diễn ra trên toàn cầu,
trong các khu vực, bao gồm sự thay đổi trong thành phần hoá học của khí quyển,
biến đổi nhiệt độ bề mặt, nước biển dâng, các hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên
tai tăng lên đáng kể về số lượng và cường độ.[6]
Những thay đổi này dẫn đến những thay đổi trong các hệ thống vật lý, hệ sinh
học và hệ thống kinh tế xã hội trên toàn bộ hành tinh, đang đe dọa sự phát triển, đe
dọa cuộc sống của tất cả các loài và hệ sinh thái. Nhân loại đang nỗ lực để giảm nhẹ
tác động của BĐKH, nhưng để ứng phó với BĐKH thì hoạt động thích ứng với
BĐKH là một giải pháp vô cùng quan trọng.[13]
18
Theo báo cáo đánh giá của IPCC năm 2007, nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng 0,740C trong thời kỳ 1906-2005 và tốc độ tăng nhiệt độ của 50 năm trở lại đây gần
gấp đôi so với 50 năm trước đó. Nhiệt độ ở lục địa cao hơn so với nhiệt độ ở đại dương. Trung bình, nhiệt độ trái đất đã được bổ sung nhiều hơn hoặc ít hơn 0,0740C
trong mỗi thập kỷ. Tuy nhiên, mức độ tăng nhiệt độ phụ thuộc vào các thời kỳ khác
nhau và ở các khu vực địa lý khác nhau. Gần đây xu hướng tăng lên của nhiệt độ trong 50 năm cao hơn gấp đôi tỷ lệ trung bình của 100 năm là 0,130C/thập kỷ. Hai
năm được ghi nhận có nhiệt độ trung bình toàn cầu cao nhất từ trước đến nay là 1998 và 2005. Nhiệt độ trung bình ở Bắc Cực trung bình tăng 0,150C/100 năm, gấp
2 lần so với tăng trung bình trên toàn cầu. Đến năm 2100, nhiệt độ trung bình toàn cầu dự đoán sẽ tăng thêm 1,4-5,80C. [6]
Trong thế kỷ 20, trung bình mực nước biển dâng tại Châu Á là 2,4 mm/năm
và chỉ riêng thập kỷ vừa qua là 3,1mm/năm và dự báo tiếp tục tăng cao hơn trong
thế kỷ 21 ít nhất từ 2,8 - 4,3 mm/năm (IPCC, 2007).Khi nhiệt độ cao hơn, lượng
mưa sẽ thay đổi do sự gia tăng lượng nước bốc hơi. Lượng mưa toàn cầu tăng
khoảng 1% trong vài thập niên qua . Tuy nhiên, xu thế thay đổi lượng mưa khác
nhau theo các khu vực địa lý khác nhau. Hạn hán xuất hiện thường xuyên hơn ở
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới từ năm 1970. Hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới,
đặc biệt là các cơn bão mạnh gia tăng từ những năm 1970 và ngày càng xuất hiện
nhiều hơn các cơn bão có quỹ đạo bất thường. Có sự biến đổi trong chế độ hoàn lưu
quy mô lớn trên cả lục địa và đại dương, dẫn đến sự gia tăng về số lượng và cường
độ hiện tượng El Nino.[7]
BĐKH không chỉ liên quan với sự thay đổi các yếu tố khí hậu trung bình
trong khoảng thời gian dài mà còn thay đổi trong sự hình thành các hiện tượng thời
tiết cực đoan, tần suất và cường độ của chúng. Tần suất của các trận mưa lớn đã
tăng 2 - 4% ở vùng vĩ độ trung bình đến vĩ độ cao của Bắc Bán cầu. Cùng với sự gia
tăng tần suất của nhiệt độ cao là tần suất của nhiệt độ thấp giảm đáng kể. Điều đáng
chú ý là tần suất và cường độ của những trận lũ lụt và hạn hán đã được nâng cao
đáng kể dưới sự tăng, giảm của các điều kiện khí hậu trung bình như nhiệt độ và
lượng mưa.Trái đất sẽ ấm hơn, tỷ lệ băng tan chảy cao hơn và tương ứng với mực
nước biển cao hơn 0,09 - 0,88 m . Theo đó, việc tăng tần suất và cường độ của các
sự kiện cực đoan có tỷ lệ không giống như nhiệt độ và mực nước biển đã được cảnh
báo. Các dự báo được trình bày trong báo cáo IPCC và kết quả khoa học khác đã
19
cho thấy sự thay đổi của khí hậu trên toàn cầu đang diễn ra ở mức độ gây ảnh
hưởng xấu đến những vùng, khu vực khác nhau. những số liệu mới nhất vừa được
công bố chính thức xác nhận 2016 là năm nóng nhất trong lịch sử, với mức tăng
nhiệt độ xấp xỉ mục tiêu giới hạn được các nước đặt ra nhằm hạn chế tình trạng
nóng lên toàn cầu.Sát ngưỡng nguy hiểm. Ngày 5/1/2017, Cơ quan Biến đổi khí hậu
Copernicus của Liên minh châu Âu (EU) cho biết năm 2016 đã vượt qua năm 2015
để thiết lập kỷ lục là năm nóng nhất kể từ khi nhân loại bắt đầu lưu giữ các hồ sơ
đáng tin cậy về nền nhiệt trên Trái Đất. Nhiệt độ trung bình trên bề mặt Trái Đất năm 2016 cao hơn năm 2015 khoảng 0,20C, ở mức 14,80C, tức là cao hơn 1,30C so
với giai đoạn trước cuộc Cách mạng công nghiệp. So với thỏa thuận chống biến đổi
khí hậu đạt được tại Paris năm 2015 với đề xuất hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,50C so với giai đoạn tiền công nghiệp thì con số 1,30C được xem là đã sát ngưỡng
nguy hiểm.Theo Cơ quan Biến đổi khí hậu Copernicus, ngoài nguyên nhân từ các
loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính được xả vào bầu khí quyển do hoạt động tiêu thụ
nhiên liệu hóa thạch, nhiệt độ Trái Đất năm 2016 cũng chịu tác động của hiện tượng
thời tiết El Nino tại Thái Bình Dương.[6]
Bắc Cực là khu vực chứng kiến sự tăng nhiệt độ rõ nét nhất trong năm 2016,
trong khi nhiều khu vực khác trên Trái Đất, như các vùng thuộc châu Phi và châu Á,
cũng hứng chịu nền nhiệt cao bất thường. Trong khi một số vùng thuộc Nam Mỹ và
Nam Cực lại có nhiệt độ thấp hơn giai đoạn trước đó. Chỉ riêng trong tháng 2/2016, nhiệt độ Trái Đất đã tăng 1,50C so với giai đoạn tiền công nghiệp. Nhiệt độ tăng cao
trong năm qua được cho là nguyên nhân gây ra cháy rừng, nắng nóng, hạn hán, lũ
lụt và những hiện tượng thời tiết cực đoan khác.[13]
Sự nóng lên của Trái đất, băng tan đã dẫn đến mực nước biển dâng cao. Nếu
khoảng thời gian 1962 - 2003, lượng nước biển trung bình toàn cầu tăng
1,8mm/năm, thì từ 1993 - 2003 mức tăng là 3,1mm/năm. Tổng cộng, trong 100 năm
qua, mực nước biển đã tăng 0,31m. Theo quan sát từ vệ tinh, diện tích các lớp băng
ở Bắc cực, Nam cực, băng ở Greenland và một số núi băng ở Trung Quốc đang dần
bị thu hẹp. Chính sự tan chảy của các lớp băng cùng với sự nóng lên của khí hậu các
đại dương toàn cầu (tới độ sâu 3.000m) đã góp phần làm cho mực nước biển dâng
cao. Dự báo đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ trung bình sẽ tăng lên khoảng từ 2,0 - 4,50C và mực nước biển toàn cầu sẽ tăng từ 0,18m - 0,59m. Việt Nam là 1 trong 4
nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của sự BĐKH và dâng cao của nước biển.[7]
20
2.2.2. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Theo thống kê, số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm rõ rệt
trong vòng 2 thập kỷ qua. Từ 29 đợt mỗi năm (từ 1971 - 1980) xuống còn 15 - 16
đợt mỗi năm từ 1994 - 2007. Số cơn bão trên biển Đông ảnh hưởng đến nước ta
cũng ngày càng ít đi nhưng ngược lại số cơn bão mạnh có chiều hướng tăng lên,
mùa bão kết thúc muộn, quỹ đạo của bão trở nên dị thường và số cơn bão ảnh
hưởng đến khu vực Nam Trung bộ, Nam bộ ngày càng tăng. Bên cạnh đó, số ngày
mưa phùn ở miền Bắc giảm một nửa (từ 30 ngày/năm trong thập kỷ 1961 - 1970
xuống còn 15 ngày/năm trong thập kỷ 1991 - 2000). Lượng mưa biến đổi không
nhất quán giữa các vùng, hạn hán có xu hướng mở rộng, đặc biệt là ở khu vực Nam
Trung bộ (trong đó có Khánh Hòa), dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc hóa.[1]
Việt Nam là nước dễ bị tổn thương trước tác động của BĐKH. Theo đánh
giá hàng năm về những nước chịu ảnh hưởng nặng nhất bởi các hiện tượng thời tiết
cực đoan giai đoạn 1997 - 2016, Việt Nam đứng thứ 5 về Chỉ số rủi ro khí hậu toàn
cầu năm 2018 và thứ 8 về Chỉ số rủi ro khí hậu dài hạn.[6]
Những diễn biến của BĐKH tại Việt Nam bao gồm các hiện tượng thời tiết
cực đoan đang ngày càng gia tăng về tần suất và thường khó dự đoán. Lượng mưa
tháng cao nhất tăng từ trong giai đoạn 1901-1930 lên 281 mm trong giai đoạn
1991-2015, trong khi nhiệt độ tháng cao nhất tăng từ 27,1°C (1901-1930) lên
27,5°C (1991-2015).[7]
Những kỷ lục mới vẫn được thiết lập mỗi năm. Các cụm từ “mưa lớn kỷ
lục”, “nắng nóng kỷ lục”, “kỷ lục về lũ lụt” đã và đang xuất hiện ngày càng phổ
biến trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam trong những năm gần
đây. Năm 2017 được coi là năm kỷ lục về thảm họa thiên tai tại Việt Nam, với hơn
16 cơn bão, lũ lịch sử trái quy luật. Nhiệt độ trung bình tại miền Bắc và Bắc Trung
Bộ Việt Nam hiện tại cao hơn từ 0,5 - 1,0°C so với nhiệt độ trung bình của các năm
trước theo tính toán dựa trên dữ liệu cập nhật của 30 năm trở lại đây. Sự thay đổi
trong tần suất xuất hiện các cơn bão và áp thấp nhiệt đới ngày càng rõ rệt. Ví dụ, có
năm xảy ra tới 18 - 19 cơn lốc và áp thấp nhiệt đới trên biển Đông, nhưng cũng có
năm chỉ xảy ra từ 4 - 6 cơn lốc và áp thấp nhiệt đới. Số cơn bão với sức gió đạt từ
cấp 12 trở lên đã tăng nhẹ kể từ năm 1990 đến 2015. Những biến đổi trong nguồn
nước (lượng mưa, mực nước sông) trong năm 2018 cũng tăng đáng kể so với mức
trung bình của năm 2017. Năm 2018 đồng thời ghi nhận những con số kỷ lục về
21
nhiệt độ trong vòng 46 năm qua tại Hà Nội, với nhiệt độ cao nhất có lúc đạt tới
42°C.[6]
Nước biển dâng cũng là một trong những hiện tượng điển hình của BĐKH ở
Việt Nam. Số liệu của trạm quốc gia Hòn Dấu ghi nhận được trong vòng 50 năm
mực nước biển dâng khoảng 20 cm. Mực nước biển quan trắc tại các trạm hải văn
đạt 2,45mm/năm và 3,34mm/năm tương ứng trong các giai đoạn 1960 - 2014 và
1993 - 2014. Dữ liệu vệ tinh cho thấy mực nước biển đã tăng lên 3,5 mm/year (±
0,7mm) vào năm 2014 so với năm 1993.[7]
2.2.2.1. Tác động của biến đổi khí hậu
Là quốc gia có đường bờ biển dài 3.260 km nước biển dâng gây ra ảnh
hưởng nghiêm trọng đối với Việt Nam. Theo khuyến cáo của Ủy ban Liên chính
phủ về BĐKH (IPCC), khi mực nước biển dâng lên 100 cm, diện tích đất bị mất đi
của Việt Nam sẽ lên tới 40.000 km2, chiếm 12,1% tổng diện tích đất hiện có, kéo
theo hệ quả 17,1 triệu người sẽ mất đi nơi sinh sống, chiếm 23,1% dân số tại thời
điểm báo cáo.[1]
Nước biển dâng cũng sẽ khiến cho Đồng bằng sông Mekong, hay còn gọi là
Đồng bằng sông Cửu Long – một trong những vựa lúa lớn nhất của khu vực và cả
nước – bị thiệt hại hoàn toàn. Điều này đe dọa an ninh lương thực không chỉ với
Việt Nam mà cả với cộng đồng quốc tế, vì Việt Nam là một trong năm quốc gia
xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới.[2]
Theo bản Đóng góp dự kiến do Quốc gia tự quyết định của Việt Nam (năm
2015) nếu mực nước biển dâng 100cm, trên 10% diện tích vùng đồng bằng sông
Hồng và tỉnh Quảng Ninh, trên 2,5% diện tích thuộc các tỉnh ven biển miền Trung
và trên 20% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có nguy cơ bị ngập. Với khu vực
đồng bằng sông Cửu Long, sẽ có khoảng 39% diện tích bị ngập, ảnh hưởng tiêu cực
tới gần 35% dân số, nguy cơ mất đi 40,5% tổng sản lượng lúa của cả vùng.[1]
BĐKH tác động tới tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, đời sống và y tế và sức
khỏe cộng đồng. Ví dụ trong lĩnh vực nông nghiệp, BĐKH ảnh hưởng tới sản lượng
và gây ra những thay đổi về thời tiết, trực tiếp tác động tới vụ mùa. BĐKH cũng
được cho là nguyên nhân phát sinh các virus mới và những virus đột biến gây bệnh
truyền nhiễm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe cộng đồng.[5]
Theo Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2018, tỷ lệ tử vong do các hiện
tượng thời tiết cực đoan ở Việt Nam năm 2016 là 161, đứng thứ 11 trên thế giới.
22
Giá trị thiệt hại lên tới 4.037.704 triệu USD (tính theo sức mua tương đương -PPP)
đứng thứ 5; thiệt hại bình quân GDP theo % là 0,6782, đứng thứ 10 trên thế giới.[4]
2.2.2.2. Giảm thiểu tác động và ứng phó với biến đổi khí hậu
Việt Nam đã đưa ra những chính sách và triển khai các hoạt động ứng phó
với BĐKH trong vòng một thập kỷ trở lại đây. Những chính sách này tập trung
nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính và thích ứng với BĐKH.
Các hoạt động thích ứng với BĐKH tới năm 2030 bao gồm:[1]
- Đạt ít nhất 90% các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được
lồng ghép vấn đề quản lý rủi ro thiên tai và thích ứng với BĐKH;
- Giảm 2%/năm tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước, riêng các huyện xã nghèo
giảm 4%/năm.
- Hoàn thành 100% việc xây dựng các khu neo đậu tàu, thuyền tránh trú bão
và 100% tàu, thuyền đánh bắt xa bờ có đủ thiết bị thông tin liên lạc.
- Nâng độ che phủ rừng lên 45%.
- Nâng diện tích rừng phòng hộ ven biển lên 380.000 ha, trong đó trồng thêm
rừng ngập mặn từ 20.000 đến 50.000 ha.
- Đạt ít nhất 90% dân cư thành thị và 80% dân cư nông thôn sử dụng nước
sạch, hợp vệ sinh.
- 100% số dân được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Việt Nam ủng hộ Công ước khung của Liên hiệp quốc về BĐKH (UNFCCC)
nhằm giữ mức tăng nhiệt độ khí quyển trung bình toàn cầu vào cuối thế kỷ ở mức
dưới 2°C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE)
cũng đã phát hành tài liệu Kịch bản BĐKH và nước biển dâng 20 nhằm hỗ trợ công
tác giảm thiểu và thích ứng với BĐKH. Việt Nam đã ký Công ước Khí hậu năm
1992, phê chuẩn năm 1994; đã ký Nghị định thư Kyoto năm 1998 và phê chuẩn
năm 2002; đã thành lập Ban chỉ đạo quốc gia thực hiện Công ước Khí hậu và Nghị
định thư Kyoto; đã gửi Ban thư ký Công ước Khí hậu Thông báo quốc gia lần thứ
nhất (2003), Thông báo quốc gia lần thứ hai (2010), Báo cáo Cập nhật hai năm một
lần lần thứ nhất (2014), phản ánh những nỗ lực mới nhất về ứng phó với BĐKH.[5]
Chính phủ Việt Nam sẵn sàng thực hiện các hoạt động giảm nhẹ như
NAMA (Nationally Appropriate Mitigation Actions – Các hành động giảm nhẹ
thích hợp trên toàn quốc), các hoạt động tình nguyện nhằm giảm thiểu tác động của
BĐKH tại các nước đang phát triển, hướng đến giảm phát thải khí nhà kính trong tất
23
cả các lĩnh vực; đồng thời khuyến khích các Bộ, ngành cũng như chính quyền địa
phương xây dựng NAMA. Mặc dù Việt Nam đã xác định được một số giải pháp
NAMA trong các lĩnh vực khác nhau, nhưng các biện pháp thực hiện cho đến thời
điểm này vẫn chưa sẵn sàng. NAMA được coi là các hành động cụ thể để đạt được
các mục tiêu trong Báo cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) tổng quát
hơn trong khuôn khổ kế hoạch và chiến lược quốc gia dài hạn một cách bền vững.
NAMA sẽ tiếp tục được thực hiện như một phần của Báo cáo đóng góp do quốc gia
tự quyết định (NDC) sau năm 2020.[1]
Cục Biến đổi khí hậu là cơ quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường
(MONRE), có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về BĐKH,
bảo vệ tầng ôzôn; thực hiện các dịch vụ công về BĐKH, bảo vệ tầng ôzôn theo quy
định của pháp luật. Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn trung ương được thành
lập năm 2018 trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, có chức năng theo dõi, tổng
hợp và báo cáo về tình hình khí tượng thủy văn, thiên tai khí tượng thủy văn, xu thế
BĐKH trên phạm vi cả nước và trong khu vực, trên thế giới theo quy định.[2]
Đến nay, Việt Nam đã thực hiện kiểm kê phát thải khí nhà kính vào các năm
1994, năm 2000 và năm 2010. Năm 2017, Việt Nam đã báo cáo lên Liên hợp quốc
mức phát thải tham chiếu rừng của cả nước tại mức 59.960.827 tấn CO2 tương
đương hàng năm (tCO2 eq/năm) và mức tham chiếu rừng –39.602.735 tấn
CO2 tương đương/năm.[3]
Theo đóng góp dự kiến do Quốc gia tự quyết định của Việt Nam
(INDCs) bằng nguồn lực trong nước, đến năm 2030 Việt Nam sẽ giảm 8% tổng
lượng phát thải khí nhà kính so với Kịch bản phát triển thông thường. Mức đóng
góp 8% ở trên có thể được tăng lên thành 25% khi nhận được hỗ trợ quốc tế thông
qua hợp tác song phương, đa phương và thực hiện các cơ chế trong Thỏa thuận khí
hậu toàn cầu mới.[1]
2.2.3. Tác động của biến đổi khí hậu đối với đời sống của nông dân đồng bào dân
tộc H’mông tại xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La
Biến đổi khí hậu trên địa bàn xã Long Hẹ đang ngày càng rõ nét hơn. Những
biến đổi đó tác động trực tiếp vào đời sống của nhân dân và sự phát triển của xã,
trong đó rét đậm, rét hại kéo dài làm chết nhiều gia súc, mưa to, lũ quét phá hủy hệ
thống giao thông, thủy lợi, hạn hán làm mất mùa,…. Hiện tại mực nước của nhiều
sông, suối trên toàn bản đã cạn đi trông thấy tiềm ẩn những nguy cơ thiếu nước
24
nghiêm trọng. Sự thay đổi về nền nhiệt độ, thời gian chiếu sáng, lượng mưa đã
khiến nhiều loài vi khuẩn, côn trùng, vật chủ mang bệnh sinh trưởng và phát triển
mạnh gây hại cho sức khỏe con người và sản xuất nông nghiệp.[11]
Tác động đến sản xuất nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp là một ngành phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết, khí hậu và chịu tác động của các yếu tố bên
ngoài môi trường như độ ẩm, nhiệt độ và những nhân tố này quyết định đến năng
suất cũng như chất lượng sản phẩm của cây trồng nông nghiệp. Sự tác động của các
yếu tố khí hậu đến sản xuất nông nghiệp thể hiện ở các khía cạnh khác nhau tùy vào
điều kiện canh tác của vùng. Đó là những nhân tố mà chúng ta phải đối mặt ở cả
hiện tại và tương lai. Khí hậu là nhân tố quyết định đến sản xuất nông nghiệp và sản
xuất nông nghiệp đang chịu sự tác động lớn của BĐKH. Biến đổi khí hậu đã và
đang ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của cây trồng.[10]
Đối với cây trồng, nhiệt độ là yêu cầu sinh thái cơ bản, với cây trồng nông
nghiệp muốn có năng xuất cao phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết nếu thời tiết thuận
lợi thì cho năng xuất cao và ngược lại, với thời tiết hiện nay rất thất thường mưa
nắng khô hạn không ổn định ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và chất lượng sản
phẩm từ nông nghiệp, sự thay đổi vòng đời phát triển của cây trồng sẽ dài hơn hoặc
ngắn hơn dẫn đến sẽ làm tăng hoặc giảm năng suất. Những hiện tượng thời tiết thất
thường cũng là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp. Tần suất và cường độ của hạn hán, lũ lụt, sạt lở đất sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến năng suất cây trồng và tài nguyên đất sản xuất nông nghiệp. BĐKH làm thay
đổi điều kiện sống của các loài sinh vật, phá vỡ cân bằng sinh thái, làm biến mất đi
một số loài và nguy cơ xuất hiện nhiều loại dịch bệnh mới trong sản xuất nông
nghiệp. BĐKH tác động đến thời vụ, làm thay đổi cấu trúc mùa vụ, tác động xấu
đến chăn nuôi, trồng trọt của người dân.[8]
Trước sự thay đổi của khí hậu ngày càng xấu đi, việc duy trì sản xuất nông
nghiệp đạt năng suất và chất lượng cao trong thời điểm hiện tại, cũng như trong
tương lai sẽ là rất khó khăn. Nếu chúng ta không biết điều chỉnh hợp lý, nghiên cứu
chọn ra những giống mới thích nghi kịp thời để phục vụ cho mục tiêu sản xuất nông
nghiệp. Sản xuất nông nghiệp chịu sự tác động rất lớn của môi trường bên ngoài,
khi môi trường bên ngoài thay đổi, các yếu tố bên trong cùng chịu tác động thay đổi
theo, những sự thay đổi này thường gây bất lợi cho kết quả của hoạt động sản xuất
mang lại. Vì vậy, để sản xuất các sản phẩm nông nghiệp được đảm bảo về sản
25
lượng, năng suất và phát triển bền vững cần có những nghiên cứu về chọn lựa các
loại giống thích hợp để đảm bảo sinh kế cho nông dân. Dựa vào diễn biến bất lợi
của khí hậu ngày nay việc lựa chọn giống cho sản xuất nông nghiệp là rất cần
thiết.[10]
Bảng 2.2: Xu hướng biến đổi khí hậu ở xã Long Hẹ
Thời tiết Mưa
- Thời gian mỗi lần mưa ngắn hơn
- Khuynh hướng chuyển từ 04 mùa - Cường độ mưa cao hơn
thành 02 mùa; mùa mưa và mùa khô - Mùa mưa kéo dài hơn (tháng 05 đến
tháng 10)
Nguồn nước Nhiệt độ
- Sai khác nhiều hơn giữa ngày và đêm - Số lượng và chất lượng nước giảm - Mùa hè nóng hơn - Nhiều sông suối cạn vào mùa khô - Xảy ra các đợt rét đậm, rét hại, sạt - Mực nước cao hơn vào mùa mưa lở,…
Hạn Gió lốc
- Cường độ cao hơn - Cường độ cao hơn
- Tần suất xuất hiện nhiều hơn - Thường kết hợp với mưa đá
Lũ/lũ quét Sấm sét/mưa đá
- Cường độ cao hơn - Cường độ cao hơn
- Tần suất xuất hiện nhiều hơn - Tần suất xuất hiện nhiều hơn
Xói mòn đất Sạt lở đất
- Cường độ cao hơn - Cường độ cao hơn
- Tần suất xuất hiện nhiều hơn - Tần suất xuất hiện nhiều hơn
(Nguồn, UBND xã Long Hẹ)[10]
2.2.4. Vài nét phong tục văn hóa của đồng bào dân tộc H’mông trên địa bàn xã
Long Hẹ
2.2.4.1. Phong tục đón tết
Đồng bào người H’mông trên địa bàn xã Long Hẹ không định ra một ngày
cụ thể trong năm để đón tết như các dân tộc khác mà ăn tết theo mùa vụ. Theo
26
phong tục truyền thống, khoảng trước tết Nguyên đán một tháng cũng là thời điểm
bà con thu hoạch xong mùa màng, họ sẽ thống nhất cùng nhau chuẩn bị đón tết cổ
truyền, những hộ có con và người thân đi học, đi làm xa thì họ sẽ ăn Tết Nguyên
đán còn hộ nào mà không có ai đi học hoặc đi làm xa thì họ sẽ ăn trước chính vì thế
nên người H’mông trên địa bàn xã Long Hẹ ăn Tết không đồng đều có bản thì ăn
trước có bản thì ăn sâu. Nhân dịp Tết, tất cả mọi người cùng nghỉ ngơi, ăn mừng
mùa vụ, trao đổi kinh nghiệm lao động sản xuất đồng thời thể hiện lòng biết ơn với
tổ tiên, trời đất đã che chở, phù hộ cho bà con bản có một mùa màng bội thu, gia
đình được mạnh khỏe, bình an và cầu mong những điều tốt đẹp hơn trong năm mới.
Ngay từ đầu tháng 11 không khí đã rộn rã khắp trong bản, ngoài đường. Lúc
này, ngoài việc vỗ béo lợn gà, dọn dẹp sửa sang nhà cửa các gia đình còn tập trung
vào việc kiếm củi để dùng trong những ngày tết. Phụ nữ cũng chuẩn bị cho mình
những bộ váy áo rực rỡ sắc màu, cùng những vòng tay, vòng cổ đẹp nhất để diện
cho những ngày tết.
Cuối tháng 11 âm lịch cơ bản mọi việc đã hoàn tất, hoa Đào bắt đầu khoe
sắc, hoa Mai nở trắng rừng. Già trẻ gái trai ai ai cũng mặc đẹp, nét mặt hân hoan tất
bật mà phấn khởi. Đây cũng là lúc các gia đình người H’mông nhộn nhịp làm bánh
dày đón tết. Người H’mông quan niệm hai cái bánh dày tượng trưng cho mặt trời,
mặt trăng là nguồn gốc sinh ra con người, muôn loài trên trái đất. Vì thế trong
những ngày tết của người H’mông không thể thiếu món bánh dày. Bánh dày được
làm rất công phu nguyên liệu chính là gạo nương thơm đem đi nấu xôi sao cho thật
dẻo rồi mang ra máng gỗ, dùng chày gỗ để giả, giả bánh cũng phải chọn những
chàng trai có thể lực khỏe mạnh để có thể giả đều và mạnh sao cho bánh thật
nhuyễn và dẻo.
Từ ngày 28 đến ngày 30 tháng chạp, người H’mông bắt đầu nghĩ ngơi và đón
tết. Có hộ thì ăn vào ngày 28, hộ thì ăn vào ngày 29 hoặc 30. Trước khi ăn Tết thì
mỗi hộ sẽ chuẩn bị 3 cây tre trúc, 3 cây tre đó phải buộc dây đỏ sau đó đi gọi thầy
cúng đến để dùng 3 cây tre đó quét hết đi tất cả những chuyện xấu, những chuyện
ốm đau, những điều không muốn trong nhà đi, sau đó thầy cúng lấy 2 con gà và hộ
nào có bao nhiêu người thì sẽ lấy bao nhiêu quả trứng gà và bao nhiêu cái hương dự
vào một cái rổ cho dầy gạo ra đứng ở cửa giữa gọi hồn, sẽ gọi tất cả hồn của những
27
người trong gia đình đó và gọi thần vàng, tiền, thần trâu, bò, gia súc, gia cầm,...,
thần ngô, lúa,…, để về chào đón năm mới. Sau đó thì gia đình sẽ chuẩn bị mổ gà,
mổ lợn để chuẩn bị ăn mừng Tết năm mới. Khi ăn mừng xong, họ sẽ đốt hương để
cắm thần cột, thần cửa, thần. Họ sẽ dồn hết những dụng cụ lao động dựng bên cạnh
bàn thờ và người chủ gia đình tự tay cắt các tờ giấy bạc thành những đồng tiền bạc
sau đó dùng vỏ cây nhớt được lấy từ trong rừng về để dán những đồng tiền bạc lên
cột, cửa nhà, dụng cụ lao động, chuồng gà, chuồng lợn, trâu, bò,…. Họ quan niệm
các dụng cụ này cũng như con người, chúng cần phải được nghỉ ngơi trong những
ngày tết để chuẩn bị cho một năm lao động, sản xuất mới và để đánh dấu đó là của
gia đình mình, đó là vàng là bạc là tiền cầu phúc cho gia đình một năm mới với mùa
màng bội thu, sung túc.
Trong những ngày đầu năm mới này người H’mông kiêng không quét nhà,
nếu có quét thì chỉ quét vào trong và không hốt đổ đi, làm như vậy là sang năm mới
sẽ mất của. Không chỉ có vậy, trong dịp tết chuyện ăn, chuyện dùng lửa của người
H’mông cũng còn mang nhiều điều kiêng kỵ đầy thú vị. Ngày tết người H’mông
được nhóm lửa không được thổi lửa, làm như vậy cả năm sẽ gặp gió bão.
Ngày tết, ngoài thịt lợn, thịt gà, bánh dày nhà nào trong bản cũng có rượu ngô.
Rượu ngô được trưng cất từ một loại ngô của địa phương, men dùng để nấu được
làm từ các loại lá cây do người già lấy từ rừng về. Đối với dân tộc H’mông, rượu
không chỉ để dùng cho việc nhà, làm quà cho anh em mà rượu còn làm hàng hóa.
Ngày tết, trong nhà người H’mông thường không trang trí cầu kỳ. Mỗi độ
xuân về người H’mông thường thắp hương tổ tiên với mong ước tổ tiên phù hộ cho
gia đình mạnh khỏe làm ăn phát tài.
Những ngày đầu năm mới người H'mông đến các nhà trong bản để chúc tết,
uống với nhau bát rượu, ăn với nhau miếng bánh dày, chúc nhau những điều tốt
lành trong năm mới.
Trong lúc người già co ro vì ngày tết khắc nghiệt ở vùng cao, quây quần bên
bếp lửa để chúc tụng, để nói với nhau những ước nguyện về dòng tộc, về gia đình,
về một năm mới với nhiều kỳ vọng thì cũng là lúc các chàng trai, cô gái bắt đầu tổ
chức các trò chơi dân gian như: ném Pao, giao lưu văn nghệ, đánh Cầu Lông Gà,
đánh tulu, chọi gà, chọi bò, trâu, thổi Khèn,…
28
Trong những ngày đầu năm, đồng bào người H’mông cùng hòa mình trong
không khí lễ hội đông vui, rộn ràng. Khi cuộc sống ngày càng phát triển hiện đại
hơn, người H’mông trên địa bàn xã Long Hẹ vẫn giữ gìn tiếng mẹ đẻ, trang phục
truyền thống, các trò chơi dân. Đó là bản sắc cũng là niềm tự hào của cộng đồng
người H’mông trên địa bàn xã.
2.2.4.2. Phong tục cúng thần rừng
Hàng năm, vào cuối tháng Giêng hay đầu tháng 2 Âm lịch, người H’mông ở
xã Long Hẹ tổ chức lễ cúng thần rừng (tiếng dân tộc – ua nếnh tếnh tỉa xếch téc
xếch chaw) để cầu an lành cho con người, súc vật và cỏ cây. Lễ cúng rừng của
người H’mông được tổ chức vào dịp đầu năm.
Theo quan niệm của người H’mông nơi đây, thần rừng, thần cây, thần suối là
những vị thần giúp người H’mông xua đuổi thú dữ, cho gỗ làm nhà, cho nguồn
nước uống, là những vị thần bảo vệ cuộc sống cho người dân. Đặc biệt, lễ cúng
rừng được xem như một cuộc họp tổng kết của thôn về công tác bảo vệ rừng, có sự
tham gia của tất cả các chủ hộ trong thôn. Để tiến hành lễ cúng rừng, trước đó dân
làng đã họp và tổ chức quyên góp tiền mua lợn, gà, rượu, hương thơm, vàng mã và
bầu ra người chủ lễ, chủ rừng. Người chủ lễ còn gọi là thầy cúng ( tiếng dân tộc –
chí nếnh) phải là người có uy tín, hiểu biết về phong tục tập quán, giữ trong mình
những văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc mình. Người chủ rừng phải là
người nhiệt tình, được dân làng quý mến, tin tưởng và đại diện cho dân làng chuẩn
bị lễ cúng, thực phẩm cho buổi lễ. Khi chọn được ngày tốt để cúng thần rừng, ngay
từ sáng sớm, bà con tập trung tại khu vực rừng cấm của thôn để chuẩn bị các lễ vật
dâng lên thần rừng. Buổi lễ với những nghi thức độc đáo, trang nghiêm được diễn ra
ở cửa rừng, bàn thờ cúng bằng tre được đặt dưới gốc cây cổ thụ. Lễ vật dâng tế thần
rừng gồm một con gà trống, 4 chén rượu, hương và giấy bản. Các lễ vật này được
cúng dâng Thần rừng hai lần, cúng khi con vật còn sống và sau khi đã chế biến
chín. Mỗi lần cúng đều có bài cúng riêng và tương ứng với một thời gian nhất định
trong buổi lễ. Trước khi con vật được đem đi chế biến chín để cúng lần thứ hai thì
thầy cúng cắt tiết gà rồi lấy lông gà nhúng vào bát tiết dán lên gốc cây cổ thụ để báo
với thần rừng là dân làng đã dâng lễ vật lên thần rừng. Có như vậy mới linh nghiệm
và thần rừng mới chấp nhận. Trong không khí linh thiêng của trời đất, người chủ lễ
29
thay mặt bà con dân bản dâng lễ vật, cầu xin thần rừng phù hộ cho làng bản trừ hết
những xấu xa, vận hạn, con người vật nuôi được khỏe mạnh, mùa màng tươi tốt,
mưa thuận gió hòa.
Lễ cúng rừng là nghi lễ quan trọng nhất của người Mông, họ cầu mong thần
rừng phù hộ sức khỏe, gia đình hạnh phúc, cầu mong thần rừng trong năm không
nổi giận để những cánh rừng sinh sôi nảy nở, nuôi sống con người. Bên cạnh đó, lễ
cúng rừng còn là thông điệp để người dân luôn yêu quý rừng, không chặt phá rừng
hoặc gây ra những vụ cháy rừng khi đốt nương, làm rẫy. Lễ hội cúng rừng là một
trong những nghi lễ truyền thống đẹp của người H’mông, ngoài ý nghĩa tâm linh,
nghi lễ cúng thần rừng còn có vai trò to lớn trong việc gắn kết cộng đồng dân tộc,
gắn con người với thiên nhiên vì vậy đã trải qua nhiều thế hệ song lễ hội cúng thần
rừng của người H’mông vẫn còn nguyên giá trị và còn được lưu truyền từ đời này
sang đời khác. Sau các nghi lễ một bản hương ước về bảo vệ rừng sẽ được người
dân trong thôn thống nhất và mọi người đều phải có trách nhiệm thực hiện. Đây không
chỉ là một nghi lễ độc đáo mà còn góp phần bảo vệ các giá trị vật chất, tinh thần trong
cộng đồng làng bản, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường sinh thái bền vững.
2.2.4.3. Phong tục lễ mừng cơm, ngô mới
- Phong tục lễ mừng cơm mới
Đối với đồng bào dân tộc H’mông xã Long Hẹ lễ mừng cơm mới (Tiếng dân
tộc – no mó plê chiết) từ lâu đã làm nghi lễ quân trọng trong đời sống tinh thần của
người dân nơi đây. Với ý nghĩa để cảm ơn tổ tiên, trời đất đã ban cho gia đình có vụ
mùa thu và cầu mong vụ mới gặp nhiều may mắn, cả năm no đủ.
Ngày tổ chức lễ cúng cơm mới được chọn là ngày đẹp, trong khoảng thời
gian lúa chín (vụ mùa thu hoạch) hoặc sau khi những bao lúa đã xếp đầy trong nhà.
Đối với người H’mông gạo mới mang về, tất cả mọi người trong gia đình đều không
được ăn trước tổ tiên, đặc biệt là chủ gia đình. Chỉ khi làm lễ cúng tổ tiên xong, mọi
người trong gia đình mới được ăn cơm mới, đó có thể coi là cách H’mông thể hiện
sự thành kính trước tổ tiên, trời đất. Người trực tiếp hành lễ trong ngày này phải là
người đứng đầu gia đình, tức là cha hoặc ông. Mâm cúng tổ tiên được đặt giữa, nhà
bàn thờ (Tiếng dân tộc – Xử các). Lễ vật khá đơn giản bao gồm: cơm gạo mới, thịt
lợn, gà, một bát canh và 1 chén rượu, 1 chai rượu và thìa. Trong khay đựng cơm
30
mới, cắm rất nhiều chiếc thìa ăn cơm to, nhỏ, theo quan niệm của người H’mông
mỗi chiếc thìa tương ứng với một người đã qua đời của gia đình. Cúng tổ tiên trong
lễ mừng cơm mới, người chủ gia đình khấn gọi ba đời tổ tiên về dùng cơm trước.
Tương ứng với mỗi lần gọi đến đời nào thì lấy thìa xúc cơm cho vào một chỗ ở kệ
gỗ, sau đó lấy một miếng thịt đặt vào ụ cơm rồi lấy nột chén rượu đổ tràn ra đất.
Xong người khấn ra cửa chính giữa gian nhà mở ra rồi tiếp tục khấn.
Kết thúc lễ cúng, lúc này mọi người mới ngồi vào mâm cơm mới thưởng thức
thành quả của một năm lao động. Khách và chủ mới hân hoan chúc tụng nhau bên chén
rượu, mừng cho một vụ mùa bội, cầu mong những vụ mùa sau được no đủ.
- Phong tục lễ mừng ngô mới
Về phong tục lễ mừng ngô mới ( Tiếng dân tộc – no pót kư chiếc) cũng
tương tự như lễ mừng cơm mới nhưng lại khác một chút. Lễ mừng ngô mới được
tiến hành vào mùa ngô chín. Lễ mừng ngô mới thì lại không mổ gà, lợn để làm lễ.
Mâm lễ chỉ là: 1 chậu ngô mới được luộc chín thôi sẽ không có rượu, thịt, thìa.
Người làm lễ dùng tay cầm 1 bắp ngô bốc từng hạt và gọi tổ tiên, trời đất về ăn
mừng ngô mới để phù hộ cho gia đình năm sau lại có một vụ thu được như ý muốn.
Sau khi đã làm lễ xong thì mọi người trong gia đình mới được ăn và mới được phép
đi bẻ mang về cho lợn, gà ăn.
31
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là: đồng bào dân tộc H’mông sử dụng kiến thức bản
địa trong sản xuất nông nghiệp để thích ứng với biến đổi khí hậu trên địa bàn xã
Long Hẹ huyện Thuận Châu tỉnh Sơn la.
- Những biểu hiện của BĐKH tại xã Long Hẹ.
3.1.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vào các hộ gia đình sản
xuất nông nghiệp tại địa bàn xã Long Hẹ bị ảnh hưởng của BĐKH và các hộ nông
dân thuộc xã nghiên cứu đã sử dụng các kiến thức bản địa trong ứng phó với biến
đổi khí hậu.
- Phạm vi về thời gian: Thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu: từ ngày 20
tháng 02 năm 2019 đến ngày 20 tháng 05 năm 2019.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu các kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc H’mông trong sinh
hoạt sản xuất.
- Tìm hiểu thực trạng BĐKH, những biểu hiện của thời tiết cực đoan và tác
động của chúng đến sản xuất nông nghiệp tại vùng nghiên cứu.
- Nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn trong áp dụng kiến thức bản địa để
thích ứng biến đổi khí hậu và đề xuất giải pháp phát triển kiến thức bản địa.
- Đưa ra một số định hướng, giải pháp phát triển để nhân rộng KTBĐ trên địa
bàn xã.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Thu thập số liệu thứ cấp
- Tài liệu từ các niên giám thống kê, báo cáo thống kê, các báo cáo hàng
năm và báo cáo giai đoạn, các báo cáo nghiên cứu đã được công bố,.... cơ quan
cung cấp là các cơ quan thống kê (tỉnh, huyện và xã), các đơn vị hành chính (UBND
huyện, phòng Nông nghiệp và PTNT, UBND xã,.....)
32
- Số liệu thứ cấp được thu thập cho nghiên cứu gồm các thông tin liên quan
đến BĐKH đã công bố từ cấp tỉnh, huyện, xã, trên các trang báo, tạp chí, trên mạng
internet, sách và các báo cáo kết quả của các chương trình, dự án đã thực hiện tại
vùng nghiên cứu, báo cáo tổng kết của HTXNN, UBND xã, Phòng NN&PTNT
huyện, Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh.
3.3.2. Thu thập số liệu sơ cấp
Những thông tin, tài liệu này được thu thập dựa trên phương pháp đánh giá
nhanh nông thôn ( RRA – Rural Rapid Appraisal ) và sử dụng phiếu điều tra kinh tế
hộ, phỏng vấn sâu.
3.3.2.1. Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn
Phương pháp này được sử dụng để quan sát thực tế, phỏng vấn chính thức
người dân địa phương về tình hình sản xuất nông nghiệp trong thích ứng với
BĐKH, những kết quả thu được từ sự BĐKH, cũng như ý kiến của họ để xác định
mô hình canh tác hiệu quả nhất.
3.3.2.2. Phương pháp điều tra hộ
Việc thu thập tài liệu mới chủ yếu dựa trên cơ sở điều tra những hộ nông dân
đang sản xuất nông nghiệp.
- Xác định địa điểm điều tra
Để phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, căn cứ vào đặc điểm của địa bàn xã
nghiên cứu, tôi tiến hành lựa chọn điểm điều tra là 10 bản đại diện: Bản Cán Tỷ A,
Cán Tỷ B, Pú Chứn, Pú Chắn, Pá Púa, Nặm Búa, Cha Mạy A, Co Nhừ, Pá Uổi, bản
Long Hẹ của xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.Vì đó là những bản mà
người dân hoàn toàn sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp và cách trung tamm xã xa
nhất.
- Xác định mẫu điều tra
Căn cứ vào điều kiện thực tế của địa bàn, tôi chọn mẫu điều tra ngẫu nhiên,
sẽ tiến hành điều tra 50 hộ, mỗi bản sẽ điều tra ngẫu nhiên 5 hộ, bằng phiếu điều tra
được xây dựng.
3.3.2.3. Phương pháp thu thập thông tin
Phỏng vấn trực tiếp những người có kinh nghiệp trong sản xuất, già làng và
trưởng bản.
33
Phỏng vấn sâu già làng về những kinh nghiệm, kiến thức bản địa trong dự
báo thời tiết và sử dụng KTBĐ thích ứng BĐKH trong sản xuất nông nghiệp của
đồng bào dân tộc H’mông tại xã Long Hẹ.
3.3.2.3. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Phương pháp này được sử dụng để tham khảo, tổng hợp, thu thập chọn lọc
các ý kiến của các chuyên gia, các cán bộ nghiên cứu hoặc công tác trong lĩnh vực
nông nghiệp đặc biệt là trên phạm vi thích ứng BĐKH.
3.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
- Đối với số liệu thứ cấp: lập bảng để đánh giá mức độ quan trọng của thông
tin và phạm vi sử dụng thông tin.
- Đối với thông tin sơ cấp: Phiếu điều tra sau khi hoàn thành sẽ được kiểm
tra và nhập vào máy tính bằng phần mềm Excel để tiến hành tổng hợp xử lý.
3.3.4. Phương pháp phân tích số liệu
3.3.4.1. Phương pháp so sánh
Là phương pháp được áp dụng rộng rãi trong công tác nghiên cứu. Dùng để
so sánh các yếu tố định tính và định lượng, so sánh các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh
tế, xã hội đã được lượng hóa có cùng nội dung, tính chất tương tự để xác định mức
độ biến động của các nội dung. Phương pháp này được sử dụng trong đề tài để so
sánh tình hình BĐKH qua các năm. Thông qua phương pháp này chúng ta sẽ đánh
giá được tác động của BĐKH ảnh như thế nào trong việc sản xuất nông nghiệp để
từ đó có những đánh giá chung nhất, những định hướng, giải pháp phát triển nhân
rộng KTBĐ của đồng bào dân tộc H’mông trên địa bàn xã Long Hẹ.
3.3.4.2. Phương pháp thống kê mô tả
Là phương pháp dựa trên các số thống kê để mô tả sự biến động cũng như xu
hướng phát triển của hiện tượng kinh tế - xã hội, mô tả chi phí, lợi ích, các tác nhân
trong quá trình thực hiện các hoạt động thích ứng BĐKH trong sản xuất nông
nghiệp.
34
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Đặc điểm của vùng nghiên cứu
Long Hẹ là xã vùng 3 đặc biệt khó khăn của huyện Thuận Châu, xã cách
trung tâm huyện hơn 48km; có tổng diện tích đất tự nhiên 11.558 ha trong đó đất
nông nghiệp là 9.457 ha (gồm đất sản xuất nông nghiệp: 3.172 ha, đất lâm nghiệp:
6.278 ha); đất phi nông nghiệp 225,62 ha trong đó riêng đất ở 103 ha; đất chưa sử
dụng 1.875.5 ha. Xã có 19 bản, 6 dân tộc anh em cùng sinh sống với 864 hộ, 4.427
nhân khẩu trong đó nữ là 2.216 người, nam là 2.211 người, dân tộc H’mông 528 hộ
chiếm 61,11 %, dân tộc Kháng 185 hộ chiếm 21,41 %, dân tộc Thái 145 hộ chiếm
16,78 %, dân tộc Kinh 4 hộ chiếm 0,46 %, dân tộc Mường 1 hộ chiếm 0,12 %, dân
tộc Khơ Mú 1 hộ chiếm 0,12 %. Năm 2018 xã có 520 hộ nghèo chiếm 60,18 % và
78 hộ cận nghèo chiếm 9,02 %.
Giao thông đi lại còn gặp nhiều khó khăn vào mùa mưa, một số thôn xa trung
tâm xã chưa có điện lưới. Do vậy làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát trong
triển sản xuất và áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi.
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lí
Long Hẹ là xã miền núi của huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, cách trung tâm
tỉnh hơn 100km về phía Tây bắc, có diện tích tự nhiên là 11.558ha. Phía Bắc giáp
xã Tênh Phong huyện Tuần Giáo tỉnh Điện Biên và xã É Tòng. Phía Đông giáp xã
Chiềng Bôm, xã phỏng lập. Phía Tây giáp xã Mường Bám, xã Co Mạ. Phía Nam
giáp xã Co Mạ.
4.1.1.2. Địa hình
Xã Long Hẹ có địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi sông, suối, núi nên giao
thông đi lại còn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các thôn bản vùng xa. Ở đây chủ yếu
là núi cao xen lẫn những khối núi đá hiểm trở, khê sâu. Từ đó tạo ra các tiểu vùng
đặc trưng.
Vùng núi cao nằm ở phía Tây và phía Đông của xã có diện tích chiếm
khoảng 30% diện tích toàn xã, độ cao từ 500m đến 1670,2m.
35
Vùng sườn núi có độ cao từ 500m đến 1000m bao gồm nhiều dãy núi chạy
theo hướng Tây Nam đến Đông Bắc, bị chia cắt bởi các khe cạn, hẹp. Diện tích
chiếm khoảng 54% diện tích toàn xã.
Vùng thấp có độ cao dưới 500m có địa hình kiểu trung du miền núi,với các
dải đồi thấp liên tiếp hoặc rời rạc xen giữa các thung lũng hẹp. Diện tích chiếm
4.1.1.3. Khí hậu
khoảng 10% diện tích toàn xã.
Mang đặc trưng của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có 2 mùa rõ
rệt, mùa khô từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau (có thể kéo dài đến tháng 5
hoặc tháng 6), mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9. Do ảnh hưởng của địa hình nên khu
vực các thôn vùng cao phía Tây và phía Đông của xã cũng mang kiểu khí hậu vùng cận
nhiệt đới và ôn đới ẩm. Nóng ẩm, mưa nhiều vào mùa hạ, khô và lạnh về mùa đông.
Nhiệt độ trung bình quanh năm từ 08oC – 30oC, vào mùa đông thường xuất
hiện sương muối ở khu vực khe núi và các thôn bản ở vùng sâu,đôi khi có băng giá.
Là vùng khuất gió mùa đông bắc, nhưng lại đón gió mùa Tây Nam nên mưa nhiều,
lượng mưa trung bình hơn 1.500mm.
Nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, Long Hẹ có đủ nhiệt độ, nắng,
mưa,... thích hợp cho sự phát triển của động vật, thực vật. Tuy nhiên đôi khi thời
tiết cũng rất khắc nghiệt. Mùa đông ở xã thường có sương muối, sương mù hoặc có
những đợt mưa phùn, mưa đá, gió bấc kéo dài không có lợi cho sự sinh trưởng của
động, thực vật, ảnh hưởng tới hoạt động, sức khoẻ con người. Mùa mưa nhiều nên
các bản ở vùng sâu vùng xa thường bị sạt lở.
- Số giờ nắng bình quân trong năm là 1298 giờ.
- Lượng mưa bình quân hàng năm là 1820mm.
- Độ ẩm không khí bình quân trong năm là 845.
- Nhiệt độ bình quân hàng năm là 25,4ºC.
- Gió: Chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió Đông Nam là chính.
4.1.1.4. Sông ngòi
Xã Long Hẹ có nhiều con suối bắt nguồn từ các khe nhỏ phân bố không đều.
Đồng bào dân tộc còn lợi dụng sức nước để phục vụ sản xuất, đời sống như, làm
thuỷ điện mini, xuôi mảng,....
36
Cùng với đó, trên địa bàn xã có 1 con suối chảy qua, có chiều rộng khoảng
10m. Con suối bắt nguồn từ dãy núi Nậm Như (thuộc xã Co Mạ huyện Thuận Châu
tỉnh Sơn La) chạy vào địa phận xã Long Hẹ, con suối chạy từ phía Đông Nam về
phía Tây Bắc rồi chạy vào xã Mường Bám phía sau đó lại vòng ra sông Mã huyện
Sông Mã tỉnh Sơn La.
4.1.1.5. Tài nguyên thiên nhiên
Xã Long Hẹ chủ yếu là núi đá xen lẫn núi đất chiếm phần lớn diện tích đất đai
tự nhiên. Rừng có nhiều gỗ quý (đinh, lim, nghiến, táu,…) cùng nhiều cây dược liệu
và nhiều loại chim muông, thú rừng như nai, khỉ, lợn rừng, gấu,.… Do kiến tạo địa
chất, sự bồi đắp của các con suối đã tạo cho xã những thung lũng lòng máng, đất đai
khá màu mỡ thích hợp với việc trồng lúa, ngô, các loại rau, đậu, cây công nghiệp
(mía) và cây ăn quả (cam, quýt, chuối, hồng, táo mèo, xoài, đào),….
Bảng 4.1: Thống kê phân loại đất theo mục đích sử dụng
tại xã Long Hẹ năm 2018
Phân loại theo mục đích sử dụng đất Diện tích ha Cơ cấu (%)
Đất trồng lúa 734,26 ha 7,5
Đất trồng ngô 519,1 ha 4.9
Đất trồng sắn 220,84 2.12
Trồng cây lâu năm 339,9 ha 3,26
Rừng phòng hộ 1.470,3 ha 14,13
Rừng Đặc Dụng 1.231,3 ha 11,5
Rừng Sản Xuất 3.577,1 ha 34,3
Đất phi nông nghiệp 225,62 ha 2,21
Đất chưa sử dụng 1.875,5 ha 18,02
Tổng số (cả năm) 10.402,55 100
(Nguồn:UBND xã Long Hẹ năm 2018)[8]
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
4.1.2.1. Về kinh tế
Theo kết quả cuộc tổng điều tra thực hiện 2018 trên địa bàn xã Long Hẹ là có
520 hộ nghèo chiếm 60,18 % và 78 hộ cận nghèo chiếm 9,02 %. Đời sống nhân dân
còn khó khăn, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 10,8 triệu đồng/người/năm.
37
Các hoạt động kinh tế chủ yếu trên địa bàn xã là sản xuất nông, lâm nghiệp là
phổ biến đặc biệt là tình hình sản xuất nương rẫy và canh tác trên đất dốc.
- Trồng trọt
Bảng 4.2: Cơ cấu cây trồng nông nghiệp của xã Long Hẹ năm 2018
năng suất Loại cây sản lượng Stt Diện tích (ha) trung bình Ghi chú trồng (tạ ) (tạ/ha)
Lúa nương 1 10,12 6.575,9 649,7
Lúa ruộng 2 30.54 2.595,5 85,26
Ngô 3 24,36 12.648,8 519,1
Sắn 4 29,3 6.413 220,84
Cây sơn tra 5 25 350 8.750 Ước tính
Chanh leo 6 11,7 160 13,6
Tổng cộng 1.840,5 131,02 37.142,9
(Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội của xã Long Hẹ 2018)[8]
Trong năm 2018 mặc dù gặp khó khăn hạn hán mưa kéo dài, sâu, bệnh hại
cây trồng vật nuôi vẫn xảy ra, Giá cả thị trường chênh lệch, hàng hóa tiêu dùng
ngày tăng cao gây khó khăn cho nhân dân trong việc trồng, sản xuất, chăn nuôi tiêu
thụ hiệu quả chưa cao. Đặc biệt là cây Sơn Tra (Táo mèo) nhưng nhân dân trong
toàn xã vẫn sản xuất nông nghiệp trong năm 2018 đạt được kết quả như sau:
Tổng sản lượng thu hoạch Lúa trong năm 2018: 917,14 tấn tăng 62,23 so với
năm 2017 đạt 128,27% kế hoạch; trong đó:
+ Lúa ruộng: 259,55 tấn tăng 40,65 tấn so với năm 2017.
+ Lúa nương: 657,59 tấn tăng 21,68 tấn so với năm 2017.
Tổng thu hoạch sản lượng Ngô trong năm 2018 là: 1.264,85 tấn đạt 109,51%
kế hoạch.
Tổng thu hoạch sản lượng sắn trong năm 2018 là: 641,3 tấn tăng 77,5 tấn so
với năm 2017.
Tổng số diện tích cây chanh leo đã trồng là 13,6 ha đang sinh trưởng và phát
triển tốt cho ra quả bán ra thị trường khoảng 16 tấn với giá bán tại xã từ 10.000đ -
15.000đ/kg ước tính đạt khoảng 176 triệu đồng.
38
Tổng số diện tích cây sơn tra ( táo mèo)năm 2018 là: 567,8 ha. Trong đó số
diện tích đã cho ra quả là: 350 ha. Ước tính 2,5 tấn/ha.
Tổng sản lượng ước đạt năm 2018 là: 875 tấn. Số sản lượng ước bán được là
625 tấn, số sản lượng chưa bán được 250 tấn.
Nguyên nhân do giá thấp: quả loại 1: 4000đ/kg, quả sô 2000đ/kg.
- Chăn nuôi
Tập trung chỉ đạo thực hiện chương trình phát triển đàn gia súc, gia cầm của
xã theo kế hoạch và Nghị quyết của HĐND tỉnh.
Bảng 4.3: Số lượng đàn gia súc, gia cầm tại xã Long Hẹ năm 2018
STT Loại gia súc, gia cầm Số lượng( con)
1.766 1 Tổng đàn trâu, bò
2.308 2 Tổng đàn lợn
14.515 3 Tổng đàn gia cầm
592 4 Tổng đàn chó
729 5 Tổng đàn dê
12 6 Tổng đàn ngựa
(Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội của xã Long Hẹ 2018)[8]
Như vậy:
+ Trong năm 2018 tổng đàn Trâu là: 527 con giảm 30 con so với năm 2017 đạt
90,08% so với kế hoạch.
+ Tổng đàn Bò là: 1.239 con tăng 67 con so với năm 2017 đạt 99,12% so với kế
hoạch.
+ Tổng đàn ngựa là: 12 con giảm 2 con so với năm 2017.
+ Tổng đàn lợn: 2.308 con giảm 44 con so với năm 2017 đạt 129,88 % so với kế
hoạch.
+ Tổng đàn Dê là: 729 con giảm 717 con so với năm 2017 đạt 60,75% so với kế
hoạch (nguyên nhân đàn dê giảm trao đổi thị trường và dịch bệnh).
+ Tổng đàn chó là: 592 con tăng 55 con so với năm 2017.
+ Tổng đàn gia cầm là: 14.515 con tăng 4.198 con so với năm 2017 đạt 103,67%
so với kế hoạch.
+ Diện tích nuôi thủy sản: 30,98 ha, năng suất ước đạt 2,3 tấn/ha sản lượng
ước đạt 71,104 tấn.
39
- Lâm nghiệp
Thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2010 - 2020 của
UBND huyện trong năm 2018 xã đã triển khai công tác bảo vệ và phát triển rừng
năm 2018 tuyên truyền, phát giác và tố giác người có hành vi phá rừng, khai thác,
buôn bán, tàng trữ gỗ trái phép. ký và cam kết giữa các hộ dân với xã.
Năm 2018 tổng diện tích đất lâm nghiệp là 6.278.7 ha. Trong đó:
+ Rừng sản xuất: 3.577,1 ha.
+ Rừng phòng hộ: 1.470,3 ha.
+ Rừng đặc dụng: 1.231,3 ha.
Tuyên truyền vận động nhân dân tích cực không chặt phá rừng làm nương,
bảo vệ tốt các khu rừng được khoanh nuôi bảo vệ, quan tâm chỉ đạo nhân dân chủ
động phòng cháy rừng.
- Công tác tài chính ngân sách và tín dụng
+ Về tài chính: Thực hiện tốt chế độ tiền lương cho cán bộ công chức xã và
kinh phí phục vụ hoạt động thường xuyên của xã đảm bảo đúng quy định.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn xã từ tháng 1/2018 đến 14/12/2018 là:
6.266.587.000 đồng.
Tổng chi ngân sách từ tháng 1/2018 đến 14/12/2018 là: 5.977.519.000 đồng.
+ Về tín dụng: Xã đã phối hợp với Ngân hàng chính sách huyện giải ngân cho
hộ nghèo, học sinh sinh viên và chương trình nước sạch vệ sinh môi trường vay để
phát triển sản xuất qua các tổ chức hội tổng giải ngân đến ngày 18/11/2018 là:
986.000.000 đồng chẵn.
Cụ thể: Đoàn Thanh niên 228.000.000 đồng:
Hội Phụ nữ : 554.000.000 đồn.
Hội Nông dân : 204.000.000 đồng.
Vận động các hộ vay đã đến hạn trả nợ để trả nợ cho ngân hàng CSXH cả gốc
và lãi đúng thời hạn.
- Thương mại, dịch vụ
Tiếp tục khuyến khích và tuyên truyền, vận động nhân dân đầu tư mở cửa hàng
kinh doanh thương mại, bán hàng hoá; dịch vụ sửa chữa xe đạp, xe máy. Mặc dù quy
mô còn nhỏ nhưng bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
40
4.1.2.2. Về xã hội
- Văn hóa
Xã thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện công tác toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư; Ngay đầu năm xã đã chỉ đạo các
bản đăng ký xây dựng bản văn hoá, gia đình văn hoá, tổ chức tuyên truyền nhân dân
xóa bỏ các hủ tục lạc hậu; không truyền đạo trái phép; thực hiện nội dung ký cam
kết "5 có, 5 không".
Nhân dân các bản có điện đa số đã có tivi, máy thu thanh, thu hình để nắm bắt
thông tin thời sự, chính sách, pháp Luật của Đảng và nhà nước, từ đó nâng cao nhận
thức của nhân dân trong cuộc sống.
Tổ chức xây dựng được 277 hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa và
trình giữ nguyên 1 bản đạt bản văn hóa, trình mới cấp trên xem xét 4 bản đạt bản
văn hóa trong năm 2018.
- An sinh
Thường xuyên chỉ đạo công an xã duy trì giao ban hàng tháng, để nắm bắt tình
hình, phối hợp với công an huyện phụ trách xây dựng kế hoạch trực bảo vệ an ninh
trật tự trên địa bàn trong các ngày lễ lớn, triển khai thực hiện đợt cao điểm, truy
quét và trấn áp các loại tội phạm, nhất là tội phạm về ma tuý và các tệ nạn xã hội,
đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn xã.
- Giáo dục đào tạo
Trong năm 2018 UBND xã cùng phối hợp phòng giáo dục và 3 nhà trường
tổ chức giảng dạy, học tập và thực hiện tốt mọi chế độ chính sách đối với thầy và
trò đạt được kết quả cao hoàn thành tốt năm học 2018 - 2019.
Hiện tại 3 trường gồm có cán bộ, giáo viên và các em học sinh cụ thể như sau:
Trường Mầm non: 3 cán bộ quản lý, 11 giáo viên, 2 nhân viên, 335 học sinh,
11 phòng học, 11 lớp.
Trường PTDTBT Tiểu học: 3 cán bộ quản lý, 29 giáo viên, 5 nhân viên, 492
học sinh, 19 phòng học (giảm 6 phòng học so với năm học 2017-2018 do xuống
cấp), gồm 1 điểm lẻ. Công tác phổ cập giáo dục bậc tiểu học đạt 94,29 %.
Trường PTDTBT THCS: 1 cán bộ quản lý, 15 giáo viên, 2 nhân viên, 344 học
sinh. Về công tác phổ cập giáo dục đạt 82 % chỉ tiêu giao.
41
- Công tác y tế
Trạm y tế xã duy trì và thực hiện có hiệu quả công tác khám, chữa bệnh và
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chương trình y tế
quốc gia trên địa bàn; tăng cường công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh và
công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, cơ bản nhân dân đã thực hiện tốt các chương
trình y tế quốc gia, ăn uống hợp vệ sinh, chủ động phòng và khám chữa bệnh.
UBND xã phối hợp với Bệnh viện phục hồi chức năng tuyên truyền vận động
người cao tuổi đến khám chữa bệnh tại bệnh viện với tổng số người tham gia là: 43
người.
Công tác y tế của xã đã có nhiều tiến bộ, công tác khám chữa bệnh và chăm
sóc sức khỏe đảm bảo kịp thời, hiệu quả.
Trong năm 2018 trạm y tế xã đã khám dự phòng cho 1065 người và khám kê
đơn cho 632 người, chuyển tuyến viện 78 bệnh nhân.
Tiêm chủng: BCG được 72 đối tượng:
+ Híp được: 77 đối tượng.
+ 0PV được: 91 đối tượng.
+ Số trẻ em được tiêm chủng đầy đủ: 104 trẻ.
- Công tác PCTT – TKCN
Trong năm 2018 UBND xã đã tổ chức kiện toàn Ban chỉ đạo PCLB -
TKCN xây dựng phương án, kế hoạch và phân công nhiệm vụ cho các thành viên
Ban chỉ đạo, thường xuyên kiểm tra những điểm có nguy cơ sạt lở, các công trình
ven suối, tuyên truyền vận động nhân dân phòng tránh thiên tai, sửa chữa các công
trình giao thông, thủy lợi trước mùa mưa lũ.
Trong năm 2018 số diện tích bị ảnh hưởng 28.457,2 m2 lúa ruộng tại các
bản Nông Cốc B, Nậm Nhứ, Nà Nôm, trong đó số diện tích bị ảnh hưởng do thủy
điện Nậm Hóa I dâng lên ngập tại bản Nà Nôm là 11.868,40m2 lúa ruộng. Do mưa
dài ngày nhiều đoạn đường đã bị sạt lở cụ thể tuyến tỉnh lộ 108 tại km số 5 địa phận
bản Phiêng Mặt đường bị sụt lún nghiêm trọng giao thông đi lại khó khăn, tại km số
6 đường tỉnh lộ 108 đường bị sạt ta luy âm; tuyến huyện lộ đoạn Há Tầu xuống
trung tâm xã bị sạt lở ta luy dương; tuyến đường vào khu di tích tại km số 2 đường
bị sạt ta luy âm, tại km số 4 sạt ta luy dương.
42
- Công tác phòng cháy chữa cháy rừng
Xác định các bản trọng điểm để tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân
thực hiện công tác quản lý bảo vệ rừng và công bố quy hoạch chuyển đổi 3 loại
rừng, đảm bảo giữ gìn được môi trường sinh thái, cải thiện, giúp nhân dân ổn định
sản xuất, hướng dẫn nhân dân canh tác sử dụng đất có hiệu quả, không vi phạm
pháp luật.
Vận động quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ rừng và phát triển rừng; đấu
tranh ngăn chặn việc khai thác phá rừng làm nương, mua bán, vận chuyển tàng trữ
lâm sản trái phép trên địa bàn xã; năm 2018 toàn xã không xảy ra cháy rừng.
4.1.3. Những thuận lợi và khó khăn
4.1.3.1. Thuận lợi
Xã được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của huyện uỷ, HĐND,
UBND huyện, các phòng, ban chuyên môn của huyện Thuận Châu; sự phối hợp chỉ
đạo có hiệu quả giữa Thường trực Đảng uỷ, HĐND, UBND, UBMTTQVN xã; sự
phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan đơn vị và các bản trong xã; các
chương trình, dự án hỗ trợ hộ nghèo phát triển sản xuất được triển khai; Đặc biệt
với sự nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết, thống nhất của cả hệ thống chính
trị và nhân dân các dân tộc của xã nên năm 2018 tình hình kinh tế của xã đã từng
bước phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng
được đảm bảo, không có tình huống xấu và bất ngờ xảy ra; các lĩnh vực về văn hoá,
giáo dục, y tế, giao thông,… có nhiều tiến bộ; cải cách hành chính được triển khai;
công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí được duy trì;
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện.
4.1.3.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, song xã Long Hẹ còn gặp không ít những
khó khăn, thách thức như: cơ sở vật chất còn thiếu; trình độ, năng lực của cán bộ xã
và nhân dân còn hạn chế và không đều; giao thông đi lại tuy đã được quan tâm đầu
tư, nhưng đi lại vẫn còn khó khăn, giải quyết việc làm cho những độ tuổi lao động
có trình độ chuyên môn chưa kịp thời, một số thanh niên đi làm thuê ở các thành
phố lớn gây khó khăn trong công tác quản lý.
43
4.2. Đánh giá hiện tượng thời tiết cực đoan và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
đến sản xuất nông nghiệp
4.2.1. Đánh giá hiện tượng thời tiết cực đoan trên địa bàn xã Long Hẹ
Trong những năm gần đây tại xã Long Hẹ xảy ra nhiều hiện tượng thời tiết cực
đoan: hạn hán rét đậm rét hại, lũ quét, sạt lở đất, nắng nóng và mưa đá, sương muối
bất thường. Trong đó, loại hình hạn hán, sạt lở đất và rét đậm rét hại có tần suất
thường xuyên, ảnh hưởng nhiều đến đời sống sinh hoạt và phát triển kinh tế xã hội
của xã. Vào mùa gieo trồng thường xuất hiện các trận mưa đá kèm theo gió lốc, gây
hiện tượng lũ quét, rửa trôi đất trên lúa nương, gây hiện tượng các cành cây ăn quả
gẫy đi, quả thì rơi hết làm cho người dân không có thu hoạch và mất mùa. Vào mùa
thu hoạch thì xuất hiện những trận mưa to, mưa phùn, làm cho người dân không có
thời gian đi thu hoạch. Mưa và hạn hán kéo dài cũng tạo điều kiện cho nhiều loại
sâu bệnh ở cây ngô, lúa phát triển ảnh hưởng đến năng xuất. Mưa nắng thất thường
là hiện tượng thời tiết rất bất lợi cho cây trồng và vật nuôi. Thời tiết thất thường tạo
điều kiện thuận lợi cho cho các loại sâu bệnh, côn trùng phát triển phá hoại mùa
màng và dịch bệnh vật nuôi phát triển mạnh. Đặc biệt ở cây ngô những năm gần đây
do mưa nắng thất thường và mưa nhiều vào lúc ra hoa nên hoa trổ không tập trung,
ra hoa nhiều đợt, chín không đồng đều ra nhiều vòi năng xuất giảm.
Vật nuôi cũng là nguồn thu nhập quan trọng của người dân trong xã tuy nhiên do
thời tiết thay đổi thất thường nên dịch bệnh tăng và ảnh hưởng lớn đến các đàn gia
súc, gia cầm ở địa phương, các bệnh lở mồm, long móng, tụ huyết trùng, dịch cúm
gia cầm và cước chân phát triển nhiều, nhiều bệnh ở gia súc xuất hiện như viêm loét
miệng, còn gia cầm thì bị bệnh phân trắng, phân xanh dẫn đến phát triển chậm. Dịch
bệnh bùng phát, chăn nuôi gặp nhiều rủi ro nên các đàn gia súc giảm nhiều nhất là
những năm gần đây rét đậm rét hại kéo dài làm chết rất nhiều gia súc.
44
4.2.1.1. Tình hình mưa bão
( Nguồn: UBND xã Long Hẹ)[10]
Hình 4.1. Biểu đồ lượng mưa trung bình tháng trong năm tại xã Long Hẹ
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 tới tháng 9, lượng mưa cao nhất vào tháng
6, 7,8,9 hàng năm. Hình 4.1 cho thấy rõ sự thay đổi lượng mưa giữa các tháng
trong năm. Đặc biệt là năm 2016 lượng mưa đạt tới 400mm cao nhất vào tháng 7.
Có thể thấy rằng lượng mưa trung bình các tháng năm 2016 là khá cao so với các
năm khác.
Vào mùa mưa, mưa bão lớn kèm theo bão, lốc, lũ quét, mưa đá đã làm
thiệt hại về tài sản, hoa màu của nhân dân và các công trình công cộng khác
(đường giao thông, công trình thủy lợi,…)
Tổng số nhà bị ảnh hưởng (tốc mái, vỡ ngói,tôn,…) là 10 nhà. Phải di dời 03
hộ dân ra khỏi vùng nguy hiểm; sạt lở đường liên thôn; đất đá sạt lở là hỏng công
trình phụ và chuồng trại chăn nuôi.
Tổng diện tích đất bị sạt sở là 5ha trong đó:
- Sạt lở đất nông nghiệp 2ha.
- Sạt lở đất tự nhiên 3ha.
45
4.2.1.2. Tình hình hạn hán
Trong những năm gần đây khí hậu thay đổi rất phức tạp, nắng hạn kéo
dài và xuất hiện nhiều hơn. Đầu năm thời tiết diễn biến bất lợi cho sản
xuất nông lâm nghiệp, rét đậm, rét hại ở đầu vụ, hạn hán kéo dài ở giữa và
gần cuối vụ xuân đã làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển của các loại cây
trồng, cuối tháng 8, đầu tháng 9 trên địa bàn xuất hiện dịch tai xanh trên đàn
lợn đã làm thiệt hại không nhỏ tới sản xuất và chăn nuôi.
(Nguồn: UBND xã Long Hẹ)[10]
Hình 4.2. Biểu đồ số giờ nắng các tháng trong năm tại xã Long Hẹ
BĐKH đã có ảnh hưởng rõ rệt đến sự thay đổi của thời tiết. Số giờ nắng
giữa các năm và các tháng có sự biến đổi rất lớn. Tháng 3 năm 2018 số giờ
nắng rất thấp là 54 giờ so với năm 2016 số giờ nắng là 150 giờ. Năm 2018 số
giờ nắng trong tháng 5 là 190 giờ.
Tháng 12 năm 2018 số giờ nắng là 57 thấp hơn hẳn so với cùng kỳ các năm
trước đó. Nhìn chung trong 3 năm 2016, 2017, 2018 có số giờ nắng rất khác nhau,
sự thay đổi không theo quy luật hàng năm mà thay đổi thất thường.
Qua hình 4.1 và 4.2 cho thấy vào các tháng đầu năm và cuối năm lượng mưa
ít cùng với số giờ nắng tương đối nhiều nên gây ra tình trạng hạn kéo dài. Lượng
mưa đạt thấp trong giai đoạn từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau và tăng cao trong
khoảng từ tháng 6 đến tháng 8. Do thời tiết nắng nóng, không mưa kéo dài và
nguồn nước mặt dùng để tưới tiêu cho nông nghiệp ngày càng cạn kiệt đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất trên địa bàn toàn xã Long Hẹ.
46
4.2.1.3. Rét đậm, rét hại
Rét hàng năm cũng là một trong những nguyên nhân gây ra không ít khó khăn
trong sản xuất nông nghiệp và gây ra tổn thất rất lớn.
(Nguồn: UBND xã Long Hẹ)[10]
Hình 4.3. Biểu đồ nhiệt độ trung bình các tháng trong năm tại xã Long Hẹ
Trong những năm gần đây nhiệt độ có sự thay đổi rõ rệt, vào tháng 2 năm 2016 nhiệt độ trung bình là 140C nhưng đến năm 2018 nhiệt độ đã giảm 40C uống còn 10 0C. Tháng 12 năm 2018 nhiệt độ trung bình là 80C thấp hơn so với năm 2017 là 100C. Như vậy có thể thấy nhiệt độ giảm mạnh gây ra những đợt rét đậm,
rét hại rất nghiêm trọng.
Đối với lúa vụ Xuân, rét làm cho rễ bị nghẹt không phát triển được. Những
năm gần đây, rét kéo dài không những ảnh hưởng đến lúa vụ Xuân mà còn ảnh
hưởng lớn đến thời vụ lúa mùa. Năm 2018, rét đậm kéo dài làm chậm thời vụ vụ
mùa 1 tháng. Tuy nhiên, hầu hết diện tích trồng lúa nương nên sẽ không ảnh hưởng
nhiều đến chu kỳ sinh trưởng phát triển của lúa. Nhận xét chung : qua hình 4.1,
4.2, 4.3 ta thấy biến đổi khí hậu thể hiện rõ qua các thông số khí tượng như lượng
mưa, nhiệt độ không khí. Nhiệt độ và lượng mưa biến động đáng kể qua các năm.
Sự phân bố lượng mưa giữa các tháng trong năm thì biến động lớn. Mưa tập trung
vào một thời gian ngắn, mưa rất to nên dễ gây ra lũ, lụt, sạt lở,.... Như vậy, có thể
thấy rằng tình hình thời tiết đang diễn biến ngày càng phức tạp và theo chiều hướng
xấu đi đồng thời cũng để lại những hậu quả nặng nề cho người dân.
47
4.2.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp
Sản xuất trồng trọt đóng vai trò quan trọng trong đời sống của đồng bào dân
tộc H’mông tại xã Long Hẹ. Một số biểu hiện của BĐKH làm mất diện tích đất
canh tác. Xã Long Hẹ vốn được đặc trưng bởi địa hình phức tạp và có ít diện tích
đất canh tác. Một số biểu hiện của biến đổi khí hậu như sạt lở đất, lũ quét làm mất
diện tích đất canh tác làm hạn chế nguồn vốn sinh kế cho người dân, đặc biệt là
người nghèo. Hạn hán, rét đậm rét hại làm giảm hoặc phá hủy các diện tích đã được
gieo trồng từ đó giảm sản lượng lương thực sản xuất được.
Biến đổi khí hậu đã có những tác động rõ rệt và sẽ càng ảnh hưởng lớn
trong tương lai, đặc biệt là vấn đề hạn hán. Các sông suối ngày càng nhỏ, khô cạn,
ngắn và diện tích bị hạn ngày càng tăng.
Đối với cây trồng, do lúa, ngô là cây trồng chính, có diện tích lớn nên được
người dân đánh giá là cây trồng bị tác động nhiều nhất.Trong vòng 5-6 năm gần đây
do hạn kéo dài nên các loại sâu bệnh hại như đạo ôn, sâu cuốn lá, rầy nâu phát triển
rất mạnh.
Bảng 4.4: Tác động của biến đổi khí hậu đến trồng trọt
Tác động của BĐKH
Số hộ Tỷ lệ Cây trồng Tác động
Hiện tượng thời tiết cực đoan Hạn kéo dài 78%
Sâu đục thân, ăn lá xuất hiện trên cả xã 39
Lúa 21 42%
Rét đậm, rét hại. Bệnh bó rễ, thời vụ chậm lại, không thể gieo cấy
Hạn kéo dài Ngô hạt ít, cây bị chết, nhiều sâu 42 84%
đục thân
Ngô 38 76%
Mưa nắng thất thường Cây không ra bắp, gây thối bắp, gây sạt lở nương ngô
21 42%
Rau màu các loại Hạn kéo dài Rệp màu xanh đen phát triển làm cây lùn xuống Xuất hiện nhiều sâu ăn lá
Táp lá, cây không phát triển 40 80%
Rét đậm rét hại
(Nguồn: Kết quả điều tra, 2019)
48
Trong vòng 3 - 4 năm gần đây do hạn kéo dài nên các loại sâu bệnh hại như
đạo n, sâu cuốn lá, rầy nâu phát triển rất mạnh. Một số bệnh mới xuất hiện như lùn
sọc đen, nhện vàng, bọ xít đen gây thiệt hại đến năng suất lúa rất nhiều.
Đối với lúa vụ Xuân, Rét làm cho rễ bị nghẹt không phát triển được. Những
năm gần đây, Rét kéo dài không những ảnh hưởng đến lúa vụ Xuân mà còn ảnh
hưởng lớn đến thời vụ lúa mùa. Rét đậm kéo dài làm chậm thời vụ vụ Mùa 1 tháng.
Tuy nhiên, hầu hết diện tích trồng lúa nương địa phương nên sẽ không ảnh hưởng
nhiều đến chu kỳ sinh trưởng phát triển của lúa. Một tỉ lệ nhỏ các vùng đất thiếu
nước vào cuối vụ mùa thường được trồng bằng lúa ngắn ngày (plê péc lì) bị ảnh
hưởng nếu lịch gieo trồng bị chậm. Hạn kéo dài cũng tạo điều cho nhiều loại sâu,
bệnh ở cây ngô và đậu đỗ phát triển. Ở ngô, rệp cờ đen, sâu đục thân phát triển
nhiều hơn, ảnh hưởng đến năng suất. Do ảnh hưởng của hạn, năng suất giảm nên
diện tích ngô trên nương giảm đi đáng kể.
Hạn, thiếu nước làm cho cây đỗ xanh, rau cải xanh cằn cỗi, phát triển chậm,
trái nhỏ.
Mưa, nắng thất thường là hiện tượng thời tiết rất bất lợi cho cây trồng và vật
nuôi. Điều kiện thời tiết thất thường tạo điều kiện thuận lợi cho các loại sâu, bệnh,
côn trùng phá hoại cây trồng và dịch bệnh ở vật nuôi phát triển. Tuy nhiên, theo
người dân những năm gần đây do mưa nắng thất thường, mưa nhiều tập trung vào
lúc ra hoa nên hoa trổ không tập trung, hoa ra nhiều đợt, chín không đều, là phát
triển nhiều, ra nhiều vòi và năng suất giảm. Một trong những tác động của biến đổi
khí hậu đến sản xuất chăn nuôi là thay đổi sự có sẵn nguồn thức ăn cho chăn nuôi.
Nhiệt độ xuống thấp hoặc tăng cao đều làm giảm diện tích đồng cỏ cho chăn nuôi gia
súc nhai lại và giảm năng suất cây trồng cung cấp lương thực cho gia súc dạ dày.
Nhiệt độ tăng vào mùa hè dẫn đến nhu cầu nước cho vật nuôi tăng lên rõ
rệt, trong khi đó nguồn nước cung cấp không được đáp ứng một cách đầy đủ.
Biến đổi khí hậu có thể làm giảm khả năng sinh trưởng và sản xuất của vật
nuôi như giảm tăng trưởng, sinh sản và sản xuất sữa thông qua giảm chất lượng
thức ăn và tăng nhiệt độ xung quanh.
49
Nhiệt độ thấp (rét đậm và rét hại) làm khan hiếm nguồn thức ăn cho vật
nuôi đồng thời làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể, tăng nguy cơ mắc
bệnh từ đó gây chết vật nuôi.
Bảng 4.5. Tác động của biến đổi khí hậu đến chăn nuôi
Số hộ Tỷ lệ HTTTCĐ Tác động Vật nuôi
Thiếu thức ăn, vật nuôi không 36 72% Rét đậm rét
hại phát triển, gây chết trong vật nuôi
Lợn Thiếu thức ăn, mắc nhiều bệnh về 24 48%
Hạn hán kéo dài đường ruột
Thiếu nguồn thức ăn 32 64%
Mất sức đề kháng Hạn hán kéo dài
24 48% Viêm loét miệng Thời tiết thất thường
Thiếu thức ăn, vật nuôi không 36 72% Dê, trâu, bò, chó phát triển, gây chết trong vật nuôi Rét đậm rét hại Bị các bệnh về đường hô hấp
Thiếu nguồn thức ăn, nước uống 33 66% Hạn hán kéo
dài Xuất hiện bệnh gà rù, tiêu chảy
Gia cầm 28 56%
Rét đận rét hại Mất sức đề kháng Dịch cúm gia cầm phát triển mạnh
(Nguồn: Kết quả điều tra, 2019)
Vật nuôi cũng là 1 nguồn thu nhập quan trọng của người dân ở xã. Tuy
nhiên, do thời tiết thay đổi thất thường nên dịch bệnh tăng và ảnh hưởng lớn
đến đàn gia súc gia cầm ở địa phương. Các bệnh lở mồm long móng, tụ huyết
trùng và cước chân bùng phát nhiều và nhanh.
4.3. Các kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc H'mông trong đời sống sinh
hoạt và sản xuất
4.3.1. KTBĐ của đồng bào dân tộc H’mông trong sản xuất
4.3.1.1. Các loài giống bản địa (GBĐ) và kiến thức bản địa liên quan đến giống
bản địa.
50
Bảng 4.6: Kết quả phân loại nhóm cây trồng xã Long Hẹ
Nguồn Cây trồng bản địa Cây trồng phổ biến tại địa phương
Cây trồng có giá trị hàng hóa (bán được) - Hạt bí, rau cải - Cây ăn quả: mận, đào, - Đào
hồng, nhãn,…. xanh,dưa,gừng, - Bí đỏ, rau cải
- Cây rau: Bí đỏ, rau cải xanh, rau cải xanh, cải xanh, các cây rau 1. Đất
cải bắp, các cây rau bắp. và gia vị khác, dưa vườn
và gia vị khác, hành, dưa mèo, - Mận, đào, mèo, dưa chuột, đỗ
dưa chuột, đỗ xanh,gừng,…. hồng, nhãn. xanh,gừng,….
- Cây ăn quả: - Đào, táo mèo, - Cây ăn quả: đào, táo mèo, đào, táo mèo, chuối. xoài, chanh leo, chuối,… xoài, chanh leo, - Lúa nếp địa - Cây lương thực; Lúa nếp địa chuối,… phương, nếp cẩm, phương, nếp cẩm, lúa tẻ 2. Đất - Cây lương lúa tẻ thái,tẻ dê. thái,tẻ dê, ngô tẻ và nếp nương thực; các giống - Ngô tẻ và nếp địa địa phương, các giống ngô lai; rẫy ngô lai; DK phương DK 8868, ngô 888,… đỗ 8868, ngô 888, - Dưa mèo, bí đỏ, xanh, dưa mèo, bí đỏ, gừng, dưa mèo, bí đỏ, rau cải xanh., đỗ rau cải xanh. rau cải xanh. xanh, gừng
(Nguồn: Kết quả điều tra, 2019)
Thông qua kết quả điều cho thấy cả 50 hộ điều tra đều trồng các loại cây
trồng và phân loại đất như bảng 4.6.
Do tính chất sống du canh du cư, phát nương làm rẫy của người Hmong nên
có nhiều giống cây trồng trong đó có lúa cũng được luân canh theo lối sống của
đồng bào dân tộc H'mông. Giá trị cây trồng bản địa đã bị mai một ở bản, các loại
cây trồng bản địa trong bản chỉ là các cây ăn quả hay cây rau trong vườn nhà. Các
loại lúa nương, lúa nước hay ngô địa phương đã bị thay thế dần dần bằng các giống
mới có năng suất cao hơn giống cũ. Rau trong vườn chủ yếu là các loại rau rừng và
rau tự trồng. Rau tự trồng thường là ngọn bí, quả bí, rau cải và một số loại đỗ,
khoai. Nguồn rau rừng chủ yếu là các loại măng, ngót rừng,... và một số loại lá cây
có tác dụng chữa bệnh gan, thận, đau bụng, gãy xương, bị sốt, bị rách thịt,....
51
Bảng 4.7: Cây trồng và vật nuôi bản địa có khả năng thích ứng BĐKH trên địa
bàn xã Long Hẹ
Thời gian Cây bản địa Ưu điểm Khả năng thích ứng Nguồn trồng
Lúa nếp địa Gạo ngon, dẻo - Có khả năng chống
phương vừa phải, chi phí chịu sâu bệnh, chịu
(Tiếng dân đầu tư cho giống hạn tốt, phù hợp với
tộc – Plê plảo lúa này không điều kiện thời tiết.
hủa) cao, giá bán ra - Là giống phản ứng
Trên 80 thị trường cao, ánh sáng ngày ngắn, ít
Bản địa năm năng suất cao. bị nhiễm sâu bệnh hơn
các giống lúa khác.
- Ít sâu bệnh, không sử
dụng phân hóa học,
thuốc trừ sâu.
Lúa nếp cẩm Thời gian sinh Có khả năng chống
(Tiếng dân trưởng ngắn, chịu sâu bệnh tốt.
tộc – Plê plảo năng suất cao. Thích hợp với những
đúc) Bản địa Trên 50 Cơm ngon, dẻo, mảnh nương mới,
năm thơm giá bán chống đổ tốt, do đó có
cao hơn các thể chủ động được
giống lúa khác. thời vụ.
Lúa tẻ thái,tẻ Cho thành phẩm - Thích ứng với
dê (Tiếng gạo thơm dẻo và BĐKH tốt, chịu được
dân tộc – Plê giống lúa dài hạn.
chua thái, plê Trên 40 ngày, cây cao, - Có thể thích nghi với
chì) Bản địa năm hạt to và dài. nhiều loại đất, đất đồi,
đất đá,…
- Ít sâu bệnh, không sử
52
dụng phân hóa học,
thuốc trừ sâu.
- Được bà con lựa
chọn trồng khá phổ
biến.
Ngô địa - Dễ trồng, ít tốn - Phù hợp với điều
phương công chăm sóc. kiện
(Tiếng dân Có thể tận dụng địa phương, chịu hạn
tộc – Pót kừ cả thân, lá, ngọn tốt ít sâu bệnh được bà
đaw) và củ. con lựa chọn trồng
- Hạt và bắp to, khá phổ biến. kết hợp
Bản địa Trên 60 cây cao. trồng xen canh tại các
năm - Dễ bảo quản. khu rừng trồng năm
thứ nhất, thứ hai, xen
với các loại rau, đỗ,
đậu để tận dụng và
tăng thu nhập.
Đỗ xanh, đậu - Chăm sóc đơn Là cây có thể trồng
xanh, rau cải giản, không tốn trên đất có độ màu mỡ
xanh, bí đỏ công. Chất không cao và có thể
và dưa mèo Trên 40 lượng hạt ngon, chịu hạn tốt, khả năng
(Tiếng dân Bản địa năm trồng xen kễ với chống chịu sâu bệnh
tộc – Tảu ngô. cao, là loại cây có thể
chuát, tảu - Giống ngắn cải tạo đất tốt.
páo, zóc ngày khoảng 85-
chuát, tóc đà, 90 ngày được
đíc) thu.
Gừng (Tiếng Vừa là cây gia Có độ thích ứng cao,
dân tộc – vị và cũng là cây có thể trồng xen canh
Khía) Bản địa 60 năm dược liệu, dễ với cây khác. Cây
trồng, dễ chăm Gừng
53
sóc, ít sâu bệnh, trồng dưới tán rừng tự
dễ bán. nhiên, rừng trồng, làm
tăng độ dày cho lớp
cây bụi, thảm tươi.
Có tác dụng Là cây có thích với Cây táo mèo
kháng khuẩn, nhiệt độ cao và chịu (Tiếng dân
cường tim, làm được hạn tốt. tộc – Chí tuát
zíc) Bản địa 40 năm giãn mạch vành, Được trồng xen canh
chống rối loạn với ngô, lúa,… trong 3
nhịp tim, hạ áp, đến 4 năm đầu.
bảo vệ tế bào
gan,….
Gà H’mông Chất lượng thịt Được đánh giá có sức
cao, chắc ngọt, chống chịu bệnh tật (Tiếng dân
gà H’mông tốt, thích hợp với tộc – Kách)
được coi là vị BĐKH trên địa bàn.
Bản địa Trên 80 thuốc có tác
năm dụng bổ dưỡng
sức khỏe nên giá
bán cao
Lợn H’mông Lợn H’mông Thích nghi tốt với
(Tiếng dân vùng cao xẻ thịt điều kiện khí hậu khắc
tộc – Bua) ra thớ rắn chắc, nghiệt của vùng núi
màu thịt tươi, cao, lạnh tới 4-5 độ,
Bản địa Trên 70 khi chế biến bì biên độ chênh lệch
năm dày, nạc dai, mỡ ngày đêm tới 10-15
không ngán và độ, dễ nuôi, phàm ăn
nhiều, có vị và có sức đề kháng
thơm ngon. cao, chống chịu bệnh
tốt khỏe mạnh.
(Nguồn: Kết quả điều tra, 2019)
54
KTBĐ là nền tảng cơ bản cho sự tự cung tự cấp và tự quyết của người dân
giúp cho người dân ít bị phụ thuộc vào bên ngoài giảm tình trạng dễ bị tổn thương
tại cộng đồng do BĐKH gây ra.
Người dân đã quen với các kỹ thuật bản địa nên họ có thể hiểu, vận dụng và
duy trì các kỹ thuật đó tốt hơn so với các kỹ thuật mới đưa vào từ bên ngoài nên
kinh nghiệm và tiếng nói của cộng đồng được phát huy và sử dụng có hiệu quả.
4.3.1.2. Kiến thức bản địa và kinh nghiệm trong hệ thống chọn địa điểm trồng và làm đất.
Do đặc điểm người H’mông sống ở lưng núi, đất có độ dốc cao nên việc chọn
đất để canh tác cũng khác. Trồng chuối thì không trồng ở nơi quá cao và trồng ở hai
bên, bên trên và dưới của mảnh nương đồi, trồng ở những chỗ có đá không canh tác
được (trồng những vùng đồi núi cao không nên trồng lên tận đỉnh, chỉ trồng ở phần
lưng chừng núi), khi mưa gió thất thường mà trồng nơi cao quá cây hay bị gió làm
gãy, đổ. Trồng cây phải so le nhau để tận dụng ánh sáng cho cây khỏi bị cớm nắng.
Đất trồng trên nương thì phải chọn loại đất có màu đen, lẫn ít đất đá thì
mới tốt không mất công chăm sóc và bón phân. Người H’mông canh tác hoàn toàn
trên nương, họ trồng lúa nếp còn nhiều hơn lúa tẻ do địa hình và tập quán sống ở
trên cao. Chính vì vậy mà không có đất để trồng lúa nước nhiều.
Bảng 4.8 : Lịch canh tác nương của người H’mông
Công việc
Tháng (dương lịch) 1 – 2 Tháng (âm lịch) 1
2 3
3 4
4 5
Phát nương. Phát nương, đốt nương, cuốc nương, trồng ngô sớm (Ngô địa phương). Đốt nương, cuốc nương, làm cỏ nương ngô sớm, gieo trồng lúa nương. Làm cỏ, gieo trồng lúa nương, trồng thêm ngô lai, chăm sóc cây trồng trên nương. Làm cỏ nương ngô, nương lúa, sắn. Làm cỏ lúa nương. Chăm sóc, làm cỏ nương. Chăm sóc, thu hoạch ngô lai. Thu hoạch lúa nương, ngô nương. 5 6 7 8 9 6 7 8 9 10
(Nguồn: Kết quả điều tra, 2019)
55
Với tất cả các loại nương, người H'mông thực hiện một loạt các biện pháp
kỹ thuật truyền thống liên hoàn: chọn đất, phá rừng nương, đốt, dọn xới đất, cuốc
lật, trồng tỉa, chăm sóc, thu hoạch. Công cụ lao động đơn giản, bao gồm cuốc đào
đất,cuốc xới đất, dao, rìu, liềm, nhíp,….
4.3.2. KTBĐ của đồng bào dân tộc H’mông trong dự báo thời tiết
Bảng 4.9: Kinh nghiệm trong dự báo thời tiết của dân tộc H’mông
tại xã Long Hẹ
Số hộ Tỷ lệ Dấu hiệu
26 52% Cây nhãn, xoài sai quả
Cua đá bò lên bờ Hiện tượng Năm đó thời tiết nắng nóng. Sắp có sạt lở đất 43 86%
Sắp có mưa lớn 39 78%
Kiến di chuyển theo đàn đông qua đường Ban đêm trời nhiều sao Sẽ nắng to 31 62%
21 42% Rết chạy vào nhà Sắp có mưa to
37 74% Đom đóm xuất hiện nhiều vào ban đêm Ngày mai sẽ nắng
Tối hôm đó sẽ có 32 64% Nghe thấy con cóc kêu mưa
(Nguồn: Kết quả điều tra, 2019)
Như vậy, ngoài việc dự báo các hiện tượng thời tiết thông thường, người dân
địa phương đã phần nào biết trước được một số HTTTCĐ hay thiên tai để phòng
tránh. Ví dụ: Khi biết sắp có hạn nặng thì người dân sẽ chủ động chuyển đổi một
phần diện tích lúa hay bị hạn, không có khả năng tưới sang trồng cây màu hoặc dự
báo trời rét đậm thì lúa xuân sẽ cấy chậm lại so với nông lịch của tỉnh đề ra,….
Ngày nay, do ảnh hưởng của BĐKH nên các quy luật diễn biến thời tiết
hàng năm có lệch đi, không còn chính xác như trước kia nữa nên sản xuất
nông nghiệp, nhất là trồng trọt cũng có nhiều thay đổi để thích ứng.
Các KTBĐ này ngày nay vẫn được người dân địa phương sử dụng kết
hợp với thông tin dự báo thời tiết trên truyền hình để điều chỉnh các hoạt động
trong sản xuất và sinh hoạt phù hợp với diễn biến của thời tiết, khí hậu. Các
KTBĐ này có ưu điểm là gắn liền với hoạt động sản xuất của người dân tại
56
địa phương và có khả năng dự báo đúng một số HTTTCĐ hay thiên tai xảy ra
sau một thời gian khá dài giúp cho đồng bào có khả năng thích ứng tốt hơn.
4.3.3. Đặc điểm canh tác của đồng bào dân tộc H’mông
4.3.3.1. Đặc điểm canh tác
Người H’mông đã tích luỹ được vốn kinh nghiệm lâu đời trong việc sử dụng
đất đai và kỹ thuật canh tác nương rẫy. Người H’mông họ tiến hành canh tác nương
rẫy theo kinh nghiệm truyền thống, kỹ thuật canh tác có từ lâu đời.
- Quá trình khai khẩn nương rẫy
Việc khai khẩn một bãi nương được bắt đầu bằng việc chọn bãi, sau đó
đến phát và đốt cây. Qua ba khâu này coi như đã có một nương rẫy để tiến hành sản
xuất. Theo kinh nghiệm của đồng bào, bãi đất tốt để làm nương
phải là nơi có nhiều cây. Bởi cây cối rậm rạp sau khi đốt đi thành tro sẽ là
nguồn phân dồi dào cho đất, càng nhiều cây thì lượng tro càng lớn, đất càng tốt,
đồng thời đất có độ dốc không cao quá. Càng ít dốc, càng thuận lợi cho quá trình
canh tác; sức bào mòn của nước mưa ít nên lượng mùn được giữ lại nhiều, quá trình
đi lại trong lúc canh tác dễ dàng hơn. Nhưng hiện nay do dân số phát triển, diện tích
đất hoang hoá ngày càng nhiều nên đồng bào phải tiến hành khai khẩn ở cả những
mảnh đất khô cằn, nhiều sỏi đá, dốc cao,… khó khăn cho sản xuất.
- Quá trình canh tác
+ Đối với canh tác ngô đồi
Gieo trồng theo hốc dùng cuốc bổ: Phương thức này được áp dụng với
những vùng có trình độ thâm canh cao. Theo cách này, quy trình công việc từ làm
đất đến gieo trồng được thực hiện nhiều, thích hợp với những nương dốc, nương có
quá nhiều sỏi đá không dùng cày được.
Cách bỏ hốc thường được tiến hành từ lên cao xuống thấp (theo độ dốc của
nương). Đồng bào bổ hốc theo hàng ngang; khoảng giữa hàng và cây khoảng 90cm
đến 1m. Người cuốc hốc đi trước, người tra hạt theo sau. Mỗi hốc sẽ cho 4 đến 5 hạt
ngô kèm theo hạt bí. Khi bỏ hốc hàng dưới thì bỏ đất xuống lấp cho các hốc hàng
trên, nên đỡ công lấp các hố đã tra hạt.
Gieo trồng theo cách này cho phép tận dụng được những mảnh đất hẹp,
những góc vườn, góc nương, tích kiệm được thời gian và sức lao động. Cách này
57
còn được áp dụng trong kỹ thuật gieo trồng xen canh; nhưng chỉ mang tính đặc thù
không thể thay thế cho gieo trồng bằng cày được.
+ Đối với canh tác lúa nương
Sau khi đã cày hoặc cuốc lật úp cỏ xuống để một thời gian cho đất ải, cỏ thối
thành phân xanh. Khi gieo hạt, một người sẽ gieo đi trước (nhưng phải là người biết
gieo); những người xới lấp đất sẽ cuốc theo sau, phải xới đều đất để lấp đi những
hạt lúa. Trước khi gieo hạt, sẽ cho thêm những hạt dưa mèo và hạt mía lúa pha với
hạt lúa để gieo trồng cùng nhau. Phương thức này được tiến hành từ dưới mảnh
nương lên trên. Sau khi đã xới đất xong; đối với mảnh nương đã canh tác nhiều
năm, có rất nhiều cỏ thì phải phun thuốc cỏ sạ để ngăn hạt cỏ mộc lên. Đợi khi lúa
lớn lên nếu có nhiều cỏ thì đi làm cỏ và phun thuốc trừ cỏ để trừ cỏ dại.
+ Kỹ thuật xen canh, gối vụ
Do thời tiết chỉ trồng được một vụ lương thực (vụ hè thu) nên đặc điểm
nổi bật ở kỹ thuật canh tác nương rẫy của người H’mông là luôn trồng xen canh, gối
vụ. Điều này để tranh thủ thời tiết hè thu và tăng hệ số quay vòng đất canh tác, tăng
hệ số sử dụng đất đảm bảo nhu cầu về lương thực, thực phẩm,…. Một mảnh nương
người ta có thể trồng nhiều loại cây ngô, rau dền, các loại đỗ, bí đỏ,…. Do quanh
năm bận rộn, nương của người H’mông lúc nào cũng rất sạch. Cách làm này tuy
năng suất cây trồng không cao nhưng tổng thu nhập các loại hoa màu trên phạm vi
diện tích trồng trọt cao, đáp ứng được cao hơn nhu cầu về lương thực, thực
phẩm,…. Hơn nữa, cách này thích hợp với điều kiện tự nhiên của khu vực sinh sống
của đồng bào. Trồng xen canh là biện pháp khoa học để tranh thủ thời tiết, tranh thủ
vòng quay của đất, chống xói mòn ở những nơi đất dốc. Song canh tác nương rẫy có
một vài hạn chế như việc làm nương rẫy rất vất vả, năng suất lại hoàn toàn phụ
thuộc vào tự nhiên nên rất bấp bênh.
+ Canh tác đất vườn nhà
Vườn của người H’mông có thể gần nhà, hoặc xa nhà nhưng khoảng cách
không quá lớn. Họ cũng làm rào bảo vệ nhưng không chăm sóc nhiều, cây cối chủ
yếu tự phát triển. Trong vườn trồng các loại cây như: cây đào, chuối, khoai lang, bí,
tỏi, mía, mận, rau cải, các cây dược liệu,….
58
4.3.3.2. Chăn nuôi
- Chăn nuôi trâu, bò
Nhìn chung, phương thức chăn nuôi trâu, bò của dân tộc H’mông cũng
không có gì phức tạp. Chủ yếu là nuôi gần nhà; để dễ rằng chăm sóc và theo dõi.
Cách làm chuồng của người Hmong ở trên địa bàn xã; họ thường làm kết hợp cùng
với nhà kho để ngô. Kho để ngô thì họ làm kho sàn; rào xung quanh sàn và nhốt
vào: có hộ thì không rào, họ chỉ buộc trâu, bò dưới sàn kho. Sáng sớm thì thả đi ăn,
chiều khoảng 3 đến 4 giờ dắt về chuồng. Có những hộ họ có nhiều đất bỏ hoang; họ
sẽ đi rào quanh rồi thả vào: mỗi 1 tháng chỉ đi thăm 2 đến 3 lần; hoặc sẽ đi làm cơ
sở 2 ở đó để chăm sóc đàn trâu, bò. Đồng nghĩa với việc đó; họ sẽ mang cả lợn, gà
đi nuôi ở đó để tránh dịch bệnh.
- Chăn nuôi gia súc, gia cầm
+ Gia súc. Chuồng: Do quen sống trong môi trường tự nhiên nên chuồng
nuôi gia súc họ sẽ chọn địa điểm sao cho đảm bảo rộng rãi, thoáng mát, giúp lợn có
điều kiện sinh trưởng, phát triển tốt nhất. Chuồng nuôi có mái che; họ rào xung
quanh 1 vùng vòng ngôi chuồng để có khoảng trống giúp lợn có không gian sưởi
nắng, đi lại trong chuồng. Có những bản thì họ sẽ làm mỗi hộ 1 ngôi chuồng cạnh
nhà (không rào); cả bản sẽ thống nhất rào xung quanh bản; thả lợn tự do trong bản,
để lợn có 1 khoảng không gian thật thỏai mái.
Thức ăn cho lợn gồm có các loại rau xanh, ngô xay, sắn, chuối, củ dong,….
Khi cho lợn ăn, họ chia thành 2 loại với lượng thức ăn cân đối với độ tuổi lợn. Cho
lợn ăn 1 ngày 2 bữa đối với lợn lớn, lợn con từ 3 tháng trở xuống là ngày 3 bữa.
Máng ăn thì được làm từ gỗ.
+ Gia cầm. Chuồng: Vị trí chuồng nuôi phải chọn nơi cao ráo, dễ thoát nước,
thoáng mát. Thiết kế chuồng rất quan trọng; chuồng phải là chuồng sàn; thường,
nền sàn làm bằng tre còn phần bên cạnh và bên trên, họ sẽ dùng tấm ván rộng
khoảng 40 đến 50cm đống kín lại chỉ để lại 1 cái cửa để gà đi ra và đi vào. Cách
nuôi gà của người Hmong trên địa bàn xã là thả tự do xung quanh nhà ở, tối thì gà
sẽ tự đi vào chuồng ngủ. Ổ gà thì sẽ lấy những lù cở hỏng dựng trên chuồng để gà
đẻ trứng.
59
Những thức ăn cho gà gồm có ngô, sắn, thóc, ngô xay,…. Khi cho ăn; gà con
thì sẽ cho ăn trước. Do thả gà tự do quanh nhà nên lúc cho ăn phải trông để không
gà của các hộ xung quanh đến ăn cùng.
4.3.4. KTBĐ của đồng bào dân tộc H'mông trong phương pháp chọn giống
4.3.4.1. Giống cây trồng
Trong việc sản xuất nông nghiệp, yếu tố giống là một trong những yếu tố
quan trọng trong sản xuất. Muốn có cây trồng khoẻ thì chắc chắn phải có hạt giống
tốt và khoẻ mạnh.
Vì khâu để giống và chọn giống phải có chất lượng tốt thì cây trồng sau này
sẽ được khoẻ mạnh, chịu đựng được và vượt qua được biến động của môi trường
sống (gặp hạn hoặc gặp lạnh đột ngột).
Hạt giống phải thuần, đúng giống, phải đồng nhất về kích cỡ, giống không bị
lẫn những giống khác, hạt to và tạp chất. Tỷ lệ nảy mầm cao (hơn 85%) và cây phải
có sức sống mạnh. Hạt giống không bị côn trùng phá hoại (sâu mọt), không lẫn
hạch nấm hoặc không mang mầm bệnh nguy hiểm.
4.3.4.2. Giống vật nuôi
Chọn giống trong chăn nuôi, là việc phát hiện và giữ lại những cá thể mang
đặc tính tốt đáp ứng các yêu cầu đề ra và loại thải các cá thể xấu không đạt yêu cầu,
nhằm hoàn thiện giống vật nuôi và nâng cao năng suất vật nuôi.
Phương thức chọn giống vật nuôi của dân tộc H’mông không có gì quá phức tạp.
Việc đầu tiên là: nhìn vào ngoại hình của vật nuôi. Ngoại hình đẹp, đảm bảo
về sức khỏe tốt, chân tay to thăng bằng, lưng thẳng, bụng không sệ, mông và vai
mở, móng gọn và đứng, hai tinh hoàn to và đều có khả năng chống chịu rét, nắng,
mưa khá tốt. Vật nuôi phải đảm bảo về mọi yêu cầu về sinh sản, sinh đẻ tốt. Phải so
sánh ngoại hình thể chất với bố mẹ, ông bà,…. để dự đoán được khả năng sản xuất
của con vật.
Việc tiếp theo là: tìm hiểu về tổ tiên, dòng họ của vật nuôi mà mình chọn;
mục tiêu là đánh giá con vật theo nguồn gốc để biết rõ về phả hệ (lí lịch) của vật
nuôi để có thể dự đoán được những đặc tính di truyền của vật nuôi. Còn giúp cho
người chăn nuôi hoàn chỉnh việc đánh giá con vật được chọn làm giống.
60
4.3.5. Những kiến thức và kinh nghiệm nhằm thích ứng BĐKH của đồng bào
dân tộc H’mông tại xã Long Hẹ
- Trồng trọt
Bảng 4.10 : Kiến thức bản địa về trồng trọt
Số hộ Tỷ lệ Cây trồng Kiến thức bản địa
Khi đã gieo trồng xong; họ sẽ đào rãnh từ
trên mảnh nương sang 2 bên, để chống rửa 27 54%
trôi đất
Diệt bọ xít: Bọ xít bò lên lá, phun thuốc trừ 31 62% Cây lúa
sâu
Hạn hán kéo dài: Thay đổi giống trồng 35 70%
Trừ sâu xám: phun 1 số thuốc trừ sâu 31 62%
Tưới nước pha phân lân khi ngô trỗ cờ bị hạn 28 56% Cây ngô giúp cây trỗ đồng đều hơn
Vãi tro bếp lên cây để trừ rệp. Không trồng
các loại đỗ trên các đất quá tốt vì không cho
hạt mà chỉ cho lá thân phát triển gây đổ cây, 30 60% Cây đỗ xanh trồng trên đất ít màu mỡ, trồng xen canh với
ngô
Có thể trồng nhiều vụ quanh năm 41 82%
Vụ mùa: trồng xen canh với ngô 46 92%
Vụ thu: trồng trên đất đã thu hoạch xong, đất 38 76% Rau cải xanh
vườn
Bảo quản giống trong cát, tránh ánh sáng.
Khi trồng tách thành những mẩu nhỏ, trồng
nơi đất tốt, lượng ánh sáng vừa phải (dọc 33 66% Cây gừng theo các khe, trồng xen với chuối trong năm
đầu)
61
Trồng xen canh với ngô, chủ yếu là xen canh
với lúa nương, trồng ở những mảnh đất tốt. Dưa mèo Ở đất vườn thì trồng xen canh với gừng đỗ 47 94
xanh, rau cải….
Sử dụng cây chuối con (cao 1-1.5m) tách từ
cây mẹ không sâu bệnh, cho buồng to mập.
Khi trồng cắt ngang thân để chống hạn. 38 76 Cây chuối tây Trồng xen ngô, lạc hay gừng trong năm đầu
để tiện chăm sóc làm cỏ và hạn chế xói mòn
(Nguồn: Kết quả điều tra, 2019)
Cây lúa: Người dân đã dùng không ít các biện pháp làm giảm tác hại do rét gây ra.
Những biện pháp này ít nhiều cũng đã mang lại hiệu quả trong sản xuất.
Cây hoa màu khác: Các loại cây hoa màu như ngô, đậu đỗ chịu tác động của rét có
biểu hiện rất rõ ràng như ngô thời điểm trỗ cờ mà gặp rét thì gần như cây không đậu hạt
dẫn đến không cho thu hoạch. Thấy rõ tác hại của rét đối với hoa màu người dân đã thực
hiện nhiều phương pháp để giảm thiểu các tác hại đó và mang lại hiệu quả sản xuất. Các
biện pháp như chăm sóc cây con sớm để cây sinh trưởng phát triển khoẻ tăng khả năng
chống trịu của cây tốt hơn.
- Chăn nuôi
Bảng 4.11: Kiến thức bản địa về chăn nuôi
Số hộ Tỷ lệ
Kiến thức bản địa
Vật nuôi
33
66%
Để tránh rét cho đàn gà, vịt vào mùa lạnh phủ một lớp trấu lên nền chuồng
Gà
37
74%
Trộn thức ăn với tỏi, cây dược liệu để cho gia súc ăn phòng chống một số bệnh về đường tiêu hóa và cúm
34
68%
Tận dụng thân cây chuối trộn, rơm với muối cho trâu, bò ăn trong mùa rét, không thả rông gia súc
Vào mùa lạnh trâu, bò thường bị cước chân, khi bệnh mới ở
39
78%
giai đoạn đầu dùng gừng giã nhỏ hòa với rượu và xoa bóp
Trâu, bò, lợn
hàng ngày sẽ có thể điều trị khỏi. Khi bệnh nặng bà con
thường nhờ sự giúp đỡ của các thú y viên
Là khu vực có rất nhiều ruồi, muỗi là tác nhân gây ra các
bệnh: tả, kiết lị,… một kinh nghiệm để hạn chế ruồi muỗi
28
56%
đến gia súc là đốt lá bầu khô, thân lá bèo cái khô, lá sả bã chè xanh khô cho khói xông vào chuồng trại, hoặc lấy lá
bầu tươi sắc lấy nước tắm cho trâu, lợn. Lấy thêm rơm về để cho lợn ngủ chống rét
Trộn thức ăn với một số loại lá cây lươc liệu như lá cây ổi, cây cloxit một số loại lá rừng khác,… để phòng chống bệnh
30
60%
đường ruột. Một số loại cây khác trong rừng dùng để chữa bệnh cho gia súc gia cầm như gãy xương, bị thương,….
62
(Nguồn: Kết quả điều tra, 2019)
4.3.6 . Phương thức thu hoạch và bảo quản nông sản của dân tộc H’mông
Việc thu hoạch và bảo quản được tiến hành cẩn thận, khẩn trương vì thời tiết
trên đó thay đổi bất thường. Điều cơ bản về thời tiết trong vụ thu hoạch phải khô và
nắng. Nên họ tranh thủ những ngày nắng đề thu hoạch.
Đối với lúa: Công cụ gặt lúa chủ yếu liềm. Người H’mông tách hạt lúa bằng
cách đập lúa ngay tại ruộng. Công cụ đập lúa là chiếc néo gồm hai thanh gỗ dài
40cm, đường kính 3 cm. Sau đó tiến hành chọn hạt giống cho vụ sau với số lượng
gấp đôi số lượng dự tính gieo trồng để đề phòng rủi ro của thời tiết. Thóc mang về
được phơi 3 - 4 ngày hoặc hơn, sau đó cho vào bao tải cất chỗ khô ráo.
Đối với ngô: Công cụ bốc ngô là họ dùng 1 cái chọc được làm từ xương trâu,
bò rồi cài vào ngón tay giữa bên tay phải để chọc lớp vỏ ngô rồi tách vỏ khỏi bắp.
Họ sẽ bóc vỏ ngay trên cây rồi mới cho vào lù cở mang về kho. Nhưng bắp nào để
làm giống thì không bỏ vỏ. Kho để ngô thì họ sẽ làm riêng gần cạnh nhà. Trước khi
để ngô vào kho; phải vệ sinh kho sạch sẽ, phun thuốc trừ kiến, sâu như HT-Kill,
vipesco,… thì mới để ngô vào kho. Những bắp chọn làm giống, sẽ để trong nhà gần
bếp để đảm bảo cho vụ sau. Có hộ thì họ treo trên gác bếp để bảo quản giống, để hạt
giống không bị sâu bệnh, khô ráo.
4.4. Những Thuận lợi và khó khăn của đồng bào dân tộc H’mông trong việc
vận dụng các kiến thức bản địa trong thích ứng với BĐKH
4.4.1. Thuận lợi
Đặc điểm nổi bật của tri thức bản địa là kiến thức có ở bên trong một cộng
đồng. Đặc biệt, tri thức bản địa luôn luôn đổi mới, tiếp thu và được truyền lại từ thế
63
hệ này cho thế hệ khác về các kinh nghiệm đã được bà con đúc rút lại. Nó thường
xuyên được chọn lọc và lưu truyền nhiều nguồn khác nhau và thích ứng với các
điều kiện hiện tại. Cũng có một số kiến thức hoàn toàn từ bên ngoài cũng được điều
chỉnh để có thể thích nghi với cộng đồng vì nó phát triển theo hướng phù hợp với
cộng đồng. Sự kết hợp này được xem là giải pháp khoa học trong xây dựng chiến
lược thích ứng biến đổi khí hậu bởi tri thức bản địa vốn là những kinh nghiệm tích
lũy từ lâu đời, được người dân đúc rút và thực hành tại một vùng nhất định. Vì thế
nó có thể là những biện pháp kỹ thuật, kiến thức ứng phó hữu ích cho chính cộng
đồng đối với vấn đề biến đổi khí hậu diễn ra tại địa phương.
Sự đa dạng về hệ thống cây trồng, vật nuôi trong hệ thống góp phần cải thiện
và duy trì các dịch vụ hệ sinh thái, tăng cường khả năng thích ứng với BĐKH, giảm
tính dễ bị tổn thương tại cộng đồng. Các giống cây trồng, vật nuôi bản địa thường
có khả năng chống chịu tốt, ít bị dịch bệnh hơn so với các giống mới và không yêu
cầu đầu tư thâm canh cao phù hợp với nhiều người kể cả người nghèo. KTBĐ là
nền tảng cơ bản cho sự tự cung tự cấp và tự quyết của người dân giúp cho người
dân ít bị phụ thuộc vào bên ngoài giảm tình trạng dễ bị tổn thương tại cộng đồng do
BĐKH gây ra. Người dân đã quen với các kỹ thuật bản địa nên họ có thể hiểu, vận
dụng và duy trì các kỹ thuật đó tốt hơn so với các kỹ thuật mới đưa vào từ bên ngoài
nên kinh nghiệm và tiếng nói của cộng đồng được phát huy và sử dụng có hiệu quả.
KTBĐ cung cấp thêm các giải pháp, lựa chọn trong quá trình thích ứng với BĐKH.
Nhờ đó, mà người dân địa phương có thêm các lựa chọn khi đưa ra các giải pháp,
mô hình phù hợp với cộng đồng nhằm thích ứng với BĐKH thay vì phụ thuộc vào
các yếu tố từ bên ngoài (giống, kỹ thuật mới).
Trong 50 hộ điều tra, có 37 hộ có những thuận lợi vận dụng các kiến thức bản
địa trong thích ứng với BĐKH đó là: Đã có sẵn những cây trồng vật nuôi thích ứng
tốt, kinh nghiệm đẫ canh tác lâu năm thuận lợi cho việc chọn đất, chọn giống cây
trồng vật nuôi có khả năng thích ứng với BĐKH. Trong số hộ điều tra, tất cả các hộ
đều sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi với quy mô nhỏ (Tự cung, tự cấp).
4.4.2. Khó khăn
Biến đổi khí hậu đã và sẽ làm gia tăng lũ quét và các thiên tai khác như hạn
hán, khô hạn, giảm lượng mưa và các hiện tượng cực đoan trong mùa đông. Thời
64
tiết diễn biến bất thường nên các trận mưa với cường độ lớn đã xảy ra và khó dự
báo trước, gây ra lũ quét, trượt lở đất trên địa bàn. Với đặc điểm về địa hình có độ
dốc cao, thay đổi đột ngột, sự trượt lở đất sẽ có nguy cơ tiếp tục gia tăng khi có các
hiện tượng bất thường về lượng mưa do biến đổi khí hậu gây ra. Sự gia tăng và
phân bố không đều về lượng mưa trong mùa mưa; sự suy giảm và phân bố không
đều về lượng mưa trong mùa khô (mùa đông); nhiệt độ tăng trong mùa hè và chênh
lệch lớn về nền nhiệt trong mùa đông gây chậm thời vụ, năng suất, chất lượng cây
trồng giảm, hệ thống canh tác thay đổi; rét đậm, rét hại nhiệt độ thấp kéo dài làm
cây trồng, vật nuôi bị chết, giảm khả năng chống chịu, hư hỏng công trình thủy lợi,
làm cho đất bị rửa trôi, xói mòn, sạt lở, gây thoái hóa, bạc màu đất canh tác, làm
tăng nguy cơ cuốn trôi gia súc, gia cầm; tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch bệnh
bùng phát trên đàn gia súc, gia cầm, gia tăng các rủi ro về cháy rừng. Thời tiết hiện
nay thay đổi bất thường đã gây khó khăn cho hoạt động sản xuất của người dân địa
phương. Trước kia, người dân theo dõi các hiện tượng thời tiết trong canh tác nông
nghiệp nhờ vào kinh nghiệm truyền khẩu, quan sát các hiện tượng thay đổi cho cây,
con và dòng chảy cũng như tự cải tiến các nông cụ và phương thức canh tác. Hiện
nay, thời tiết diễn biến bất thường, không theo quy luật làm cho việc dự đoán bằng
kinh nghiệm gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, người dân đã biết cập nhật diễn biến
và dự báo thời tiết qua thông tin dự báo trên các phương tiện truyền thông như
truyền hình, radio, loa phát thanh,… để thực hiện các biện pháp ứng phó phù hợp.
Dù vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả ứng phó biến đổi khí hậu cho người dân
trong khu vực, cần lồng ghép các kiến thức bản địa vào hệ thống dịch vụ và chuyển
giao kỹ thuật cho người dân, đồng thời cung cấp các giống chịu hạn, chịu rét,… đến
địa phương nhằm đảm bảo tất cả các hộ đều được tiếp cận và vận dụng vào trong
sản xuất.
Qua kết điều tra, tất cả các hộ điều tra đều cho rằng: Những khó khăn trong
việc vận dụng các KTBĐ để thích ứng với BĐKH là do BĐKH hiện nay thây đổi
rất bất thường nên các cây trồng vật nuôi thường bị các loại sâu, dịch bệnh làm hại
dẫn đến thu nhập của họ cũng thấp đi.
65
Những kinh nghiệm trong dự báo thời tiết hiện nay thì không còn chính xác
như trước kia nữa. Vì vậy việc ứng phó với BĐKH làm một vấn đề khó khăn cho bà
con nhân dân trên địa bàn nghiên cứu.
4.5. Đề xuất một số mô hình cây trồng thích ứng với BĐKH dựa vào kiến
thức bản địa
4.5.1. Mô hình trồng cây Táo mèo
Táo mèo là cây ăn quả lâu đời, thích hợp với điều kiện nhiệt đới, táo dễ
trồng, sinh trưởng phát triển nhanh, sau trồng 3 năm bắt đầu cho thu hoạch. Hiện
nay, táo được trồng khá phổ biến trên địa bàn xã Long Hẹ. Tuy đã được bàn con
trên địa bàn trồng phổ biến, nhưng chỉ là áp dụng những kiến thức cổ truyền để
canh tác nên thu hoạch còn thấp. Đến nay vẫn chưa có mô hình cụ thể để nào để
phát triển và tăng thu nhập cho người dân. Vậy là qua kết quả nghiên cứu đề tài
“Tìm hiểu việc sử dụng kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc H’mông trong sản xuất
nông nghiệp tại xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhằm thích ứng với biến
đổi khí hậu”, tôi xin đề xuất mô hình trồng cây táo mèo trên địa bàn nghiên cứu.
4.5.1.1. Nguồn giống
Nhân giống bằng hạt
- Chọn cây mẹ
+ Cây sinh trưởng phát triển tốt.
+ Không bị sâu bệnh.
+ Năng suất cao, ổn định ít nhất 3 năm khi bắt đầu ra quả.
- Tiêu chuẩn chọn quả giống
+ Quả có chất lượng tốt.
+ Quả to, chín vàng.
+ Không bị sâu, vẹo.
- Thu hái và cách bảo quản hạt giống hạt giống
Quả giống khi được lựa chọn lấy hạt giống, tiến hành tách bỏ phần thịt để lấy
hạt giống, hạt được rửa sạch rồi hong khô bằng cách phơi hạt nơi mát thoáng gió
cho đến khi hạt xe khô nhặt bỏ hết tạp chất, sau đó ta tiến hành xử lý hạt hoặc bảo
quản hạt, càng để lâu thì tỷ lệ nảy mầm của hạt kém dần, sau khoảng 9 tháng đến 1
năm thì tỷ nảy mầm của hạt rất thấp . Vì vậy hạt cần tiến hành gieo ươm càng sớm
66
càng tốt, nếu phôi hạt trắng thì còn khả năng nảy mầm ngược lại phôi hạt vàng thì
mất sức nảy mầm. Những hạt tốt có màu nâu hoặc đen. Hạt được bọc kỹ để nơi
thoáng mát hoặc bảo quản trong tủ lạnh.
- Vườn ươm
+ Vườn ươm làm ở chỗ thoáng mát, thoát nước tốt, gần nguồn nước, tránh xa
các mầm bệnh, thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển cây giống.
+ San nên cho phẳng để xây dựng vườn ươm.
+ Bố trí luống để xếp bầu có kích thước rộng 1m dài khoảng 10m, các luống
cách nhau từ 40 - 50cm để tiện cho quá trình chăm sóc cây giống.
+ Bầu dùng để gieo hạt làm bằng polyme, bầu có đáy, kích thước 10 x 15cm.
Trước khi đóng bầu cắt thủng các lỗ nhỏ dưới đáy và xung quanh bầu để đảm bảo
bầu thoát nước tốt trong quá trình chăm sóc tránh để cây bị úng.
+ Đất chọn để đóng bầu là đất ở tầng B không bị sâu bệnh, không lẫn tạp chất,
đất được đập nhỏ sau đó dùng sàng nhỏ làm bằng lưới mắt cáo để sàng đất. tránh
dùng đất sét để đóng bầu.
+ Thành phần ruột bầu: 85% đất + 14% phân chuồng hoai mục + 1% lần, trộn
thật đều trước khi đóng bầu.
+ Giàn che: Giàn che có thể được làm bằng bằng lưới đen hoặc đan phên bằng
nứa, cây Sơn tra trong giai đoạn vườn ươm thích nghi với chế độ che bóng khác
nhau, giai đoạn từ 1-3 tháng tuổi độ tàn che khoảng 50 - 75%, đến giai đoạn từ 3 - 6
tháng tuổi độ tàn che còn khoảng 25 -50%, đến khi cây lớn hơn 6 tháng tuổi độ tàn
che giảm dần.
- Xử lý hạt và gieo hạt
+ Hạt được ngâm trong nước ấm (2 sôi + 3 lạnh) khoảng 6 giờ vớt ra để ráo
nước rồi ủ hạt bằng các túi vải, hàng ngày ta rửa chua cho hạt 2 lần bằng nước ấm
vào buổi sáng và buổi tối.
+ Sau khoảng 8 ngày thì hạt bắt đầu nảy mầm.
+ Tỷ lệ nảy mầm của hạt đạt 89 - 92%, thế nảy mầm của hạt 79 - 82%, thời
gian nảy mầm của hạt kéo dài khoảng 5 ngày.
+ Khi hạt nảy mầm có chiều dài mộng của hạt dài khoảng 0,5cm tiến hành tra
hạt vào bầu đã được chuẩn bị sẵn, hạt nảy mầm tới đâu thì tra tới đó. Dùng que nhỏ
67
tạo lỗ ở giữa bầu, cho hạt vào và phủ một lớp đất dày khoảng 2mm. Không nên để
mầm hạt quá dài, nếu mầm hạt quá dài thì quá trình tra hạt mầm hạt hay bị gãy.
- Chăm sóc cây con trong vườn ươm và phòng trừ sâu bệnh hại
+ Sau khi cấy hạt vào bầu, thường xuyên tưới đủ ẩm cho cây con bằng bình ô
doa hoặc vòi phun có lỗ phun nhỏ để không ảnh hưởng đến cây con, tránh phun
bằng vòi phun to làm cây bị đổ gãy.
+ Thường xuyên nhổ cỏ phá váng cho cây.
+ Các nguyên tố dinh dưỡng khoáng rất cần thiết cho sinh trưởng phát triển
của cây giống. Vì vậy định kỳ bón thúc cho cây con 1 lần/1 tháng bằng phân (đạm +
lân + Kali) hoặc phân chuồng tưới cho cây, 1 bình 10 lít phun cho khoảng 6 - 8m2,
khi cây con còn nhỏ pha với nồng độ loãng, khi cây gieo ươm đã lớn pha với nồng
độ đặc hơn. Ngoài ra cần theo dõi biểu hiện trạng thái của cây để cung cấp các
nguyên tố dinh dưỡng cho cây giúp cây sinh trưởng phát triển tốt: Thiếu N (Nitơ)
thể hiện ở sự sinh trưởng chậm, lá vàng nhạt; Thiếu Kali) làm cho lá héo vàng sau
đó màu vàng chuyển vào giữa, còn mép lá lại thành màu nâu; Thiếu P (Phốt Phát)
cây sinh trưởng còi cọc, lá có màu tím sẫm hay đỏ, bộ rễ bị hư hại; Thiếu Fe (Sắt)
và Mg (Magiê) lá thường có màu vàng vì 2 nguyên tố này có vai trò tạo thành diệp
lục, Mg biểu hiện lá già bị vàng (úa vàng ở lá già), trong khi đó thiếu Fe thể hiện ở
phiến lá bị vàng, các gân vẫn còn màu xanh.
+ Sau khoảng 3 tháng tiến hành đảo bầu 1 lần.
Trong giai đoạn vườn ươm có bệnh xoăn lá, dùng thuốc trừ sâu Vital phun
cho cây với nồng độ 2% phun 1 tuần 1 lần cho tới khi cây khỏi bệnh.
- Tiêu chuẩn cây con xuất vườn
+ Cây có từ 6 - 8 tháng tuổi.
+ Đạt HVN > 50cm, D00 > 0,4 cm.
Nhân giống bằng phương pháp ghép cây
- Công tác chuẩn bị
+ Dụng cụ vật tư
Dao ghép chuyên dụng (dao thật sắc để cắt không bị dập)
Nilông chuyên dụng để buộc mắt ghép hoặc cành ghép (loại nilông của
Trung Quốc mềm mỏng).
68
+ Gốc ghép
Là những cây gieo ươm hoặc những cây ở rừng tự nhiên cây sinh trưởng phát
triển tốt không bị sâu bệnh, có bộ rễ khỏe.
+ Mắt ghép hoặc cành ghép
Được lấy từ những cây mẹ sinh trưởng phát triển tốt không bị sâu bệnh, có
năng suất cao ổn định.
Mắt ghép được lấy về ở trạng thái chồi ngủ, to khỏe.
Cành ghép to khoẻ có từ 2 đến 5 mắt ghép.
+ Vệ sinh gốc ghép
Trước khi tiến hành ghép vệ sinh xung quanh gốc ghép (vặt bỏ các chồi xung
quanh gốc, làm cỏ, nhặt rác)
- Tiến hành ghép cây
Mắt ghép hoặc cành ghép lấy về trong quá trình vận chuyển và quá trình
ghép phải được bảo quản lạnh hoặc trong các thùng xốp để cho hom luôn tươi
không bị thoát hơi nước. Mắt ghép để ghép được lấy về dưới dạng cành ghép. Sau
khi lấy cành ghép phải tiến hành ghép ngay không để thời gian bảo quản quá lâu.
+ Ghép mắt
Kiểu ghép mắt nhỏ có gỗ đơn giản dễ thao tác tỷ lệ sống mắt ghép cao đạt tới
90%.
Ghép mắt càng sát dưới gốc thì gốc ghép càng khoẻ, tuy nhiên tuỳ vào đường
kính gốc ghép mà vị trí ghép tốt nhất cách gốc ghép từ 10 - 20cm.
Dùng dao ghép tạo một vết ghép trên gốc ghép hình lưỡi gà từ trên xuống dài
từ 1,5 - 2cm, chỉ tạo vết ghép ở phần vỏ và phần biểu bì, sát với lớp vỏ không tạo
vào lớp vỏ.
Dùng dao ghép chuyên dụng hoặc dao lam lấy mắt ghép dài tương ứng với
vết ghép, chỉ lấy phần vỏ và phần biểu bì sát với phần tượng tầng, không lấy vào
phần gỗ, không để mắt ghép xây xước, dập và bẩn. Đặt nhanh mắt ghép vào vết
ghép và dùng nilông buộc kín mắt ghép, buộc từ dưới lên tránh để hở mắt ghép.
Sau khoảng 14 - 16 ngày vết ghép liền tiến hành tháo bỏ lớp nilông và cắt bỏ
phần trên của cây, cách mắt ghép khoảng 3 - 5cm để kích thích cho mắt ghép nhanh
nảy mầm. Sau khoảng 1 tuần thì mắt ghép bắt đầu nảy mầm.
69
+ Ghép cành
Kiểu ghép chẻ bên đơn giản dễ thao tác cho tỷ lệ sống đạt khoảng 85%.
Cắt gốc ghép thật phẳng cách mặt đất từ 10 - 15cm dùng dao sắc chẻ ở giữa
gốc ghép sao cho vết chẻ dài bằng với phần cành ghép cho vào gốc ghép, cành ghép
được vát theo hình mũi tên, cho cành ghép vào gốc ghép, dùng nilông buộc chắc,
kín chỗ ghép và buộc phủ kín nilông lên cành ghép để tránh thoát nước của cánh
ghép.
Sau khoảng 16 - 18 ngày vết ghép bắt đầu liền, cành ghép sống bỏ phần
nilông phủ kín trên cành ghép, còn phần nilông buộc ở chỗ ghép đến khi cành ghép
phát triển bình thường mới tháo.
- Thời gian ghép
Tiến hành ghép vào tháng 2 - 3 vì thời gian này mắt ghép đang ở trạng thái
chồi ngủ.
4.5.1.2. Những đặc tính
Táo là cây dễ trồng, thích hợp cho mọi loại đất. Năng suất cao và ổn định,
không có sâu bệnh nguy hiểm. Nếu đốn cây sớm sang năm sẽ cho quả sớm.
4.5.1.3. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
- Thời vụ và khoảng cách trồng
Thời vụ trồng chủ yếu là mùa xuân tháng 2 đến tháng 4, khi có mưa phùn ẩm
đất hoặc đầu mùa mưa khi đất đã đủ ẩm, nếu cây giống ghép sớm có thể trồng từ
tháng 11. Sang xuân nếu gặp thời tiết thuận lợi cây sinh trưởng nhanh. Cuối năm
cây sẽ cho nhiều quả. Khoảng cách trồng thông thường là 3- 4m một cây.
- Cách đào hố trồng, phân bón lót
Kích thước hố trồng 40x40x40cm. Bón lót mỗi hố 15 - 20kg phân chuồng ủ
cho hoai mục + 0,5kg super lân + 0,3kg kali + 0,2 kg vôi bột. Các loại phân được
trộn đều với đất, cho xuống hố, vun ụ lồi lên so với mặt đất 20cm ( không trồng cây
trực tiếp với phân ). Nếu không có phân chuồng thì có thể sử dụng phân lân vi sinh
với lượng 5 - 7kg/hố.
- Cách trồng
Vét 1 hố nhỏ ở giữa ụ, đặt bầu cây ngang với mặt ụ, vun đất nén chặt xung
quanh bầu. Phủ rơm rạ rắc xung quanh gốc một lớp dày 2 - 3cm. Tưới ngay sau
trồng mỗi cây 2 - 3 gáo nước.
70
- Chăm sóc và bón phân
Trong tuần đầu, mỗi ngày tưới cho cây 1 lần vào buổi sáng hoặc chiều muộn,
mỗi lần một thùng nước. Sau đó thì cách 2,3 ngày tưới 1 lần cho tới hết tháng. Khi
cây phát triển thì sẽ tưới thưa hơn, đảm bảo đất luôn ẩm.
Có thể nói cây táo rất cần nước ở các giai đoạn sinh trưởng, nhất là lúc đang
phát triển. Nếu gặp hạn, không đủ nước, quả sẽ nhỏ, vỏ dày, ăn chát, quả kém phẩm
chất. Hàng năm cần bón phân cho cây sau thu hoạch và đốn cây, nhằm hồi phục sức
lực cho cây vụ xuân tới, với lượng phân bón 1 cây như sau: Phân chuồng từ 30 -
50kg, lân 5 - 8 kg, kali 3 đến 5kg, đạm ure 0,5 - 1kg.
4.5.1.4. Phòng trừ sâu bệnh
- Bệnh hại
Bệnh thối rễ, nứt thân: Thường gặp ở các vùng đất ẩm ướt, nấm xâm nhập
vào làm hư hại rễ cọc, sau đó phá huỷ toàn bộ rễ làm cây chết. Cây bị bệnh có tán lá
xơ xác, lá đổi sang màu xanh nhạt rồi rụng, cành chết dần từ ngọn xuống thân
chính. Cách phòng trừ là cần tránh ẩm ướt quá mức ở vùng rễ, phát hiện sớm các
vết nứt dọc và thâm đen trong mạch gỗ.
Bệnh khô cành: Do loại nấm Colletotrichum cloeosporiodes xâm nhập vào
cành làm cành khô chết. Trên quả già, nấm xâm nhập qua vết thương làm quả bị
nhũn. Ngoài ra, bệnh còn do nắng chiếu rọi trực tiếp trong thời gian dài.
Bệnh trên quả già: Nấm bệnh xâm nhập khi quả đang phát triển tạo ra các
điểm đen nhỏ trên vỏ quả, hình dấu cộng trên vỏ quả, các điểm đen này nứt và tách
ra, làm giảm mẫu mã và giá bán. Cách phòng trừ cần tạo vườn thông thoáng, dọn
sạch tàn dư, sau khi đậu trái nên phun thuốc phòng ngừa nấm.
- Sâu hại
Côn trùng hại rễ: Gồm các đối tượng thường thấy như mối, sùng, dế, kiến,
đặc biệt là rệp sáp, tập trung ở tầng đất từ 0 – 50cm cách mặt đất, cây bị bệnh có lá
vàng nhạt, cây suy yếu dễ chết.
- Bọ xít
Chích hút nhựa đọt non, lá non làm héo và chùm đọt, đặc biệt là trái non tạo
ra các chấm đen trên vỏ quả, làm rụng nhiều quả, là cửa ngõ xâm nhập của nhiều
loại nấm bệnh, làm giảm rõ rệt năng suất và chất lượng quả.
71
Mọt đục thân cành: Xuất hiện từ giữa mùa mưa khá rộ vào đầu đến giữa mùa
khô, lỗ đục tuy nhỏ và đường đục ngắn nhưng làm giảm quá trình sinh trưởng, phát
triển của cây và cành dễ gãy.
Sâu cắn lá, sâu cuốn lá, nhện đỏ, sâu đục quả. Trong tháng 6 tháng 7 có xén
tóc đẻ trứng vào thân cây. Để phòng trừ thì bà con dùng thuốc sau:
Trừ nhóm sâu chích hút dùng các thuốc: Sherpa (0,1%), Trebon (0,1 - 0,2%),
Depterx (0,2%), Dantio l(0,1 - 0,2%), Monitor (0,1 - 0,2%), Bi 58, Basudin.
Trừ nhóm sâu ăn lá thì dùng một trong các thuốc sau: Azodrin 50 DD (0,2%),
Score (0,05%), Alieett (0,3%), Mancozeb (0,25%).
Đối với kiến, mối, bọ cánh cứng hại rễ, hại gốc thì sử dụng thuốc: Basudin,
Lidanfor, Sevidol để trị. Dùng một trong các loại thuốc trên, trộn đều 1 thuốc - 10
cát rồi rắc xung quanh gốc và hố.
4.5.1.5. Đốn Táo
Căn cứ đặc điểm của từng giống táo và mục đích sản xuất mà có các cách đốn
táo khác nhau. Cành quả của táo mọc trên cành cây mẹ ra trong vụ xuân cùng năm,
bởi vậy đốn cành sao cho nhiều cành ra trong vụ xuân, cành khỏe, để có sản lượng
cao. Có 2 cách đốn cây táo như sau:
Đốn phớt: Làm thường xuyên hàng năm sau vụ thu hoạch nhằm cho sản lượng
quả cao và ổn định.
Đốn đau: Mục đích tạo tán đối với cây còn nhỏ 1 - 3 năm tuổi và đối với
những cây đã lớn, cắt hết các loại cành chỉ để lại một đoạn gốc của 3 cành lớn ra
trong năm trước để tạo tán cho năng suất cao.
4.5.1.6. Thu hoạch
Táo được thu hoạch sau 2 - 3 tháng từ khi ra hoa, khi quả to, căng mọng vỏ
và sáng màu. Thu hoạch táo thủ công và tránh làm dập nát trong quá trình vận
chuyển.
4.5.2. Mô hình trồng cây Sa nhân
Sản phẩm quan trọng nhất cây Sa nhân là quả gần chín đã được phơi hoặc
sấy khô, là một vị thuốc quý chuyên trị các bệnh đường ruột, tiêu hóa kém, kích
thích và giúp sự tiêu hóa. Trong đông y dùng cho trường hợp đau bụng, ăn không
72
tiêu, tả lỵ. Ngoài ra còn được dùng làm gia vị, hương liệu và rất được yêu chuộng
trên thị trường trong nước và trên thế giới.
4.5.2.1. Đặc điểm sinh thái của Sa nhân
Sa nhân có thân thảo cao tới 2 - 3m gồm giống cây Riềng nhưng thân rễ
không phát triển thành củ như Riềng. Thân ngầm và rễ mọc tập trung ở tầng mặt 0 -
15cm, phát triển theo mặt nằm ngang.
Lá xanh thẫm, mặt nhẵn bóng, không lông, dài 15 - 35cm, rộng 4 - 7cm.
Hoa mọc chùm ở gốc sát mặt đất, hoa màu trắng đốm tía, từ rễ nảy ra một
mầm, mỗi gốc 3 - 6 chùm, mỗi chùm 4 - 6 hoa.
Quả nang có 3 rãnh, to 1 - 1,5cm, có gai nhô đều, hình trứng, bóp mạnh dễ
vỡ hạt bong ra. Hạt to 3mm. Mùa hoa tháng 4 - 5, mùa quả tháng 7 - 8.
4.5.2.2. Đặc tính sinh thái cây Sa nhân
Thích hợp điều kiện khí hậu ẩm mát, mưa nhiều, độ ẩm không khí cao ưa đất
tốt, giàu mùn, N và Kali, tơi xốp, ẩm quanh năm nhưng thoát nước, đặc biệt là trong
các thung lũng và khe núi.
Chịu bóng, sinh trưởng tốt dưới tán rừng có độ tàn che 0,5 - 0,6. Dưới ánh
sáng trực xạ, sinh trưởng xấu và lá bị vàng.
4.5.2.3. Kỹ thuật trồng cây Sa nhân xanh
Địa hình: Thung lũng, ven khe suối, chân đồi núi. Độ cao ở dưới 800m so
với mực nước biển.
Khí hậu: Nhiệt độ bình quân năm 15 - 220C, tốt nhất là 18 - 200C. Lượng
mưa: 1500 - 3000mm, tốt nhất 2000 - 2200mm.
Đất đai: Sâu dày trên 50 - 60cm, ẩm mát, thoát nước, giàu mùn, N và kali.
Thực bì: Độ tàn che 0,4 - 0,7, tốt nhất là 0,5 - 0,6. Không trồng trên đất trống
đồi núi trọc.
Nguồn giống
- Giống bằng thân ngầm
+ Áp dụng nơi sẵn giống, vận chuyển gần, sau 2 - 3 năm đã có quả.
+ Đầu vụ xuân chọn cây bánh tẻ 1 - 2 tuổi, nhổ nhẹ gốc có mang 1 - 2 đoạn
thân ngầm và rễ dài 30 - 50cm.
73
+ Cắt ngang bỏ phần thân khí sinh. Chú ý giữ ẩm để rễ và hom thân ngầm
không bị khô, không làm xây xát thân ngầm.
- Giống bằng cây con có bầu
+ Áp dụng nơi có ít hom giống, vận chuyển xa, trồng diện tích lớn.
+ Chọn quả già có hạt to và đều để vào chậu, xát tay nhẹ để tách hạt.
+ Cho hạt vào túi vải ngâm và dung dịch thuốc tím nồng độ 1/1000 trong 10-
15 phút để khử trùng.
+ Vớt hạt ra rửa sạch, ngâm tiếp vào nước ấm 25 - 30 độ C trong 5 - 6 giờ.
+ Vớt hạt ra để táo nước đem gieo lên luống đã chuẩn bị sẵn.
+ Rắc đều hạt lên mặt luống, phủ đất mịn kín hạt, tủ rơm rạ, tưới đủ ẩm.
+ Sau 15 ngày cây mọc, dỡ bỏ vật che tủ, tiếp tục tưới nước đủ ẩm.
+ Sau 25 ngày nhổ cây con cấy vào bầu.
+ Bầu có kích cỡ rộng 10cm, cao 14cm; vỏ bằng polyethylen; ruột bằng đất
tầng mặt dưới rừng tự nhiên.
+ Xếp bầu thành luống dưới tán cây hoặc dưới tàn che 0,4 - 0,5.
+ Cấy cây con vào bầu, chăm sóc sau 3 - 4 tháng, cây con 10 - 15cm, có 5 - 6
lá thì đem đi trồng.
Kỹ thuật trồng
- Thời vụ: Trồng vụ xuân ở các tỉnh miền Bắc.
- Trồng đầu mùa mưa khi đất ẩm ở các vùng khác.
- Phương thức trồng:
+ Trồng dưới tán rừng tự nhiên nghèo kiệt.
+ Trồng dưới tán rừng trồng chưa khép tán.
+ Trồng dưới tán các vườn quả vườn nhà.
- Mật độ trồng: 3300c/ha, cự ly 1,5x2m.
- Xử lý thực bì: Phát dọn thảm tươi cây bụi dày leo cục bộ quanh hố trồng
đường kính 1m. Ở rừng có độ tàn che cao trên 0,7 phải hạ độ tàn che còn 0,5 - 0,6.
- Cuốc hố: Kích thước 20x20x15cm, theo đường đồng mức ở nơi dốc.
Cách trồng: Đặt hom thân ngầm nằm ngang hoặc cây con sau khi xé bỏ vỏ
bầu vào giữa hố, lấp đất đào hố, giậm chặt, tiếp tục lấp đất cao hơn mặt hố 4 - 5cm,
phủ kín cỏ rác lên mặt hố.
74
Chăm sóc
- Luôn kiểm tra và phát bỏ cây cỏ xâm lấn xung quanh cây trồng.
- Xới xáo đất quanh gốc đầu mùa khô.
- Điều chỉnh độ tàn che đảm bảo 0,5 - 0,6.
- Trông coi bảo vệ đề phòng gia súc và thú rừng phá hoại quả.
- Bón thúc 100 - 200g/bụi phân hữu cơ vi sinh + dinh dưỡng thủy canh TC -
Mobi theo rạch sâu 15 - 20cm, cách gốc 0,5 - 1,0m cho cây xấu.
- Loại bỏ bớt cây già trên 7 - 8 tuổi tạo điều kiện chồi non phát triển.
75
PHẦN 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
5.1.1. Thực trạng BĐKH gây ảnh hưởng tới cây trồng vật nuôi tại xã Long Hẹ
5.1.1.1. Thực trạng BĐKH gây ảnh hưởng tới cây trồng
Xã Long Hẹ chủ yếu là phát triển sản xuất nông nghiệp với tổng sản lượng
lương thực có hạt năm 2018 đạt 2823,02 tấn. Trong đó có một số loại chủ đạo như
thóc đạt 917,14 tấn, ngô đạt 1.264,85 tấn, sắn đạt 641,3 tấn.
Biến đổi khí hậu đã xảy ra ở địa bàn xã Long Hẹ và thể hiện rõ qua các thông
số khí tượng như lượng mưa, phân bố lượng mưa và nhiệt độ không khí. Nhiệt độ
và lượng mưa biến động đáng kể qua các năm. Tổng lượng mưa hàng năm có xu thế
giảm nhưng không đáng kể, nhưng sự phân bố lượng mưa giữa các tháng trong năm
thì biến động lớn. Mưa tập trung vào một thời gian ngắn, mưa rất to nên dễ gây ra
lũ, lụt. Nhiệt độ các tháng mùa hè có xu thế tăng và mùa đông giảm xuống.
Theo quan điểm của của người dân thì hạn hán, rét đậm và thời tiết thất
thường là những biểu hiện rõ của BĐKH ở địa phương. Hạn nặng hơn và ngày càng
kéo dài hơn. Rét đậm hơn và cũng kéo dài hơn so với trước. Thời tiết mưa nắng thất
thường, vào mùa hè nhiệt độ cao, oi bức và khó chịu hơn nhiều so với trước đây.
Những biến đổi của các hiện tượng thời tiết trên đã ảnh hưởng lớn đến đời
sống của người dân địa phương, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Hạn
nặng và kéo dài làm ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh trưởng phát triển của
cây. Sâu bệnh hại phát triển nhiều đặc biệt là bọ xít đen, đạo ôn, sâu cuốn lá,….. Rét
đậm và rét kéo dài làm nhiều cây trồng chết rất nhiều và ảnh hưởng lớn đến lịch
nông vụ.
Những hiện tượng thời tiết cực đoan ảnh hưởng lớn nhất đến sản xuất
nông nghiệp. Nhiều loại cây trồng như ngô, lúa mất trắng do mưa và nắng thất
thường. Mưa nắng thất thường cũng là điều kiện thuận lợi cho sự bùng phát
dịch bệnh trên cây trồng. Do tác động của BĐKH sản xuất nông nghiệp ngày càng
bấp bênh, chi phí sản xuất ngày càng gia tăng và hiệu quả kinh tế giảm dần. Do vậy,
người dân phải thay đổi hoạt động sinh kế bằng cách đi làm thuê ở nơi khác hoặc
tăng cương vào rừng kiếm măng và các sản phẩm từ rừng.
76
5.1.1.2. Thực trạng BĐKH gây ảnh hưởng tới vật nuôi
BĐKH làm thay đổi điều kiện sống của các loài sinh vật, phá vỡ cân bằng
sinh thái, làm biến mất đi một số loài và nguy cơ xuất hiện nhiều loại dịch bệnh mới
trong chăn nuôi như; bệnh cước chân, viêng loét miệng, phân trắng, phân xanh,….
Một trong những tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất chăn nuôi là
thay đổi sự có sẵn nguồn thức ăn cho chăn nuôi. Nhiệt độ xuống thấp hoặc tăng cao
đều làm giảm diện tích đồng cỏ cho chăn nuôi gia súc nhai lại và giảm năng suất
cây trồng cung cấp lương thực cho gia súc dạ dày.
Nhiệt độ tăng vào mùa hè dẫn đến nhu cầu nước cho vật nuôi tăng lên rõ
rệt, trong khi đó nguồn nước cung cấp không được đáp ứng một cách đầy đủ.
Biến đổi khí hậu bất thường có thể làm giảm khả năng sinh trưởng và sản xuất của
vật nuôi như giảm tăng trưởng, sinh sản.
Nhiệt độ thấp (rét đậm và rét hại) làm khan hiếm nguồn thức ăn cho vật
nuôi đồng thời làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể, tăng nguy cơ mắc
bệnh từ đó gây chết vật nuôi.
5.1.2. Các KTBĐ của đồng bào dân tộc H’mông sản xuất nông nghiệp trong
thích ứng BĐKH
Tại xã nghiên cứu người dân đã vận dụng nhiều hoạt động khác nhau nhằm
thích ứng với biến đổi khí hậu KTBĐ, các hoạt động thích ứng gồm các hoạt động
dựa trên những kinh nghiệm và kiến thức bản địa của người dân tộc thiểu số địa
phương trong việc dự đoán các hiện tượng thời tiết xấu để bố trí phòng chánh,
những dự đoán đó đã phần nào góp phần giúp người dân thích ứng với biến đổi khí
hậu. Người dân cũng có rất nhiều các kiến thức bản địa về kỹ thuật canh tác và các
giống cây trồng bản địa có tiềm năng vận dụng để thích ứng với BĐKH. Các kiến
thức bản địa trong ứng phó với biến đổi khí hậu của người dân trên địa bàn xã Long
Hẹ trong phát triển nông nghiệp chăn nuôi được chắt lọc, trao truyền qua nhiều thế
hệ. Đó là những tri thức được đúc rút lại dựa trên những trải nghiệm thực tế và được
kiểm nghiệm bởi chính thực tế. Ở Việt Nam nói chung, và xã Long Hẹ nói riêng,
KTBĐ đã được thừa nhận là nguồn tri thức quan trọng, cần phải được nghiên cứu,
phát huy. Nhiều tổ chức quốc tế đã vận dụng KTBĐ trong việc xây dựng chính
sách, dự án phát triển và cách làm này góp phần thêm vào sự thành công, hiệu quả
77
và bền vững, vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế vừa bảo vệ tốt tài nguyên thiên
nhiên. Vận dụng KTBĐ của người dân tộc H’mông trong xây dựng chiến lược ứng
phó với BĐKH là hướng đi cần phát huy trong thời gian tới. Có nghiên cứu đã chỉ
ra rằng, BĐKH có thể ảnh hưởng đến việc duy trì một số phong tục, tập quán truyền
thống nhưng đồng thời có khả năng tạo ra những thực hành văn hóa mới có tính
thích ứng hiệu quả hơn với chính BĐKH. Tác động của BĐKH đến lĩnh vực văn
hóa đã thực sự là một vấn đề nóng, đặc biệt ở các địa phương nằm trong vùng nguy
cơ cao. Chính vì thế, cách tiếp cận kết hợp này vừa góp phần tăng cường tính hiệu
quả, bền vững, kinh tế cho các chiến lược thích ứng với BĐKH, vừa góp phần bảo
tồn các giá trị, tri thức văn hóa của người dân tộc H’mông tại xã Long Hẹ.
Đồng bào dân tộc H’mông sử dụng những kiến thức bản địa trong sinh hoạt
hàng ngày và phát triển kinh tế, dự báo thời tiết, mùa vụ, thiên tai,…. và những kiến
thức này là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển.
Do vậy, cần có những biện pháp để duy trì và phát huy KTBĐ, nhất là các KTBĐ
có giá trị trong phát triển bền vững của cộng đồng như các kinh nghiệm sản xuất, dự
báo thời tiết, thiên tai, các giống cây con bản địa hay các giá trị mang tính khoa học,
bảo tồn nguồn gen của các giống cây trồng vật nuôi bản địa, ….
5.1.3. Thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng kiến thức bản địa của đồng bào
dân tộc H’mông trên địa bàn xã Long Hẹ
5.1.2.1. Thuận lợi
Long Hẹ là một xã có diện tích tự nhiên lớn, các nguồn tài nguyên rất phong
phú, điều kiện khí hậu tương đối thuận lợi cho quá trình sinh trưởng và phát triển
của nhiều loài cây trồng, vật nuôi. Các giống cây trồng vật nuôi bản địa thường có
khả năng chống chịu tốt, ít bị dịch bệnh hơn so với các giống mới và không yêu cầu
đầu tư thâm canh cao phù hợp với nhiều người kể cả người nghèo.
KTBĐ có khả năng thích ứng cao với môi trường của người dân bản địa - nơi
mà chính những KTBĐ đó đã được hình thành, trải nghiệm và phát triển. Bởi
KTBĐ là kết quả của sự quan sát, đúc rút kinh nghiệm từ thực tế sinh hoạt và trong
sản xuất nông lâm nghiệp, trong quản lý tài nguyên và quản lý cộng đồng, được
hình thành trực tiếp từ lao động của người dân, dần được hoàn thiện và truyền thụ
cho các thế hệ tiếp sau bằng truyền miệng (trong gia đình, trong thôn bản, hoặc thể
78
hiện trong ca hát, ngạn ngữ, trường ca, tập tục). Vì vậy việc vận dụng kiến thức bản
địa (bởi chính những người dân bản xứ là người hiểu và nắm bắt đặc điểm của địa
phương sâu sắc nhất) trong thích ứng với môi trường khí hậu đang biến đổi ngày
một khắc nghiệt này là chìa khóa thành công đảm bảo duy trì một môi trường phát
bền vững cho phát triển sinh kế.
BĐKH thay đổi bất thường cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
nhiều loại cây trồng vật nuôi. Ví dụ: Hạn hán kéo dài vào tháng 2 đến tháng 4 gây
ảnh hưởng xấu đến cây trồng vật nuôi do nắng nóng kéo dài. Trong khoảng thời
gian nắng nóng đó BĐKH thay đổi bất thường gây ra một số trận mưa cung cấp
nước cho nhiều vật nuôi, nhiều loại cây trồng ngắn ngày như; rau cải xanh, hành, đỗ
xanh,… và một số cây trồng khác.
5.1.2.2. Khó khăn
Là xã có địa hình tương đối phức tạp, các thôn bản xa nhau đi lại rất
khó khăn. Trình độ dân trí nhìn chung vẫn còn thấp, nguồn vốn đầu tư cho
phát triển kinh tế còn hạn hẹp.
Điểm xuất phát của kinh tế còn thấp, sản phẩm hàng hoá ít. Kinh tế chậm
phát triển, cơ cấu kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, thu nhập bình quân đầu
người trong năm chưa cao, kết cấu cơ sở hạ tầng có nhưng chưa đầy đủ. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng nhưng còn chậm, sản xuất vẫn dừng lại ở mức độ tự
cung tự cấp là chủ yếu chưa thực sự trở thành hàng hoá, chưa tận dụng khai thác tối
đa tiềm năng và thế mạnh mọi mặt của địa phương.
Biến đổi khí hậu đã và sẽ làm gia tăng lũ quét và các thiên tai khác như hạn
hán, khô hạn, sạt lở, giảm lượng mưa và các hiện tượng cực đoan trong mùa đông.
Thời tiết diễn biến bất thường nên các trận mưa với cường độ lớn đã xảy ra và khó
dự báo trước, gây ra, lũ quét, trượt lở đất trên địa bàn. Với đặc điểm về địa hình có
độ dốc cao, thay đổi đột ngột, sự trượt lở đất sẽ có nguy cơ tiếp tục gia tăng khi có
các hiện tượng bất thường về lượng mưa do biến đổi khí hậu gây ra. Sự gia tăng và
phân bố không đều về lượng mưa trong mùa mưa; sự suy giảm và phân bố không
đều về lượng mưa trong mùa khô; nhiệt độ tăng trong mùa hè và chênh lệch lớn về
nền nhiệt trong mùa đông gây chậm thời vụ, năng suất, chất lượng cây trồng giảm,
hệ thống canh tác thay đổi; rét đậm, rét hại nhiệt độ thấp kéo dài làm cây trồng, vật
79
nuôi bị chết, giảm khả năng chống chịu, hư hỏng công trình thủy lợi, làm cho đất bị
rửa trôi, xói mòn, sạt lở, gây thoái hóa, bạc màu đất canh tác, làm tăng nguy cơ
cuốn trôi gia súc, gia cầm; tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch bệnh bùng phát trên
đàn gia súc, gia cầm, gia tăng các rủi ro về cháy rừng. Thời tiết hiện nay thay đổi
bất thường đã gây khó khăn cho hoạt động sản xuất của người dân địa phương.
Trước kia, người dân theo dõi các hiện tượng thời tiết trong canh tác nông nghiệp
nhờ vào kinh nghiệm truyền khẩu, quan sát các hiện tượng thay đổi cho cây, con và
dòng chảy cũng như tự cải tiến các nông cụ và phương thức canh tác. Hiện nay, thời
tiết diễn biến bất thường, không theo quy luật làm cho việc dự đoán bằng kinh
nghiệm gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, người dân đã biết cập nhật diễn biến và dự
báo thời tiết qua thông tin dự báo trên các phương tiện truyền thông như truyền
hình, radio, loa phát thanh,… để thực hiện các biện pháp ứng phó phù hợp. Dù vậy,
để nâng cao hơn nữa hiệu quả ứng phó biến đổi khí hậu cho người dân trong khu vực,
cần lồng ghép các kiến thức bản địa vào hệ thống dịch vụ và chuyển giao kỹ thuật cho
người dân, đồng thời cung cấp các giống chịu hạn, chịu rét…đến địa phương nhằm
đảm bảo tất cả các hộ đều được tiếp cận và vận dụng vào trong sản xuất.
5.1.4. Đề xuất nhân rộng mô hình
Ở địa bàn nghiên cứu người dân đã vận dụng nhiều hoạt động khác nhau nhằm
thích ứng với BĐKH. Các hoạt động thích ứng gồm những hoạt động thích ứng tự
chủ dựa trên kinh nghiệm và kiến thức bản địa của địa phương đồng thời cũng có
những hoạt động thích ứng có kế hoạch - là những chính sách, chủ trương từ các
ban ngành liên quan từ tỉnh Sơn La đến huyện và xã. Tuy nhiên các chính sách, chủ
trương hỗ trợ nông dân thích ứng với BĐKH chủ yếu là chuyển đổi cơ cấu cây
trồng và theo dõi tình hình dịch hại. Lịch nông vụ tuy đã được xem xét, định hướng
nhưng chưa thực sự phù hợp. Người dân cũng có rất nhiều các kiến thức bản địa về
kỹ thuật canh tác và các giống cây trồng bản địa có tiềm năng vận dụng để thích
ứng với BĐKH. Các kỹ thuật để giống dưa bí cho tỉ lệ nảy mầm cao; kỹ thuật chăm
sóc cây táo mèo trong điều kiện hạn và rét để tránh kiến, mối, sâu hại; kỹ thuật tách
chồi chuối đã được xác định và vận dụng trong thích ứng BĐKH ở địa phương. Các
giống cây bản địa như chuối và sắn, táo mèo là một số trong nhiều cây bản địa có
tiềm năng thích ứng BĐKH.
80
Để nâng cao và nhân rộng một số mô hình có khả năng thích ứng với
BĐKH trong sản xuất nông nghiệp của đồng bào dân tộc H’mông. Có một số mô
hình sản xuất thích ứng BĐKH đã được đề xuất gồm:
- Mô hình cây trồng cây Táo mèo.
- Mô hình cây trồng cây Sa nhân.
- Mô hình canh tác cho các loại đất.
5.2. Kiến nghị
- Gìn giữ và phát huy các kiến thức bản địa trong sản xuất và đời sống nhằm
thích ứng với BĐKH.
- Cần có các hoạt động nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu và các tác
động xấu gây ra cho người dân địa phương.
- Cần xem xét hỗ trợ xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp thích ứng
với BĐKH. Dựa vào khả năng về tài chính và thời gian hoạt động để lựa chọn xây
dựng mô hình trình diễn thích ứng với hạn, rét hoặc mô hình canh tác cho các loại
đất thích ứng BĐKH đã xác định ở trên.
- Cần có những nghiên cứu cụ thể về quy luật thay đổi của thời tiết ở các xã
nghiên cứu để xây dựng lịch nông vụ phù hợp nhằm giảm rủi ro trong sản xuất cho
người dân.
- Cần tài liệu hóa và phổ biến rộng rãi cho người dân áp dụng tốt hơn
nữa những kinh nghiệm, kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp ứng
phó với BĐKH tại cộng đồng địa phương.
- Cần có các chính sách cho người dân vay vốn để phát triển sản xuất
của gia đình, và người dân có kinh phí để áp dụng các kỹ thuật hiệu quả thích
ứng với hạn và rét.
- Hỗ trợ cho địa phương để xây dựng các tuyến đê bao, hệ thống kênh
mương nội đồng, các trạm bơm nước, hoàn thiện hệ thống thủy lợi để đảm bảo tưới tiêu trong sản xuất.
- Lồng ghép các mô hình sản xuất nông nghiệp thích ứng BĐKH vào trong
các kế hoạch phát triển của địa phương.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
Bộ tài nguyên và môi trường
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), "Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó
với biến đổi khí hậu tại Việt Nam".
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn(2008), "Khung Chương trình hành
động thích ứng với biến đổi khí hậu của ngành Nông nghiệp và PTNT giai đoạn
2008-2020".
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), "Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển
dâng cho Việt Nam".
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Công văn số 3815/BTNMTKTTVBĐKH
ngày 13/10/2009 về "Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch hành động ứng phó
với biến đổi khí hậu của các bộ, ngành, địa phương".
5. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường (2011), Tài liệu hướng dẫn
“Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng”.
Tài liệu thư viện
6. [Luận Văn] Nghiên cứu kiến thức bản địa của một số dân tộc thiểu số trong giảm
nhẹ rủi ro và thích ứng với biến đổi khí hậu tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Cạn.
(Th.s. Dương Thị Giang).
7. [Khóa Luận Tốt Nghiệp] Nghiên cứu một số mô hình sản xuất nông nghiệp thích
ứng biến đổi khí hậu dựa vào kiến thức bản địa ở xã Như Cố, huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Cạn. (Sinh viên. Dương Thị Hoạt).
UBND xã Long Hẹ
8. Các báo cáo phát triển kinh tế xã hội của xã Long Hẹ từ năm 2016-2018
9. Các báo cáo phát triển kinh tế xã hội, các kế hoạch phòng chống biến đổi khí hậu.
10. Các báo cáo ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, báo cáo công tác ứng cứu khắc
phục hậu quả do thiên tai gây ra .
11. Báo cáo thống kê ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trên địa bàn xã năm 2018.
12. Báo cáo công tác phòng chống và ứng phó biến đổi khí hậu của xã nghiên cứu.
82
II. Tài liệu Internet
13. Http://tuaf.edu.vn/adcthainguyen/bai-viet/tinh-hinh-bien-doi-khi-hau-tren-the-
gioi-va-nhung-tac-hai-13318.html.
14. Http://danida.vnu.edu.vn:8083/san-pham-du-an/kien-thuc-ban-dia/tai-lieu-
huong-dan-xac-dinh-va-su-dung-kien-thuc-ban-dia-trong-thich-ung-bien-doi-khi-
hau.html.
15. Https://123doc.org/document/1539813-bao-cao-khoa-hoc-kien-thuc-ban-dia-
trong-canh-tac-tren-dat-doc-cua-ng-oi-dan-xa-thuong-ha-bao-yen-lao-cai-pot.htm.
83
PHỤ LỤC
PHIẾU PHỎNG VẤN
“Tìm hiểu sử dụng kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc H’mông trong sản
xuất nông nghiệp tại xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhằm thích
ứng với biến đổi khí hậu”.
I. Thông tin cơ bản
1. Họ và tên người cung cấp thông tin:………………………………………………
2. Nghề nghiệp:………………,Tuổi………….., Giới tính…………………………..
Trình độ văn hóa:……………………......, Số ĐT (Nếu có)………………………..
3. Địa chỉ:……………………………………………………………………………..
II. Nội dung phỏng vấn
1. Ông (bà) cảm thấy thời tiết những năm vừa qua có thay đổi không?
Có. Không.
2. Theo ông (bà) sự thay đổi thời tiết diễn ra theo chiều hướng nào?
Tốt Bình thường. Xấu.
Nếu có thì sự thay đổi đó diễn ra như thế nào?
Số lần xuất hiện Thời gian nào Mốc thời gian Hiện tượng (tăng , giảm) trong năm thay đổi (năm)
Nắng
Hạn hán
Rét đậm, rét hại
Lũ quét
Thời tiết thất thường
Lốc xoáy
84
3. Ông (bà) nhận thấy những hiện tượng thời tiết xấu có ảnh hưởng gì đến cây trồng
và vật nuôi?
Hiện tượng thời tiết cực Cây trồng/ vật nuôi Tác động đoan
4. Hiện nay gia đình ông ( bà) đang trồng những loại cây bản địa nào để thích ứng
với sự biến đổi khí hậu?
Kỹ Kỹ thuật chăm Khả Kỹ thuật Loại cây thuật sóc và phòng năng chọn giống canh tác trừ sâu bệnh thích ứng
Lúa Nhóm cây
lương thực Ngô
Rau cải Nhóm các
cây rau Bí
Nhóm cây Chuối ăn quả
5.Những kinh nghiệm của ông (bà) trong quá trình canh tác, sản xuất nông nghiệp.
- Phương thức sử dụng đất nông nghiệp, chọn đất.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
- Tập quán canh tác và công cụ sản xuất.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
- Kiến thức về mùa vụ, chọn giống.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
85
6. Gia đình ông(bà) hiện nay đang chăn nuôi con gì?
- Trâu, bò số lượng…………. con.
- Lợn số lượng…………. con.
- Gia cầm(gà vịt) số lượng………….con.
- Con khác………………………………………………………………………..
7. Các loại bệnh mà đàn gia súc, gia cầm của gia đình thường mắc do thời tiết
thất thường? Các biện pháp phòng và trị bệnh mà gia đình đang áp dụng?
Tên bệnh Biện pháp
8. Để hạn chế các tác động có hại của thời tiết đến đàn gia súc, gia cầm gia đình ông
(bà) đã làm như thế nào?
Dạng thời tiết Biện pháp phòng chống
9. Ông (bà) sẽ đối phó với sự thay đổi thời tiết theo hướng nào?
Thích ứng và giảm nhẹ. Chống lại. Không quan tâm.
10. Những dấu hiệu để nhận biết mà ông (bà) cho rằng sắp có thời tiết xấu xảy ra là
gì? Và những kinh nghiệm trong dự báo thời tiết.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
11. Theo kinh nghiệm thì ông (bà) đã làm gì để giảm nhẹ tác hại của hiện tượng thời
tiết xấu?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
86
12. Ông (bà) cho biết đâu là những khó khăn và thuận lợi trong việc duy trì kiến
thức này và vận dụng trong thực tiễn?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Xin chân trân thành cảm ơn!
Người được phỏng vấn Người phỏng vấn