BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN TRƯƠNG ĐON
PHỨC CẢM GENJI TRONG SÁNG TÁC
CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI NHẬT BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN TRƯƠNG ĐON
PHỨC CẢM GENJI TRONG SÁNG TÁC
CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI NHẬT BẢN
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
` TH.S NGUYỄN BÍCH NHÃ TRÚC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
1
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn Tốt
nghiệp ngành Văn học. Cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình – nguồn
sức mạnh to lớn, giúp tôi có thể đi hết chặng đường vừa qua.
Tôi cũng xin được cảm ơn các Thầy, Cô khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đã dạy dỗ, dìu dắt tôi trong suốt thời gian học tập
tại trường.
Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời tri ân sâu sắc nhất đến Thạc sĩ Nguyễn Bích
Nhã Trúc. Cảm ơn Cô vì đã luôn tận tình chỉ bảo, dạy dỗ trong suốt quá trình thực
hiện luận văn và định hướng con đường nghiên cứu khoa học của tôi sau này.
Cuối cùng, xin cảm ơn bạn Lê Minh Tú và Lâm Minh Trí, cùng tất cả những
người bạn đã luôn ủng hộ, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận
văn. Xin trân trọng cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 4 năm 2018
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Trương Đon
2
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
STT Ký hiệu Tên Trang
Các nhân vật nữ trong mối quan hệ hình
Bảng 3.1 thành phức cảm Genji qua sáng tác của 83 1
Kawabata
Quá trình hình thành phức cảm Genji 2 Sơ đồ 2.1 72 qua giấc mơ tỉnh thức
Quá trình hình thành phức cảm Genji 3 Sơ đồ 2.2 76 qua giấc mơ tự nhiên
Ẩn dụ nghệ thuật qua phức cảm Genji từ 4 Sơ đồ 3.1 88 góc độ xã hội
Ẩn dụ nghệ thuật qua phức cảm Genji từ 5 Sơ đồ 3.2 89 góc độ tâm lý
3
MỤC LỤC
DẪN NHẬP................................................................................................................. 5
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................... 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................11
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................11
5. Ý nghĩa đề tài..........................................................................................................12
6. Bố cục luận văn...................................................................................................... 13
CHƯƠNG 1: “PHỨC CẢM GENJI” NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA –XÃ HỘI,
VĂN HỌC VÀ TÂM LÝ HỌC............................................................................... 14
1.1. Phức cảm Genji nhìn từ góc độ văn hóa - xã hội Nhật Bản.............................. 14
1.1.1. Amaterasu - nguồn gốc văn hóa Nhật Bản...................................................... 14
1.1.1.1. Amaterasu - “người mẹ đầu tiên” trong huyền sử dân tộc Nhật................. 14
1.1.1.2. Amaterasu - những dấu vết văn hóa hiện đại............................................... 17
1.1.2. Người phụ nữ trong đời sống xã hội Nhật Bản................................................21
1.1.2.1. Người phụ nữ và những đóng góp to lớn trong lịch sử................................ 21
1.1.2.2. Người phụ nữ và những mẫu hình lí tưởng trong xã hội hiện đại............... 23
1.2. Phức cảm Genji nhìn từ góc độ văn học............................................................. 26
1.2.1. “Tính nữ” trong văn học Heian........................................................................26
1.2.2. Truyện Genji - mẩu gốc của motif “Phức cảm Genji”.................................... 34
1.3. Phức cảm Genji nhìn từ góc độ nghiên cứu tâm lý học Nhật Bản..................... 37
1.3.1. Amae - nguồn gốc tâm lý của phức cảm Genji.............................................. 37
1.3.2. “Phức cảm Genji” và “mặc cảm Oedipus”...................................................... 39
CHƯƠNG 2: “PHỨC CẢM GENJI” TRONG DÒNG CHẢY VĂN HỌC
HIỆN ĐẠI NHẬT BẢN........................................................................................... 44
4
2.1. Nhân vật nam - chủ thể của phức cảm Genji......................................................46
2.1.1. Nỗi đau xa lìa mẹ..............................................................................................46
2.1.2. Mong muốn giải phóng những ẩn ức cá nhân................................................ 49
2.1.2.1. Sự giải phóng bản năng tính dục................................................................. 49
2.1.2.2. Sự giải phóng khát vọng bị dồn nén và mặc cảm bản thân..........................53
2.2. Nhân vật nữ - người tình mang hình bóng người mẹ......................................... 55
2.2.1. Sự hiện hữu của người mẹ qua người tình.......................................................55
2.2.1.1. Bộ ngực - hình ảnh gợi nhớ ấu thơ............................................................... 55
2.2.1.2. Sự gợi nhắc tình mẫu tử qua những chi tiết khác.........................................61
2.2.2. Sự hóa thân của tình mẫu tử thiêng liêng....................................................... 65
2.3. Giấc mơ - phương tiện nghệ thuật biểu hiện phức cảm Genji...........................71
2.3.1. Giấc mơ tỉnh thức.............................................................................................72
2.3.1. Giấc mơ tự nhiên.............................................................................................. 76
CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG “PHỨC CẢM GENJI” TRONG SÁNG TÁC
CỦA BA NHÀ VĂN: TANIZAKI JUNICHIRO, KAWABATA YASUNARI
VÀ MURAKAMI HARUKI....................................................................................78
3.1. Phức cảm Genji và hành trình tìm về nguồn cội của Tanizaki Yunichiro........ 78
3.2. Phức cảm Genji và hành trình tìm kiếm cái Đẹp đã mất của
KawabataYasunari......................................................................................................80
3.3. Phức cảm Genji và hành trình tìm kiếm bản ngã con người hiện đại của
Harumi Murakami...................................................................................................... 89
KẾT LUẬN................................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 99
5
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Nhà phê bình Olga Kenyon đã từng phát biểu: “Phụ nữ chính là mẹ của tiểu
thuyết. Thế mà các nhà phê bình nam giới từng dạy chúng ta rằng cha đẻ của tiểu
thuyết là Defoe và Richardson. Nhưng trước họ rất lâu, chính phụ nữ đã bắt đầu
phát triển thể loại tiểu thuyết. Tác phẩm đầu tiên mà chúng ta được biết là truyện
Genji do bà Murasaki viết vào thế kỉ XI ở Nhật. Đó là tiểu thuyết tâm lý đầu tiên
của thế giới có cảm hứng phi thường và độc đáo vô song”. Quả vậy, Genji
monogatari (Truyện Genji) là bộ tiểu thuyết (tâm lý) mang tính chất khai sáng thể
loại ở Nhật Bản và rộng hơn là của cả nhân loại. Bộ tiểu thuyết đã điểm trang cho
văn học Nhật Bản màu sắc mới mẻ, góp phần nâng cao ưu thế của thể loại truyện kể,
cũng như cho hệ thống chữ kana (so với Hán tự) vào thời Heian. Và hơn hết, nó
như một tiếng nói “có giá trị” của những nhà văn nữ lúc bấy giờ. Nhà văn Kawabata
đã từng phát biểu:“Kể từ khi xuất hiện, Genji monogatari, văn học Nhật Bản bao
giờ cũng hướng đến nó. Đã có bao nhiêu những tác phẩm bắt chước! Tất cả các
loại hình nghệ thuật, từ nghệ thuật ứng dụng đến nghệ thuật bài trí vườn cảnh, đấy
không nói đến thơ ca, đều tìm thấy trong Genji cội nguồn của cảm hứng cái
đẹp”[12,247].
Genji monogatari là một tiểu thuyết tâm lý đặc sắc, kiệt tác của nền văn học
Heian. Tác phẩm đã hạn chế những chi tiết kì ảo, hoang đường – một trong những
kỹ thuật hư cấu đặc trưng, phổ biến của tiểu thuyết cổ điển, mà thay vào đó là
những “sự thực” khách quan, gần gũi với cuộc sống thường ngày. Đặc biệt, tâm lý
nhân vật không chỉ được khắc họa ở bề ngoài mà còn được soi rọi ở những ngóc
ngách sâu kín bên trong tâm hồn. Bộ tiểu thuyết đã đưa người đọc phiêu lưu qua rất
nhiều trạng thái tâm lý như: yêu thương, giận hờn, ghen tuông, giấu giếm, phản bội,
luyến tiếc, sầu muộn,… Nổi bật nhất trong tác phẩm là hoàng tử “sáng chói” Genji,
một mẫu hình lí tưởng mà Murasaki Shikibu đã xây dựng. Chàng là một người tình
lí tưởng, một chàng trai hào hoa, đa tài và đa tình. Genji trong câu chuyện là một lữ
khách đi tìm cái đẹp: cái đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng qua rất nhiều cuộc tình
với những người con gái mà chàng yêu thương. Tiêu biểu là mối tình sâu đậm với
người mẹ kế Fujitsubo. Một mối tình tưởng chừng là vô lý, trái lẽ thường nhưng xét
6
về mặt tâm lý, nó lại cho thấy một góc khuất sâu thẳm rất thú vị, phổ biến của nam
giới nói chung và nam giới Nhật nói riêng. Sau này, hiện tượng ấy đã được nghiên
cứu một cách nghiêm túc và được các nhà nghiên gọi tên là “phức cảm Genji”
(Genji complex).
Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến nay đã có nhiều đóng góp to lớn cho
văn học nhân loại. Có thể kể đến bộ tiểu thuyết tâm lý đầu tiên Genji monogatari
của nữ sĩ Murasaki Shikibu, hay thể loại thơ haiku chỉ với 17 âm tiết nhưng cho đến
nay đã trở thành thể thơ quốc tế (world haiku),… Văn học Nhật thế kỉ XX chứng
kiến sự trưởng thành của các cây bút trẻ thời hiện đại: như Kawabata, Murasaki,
Tanizaki,… đã và đang được yêu thích trên khắp thế giới. Tác phẩm của họ đã cho
chúng ta một bức tranh với đủ các màu sắc của không khí thời kì chuyển giao nước
Nhật với chiều sâu văn hóa truyền thống cộng hưởng với những luồng gió mới đến
từ các nước phương Tây. Đọc tác phẩm của họ ta như du ngoạn vào một Nhật Bản
muôn hình, muôn vẻ. Những nhân vật trong các sáng tác của những tác gia kiệt xuất
ấy dù là nam hay nữ, dù già hay trẻ tuổi,... đều cho ta những cảm xúc thật sâu lắng
và những hiểu biết thú vị về con người, về cuộc đời. Tuy nhiên, ẩn sâu trong đó lại
là một sợi dây kết nối giữa họ với nhau và thời đại họ với thời đại trước. Đó là
“nguồn suối sâu rộng” từ tác phẩm vĩ đại “Genji monogatari”.
Thời gian gần đây có rất nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực văn học đi vào tìm
hiểu các đặc trưng tâm lý con người qua các sáng tác văn chương. Phân tâm học là
lý thuyết được nhiều người lựa chọn, cụ thể là phạm trù “mặc cảm Oedipus” của
Freud. Lý thuyết này đã giúp giải quyết rất nhiều vấn đề trong nhiều tác phẩm văn
học phương Tây cũng như ở phương Đông như: chiều sâu vô thức, vấn đề tính dục
cũng như các biểu tượng tính dục, hiện tượng tâm lý của các nhân vật,… Từ đó, có
thể thấy việc áp dụng các lý thuyết tâm lý để nghiên cứu văn học là một sự tìm tòi
mang tính chất khai phá. Vì vậy, việc nghiên cứu, khám phá phức cảm Genji, một
phức cảm đặc trưng của phương Đông, có nhiều nét tương đồng và dị biệt so với
Oedipus của phương Tây là một hướng đi có nhiều hứa hẹn.
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi xác định đề tài PHỨC CẢM GENJI
TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI NHẬT BẢN
để thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp Đại học, chuyên ngành Văn học.
7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
“Phức cảm Genji” là một đối tượng nghiên cứu khá mới mẻ ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu. Chúng tôi đã có sự tiếp xúc với những bài viết trong
sách, báo, tạp chí và internet sau:
Năm 2003, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, trong quyển Văn học Nhật Bản từ
khởi thủy đến 1868, đã dựa vào những nét tâm lý của hoàng tử Genji trong tiểu
thuyết Genji monogatari để khái quát lên biểu hiện của phức cảm Genji : “Trong
suốt cuộc đời mình, Genji tìm kiếm bóng hình của người mẹ trong mọi người tình.
Để chàng có thể sống lại thời thơ ấu một cách đầy đủ hơn vì tuổi thơ của chàng
sớm mất mẹ. Và đồng thời, qua hình ảnh người tình- mẫu thân” ấy chàng có thể
thõa mãn ái dục của người trưởng thành”. Khát vọng lưỡng tính ấy được giới phê
bình gọi là “phức cảm Genji” (Genji Complex)”[3,124]. Không những vậy, theo
nhà nghiên cứu, “phức cảm Genji không chỉ là trường hợp của ‘ông hoàng sáng
chói’, nó là hiện tượng tâm lý của nhiều người trong nam giới”[3,124]. Những
đánh giá trên của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã mang lại cho chúng tôi những định
hướng, gợi ý về đề tài “phức cảm Genji” trong tác phẩm của các nhà văn hiện đại
Nhật Bản sau này. Tuy nhiên, Nhật Chiêu vẫn chưa đưa ra được một cách khái quát
hóa nội hàm phức cảm Genji cũng như sự ảnh hưởng của nó về sau, mà chỉ giới hạn
trong tác phẩm kinh điển thời Heian. Song, công trình trên là một bài viết khá quan
trọng cho chúng tôi xác lập khái niệm về “phức cảm Genji”.
Tiếp đến, là bài viết Phức cảm Genji trong tiểu thuyết Kafka bên bờ biển
của Haruki Murakami của Nguyễn Thị Bích Thúy năm 2010 đăng trên Tạp chí
Văn học. Bài viết trên là sự minh chứng cho những tiếp cận ban đầu của những nhà
nghiên cứu đối với phức cảm Genji. Phân tích “phức cảm Genji” trong tiểu thuyết
của tác gia Murakami, tác giả đã đưa ra định nghĩa tương đối rõ ràng: “ ‘Phức cảm
Genji’ (Genji complex) là thuật ngữ mà các nhà phê bình dùng để chỉ một hiện
tượng tâm lý, những nỗi xúc động, cảm xúc phức tạp của Genji- nhân vật chính”.
Và “cốt lõi của “phức cảm Genji”, của hiện tượng tâm lý phức tạp này là một khát
vọng “lưỡng tính”. Chàng tìm kiếm vẻ đẹp tình yêu thương vĩnh cửu của người mẹ
trong hình ảnh người tình. Bản chất tình cảm của Genji đối với người mẹ kế
8
Fujitsubo là như vậy, rất khó tách bạch. Đó là tình mẫu tử thiêng liêng cao quý hay
là tình yêu nam nữ quyến rũ và đầy đam mê nhục thể? Cả hai điều đó dường như
hòa trộn không phân biệt trong “phức cảm Genji”[34]. Ở bài viết này, tác giả đã
nghiên cứu “phức cảm Genji” trong sự đối sánh với “mặc cảm Oedipus” của
phương Tây và sự liên kết với khái niệm Amae - một khái niệm trong lĩnh vực
nghiên cứu tâm lý học Nhật Bản của tiến sĩ Takeo Doi. Bài báo này đã mở ra cho
chúng tôi hướng tiếp cận phức cảm Genji từ góc độ tâm lý học và sự thôi thúc tìm
hiểu về phức cảm Genji trong tác phẩm Kafka bên bờ biển của Murakami.
Thạc sĩ Nguyễn Bích Nhã Trúc trong luận văn Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết
Murakami Haruki (2012), có viết : “phức cảm Genji” – một cảm xúc phức tạp kiểu
như “mặc cảm Oedipus” của người phương Tây, thứ cảm xúc mà phải tới thế kỉ
XIX, nhà phân tâm học nổi tiếng Sigmund Freud mới gọi được tên”[45,25]. Tác giả
luận văn cũng đã nhìn nhận mối quan hệ giữa phức cảm Genji với mặc cảm
Oedipus và cho rằng giữa chúng đều “là những cảm xúc phức tạp”. Đồng thời, theo
như tác giả luận văn, phức cảm Genji của Nhật Bản ra đời sớm hơn so với mặc cảm
Oedipus của phân tâm học Freud. Đây cũng là một gợi ý cho việc nghiên cứu của
chúng tôi.
Sinh viên Trần Lam Vy trong luận văn tốt nghiệp đại học với đề tài Biểu
tượng trong tác phẩm Kafka bên bờ biển của Murakami Haruki đã nghiên cứu
phức cảm Genji dưới góc độ biểu tượng. Tác giả đã xem phức cảm Genji là một
dạng của “nỗi sợ hãi và dung hòa định mệnh” trong Kafa bên bờ biển. Người viết
cũng khái quát về phức cảm Genji: “Phức cảm Genji” là rung động, xúc cảm phức
tạp lưỡng phân vừa là tình yêu nam nữ, vừa là tình mẫu tử”[50,56] và đi sâu vào
phân tích những biểu hiện của Phức cảm Genji trong mẫu gốc của nó và tiểu thuyết
Kafka bên bờ biển (Murakami). Có đoạn viết “Genji hoàn toàn có thể đắn đo suy
nghĩ về hành động của mình nhưng chàng đã chìm đắm vào tình yêu. Kafka lại nằm
ở khoảng giữa đấy, cậu không chắc Miss Saeki là mẹ mình nhưng cậu luôn tin
tưởng vào điều đó. Xét trên phương diện này, Kafka gần với Genji hơn”[51,56].
Không chỉ vậy, luận văn còn chú ý đến đặc điểm tâm lý của phức cảm trên cơ sở
văn hóa: “Để hiểu được hành động ngủ với một người phụ nữ hơn mình vài chục
tuổi lại rất có thể là mẹ mình, người đọc không thể không tìm hiểu văn hóa Phù
9
Tang” và nhắc đến khái niệm Amae để giải thích cho hành vi Kafka ngủ với Miss
Saeki - người mà cậu có cảm tưởng là mẹ mình. Bài viết này lại một lần nữa đề cập
đến “mặc cảm Oedipus” trong sự đối sánh với “phức cảm Genji”. Luận văn trên
cũng đã đưa ra điểm giống nhau ở cả hai nét tâm lý ở phương Tây và phương Đông
- cả “mặc cảm Oedipus” và “phức cảm Genji” đều mang tính cổ mẫu”[51,59], bên
cạnh đó là sự lí giải về “sự mặc cảm” trong mặc cảm Oedipus: “Sử dụng thuật ngữ
“mặc cảm Oedipus” để nói về phần nặng nề, mang màu sắc của tổn thương và lệch
lạc. Thuật ngữ “phức cảm Genji” để nói đến những tình cảm phức tạp xen lẫn tình
yêu và tình mẫu tử, một lằn ranh mong manh khó lòng phân biệt”[51,60]. Với
nghiên cứu của mình, tác giả đã đề cập đến hai công trình, một công trình đã được
Nguyễn Thị Bích Thúy đề cập đó trước đó là Giải phẫu sự phụ thuộc, và một tác
phẩm khác mang tên: Giải phẫu tự ngã: cá nhân chống chọi với xã hội cũng của
Takeo Doi (do Hoàng Hưng dịch). Đây là những công trình mang tính định hướng
cho chúng tôi tìm hiểu về phức cảm Genji trên cơ sở tâm lý học và đặc trưng tính
cách Nhật Bản.
Ngoài những phân tích trên, luận văn của Lam Vy còn nêu ra sự gợi ý về sự
xuất hiện của phức cảm Genji trong những tác gia khác ngoài Murakami như:
Kawabata với Ngàn cánh hạc, Tanizaki với Cầu Mộng. Và những tác phẩm với
những cái tên trên cũng là những luận điểm mà tác giả Hoàng Long trong bài viết
Truyện Genji – tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của thế giới (2015) đã nói tới. Ngoài ra,
bài viết của tác giả Hoàng Long cũng đưa ra định nghĩa sơ lược về khái niệm phức
cảm như những ý kiến đã nói ở trên. “Phức cảm Genji: đứa con khao khát hình
bóng người mẹ, truờng hợp Genji là yêu người mẹ kế Fujitsubo”1 và hướng nghiên
cứu về não trạng Amae trong nghiên cứu Giải phẩu sự phụ thuộc của Takeo Doi.
Ngoài ra, một số bài viết khác cũng có đề cập đến phức cảm Genji nhưng nó
không được goi tên mà chỉ ở dạng biểu hiện. Có thể kể đến như:
Nguyễn Tuấn Khanh (2011) biên soạn và giới thiệu Những cây bút kiệt xuất
trong văn học Nhật Bản hiện đại. Theo tác giả, “nhân vật xưng tôi tên là Tadasu
1 Hoàng Long (2015), Truyện Genji- tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của thế giới, truy cập lần cuối ngày 10-04-
2018, tại trang: http://www.kilala.vn/van-hoa-nhat/truyen-genji-tieu-thuyet-tam-ly-dau-tien-cua-the-gioi.html
vừa có một nét gì đó của Genji vừa một nét gì đó của Yugiri. Đó là nỗi ám ảnh
10
không nguôi mang tính nhục cảm từ hình ảnh của người mẹ đẻ sau đó là của người
mẹ kế”[15,448]. Tác giả cũng đã phân tích biểu hiện đặc trưng của phức cảm trong
tác phẩm Cầu Mộng: “Trong cuốn tiểu thuyết này, sự gắn bó của người kể chuyện,
với người mẹ kế của mình, người mà trong tâm khảm đã hoàn toàn pha trộn với
người mẹ đẻ của anh đã mất từ khi còn bé quá mạnh mẽ, Khi người mẹ kế qua đời,
ngay lập tức anh bỏ vợ và chỉ thích sống với những kỉ niệm của mình về người mẹ
kế”[15,448].
Nguyễn Thị Huê Vân (2012) trong công trình Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã
trong tiểu thuyết của Haruki Murakami (luận văn Thạc sĩ) có đoạn đề cập: “Họ có
xu hướng tìm đến tình yêu gần gũi thân thuộc giống như Genji trong Truyện Gennji
đem lòng yêu mẹ kế, Kafka trong Kafka bên bờ biển cảm nhận được tình yêu đối với
Miss Saeki như tình yêu dành cho người mẹ,…” [52,33].
Trong một bài viết khác, được biết là của người dịch tác phẩm Sắn Dây Núi
Yoshino của Tannizaki: “Tsumura, anh bạn của Tanizaki trong Sắn Dây Núi
Yoshino đã cưới người vợ mang hình ảnh của mẹ mình, như thể đem những mảnh
vỡ của quá khứ để chắp thành hiện tại. Trong Truyện Genji, tác giả Murasaki
Shikibu cũng khéo léo sử dụng yếu tố thời gian để dẫn dắt câu chuyện như khi đem
cái bóng quá khứ trùm lên cuộc sống hiện tại các nhân vật. Hoàng đế Kiritsubo yêu
Fujitsubo vì nàng giống người vợ mệnh yểu của mình, Genji cũng yêu nàng vì nàng
giống mẹ chàng.”2
Trong bài viết The Genji complex: the search for the ideal woman (Phức
cảm Genji: tìm kiếm người phụ nữ lý tưởng)3 công bố năm năm 2017, tác giả tập
trung đi vào phân tích “người phụ nữ lí tưởng” mà chàng Genji mong muốn.
“Người phụ nữ lý tưởng của Genji là người thay thế khoảng trống mất mát về cảm
xúc đã để lại từ người mẹ quá cố của ông là Kiritsubo”. (“His ideal woman is
someone who replaces the emotional gap left behind from his deceased mother,
2 Tham khảo tại
trang:http://m.khotruyenhay.mobi/truyen-doc/235055/-nguyen-tac-tanizaki-junichiro.html,
truy cập lần cuối ngày 10-04-2018
3 Tham khảo tại trang: https://yolandachavez.wordpress.com/2017/04/11/the-genji-complex/,
Xem lần cuối ngày 15-03-2018
Kiritsubo”). Đồng thời tác giả cũng phân tích phức cảm theo góc độ tâm lý học:
11
“Bằng phân tích tâm lý học, người ta nhận thấy đằng sau cách ứng xử của Genji
trong mối quan hệ với người mẹ hiện tại có một mối quan hệ nuôi dưỡng tự nhiên
mà ông chưa bao giờ có với mẹ trong quá khứ của mình” (“The psychological
analysis behind his parental behaviors presents Genji as imitating a nurturing
relationship that he never had with his mother”). Bài viết cũng phân tích vấn đề từ
nhiều góc độ. Tuy nhiên, bài viết vẫn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát về mặt biểu
hiện ban đầu của phức cảm Genji.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo hữu ích
để chúng tôi có cơ sở thực hiện việc nghiên cứu của mình đối với việc nghiên cứu,
khảo sát đề tài với các tác giả Kawabata, Tanizaki và Murakami.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu của đề tài là phức cảm Genji trong sáng tác của
một số nhà văn hiện đại Nhật Bản. Đây là một motif khá phổ biến trong văn học
Nhật Bản.
Về phạm vi nghiên cứu của đề tài là các tác phẩm văn xuôi văn học hiện đại
Nhật, với hai thể loại: tiểu thuyết và truyện ngắn. Cụ thể hơn, chúng tôi nghiên cứu
phức cảm Genji trong các sáng tác đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam của ba
nhà văn hiện đại: Tanizaki, Kawabata, và Murakami. Đối với mỗi nhà văn chúng tôi
chỉ tiến hành khảo sát trong một số tác phẩm nổi bật, thể hiện rõ đối tượng nghiên
cứu:
- Tanizaki: Cầu Mộng (Nhật Chiêu dịch), Sắn dây núi Yoshino (Nguyễn
Nam Trân dịch)
- Kawabata: Ngàn cánh hạc (Trùng dương dịch), Người đẹp ngủ say (Quế
sơn dịch) và Hồ (Uyên Thiểm dịch)
- Murakami: Kafka bên bờ biển (Dương Tường dịch)
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp và một số thao tác nghiên cứu sau:
- Phương pháp văn hóa – văn học: Phức cảm Genji bắt nguồn sâu xa từ cội
nguồn văn hóa – văn học đậm đà của xứ sở phù Tang. Thế nên, để làm rõ khái
niệm cũng như những đăc trưng tâm lý đặc trưng của phức cảm Genji, chúng tôi
12
tiến hành nghiên cứu trên nền tảng văn hóa – văn học dân tộc Nhật Bản. Có như
thế, vấn đề mới được sáng rõ và dễ dàng tiếp nhận.
- Phương pháp lịch sử - xã hội: Lịch sử và xã hội là những yêu tố tác động đến
văn hóa, văn học cũng như quá trình sáng tác của tac giả. Vì vậy, chúng tôi dùng
phương pháp này để làm sáng rõ những đặc điểm cơ bản của chúng từ thời cổ
đại đến hiện đại ở Nhật Bản, tác động gì đến những tư tưởng, tình cảm mà tác
giả gửi gắm trong tác phẩm thông qua motif “phức cảm Genji”.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh –
dối chiếu nhằm làm rõ mối tương quan giữa phức cảm Genji và măc cảm
Oedipus. Đồng thời qua phương phap này, chúng tôi có sự đối sánh trong sự thể
hiện phức cảm Genji đối với mỗi nhà văn. Từ đó, làm bật lên sự đa dạng và
phong phú của phức cảm trong phóng cách mỗi nhà văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để có
thể chia nhỏ từng vấn đề trong đối tượng nghiên cứu của mình. Từ đó làm sáng
tỏ từng vấn đề cụ thể. Sau khi phân tích, làm rõ, chúng tôi đi đến kết luận, tổng
hợp những vấn đề cốt lõi để bài viết chặt chẽ và dễ nắm bắt hơn.
Ngoài ra, chúng tôi còn kết hợp với các thao tác: miêu tả, phân loại, thống
kê…
5. Ý nghĩa đề tài
Với đề tài của luận văn là “Phức cảm Genji trong sáng tác của một số nhà
văn hiện đại Nhật Bản”, chúng tôi đi theo một hướng nghiên cứu phù hợp với thực
tiễn nghiên cứu văn học Nhật Bản. Qua việc tìm hiểu khái niệm và đặc trưng của
phức cảm Genji qua các tác phẩm của ba nhà văn lớn trong nền văn học Nhật Bản:
Tanizaki, Kawabata, Murakami, đề tài sẽ góp phần lí giải, làm sáng tỏ những ảnh
hưởng của văn chương truyền thống thời Heian, cùng những nét tâm lý xa xưa,
mang tính cổ mẫu đến văn chương hiện đại Nhật Bản. Đồng thời, làm sáng rõ một
số vấn đề về nội dung và nghệ thuật của các nhà văn hiện đại trong các tác phẩm
của mình. Đó là một dòng chảy của nghệ thuật và cái đẹp xuyên suốt từ thời văn
học Heian cho đến ngày nay.
13
Trong tình hình nghiên cứu và giảng dạy văn học Nhật Bản ở Việt Nam hiện
nay, chúng tôi hi vọng luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham khảo cho sinh
viên thuộc khối, ngành Khoa học Xã hội và nhân văn.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được triển
khai thành 3 chương:
Chương 1: “Phức cảm Genji” nhìn từ góc độ văn hóa- xã hội, văn học, tâm lý
học
Ở chương này, chúng tôi trình bày khái quát về cơ sở hình thành phức cảm
Gennji từ các góc độ: văn hóa – xã hội, văn học và tâm lý học Nhật Bản. Qua
chương này chúng tôi muốn đưa ra những cơ sở vững chắc nhất để xác lập được
khái niệm phức cảm Genji, làm nền tảng cho những phân tích sau này.
Chương 2: “Phức cảm Genji” trong dòng chảy văn học hiện đại Nhật Bản
Ở chương này, chúng tôi cũng muốn đem đến một cái nhìn xuyên suốt về
phức cảm Genji trong tác phẩm của ba nhà văn: Kawabata, Tanizaki, Murakami nói
chung và nền văn hoc hiện đại Nhật bản nói riêng.
Chương 3: Đặc trưng “phức cảm Genji” trong sáng tác của ba nhà văn: Tanizaki
Junichiro, Kawabata Yasunari, Murakami Haruki
Ở chương này, chúng tôi nêu bật những nét riêng trong sự thể hiện phức Cảm
Genji trong tác phẩm của ba nhà văn Tanizaki Junichiro, Kawabata Yasunari và
Murakami Haruki. Từ đó cho thấy sự da đạng và phong phú trong cách thể hiện
phức cảm này trong dòng chảy mạnh mẽ của nền văn học Nhật bản hiện đại.
14
CHƯƠNG 1: “PHỨC CẢM GENJI” NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
VĂN HÓA –XÃ HỘI, VĂN HỌC VÀ TÂM LÝ HỌC
1.1. Phức cảm Genji nhìn từ góc độ văn hóa - xã hội Nhật Bản
1.1.1. Amaterasu – nguồn gốc văn hóa Nhật Bản
1.1.1.1. Amaterasu - “người mẹ đầu tiên” trong huyền sử dân tộc
Nhật
Tín ngưỡng và tôn giáo là một trong những yếu tố không thể thiếu trong đời
sống văn hóa của mọi quốc gia. Trong đó Nhật Bản được xem là một trong những
“cái nôi” tự dung dưỡng và hình thành cho mình nét văn hóa tâm linh rất riêng, độc
đáo. Trong số các tín ngưỡng và tôn giáo ở quốc gia này, Thần đạo (Shinto) , nổi
bật hơn cả là.
Thần đạo ở Nhật là tín ngưỡng thờ thần linh. Có khoảng hơn tám triệu vị
thần. Trong đó, nữ Thần Amaterasu được xem là vị thần quan trọng nhất trong tính
ngưỡng Nhật Bản. Không chỉ thế, trong những công trình viết về huyền sử dân tộc
như Kojiki (Cổ sự kí) và Nihongi (Nhật bản kỉ) đều có đề cập đến vị thần này.
Amaterasu, tên đầy đủ là Amaterasu-Oomikami (Thiên Chiếu Đại Thần theo
Nihongi - Nhật Bản kỉ, Thiên Chiếu Đại Ngự Thần theo Kokiji- Cổ sự kí; ngoài ra
còn được viết là 天照皇大神 Thiên Chiếu Hoàng Đại Thần, 日神 Nhật Thần hay
Thần Mặt Trời).
Về nguồn gốc của vị thần này, trong Cổ sự kí có đoạn đề cập như sau: “Việc
hai vị thần Izanagi và Izanami đã vâng lệnh Kotoamatsu-kami từ cõi thần đi ra
thành lập một đất nước lí tưởng. Nam thần bèn thọc ngọn giáo xuống một vùng bầy
nhầy như thịt sứa để tạo thành một hòn đảo muối. Sau đó hai người đến đấy và kết
hôn với nhau. Izanami đã sinh ra nước Nhật (Oyashimagumi, Đại bát đảo quốc) và
các thần núi, biển, gió, cây cỏ nhưng đến khi đẻ ra thần hỏa thì bị lửa táp, phải về
cõi Chết (Yominokuni, Hoàng Tuyền Quốc).
Tiếp đó nữ thần Mặt Trời Amaterasu Oomikami, sinh ra từ con mắt trái của
Inazaki khi vị thần này đến giữa vùng biển Hikuma để tẩy uế vì bị nhuốm cái bẩn
15
thỉu của cõi Chết khi đi thăm vợ. Amaterasu được chọn từ đám chị em để trị vì
Cánh Đồng Trời Takama no hara (Cao thiên nguyên, bầu trời)”[40,28].
Còn trong quyển Nhật Bản kỉ lại viết rằng sau khi Izanagi và nữ thần Izanami
tạo ra các hòn đảo, cây cối, núi non,… thì họ đã bàn với nhau để tiếp tục sinh ra “ai
đó để làm chúa tể vũ trụ”. “Thế là họ sinh ra nữ thần Mặt Trời, gọi là Amatesaru.
Ánh sáng của đứa bé chiếu khắp sáu phương trời (Bắc, Nam, Đông, Tây, Trên,
Dưới)” [2,33].
Tuy nhiên, theo nhiều tài liệu thì huyền thoại trong Cổ sự kí được chấp nhận
hơn cả. Đa số cho rằng bà chỉ được Izanagi sinh ra từ mắt trái của ông.
Không chỉ vậy, chuyện xưa còn kể lại việc bà lần lượt cho con trai của mình
là Tenson (Thiên Tôn) và cháu trai là Ninigi giáng thế xuống nước Nhật. “Lúc
Amaterasu cho Thiên Tôn giáng lâm, con cháu Susano vì cai trị nước của mình
không minh để nước hỗn loạn nên phải chịu nhường nước lại để đổi lấy cung điện
nguy nga” [40,28] Sau đó, “Ninigi no Mikoto, cháu của Amaterasu và thủy tổ của
dòng này đã xuống trần ở ngọn núi Takachiho no mine (Cao Thiên Huệ Phong) ở
vùng Hyuuga (Himuka, Hướng Nhật, nay thuộc tỉnh Myzanaki, phía Nam Kyuushuu)
và bắt đầu gầy dựng một hoàng tộc, chính thống trị vì không giáng đoạn trên nước
Nhật cho đến ngày nay” [40,28]. Jimu (Thần Vũ)- vị Thiên Hoàng đầu tiên của
Nhật Bản, là cháu trai Ninigi, đồng thời là cháu nhiều đời của nữ thần Mặt Trời
Amaterasu.
Qua những minh chứng trên, chúng tôi thấy rằng huyền sử nước Nhật tuy
nhắc về hai vị thần Izanagi và Izanami như những người có công khai khẩn vùng
đất lí tưởng, tạo ra cây cỏ, sông ngòi,… và các hòn đảo cho đất nước Nhật, nhưng,
có công vun đắp, mang lại sự thống nhất toàn vẹn cho dân tộc lại là vị nữ Thần Mặt
Trời Amaterasu và dòng dõi của bà.
Với vai trò là một vị đại thần với những quyền năng vô cùng quan trọng
Amaterasu là vị thần mang đến hơi ấm và nguồn năng lượng soi sáng cho sự sinh
tồn của muôn loài. Trong huyền sử Nhật Bản ta không thể không nhắc đến sự việc
các vị thần dùng “mưu kế” để mời Amaterasu ra khỏi hang sâu tăm tối. Chuyện kể
rằng, Amaterasu và em bà là Thần Bão (Susano) thường xuyên có xích mích và mâu
thuẫn với nhau. Trong một lần quá giận em trai mình “Amaterasu, nữ thần Mặt Trời
16
lánh vào Thiên Nham Động (Amato Iwato) không chịu soi sáng cho thế giới nữa,
làm cho tám trăm vạn thần linh cũng điêu đứng. Do đó vị thần tư tưởng Omoikane
mới nghĩ ra một phương kế. Cho chư thần tụ tập trước động, cười đùa ầm ĩ quanh
điệu múa cuồng nhiệt của nữ thần nghệ thuật Uzume. Nàng vũ nữ thiên thần ấy trút
xiêm y, để lộ những bí ẩn của thân xác mà nhảy múa làm cho chư thần cười điên
dại. Nghe náo động, từ trong hang nữ thần Amaterasu tức giận lên tiếng: “Ta
tưởng vắng ta thì Đồng Trời Cao hẳn phải tăm tối và Đồng Lau Sậy hẳn phải âm u.
Thế mà Ameno Uzume lại thản nhiên chơi đùa và tám trăn vạn thần cười cợt được
ư?”. Uzume đáp ngay: “Chúng tôi vui đùa vì đã có một vị thần khác rồi, còn chiếu
sáng hơn nàng nữa kìa”. Điều đó làm cho Amaterasu mở hé cửa động. Và nàng
ngạc nhiên khi nhìn thấy một bóng hình rực rỡ xinh đẹp. Nàng đâu biết rằng đấy
chính là cái bóng của chính nàng. Theo kế của Omoikane, một vật kì diệu vừa được
chế ra: chiếc gương soi. Và chư thần đã đặt chiếc gương soi ngoài của động chờ
Amaterasu. Khi nàng xuất hiện, vị thần sức mạnh là Tazikarao nhanh nhẹn đẩy hẳn
tảng đá chặn của đi, đưa nữ thần Mặt Trời ra hẳn bên ngoài.” [3,26-27].
Thế giới thần linh với 8 triệu vị thần, thế nhưng thiếu đi Amaterasu thì tất cả
đều trở nên bất lực. Ánh sáng và hơi ấm của Mặt Trời là nguồn năng lượng, nguồn
sống mà không gì có thể thay thế được trong sự sinh tồn của muôn loài.
Qua huyền sử, Amaterasu được nhắc đến như một nguồn sống, một ánh sáng
diệu kì xua tan đi những u tối, những cái xấu cái ác và tạo ra những đứa con, những
dòng dõi cao quý nhất trị vì Nhật Bản. Bà là một đại diện cho uy thế của những vị
nữ thần, của quyền uy bật nữ nhân trong thế giới thần. Chính sự uy quyền đó mà
“Chế độ mẫu hệ đã tồn tại ở Nhật Bản trong một thời gian khá dài (suốt 13 thế kỷ),
vai trò của người phụ nữ trong xã hội được đề cao và chỉ dần phai nhạt khi chế độ
Mạc phủ ra đời.”[43]. Bên cạnh đó, trong tiềm thức người Nhật Bản thì hình ảnh
của người phụ nữ nói chung và người mẹ nói riêng là hình ảnh người nữ vĩnh cửu.
Trong văn học, các tác phẩm đều xuất hiện những người phụ nữ với vẻ đẹp mong
manh dịu dàng, thánh thiện. Họ là biểu tượng của cái đẹp tính nữ, là đối tượng tìm
kiếm của những người nhân vật nam. Tạo thành một nét đặc trưng trong văn hóa,
văn học Phù Tang.
17
1.1.1.2. Amaterasu - những dấu vết văn hóa hiện đại
Như đã nói, Thần đạo là một trong những tín ngưỡng quan trọng trong đời sống
tinh thần ở Nhật. Trong tín ngưỡng Thần đạo, mọi vật từ cành cây, ngọn cỏ, đến núi
non, mây, gió… cho đến linh hồn của tổ tiên hay của những người có công lao đối
với dân tộc luôn tồn tại sức mạnh của một thế lực siêu nhiên (theo tín ngưỡng vật
linh -Animism). Chính vì thế mà người Nhật thường tôn thờ các đồ vật, đặc biệt là
các đồ vật được cho rằng có mối quan hệ với các vị Thần linh theo những huyền
thoại cổ xưa. Tất nhiên, trong đó, có rất nhiều vật linh có nguồn gốc thiêng liêng
gắn liền với vị nữ thần Mặt Trời Amaterasu vĩ đại.
Trước hết, khi nhắc đến những vật linh ở Nhật Bản thì phải kể đến ba báu vật
tượng trưng cho nguồn gốc của Thiên hoàng. Chúng được gọi là “Tam chủng thần
khí” gồm: chiếc gương, ngọc bội, thanh gươm. Tấm gương được gọi là Yata no
Kagami (Bát Chỉ Kính). Tấm gương ấy phản chiếu chính hình ảnh của Amaterasu,
làm cho bà ra khỏi nơi tăm tối, cứu sống cả thế giới. Không chỉ thế, trên tấm gương
ấy còn có treo viên ngọc mà ngày nay người ta cho rằng nó là viên Yasakani no
Magatama (Bát xích Quỳnh Khúc Ngọc). Nhưng lại có một huyền thoại khác cho
rằng viên ngọc ấy là một phần trong vòng tay của nữ thần Ame nu Uzume cùng với
điệu múa thần kì của bà. Và cuối cùng là thanh gươm Kusanagi no Tsurugi (Thảo
Thế Kiếm). Chiếc gươm này được biết đến với một thần thoại về sau, khi mà
Susano chiến đấu và giết được con Mãng Xà hung bạo. Ngài đã đem chiến lợi phẩm
đó để dâng lên nữ thần Amaterasu, xem như là lời tạ tội với chị mình. Sỡ dĩ chúng
tôi cắt ngang câu chuyện về việc Thần mặt trời để nói về sau vì ba vật linh thiêng
trên ngày nay có vai trò vô cùng quan trọng với Thiên Hoàng Nhật. Trong thần
thoại, khi cháu trai của nữ thần Amaterasu là Ninigi đồng ý xuống trị vì hạ giới, bà
đã đưa cho ông ba vật báu trên. Cho đến nay, sự tồn tại của Tam chủng thần khí vẫn
đang là một bí mật vì có lẽ chỉ có Thiên Hoàng và những vị có chức trách mới được
tiếp xúc với chúng.
Về chiếc gương, ngoài nguồn gốc là bảo vật quốc gia, thì trong dân gian
người ta vẫn xem những chiếc gương là vật linh thiêng và trân quý đặt giữa bàn thờ
gia tiên (kamidana) trong Thần đạo. “Bàn thờ được thiết kế thấp dưới trần nhà ở
gian phòng chính, đơn giản làm bằng gỗ với một miếng gương soi hình tròn tượng
18
trưng nữ thần mặt trời đặt ở chính giữa. hai bình rượu sake ở hai bên và hai bên
ngoài cùng là hai chiếc lọ có cắm cành sakaki,…” [14,14]. Ngoài ra nó còn được
đặt trong đền thần và chiếc kiệu rước thần.
Quay trở lại với việc các vị thần tìm mọi cách để làm cho nữ thần quay trở lại.
Lúc này có huyền thoại cho rằng các vị thần đã sử dụng một cái giàn sau đó cho gà
trống đậu lên để gáy. Theo thói quen thì Amaterasu sẽ thức dậy và ra khỏi hang.
Ngày nay, chiếc giàn gà đậu ấy là cổng Tori màu cam đỏ dẫn vào đền thờ thần đạo.
Trong tiếng Nhật Tori có nghĩa là chim, cổng Tori còn được gọi là cổng Điểu cư.
Về cấu trúc, cơ bản thì Tori có hai cột thẳng đứng, hai thanh ngang được đóng sát
nhau ở trên đỉnh, phía dưới nữa là một thanh ngang. Chiếc cổng này thường được
sơn màu đỏ. Người theo Thần đạo quan niệm rằng chiếc cổng là nơi gặp gỡ của
cuộc sống trần thế và cõi linh thiêng.
Ngoài những vật trên, chúng tôi còn tìm hiểu được trong sự tôn thờ của người
Nhật còn có một sợi dây thần thiêng liêng. Về nguồn gốc của sợi dây này, người
Nhật cho rằng nó xuất hiện từ việc các vị thần dùng nó để chặn cửa thay vì hòn đá
để Nữ thần Mặt Trời không thể quay trở vào trong Hang Trời tối tăm. Ở đây, chúng
tôi không bàn đến sự chính xác tuyệt đối của sự kiện. Bởi lẽ, chúng ta đều biết rằng
huyền thoại sẽ luôn có những dị bản và thường thì chúng dùng để giải thích sự ra
đời một cách “có lí” nhất những sự vật thiêng liêng của con người. Sợi dây thiêng
trên cũng không ngoại lệ. “Sợi dây thiêng này tiếng Nhật gọi là shimenawa… Sợ
dây thừng còn được đính những tua giấy xếp màu trắng gọi là gohei và thường
giăng quanh một khu vực nào đó như nhà, cây, tảng đá… để giữ gìn khu vực thiêng
liêng hay trừ tà ma khỏi xâm nhập.” [14,12]. Ngoài ra nó còn dùng trong kiệu rước
thần cùng với tấm gương soi và trên đầu kiệu có biểu tượng con gà.
Tiếp nối những nghi thức thờ cúng của người Nhật, ta phải nhắc đến sự thờ
cúng vị nữ thần Mặt Trời trong đời sống văn hóa người Nhật. Amaterasu được
người Nhật thờ phụng ở thần cung Ise ở Ise nằm ở Ise phía Đông đảo Honshū.
Trong thần cung có phần Nội cung (Naiku) dành riêng cho bà. Tuy nhiên, ngôi đền
lại không mở cửa cho công chúng. Mỗi 20 năm sẽ có một buổi lễ gọi là Shikinen
Sengu để tôn vinh Amaterasu. Các tòa nhà thờ chính bị phá hủy và xây dựng lại tại
một vị trí tiếp giáp với địa điểm. Quần áo mới và thực phẩm sau đó được cung cấp
19
cho nữ thần. Nghi lễ này là một phần của đức tin Thần đạo và đã xuất hiện từ năm
690.
Trong số các nghi lễ thờ thần của người Nhật, có một điệu múa tên là Kagura.
“Điệu múa Kagura còn được gọi là Kamukura hoặc Kamikura thường được biểu
diễn tại các đền thờ như một điệu múa thiêng liêng cùng các Miko tại đền thờ. Miko
(Vu nữ) là những người được cho là hậu duệ của nữ thần Ame nu Uzume, làm
nhiệm vụ cai quản và chăm sóc các ngôi đền”. Họ mặc áo trắng, đeo Hakama đỏ và
đeo tabi trắng”4. Nó có nguồn gốc từ điệu múa mà nữ thần Ame nu Uzume- nữ
thần của Lễ hội và Hạnh phúc dùng kích thích sự tò mò của nữ thần Mặt Trời và
thôi thúc bà ra khỏi hang sâu tối.
Từ huyền sử đầy kì bí thuở khai thiên lập địa, đã cho ta thấy những dấu vết hết
sức rõ nét của vị nữ Thần trong văn hóa người Nhật Bản. Thế nhưng, nói đến những
vật dụng gắn với thần thoại thôi vẫn chưa đủ. Bởi lẽ ngay trong những hình ảnh tự
hào mà nước Nhật mang đến thế giới ngày nay, cũng cho ta thấy đâu đó có sự hiện
diện của “thủy tổ” mà họ hằng tôn kính.
Nhật Bản được mệnh danh là “đất nước mặt trời mọc”. “Tên nước Nhật đọc là
Nihon hoặc Nippon có nghĩa là nguồn gốc mặt trời” [14,111]. Đất nước của sự bảo
hộ, sự tỏa sáng diệu kì từ linh khí của người mẹ tinh thần - mẹ Mặt trời Amaterasu.
Ai cũng biết quốc kì là một vật báu, một vật luôn được mọi người dân tôn trọng và
trân quý, đồng thời là “đại diện” của đất nước trên trường quốc tế. Nhật bản, với lá
cờ nền trắng và có có một hình tròn đỏ ở giữa tượng trưng cho mặt trời. Tên gọi
chính thức của lá cờ này là Nisshoki (Lá cờ mặt trời) nhưng nó cũng thường được
gọi là Hinomaru (Vòng tròn mặt trời). Màu trắng của quốc kì Nhật tượng trưng cho
sự trung thực và ngay thẳng của dân tộc họ. Còn vòng tròn đỏ thì tượng trưng cho
sự chân thành và nhiệt tình, tuy nhiên, cũng có quan niệm cho rằng đó là sự tượng
trưng cho hình ảnh vị nữ thần Mặt Trời Amaterasu. Đó là sự tôn kính thật sự thiêng
liêng đáng trân trọng trong tinh thần và trong lòng tự tôn dân tộc.
Nếu như quốc kì Nhật Bản trang nghiêm với hai màu trắng đỏ thì quốc hoa của
4 Kagura - điệu múa thần thánh của Nhật Bản (http://duhoc.viet-sse.vn/2010/10/kagura-dieu-mua-
than-thanh-cua-nhat-ban) truy cập lần cuối ngày 01-03-2018
Nhật lại đẹp vô ngần với màu vàng của hoa cúc. Hoa cúc một loài hoa bung nở tròn
20
trĩnh với tầng tầng, lớp lớp những cánh hoa tỏa ra như ánh mặt trời tỏa chiếu xuống
dân gian, trần thế. Hoa cúc ở Nhật Bản được xem là một loài hoa cao quý, thể hiện
niềm tự hào về nguồn gốc Thần linh, là con cháu vị nữ thần Mặt Trời của Thiên
hoàng nước Nhật.
“Xét về tính văn hóa, từ xa xưa, người Nhật đã xem hoa cúc là biểu tượng quan
trọng mang những ý nghĩa đặc biệt. Huy hiệu hoàng gia Nhật Bản, còn được gọi là
Cúc Văn (kikumon), Cúc Hoa Văn (kikukamon) hoặc Cúc Ngự Văn (kikunogomon),
là một huy hiệu được Thiên hoàng cùng những thành viên trong hoàng thất Nhật
Bản sử dụng, và cũng là quốc huy của nước Nhật Bản hiện đại kể từ năm 1867. Huy
hiệu là hình ảnh một bông hoa cúc màu vàng có viền màu đen, cấu trúc gồm một
hình tròn nhỏ làm tâm được bao bọc bởi 16 cánh hoa thuộc lớp trước, và ẩn bên
dưới là 16 cánh hoa lớp sau được xếp xen kẽ và được vẽ dưới dạng những đường
vân tròn.”5. Ngoài việc lấy biểu tượng hoa cúc làm huy hiệu hay quốc huy thì nó
còn được lấy để gọi tên những vật cao quý như Ngai hoa cúc –ngai vàng của Thiên
Hoàng, Huân chương Hoa cúc Tối cao,…
Ngoài những lễ hội thờ cúng, và những vật thiêng trong tâm linh, ngày nay, một
số người Nhật vẫn thể hiện sự tôn thờ Mặt Trời bằng nghi lễ hết ức đơn giản.Vào
mỗi buổi sáng thức dậy, họ rửa mặt sạch sẽ và hướng về phía mặt trời bằng sự tôn
kính nhất, vỗ tay 3 tiếng và cuối đầu.
Với tất cả những điều vừa nêu trên, chúng tôi thấy rằng văn hóa Nhật Bản có
một nền tảng vững chắc từ truyền thống và sự tiếp nối các giá trị hiện đại. Đó là một
sự tiếp biến lâu dài và bền vững. Một trong những nét truyền thống ấy chính là sự
biết ơn, tôn thờ các vị thần linh, linh hồn của tổ tiên, thủy tổ của dân tộc mình. Họ
trân trọng những huyền sử sáng thế, họ tôn kính người mẹ dân tộc - thủy tổ của
người Nhật Bản - vị nữ thần Amaterasu, người đã để lại rất nhiều dấu ấn trong văn
hóa tâm linh trong tâm thức và văn hóa cộng đồng. Vì vậy mà dấu ấn về nữ thần sẽ
mãi trường tồn cùng với sự biết ơn của dân tộc “xứ sở mặt trời”. Mẫu hình về người
5 Tham khảo tại trang: https://nationalsymbolss.com/2015/08/27/japan/ truy cập lần xuối ngày 01-03-2018
mẹ của dân tộc, mẫu hình về sự yêu thương bao la của tính nữ sẽ luôn nằm trong
21
tâm thức người Phù Tang, và để lại những dấu vết trong văn hóa nói chung, trong
văn học nói riêng ở những giai đoạn sau này.
1.1.2. Người phụ nữ trong đời sống xã hội Nhật Bản
1.1.2.1. Người phụ nữ và những đóng góp to lớn trong lịch sử
Người phụ nữ đầu tiên mang ánh sáng và sự sống đến cho muôn loài ở Nhật
Bản là nữ thần Mặt trời Amaterasu - người phụ nữ với xuất thân và mang tầm vóc
thần linh thiêng liêng và cao cả. Vị Đại thần được nhắc đến như biểu tượng của
“người mẹ đầu tiên” và là thủy tổ của dân tộc Nhật Bản hiện nay. Những điều trên
được ghi nhận trong dân gian và sau đó được ghi chép lại trong hai quyển Cổ sự kí
và Nhật Bản kỉ.
Trong các tài liệu lịch sử Nhật Bản ghi lại, người phụ nữ được nhắc đến
trước hết với vai trò một thành phần lao động quan trọng. Đầu tiên, chúng tôi đi từ
thời kì mà “quần đảo Nhật Bản hình thành và tách ra khỏi bìa phía đông lục địa
Eurasia (Âu- Á)”, lúc này bắt đầu xuất hiện một thời đại, một nền văn hóa có tên là
Jomon. Thời kì ấy nằm trong “thời kỳ chuyển tiếp giữa văn hóa đồ đá cũ (cựu thạch
khí) và văn hóa đồ đá mới (tân thạch khí)”,… và được xác định tồn tại khoảng
12.000 năm về trước. [41,31]. Trong thời kỳ sơ khai, khi mà các loài vật to lớn đã
tuyệt chủng thì trong thiên nhiên chỉ còn cây cối và các loài vật nhỏ sống sót. “Để
sinh sống, con người bắt buộc phải làm việc. Những công việc quan trọng để sinh
nhai của người Jômon là săn bắn, đánh cá, và thêm vào đó, không kém phần quan
trọng có lẽ là hái nhặt. Ngoài các giống hạt như hạt lật (kuri, chestnut), hạt dẻ
(donguri, acorn), hạt óc chó (kurumi, walnut), hạt tochi (horse chestnut, một loại
hạt dẻ), họ cũng đào các loại củ như khoai rừng (yamaimo, yam). Nhờ làm ra được
những dụng cụ bằng gốm để ninh nấu mà họ loại được chất độc, chất đắng chát của
các loại củ”[41,37]. Chính từ sự tác động đó, trong tập thể của người Jomon lúc
bấy giờ đã có một sự phân công trách nhiệm lao động rõ ràng giữa nam và nữ.
Những người nam lúc bấy giờ có trách nhiệm chế tác những dụng cụ bằng đá và săn
bắn, còn nữ thì đảm đương phần việc hái, lượm và làm ra những thứ đồ dùng bằng
đất nung. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội lúc này có thể nói là sánh ngang
với nam giới. Ngoài ra, “Những ngẫu tượng (doguu) bằng đất nung thời Jômon với
cặp vú lớn và cái bụng nở cũng cho ta thấy rằng người thượng cổ bị ấn tượng mạnh
22
trước khả năng sinh thực của phụ nữ, mà cuộc sống thái cổ chỉ có thể tồn tại nhờ ở
khả năng sinh thực của đất đai hoa màu”[41,91]. Điều đó càng khẳng định rằng
người phụ nữ có một vị thế cao trong cộng đồng. Nếu như thiên nhiên đem lại cho
họ cuộc sống ấm no cho muôn loài thì người phụ nữ cũng chính là người đem lại
điều đó cho cuộc sống loài người lúc bấy giờ.
Vào khoảng thế kỉ IV cho đến thứ III TrCN, tiếp sau thời kì Jomon, là sự ra
đời của thời đại Yayoi. Thời đại này là một bước phát triển trong đời sống với sự
xuất hiện của hoạt động “canh nông”. Tuy nhiên, thời đại này cũng đã có nền tảng
lâu dài từ thế kỉ V đến thế kỉ IV, tức cuối thời đại Jômon với những dấu vết về
“canh tác lúa nước”. Vào buổi sơ khai của thời đại Yayoi, cuộc sống của con người
vẫn phải phụ thuộc vào những hình thức ban đầu vì kĩ thuật canh tác cũng như sản
lượng làm ra chưa nhiều. Sau đó, cuộc sống của họ dần được cải thiện hơn với hoạt
động canh tác này nhờ vào những dụng cụ nông nghiệp bằng đá cũng như kim loại
ra đời. Và từ đó, người nam dần khẳng định vai trò của mình khi sáng tạo và sử
dụng những dụng cụ nặng như đá và kim loại trong quá trình canh tác tạo ra nông
sản. Tất nhiên, vai trò của nam và nữ lúc này không còn tương xứng nữa. Vị trí của
nữ giới bị đưa xuống thứ yếu.
Ở thời cổ của Nhật Bản, người phụ nữ không chỉ được so sánh với đàn ông ở
vai trò trong gia đình mà ở lĩnh vực chính trị, họ cũng được nhắc đến với công lao
vô cùng to lớn. Trong lịch sử Nhật Bản đã từng có rất nhiều vị Nữ vương, thiên
hoàng cai trị. “Nữ vương Himiko và Iyo, hai nhà lãnh đạo đầu tiên của nhà nước
Nhật Bản. Họ mang tính chất cô đồng của một xã hội còn ở trong vòng ảnh hưởng
của thần linh bùa chú. Người đàn bà cầm quyền vì được xem như một “linh môi”
(môi thể linh thiêng tiếp xúc được với các thần)”[41,91]. Và tiếp sau đó có thể kể
tên các vị nữ Thiên hoàng: Suiko, Kougyoku, Jitou, Genmei, Genshou, Kouken,…
Các vị Nữ thiên hoàng này đa số không còn mang dáng dấp “cô đồng” như ở thế kỉ
thứ V (trừ hai vị Suiko, Kougyoku vẫn còn sự ảnh hưởng). Điểm chung ở các nữ
Thiên hoàng trên là họ lên ngôi để giữ được ngai vàng, tránh sự tranh chấp, đồng
thời, chờ đợi một vị nam hoàng có đủ khả năng lên thay thế. Với cương vị của mình,
các vị Nữ vương và nữ Thiên hoàng đã đóng góp cho thời đại mình cai trị những
23
thành tựu đáng kể trong quá trình trị trì, nhất là ở mặt ngoại giao và tiếp thu văn hóa
cũng như sự ổn định chính trị.
Người phụ nữ thời xưa của đất nước Phù Tang còn được ghi lại là những nữ
sĩ tài hoa làm đóng góp những viên gạch vô cùng vững chắc trong nền văn học, đặc
biệt là thời kỳ văn học Heian: “Do những đặc điểm rất riêng biệt trong thể chế
cung đình, người phụ nữ thời kỳ này được đề cao. Những phụ nữ quý tộc trong cung
đình Heian tự do sáng tác văn chương về tình yêu và cuộc sống. Dòng văn học nữ
lưu của Nhật Bản là hiện tượng độc nhất vô nhị trong văn học nhân loại với những
cây bút tài hoa, đa tình đã để lại những kiệt tác văn chương bất hủ: Murasaki
Sikibu với Truyện Genji; Sei Sonagon với Sách gối đầu giường (Nhật ký bằng thơ)
và nữ sĩ Komachi tài năng trác tuyệt với những vần tanka bất tử”[43]. Có thể nói
vai trò của nữ giới trong thời Heian là vô cùng đáng quý, họ chính là những người -
bằng tài hoa, cốt cách và cảm quan tinh tế, đã đưa văn học nghệ thuật Phù Tang lên
một bước hoàng kim trong lịch sử phong kiến Nhật Bản. Văn học nữ Heian cho đến
nay, vẫn được coi là một hiện tượng độc nhất vô nhị trên thế giới.
Sau thời Heian “chế độ chuộng võ”6 lên ngôi, hình thành nên tư tưởng trọng
nam khinh nữ, người phụ nữ Nhật mất dần đi vị thế trong xã hội. Thế nhưng, ở một
khía cạnh nào đó thì họ vẫn là một thành tố không thể thiếu trong xã hội với những
giá trị riêng không dễ gì thay thế.
Qua lăng kính xã hội ở một số thời kì ở Nhật Bản, người phụ nữ dù có vị thế
như thế nào đi nữa thì họ vẫn luôn có một vị thế quan trọng, không thể nào phủ
nhận. Họ là thần linh, là đấng tối cao của đức tin hay họ là những sợi dây kết nối thế
giới siêu việt với thế gian. Họ là những lãnh đạo, những thiên tài của đất nước. Đặc
biệt hơn cả, họ là người mẹ, người vợ, là một thực thể tồn tại để hi sinh, để dâng
hiến cho tập thể, cộng đồng của mình từ thuở sơ khai.
1.1.2.2. Người phụ nữ và những mẫu hình lí tưởng trong xã hội
hiện đại
Phụ nữ Nhật có thể nói là một trong những “vẻ đẹp quý báu” trên thế giới. Ở
6 Theo cách dùng của ThS Nguyễn Bích Nhã Trúc, Tính nữ vĩnh cửu trong tanka Nhật Bản, Tạp chí VHNT
số 309, tháng 3-2010.
đất nước Mặt trời mọc, vai trò của người phụ nữ trong đời sống rất quan trọng. Từ
24
trong sâu thẳm tiềm thức, người mẹ đầu tiên mang lại sự trọn vẹn cho đất nước đó
chính là vị nữ Thần Mặt trời Amaterasu. Tiếp đến, ở những thời đại cổ xưa, khi mà
con người vẫn kiếm ăn bằng cách săn bắt, hái lượm – thời Jomon, thì người phụ nữ
với nhiệm vụ hái, lượm, đào bới hạt, củ... trong thiên nhiên đã mang lại một cuộc
sống ấm no cho cộng đồng. Bước sang thời mà con người Nhật biết “canh nông lúa
nước”, người phụ nữ lại càng chứng tỏ sự lao động miệt mài của mình trong đời
sống, không thua các bật nam nhi.
Và trải qua những giai đoạn thăng trầm của đất nước, người phụ nữ Nhật vẫn
giữ vững vai trò không thể thiếu của mình trong xã hội. Đặc biệt là trong gia đình-
tế bào của xã hội. Ở Nhật, cho đến nay, chuyện lo toan việc nhà và chăm sóc con
cái được coi là một “nghề nghiệp” chính thức và “nhân viên” tận tụy của ngành
nghề đặc biệt này, không ai khác chính là người phụ nữ.
Người phụ nữ Nhật luôn được biết đến với những đức tính cần cù, chịu
thương chịu khó, hy sinh, chu toàn trong mọi công việc. Và hơn hết đó chính là kỹ
năng dạy dỗ và chăm sóc con cái. Ở đây, sở dĩ cần nhấn mạnh đến vai trò của họ
trong việc nuôi dạy con cái là bởi lẽ ở đất nước Mặt trời mọc, đâu đó vẫn còn tồn tại
tư tưởng “trọng nam khinh nữ” và thói gia trưởng. Cũng như ở Việt Nam, đó là một
tư tưởng đã ngấm sâu vào văn hóa và nếp nghĩ ở một số bộ phận người dân. Trong
xã hội hiện đại Nhật Bản, ta thấy rõ mô hình phân công lao động chặt chẽ: người
chồng có vai trò trụ cột, chăm lo về mặt kinh tế, ngoại giao còn người vợ có trách
nhiệm vun vén gia đình và chăm sóc những đứa con. Tất nhiên, với xã hội hiện đại,
luật về bình đẳng giới cũng đã góp phần giúp cho vị trí của người phụ nữ được cải
thiện, thay đổi khá nhiều so với trước. Hiện nay, khá nhiều phụ nữ được tham gia
vào các công việc kinh doanh, thậm chí là chính tri của quốc gia,… Thế nhưng, dù
ở bất cứ cương vị nào thì gia đình và con cái vẫn là một phần không thể tách rời
trong cuộc sống của mỗi người phụ nữ xứ sở hoa anh đào.
Người phụ nữ Nhật hầu như dồn hết tâm lực của mình vào việc nuôi dạy con.
Chính vì vậy mà mối quan hệ giữa mẹ và con ở Nhật thường rất khắn khít, đôi khi
rất đặc biệt. Từ khi ra đời, những đứa trẻ Nhật đã ở trong vòng tay âu yếm của
người mẹ. Người Nhật, khi sinh ra một đứa bé phải có giường riêng và “giường cũi
của đứa trẻ được đặt gần giường mẹ, thế nhưng đứa trẻ không ngủ với mẹ cho đến
25
khi đủ lớn để thể hiện sự chủ động” [29,334]. Lúc này, đứa trẻ như là một thực thể
vừa gắn kết, phụ thuộc vào mẹ của nó nhưng lại vừa là một cá thể độc lập, riêng rẽ
trong chiếc nôi của mình. Người Nhật rất coi trọng bầu sữa mẹ, chính vì vậy, sau ba
ngày sau sinh họ không cho đứa trẻ ăn vì đợi sữa. “Người Nhật tin rằng cho con bú
là một trong những niềm vui thể chất tuyệt vời nhất và đứa trẻ dễ dàng học được
cách chia sẻ niềm vui của mẹ. Bầu sữa không chỉ cung cấp dinh dưỡng: nó tạo ra
sự thích thú và dễ chịu” [29,334-335]. Sau khi đứa trẻ được một tháng tuổi thì
chúng thường được người mẹ địu trên lưng. Cái địu mà họ dùng để mang con trên
lưng được người Nhật gọi là Onbu. Người mẹ Nhật thông qua vật dụng ấy có thể
vừa làm việc nhà một cách thoải mái, vừa có thể bảo vệ đứa con của mình. Lúc này,
đứa trẻ được theo mẹ nó đến bất cứ đâu và tham gia vào bất cứ hoạt động nào. Lúc
ấy, người mẹ có thể “trò chuyện với nó, hát nho nhỏ cho nó nghe, cùng nó thực
hiện nhưng động tấc xã giao…Đứa bé luôn được quan tâm. Vào buổi chiều, người
mẹ đưa nó đi tắm nước ấm và chơi với nó khi đặt nó trên đầu gối.” [29,336]. Tập
quán ấy có lẽ không chỉ tạo ra sự thuận tiện trong sinh hoạt mà còn góp phần vun
đắp thêm tình cảm, sự gắn kết giữa mẹ và con.
Những người mẹ Nhật còn là những người thầy mẫu mực trong việc giáo dục
con cái. Họ dạy con mình cách đi tiểu tiện, tập cho con đi vững chải, hoặc chỉ cho
chúng đâu là nơi an toàn và đâu là những nơi nguy hiểm, cần tránh xa,… Những bà
mẹ Nhật thường ít làm đau con, mà họ thường “chỉ thay đổi âm điệu giọng nói và
dạy đứa trẻ khó bảo với thời gian thường xuyên hơn” [29,337] hay sử dụng những
từ ngữ mang tính chất cảnh báo như “nguy hiểm”, “xấu” và “bẩn” để đứa trẻ có thể
tự nhận thức. Và một cách dạy con cũng rất hiệu quả của họ là “sự chọc ghẹo”. Họ
sẽ dùng những “lời nói khích” và diễn một vài vai nhỏ để có thể “hù dọa” đứa trẻ.
Điều đó sẽ làm đứa trẻ sợ hãi và từ bỏ những thói quen xấu. Tuy nhiên, sau những
lần như vậy, những bà mẹ lại âu yếm con mình để khích lệ và cổ vũ cho những lời
hứa tốt đẹp.
Với người Nhật, sự chăm sóc cho con cái không dừng lại ở bất cứ thời điểm
nào. Người mẹ gắn bó với đứa con của mình ngay cả khi nó đến trường. Mẹ thường
sẽ chuẩn bị cho chúng bữa ăn hay những vật dụng cần thiết cho một ngày học tập
của chúng ở trường. Tất cả những điều đó sẽ như “một sự hóa thân” của mẹ theo
26
chân các con đến trường, mang đến niềm vui, sự an tâm mỗi ngày. Không chỉ vậy,
họ còn rất quan tâm đến những hoạt động của con ở trường từ họp phụ huynh đến
những hoạt động tập thể và lễ hội... ở trường của con. “Bởi một đứa trẻ Nhật khi đi
học sẽ có rất nhiều hoạt động tại trường và thường đòi hỏi sự có mặt của người mẹ.
Sự vắng mặt, thiếu quan tâm của người mẹ khiến cho con của họ sẽ bị đối xử theo
cách thương hại, hay thậm chí là bị bắt nạt.”7
Từ những điều vừa nói trên, trong mối quan hệ gia đình, người Nhật hầu như
dành phần lớn tình cảm cho mẹ. Đặc biệt là đối với những người con trai. Họ đôi
khi bị phụ thuộc vào người mẹ của mình. Tất nhiên, biểu hiện của sự phụ thuộc
càng ít dần khi người con trai trưởng thành và lập gia đình. Song, tình cảm dành cho
người mẹ lúc này vẫn khó thay đổi. “Một số nhà phê bình Nhật Bản đã coi hiện
tượng này là thái độ ỉ lại vào mẹ của những người đàn ông. Mặc dù đây không phải
là hiện tượng Oedipe ở phương Tây (tâm lý học gọi là “mặc cảm Oedipe”, cho
rằng tận sâu trong tiềm thức, con trai yêu mẹ và con gái yêu bố), nhưng sự dựa dẫm
quá đáng vào mẹ sẽ dẫn tới xu hướng hình thành mối quan hệ mẹ con với tất cả
những người phụ nữ nói chung”[50,378].
Như những gì đã phân tích, người phụ nữ Nhật Bản có một vai trò vô cùng
quan trọng trong gia đình và nhất là đối với con cái. Chăm sóc con cái tận tụy, tận
hiến. Họ gắn bó với con mình và làm cho những đứa con, đặc biệt là đứa bé nam,
cảm thấy rằng “mẹ là không thể tách rời”. Chính vì vậy, dù ở thời kì nào thì người
mẹ vẫn sẽ mãi là người nữ vĩnh cửu trong tâm thức của những đứa con.
1.2. Phức cảm Genji nhìn từ góc độ văn học
1.2.1. “Tính nữ” trong văn học Heian
Tính nữ (thiên tính nữ) có thể hiểu một cách đơn giản là “tính mềm mại, tính
nhu, uyển chuyển, của người phụ nữ”8 hay “Thiên chức mà tạo hóa giao phó cho
người phụ nữ để phân biệt với nam giới, để thế giới nhị nguyên này tồn tại. Đó là
7Gia Lâm, Phụ nữ Nhật Bản giữ vai trò quan trọng trong gia đình, đăng ngày 21-10-2016, xem lần cuối ngày
14-03-2018 tại
trang: http://baophapluat.vn/ngot-ngao/phu-nu-nhat-ban-giu-vai-tro-quan-trong-trong-gia-
dinh-300886.html
8 Dương Thị Huyền, Nguyên lý tính mẫu trong truyền thống văn học Việt Nam, 10-03-2015, xem lần cuối
09-04-2018 tại trang: http://vanhaiphong.com/ly-luan-phe-binh/1593-2015-03-04-04-35-57.html
phẩm chất dịu dàng, đảm đang, khéo léo, mềm mỏng, chịu thương, chịu khó, dịu
27
dàng, tinh tế, lòng vị tha, đức hi sinh… và cả khả năng sinh sản, thiên chức làm
mẹ”[18,12-13]. Không chỉ nói riêng về con người, thiên tính nữ còn là một phạm
trù có trong nhiều hiện tượng, sự vật và sự việc.
“Dấu ấn tính nữ trong văn hóa không chỉ có ở riêng Nhật Bản mà là hằng số
chung của nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia châu
Á. Thế nhưng, có lẽ không ở đâu dấu ấn tính nữ trong văn hóa, văn học lại đậm nét
như ở xứ sở Phù Tang”[43].
Nhật Bản là một đất nước duy mĩ. Trong tâm thức người Nhật, từ cổ xưa
luôn có xu hướng hướng đến cái đẹp. Người Nhật có rất nhiều quan niệm thẩm mỹ.
Trong đó, yasashi “là một quan niệm mỹ học dùng để chỉ cái đẹp mềm mại, nữ
tính.”9 Còn youen (Yêu diễm) là “cái đẹp dịu dàng ngọt ngào nữ tính hơi pha màu
sắc tôn giáo trong thi ca Nhật Bản từ khoảng thế kỷ 12”10. Hai nguyên lý mỹ học
vừa nhắc đến là những đại diện tiêu biểu trong quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản có
hàm chứa nhiều biểu hiện của thiên tính nữ.
Tính nữ trong văn hóa, văn học Nhật Bản thể hiện khá rõ nét. Có lẽ vì không
loại hình nghệ thuật nào tạo điều kiện cho sự diễn tả tính nữ thuận lợi, sâu sắc như
mảnh đất văn chương. Tính nữ, có thể nói là một “cây cầu mộng” lặng lẽ, bồng
bềnh trôi trong mạch chảy ngầm của những sáng tác văn học từ cổ chí kim ở đất
nước Phù Tang, đặc biệt, ở Thời kì Heian - tính nữ trong văn chương đã lên tới đỉnh
cao rực rỡ.
Thiên tính nữ trong văn học Nhật Bản vốn đã có nguồn gốc từ những huyền
sử dân tộc. Trong quyển Cổ sự kí đã kể về nàng Izanami cùng chàng Izanagi gặp gỡ
và kết hôn cùng nhau, từ đó “sản sinh ra xứ sở” Nhật Bản. Lúc hai vị gặp nhau,
“nàng Izanami say đắm nhìn người con trai. … Và Izanagi? Chàng cũng lặng
9 Nguyễn Thanh Nguyệt, Nguyên lý Yasashi - nguyên lý cơ bản trong quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản qua tiểu
thuyết “Xứ tuyết” của Yasunari Kawabata (nhìn từ phương diện vẻ đẹp ngoại hình nhân vật nữ), 25/02/2014,
xem lần cuối ngày 09-04-2018, tại trang:
http://nguvan.hnue.edu.vn/Sinhvien/Nghiencuu/tabid/116/newstab/260/Default.aspx
10 Thuật ngữ văn học Nhật Bản, xem lần cuối ngày 09-04-2018, tại trang:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BA%ADt_ng%E1%BB%AF_v%C4%83n_h%E1%BB%8Dc_Nh%E
1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n
người trước vẻ đẹp duyên dáng của cô gái có đôi mắt đầy ngạc nhiên, tóc đổ xuống
28
đôi vai như sóng màu huyền và nàng mặc một chiếc áo choàng trắng trong thanh
nhã”[2,47]. Thiên tính nữ ẩn chứa trong thần Izanami trước hết thể hiện ở “sự say
đắm”, sự cuốn hút thể xác với chàng trai lần đầu gặp gỡ. Đó là sự rung động trong
trái tim nữ giới trong sáng, nhạy cảm, đa mang. Không chỉ vậy, nàng còn được
miêu tả với một sắc đẹp hết sức dịu dàng và nữ tính. Sau đó, khi họ đồng ý kết hôn
và “Izanagi lấp đầy những chổ thiết sót của Izanami” thì nàng có những suy nghĩ
và biểu hiện mang đậm nét nữ tính dịu dàng :“ Đôi mắt sáng bừng, đôi má bỗng
nhiên hồng ửng, nàng Izanami nhìn người bạn tình cường tráng mà ngây ngất kêu
lên: _Sao anh tốt lành đến thế!”[2,50]. Lúc này, Izanami đã tỏ tình trước với chàng
Izanagi. Một sự đề cao tình yêu sôi nổi của người phụ nữ. Không biết có phải khởi
nguyên từ chi tiết này trong huyền sử không mà sau này, trong văn hóa hiện đại
Nhật Bản, ngày Valentine (còn gọi là ngày Tình yêu), phụ nữ/ các cô gái chính là
người chủ động tặng chocolate cho nam giới, thật khác biệt với các nước khác trên
thế giới khi nam giới thường chủ động làm việc này.
Huyền thoại Nhật Bản còn kể về nữ thần Mặt Trời Amaterasu với những cảm
xúc giận hờn, tò mò, hồ nghi,…Và đặc biệt, chi tiết Amaterasu soi mình trong chiếc
gương đồng ngoài cửa hang rồi thấy ngất ngây với nhan sắc chính mình – một nữ
thần thật sáng và đẹp đã phản ánh rõ nét về tâm lý “tự chiêm ngưỡng sắc đẹp trong
gương” của đa số phụ nữ.
Tiếp đến, một nguyên nhân khác, đó là vào thời Hei, phụ nữ “được hưởng
một sự độc lập đáng kể về tài sản cũng như chức vị, điều hiếm có trong xã hội
phong kiến khác”[3,67]. Trình độ văn hóa và học vấn của người phụ nữ trong xã
hội lúc bấy giờ rất cao. Họ chính là lực lượng sáng tác văn học đông đảo, chủ chốt,
tạo ra một dòng văn học nữ lưu độc đáo. Hầu hết những tác phẩm nổi tiếng, có giá
trị trong nền văn học Heian đều do các nhà văn nữ sáng tác. Ta có thể kể đến những
vần thơ trác tuyệt của các tác giả như: Komachi, Izumi, Ise, Sakanoeno Iratsume....
Hay những kiệt tác văn xuôi: Murasaki Shikibu với Genji monogatari, Murasaki
Shikibu nikki (Nhật kí Murasaki Shikibu), Sei Shonagon với Makurano shoshi hay
người ta vẫn thường gọi là Sách gối đầu (Chẩm thảo tử), hay còn được gọi là Phù
du nhật kí là một kiệt tác của một nữ sĩ – “một bà mẹ (không rõ tên) của hữu đại
tướng Fujjiwara no Mitchisuna, ra đời năm 974” [40,109],…Ngoài ra, trong cuốn
29
Eiga monogatari - tiểu thuyết lịch sử đầu tiên của văn học Nhật Bản, cũng được các
nhà nghiên cứu cho rằng đã dựa vào những nghi chép lịch sử trước đó và những ghi
chép trong các cuốn nhật kí của các nhà văn nữ.
Lực lượng sáng tác đông đảo là phụ nữ tất yếu tạo nên một làn sóng “tính
nữ” mạnh mẽ trong văn học Heian. Chính vì thế mà trong văn học Heian, thiên tính
nữ được biểu hiện rất đa dạng:
* Xu hướng chú trọng miêu tả ngoại hình phụ nữ
Trong Truyện Genji của nữ sĩ Murasaki Shikibu, những nhân vật nữ thường
được miêu tả với ngoại diện rất tinh tế, thu hút người nhìn. Đó là nàng Chujio:
“Trong chiếc áo dài màu hoa cúc tây hợp với mùa và đuôi áo mỏng dệt một cách
tao nhã, cô tỏ ra là một phụ nữ xinh đẹp, duyên dáng… Cái dáng ngồi kiểu cách
của cô, làn tóc dài chảy tuôn xuống chiếc áo dài nom thật xinh đẹp.”[20,89] Vẻ đẹp
của nàng như đi ra từ một bức họa. Trong bức tranh ấy hầu như có đầy đủ màu sắc
và đường nét. Con người nàng, sắc đẹp của nàng là trung tâm, làn tóc và bộ trang
phục với những điểm xuyến bắt mắt càng góp phần tôn vinh sắc đẹp dịu dàng, nữ
tính của nàng.
Khác với sắc đẹp trưởng thành của Chujio, sự miêu tả về sắc đẹp của cô con
gái công tử Hyobu lại toát lên một vẻ đẹp mơn mởn, mê đắm của một cô gái tuổi
xuân thì. “Nó xinh đẹp, lông mày dày, và tóc từ trán hất ra phía sau”[20,123] - một
người con gái giống như Fujitsubo (mẹ kế, người tình mà chàng Genji mê đắm).
Trong các sáng tác thời Heian, người nữ rất được chú trọng trong việc khắc
họa những đường nét về ngoại hình xinh đẹp. Tác phẩm kinh điển trên của văn học
Nhật Bản thời Heian - Truyện Genji là minh chứng tiêu biểu. Những cô gái trong
truyện, mỗi người có một sắc vóc, một nét đẹp riêng. Thế nhưng, điểm chung trong
sự miêu tả ở đây là họ đều mang những nét nữ tính, dịu dàng. Chính điều đó đã làm
cho hoàng tử hào hoa Genji bao lần phải say đắm, ngưỡng vọng, đi tìm kiếm theo
cái đẹp.
* Tâm lý nhân vật nữ được khắc họa rõ nét, tinh tế
Còn gì thú vị hơn khi những người phụ nữ viết về chính những tâm tư, tình
cảm của họ trong những bài thơ du dương, những lời tâm sự tận đáy lòng trong
những quyển nhật kí, hay tiểu thuyết….
30
Trong những vần thơ tanka diễm tình của xứ sở hoa anh đào, các nữ sĩ đã thổ
lộ biết bao nỗi lòng, bao tiếng nói đầy tâm sự ẩn giấu từ tận trái tim yếu mềm trong
thế giới của tình yêu.
“Nếu yêu là chết
Thì thiếp đã chết rồi
Chết đi
Chết lại
Chết trăm nghìn lần
(Phu nhân Kaxa - TK VIII)
Phu nhân Kaxa trong bài thơ đã bộc bạch hết sức trái tim của một người phụ
nữ dám sống tận hiến với đam mê. Nàng say đắm, hi sinh tất cả vì tình yêu dẫu biết
sẽ mang kết cục bi đát. Còn đối với Komachi, một người con gái tài sắc, nàng lại
viết những vần thơ tanka với những lời thơ chất chứa một tâm hồn đa cảm, khao
khát tình yêu, khao khát tri âm, tri kỷ:
“Từ khi tôi nhìn thấy
Người tôi mong chờ
Trong một giấc mơ
Thì niềm tin từ đấy
Tôi đặt vào trong mơ”
Bên cạnh những vần thơ tanka – một thể thơ trữ tình đầy xúc cảm, thì nhật kí
và truyện ngắn trong thời kì Heian cũng tràn đầy âm hưởng và sắc màu của những
lời tâm sự đầy ưu tư và đa cảm của những người phụ nữ yếu mềm. Tập Nhật kí
Izumi của Izaumi kể lại mối tình của nàng với hoàng tử Atsumichi. Trong quyển
nhật kí, những sắc thái trong tình yêu của một tâm hồn phá yếu như hiển bày ra
trước mắt người đọc. Bên cạnh đó, Nhật kí Murasaki cũng là một kiệt tác lúc bấy
giờ. Trong đó, bà tâm sự rằng “tôi cảm thấy mình bị miệt thị, thù ghét và người ta
xem tôi là một kẻ tự tôn, ưa chỉ trích. Và tôi phải chịu đựng chuyện ấy, vì định mệnh
của tôi là cô đơn”[3,70]. Một cuốn nhật kí nổi tiếng khác không thể không nhắc đến
là Phù du nhật kí. Quyển nhật kí được viết bởi một người phụ nữ vô danh, hé lộ một
mối tình chân thành, giản dị của nàng với Hoàng thân Kaneie. Thế nhưng, sau đó
nàng bị bỏ rơi vì chồng ngoại tình. Nàng trở thành “nạn nhân của thói vị kỉ của đàn
31
ông”[2,74]. Chính thế mà “Phù du nhật kí là chân dung tự họa tài tình của một phụ
nữ rất khả ái vào thế kỉ X”, “tập nhật kí của nàng đã diễn tả sinh động tâm lý phụ
nữ trong tình yêu, ghen tuông, cô đơn, buồn khổ,…Về phương diện này, trong thời
nàng, ngoại trừ Truyện Genji, nó không có đối thủ”[3,74].
Trong Genji monogatari, một nét tâm lý hết sức độc đáo của người phụ nữ
được Murasaki xây dựng thành công đó là hiện tượng “linh hồn sống” của Rokujo:
“Khi nhận ra mình không còn được Hikaru Genji quan tâm nữa, Rokujo đau khổ và
thầm ghen với những người phụ nữ đang có may mắn được gần gũi với chàng. Lòng
ghen tuông của công nương Rokujo là một thứ năng lượng đặc biệt, trở thành một
kiểu “hồn ma sống” thoát ra từ bản thân nàng để tìm đến ám hại những người phụ
nữ đang là đối tượng ghen tuông”11. Sau này, hiện tượng “linh hồn sống” này tiếp
tục được nhà văn đương đại Murakami Haruki tiếp tục lý giải trong tác phẩm Kafka
bên bờ biển. Điều đó cho thấy Genji monogatari quả là một kho chất liệu vô tận
chưa bao giờ nhạt phai giá trị.
Những sáng tác văn học Heian nói trên đã phản ánh hết sức chân thực nét
tâm lý đặc trưng của người phụ nữ: Cô đơn, buồn khổ, ghen tuông, giận hờn, khao
khát hạnh phúc, hy sinh… Những nét đẹp đầy nữ tính, những trái tim đa sầu đa cảm
của người phụ nữ đã mang đến một thời đại văn học tràn đầy sắc màu “thiên tính
nữ” đầy sức hấp dẫn đối với người đọc.
* Hình ảnh thiên nhiên diễm tình quyến rũ
Nhật Bản là một đất nước theo tín ngưỡng vật linh. Theo quan niệm đạo
Shinto, mọi sự vật đều có linh hồn. Từ cành cây, ngọn cỏ, đến núi, ao, sông, hồ,…
Tất cả đều ẩn trong đó những linh hồn thần thánh, những phép nhiệm màu thiêng
liêng. Vì lẽ đó, người Nhật rất xem trọng thiên nhiên, coi thiên nhiên như là một
người bạn thân thiết.
Thiên nhiên có mặt bất cứ khi nào con người muốn chia sẻ nỗi lòng của mình.
Nhất là đối với những tâm hồn nhạy cảm của những cô gái. Họ tìm đến những cảnh
11 Thế giới nhân vật
trong genji monogatari, đăng 18-01-2015, xem lần cuối 10-04-2018 tại
trang:
http://uyenlam.blogspot.com/2015/11/the-gioi-nhan-vat-trong-genji-monogatari.html
vật xung quanh mình để giải bày tâm sự . Và thiên nhiên đi vào thơ. Lúc này, thiên
32
nhiên như được hóa thân thành hình ảnh những cô gái dịu dàng, sâu sắc, đa cảm. Đó
là những hờn trách thật đáng yêu của người con gái khi tình duyên không thành:
“Bên đầm Naniwa
Những đốt vi lau
Ngắn như cuộc hẹn hò
Thế mà đời ta chẳng
Một lần tình hẹn nhau”
(Công nương Ise)
Trong Truyện Genji, những hình ảnh thiên nhiên được miêu tả như một người
phụ nữ buồn, trầm mặc, khoe sắc giữa chốn hoang vu: “Những khu rừng nhỏ mọc
rậm rạp xum xuê, hoa cỏ ở bãi đất gần đấy nom như một cán đồng hoang vu vào
mùa thu, màu xanh xịt buồn tẻ. Dầm nước cỏ mọc tua tủa và đâu đâu cũng hiện ra
một cảnh tiêu điều hoang vắng của một nơi không ai lui tới.[20,97]. Hay đó là một
nét đẹp sắp lụi tàn, mong manh, yếu ớt: “Một buổi tối cuối tháng tám, trăng lên
muộn. Trời đầy sao lấp lánh, gió thở dài qua các rặng thông”[20,162].
Thiên nhiên diễm tình là nơi bộc bạch lí tưởng của những tâm hồn nhạy cảm.
Vì vậy, các nữ sĩ thời kì Heian thường tìm đến với thiên nhiên để trải lòng mình. Họ
thổi tâm tình vào thiên nhiên, khiến thiên nhiên cũng chất chứa đầy tâm trạng và
như có linh hồn con người. Bởi thế, ngay đến thiên nhiên, cũng mang một tính nữ lạ
kì.
* Hiragana – loại chữ dành cho nữ giới
Nhật Bản thời kì Heian là giai đoạn tiếp biến văn hóa và văn học ngoại lai
Trung Hoa một cách mạnh mẽ, làm nên tảng cho sự phát triển riêng biệt của văn
hóa và văn học nước nhà. Tuy nhiên, vào cuối thế kỉ thứ IX, sự ảnh hưởng của nền
văn hóa ngoại lai này bắt đầu lắng xuống và những văn nhân thi sĩ của Nhật bắt đầu
quay về với cánh đồng văn học nội sinh. Điều đáng nói ở đây là sự tiếp biến rất
sáng tạo của người Nhật trong việc mượn Hán tự để sáng tác cũng như phiên âm
tiếng Nhật trong Manyoshu (Vạn diệp tập) cho đến đầu thời Heian thì được thay thế
bằng hệ thống văn tự Kana. “Có ba loại chữ kana: chữ thảo hiện đại hiragana (ひ
らがな), trước đây được gọi là một loại chữ viết cho phụ nữ; chữ góc cạnh hiện đại
33
katakana (カタカナ); và cách ký âm cũ của kanji được gọi là manyōgana (万葉仮
名) vốn là tổ tiên của cả hai loại trên”12
Hiragana bắt nguồn từ thảo thư của chữ Hán. Nó được biết đến như một loại
chữ thư pháp của người Nhật. Với những nét chữ uyển chuyển, nhẹ nhàng và mềm
mại, và cách biểu âm đa dạng những cảm xúc khi sử dụng, hiragana quả thật là một
kiểu chữ dành cho phụ nữ. Hệ thống chữ này đã góp phần vào sự thành công của
văn học nữ lưu Heian, và được các nữ tác giả sử dụng như một phương tiện truyền
tải tâm tư, tình cảm, những khát vọng chất chứa trong biết bao vần thơ tanka, biết
bao dòng tâm sự trong nhật kí và những câu chuyện kể.
* Cảm thức thẫm mỹ aware
Sáng tác của nữ giới trong văn học Heian đã thổi một luồng gió mới mang
tên “AWARE” vào văn chương Nhật Bản. “Aware thường được hiểu là niềm bi
cảm, một cảm thức xao xuyến trước mọi cái đẹp của sự vật mà bản chất là vô
thường. Do đó aware là một trực giác thẫm mỹ chịu ảnh hưởng của Phật giáo.
Aware, nói đầy đủ hơn là Mono no aware (vật ai), dịch sát là nỗi buồn của sự vật”.
Nó không phải là cái bi đát trong mĩ học phương Tây cổ điển hay cái buồn lãng
mạn. Không ngông cuồng và không bi tráng, aware là một cảm thức thâm trầm
trước cái đẹp não lòng của thiên nhiên và con người [4,67]. Như đã nói ở trên, cảm
thức này xuất hiện rất nhiều trong các sáng tác của phong trào nữ lưu lúc bấy giờ,
tiêu biểu là Genji monogatari của Murasaki (từ aware đã được sử dụng hơn một
ngàn lần khái niệm này13). Và để lí giải về sự xuất hiện của cảm thức trên trong văn
chương nữ giới lúc bấy giờ thì trong một bài viết của mình, Kawabata- văn hào
chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học Heian, có nói: “Văn hóa Heian là văn hóa cung
đình- do đó nó mang đạm nữ tính. Thời Genji monogatari và Chẩm thảo là giai
đoạn phát triển rực rõ của nền văn hóa đó. Rồi từ đỉnh cao, nó bắt đầu đi xuống, đã
12 Kana, xem lần cuối 10-04-2018 tại trang: https://vi.wikipedia.org/wiki/Kana
13 Dựa theo thống kê của Nhật Chiêu trong cuốn Văn học Nhật bản từ khơi thủy đến 1868, NXB Giáo Dục,
2007.
bắt đầu thoáng hiện những nốt buồn báo hiệu hồi kết của vinh quang”[12,247]
34
Cảm thức aware nổi bật với sự thể hiện yếu tố nữ tính: dịu dàng, kín đáo, ưu
nhã từ những vẻ đẹp tìm ẩn bên trong. Đó là những vẻ đẹp mà chỉ có lắng sâu cảm
nhận ta mới có thể thấu hiểu hết, vì nó rất khó nắm bắt và khó gọi tên. Ngoài ra, âm
hưởng của cảm thức này là nỗi buồn man mác, dịu nhẹ như chính tâm hồn nhưng
người phụ nữ đa sầu, đa cảm.
Thiên tính nữ trải qua bao biến thiên lịch sử vẫn tồn tại trong văn học Nhật
Bản. Dòng chảy ấy xuyên suốt từ thời Heian cho đến thời hiện đại của nền văn học
có lịch sử hơn 13 thế kỷ của Phù Tang. Những nhà văn hiện đại như Tanizaki,
Kawabata hay Murakami,… trong các sáng tác của mình đều được sinh ra và hấp
thụ cái không khí vô cùng mạnh mẽ mà cũng hết sức dịu dàng, trữ tình ấy. Thiên
tính nữ hay “người nữ vĩnh cữu” là cứu cánh mà chàng hoàng tử Genji năm xưa
dành trọn cuộc đời tìm kiếm, đến tận thế kỉ XX, cuộc truy tìm ấy dường như vẫn
không ngừng nghỉ.
1.2.2. Truyện Genji - mẩu gốc của motif “Phức cảm Genji”
Genji monogatari (Nguyên thị vật ngữ), tức Truyện Genji là cuốn tiểu thuyết vĩ
đại nhất của văn học Nhật Bản. Như đã nói ở trên, tác phẩm này là một trong những
đỉnh cao sáng chói của nền văn học thời Heian. Nó không chỉ để lại những trầm trồ
ở thời đại mình mà mãi đến nay nó vẫn được nhắc đến với những mỹ từ ca ngợi
tuyệt vời nhất. Truyện kể Genji là một trường thiên tiểu thuyết của nữ sĩ cung đình
Nhật Bản có biệt danh là Murasaki Shikibu14 sống dưới trướng của thứ phi Akiko
trong cung Fujitsubo, triều đại Thiên hoàng Ichijo (986-1011). Truyện được sáng
tác vào khoảng những năm 1010 thời đại Heian bằng chữ viết kana. Tác phẩm được
xem là “tiểu thuyết tâm lý” đầu tiên của Nhật Bản, thậm chí là của nhân loại. Trước
nó các câu chuyện kể gắn với những cái thần kì, kì ảo và mang tính chất hư cấu, hay
con người vẫn say mê với thể loại thơ truyền thống waka. Và nữ sĩ Murasaki
Shikibu đã biết tiếp thu những tinh hoa dân tộc ấy cộng hưởng với tài năng hiếm có,
cùng tâm lý nhạy cảm của bật trí giả tinh anh, sự quan sát tinh tế đời sống quý tộc,
cung đình mà viết nên truyện Genji, với những nhân vật có tâm lý, tư tưởng và hoàn
14 Murasaki Shikibu thuộc dòng họ quý tộc lừng danh Fujiwara, không rõ tên thật là gì. Shikibu (Thức bộ)
chỉ là một tước vị mà nàng thừa hưởng của cha mình.
cảnh gần gũi với con người thời đại lúc bấy giờ.
35
Truyện Genji gồm 54 chương với cấu trúc chia làm ba phần15: Bốn mươi mốt
chương đầu nói về cuộc đời và các cuộc tình của hoàng tử “Genji hào quang”. Đoạn
này kể bắt đầu từ khi Gennji được sinh ra đến khi chàng 52 tuổi. Ba chương tiếp
theo (42,43, 44) là những chương chuyển tiếp, viết từ khi hoàng tử Genji qua đời.
Cuối cùng là 10 chương còn lại, viết về người con trai trên danh nghĩa của Genji tên
là Kaoro và đứa cháu ngoại của Genj, hoàng tử Niou.
Cuộc đời Genji trong tác phẩm là một cuộc hành trình dài. Ở đó, chàng đã
dành một phần lớn để tìm kiếm sự yêu thương và thỏa mãn khát khao tình ái trong
cuộc đời hư ảo. Genji vốn là một chàng trai “sáng chói” theo đúng nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng, một chàng trai đẹp từ ngoại hình đến phẩm chất – một hình mẫu lí
tưởng của mọi thời đại. Trong cuộc đời chàng, ngoài người mẹ bạc mệnh hiền diệu
thì chàng có mối quan hệ khác giới với 13 người phụ nữ. Qua hình tượng Genji, nhà
văn Muarasaki Shikibiu đã thể hiện một “lý tưởng thẫm mĩ” vô cùng hoàn hảo và
tuyệt vời của thời đại. Chàng là một người yêu, một người tình mà bao cô gái phải
ngưỡng vọng, tự nguyện hiến thân. Thế nhưng, trong câu chuyện ta lại thấy bất ngờ
về “con tim sai lối” dẫn chàng đến một tình yêu lầm lỗi. Tình yêu với mẹ kế
Fujitsubo. Chỉ vì nàng có nhiều điểm giống như mẹ chàng:
“… Bởi lẽ Genji không bao giờ rời khỏi cha, cho nên thứ phi mới không dễ dàng gì
mà tránh cậu bé được. Các cung nữ khác thì không có ý nghĩ rằng họ thua kém
nàng, mà kể ra thì mỗi người đều có một giá trị riêng của mình! Tuy vậy, tất thảy
cũng đã quá tuổi thanh xuân. Vẻ kiều diễm của Fujitsubo là vẻ đẹp hoa niên đương
độ và tươi mát. Với tính hổ ngươi ngây thơ, nàng cố gắng dấu mặt, nhưng Genji
thỉnh thoảng cũng nhìn thấy mặt nàng. Cậu không thể nhớ khuôn mặt của mẹ,
nhưng nghe lời người cung nữ đã lần đầu tiên nói về Fujitsubo với nhà vua, cậu
thấy xúc động đến tận đáy lòng khi hay nàng giống mẹ cậu như tạc. Cậu luôn luôn
quấn quýt bên nàng”[20,33].
Genji lúc này mang tâm lý của một đứa con mong muốn tìm lại hình bóng
người mẹ qua người mẹ kế này. Fujitsubo, một cách tình cờ lại là một bản sao chân
15 Dựa theo Lời giới thiệu Truyện kể Genji (bản tiếng Anh) do Edward Seidensticker viết tháng 1 năm 1976.
thật trong lòng chàng về người mẹ đã mất. Trong tâm hồn chàng, tình cảm với
36
Fujitsubo là một sự nhập nhằng giữa tình yêu và tình mẫu tử. Cả cuộc đời, chàng
đã đi trên ranh giới mơ hồ nhưng có thực ấy. Nét tâm lý của Genji đã trở thành một
“nguyên mẫu” để giới nghiên cứu tìm tòi và xác lập nên khái niệm “phức cảm
Genji” (Genji complex).
Nhật Chiêu, trong cuốn Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868 viết:
“Trong suốt cuộc đời mình, Genji tìm kiếm bóng hình một người mẹ trong mỗi
người tình. Để chàng có thể sống lại thời thơ ấu một cách đầy đủ hơn vì tuổi thơ
của chàng sớm phải mất mẹ. Và đồng thời qua hình ảnh “người tình – mẫu thân”
ấy chàng có thể thõa mãn ái dục của con người trưởng thành. Khát vọng lưỡng tính
ấy được giới phê bình gọi là “phức cảm Genji” (Genji complex)”[3,124].
Nguyễn Thị Bích Thúy trong bài viết “Phức cảm Genji trong tiểu thuyết
Kafka bên bờ biển của Haruki Murakami” đã trình bày như sau: “Phức cảm Genji
(Genji complex) là thuật ngữ mà các nhà phê bình dùng để chỉ một hiện tượng tâm
lý, những nỗi xúc động, cảm xúc phức tạp của Genji- nhân vật chính.…Cốt lõi của
“phức cảm Genji”, của hiện tượng tâm lý phức tạp này là một khát vọng “lưỡng
tính”. Chàng tìm kiếm vẻ đẹp tình yêu thương vĩnh cửu của người mẹ trong hình
ảnh người tình. Bản chất tình cảm của Genji đối với người mẹ kế Fujitsubo là như
vậy, rất khó tách bạch. Đó là tình mẫu tử thiêng liêng cao quý hay là tình yêu nam
nữ quyến rũ và đầy đam mê nhục thể? Cả hai điều đó dường như hòa trộn không
phân biệt trong phức cảm Genji”[34].
Từ hình tượng mẫu gốc hoàng tử Genji trong kiệt tác của Murasaki và những
nghiên cứu trên, chúng tôi có cơ sở để xác lập một khái niệm hoàn chỉnh về “Phức
cảm Genji” như sau: Phức cảm Genji là một hiện tượng tâm lý phức tạp trong
nam giới. Cốt lõi của hiện tượng tâm lý này là khát vọng lưỡng phân: người
tình – mẫu thân. Qua khát vọng ấy, nam giới có thể thõa mãn ái dục của con
người trưởng thành.
Như Kawabata đã từng nhận xét, Truyện Genji có ảnh hưởng sâu sắc ở mọi
mặt trong đời sống Nhật Bản và riêng trong văn học, ta không kể đến những tác
động về mặt thể loại hay mô phỏng tác phẩm, motif nội dung,… mà ở đây hình mẫu
Genji với “phức cảm” đặc biệt lấy mẫu từ chàng hoàng tử này, là một motif được
37
các nhà văn thời kì sau nó, cũng như các nhà văn hiện đại sử dụng trong các tác
phẩm của họ.
Phức cảm Genji ở đây được nghiên cứu như một motif văn học. “Motif, từ
Hán Việt là mẫu đề, có thể chuyển thành các từ khuôn, dạng hoặc kiểu trong tiếng
Việt, nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn
định bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất
là trong văn học nghệ thuật dân gian”[10,197]. Hay “Motif là thuật ngữ chỉ bất kì
một phần nào mà ở một tiết (item) của folklore có thể phân tích ra được... Motif
truyện kể đôi khi là những khái niệm rất đơn giản, thường gặp trong truyện kể
truyền thống. Có thể đó là những tạo vật khác thường như thần tiên, phù thủy, rồng,
yêu tinh, người mẹ ghẻ ác, con vật biết nói... có thể đó là những thế giới diệu kì,
hoặc ở những nơi ma thuật luôn có hiệu lực... Bản thân motif cũng có thể đã là một
mẫu kể ngắn và đơn giản, một sự việc đủ sức gây ấn tượng hoặc làm vui thích cho
người nghe”[7,27].
Từ đó có thể thấy rằng, motif là một thành phần, một chi tiết cấu thành nên
cốt truyện và nó được lặp đi, lặp lại một cách có hệ thống trong các tác phẩm văn
học. Ở đây, phức cảm Genji được hiểu như là một motif (phức cảm của người con
với mẹ và biến thể của phức cảm này: tình cảm của người đàn ông với những người
tình – mang bóng dáng mẹ). Motif này được lặp đi, lặp lại một cách có hệ thống, đã
góp phần thể hiện sự nối tiếp, chắt lọc văn học truyền thống và tinh hoa dân tộc để
làm nền tảng cho sáng tác của mình của các nhà văn hiện đại Nhật Bản.
“Tanizaki, Kawabata, Mishima,… là những ngôi sao sáng nhất của nền văn
học Nhật Bản hiện đại. Tất cả họ đều chịu ảnh hưởng của Genji monnotari, trong
linh hồn của cái đẹp. Làn hương của Murasaki, người phụ nữ của nghìn năm trước
vẫn còn vương trong bút pháp của thế kỉ XX” [3,126] và cả thế kỉ XXI nữa.
1.3. Phức cảm Genji nhìn từ góc độ nghiên cứu tâm lý học Nhật Bản
1.3.1. Amae - nguồn gốc tâm lý của phức cảm Genji
Tâm lý học là một địa hạt mà ở đó, tâm lý vốn phức tạp của con người được
phơi bày, mổ xẻ. Những nhà tâm lý học được vì như những bác sĩ phẩu thuật vô
cùng điêu luyện. Họ đem đến cho nhân loại biết bao công trình và sự giải mã mê
38
cung “não bộ” con người. Một trong những nhà tâm lý học xuất sắc của Nhật - tác
giả những công trình tâm lý học nổi tiếng, đó là Tiến sĩ Takeo Doi. Với nhiều công
trình nghiên cứu của mình, ông đã có công rất lớn trong việc tìm ra “đặc tính tâm
lý” Nhật Bản. Nhất là những phân tích của ông về sự khác biệt của “Nhật Bản tính”
với tâm lý các nước phương Tây.
Trong công trình “Amae no Kozo” với nghĩa đen là “Cấu trúc của Amae”
hay được dịch “Giải phẫu sự phụ thuộc” (dịch giả Hoàng Hưng), ông đã định nghĩa
những biểu hiện phức tạp của “Phức cảm Genji” bằng một thuật ngữ tâm lý có tên
là “Amae”.
Trong sự trình bày về “những ý tưởng” hình thành “Amae” của TS Doi và
Ruth Benedit – tác giả cuốn Hoa cúc và gươm đều có nhắc đến “cú sốc văn hóa” khi
một người Nhật tiếp xúc với những người Mỹ. Họ cảm nhận được rằng “cái không
khí văn hóa và sự giao tiếp” ở hai nước có sự chênh lệch và trái ngược theo cách
này hay cách khác. Từ đó, cả hai tác giả đều kết luận rằng người Nhật có những bản
chất tâm lý riêng biệt, thể hiện rõ rệt lối tư duy và ý thức hệ của dân tộc Nhật Bản.
“Amae trước hết và chủ yếu là một cảm xúc, một cảm xúc có cùng bản chất
với một xung năng và có cái gì đó mang tính bản năng ở cơ sở của nó”[32,218]. Và
theo lí giải của Tiến sĩ Doi thì “trong hình thức đặc trưng của nó , amae thể hiện
một cố gắng tới gần người khác” [32,219]. Chính vì vậy, chúng ta cũng có thể dễ
dàng lí giải từ xung năng theo một cách hiểu khác đơn giản hơn đó chính là “ham
muốn” của chủ thể được nói đến. Vậy amae là một cảm xúc mà trong nó hàm chứa
sự ham muốn bản năng của mỗi con người.
Ông cũng đã chỉ ra “nguyên mẫu tâm lý của amae nằm trong tâm lý của đứa
bé trong quan hệ của nó với mẹ” [32,95] . “Nói cách khác, amae được dùng để chỉ
việc bám theo mẹ xảy ra khi trí não đứa bé đã phát triển đến độ nào đó và nhận ra
rằng mẹ nó tồn tại độc lập với nó”[32,95] “và nó đi đến chỗ cảm thấy mẹ nó là một
cái gì không thể thiếu đối với nó; có thể nói chính sự khao khát được tiếp xúc gần
gũi phát triển từ đó đã tạo thành Amae” [32,95]. Vậy tóm lại, chúng ta có thể biểu
thị amae như một cố gắng về mặt tâm lý của một đứa trẻ để chối bỏ việc nó bị tách
ra khỏi mẹ mình.
39
Từ đó, chúng tôi thấy rằng amae có một chức năng quan trọng là “vận hành
để nuôi dưỡng cảm giác hợp nhất giữa mẹ và con”[32,96]. Có thể hiểu rộng ra, phá
bỏ phạm vi được giới hạn bởi một đứa trẻ thì “não trạng amae có thể định nghĩa là
cố gắng chối bỏ việc tách rời vốn là một phần không thể tách rời của sự sống con
người và xóa mờ nỗi đau chia lìa”[32,96-97].
Những điều nói trên đã cho ta những cơ sở để có thể đối chiếu giữa tư duy
Nhật Bản với tư duy phương Tây. Tiến sĩ Takeo Doi đã nhận định rằng: “so sánh
với tư duy phương Tây thì nó (Amae) không có tính logic mà mang tính trực giác
[32,97]. Còn thiền sư Suzuki Daisetsu chỉ ra rằng trong khi “ở cơ sở của những lối
tư duy và cảm nhận của người phương Tây có người cha”, thì người mẹ nằm ở đáy
sâu bản chất phương Đông”[32,99- 100].
Không chỉ có vậy, ta còn có thể giải thích vì sao: “trong con mắt người
phương Tây, cảm giác tội lỗi của người Nhật có vẻ khá mờ nhạt. Có lẽ là do trong
khi người phương Tây có chiều hướng nghĩ về cảm giác tội lỗi như một vấn đề bên
trong của cá nhân, thì người Nhật không nghĩ thế”[32,63].
Từ những điều trên, chúng tôi thấy rằng amae đã diễn tả một cách sâu sắc
phức cảm Genji về mặt bản chất tâm lý. Genji với sự tìm kiếm và “không muốn
tách rời”, “chia lìa” khỏi hình bóng người mẹ, khỏi tình yêu thương của mẹ và luôn
muốn hòa vào người yêu, người tình của mình như hành động hợp nhất với mẹ của
mình. Đồng thời, amae cũng cho chúng ta hiểu tại sao người Nhật lại xem phức cảm
Genji là một đặc trưng tâm lý và chấp nhận nhận trong khi từ nguyên mẫu gốc
Genji đã “loạn luân” với người mẹ kế của mình. Đó là một điều không được cho là
tội lỗi. Thế nhưng, ở các nước phương Tây, Mặc cảm Oedipus - một motif tương tự
như phức cảm Genji, lại bị lên án và khó chấp nhận trong xã hội.
1.3.2. “Phức cảm Genji” và “mặc cảm Oedipus”
Freud, nhà phân tâm học người Áo đã có rất nhiều công trình tạo được tiếng
vang lớn trong việc khám phá bí ẩn tâm lý con người. Ông chú trọng đến yếu tố vô
thức của mỗi con người và xem đó là một đối tượng nghiên cứu quan trọng. Đã có
rất nhiều công trình áp dụng những định nghĩa và khái niệm của ông để tiến hành
nghiên cứu. Và trong số ấy, mặc cảm Oedipus đặc biệt được chú ý.
40
Đặc trưng tâm lý mang tên Oedipus được hình thành từ mối liên hệ đặc biệt
của đứa trẻ với bố/mẹ nó từ thưởi ấu thơ. “Freud cho rằng vì những liên hệ đầu tiên
của đứa trẻ thường gắn với người mẹ (hay với người nào làm vai trò người mẹ) về
những chăm sóc đầu tiên và về giáo dục. Do vậy người mẹ bao giờ cũng là tình yêu
thương đầu tiên của đứa trẻ”[35,19].
Theo Freud sự phát triển nhân cách của trẻ được chia thành 5 giai đoạn: môi
miệng, hậu môn, dương vật, tiềm thức và cơ quan sinh dục ngoài. Trong đó, mặc
cảm Oedipus thường xuất hiện rõ nhất trong giai đoạn dương vật. Khi đến thời kì
của dương tính, vào khoảng tuổi lên 3: thời kì mà đứa trẻ không còn chú ý đến môi
miệng, hoạt động của hậu môn mà hướng đế sự ham thích với vùng kích dục của
dương vật. Sự trỗi dậy của những ẩn ức tính dục thuở ấu thơ thôi thúc được thỏa
mãn. Từ đó, một phức cảm trong tâm lý được hình thành. Những đứa bé nam biểu
hiện mong muốn chiếm hữu mẹ của mình, hình thành sự ganh tị, ghen ghét với bố -
người mà chúng mơ hồ nhận ra là “đối thủ” của mình. Tuy nhiên, đứa trẻ cảm nhận
được rằng người bố có một uy quyền to lớn và sẽ trừng phạt chúng bằng cách
“thiến”. Thế nên, trẻ sinh lòng sợ bị trừng phạt và từ đó sinh ra “lo sợ bị thiến”
(Oedipal conflict). Nỗi sợ hãi trên như một con đê chặn dòng nước mạnh. Nó đã đè
nén khát khao chiếm hữu người mẹ và thay vào đó là sự đồng hóa (Identification)
với người cha. Những cậu con trai sẽ bắt đầu học hỏi và bắt chước các hành vi của
cha mình. Thông qua đó, các cậu trai sẽ tiếp nhận vai trò giới tính của mình và hình
thành tính cách như một nam giới trưởng thành.
Còn đối với các bé gái, những mặc cảm của chúng còn được gọi là mặc cảm
electra. Tiến trình diễn ra của cơ chế tâm lý này hết sức khác biệt. Các đứa trẻ nữ có
khát khao tình dục với ba của chúng. Chúng nhận thấy sự khác biệt của mình là
không có dương vật và ao ước mình cũng có dương vật, ao ước sinh con cho cha.
Nhưng chúng lại đổ lỗi và thù ghét mẹ vì đã làm cho chúng không có những gì mà
mình mong muốn. Tuy nhiên, cũng như trên, chúng cũng cảm nhận được quyền uy
của bà mẹ và sợ hãi điều đó. Sự đồng hóa được diễn ra. Đứa trẻ gái bắt đầu cư xử
giống mẹ và chấp nhận giá trị và thái độ của bà mẹ.
41
Sự biến đổi trên trong tâm lý của đứa trẻ ở tuổi thiếu niên dẫn đến những nổi
loạn trong hành vi và thái độ của chúng. Những đứa con trai “khiêu khích đối với uy
quyền bố mẹ, nhất là đối với uy quyền người bố, nhưng con trai lại thường đối xử
với mẹ theo lối pha trộn vụng trộm tình cảm ở chốn riêng tư và kiêu căng ở nơi
công cộng, dao động giữa ý định lệ thuộc và sự thống trị”[35,34]. Đứa con gái cũng
như thế, chúng như tuyên chiến với mẹ nó với mong muốn giành được bố về phần
mình. Lúc này, những đứa con trai, cả những đứa con gái đều có những hành động
làm cho mẹ hoặc ba chúng ấn tượng và chú ý nhiều đến chúng. Vú dụ: đứa con trai
thì nghịch phá cho mẹ dọn dẹp, nghịch đồ dơ để mẹ có thể giặc nhiều đồ hơn cho nó,
đứa con gái thì dùng hết sự nữ tính hấp dẫn của mình để có thể quyến rũ bố mình
(tất nhiên đó là sự quyến rũ trong sáng, ngây thơ).
Sỡ dĩ ta thường gọi nét tâm lý trên là “mặc cảm Oedipus” thay vì “Phức cảm
Oedipus” có lẽ là vì ám ảnh tội lỗi ngấm ngầm bên trong. Trong thần thoại, sau khi
lời nguyền ứng nghiệm với Oedipus –“giết cha, lấy mẹ” thì bốn người con ra đời từ
mối tình loạn luân đều phải chịu một số mệnh bi thảm như cha. Mẹ chàng vì xấu hổ
mà tự vẫn. Còn Oedipus thì tự móc hai mắt của mình, chịu hình phạt lưu đày, ra
khỏi thành Thebes. Từ đó, có thể hiểu “mặc cảm Oedipus” là một “cảm tính đau
khổ, day dứt lo sợ phạm tội giết cha và yêu mẹ, lo sợ phạm tội loạn luân”[16,192].
Từ những phân tích trên, chúng tôi đặt phức cảm Genji vào mối tương quan
với mặc cảm Oedipus và rút ra một vài kết luận sơ bộ như sau:
Những nét tương đồng
Mặc dù phức cảm Genji và mặc cảm Oedipus bắt nguồn từ những mẫu hình
tâm lý ở những vùng văn hóa đặc trưng khác nhau. Tuy nhiên ở chúng có những
điểm gặp gỡ rõ rệt: Về mẫu hình tâm lý, nếu như phức cảm Genji lấy mẫu hình tâm
lý từ chàng hoàng tử Genji trong Genji monogatari thì mặc cảm Oedipus lấy
nguyên mẫu từ hoàng tử Oedipus trong thần thoại Hy Lạp Oedipus làm vua. Về
biểu hiện đặc trưng tâm lý, chúng tôi thấy rằng, cả hai đều xuất phát từ tình cảm
giữa người con trai với mẹ của nó. Về sự lựa chọn đối tượng bạn tình: Cả hai đều
sẽ ảnh hưởng đến sự lựa chọn hình mẫu bạn tình khi trưởng thành. Về mức độ phổ
biến, chúng đều là những biểu hiện tâm lý chung của phần đông nam giới. Hay nói
42
cách khác, chúng là những bản chất tâm lý vốn có trong não trạng con người, còn
được gọi dưới cái tên “vô thức tập thể” (Jung).
Những điểm khác biệt
Sau khi tìm hiểu về hai khái niệm trên, chúng tôi nhận thấy rằng giữa chúng
có những điểm khác biệt cần lưu ý:
Thứ nhất, phức cảm Genji, hay não trạng amae được bắt đầu trước khi hình
thành mặc cảm Oedipus. “Vì Amae dường như nổi lên trước hết như cảm xúc của
đứa bé trên vú mẹ hướng về mẹ nó”. “Điều ấy tương ứng với cảm xúc trìu mến nổi
lên ở đầu thời thơ ấu mà Freud đặt tên là “sự lựa chọn đối tượng nguyên thủy của
trẻ” (the child’s primary object-choice)”[32,25].
Thứ hai, mặc cảm Oedipus xuất hiện ở cả đứa trẻ nam và nữ còn ở phức cảm
Genji chỉ chú trọng vào người nam.
Thứ ba, mặc cảm Oedipus chú trọng đến vai trò của người cha. Còn phức
cảm Genji thì đặt trọng tâm vào vai trò của mẹ, người cha bị xóa mờ, không hiện
diện. Ở phương diện này, cần xem xét đến những yếu tố văn hóa Đông – Tây. Văn
hóa phương Tây, luôn đề cao vai trò và quyền lực của người cha - người có một
quyền năng to lớn không thể khuất phục. Ngược lại, văn hóa phương Đông lại đề
cao người phụ nữ, đặc biệt là người mẹ với tình yêu thương bao la, chở che, tận
hiến. Theo thiền sư D.T Suzuki: “Ở cơ sở của những lối tư duy và cảm nhận của
người phương Tây có người cha, thì người mẹ nằm ở đáy sâu bản chất phương
Đông. (…) Người mẹ ôm lấy mọi thứ trong tình yêu vô điều kiện. Không có vấn đề
đúng, sai. Mọi thứ đều được chấp nhận không có gì khó khăn hay cần căn vặn. Tình
yêu ở phương Tây luôn chứa đựng một cái bã của quyền lực. Tình yêu phương
Đông thì ôm lấy tất cả. Nó mở rộng về mọi phía. Ta có thể đi vào từ mọi hướng.”
[32, 99-100]
Thứ tư, mặc cảm Oedipus có sự hiện diện của cảm giác tội lỗi và sự trừng
phạt. Nghĩa là được soi xét dưới góc độ đạo đức. Còn phức cảm Genji thì không. Ở
những nước phương Tây, họ “có chiều hướng nghĩ về cảm giác tội lỗi như một vấn
đề bên trong cá nhân, còn người Nhật không nghĩ thế”[32,63]. Đối với người Nhật,
cảm giác tội lỗi “tự thể hiện một cách sắc bén nhất khi cá nhân ngờ rằng những
hành động của mình sẽ đem lại kết quả là phản bội nhóm mà mình thuộc về. Bên
43
cạnh đó, ta có thể hiểu rằng cảm giác tội lỗi của người Nhật “là một chức năng của
các quan hệ nhân sinh” [32,64]. Theo TS Takeo Doi, cảm giác tội lỗi sẽ không
thường tồn tại với những người có mố quan hệ họ hằng, đặc biệt là đối với cha mẹ
vì mối quan hệ giữa hai bên đã quá thân thiết nên amae cho phép người ta tin rằng
mọi tội lỗi đều sẽ được tha thứ. Những tội lỗi sẽ được bỏ qua bởi mối quan hệ thân
thiết và tình cảm gắn bó. Một phần nữa là tư duy người Nhật thiên về cảm xúc chủ
quan, mang tính trực giác cao; còn ở phương Tây, họ lại thiên về tính logic, khách
quan, dựa vào lí trí, lối tư duy khoa học, khuôn khổ,…
Thứ năm, phức cảm Genji là sự bộc lộ ẩn ức cá nhân kìm nén về tình mẹ
một cách gián tiếp qua người tình. Còn mặc cảm Oedipus là sự thể hiện trực tiếp,
hướng vào ba, mẹ ruột.
Phức cảm Genji, với ánh sáng từ góc độ tâm lý học đã được giải phẩu rất cụ
thể và sáng tỏ. Nó là một hiện tuợng tâm lý đặc trưng trong tính cách Nhật Bản. Nó
có mối tương quan với những hiện tượng tâm lý đã được xác lập như mặc cảm
Oedipus, nhưng ở nó cũng có những đặc trưng riêng trong sự biểu hiện. Những đặc
trưng khác biệt trên chính là cốt lõi để phức cảm Genji được chú ý nghiên cứu sâu
và kĩ hơn.
44
CHƯƠNG 2: “PHỨC CẢM GENJI” TRONG DÒNG CHẢY
VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NHẬT BẢN
Phức cảm Genji đã được lưu giữ qua bao thế kỉ để có thể hiện hữu trong nền
văn học hiện đại Nhật Bản cho đến ngày nay. Nó song hành cùng quá trình vận
động và biến đổi của nền văn học Nhật qua nhiều thế kỉ. Phức cảm Genji ra đời từ
văn học Heian đến văn học hiện đại (từ Minh trị duy tân), một lần nữa nó lại trỗi
dậy mạnh mẽ trong sáng tác của những nhà nhăn Nhật bản thời kì hậu chiến.
Về bối cảnh lịch sử, xã hội Nhật Bản. Lịch sử Nhật Bản hiện đại chia thành
3 thời kì, nếu lấy dấu mốc từ thời kỳ Minh Trị Duy Tân : Meji (1868-1912), Taiso
(1912-1926) và Showa (1926-1989). Trước Meji, vào thời Edo (1603-1867) đã thi
hành chính sác “bế quan tỏa cảng”. Đồng thời càng về sau thì những chính sách cai
trị của chính quyền ngày càng lạc hậu, lỗi thời. Sự kiện, năm 1852, đô đốc hải quân
Mỹ Perry đã kéo một đoàn thuyền chiến đến Nhật Bản nhằm tìm kiếm một sự thỏa
thuận về thị trường mua bán. Khi bị từ chối thì Mỹ đã tạo nhiều sức ép. Thế nên,
chính quyền Edo phải kí một số hiệp ước trong sự gượng ép. Giữa thế kỉ XIX, với
những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội, những cuộc đấu tranh của nhân dân liên tiếp
nổ ra. Chính quyền Mạc Phủ khủng hoảng, sụp đổ. Thiên Hoàng Mutsuhito (Mục
Nhân) đã giành chính quyền và thành lập chế độ mới thực hiện cuộc duy tân Minh
Trị.
Nhật Bản thời kì Minh Trị đã có những cải cách tiến bộ góp phần “duy tân”
đất nước về mọi mặt như: chính sách mở cửa, giao lưu với thế giới về mọi mặt, xóa
bỏ chế độ phân biệt đẳng cấp, thay lịch âm bằng lịch dương, xóa bỏ phân biệt giới
tính,…Dành sự quan tâm hơn cho phụ nữ là một trong những tiếng nói tiến bộ, bình
đẳng của thời kì này.
Năm 1912, Nhật Hoàng Mustuhito qua đời đánh dấu sự kết thúc của triều đại
Minh Trị. Tiếp đó là sự ra đời của hai thời đại là Taisho (1912-1926) và Showa
(1926-1989) do hoàng đế Taisho và hoàng đế Hirohito trị vì. Đây là thời “thời kì bất
thường” nhất trong lịch sử Nhật Bản. Những cuộc chiến tranh xâm lược liên tục xảy
ra: Chiến tranh Trung – Nhật (1894 – 1889), Chiến tranh Nga – Nhật (1904 – 1905),
45
Chiến tranh Thế giới II (1939 – 1945). Nhật Bản đã huy động tất cả tiềm lực về
kinh tế cho chiến tranh nhưng kết quả lại là thất bại nặng nề. “Thời kì bất thường”
của Nhật Bản đã sản sinh ra một nền “văn hóa đại chúng” và phong trào khuyến
khích thanh niên sống theo trào lưu hiện đại phương Tây. Số lượng xuất bản sách
báo thời kì này đã được tăng lên vượt bật chưa từng thấy. Tuy nhiên, các giá trị văn
hóa cũ suy đồi, các nhân tố văn hóa ngoại lai xâm nhập mạnh mẽ khiến cho nền văn
hóa và đạo đức truyền thống Nhật Bản bị khủng hoảng nghiêm trọng. Nhưng với ý
chí và quyết tâm phi thường để kiến thiết đất nước, sau năm 1954, nền kinh tế Nhật
từng bước phục hồi và phát triển “như vũ bão”, đuổi kịp các nước phương Tây.
Nhật bước vào thời kỳ “phát triển thần tốc” trở thành một cường quốc kinh tế thế
giới.
Đến nay, Nhật Bản là một nước dân chủ với nền chính trị ổn định, kinh tế
phát triển, ngoại giao theo khuynh hướng mở, hữu nghị với thế giới. Đời sống người
dân Nhật Bản tương đối ổn định và phồn vinh.
Lịch sử văn học hiện đại được phân chia rất phức tạp. Giới nghiên cứu
thường cho rằng nó bắt đầu từ 1868 và kế thúc 1989. Tuy nhiên Một số học giả với
quan niệm cởi mở, họ cho rằng văn học hiện đại Nhật Bản không chỉ trong khoảng
từ 1868 đến 1989 mà còn phải kể đến các nhà văn thời đại Heisei (cuối thế kỷ XX -
đầu thế kỷ XXI). Chúng tôi đồng ý với quan điểm trên trên. Bởi lẽ “bên cạnh những
nhà văn Nhật Bản kiệt xuất trong giai đoạn từ 1868 cho đến 1989” thì “ không thể
không đề cập đến một số cây bút xuất sắc thuộc lớp sau, coi họ là một tiếng nói độc
đáo, hấp dẫn nhất của văn học Nhật Bản hiện đại, là một dạng thức mới mẻ của nền
văn xuôi cuốii thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI” [15,16]. Có một đặc điểm chung trong
nền văn học hiện đại Nhật Bản dù có phân chia theo quan điểm nào đi nữa là vào
thời kì đầu của nền văn học là sự tiếp thu nền văn học phuơng Tây trên cơ sở dịch
thuật các tác phẩm của những tác giả lớn như: Dostoievski, Nietzche, Jame Joyce,
Proust,.. Sau đó là sự phỏng lại những tác phẩm nổi tiếng một cách mạnh mẽ. Đồng
thời, với sự tiếp nhận những tinh hoa văn học Tây phương, Nhật Bản đã thâu nhận
cho nền văn học mình rất nhiều chủ nghĩa mới như: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa
hiện thực, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa tự nhiên, phân tâm học…Năm 1985 có
46
thể nói là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong bước tiến của nền văn xuôi
Nhật Bản. Đó là khi cuốn Tinh túy của tiểu thuyết (The essence of novel) của
Tsubouchi Shoyo ra đời. Kể từ đây, văn xuôi Nhật Bản vươn lên vị trí trung tâm
trên văn đàn. Trong suốt thời kì giữa thế kỉ XIX, quá trình hiện đại hóa ở Nhật Bản
đã nhất thể với sự phương Tây hóa trong mọi mặt đời sống. Tất nhiên, văn học cũng
là một phương diện chịu tác động mạnh mẽ. “Đây là giai đoạn làm quen, học hỏi,
bắt chước, thể nghiệm để chuẩn bị cho một nền văn học mới ra đời, nhuần nhuyễn
những yếu tố phương Tây lẫn yếu tố văn học Nhật Bản”[15,19]. Ngoài ra, trong sự
phát triển mạnh mẽ của văn học Nhật hiện đại cần nhắc đến vai trò của báo chí và
hoạt động phê bình văn học diễn ra sôi nổi trong thời điểm này.
Trong sự phát triển mạnh mẽ của văn học Nhật hiện đại không thể không kể
đến đóng góp to lớn của một đội ngũ sáng tác to lớn. Trong số đó, ta có thể nhắc
đến thành công của ba nhà văn: Tanizaki, Kawabata, Murakami.
Bối cảnh lịch sử và tình hình văn học chung của Nhật như một dòng chảy
luôn vận động mạnh mẽ. “Phức cảm Genji” đã hòa mình vào dòng chảy ấy và có sự
“tiếp biến” không ngừng. Trong đó, sự thể hiện của nó cũng hết sức đa dạng và
phong phú. Sau đây, chúng tôi tiến hành khảo sát phức cảm Genji ở phương diện hệ
thống nhân vật và nghệ thuật biểu hiện trong sáng tác của ba nhà văn nói trên
2.1. Nhân vật nam – chủ thể của phức cảm Genji
2.1.1. Nỗi đau xa lìa mẹ
Tình mẫu tử thiêng liêng được hình thành tự nhiên trong tâm thức của mỗi
con người trong quá trình từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành. Đó là một quá trình
xây dựng và vun đắp liên tục, nhiều khi trong vô thức. Một khi tình cảm ấy bị gián
đoạn sẽ dẫn đến những tổn thương sâu sắc trong tinh thần đứa con. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự mất cân bằng trên là sự “vắng mặt” của người mẹ.
Sự phụ thuộc của người con vào mẹ lúc này cũng mất đi. Những thói quen hằng
ngày thay đổi. Từ đó tạo cho đứa trẻ một cảm giác “bị bỏ lại đằng sau” và hình
thành sự “chơi vơi”, “trống rỗng” trong cuộc sống giai đoạn đầu. “Rõ ràng cảm
giác bị bỏ lại đằng sau phụ thuộc vào sự tồn tại của não trạng Amae. Khi đứa trẻ bị
bỏ rơi, nó cảm thấy một sự khó chịu, một sự đe dọa cho chính sự sống của
47
mình”[32,195]. Sau đó, dần dần con người sẽ tự điều chỉnh sự bất thường này bằng
cách ẩn giấu nó vào trong tầng sâu vô thức để tìm lại sự cân bằng trong cuộc sống.
Tuy nhiên, những tổn thương sâu sắc ấy sẽ mãi tiềm tàng, ẩn sâu trong vô thức và
chỉ chực chờ có cơ hội bùng phát. Qua đó, sự tìm kiếm hay bắt gặp những hình ảnh
quen thuộc từ người mẹ được thiết lập khi những người con trai tìm thấy mẹ mình
qua hình ảnh của những người tình hay những người phụ nữ khác trong cuộc đời.
Có thể nói, tác động từ việc thiếu vắng hình bóng người mẹ là một nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự tiềm tàng của phức cảm Genji.
Trong các tác phẩm được tiến hành khảo sát, motif “đứa con xa lìa mẹ” được
lặp lại khá phổ biến. Motif này như đã nói, nguyên mẫu từ truyện Genji. Hoàng tử
Genji trong câu chuyện đã phải gánh chịu nỗi đau mất mẹ khi chàng vừa cất tiếng
khóc chào đời. Số phận thật trớ trêu khi chàng đem lòng yêu chính người kế mẫu
của mình. Bởi lẽ, hình ảnh người mẹ kế khiến Genji nhớ về mẹ ruột mình, cho
chàng được sự ấm áp, quan tâm mà chàng thiếu vắng ngay từ thuở bé. Tình cảm này
không thể nào tách bạch rõ ràng là “tình mẫu tử” hay “tình yêu nam - nữ”. Có lẽ vì
thế nên phức cảm Genji có đặc điểm nổi bật là việc người nam luôn hướng đến sự
tìm kiếm hình bóng thiêng liêng của người mẹ qua những người tình.
Sự thiếu vắng hình bóng của người mẹ trong các tác phẩm văn học hiện đại
Nhật Bản thông thường vì hai nguyên nhân chính: người mẹ đã mất và người mẹ bỏ
nhà ra đi.
Thứ nhất, nỗi đau về người mẹ đã mất.
Trong các tác phẩm của Kawabata, ông đã vẽ nên một bức tranh thật ảm đạm
cho số phận các nhân vật nam - chủ thể mang phức cảm Genji khi hầu hết họ đều là
những kẻ mang nỗi đau thiếu vắng bóng hình mẹ. Kikuji trong tiểu thuyết Ngàn
cánh hạc phải chịu đựng sự mất mát gấp bội khi mất đi “người mẹ” của mình đến
hai lần. Người mẹ ruột và bà Ota. Những người mà cậu cảm nhận được tình mẫu tử
thiêng liêng cứ dần rời xa Kikuji, một nỗi đau không thể nói thành lời và anh chỉ
còn biết “lặng thinh” với “đôi mắt nhắm nghiền lại” mà thôi!
48
Gimpei trong tiểu thuyết Hồ cũng đã có những hồi ức rất tươi đẹp về một
vùng quê cùng cái hồ ở quê mẹ, nơi mà anh đã trải qua một tuổi thơ vui vẻ cùng chị
họ mình. Thế nhưng, chính nơi ấy cũng là nơi mang lại cho anh ta một nỗi sợ hãi
suốt đời ám ảnh – sợ mẹ bỏ đi. Đau đớn hơn, cái hồ ấy, miền quê yên bình ấy lại là
nơi mà anh ta đã chứng kiến cảnh mẹ ra đi mãi mãi.
Các nhân vật của Tanizaki cũng không nằm ngoài số phận chung: mất mẹ.
Trong Cầu mộng, Tadasu, men theo dòng kí ức của mình nhớ về ngày mà mẹ cậu
mãi ra đi: “Một ngày đầu mùa thu, ngay khi cây hạnh đào ở cửa bắt đầu rụng lá,
người mẹ hai mươi tuổi của tôi, khi sanh nhiễm độc tử cung mà chết với cả đứa bé.
Lúc đó tôi mới lên năm.”[33,135]. Trong tâm hồn Tadasu chất đầy những câu hỏi
không lời đáp: “Tớ lấy làm lạ khi thấy mình phần nhiều chỉ nhớ mẹ chớ không hề
nhớ cha. Hơn nữa cha của tớ đã chết trước cả mẹ, cho nên dù tớ còn giữ được đôi
chút hình ảnh mơ hồ của bà mẹ thì đối với ông bố, tớ hoàn toàn không nhớ gì
cả”[42,258]. Vì thế mà cậu cho rằng tình cảm giữa cậu và mẹ mình cũng như một
kẻ xa lạ, như với “người đàn bà mình chưa hề gặp”.
Thứ hai, nỗi đau và sự kiếm tìm người mẹ bỏ ra đi.
Khác với những trường hợp vừa kể trên – người mẹ đã mất, Kafka trong
Kafka bên bờ biển (Haruki Murakami) hay ông lão Arita trong tiểu thuyết Hồ
(Kawabata) lại rơi vào trường hợp bị mẹ của mình bỏ rơi từ lúc còn bé.
Kafka, một cậu bé 15 tuổi được đặt trong cuộc trốn chạy, thoát khỏi lời
nguyền ác tâm từ người cha và cậu lên đường thực hiện hành trình tìm lại mẹ và chị
gái. Trong kí ức, mẹ đã mang theo chị của Kafka bỏ nhà ra đi từ lúc cậu 4 tuổi. Cậu
thậm chí còn không thể nhớ nổi diện mạo của mẹ mình.
Còn trong tiểu thuyết Hồ (Kawabata), Arita, một lão già đã trải qua gần hết
cuộc đời vẫn luôn nhớ về những tháng ngày cách xa người mẹ vì bà đã “bỏ đi khi
ông mới hai tuổi”[55,56].
Nỗi đau mất mẹ ban đầu sẽ bộc phát ra bên ngoài bằng những chuỗi đau khổ.
Nhưng sau đó, nó trở thành một thứ tổn thương ẩn sâu trong vô thức của con người.
Để rồi, vào một thời điểm nhất định, khi nó tìm thấy một thứ cảm giác an toàn, một
49
mối nối khớp với nó, thì lúc đó, bỗng nhiên nó lại trỗi dậy không thể kiểm soát
được. Có lẽ chính vì thế mà những người đàn ông mang phức cảm Genji luôn trong
hành trình đi tìm. Họ đi tìm những người đàn bà – người tình mang hình bóng của
người mẹ, mang tình yêu thương bao la và thiêng liêng của mẹ để có thể khỏa lấp
và giải thoát những dồn nén tinh thần từ sâu thẳm trong tâm hồn. Điều đó như một
liều thuốc sẽ giúp họ giải thoát những ám ảnh, bế tắc trong tâm hồn mình.
2.1.2. Mong muốn giải phóng những ẩn ức cá nhân
2.1.2.1. Sự giải phóng bản năng tính dục
Yếu tố tính dục thường được xem là địa hạt cấm kị trong văn chương, nghệ
thuật. Thế nhưng, đối với Nhật Bản, một nền văn học có truyền thống sắc tình từ
khởi nguyên thì tính dục được đề cập một cách tự nhiên mà không hề gượng gạo
hay bị soi xét dưới góc độ đạo đức như ở các vùng đất khác. Ngay từ những ghi
chép thuở sơ khai, các quyển Cổ sự kí và Nhật bản kỉ đã ghi lại yếu tố “sắc dục”
như một cơ chế sản sinh ra sự sống muôn loài, và ở Truyện kể Genji trong thời
Heian rực rỡ thì yếu tố này đã được chú ý miêu tả một cách rất tự nhiên, đầy tính mĩ
cảm. Trải qua thời gian, yếu tố nhục cảm đi vào văn học Nhật bản như một cánh
hoa anh đào đẹp đẽ, nở rộ và người đọc đều có thể cảm nhận, thưởng thức cái đẹp
quyến rụ, tinh khôi và cũng vô thường, hư ảo.
Ở một phương diện khác, Theo nhà tâm lý học Sigmun Freud thì cấu trúc
nhân tính của con người được cấu thành bởi ba bộ phận: Id (bản năng), ego (ngã
tính) và super ego (siêu ngã tính). Trong đó, bản năng là một yếu tố mạnh mẽ và tồn
tại tiềm tàng trong vô thức và tiềm thức của mỗi con người. Bên cạnh đó ông còn
đưa ra những phân tích về bản năng tính dục (libido). Bản năng này là một nhân tố
quan trọng có mặt trong tâm lý con người từ thuở ấu thơ. Tuy nhiên, khi lớn lên và
tham gia vào các hoạt động xã hội, libido sẽ phải trải qua sự kiểm duyệt gắt gao của
ý thức hay ngã tính và siêu ngã tính và kết quả là libido bị ném vào vô thức. Libido
lúc này không được thõa mãn, từ đó nó tạo ra những ức chế tiềm tàng và chực chờ
“phát nổ” bất cứ lúc nào. Vì vậy, “sự đam mê tính dục còn giữ vai trò bật nhất
trong đời sống tâm lý, là cội nguồn của mọi cội nguồn tinh thần con người, đâu đâu
50
cũng thấy sự đam mê khát dục hoành hành, khát dục nhiều vô kể”16. Libido được
Freud nói đến như một nguồn năng lượng sống quan trọng của con người bên cạnh
các năng lượng duy trì sự sinh tồn như ăn, uống, hít thở,… Vì vậy, nhìn dưới góc
độ này, sự thỏa mãn bản năng tính dục cũng quan trọng và hết sức cần thiết đối với
mỗi con người như thỏa mãn cơn đói ăn vậy.
Ngoài những nét tâm lý riêng mang đậm tính chất Nhật Bản tính thì phức
cảm Genji cũng mang trong đó những nét tâm lý chung trong não trạng con người.
Như đã nói, hành trình đi tìm lại tình mẫu tử thiêng liêng qua những người tình
cũng là một hành trình tìm kiếm sự thỏa mãn tính để “tìm thấy sự trưởng thành” hay
sự cân bằng trong tồn tại của những người đàn ông. Trẻ em ngay từ khi sinh ra đã
mang sự khát dục và thể hiện bằng cách bú nút vú mẹ. Sau đó, quá trình này bị cấm
đoán và được kìm nén lại trong tầng sâu vô thức. Vì khi con người trưởng thành,
mối quan hệ “cấm kị” như thế đối với mẹ sẽ mang màu sắc sự loạn luân. Ngay lập
tức điều đó sẽ bị các “cổng kiểm duyệt” ngăn chặn .Thế nên, những ẩn ức ngụy
trang bằng cách tìm đến sự thõa mãn ở những người tình của mình. Một mối quan
hệ nam – nữ bình thường vượt qua sự kiểm duyệt, libido chính thức được giải thoát.
Vì lẽ đó, những nhân vật nam mang phức cảm Genji được xây dựng trong các tác
phẩm đều có một mục đích rất chung dù ít hay nhiều đó là sự thỏa mãn cái ẩn ức
trong chính bản thân.
Với Kawabata, sự thỏa mãn ấy mang một sắc thái hết sức bình dị, nhẹ nhàng.
Trong Ngàn cánh hạc, Ota không chỉ hoàn hảo trong vai trò một người “mẹ”, đối
với Kikuji, bà còn là một “người tình” mang lại những xúc cảm ấm áp, đầy mê đắm.
“Bà Ota năm nay ít nhất cũng bốn mươi lăm tuổi, tính ra bà hơn Kikuji đến hai
mươi tuổi, nhưng bà đã làm cho Kikuji quên hẳn tuổi bà khi hai người yêu nhau.
Chàng có cảm tưởng như chàng ôm trong tay một người đàn bà trẻ hơn chàng.
[53,21]. Chính tình yêu mãnh liệt giữa hai người như làm xóa nhòa đi khoảng cách
16 Th.S Nguyễn Thị Bích Hằng, Quan niệm của S.Freud về động lực sinh tồn, phát triển của con người và xã
hội, xem lần cuối ngày 16-03-2018,
trại trang http://tuhieuminh.blogspot.com/2013/12/quan-niem-cua-
sfreud-ve-ong-luc-sinh.html
về tuổi đời về những gì đang diễn ra xung quanh và tất cả mọi hận thù. Kikuji
51
dường như không hề cảm thấy “mặc cảm” khi đứng trước một người đàn bà từng
trải về “những kinh nghiệm yêu đương”. Kikuji cảm tưởng như“lần đầu tiên chàng
biết đến đàn bà và cũng là lần đầu tiên chàng biết đến người đàn ông trong chàng.
Quả thực là một sự thức tỉnh lạ lùng”[53,21]. Phải chăng chính những giây phút
đắm say trong tình yêu đã làm cho chàng trai trẻ Kikuji trở nên trưởng thành hơn và
cảm nhận được cảm giác là người đàn ông thật sự trong chàng.
Bà Ota với sự từng trải và kinh nghiệm ân ái đã làm Kikuji say đắm. Chàng
“không ngờ một người đàn bà có thể mềm mại và dễ thụ cảm đến độ đó, tính chất
đó đã được bộc lộ sau đó khi hai người gần nhau, đồng thời nó đã mê hoặc chàng
vào một vùng đầy thương yêu nồng nàn.”[53,21]. Sau một thời gian gần gũi với
người tình đặc biệt của mình Kikuji dường như thay đổi mọi thói quen khi gần gũi
với những người phụ nữ trước đây. Trong khi trước đây chàng “cảm thấy ghê sợ
mỗi lần gần gũi đàn bà” và “đột ngột bỏ đi sau đó”[53,21] còn bây giờ, sau những
giây phút sống cùng bà Ota thì “chàng ý thức về một việc nghỉ ngơi êm đềm”,
“chàng buông thả mình trong cảm giác ấy”[53,21] mà không muốn rời đi nữa.
Không chỉ vậy, tình yêu mà chàng nhận được từ bà còn giúp tâm hồn anh được
thanh lọc. Đến nỗi chàng thiếp ngủ đi trong vô thức “trong cảm giác êm đềm”. Và
‘Kikuji có cảm tưởng những ngõ ngách trong đầu mình vừa được rửa sạch”[53,25]
và “chàng không nghĩ gì cả”[53,25].
Trong tiểu thuyết Hồ (Kawabata), ông lão Arita thỏa mãn bản năng tính dục
của mình “như một đứa trẻ” với những cô gái trẻ trung (Mizako và Umeko) qua
những hành động như: gối đầu lên tay hai người, được họ cho ngậm ti. Chỉ có vậy
thôi nhưng cũng đủ làm ông thích thú và thỏa nguyện vô cùng. Cảm giác như Arita
muốn tìm kiếm hình ảnh người mẹ năm xưa trong những hành động gần gũi các cô
gái ấy.
Ông lão Eguchi, với thiên hướng tính dục lạ thường trong Người đẹp ngủ mê
đã thỏa mãn bản thân bằng cách “ngủ cùng những cô gái say ngủ”. Ông tận hưởng
cảm giác khoan khoái và giải tỏa bằng cách ngắm nhìn, vuốt ve và cảm nhận từng
giấc ngủ bên những cô gái khỏa thân say ngủ.
52
Kawabata đã diễn tả “cái sâu kín” của con người thật tinh tế và thanh cao.
Còn ở Tanizaki hay Murakami thì “địa hạt sâu kín” ấy lại được phơi bày ra một
cách trần trụi, táo bạo. “Tôi vạch cổ áo kimono của bà ra, áp mặt tôi vào giữa ngực
bà, và dùng hai tay măn núm vú… Tôi ngậm hết vú này đến nấm vú khác trong
miệng và dùng lưỡi ép mạnh để mong sữa chảy ra”[42,146]. Tadasu trong Cầu
mộng (Tanizaki) đã đề cập đến những cảm nhận rất thực về điều mà cậu trải qua
cùng người mẹ kế của mình. Cậu xem sự thỏa mãn của mình như ở trong “cái thế
giới mộng ấm áp trắng mờ đó - cái thế giới mà tôi tưởng tượng đã biến mất vĩnh
viễn đã thực sự tái sinh”[42,146-147]
Murakami thì có phần táo bạo, hiện đại hơn cả: “Bằng cử chỉ nhẹ nhàng, tự
nhiên, bà cởi khuy áo, trút bỏ váy rồi quần lót. Từng chiếc một, y phục bằng tơ lụa
mềm của bà rơi xuống sàn, hồ như không một tiếng động…”[11,319]. Kafka là một
lữ khách tham gia vào chuyến phiêu lưu ái dục đầy nhục cảm. Thế nhưng, cảnh đầy
nhục dục nhất lại được Murakami giao cho nhân vật thứ ba. Đó là tên Quạ. Nó đã
kể lại cảnh tượng ấy sống động như một thước phim quay chậm. “Hơi thở ấm của
bà phà vào cổ tôi, nạm lông mu của bà cọ vào đùi tôi”,“Bà sẽ hôn hít cổ mày, rồi
nắm lấy chim mày lúc đó đã rắn như sành. Tay bà nhẹ nhàng mơn quan quanh tinh
hoàn của mày và lặng lẽ kéo tay mày đặt lên mu bà. Âm đạo của bà ấm nóng và ướt.
Bà hôn ngực mày, bú đầu vú mày. Ngón tay mày như bị hút, từ từ luồn vào bên
trong bà”[11,319]. “Mày nằm ngửa và Miss Saeki cưỡi lên mày. Bà cầm con cu rắn
như đá của mày ấn vào cửa mình bà. Mày không làm gì được, bà là người chủ động.
Bà uốn mình, vặn người như thể phác những hình vẽ trong không khí. Tóc bà xõa
thẳng xuống vai mày và run rẩy không một tiếng động như những nhành liễu. Từng
tí một, mày bị hút dưới lớp bùn ấm. Cả thế giới như trở nên nồng ấm, ướt át, mờ mịt
và chỉ còn tồn tại con cu cứng đơ, bóng nhẫy của mày… Và chẳng mấy chốc mày
xuất tinh…”[11,320]. Đó là một cuộc hoan lạc thật sự. Cậu bé 15 tuổi lúc này lại
được ôm trọn vào lòng một người phụ nữ đầy hơi ấm, đầy tình thương và rất dày
dặn kinh nghiệm tình trường. Thế rồi từ lần đầu tiên với Miss Saeki ở thế bị động,
thì đến lần kế tiếp, chàng trai Kafka chuyển sang là người chủ động trong quá trình
hòa nhập hai cơ thể. “Mày ghì chặt bà, bà úp mặt vào ngực mày. Mày cảm thấy hơi
thở của bà trên làn da trần. Bà mơn man từng bắp thịt của mày. Cuối cùng bà nhẹ
53
nhàng liếm dương vật sưng phồng của mày như thể xoa dịu nó. Mày lại xuất tinh
một lần nữa, trong miệng bà. Bà nuốt hết như thể mỗi giọt đều quý giá. Mày hôn âm
hộ bà, chạm lưỡi vào mọi chỗ mềm mềm ấm ấm.” [11,365]. Quạ thực chất chính là
bản ngã của Kafka, là một phần ẩn ức tồn tại trong cá nhân cậu. Những gì tên Quạ
nói, những gì tên Quạ cảm nhận cũng chính là những điều ẩn sâu trong vô thức
Kafka.
Như đã nói, trong mỗi con người đều có nhu cầu giải tỏa ẩn ức tính dục của
bản thân. Thế nhưng, trong sự thỏa mãn ấy đôi khi ta lại tìm được những cảm xúc
của tình yêu thương, của hình bóng người mẹ đã ở sâu trong vô thức. Quan hệ tình
dục không chỉ là sự chung đụng xác thịt mà vấn đề còn ở việc tinh thần có được giải
phóng và thăng hoa hay không. Thông qua sự thỏa mãn khát dục, ở một khía cạnh
nào đó, nam giới sẽ nhận thấy rằng mình có đủ những bản lĩnh và làm chủ bản thân
mình. Đó chính là một khía cạnh của sự trưởng thành. Sự trưởng thành và tinh thần
được tự do, giải phóng năng lượng dục là một mục đích song song với việc tìm
kiếm hình bóng người mẹ của nam giới. Tất cả những điều đó đã thể hiện thông
qua việc xây dựng hình ảnh những nhân vật nam trong các sáng tác của các nhà văn
mà chúng tôi vừa phân tích ở trên.
2.1.2.2. Sự giải phóng khát vọng bị dồn nén và mặc cảm bản thân
Mẹ là người phụ nữ che chở và thực hiện bất cứ những gì ta mong muốn, ôm
trọn hết đứa con mình vào lòng bằng sự bao dung và yêu thương, dẫu nó xấu xí, tật
nguyền. Vì lẽ đó, thông qua sự giải bày được những dồn nén khát vọng và xóa bỏ
được lằn ranh mặc cảm với bất cứ người phụ nữa nào, nhất là với người tình của
mình, ngay lập tức, tình cảm mẫu tử được thiết lập.
Mỗi nguời luôn có những mong muốn, những khát vọng nhưng đôi khi bản
thân lại không thể tự mình thỏa mãn được. Lâu ngày, khát vọng ấy trở thành khát
vọng bị dồn nén. Ở đây, khát vọng bị dồn nén không bao gồm sự khát dục. Bởi lẽ,
mặt khát dục trong con người thiên về sự hình thành từ bé, mang tính sinh học còn
“khát vọng bị đồn nén” chỉ đơn giản là những mong muốn tinh thần được hình
thành bất kì nhưng bị kiềm hãm và cần có sự trợ giúp mới có thể thực thi.
54
Ông lão Eguchi (Người đẹp ngủ mê – Kawabata) là một ông già bước qua
con dốc bên kia của đời người với sự trải nghiệm dày dặn. Và tất nhiên, tuổi trẻ đã
là một thời quá khứ huy hoàng của ông. Nó như những cánh hoa anh đào đã rụng
xuống dòng nước và bị cuốn trôi đi xa mãi. Ông đã tìm đến những cô gái nằm im,
những đụng chạm da thịt, những ánh nhìn với từng bộ phận cơ thể của các cô gái
“ngủ say” để có thể tìm lại dáng hình, hương sắc của một thời trẻ trung đã qua. Lúc
ấy, ông có mẹ, ông có rất nhiều mối tình đã qua. Các cô gái lúc này như dòng suối
mát rượi mà ông khẽ chạm nhẹ, và đâu đó, những cánh hoa anh đào lướt qua, khiến
ông xao động. Chính dòng nước mát, sự xuất hiện của những cánh hoa anh đào mà
ông tìm lại được thời trẻ trung, khiến tâm hồn ông bỗng được thanh tẩy.
Ở Hồ ta bắt gặp nhân vật Gimpei với quá trình bám theo các cô gái đẹp như
một thứ bùa ngải mà gã khao khát có được để “chữa lành” cái xấu xí của ngoại hình
và sự rách nát, mục rữa trong tâm hồn. Trong tiểu thuyết, Gimpei mang nỗi sợ -
“mẹ rời xa mình”. Có lẽ chính vì vậy mà trong Gimpei có một xúc cảm lạ kì khi
theo dõi và yêu một cô gái nào đó:“Ở trường hợp Mizuki Miyako, hắn chỉ nhặt lấy
chiếc túi xách, mà chẳng biết có còn được gặp lại cô hay không. Điều đó tương tự
như việc chỉ một lần lướt qua nhau rồi mãi mãi cách xa. Hắn cũng đã chia tay với
Tamiki Hisaki vì bị ngáng trở và khó lòng gặp lại nữa” và “Cả Hisako lẫn Miyako
có thể đều biến mất vào cái thế giới ngoài tầm tay hắn”[55,40].
Đặc biệt hơn ở đây đó chính là nỗi sợ hãi về đôi bàn chân xấu xí, với những
ngón chân dài ngoằn của mình. Đó là điều mà anh luôn nghĩ đến khi gặp bất cứ một
cô gái nào và có lẽ anh lo sợ họ có chấp nhận bàn chân xấu xí ấy không. Bàn chân
ấy như là một điều kiện cần để anh tìm được người đàn bà của cuộc đời anh vậy. Ví
như cô hầu gái ở nhà tắm Thổ Nhĩ Kì đã không ngần ngại “quỳ một chân xuống và
cởi luôn cả tất cho hắn” và “lấy tay cọ sạch cả các kẽ chân hắn”[55,7]. Không chỉ
vậy mà cô còn xoa bóp “từ gan bàn chân tới các ngón chân của Gimpei”[55,14].
Điều đó làm anh cảm thấy đôi bàn chân với đầy mặc cảm của mình gần như bị xóa
bỏ khoảng cách với những với cái vỏ bọc mà anh tạo nên. Và tất nhiên, người chấp
nhận được đôi bàn chân xấu xí ấy và nâng niu nó chỉ là mẹ của anh.
55
Qua sự giải phóng những cảm xúc bị dồn nén và mặc cảm bản thân, những
nhân vật nam trong các tác phẩm văn học hiện đại Nhật được thỏa mãn tinh thần
thật sự. Không có gì phải giấu kín, không có gì phải đau đáu trong lòng khi mọi
chuyện đều thực hiện được. Tâm hồn họ được thanh tẩy. Chính suối nguồn của cái
đẹp vĩnh cữu trong thân hình những cô gái trần tục đã giúp họ có được những điều
mà họ mong muốn và sợ hãi từ lâu.
2.2. Nhân vật nữ - người tình mang hình bóng người mẹ
2.2.1. Sự hiện hữu của người mẹ qua người tình
2.2.1.1. Bộ ngực – hình ảnh gợi nhớ ấu thơ
Trong văn hóa thế giới nói chung và ở các nước phương Đông nói riêng, bộ
ngực là một vật có ý nghĩa rất quan trọng. “Bộ ngực trước hết là biểu tượng của
tình mẫu tử, sự dịu dàng, sự an bình, nơi trông cậy. Gắn với khả năng sinh sản và
với sữa, thức ăn đầu tiên, bộ ngực hòa hợp với những hình ảnh về sự thân thiết,…”,
“Bộ ngực là sự thu nhận như tất cả các biểu tượng về người mẹ và sự hứa hẹn tái
sinh”[8,664]. Qua đó ta thấy, bộ ngực hay bầu vú thường được biết đến như biểu
trưng cho người phụ nữ, người mẹ, tình yêu giới tính, sức sống mãnh liệt, khả năng
sinh nở và tái sinh,…
Bộ ngực là hiện thân của người mẹ, đến tình mẫu tử thiêng liêng. Trước hết,
“điều này còn ghi dấu ấn trong ngôn ngữ loài người. Trên thế giới, có rất nhiều
dân tộc gọi người phụ nữ sinh ra mình bằng từ có âm mở đầu là /m-/, ví dụ như:
ma, mama, maman, mère, mother, mẹ, má, mạ, mế, mệ v.v.. Mà những từ ấy hầu hết
có nghĩa hoặc nét nghĩa gốc là bầu vú hoặc sữa (sản phẩm của vú)”.17 Và một điều
đáng chú ý ở đây là “m” có hình dáng kí tự tựa như hình ảnh bộ ngực căng tràn.
Tiếp đến, ngay từ khi sinh ra, con người phải tiếp xúc với bầu vú người mẹ, đón
nhận những dòng sữa nóng tràn đầy. Và chính dòng sữa ấy nuôi dưỡng những cơ
17 Lê Đình Khẩn, Bầu vú với văn hóa nhân loại, đăng ngày 24-06-2013, xem lần cuối ngày 16 -03-2018 tại
trang http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/bau-vu-voi-van-
hoa-nhan-loai
thể sống non nớt trong một thời gian dài. Thuở ấu thơ - một khoảng thời gian ghi lại
56
những kí ức đầu tiên trong bộ não của mỗi con người, lúc này gắn liền với sự vỗ về
mỗi khi đói, sự yêu thương ấm áp mỗi khi áp vào lòng ngực mẹ. Bộ ngực dường
như được khách thể hóa và trở thành một ẩn dụ về người mẹ và tình yêu thương bao
la của tình mẫu tử bất tận, vĩnh hằng.
Không chỉ có vậy, bộ ngực người mẹ còn là một nhân tố quan trọng trong sự
phát triển tâm lý của con người. Nhìn từ góc độ tâm lý, trước hết là ở những nghiên
cứu về Phân tâm học của Freud thì “đôi vú của người mẹ được coi là đối tượng tình
dục đầu tiên của trẻ em theo một nghĩa tự nhiên và lành mạnh trong sáng hơn bất
cứ một sự lành mạnh trong sáng nào trên đời này đối với các em” [16,178]. Hay
trong những nghiên cứu của Takeo Doi - thì khái niệm Amae “dường như nổi lên
trước hết như cảm xúc của đứa trẻ trên vú mẹ hướng về nó”[32,29].
Nhật Bản là một đất nước có tín ngưỡng vật linh. Nếu như nam giới Nhật rất
hào hứng với lễ hội rước dương vật hàng năm thì nữ giới lại tin tưởng, thờ cúng bộ
ngực của mình tại một ngôi đền linh thiêng có tên Jison- In. Ở đây, có hàng trăm bộ
ngực được thờ cúng với mong ước sinh con thuận lợi, có nhiều sữa nuôi con, … hay
thậm chí là nhiều người phụ nữ đến từ khắp nơi đến đây với mong muốn cải thiện
vòng một của mình. Không chỉ vậy, người Nhật rất quan trọng việc cho con uống
sữa mẹ từ khi mới sinh. Chính vì thế mà bộ ngực đối với người Nhật là một biểu
tượng của người mẹ, của những tình cảm hết sức tốt đẹp từ mẹ dành cho đứa con
của mình.
Phức cảm Genji với bản chất tìm kiếm hình ảnh người mẹ trong những người
yêu, người tình của người nam. Và tất yếu, bộ ngực chính là một bản sao vô cùng
sống động trong mối liên hệ người mẹ - người tình.
Thời thơ ấu là một miền kí ức khó phai và có ảnh hưởng đến tâm sinh lí
trong giai đoạn trưởng thành của con người. Trong tác phẩm của cả ba nhà văn mà
chúng tôi khảo sát, hầu hết các nhân vật nam mang phức cảm Genji đều là những
người có kí ức tuổi thơ đau buồn về hình ảnh người mẹ của mình. Đặc biệt, là kí ức
về bộ ngực của mẹ. Người đẹp ngủ mê của Kawabata mang đến cho người đọc ám
ảnh về người mẹ đã khuất của nhân vật Eguchi hết sức sống động:“Bà mẹ thì thào
trong tiếng thở hổn hển. Eguchi đoán được lời mẹ, và đưa tay dịu dàng vuốt lên
57
vuốt xuống bộ ngực phập phồng khó nhọc…”[54,124]. “Khi vuốt lên, vuốt xuống
ngực bà mẹ trong giờ phút cuối cùng, Eguchi dĩ nhiên cảm nhận được đôi vú khô
héo của bà …”[54,126]. Và trong hoài niệm “ông chỉ còn nhớ được đã mò mẫm tìm
vú mẹ rồi lăn ra ngủ những ngày thơ ấu”[54,126]. Ông lão Eguchi nhớ mãi về hình
ảnh bộ ngực của mẹ mình vào lúc bà ấy sắp qua thế giới bên kia; còn nhân vật xưng
“tôi” - Tadasu trong Cầu Mộng của Tanizaki lại được trải qua thời thơ ấu với sự bảo
bọc, yêu thương đến từ những dòng sữa ngọt ngào của mẹ mình. “Tóc bà vấn thành
búi, tỏa mùi thơm nhẹ, đưa vào mũi tôi. Đưa miệng tìm núm vú bà, tôi nghịch như
một đứa bé con, ngậm chúng trong môi, lấy lưỡi mà liếm. Bà luôn để tôi mặc tình,
không một lời trách cứ. Tôi tin rằng tôi vẫn còn bú mẹ dù vẫn đã khá lớn,… Khi tôi
hết sức lấy lưỡi mình mà liếm núm vú của bà và nút mạnh, sữa chảy vào miệng khá
nhiều. Mùi tóc và sữa hòa lẫn nhau thoang thoảng trong ngực bà, quanh mặt tôi.
Dù trong bóng tối, tôi vẫn lờ mờ nhín thấy bộ ngực trắng ngần của bà”[42,133].
Trong vô số những kí ức còn lưu giữ trong hoài niệm của những nhân vật –
những người đàn ông đã trưởng thành, trong tác phẩm của các nhà văn, hình ảnh bộ
ngực trở thành một ám thị, đi sâu vào tầng vô thức của các nhân vật. Và khi ở cạnh
những người tình, họ thường chú ý rất nhiều đến bộ ngực của người nữ.
Phức cảm Genji trong văn học Nhật có mẫu gốc từ tâm lý của Hoàng từ
Genji trong tuyệt tác của Murasaki Shikibu - tiểu thuyết ra đời vào thế kỷ thứ X,
thời văn học Heian. Genji đã tìm thấy hình ảnh người mẹ đã mất thông qua người
mẹ kế của mình. Tình mẫu tử - tình yêu lúc này trở nên khó tách bạch, chúng hòa
vào nhau, ẩn hiện trong tâm thức nhân vật. Trong Cầu Mộng - một sáng tác được
mệnh danh là “truyện Genji thu nhỏ” của Tanizaki cũng mang đến cho người đọc
cảm giác “khó tách bạch”. Riêng đối với bầu ngực, nhân vật chính Tadasu dường
như lại nhớ rất rõ ràng, chi tiết. Tanizaki đã xây dựng tình mẫu tử “một mà hai, hai
mà một”, người mẹ kế và người mẹ ruột dường như là một và hình ảnh về bộ ngực
của hai người lúc này không tách biệt rõ ràng. Như đã nói ở trên, với người mẹ ruột
đã mất Tadasu đã được tận hưởng những yêu thương từ dòng sữa dịu ngọt, thơm tho
và việc bú mút đôi vú của bà. Và đến người mẹ kế, cảm giác ấy lại y hệt đến nỗi
Tadasu phải thốt lên “mọi điều giống y hệt ngày xưa”[42,145]”. “Tôi vạch cổ áo
58
kimono của bà ra, áp mặt tôi vào giữa ngực bà, và dùng cả hai bàn tay măn núm
vú… Tôi ngậm nút hết núm vú này đến núm vú khác trong miệng và dùng lưỡi ép
mạnh để mong sữa chảy ra”[42,146]. Nhưng lại có một điểm không giống với cặp
vú thuở xưa, đó là “dù cố thế nào sữa cũng không tuôn” [42,146]. Không chỉ một
mà rất nhiều lần nhân vật tôi – Tadasu được tận hưởng những cảm giác êm dịu và
thỏa mãn ấy. Thế nhưng, khi người mẹ kế “cũng tên là Chinu” ấy sinh con (tức em
cùng cha khác mẹ với Tadasu) thì điểm khác nhau duy nhất giữa hai người mẹ ở
bầu ngực đã không còn. Vì lúc này bà đã có sữa. Trong sự miêu tả của Tanizaki, bà
căng vú khi sinh con. Nhưng bà lại mang nó đến một miền xa. Nên bà phải “vắt
sữa” từ bộ ngực căng cứng đau đớn của mình. “Mẹ gỡ cái chụp vắt sữa ra khỏi núm
vú bên trái đặt lên núm vú bên phải. Vú bà căng phồng lên trong cái chụp bằng
thủy tinh hầu như lấp đầy nó và nhiều tia sữa từ đầu vú bắt đầu bắn vọt
ra”[42,160]. Hành động ấy gợi cho Tadasu mong muốn có lại cảm giác ngập tràn
trong dòng sữa của mẹ ruột thuở nhỏ: “- Con còn nhớ cái mùi vị ra sao không?
[42,160] - Không biết con còn nhớ cách nút sữa không?- Nếu thích thì con thử xem.
Mẹ nâng đầu vú trong bàn tay và chìa đầu vú cho tôi.- Thử xem nào”[42,161]. Và
lại một lần nữa, bộ ngực ấy, cặp vú ấy được cậu trai tận hưởng. “Tôi ngồi xuống
trước mặt bà sát đến nỗi đầu gối chúng tôi chạm nhau và cúi đầu vào ngực bà,
ngậm lấy một đầu vú. Thoạt đầu tôi thấy khó nút sữa vào miệng nhưng khi tiếp tục
nút, lưỡi tôi bắt đầu thành thạo trở lại. Tôi cao hơn bà nhiều nhưng tôi nghiêng
mình vùi mặt tôi vào ngực bà tham lam nút sữa trào ra.”[42,161]. Lúc này, ranh
giới giữa người mẹ ruột hay người mẹ kế của cậu dường như bị xóa nhòa vì những
cảm giác cận kề với bộ ngực và những dòng sữa mà cậu bú mút. Trong tình huống
ấy, thật khó phân biệt Tadasu là một đứa con hay là một người tình đang say đắm
trong bầu vú mẹ, quả thật khó mà có thể phân biệt được.
Còn đối với Kawabata trong Người đẹp ngủ mê những bầu vú được khắc
họa dưới sự quan sát của nhân vật ông lão Eguchi mang những hình thái khác nhau,
những cảm giác khác nhau. Trong kí ức, bộ ngực của mẹ ông “khô héo”, mất vẻ
căng tràn và sự sống. Vì thế, ở những cô gái ông tìm đến nơi lữ điếm đều là những
đối tượng lí tưởng để Eguchi thực hiện ước muốn trong vô thức của ông. Mong ước
ấy chính là sự bù đắp những ám ảnh mà người mẹ đã mất để lại cho ông. Ở các cô
59
gái trẻ trung đang say ngủ bên cạnh ông kia, hầu như đều có những cặp vú tươi trẻ,
căng tràn, hấp dẫn. Trong tác phẩm, những cô gái đều được miêu tả khi đang ngủ
say trong tình trạng khỏa thân và“bộ ngực của các cô gái không chỉ được miêu tả
một vài lần mà là mười ba lần”18, tạo ấn tượng mạnh và ám ảnh cho người đọc về
hình ảnh bộ ngực. Người đẹp ngủ mê đầu tiên được nói đến với cặp vú “đã cương
lên, rằng sữa đã rỉ ra từ hai núm vú nhỏ xíu này”,“đôi vú không phải là vú đã có
sữa cho con bú. Ông dùng ngón tay rờ nhẹ. Không thấy ướt.”[54,22]. Hay “Đôi vú
nàng có vẻ căng tròn một cách đẹp đẽ”[54,30], “đầu vú nàng còn nhỏ và còn
hồng”[54,31]. Tiếp đó là “người đẹp ngủ mê” thứ hai – một cô gái có kinh nghiệm
với “cặp vú hơi xệ nhưng vẫn đầy đặn và so với gái Nhật thì hai núm vú nở
to”[54,,53], “đôi vú đầy đặn, núm vú to, căng phồng và có màu nâu sẫm. Cặp vú
hơi trệ,…”[54,67]. Còn người đẹp thứ tư thì sự cuốn hút bởi “ngực nàng đầy đặn,
đôi vú lớn hơi trễ xuống nhưng núm vú thì nhỏ một cách khác thường”[54,95], “bộ
ngực rộng và đôi vú to nhưng chưa nảy nở hết” [54,99] hay “bộ ngực to đầy, trắng
nuột”, “đôi núm vú nhỏ hồng” [54, 102]. Người đẹp ngủ mê thứ năm trong căn nhà
thì “chưa đến hai mươi tuổi, vì núm vú còn dẹt dù bộ ngực căng đầy”[54,113], “đôi
vú nhỏ nhưng tròn và chắc. Nằm gọn trong lòng một bàn tay” [54,118],“đôi vú
thanh tân”[54,125],… Có thể thấy hình ảnh bộ ngực của những “người đẹp ngủ
mê” không chỉ được miêu tả với đủ mọi kích cỡ, có những đặc điểm biệt, giúp
Eguchi phân biệt họ với nhau, mà còn có tác dụng đánh thức kí ức Eguchi, khiến
ông hồi tưởng về những cô người tình trong những năm tháng tuổi trẻ của mình.
Eguchi nhớ đến “cô gái có máu đọng chung quanh núm vú”, người lần đầu tiên đã
dạy ông:“cặp môi đàn ông có thể làm tươm máu bất cứ chỗ nào trên thân xác đàn
bà” [54,28]. Hay khi đến căn nhà ngủ mê lần thứ ba, cô gái trẻ mới tập sự đã “đánh
thức kỉ niệm về một người đàn bà” mà ông đã từng đưa vào một khách sạn ở thành
phố Kobe cùng với sự miêu tả về “đôi vú có vẻ như chưa từng ra sữa cho con bú”
[54,75] trong khi thực tế, cô đã có hai con. Còn trong tác phẩm Hồ, bộ ngực của cô
hầu tắm được Gimpei miêu tả thoáng qua “ngực cô nhô cao”[55,14] “phần ngực
18 Theo Đào Thị Thu Hằng (2007), Chuyên luận: Văn hóa Nhật bản và Yasuari Kawabata, NXB Giáo dục.
phía trên bầu vú vẫn chưa phát triển hoàn toàn”[55,15], đối với bộ ngực của
60
Hisako cũng vậy, chỉ được nói đến trong vài chi tiết nhỏ với “dải băng ngực lờ mờ
trắng [55,40] và “bầu ngực thì mở toang”[55,41].
Bộ ngực - biểu tượng cho người mẹ đã được các nhà văn chú ý miêu tả rất
chi tiết. Dù nó để lại dấu ấn hết sức chân thực về hình dáng, màu sắc các bộ phận
hay là mùi thơm, vị nồng ấm từ dòng sữa ngọt ngào thì chung quy lại, nó vẫn
“mang bóng dáng của người mẹ”, của những kí ức đầu tiên trong tâm thức con
người.
Từ cảm nhận của những nhân vật nam mang phức cảm Genji thì bầu ngực là
một con đường thần tiên mang họ đến gần hơn với cảm giác mẫu tử. Ông lão Arita
trong tiểu thuyết Hồ có những trải nghiệm tuyệt vời cùng bộ ngực trong khi chủ
nhân của nó không ngủ say mà lại vô cùng tỉnh táo. “Mỗi khi được gối tay hai cô
gái trẻ, hoặc được các cô ôm cổ, hay cho ngậm ti, ông già suýt soát bảy mươi tuổi
luôn có cảm giác đó như mẹ mình. Điều giúp người ta quên đi những sự sợ hãi ở
trên đời, ngay cả đối với một ông già, chỉ có thể là người mẹ”[55,54]. Và “giờ đây
đối với ông già Arita , niềm khoái lạc phù hợp nhất với tuổi tác không gì hơn là
được nàng xoa chân và lưng, hoặc vùi mặt vào ngực nàng”[55,66]- Miyako. Hay
những lời như một sự thú nhận ẩn ức sâu kín: “… ấy thứ mà ông già Arita khát
khao ở cả Miyako lẫn Umeko chính là hơi hướm người mẹ” [55,55]. Từ đó, có thể
thấy rằng sự ‘truy tìm” và “khát khao” hình bóng người mẹ của lão già gần bảy
mươi ấy thật mãnh liệt. Đó là sự tìm lại hình bóng người mẹ trong những cử chỉ và
hành động ân cần của người tình mà thưở xưa ông cảm nhận được khi được sống
trong tình mẫu tử. Cái ôm cổ, cái “ngậm ti” hay “cái áp mặt vào ngực, lấy hai tay
ấp bầu vú ấm áp vào thái dương rồi bảo: - Của ta”[55,67]. Thật giống như một đứa
trẻ, lúc được mẹ âu yếm, vuốt ve. Dòng sữa từ bầu vú mẹ nóng ấm đã để lại trong
lòng ông một cảm giác không thể quên được và dường như nó không thể nào có ở
bất kì ai nữa ngoài những cô gái trẻ trung của ông.
Như đã nói, Eguchi trong Người đẹp ngủ mê của Kawabata cũng tìm lại
“một thoáng cảm giác lạ lùng nảy sinh từ sự đụng chạm như thể bộ ngực này là của
mẹ ông trước khi bà mang ông trong bụng” [54, 43]. Và nay ông đã là một ông lão
đứng bên kia dốc của cuộc đời, ông muốn tìm cho mình những cảm giác của tuổi
61
thanh xuân, của một thời thơ ấu được yêu thương, yên bình trong sự gần gũi người
mẹ đã quá cố. Bộ ngực như là chiếc chìa khóa mở cánh cửa của hồi ức để ông tìm
đến nó, bước vào cánh cửa ấy và sống lại những hoài niệm về mẹ. Trong tâm thức
của ông bộ ngực là một tạo vật hoàn hảo của tạo hóa: “Một ý lạ đến với ông: tại sao
bộ ngực của giống cái loài người, duy nhất trong các loài vật khác sau một cuộc
tiến hóa lâu dài, lại mang hình dạng đẹp đẽ? Cái đẹp tuyệt vời mà bộ ngực phụ nữ
đã đạt tới phải chăng là một vinh quang của nhân loại?”[54,30].
Còn trong tiểu thuyết Ngàn cánh hạc (Kawabata), chi tiết về người mẹ của
Kikuji không được miêu tả quá chi tiết nhưng chi tiết về bộ ngực cũng được điểm
xuyết qua những cảm nhận hết sức nhẹ nhàng.“Nơi hang sâu từ cổ đến ngực nàng
là một vùng bóng tối hơi vàng. Dù đó là do sự phản chiếu của ánh sáng hay đó là
dấu hiệu của sự phiền muộn, nhưng chàng cảm thấy thoải mái.”[53,80]. Đó là
những cảm nhận của anh với không gian kéo dài từ cổ đến ngực của Fumiko - một
cảm nhận tinh tế, không quá dồn dập mà hết sức dịu dàng.
Bộ ngực chính một ám ảnh khó phai về người mẹ đối với tất cả người nam.
Trong những tác phẩm của Kawabata và Tanizaki mà chúng tôi khảo sát, dù gián
tiếp hay trực tiếp thì chi tiết về bộ ngực cũng được đề cập đến như một thực thể nối
kết hình ảnh người tình – hình bóng của người mẹ ở hiện tại với người mẹ trong
quá khứ. Vì vậy chi tiết bộ ngực là một biểu hiện quan trọng trong việc tìm hiểu
phức cảm Genji - khát vọng lưỡng tính đi tìm người mẹ - người tình trong các tác
phẩm văn học Nhật Bản hiện đại.
2.2.1.2. Sự gợi nhắc tình mẫu tử qua những chi tiết khác
Hình ảnh người mẹ hiện lên đặc trưng nhất qua hình ảnh bộ ngực. Tuy nhiên,
đối với kí ức của mỗi người thì người mẹ của họ luôn được hiện lên với những đặc
điểm khác nhau.
Chi tiết về đôi bàn tay người mẹ thể hiện rất rõ nét thông qua tiểu thuyết
Người đẹp ngủ mê qua sự cảm nhận của ông già Eguchi. Trong tiểu thuyết ông lão
đặc biệt chú ý đến đôi bàn tay là bởi lẽ khi “bà mẹ Eguchi lìa đời vào một đêm mùa
đông”[54,124] thì “ông và cha, mỗi người cầm một bàn tay bà”[54,124] và lúc này
“đôi tay chỉ cò xương và da nhưng bà nắm chặt tay Eguchi, thấy đau điếng cả mấy
62
ngón tay”[54,124]. Chính vậy nên trong những lần đến với lữ điếm thì ông lại rất
chú ý đến những bàn tay và ngón tay của các cô gái. “Bàn tay mặt và cổ tay nằm lọt
ra ngoài tấm chăn mỏng. Cánh tay trái có vẻ trải xéo dưới tấm chăn. Ngón tay mặt
bị che gần nửa má. Các ngón tay bên cạnh mặt nàng hơi cong lại trong giấc ngủ êm
dịu, không quá cong để làm biến mất những chỗ mềm mại và thanh tú, nơi các ngón
tay nối với bàn tay. Màu hồng ấm áp từ mu bàn tay trông càng hồng hơn khi tới các
móng tay. Một bàn tay trắng và mịn màng.”[54,19]. Cô gái thứ nhất với những
miêu tả thật chi tiết về bàn tay. Dẫu biết cô đã ngủ thật say nhưng ông “vẫn nắm
bàn tay cô gái”[54,19] và khi ông vô tình làm cho bàn tay của cô gái rơi ra ngoài
lúc kéo chiếc gối lại phía ông thì “ông chống cùi chỏ lên gối và nằm ngắm
nó”[54,20]. Bàn tay của một cô gái đang ngủ mê, tất nhiên nó là một bàn tay còn sự
sống, thế nhưng trong ông lại có một sự bâng khuâng: “nó còn sống mà, có phải
bàn tay của một xác chết đâu”[54,20]. Ở đây ông nhắc đến cái chết trong sự miêu tả
bàn tay. Có thể thấy trong tâm tưởng của ông tồn tại kí ức đau buồn khi sắp mất
người mẹ của mình vào những giây phút cuối đời - bàn tay ấy vẫn nắm chặt ông rồi
buông lơi theo hơi thở dần lịm đi của người mẹ. Và biểu hiện về cái chết và đôi bàn
tay còn thể hiện thật rõ ràng qua những sự miêu tả về sau ở các cô gái. “Eguchi
dùng ngó trỏ và ngón giữa nắm lấy cổ tay nàng, kéo cánh tay dài ra dọc theo người,
cùng lúc ông cảm thấy mạch nàng đâp nhẹ và đều”[54,32]. Sự cảm nhận về bàn tay
qua cổ tay với mạch đập nhẹ có lẽ làm ông liên tưởng đến những nhịp đập của mạch
ở tay mẹ ông trong những giây phút cuối đời. Những mạch đập ấy ám ảnh ông. Còn
đối với một cô gái khác trong ngôi nhà, “ông cầm tay nàng, các ngón tay mềm và
hơi lạnh. Ông nắm chặt như thể muốn bóp nát chúng ra” và khi cô gái “đưa cánh
tay trái lên cao rồi hạ xuống trên vai Eguchi như thể ôm lấy ông. Nhưng cánh tay
quá nhũn nên khoong quàng được quanh cổ ông”[54,53]. Một bàn tay “hơi lạnh”
và “cánh tay quá nhũn” ở cô gái phải chăng cũng chính là trạng thái một bàn tay của
người sắp phải rời xa trần thế đến với cõi hư vô. Lúc nắm lấy bàn tay mẹ mình, chắc
rằng ông cũng đã cảm nhận được chính cái hơi lạnh ấy, cảm nhận được một cánh
tay không còn sức sống, và cứ mềm nhũn ra như của cô gái. Không chỉ vậy, khi cô
gái nắm chặt bàn tay ông, nắm chặt thật chặt như chính lúc mẹ ông nắm bàn tay ông
đến đau điếng.
63
Bàn tay, đối với ông già Arita đó là sự níu giữ lại những cảm xúc âu yếm,
yêu thương của người mẹ mà ông đã mất đi từ lâu. Bàn tay ấy chính là một vật cứu
rỗi những cảm xúc của tuổi xế chiều đối với một ông lão mong muốn truy tìm lại
“hơi hướm người mẹ” trong kí ức. Còn với Eguchi, đó lại là những hồi tưởng đau
buồn về người mẹ của ông trong những giây phút cuối đời. Ông đã chứng kiến tận
mắt cái chết của mẹ mình và tiếp xúc với đôi bàn tay người phụ nữ đầu tiên trong
cuộc đời, trong những giây phút ngắn ngủi ấy. Đôi bàn tay xương xẩu, lạnh buốt và
buông lỏng yếu ớt,.. tất cả đều được cảm nhận và miêu tả qua từng cô gái trong tửu
điếm đó.
Và đến cuối tác phẩm khi người phụ nữ “đứng đường” xuất hiện, anh cứ
luôn nghĩ về cô ta với cái vẻ xấu xí và nghĩ rằng ắt hẳn đôi bàn chân cô ta cũng xấu
xí như thế. Anh nghĩ đến điều đó như một sự an ủi. Nếu như cô ta cũng như anh, có
đôi bàn chân như thế hoặc cô ta xấu xí thì việc chân anh như thế nào cô ta cũng
chẳng nghĩ đến làm gì. Từ đó anh như tìm được một sự yên tâm đến lạ như ngày
anh còn ở với người mẹ của mình. Không chỉ vậy, như là một sự sắp đặt của tác giả
khi người đàn bà ấy lại có hoàn cảnh gần giống như của mẹ con anh khi “Cô ta kể
rằng hai mẹ con đang thuê một căn phòng ở trong ngách. Đứa con gái mười ba tuổi
học cấp hai. Người chồng đã chết trận”[55,176].
Cũng giống như Gimpei, Kikuji trong Ngàn cánh hạc từ khi cảm thấy vẻ đẹp
của người mẹ (kế) của mình với “chiếc cổ trắng khá dài vẫn như thế và đôi vai đầy
đặn cân đối với chiếc cổ thanh tú – kể ra đó cũng là một dáng vóc khá trẻ so với số
tuổi của người đàn bà. Miệng và mũi rất nhỏ phù hợp với cặp mắt. Nếu để ý hơn
một chút, người ta sẽ nhận thấy chiếc mũi nhỏ của bà ta rất đều và gọn. Khi bà ta
nói, môi dưới trề ra một chút như người đang bĩu môi”[53,13]. Vì vậy mà Kikuji rất
hay để ý đến những chi tiết này ở con gái bà cũng chính là người tình của cậu-
Fumiko. Vì thế anh cảm nhận cô “được thừa hưởng chiếc cổ dài và đôi vai đầy đặn
của bà mẹ. Miệng nàng rộng hơn, tuy nhiên, môi nàng luôn mím chặt lại”[53,14].
Hay khi thấy nàng trong bộ âu phục thì “cổ nàng đẹp hẳn lên với một xâu chuỗi
quanh cổ”[53,28]. Và khi “Fumiko ngước lên nhìn chàng, để lộ đường cong toàn
diện của chiếc cổ trắng ngần”[53,80]. Đó còn là “chiếc miệng với môi dưới trề ra
64
mím chặt lại”[53,81]. Những vẻ đẹp ấy của Fumiko đã dường như làm cho Kikuji
nhớ lại một cách trọn vẹn người mẹ (kế) quá cố của mình. Từ đó chàng dường như
tìm lại được những xúc cảm thật vẹn nguyên trong bóng dáng của cô gái về người
mẹ của mình. Và khi chú ý kĩ, Kawabata trong tiểu thuyết Ngàn cánh hạc đã dường
như xây dựng một sợi dây liên kết khi mà ở những “bà mẹ” của Kikuji đều mang
những nỗi sầu cảm vương trên “đôi mắt”.
Trong những hồi ức của Kikuji đã từng có đôi mắt của người mẹ “ruột” với
sự tuổi thân cho cuộc đời bà khi cha chàng luôn có những người đàn bà bên ngoài.
Vì vậy mà “trong đôi mắt của mẹ có vẻ thương cảm lắm”[53,5]. Và với bà Ota-
người tình của cha chàng thì dường như được miêu tả khá nhiều: “một giọt nước
mắt rơi xuống thành ấm”[53,47] khi đang pha trà được lặp lại hai lần và “một giọt
nước mắt lăn xuống gò má bà Ota rồi nhỏ lên mặt gối”[53,23], “khuôn mặt bà đầm
đìa nước mắt”, “những giọt nước mắt đang tuôn trào trên hai gò má của
bà”[53,43]… và thật trùng hợp thay ở cô gái Fumiko chàng Kikuji cũng lại thấy
được hình ảnh đó: “Fumiko khóc khi nàng pha trà. Đôi mắt nàng hơi đỏ”[53,61],
“những giọt nước mắt long lanh trong đôi mắt mở lớn và đen…”[53,28] Những giọt
nước mắt chính là minh chứng cho những nỗi đau khổ u uất tột cùng của cảm xúc.
Ở mẹ (ruột) chàng, bà Ota, hay là người tình Fumiko thì đôi mắt luôn có những sắc
thái sinh động. Những giọt nước mắt của Fumiko làm cho Kikuji ám ảnh và tìm lại
được chính những người mẹ của mình.
Đối với Gimpei hình ảnh người mẹ không được thể hiện một cách rõ ràng
nhưng qua lời của nhân vật người chị họ bên ngoại Yayoi thì “Mẹ Gin-chan đẹp
thât đấy”[55,95]. Và có lẽ ở bà đẹp nhất là hàm răng khi được Yayoi “…rất thích
nhìn răng cô khoe ra mỗi khi nói chuyện” [55,95]. Vì thế, ta thấy rằng đôi khi với
Gimpei thì những cô gái đẹp lại mang đến cho anh những xúc cảm mà anh muốn
chiếm lấy. Như cô gái Thổ Nhĩ Kì - hầu nhà tắm có giọng nói ngọt ngào khó tả… nó
chứa đựng nỗi sầu ai, chứa đựng tình yêu nên ngân vang và trong trẻo”[55,8] và vì
thế mà Gimpei “cảm thấy trong giọng nói của cô gái ấy một niềm hạnh phúc thuần
khiết và sự cứu rỗi ấm áp. Đó là giọng nói của một người con gái vĩnh cửu hay
65
giọng nói của bà mẹ từ bi?”[55,8]. Giọng nói ấy đã làm sống dậy trong Gimpei
những hồi ức thật đẹp đẽ về người mẹ của mình với những cung bật thật đẹp đẽ.
Tadasu trong Cầu Mộng (Tanizaki) thì chú ý đến những đặc điểm nổi bật
như: “khuôn mặt đầy đặn, mềm dịu, thân thể mảnh mai, lời nói chậm rãi, đặc biệt
là vẻ từ tốn dịu dàng và sự thiếu vồn vã khi gặp tôi, cùng vẻ duyên dáng, quyến rũ
lạ thường - tất cả những thứ ấy bà giống mẹ tôi lắm và tôi thấy có thiện cảm với
bà”[42,141]. Không chỉ vậy, đôi bàn chân cũng là một chiếc bóng xưa cũ mà cậu
luôn dõi theo để nhớ về mẹ. “Khi tôi nhìn bàn chân bà qua làn nước tôi không khỏi
nhớ tới chân mẹ ruột. Tôi cảm thấy những bàn chân ấy là một; hay nói cho đúng
hơn. Khi tôi thoáng thấy bàn chân của người mẹ mới, tôi nhớ lại chân mẹ ruột có
hình thể duyên dáng tương tự, dù kí ức ấy đã phai nhạt lâu rồi”[42,144]. Đơn giản,
đó chỉ là một thói quen mà hai bà mẹ vô tình giống nhau: “Mẹ kế tôi cũng gọi cây
mọc dưới nước mà chúng tôi thường nấu canh là nenunawa…”[42,144]. Những
điều thân thuộc từ thuở bé cùng mẹ của Tadasu nay lại được hiện diện một cách
hoàn hảo qua người mẹ kế. Một bản sao hoàn hảo được Tanizaki xây dựng. Một bờ
nến yêu thương mới từ những điều đã cũ.
Một nụ cười duyên dáng và tỏa nắng thôi cũng đủ làm gợi lại bao kí ức tốt
đẹp về tình mẫu tử ở một chốn đã xa. Đó là nụ cười của Miss Saeki- “nụ cười ấy
tạo cảm giác hoàn hảo, nó khiến tôi nghĩ đến một đóm nắng tươi, một đốm nắng đặt
biệt chỉ có thể bắt gặp ở một nơi biệt lập”[11,47]. Một nụ cười đã làm cho cậu bé
Kafka (Kafka bên bờ biển- Murakami) trào dâng bao cảm xúc, và ước ao về một
người mẹ hiền đã nhạt nhòa trong kí ức.
Các nhà văn hiện đại Nhật đã rất chú ý đến việc thể hiện từng đường nét, cử
chỉ, lời nói trên cơ thể người phụ nữ. Tất cả chúng đều rất có hồn. Cái hồn của
người mẹ đã xa cách đối với những nhân vật nam luôn là những kí ức vừa ấm áp,
vừ đau đáu. Tất cả trở thành là một con dường mà cuối con đường đó chính là
người mẹ đang đứng chờ con mình trở về trong che chở, yêu thương.
2.2.2. Sự hóa thân của tình mẫu tử thiêng liêng
Tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ dành cho không thể dùng ngôn từ
nào diễn tả được. Người mẹ chịu đau đớn để có thể sinh con. Không chỉ vậy, để đứa
66
con lớn lên, họ cũng phải nuôi nấng, dạy dỗ, bảo bọc và yêu thương con mình hết
mực, mang đến cho con những gì tốt đẹp nhất. Thậm chí, mẹ có thể hi sinh cả sinh
mạng của mình vì sự sinh tồn và hạnh phúc của con. Chính vì vậy, tình yêu thương
của người mẹ luôn là một dấu ấn đọng mãi trong kí ức mỗi đứa trẻ dẫu đến lúc
trưởng thành.
Vậy, tình yêu thương của người mẹ có liên quan gì đến phạm trù phức cảm
Genji? Phức cảm Genji là một sự biểu hiện tâm lý con người với đặc trưng là sự tìm
kiếm “mẹ” trong những mối quan hệ kiểu như tình yêu hay tình nhân của những
nhân vật là nam. Người tình không chỉ là những người phụ nữ mang lại cho nam
giới những tình cảm đơn thuần là thương nhớ, hay giận hờn, thỏa mãn nhu ân ái mà
ở bên họ những người đàn ông tìm được sự chăm sóc, ân cần, sự vui vẻ, hạnh phúc
và cảm giác bình an. Bởi lẽ, mẹ - người đàn bà đầu tiên trong cuộc đời mỗi con
người, đã mang lại cho họ những tình cảm và những cảm giác thiêng liêng và khởi
thủy. Thế nên, họ luôn tìm kiếm tình cảm ấy ở bất cứ người phụ nữ nào mà họ lựa
chọn bên họ dù là cả cuộc đời hay một khoảng thời gian ngắn. Trong vô thức hay ý
thức của người đàn ông, bất cứ người phụ nữ nào mang những nét dịu dàng, nữ tính,
tình cảm yêu thương, chở che của người mẹ, cũng sẽ là một người tình hoàn hảo,
khiến họ khát khao.
Trong Cầu Mộng (Tanizaki) tình yêu mà người tình – người mẹ kế dành cho
Tadasu như một bản sao nguyên mẫu của người mẹ ruột. Cậu dường như không thể
phân biệt rõ đâu là mẹ ruột và đâu là mẹ kế trong tâm thức. Tình cảm của người mẹ
kế dành cho Tadasu quả thật rất chân thành, ấm áp. Bà cho Tadasu bú mút cặp vú
của mình, bà hát ru những bài hát mà mẹ cậu thường hát cho cậu nghe. Thậm chí,
bà chấp nhận chịu đựng sự dằn vặt khi phải cho đi đứa con do mình rứt ruột đẻ ra để
có thể toàn tâm, toàn ý yêu thương và chăm sóc cậu. Trong tác phẩm, tình yêu của
người phụ nữ được gọi là mẹ kế dành cho đứa con của chồng mang một sự mãnh
liệt đến lạ lùng. Bởi lẽ, đó không còn là một tình thương mẹ - con thông thường. Mà
ở đó, còn có sự cộng hưởng của tình yêu và khát khao được yêu, khát khao thỏa
mãn.
67
Nhân vật Gimpei và lão già Arita trong tiểu thuyết Hồ (Kawabata) mang đến
cho người đọc những cảm nhận rất thực những xao động trong tâm hồn họ về tình
yêu thương của người mẹ trong những người tình “bé nhỏ” của mình. Gimpei, một
người đàn ông trưởng thành cảm thấy mình như một đứa trẻ thơ đang được quan
tâm chăm sóc khi ở bên cạnh cô hầu nhà tắm theo kiểu Thổ Nhĩ Kì. Anh ta cảm
nhận ở cô trước hết là ở giọng nói, “giọng nói ngọt ngào khó tả… Nó chứa đựng nỗi
sầu ai, chứa đựng tình yêu, nên ngân vang trong trẻo”[55,8]. Chỉ là một giọng nói,
một âm thanh tưởng chừng như vô vị nhưng đối với anh chàng Gimpei lại trở thành
một “niềm hạnh phúc và cứu rỗi ấm áp” [55,8]. Lúc này trong lòng anh ta như đặt
ra một câu hỏi mà chính anh cũng như bỏ lửng trong tâm trí: “Đó là giọng nói của
một người con gái vĩnh cữu hay giọng nói của bà mẹ từ bi?”[55,8]. Cô gái hầu tắm
này còn mang đến cho Gimpei những sự trân trọng, nâng niu nhiệt thành: “Cô hầu
tắm mở tấm ván phía trước cổ họng Gimpei, cầm hai đầu chiếc khăn mặt đang
quàng qua gáy hắn rồi đỡ cổ hắn ra giống như một vật gì đó quý giá. Sau đó cô lau
mồ hôi trên khắp người hắn”[55,13]. Gimpei được nói đến trong tác phẩm có một
nổi ám ảnh đối với đôi bàn chân “xấu xí” của mình. Dường như lúc nào anh ta cũng
cố che giấu nó và giữ nó cho riêng mình. Ấy vậy mà cô gái trong phòng tắm này lại
hết sức ân cần mát –xa bàn chân cho anh, và thậm chí là cắt móng chân cho anh một
cách vô cùng nhẹ nhàng, cẩn thận. “Sự buông xuôi và phó mặc chân mình cho cô
gái, thì chính cái sự xấu xí của đôi bàn chân dường như đang khơi dậy trong hắn
những giọt nước mắt nóng hổi của niềm hạnh phúc” [55,38] Đó phải chăng là niềm
hạnh phúc tìm lại được của Gimpei khi đôi bàn chân mà anh hằng mặc cảm lại được
một cô gái xinh đẹp nâng niu và chăm sóc như chính sự chăm sóc của mẹ anh ngày
trước. Bà chắc hẳn là người đã thấy đôi bàn chân xấu xí ấy kể từ khi nó mới bé xíu
và chăm lo cho nó tận tình trong tâm thức của anh. Cô hầu tắm trong câu chuyện
quả thật là một người tình lí tưởng, cô chăm sóc cho Gempei- dù anh cũng chỉ là
một vị khách qua đường, đến tận những giây phút cuối của cuộc mát-xa: “Cô hầu
tắm để Gimpei ngồi trên ghế xỏ tất, cài cút áo sơ mi trắng, đi giày rồi buộc lại dây
cho hắn”[55,43]. Đó không phải là hành động của việc “coi khách hàng là thượng
đế” mà nó xuất phát từ trái tim nhỏ bé, nhân hậu nơi cô. Bỡi lẽ, khi chú tâm vào câu
chuyện ta sẽ thấy cô quan tâm anh từ những lời thăm hỏi, tâm sự nhỏ nhẹ đến
68
những hành động dịu dàng và ân cần chu đáo. Tất cả những điều đó gợi về tình yêu
thương của người mẹ của Gimpei.
Và đến cuối tác phẩm, khi người phụ nữ “đứng đường” xuất hiện, anh cứ
luôn nghĩ về cô ta với cái vẻ xấu xí và ắt hẳn đôi bàn chân cô ta cũng xấu xí như thế.
Anh nghĩ đến điều đó như một sự an ủi, như bắt gặp được một điều gì ấm áp có thể
vỗ về tâm hồn cô đơn. Lí lẽ của Gempei là: nếu như cô ta cũng như anh, có đôi bàn
chân như thế hoặc cô ta xấu xí thì cái việc chân anh như thế nào cô ta cũng chẳng
nghĩ đến làm gì. Từ đó anh như tìm được một sự yên tâm kì lạ như ngày anh còn ở
với mẹ của mình. Không chỉ vậy, như là một sự sắp đặt của tác giả khi người đàn bà
ấy lại có hoàn cảnh gần giống như của mẹ con anh khi “Cô ta kể rằng hai mẹ con
đang thuê một căn phòng ở trong ngách. Đứa con gái mười ba tuổi học cấp hai.
Người chồng đã chết trận”[55,76].
Ông già Arita trong tiểu thuyết Hồ (Kawabata) được giới thiệu có độ tuổi
gần 70, giàu có. “Mẹ đẻ của Arita bỏ đi khi ông mới hai tuổi, thế rồi ông có mẹ
kế”[55,56]. Và bản thân ông có một nỗi ám ảnh về cái chết (do tự tử) của người vợ
ghen tuông của ông, vì thế “sự đáng sợ của những trận ghen tuông kiểu đàn bà như
thế đã ngấm vào xương tủy ông, và ông sẽ lập tức cao chạy xa bay nếu có người
đàn bà nào có chút dấu hiệu của ghen tuông”[55,73-74]. Từ nguyên nhân ấy mà
những mối quan hệ sau này của ông đều là các cô gái trẻ tuổi. “Mỗi khi được gối
tay hai cô gái trẻ, hoặc được các cô ôm cổ, hay cho ngậm ti, ông già suýt soát bảy
mươi tuổi luôn có cảm giác đó như mẹ mình. Điều giúp người ta quên đi những sự
sợ hãi ở trên đời, ngay cả đối với một ông già, chỉ có thể là người mẹ”[55,54-55].
Quá trình đi tìm lại hình ảnh thiêng liêng của mẹ của lão già gần bảy mươi ấy thật
mãnh liệt. Ông khao khát đến nổi phải thốt lên: “Giá mà được Miyako hay Umeko
làm mẹ kế thì ta đã hạnh phúc biết bao”[55,56]. Nếu không hiểu được những nỗi
niềm ông lão đã mang theo, có lẽ nhiều người sẽ cho rằng đó là sự bệnh hoạn, biến
thái. Arita luôn sống trong cảm giác do ông tự tạo ra đối với những cô gái mà ông
cho rằng mang “hơi hướm” người mẹ của mình. Nhưng có lẽ như vậy sẽ làm ông
như trở nên yên tâm và vui vẻ hơn. Tình cảm mà ông có đối với các cô gái là rất
thật. Các cô cho ông tuổi trẻ và hơi ấm của tình mẹ, thì với các cô ông cũng cho họ
69
một cuộc sống sung túc, một tình cảm đặc biệt – như với mẹ của ông. Ông yêu cái
đẹp và những sự quan tâm ân cần, bởi có lẽ đó là tất cả những gì ông muốn, và ông
cảm nhận được về chính người mẹ đã ra đi của mình. Ông chính là một con người
miệt mài đi tìm bóng hình một người mẹ trong mọi người tình, để có thể sống lại
thời thơ ấu một cách đầy đủ hơn vì tuổi thơ đã sớm mất đi người mẹ. Đồng thời,
qua hình ảnh “người tình – mẫu thân” ấy ông ta có thể thõa mãn ái dục của con
người đã trưởng thành và khát khao tình mẹ dẫu đã ở tuổi xế chiều. Một khát vọng
mang đậm phức cảm Genji.
Kawabata trong Ngàn cánh hạc cũng đã rất tài tình khi xây dựng mối quan
hệ giữa Kikuji và bà Ota. Một mối tình chênh lệch tuổi tác giữa một cậu trai với
“nhân tình cũ của cha mình”. Chàng yêu bà say đắm, ân ái với bà như với một thiếu
nữ trẻ tuổi chưa có chút gì nhuốm màu tuổi tác. Những khoảng thời gian bên bà Ota
cho Kikuji cảm giác bao trùm bởi sự yêu thương nồng cháy và mãnh liệt. Khi“gần
gũi da thịt đàn bà ấm áp và chàng không ngần ngại buông thả mình trong cảm giác
đó”[53,21], “nó đã mê hoặc chàng vào trong một vùng đầy yêu thương nồng nàn”
[53,21], thâm chí khi ngủ bên cạnh thì “chàng thiếp đi trong cảm giác êm
đềm”[53,25] đầy say đắm và an nhiên. Bà Ota, với kinh nghiệm từng trải, với sự
yêu thương đầy nồng nhiệt, đã cho người thanh niên cảm giác của “một mối cảm
tình đầy che chở vây tỏa” [53,24] “chàng cảm thấy an bình” [53,26] và “cảm giác
về một thứ tình mẫu tử nơi nguời đàn bà”[53,21].
Kafka bên bờ biển của Murakami lại triển khái phức cảm Genji trong một
cách nhìn nhận rất mới mẻ, khoa học và hiện đại. Cậu thanh niên 15 tuổi Kafka cảm
nhận được tình thương của một người mẹ thông qua những sự phán đoán của bản
thân cậu. Trước hết, lần đầu tiên gặp Miss Saeki, với những gì mà cậu nhìn thấy thì
bà “là một phụ nữ mảnh dẻ, khoảng 45-46 tuổi… Bà hơi cao so với thế hệ mình. Bà
mặc áo dài xanh lơ ngắn tay, ngoài khoác áo jacket đen màu kem, tư thế rất đàn
hoàng. Tóc dài buột lỏng sau gáy, mặt rất tao nhã và thông minh với đôi mắt đẹp và
nụ cười luôn thấp thoáng trên môi….Tôi không biết diễn tả như thế nào, nhưng quả
là nụ cười ấy tạo nên một cảm giác hoàn hảo, nó khiến tôi nghĩ đến một đóm nắng
tươi, một đóm nắng đặt biệt chỉ bắt gặp ở một nơi biệt lập. Ngôi nhà ở Tokyo có
70
một nơi như thế và từ nhỏ, tôi đã thích nhắm những đốm nắng như thế”[11,47]. Nụ
cười của Miss Seaki làm cho Kafka nhớ đến căn nhà - nơi mà cậu đã sống từ lúc
nhỏ. Nụ cười ấy như một luồng nắng ấm áp, gợi lại trong tâm trí cậu sự yêu thương
vỗ về khi còn có mẹ - kí ức vĩnh viễn không phai mờ. Nó thôi thúc và làm cho cậu
“cảm thấy nao nao nhớ. Giá bà là mẹ tôi thì tuyệt biết mấy!”[11,47]. Và trong
những giây phút sắp phải chia lìa nhau, Miss Seaki đã “ghì chặt tôi, những ngón tay
bấm mạnh vào lưng tôi”[11,502] làm cho Kafka cảm nhận được hơi ấm và một nỗi
đau đớn như sắp lìa xa mẹ của mình. Những cảm giác ấy bám riết lấy cậu, làm cậu
cứ băn khoăn rằng: Liệu Miss Seaki có phải là mẹ mình hay không?
Cũng như Kafka, ông lão 67 tuổi Eguchi trong Người đẹp ngủ mê (Kawabata)
cũng nhận được một tình yêu thương “gián tiếp” thông qua những cảm nhận sâu
thẳm từ trong đấy lòng mình. Những “người đẹp ngủ mê” và nhân tình trong quá
khứ của ông đều cho ông những cảm giác của tình thân khó tả, đều cho ông những
gợi nhớ về bà mẹ qua hơi ấm của cơ thể, qua những đường nét hết sức mềm mại và
tinh khôi và hơn hết đó là một sự nuông chiều vô cùng tận. các cô nằm im đó, ông
thỏa sức ngắm nhìn, sờ soạng và cảm nhận. Một sự hiến dâng như những vị “bồ tát”
cứu rỗi linh hồn cằn cỗi và một đứa con đã lâu thiếu vắng hơi hướm của người mẹ.
Tanizaki, Kawabata và Murakami đã rất tinh tế khi khai thác thật tài tình
những góc khuất trong tâm tuởng của nhân vật. Ở mỗi câu chuyện là một mảnh
ghép vô cùng quan trọng để tìm ra những kí ức về tình thương người mẹ đã in sâu
vào trong vô thức của mỗi nguời , đặc biệt là nam giới. Trong mỗi người đàn ông
dường như luôn tìm được đâu đó một vùng trời đầy ánh nắng ấm áp, suối nguồn dạt
dào của tình yêu thương của người mẹ qua nguời tình. Lúc này, tình mẫu tử thiêng
liêng đã hóa vào tình yêu thương nồng cháy đầy khát khao và đam mê của những
nguời đàn ông cùng người tình của họ. Phức cảm Genji mang đến cho những người
đàn ông những cảm nhận tinh tế hơn bao giờ hết về nguời phụ nữ của họ. Ở đó, họ
phát hiện ra những tình cảm dạt dào, những cử chỉ thân quen và biết trân quý nó
như thể trân quý chính người mẹ của mình.
71
2.3. Giấc mơ – phương tiện nghệ thuật biểu hiện phức cảm Genji
Trong những nghiên cứu của mình về Phân tâm học, Freud rất đề cao vai trò
của vô thức và xem giấc mơ như là một đối tượng nghiên cứu. Có thể nói một cách
đơn giản nhất “Giấc mơ là sự thực hiện (ảo) của một ước muốn”[16,41]. Ước muốn
được nói đến ở đây là những mong ước bị kìm nén, có thể chưa hoặc không thực
hiện được. [16,91]. “Những ước muốn bị kìm nén, từ những ước muốn vừa có đến
những ước muốn của tuổi thơ mà vô thức không bao giờ quên, là nguồn gốc của
những giấc mơ”[16, 45] Và khi chúng ta tiến hành giải thích chúng thì “đó chính là
con đường vương giả để đạt tới hiểu biết lòng người”[8,164].
Trong Từ điển biểu tượng thế giới thì giấc mơ được gọi là “chiêm mộng”.
Trong đó, Fréđéric Gaussen đã nói: Chiêm mộng “là biểu tượng của cuộc phiêu lưu
cá thể, được cất sâu trong tâm khảm đến nổi nó vượt ra khỏi vòng cương tỏa của
nguời sáng tạo ra nó; chiêm mộng hiện ra với chúng ta như là một biểu hiện bí mật
nhất và trơ trẽn nhất của chính chúng ta”[8,164].
Phân tâm học đã đi vào so sánh và chỉ ra giấc mơ tồn tại ở những dạng như:
giấc mơ khi ngủ, giấc mơ trong khi thức và giấc mơ trong giấc ngủ nhân tạo (được
tạo ra bằng sự thôi miên). Qua sự khảo sát, chúng tôi thấy rằng trong hầu hết các tác
phẩm của các tác giả đều sử dụng biểu tượng giấc mơ như là một thủ pháp truyền
tải phức cảm Genji. Và sử dụng chủ yếu hai loại giấc mơ: Giấc mơ tự nhiên và giấc
mơ trong khi thức – giấc mơ tỉnh thức.
Giấc mơ trong các tác phẩm không chỉ đơn thuần là một phương tiện thể
hiện nội dung hay ý nghĩa mà nó được sửa dụng như là một motif biểu tượng đặc
trưng. Giấc mơ – một biểu tượng tinh thần mà những nhà văn đã kì công xây dựng.
Trước hết, theo những lí thuyết mà Freud đưa ra thì quá trình sáng tạo ra những tác
phẩm văn học cũng là một giấc mơ của các nhà văn. Đó là một giấc mơ tỉnh. Nội
dung của tác phẩm ngoài những chi tiết, hình ảnh hiện diện trên bề mặt thì đa số đều
mang một nghĩa tiềm ẩn mang tầng nghĩa ẩn dụ. Chính cái tầng nghĩ sâu kín đó là
một dạng biểu hiện ẩn ức kiềm nén của chính người sáng tạo. Đó có thể là mong
muốn thoát khỏi chế độ xã hội kềm kẹp. sự giải phóng cái tôi cá nhân hoặc chăng
đó là những ẩn ức tình dục được giấu kín,…. Bởi vậy, ta có thể thấy ngay tác phẩm
72
văn học cũng là một giấc mơ phức tạp mang nhiều tầng ý nghĩa của những nhà sáng
tác văn học. Không những vậy, trong các tác phẩm của mình, các tác giả còn thông
qua rất nhiều những giấc mơ khác để có thể thể hiện được điều mà họ muốn gửi
gắm và truyền tải. Những giấc mơ được chồng chéo, đan xen vào nhau nhưng tất cả
lại có chung một lối đi đó là “thể hiện tư tưởng của tác phẩm”. Tương tự như vậy,
với các tác phẩm của mình, những nhà văn kiệt xuất Nhật Bản đã sử dụng giấc mơ
như là một thủ pháp, một biểu tượng nghệ thuật và là một “mã văn học” cần được lí
giải.
Trong việc thể hiện phức cảm Genji của mình, các nhà văn Nhật đã sử dụng
giấc mơ như là một chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa để khơi dậy “tình mẫu tử”
thiêng liêng trong tâm hồn những nhân vật nam. Trong đó, những nhân vật nữ -
người tình, là một chủ thể trung gian, là chất xúc tác để khơi nguồn những tình cảm
ẩn giấu của những đứa con trai về người mẹ của mình.
2.3.1. Giấc mơ tỉnh thức
Giấc mơ trong khi thức hay còn gọi là giấc mơ tỉnh “là trí tưởng tượng của
những người khỏe mạnh bình thường hay ốm đau trong lúc thức mà bất cứ người
nào cũng phải trải qua” [16,88].Và “mơ trong khi thức tức chỉ có tưởng tượng, suy
nghĩ mà không hề thấy hình ảnh (biến cố)[16,88]. Những giấc mơ trong khi thức
này xảy ra chủ yếu ở giai đoạn ấu thơ và sau đó “hình như biến dần khi đứng tuổi
và xuất hiện lại vào tuổi già” [16,88]. Và theo quan điểm Phân tâm học thì giấc mơ
này đôi khi để lại những dấu ấn sâu sắc và kéo dài nhưng đôi khi chỉ thoáng qua và
thay thế bằng những mơ mộng khác liên tục xảy ra và biến đổi theo thời gian.
Trong sự thể hiện phức cảm Genji trong tác phẩm của mình thông qua giấc
mơ tỉnh, hầu hết các nhà văn đều xây đựng một mô hình chung. Trong mô hình này,
các nhân vật nam sẽ là “trạm phát” đầu tiên. Họ sẽ thông qua quá trình tiếp xúc với
các nhân vật nữ hay những người tình của mình và thực hiện những giấc mơ tỉnh
(hồi ức, liên tưởng, tưởng tượng) để có thể đi đến đích cuối cùng là tìm ra “hơi
hướm” người mẹ (đã rời xa).
73
NGƯỜI TÌNH
NGƯỜI MẸ
Nhân vật nam
Tiếp xúc
Giấc mơ tỉnh
Sơ đồ 2.1: Quá trình hình thành phức cảm Genji qua giấc mơ tỉnh thức
Gimpei trong tiểu thuyết Hồ (Kawabata) là một ví dụ điển hình. Gimpei
được nhà văn Kawabata xây dựng với rất nhiều dòng suy nghĩ đan xen nhau phức
tạp. Nổi bật như quá trình anh ta từ ngoài bước vào nhà tắm Thổ Nhĩ Kì rồi lại đi ra
ngoài. Đó là một vòng tròn. Xuất phát từ bên ngoài nhà tắm và kết thúc cũng ở
chính đó. Tuy nhiên, trong cái vòng tròn của không gian ấy, Gimpei đã không
ngừng thực hiện những “giấc mơ tỉnh” – hồi tưởng lại những gì đã diễn ra trong quá
khứ và tưởng tượng, liên tưởng những gì hiện xảy ra ở nhà tắm cùng cô hầu. Có thể
kể ra những dòng kí ứckhông ngừng của nhân vật trên với những thời gian và không
gian sau: Khung cửa vòm treo đèn trang trí , sân nhà tắm phòng tắm Thổ cùng
cô hầu tiệm thuốc (nơi anh bị Mizako ném túi xách vào mặt) phòng tắm
Thổ cùng cô hầu ngoài đường cùng Mizako căn nhà của Gimpei cổng
nhà cô học trò Hisako và Hisako Khu phố sầm uất, tiệm bán hoa cùng cô gái
bán hoa Hồ nước cùng mẹ và chị Yaoi tiệm bán hoa cùng cô gái bán hoa
lớp học (nơi anh từng là thầy giáo) phòng tắm Thổ cùng cô hầu lớp
học với tiết tập làm văn cùng Hisako và Onda phòng tắm Thổ cùng cô hầu
ra khỏi nhà tắm Thổ và bước vào khoảng sân đêm. Trong những hồi ức không
ngừng đó còn có những tình tiết xen vào của những ảo ảnh. Chúng nằm ở ba không
gian: trước khi bước đến nhà tắm- ảo ảnh về “đàn ngài màu xám bạc đang từ chỗ
thùng rác bay vào màn sương”, “cái ảo ảnh màu xám bạc ấy chợt tỏ ra màu xanh
dương mờ tỏ lên cây lạc diệp trên đầu hắm rồi biến mất”[55,6], trong khi tiếp xúc
với cô hầu nhà tắm - “sự đuổi theo cô gái có giọng nói tuyệt vời” và sau khi bước
ra khỏi nhà tắm -“một cái mạng nhện to. Có rất nhiều côn trùng cùng với hai ba
con vành khuyên mắt trắng đang mắc trên tơ. Đôi cánh xanh dương và vòng tròn
trắng đáng yêu quanh vành mắt trong thật rõ ràng, sác nét. Có lẽ chỉ cần đập cánh
là mạng nhện sẽ tách ra, nhưng những con vành khuyên vẫn khép đôi cánh nhỏ bé
trên những sợ tơ. Lớp vỏ ngoài của con nhện không chừng sẽ bị mỏ chim đâm toạc
74
nếu lại gần, thế nên nó cứ quay đít về phía lũ vành khuyên từ chỗ chính giữa cái
mạng”[55,43].
Ông lão Arita trong câu chuyện thì lại có một trí tưởng tượng và liên tưởng
thật phong phú và đầy khát khao. Chỉ qua những tiếp xúc bằng việc gối tay hay
ngậm ti các cô gái trẻ thì ông lão Arita lại cảm giác và nghĩ ngay đến mẹ. Ông còn
tưởng tượng mình là một đứa trẻ ngoan khi được ở trong vòng tay các cô gái.
Ông lão Eguchi cũng là một nhân vật được Kawabata xây dựng trong những
dòng hoài niệm miên man. “Hơn một trăm trang sách, tám lần hồi tưởng với các
không gian riêng biệt” [12,183]. Câu chuyện Người đẹp ngủ mê ra theo trật tự thời
gian vật lí là những đêm ở cùng các cô gái và một không gian bao chứa – lữ điếm,
còn cái không gian bị bao chứa bên trong đó chính là những căn phòng. Không gian
trong căn phòng là nơi xuất phát điểm để từ đó mỗi lần ông đặt chân đến lại đồng
hiện diện những miền không gian xa xôi ở kí ức: tu viện Yamato, hồ Shinobasu,
khách sạn tại thành phố Kobe, “cây trà hoa quắt” ở Subakidera và rừng trúc Kyoto.
Mỗi không gian như thế lại gắn liền với một kỉ niệm về một người tình của ông
trong quá khứ, về người mẹ đã mất, về đứa con gái của ông. Và ở ông cũng mang
trong mình những tưởng tượng của áo giác. Đó là ảo giác “mà ông Eguchi tin chắc
rằng mình đã ngửi thấy ngay trong lúc này một mùi trẻ con còn bú. Ông có bị ảo
giác lướt qua đầu không? Nhưng tại sao ảo giác lại đến với ông?”[54,22] trong
đêm đầu tiên ngủ cùng “người đẹp ngủ mê”. Đối với nhân vật này, ông đặc biệt ở
chỗ phần lớn tác phẩm ông được đặt cạnh những cô gái đã ngủ say, khỏa thân, và
chỉ có riêng hai người trong đêm. Bởi lẽ đó, Eguchi cũng phần lớn thể hiện độc
thoại và tưởng tượng ra mọi thứ mình cảm nhận được từ những cô gái. Ông đưa ra
những phán đoán, chiêm nghiệm bản thân và cuộc đời thông qua sự tiếp xúc bằng
hầu hết những giác quan của mình.
Kafka trong sáng tác của Murakami cũng đã phải trải qua “những giấc mơ
tỉnh” hết sức phức tạp. Ảo và thực, thực và ảo cứ xoay quanh những suy nghĩ của
Kafka. Trong cuộc hành trình chạy khỏi lời nguyền rủ tai sác của người cha và tìm
lại mẹ, chị gái của mình, Kafka đã phải trải qua những dòng sự kiện đan xen, chồng
chéo. Cậu bé Kafka không thoát li khỏi hiện thực nhưng trong cái hiện thực đó lại
75
tồn tại những không gian khác phi thực mang cậu đến với những điều kì bí lạ
thường. Chính trong không gian phi thực, cậu gặp được một cô bé Miss Saeki 15
tuổi thay vì một người đàn bà đã ở tuổi trưởng thành. Cũng chính nơi đó, cậu được
thỏa mãn bản năng tình dục của bản thân mình. Cậu được âu yếm, ôm ấp trong
vòng tay của người mà cậu luôn canh cánh câu hỏi: Liệu bà ấy có phải là mẹ mình
không? Hay ước gì bà ấy là mẹ mình?
Có thể nói, căn nhà, nơi mà cậu bỏ đi chính là nơi mà cậu bắt đầu những giấc
mơ. Thư viện chính là đáy tận cùng của vô thức cậu. Cậu đã trải qua một giấc mơ
dài sự xoay chuyển của biết bao sực việc, biết bao hành động vô thức mà chính cậu
cũng không thể lí giải. Chẳng hạn như về cái chết của cha cậu. Cậu không biết rằng
tại sao bỗng nhiên mình rời khỏi khách sạn đang ở và đến với một nơi xa lạ, áo lại
dính đầy máu. Sau đó, cậu biết được cha mình đã chết. Cậu hoang mang cực độ và
không biết mình đã làm gì, ở đâu và cái chết đó có dinh dáng đến mình không. Và
liệu một bi kịch Hy lạp nữa có diễn ra? Một giấc mơ tỉnh đầy triết lí và tính ẩn dụ.
Trong tác phẩm Sắn dây núi Yoshino của Tanizaki, cậu bé Tsumura lại có
những liên tưởng hết sức mông lung về người mẹ trong quá khứ và người vợ ở
tương lai của mình. Cậu tâm sự rằng “tình thương nhớ của tớ đối với mẹ mình chỉ là
một mối hòa cảm bàng bạc về một người đàn bà mình chưa hề gặp”, nghĩa là có
liên quan đến sự chớm nở của tình yêu trai giá tuổi dậy thì. Đối với tớ thì người đàn
bà trong quá khứ hay người mẹ, người đàn bà trong tương lai hay người vợ, cả hai
đều giống nhau ở chỗ họ là những người đàn bà chưa hề gặp và đều rằng buộc với
tớ bằng sợi dây định mệnh” [42,258]. Cậu có cảm tưởng về những câu chữ trong
bài hát Tiếng chồn khóc với những ca từ “Vì ai mẹ tìm đến, Vì ai, vì vì ai! Ta đến vì
con đó, Mẹ về, lòng con đau”[42,258] như là một sự ẩn dụ về tình cảm mẹ con và
cả trai gái khi rờ xa nhau. Và chính lúc này người mẹ mà cậu ôm ấp trong lòng lại
không “đứng tuổi” như lẽ thường mà hết sức”trẻ trung. Ở điểm này dường như ở
Tanizaki và Murakami có một sự đồng điệu. Như ở trên, Kafka lại có tình yêu với
người mẹ mà cậu cho-rằng-là-mẹ-mình khi bà còn là một cô gái ở tuổi 15 chứ
không phải là một người phụ nữ 45 tuổi. Cầu Mộng của Tanizaki thì cách trần thuật
ít chồng chéo hơn. Hầu như câu chuyện được kể lại theo dòng hồi tưởng của Tadasu.
76
Giấc mơ của Cầu Mộng là một giấc mơ có mở đầu, kết thúc rõ ràng, những sự kiến
sắp xếp theo thứ tự một cách logic và liền mạch. Nó là một giấc mơ đẹp và trọn vẹn.
2.3.1. Giấc mơ tự nhiên
Hiểu một cách đơn giản nhất, giấc mơ tự nhiên là giấc mơ được hình thành
thực sự khi ngủ. Giấc mơ tự nhiên và giấc mơ trong khi thức đều là những hoạt
động tinh thần của con người. Tuy nhiên “về tính chất mà nói thì những giấc mơ
trong khi thức lại không có những đặc tính chung cho mọi giấc mơ thực sự khi ngủ
vì chúng chẳng liên quan gì đến giấc ngủ cả. Những giấc mơ trong khi thức chỏ có
những hình dung tưởng tượng thôi, trái lại giấc mơ thực sự trong khi ngủ lại có
những biến cố (hình ảnh)”[16,87-88].
Đối với sự thể hiện phức cảm Genji của giấc mơ tự nhiên so với giấc mơ
nhân tạo có phần khác biệt. Ở giấc mơ tự nhiên này, sự tác động sẽ theo chiều
hướng: cá nhân vật nam thông qua giấc mơ tự nhiên (trong đó có ác mộng, lẫn giấc
mơ bình thường) và nhận được sự quan tâm, ân cần từ những người tình của mình.
Từ những hành động đó, những nhân vật nam nhận lại được những tình cảm, sự
quan tâm và gợi nhớ đến tình mẹ thiêng liêng cao cả.
Người mẹ
Người tình Giấc mơ tự nhiên Nhân vật nam
Cử chỉ, lời nói, tình cảm
Sơ đồ 2.2: Quá trình hình thành phức cảm Genji qua giấc mơ tự nhiên
Chuyện ngủ mơ nằm thấy những điều chẳng lành mà hú hét, quơ quào trong
vô thức có lẽ là hết sức bình thường. Cả đối với Arita cũng vậy. Tuy ông đã bước
qua hơn nữa đời người nhưng đó là một điều sẽ không bị mất đi theo tuổi già mà có
khi còn gia tăng hơn với biết bao nỗi sợ, lo lắng…“Ông luôn miệng ú ớ…Ông già
77
vừa giật mạnh hai vai như người bị siết cổ vừa lấy tay xua đuổi cái gì đó, rồi đập
mạnh vào cổ Miyako. Tiếng ú ớ vẫn tiếp tục… “Ối ối! Ông già vừa kêu vừa đưa đôi
tay chới với tìm kiếm Miyako trong giấc mơ” [55,79].. Chúng ta đều thấy, đó như là
hành động của một đứa trẻ, gặp phải cơm ác mộng thì tìm đến mẹ, nắm chặt bàn tay
mẹ như thể nắm được một thứ vũ khí thần kì nào đó giúp nó xua đuổi tà ma, xua
đuổi những giấc mơ khủng khiếp ấy. Và Arita cũng như thế, ông xem những người
tình bên cạnh mình là một người mẹ tinh thần, đặc biệt là Miyako. Ông sợ lắm
những giấc mơ hàng đêm, ông la hét, ông cựa quậy nhưng khi tìm được cái điểm
tựa mà có lẽ trong giấc mơ ông đã được gặp mẹ, mẹ của ông mỉm cười rồi xua duổi
những điều xấu, dắt ông qua những ấm ảnh ấy. Và lúc ấy, chắc hẵn ông cứ ngỡ
mình là một đứa trẻ.
Miyako chứng kiến hết những gì xảy ra trong lúc ông ngủ say. Miyako
dường như đã quen với việc ông ngủ mơ. Và cũng chính những lúc cô kề bên thì
Arita được bảo vệ khỏi những giấc mơ đầy ám ảnh kia. “Cũng có lần, chỉ cần bám
chặt vào Miyako, thì cơn vật vã sẽ lắng xuống và không bị tỉnh giấc”[55,79]. Và khi
ông tự tỉnh giấc trong cơn ác mộng của mình, “ông lúc lắc cái đầu rồi vật người
xuống và rút vào Miyako. Miyako dịu dàng thả lỏng cơ thể”[55,80]. Những cơn mơ
quen thuộc với cô nàng Miyako đến nỗi có khi “lúc nào cũng thức vì ông, ngay cả
khi đang ngủ”. Từ những cử chỉ đó, cô gái như trở thành cứu cánh trong mỗi giấc
mơ của ông. Cô như một người mẹ đúng nghĩa. Một người mẹ luôn bên cạnh con
mình, bảo vệ nó khỏi những sự đe dọa, nguy hiểm kể cả khi con đang ngủ say.
Giấc mơ là một phương tiện đắc lực để nhà văn có thể truyền tải phức cảm
Genji rất thành công trong các sáng tác của các nhà văn hiện đại như Kawabata,
Tanizaki và Murakami. Qua giấc mơ, phức cảm Genji như được biểu hiện một cách
rõ ràng và sâu sắc nhất thông qua hai đối tượng: Nhân vật nam mang phức cảm và
những người tình – “hóa thân của người mẹ”.
78
CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG “PHỨC CẢM GENJI”
TRONG SÁNG TÁC CỦA BA NHÀ VĂN: TANIZAKI JUNICHIRO,
KAWABATA YASUNARI VÀ MURAKAMI HARUKI
3.1. Phức cảm Genji và hành trình tìm về nguồn cội của Tanizaki Yunichiro
Tanizaki Yunichiro là một cây bút lão làng của nền văn học Nhật Bản hiện
đại. Ông là một nhà văn đặc biệt gây nhiều tranh cải với những quan niệm nghệ
thuật, cái đẹp “không giống ai”. Trên văn đàn Nhật Bản, Tanizaki để lại tiếng vang
lớn về tài năng văn chương nhưng cũng gây không ít tranh cãi khi ông thường viết
về những khía cạnh “cấm kị” trong đời sống: khiêu dâm , tình dục bệnh hoạn, sùng
bái phụ nữ, khổ dâm,… Về việc đánh giá tài năng Tanizaki có lẽ đến tận ngày nay
vẫn chưa đến hồi kết. Thế nhưng, những tranh cãi ấy lại không làm cho văn chương
Tanizaki mất đi giá trị mà ngược lại, càng khiến cho những sáng tác của ông trở
thành đối tượng lí tưởng cho những ai muốn tìm hiểu về tâm lý, khát vọng ẩn sâu
bên trong đời sống phức tạp của con người.
Tanizaki luôn dành một sự ưu ái dành cho những người phụ nữ đẹp trong các
tác phẩm của mình: Xâm mình, Chữ Vạn, Người cắt lau,…. Thậm chí họ còn được
nâng nên mức tôn thờ như thần thánh bởi những người nam trong tác phẩm của
Tanizaki. Sở dĩ có sự ưu ái đó là vì Tanizaki vốn có một người mẹ vô cùng xinh đẹp,
chính bà sau này là nguồn cảm hứng bất tận cho ông trong nhiều tập kí sự. Không
chỉ thế mà ông “tin tưởng rằng mình thừa hưởng ở ông nội sự ngưỡng mộ đầy tôn
kính dối với người phụ nữ, điều mà Tanizaki tìm ra ở bức họa nửa thánh Đồng trinh
trên bức tường nhà ông nội”[15,139]. Bên cạnh đó, ông còn là một người nghiên
cứu sâu tâm lý con người, thế nên, trong văn ông, những khía cạnh tâm lý ẩn giấu,
đặc biệt là của người nữ, đều được khai thác rất triệt để và tinh tế.
Trong số những tác phẩm nổi bật của ông thì Sắn dây núi Yoshino (1930), và
Cầu Mộng (1959) là hai tác phẩm nổi bật lên với motif “phức cảm Genji”. Phức
cảm Genji trong sáng tác của Tanizaki được thể hiện một cách “nguyên thủy” hơn
so với Kawabata và Murakami. Chữ “nguyên thủy” ở đây có nghĩa là nó rất gần gũi
với cái “phức cảm Genji” trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu ngày trước. Sở
dĩ như vậy là vì Tanizaki là một người có sự yêu thích đặc biệt đối với kiệt tác
79
Genji monogatari của nữ sĩ Murasaki Shikibu. Ông đã dịch (2 lần) tác phẩm này
sang kim văn. Có thể nói, ông đã tiếp thu một cách kĩ lưỡng những tinh túy của câu
chuyện thú vị bật nhất nhân loại ấy. Và tinh túy ấy, tất nhiên không thể thiếu phức
cảm Genji. Trong cả hai tác phẩm Sắn dây núi Yoshino (1930), Cầu Mộng (1959)
thì sự tìm kiếm hình bóng người mẹ qua người tình được thể hiện một cách vô cùng
rõ ràng. Đối với Cầu Mộng, một tác phẩm được xem là Truyện Genji thu nhỏ, thì
phức cảm Genji được thể hiện như một bản sao, giữ nguyên được tinh thần xuất
phát từ mẫu gốc Truyện Genji. Nếu như hoàng tử sáng chói Genji có tình yêu với
người mẹ kế Fujitsubo vì ở bà mang những hình ảnh y hệt như mẹ chàng thì cậu bé
Tadasu cũng vậy. Cậu yêu mãnh liệt người mẹ kế của mình cũng vì bà mang lại cho
cậu cảm giác “bà là mẹ ruột” của cậu. Bà giống mẹ cậu hầu như ở mọi thứ và khiến
cho cậu khó lòng mà tách bạch được ai là mẹ ruột, ai là mẹ kế. Chính vì thế mà hình
ảnh người mẹ ruột như hòa lẫn, nhập nhằng với người mẹ kế của Tadasu. Còn
Tsumura trong Sắn dây núi Yoshino đã cưới nguời mẹ mang hình bóng mẹ mình.
Trong lòng của Tsumura, không còn nhớ gì về người mẹ. Thế nhưng, trong tâm
khảm cậu mẹ - người đàn bà trong quá khứ hay ngươi vợ - nguời đàn bà trong tương
lai đều là những “người đàn bà chưa hề gặp”. Lúc này, Tsumura đã nhất thể hóa
hình bóng của quá khứ và tương lai, mẹ cậu và vợ cậu thành một. Họ đứng ở hai
đầu của sợ dây định mệnh, còn cậu ở giữa và chẳng biết nên phải làm gì. Trong tâm
trí Tsumura, họ sẽ từ hai đầu sợ dây và nhập làm một để rồi đến bên cạnh cậu, yêu
thương và chăm sóc cậu.
Không chỉ vậy, tình cảm mà nhân vật nam dành cho nhân vật nữ mang hình
bóng người mẹ trong tác phẩm Tanizaki còn mang màu sắc của sự sùng bái, tôn thờ
và ám ảnh lạ kì. Tadasu đã cuồng si những xúc cảm cùng với người mẹ kế. Đến nỗi,
sau khi lấy vợ chàng vẫn không thể tách khỏi người mẹ kế “cũng mang tên Chinu”.
Và sau này, bằng tình yêu mãnh liệt ấy, Tadasu đã li dị vợ và đem Takeshi về nuôi.
Bởi lẽ cậu xem đó là “mối liên kết độc nhất” còn lại của người mẹ - người tình đã
vĩnh viễn ra đi. Tình cảm của cậu với người mẹ kế vãn âm ỉ, ám ảnh trong tâm trí
cậu suốt cuộc đời.
80
Bên cạnh đó, trong Cầu Mộng, phức cảm Genji lại được hình thành từ sự
toan tính và sắp đặt từ một ước muốn hết sức “kì lạ” từ người bố. Bố của Tadasu
muốn cậu “thay thế” ông ta trong mối quan hệ với người vợ sau của mình. Ông sắp
đặt những lần gặp mặt, va chạm giữa Tadasu với mẹ kế và cả chuyện đem đứa con
tên Takeshi, kết tinh của mối tình giữa hai người đi xa. Mục đích của hành động này
không gì ngoài việc để cho tình cảm của người mẹ kế không bị chi phối và Tadasu
được yêu thương trọn vẹn mà không cần phải chia sẻ vớ bất cứ ai. Có lẽ, đó là một
bàn tay vô hình thúc đẩy phức cảm Genji trở nên mãnh liệt trong câu chuyện hơn
bao giờ hết?
Một điều rất đặc biệt ở sự thể hiện phức cảm Genji của Tanizaki, đó là trong
khi những tác phẩm khác ông viết rất nhiều về những khoảnh khắc “ái tình” mãnh
liệt, có khi là bệnh hoạn (Hai cuốn Nhật kí, Xâm mình, Bàn chân Fumiko,…), thế
nhưng, trong hai tác phẩm mà chúng tôi khảo sát về phức cảm Genji thì nó lại mang
đến sự nhẹ nhàng, tinh tế lạ lùng. Phải chăng, ông đã dùng tình yêu, nỗi xúc động
tận sâu đáy lòng để viết nên hai tác phẩm đẹp lạ lùng như vậy.
Tanizaki đã đem một tinh thần nguyên sơ của phức cảm Genji thời Heian
vào tác phẩm của mình. Ông đã làm cho phức cảm ấy mang một cảm xúc mãnh liệt,
sinh động và mới mẻ hơn ở thời hiện đại. Tuy tác phẩm viết về phức cảm Genji
không mang đậm màu sắc của tình dục như trong các tác phẩm khác, nhưng nó
không hề làm mất đi cái “bản sắc” riêng của Tanizaki. Bởi lẽ, nó vẫn phảng phất
đâu đó sự yêu thương của ông dành cho người mẹ và sự sùng bái với người phụ nữ
trong cuộc đời. Tanizaki Junichiro quả là “nhà văn nam tính nhất của thế kỷ 20” và
có lẽ đó cũng là lí do khiến ông được mệnh danh là “Tanizaki vĩ đại” như Henry
Miller đã từng gọi.
3.2. Phức cảm Genji và hành trình tìm kiếm cái Đẹp đã mất của Kawabata Yasunari
Yasunari Kawabata (1899-1972) là một nhà văn kiệt xuất trong nền văn học
Nhật Bản hiện đại Nhật. Ông là một trong hai cái tên vinh dự của Châu Á được
nhận giải Nobel Văn học danh giá (truớc đó là Tagore). Có thể nói, Kawabata là
“một tâm hồn Nhật Bản thuần khiết và tinh tế”. Mỗi sáng tác của ông là một bước
chân du lãng trong cuộc đời phù thế với ước muốn “tìm kiếm cái đẹp” mong manh,
81
hư ảo. Đó là cái đẹp của hiện tại, tương lai và của quá khứ hoàng kim. Cuộc đời và
sự nghiệp sáng tác của Kawabata gắn liền với sự thay da, đổi thịt của đất nước Nhật
nói chung và văn học nói riêng.
“Văn học Nhật Bản sau thời Minh Trị cho đến lúc Kawabata qua đời như
một con sông lớn. Kawabata đã tắm mình trong đó. Con sông lớn có nhiều dòng
chảy, nhưng Kawabata biết tìm cho mình một dòng chảy trong lành để tắm tâm hồn
mình – tâm hồn “một lữa khách u buồn” đi tìm cái đẹp đã mất”[46,12]. Kawabata
là một nhà văn luôn ưu tư trăn trở về những nét đẹp và những giá trị truyền thống
xưa cũ đang dần mất đi trong xã hội “hỗn tạp” vàng thau lẫn lộn thời ông. Nói về
tâm hồn và vẻ đẹp xưa, có lẽ câu chuyện Genji monogatari của nữ sĩ Murasaki
Shikibu là một trong những vẻ đẹp bất tử mà ông luôn lưu giữ trong tâm hồn. Ông
ngợi cà tác phẩm ấy vì những vẻ đẹp của sự u buồn, của nét nữ tính vĩnh cữu và
phải chăng trong đó còn cả cả phức cảm Genji - một phức cảm đặc trưng cho tính
cánh, tâm hồn Nhật Bản.
Phức cảm Genji đi vào tác phẩm của Kawabata tựa như một cô gái Nhật e ấp
bên những cánh hoa đào: ưu nhã, dịu dàng, thanh khiết. Kawabata đã lồng những
biến chuyển tinh vi trong từng suy nghĩ, hành động ở nhân vật trong tác phẩm của
mình một màu sắc phức cảm Genji đậm tinh thần “tôn thờ cái đẹp tính nữ vĩnh cửu”
của đảo quốc Phù Tang từ thời văn học Heian. “Thời kì Heian đã đặt nền móng cho
truyền thống vẻ đẹp Nhật Bản, và trong suốt tám thế kỉ đã ảnh hưởng đén nền văn
học Nhật Bản, xác định tính chất của nó”[12,246]. Tính chất của nền văn học duy
mĩ, duy tình.
Trước hết, trong ba tác phẩm của Kawabata mà chúng tôi khảo sát thì có đến
4 nhân vật nam mang phức cảm Genji. Đó là Kikuji trong Ngàn cánh hạc, Eguchi
trong Người đẹp say ngủ và hai nhân vật trong tiểu thuyết Hồ là Gimpei và ông lão
Ariata. Mỗi nhân vật mang trong mình phức cảm Genji trong sáng tác của
Kawabata là mỗi bông hoa khác nhau trong khu vườn rộng lớn mang tên “khu vườn
phức cảm Genji”. Mỗi bông hoa như thế là một giống loài khác nhau, được trồng ở
những thời điểm khác nhau, có một màu sắc, hương thơm, hình dạng ,.. khác nhau.
Kikuji trong Ngàn cánh hạc là một chàng trai sống trong thời buổi giao thời, khi mà
82
trà đạo, cũng như những nét đẹp truyền thống khác của Nhật Bản đã đi vào thời
điểm suy vi. Anh đã chứng kiến sự đau khổ của người mẹ khi cha cậu có những mối
tình bên ngoài. Không chỉ vậy, anh còn có một nỗi ám ảnh với cái bớt của một
người phụ nữ - một trong những tình nhân của cha là Chikako. Còn đối với ông lão
Eguchi trong Người đẹp say ngủ lại là một trường hợp khác. Ông lão luôn bị ám ảnh
bởi cái chết của mẹ. Một cái chết đầy đau đớn với sự khô héo nơi bầu ngực và máu.
Không chỉ vậy, ông là một tâm hồn cằn cỗi sống nhờ vào những kỉ niệm đã qua: về
tuổi trẻ, về những mối tình, về vợ và con ông qua những đêm ngủ cùng những
“người đẹp say ngủ” trong lữ điếm. Ông nhấm nháp ly rượu tuổi trẻ hết đêm này
qua đem nọ để khỏa lấp đi thực tế tàn nhẫn khi ông đã bước sang cuối con dốc của
đời người. Cũng là một ông lão, nhưng Arita trong tiểu thuyết Hồ lại bị mẹ bỏ rơi từ
những năm tháng tuổi thơ, sau đó ông có mẹ kế. Ông bị ám ảnh bởi người vợ với sự
ghen tuông. Chính vì vậy, ông đã tìm kiếm những tình yêu từ những cô gái dịu dàng,
thuần khiết với mong muốn tìm lại cảm giác ấu thơ về mẹ, về cuộc sống êm đềm
cùng người mà mình yêu thương. Gimpei, một chàng trai trong tình trạng “khủng
hoảng căn cước” về mặt tâm lý lẫn xã hội19. Cậu thì bị ám ảnh bởi đôi bàn chân xấu
xí và luôn tìm sự thanh lọc tâm hồn của mình trong chiếc hồ ở quê mẹ năm xưa,
một chiếc hồ với đầy ắp những kỉ niệm tuổi thơ, với những rung động đầu đời gắn
với những kỷ niệm ấu thơ cùng mẹ. Có thể thấy, nhìn chung, các nhân vật nam
mang phức cảm Genji của Kawabata thường là những nhân vật đã bước sang giai
đoạn già nua, bị ám ảnh bởi tuổi tác và nỗi mất mát tình yêu của mẹ. Tại sao các
ông lão lại là đối tượng được Kawabata hay lựa chọn cho tác phẩm của mình? Có lẽ
một phần vì nó phù hợp với lứa tuổi, tâm lý của nhà văn? Hay một phần lí do như
19 Căn cước” theo phiên âm Hán Việt được hiểu là từ chỉ gốc rễ của thực vật, nền móng của kiến trúc hay là
cơ sở ban đầu của sự vật; khi được sử dụng để nói về con người thì lại có ý chỉ gia thế, xuất thân, lí lịch. Còn
khi nằm trong cụm từ “khủng hoảng căn cước” thì nó có nghĩa là một thuật ngữ tâm lý học, chỉ sự rối loạn
trong tuổi vị thành niên, phải đi tìm ý nghĩa bản ngã và vai trò của chính bản thân trong xã hội. Nếu khi đặt
cụm từ này trong hoàn cảnh của một quốc gia, một dân tộc thì đó là từ để nói đến tình trạng mất phương
hướng, sự trăn trở đi tìm một ý niệm về bản ngã khi quốc gia đối mặt với ngoại bang, bị thực dân cai trị hoặc
sa sút, khủng hoảng toàn diện trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
chính Kawabata đã từng nói: tôi thường chọn các nhân vật của mình là những cô gái
83
trẻ mới lớn, hay những ông già đã sắp hết cuộc đời vì đó là những người bao giờ
cũng nói ra những điều rất thật.
Tiếp đó, ta cũng cần chú ý đến những nhân vật người nữ - người mang hình
bóng người mẹ trong các tác phẩm Kawabata. Những nhân vật này trong ba tác
phẩm khảo sát có số lượng rất vượt trội. Nếu như trong 3 tác phẩm có 4 nhân vật
nam là chủ thể mang phức cảm Genji thì có đến 14 nhân vật nữ trong vai trò là đối
tượng, chất xúc tác để hình thành phức cảm.
Bảng 3.1: Các nhân vật nữ trong mối quan hệ hình thành phức cảm Genji
qua ba tác phẩm
Tác Nhân vật Nhân vật Chi tiết miêu tả
phẩm nam nữ
- 45 tuổi
- chiếc cổ trắng khá dài, thanh tú
- đôi vai đầy đặn
Bà Ota - vóc dáng trẻ so với số tuổi
- miệng nhỏ nhắn, môi dưới trề ra như
đang bĩu môi
- đôi mắt u buồn Ngàn Kikuji cánh hạc - chiếc cổ dài
- đôi vai đầy đặn
- miệng nàng rộng hơn bà Ota, môi luôn
Fumiko mím chặt
- đôi mắt u buồn
- mũi cao và thẳng
- mặt tròn, dịu dàng
Người yêu - rất đẹp Người đầu tiên - máu đọng trên núm vú đẹp ngủ Eguchi Người đàn - tấm thân mảnh mai mê bà ở Kobe - bầu ngực săn chắc
84
- có chồng con
- thân thể như vẫn chưa có con
- ngón tay mềm mại, thanh tú
Người đẹp - bàn tay đẹp, trong sáng mịn màng
đêm thứ - cổ và vai trông tươi trẻ
nhất - mang hương thơm đàn bà
- vú căng tròn, núm nở rộng và sẫm màu
- đôi má và mặt ửng đỏ
- gò má, mi mắt đầy đặn
- cổ trắng
- đôi mắt khép kín đầy ma lực
Người đẹp - Hương tóc và cơ thể nồng nàn; hơi thở
đêm thứ ngọt ngào, da thịt thơm ngát
hai - đôi môi hơi trề xuống
- các ngón tay thon dài, mềm, hơi lạnh;
móng tay hơi dài
- cặp giò duỗi thẳng
- vú hơi xệ nhưng vẫn đầy đặn
- khuôn mặt nhỏ xinh xắn
- mái tóc rối
- bàn tay mềm mại Người đẹp - khuôn mặt tự nhiên, không trang điểm, đêm thứ trông thật dịu dàng ba - đôi vai nhỏ nhắn, tròn trịa
- lông mi đều đặn và rất dài
- môi khô
- người rất ấm
Người đẹp - mùi đàn bà thơm nồng hơn
đêm thứ - có vẻ đẩy đà
tư - đôi tai đầy đặn
- cái cổ tròn trịa
85
- da trắng, mịn màng
- ngực đầy đặn, đôi vú lớn trễ xuống
nhưng núm vú nhỏ
- còn trinh
- nét mặt không đều, không được đầy đặn
- sống mũi thấp, hai lỗ mũi hơi bẹt ra
- đôi má tròn đầy
- tóc rẽ xuống gần nửa tráng
- lông mày nhắn, đậm và đều
- má mịn và hơi ướt
- ngực rộng, vú to, chưa nảy nở hết, trắng
nuột
- răng đều đặn
- có thể còn trinh
- núm vú rộng và đen tím Người đẹp - chưa thể đến hai mươi đêm thứ - vú còn dẹp, bộ ngực căng đầy năm (1) - ngón và móng ta đều dài
- vú nhỏ nhưng tròn và chắc
- cổ dài, thon và đẹp, thon thả Người đẹp - da có vẻ rám nắng ở mặt,trắng ở cổ, rám đêm thứ nắng ở đôi vai, trắng ở ngực năm (2) - răng khểnh
- làn da đẫm mồ hôi dầu, lạnh và trơn
- mái tóc thả , như phụ nữ xưa
- giọng nói ngọt ngào, khó tả, ngân vang,
Cố hầu trong trẻo
Hồ Gimpei nhà tắm - thân hình đẹp
Thổ - gái trinh
- ngực nhô cao, phía trên bầu vú vẫn chưa
phát triển hoàn toàn
86
- khuôn mặt hơi dài có vẻ cổ điển, trán
không rộng
- Đôi mắt mở to
- đi đôi ủng cao su
- quần đen bạc phếch
- tấm áo cánh màu trắng hơi ố bẩn
=> gần như trang phục đàn ông
- không thấy nét phồng của bầu ngực
- gương mặt vàng vọt rám nắng không
Cô gái trang điểm
đứng - đôi môi không ytoo son thâm sì
đường - chiếc răng bịt vàng
- da mặt rám nắng cứng đơ
- hai mắt không đều nhau, bên bé thì lại
càng bé hơn
- chồng chết trận, có con giá 12 tuổi
- cách uống rượu khó coi
- cổ tay nhẵn nhụi
- vẻ đẹp trẻ trung
Mizako - ngón tay thon dài
- 25 tuổi Arita - mỹ nhân
Umeko - tầm trên 30 tuổi
- mang lại cảm giác gia đình
Quả thật, quan sát các nhân vật nữ mà Kawabata xây dựng, ta sẽ thấy được
rất rõ tâm hồn yêu cái đẹp và trân trọng cái đẹp tính nữ của ông. Các cô gái đều
được kì công xây dựng với những nét đẹp khác nhau. Theo khảo sát, những điểm
mà ông thường miêu tả ngoại hình người nữ chính là các chi tiết về: bầu ngực, cánh
tay (các ngón tay), khuôn mặt, cổ, làn da. Điểm chung ở đây là các cô gái đều rất
đẹp. Họ đẹp một cách nhẹ nhàng, trong sáng, tinh khôi như tuyết và ấm áp như lửa
ở xứ sở Phù Tang. Kawabata là một bật thầy trong việc miêu tả nhân vật, đặc biệt là
87
nhân vật nữ trong những chi tiết quan sát tinh tế. Dù rất nhiều những nhân vật nữ
xuất hiện trong tác phẩm nhưng ông lại không gây ra cho người đọc một sự nhầm
lẫn nào. Mỗi nhân vật nữ đều được Kawabata đặc tả với những nét đặc trưng riêng.
Những chi tiết cá biệt hóa được ông sử dụng hoặc là được miêu tả rất kĩ, hoặc được
miêu tả lặp đi lặp lại nhiều lần làm cho độc giả khắc sâu vào tâm trí.
Hơn hết, các nhân vật nam trong sáng tác của Kawabata thực thụ là những
“lữ khách trong tâm thế đi tìm cái đẹp”. Trong suốt hành trình của mình, họ phải
trải qua biết bao bến đỗ để có thể thỏa mãn được mục đích lữ hành. Một nhân vật
nam luôn đặt trong mối quan hệ với nhiều nhân vật nữ. Trong những mối quan hệ
ấy ta lại thấy rõ hai đặc điểm trong sự đi tìm hình bóng người mẹ qua người tình
của những nhân vật nam. Thứ nhất, nhân vật nam tìm ở người nữ nhiều mối liên hệ,
nhiều mảnh ghép để có thể hình thành trọn vẹn bóng hình người mẹ trong tiềm thức
(Eguchi). Thứ hai, người nam tìm duy nhất một điểm chung nhưng lại ở rất nhiều
người phụ nữ (Gimpei, Kikuji, Arita).
Duy nhất, trong sự thống kê trên, có một người nữ “xấu xí”. Một trường hợp
hi hữu trong sáng tác Kawabata. Thế nhưng, khi chúng ta đối chiếu lại trong toàn bộ
tác phẩm thì cô gái ấy cũng là một sản phẩm của thời kì khủng hoảng căn cước ở xã
hội Nhật Bản sau thế chiến. Cô ta phải mưu sinh, trôi dạt theo dòng đời. Vẻ đẹp của
cô nằm ở đáy sâu tâm hồn. Đó là tâm hồn, là trái tim của một người mẹ có đứa con
12 tuổi.
Tiếp đến, còn phải chú ý đến một đặc điểm khác là phức cảm Genji trong
những sáng tác của Kawabata còn được đặt trong một khối mâu thuẫn, xung đột của
những giá trị truyền thống và luồng tư tưởng mới du nhập của xã hội lúc bấy giờ.
Trong Ngàn Cánh hạc, có thể coi Kikuji là một nhân vật thuộc về thế hệ “hậu trà
đạo”. Mặc dù sinh trưởng trong gia đình có bề dày truyền thống trà đạo nhưng anh
lại không hề muốn duy trì nó mà lại luôn nghĩ đến việc tổ chức một bữa tiệc để
‘thay lời giã biệt với trà đạo”. “Vật dụng uống trà trong nhà để mốc meo, và thậm
chí, khi được hỏi bức chân dung thi sĩ trong tranh Sotatsu treo ngay trong nhà mình
thì anh cũng không biết đó là ai nữa”[12,165]. Kikuji mãi đắm chìm trong cuộc
sống hiện đại mà quên đi những giá trị truyền thống từ thời bố mẹ anh. Anh say
88
đắm trong mối tình cùng bà Ota, một người đàn bà từng là nhân tình của cha mình.
Và anh để mặc cho Chikako âm mưu trục lợi trên những vật dụng gia đình (và thậm
chí là chính anh) mà cha cậu, mẹ cậu từng trân quý. Cậu đã quên đi một người đầy
đam mê với truyền thống tốt đẹp – “trà đạo” như cha cậu, một người phụ nữ đầy hi
sinh, chịu đựng như mẹ cậu, hay cái trà thất của gia đình một thời vốn rất hoàng
kim, nay chỉ còn lại là một chốn mốc meo, ẩm thấp và hoang phế.
Từ cái nền là bối cảnh lịch sử và tư tưởng muốn cảnh báo về nguy cơ mất đi
những giá trị truyền thống qua văn chương của Kawabata, phức cảm Genji dường
như được hóa thân thành “ẩn dụ nghệ thuật” đặc trưng. Quá trình mà người nam đi
tìm hình ảnh của mẹ mình trong người tình có thể được ví như cuộc hành trình tìm
lại những giá trị của truyền thống ở quá khứ trong cuộc sống hiện đại. Bởi lẽ, cuộc
sống hiện đại của nước Nhật lúc này thật hào nhoáng với những nét đẹp của sự tân
tiến, kiêu sa, lộng lẫy của nền văn minh phương Tây. Chúng giống như một cô gái
đẹp, trẻ trung thu hút nhưng hoang mang, lạc lối. Những con người như Kawabata
tìm kiếm ở cuộc sống hiện đại ấy những nét đẹp còn lưu giữ lại cái gì đó màu sắc
truyền thống, để rồi nâng niu, giữ gìn nó như những vật báu của mình. Như những
chàng trai yêu thương những cô gái của họ. Như ông Arita hay ông lão Eguchi.
Hình bóng mẹ
Nhân vật nam Nhân vật nữ
Con người hiện đại Cuộc sống hiện tại
Bóng hình quá khứ - truyền thống
Sơ đồ 3.1: Ẩn dụ nghệ thuật qua phức cảm Genji từ góc độ xã hội
Ngoài ra, Kawabata còn sử dụng phức cảm Genji như một công cụ nghệ
thuật đặc biệt, truyền đạt tư tưởng mong muốn con người trở nên đẹp đẽ hơn, hoàn
thiện bản thân hơn. Như Gimpei, anh mặc cảm với “bàn chân xấu xí” của mình. Thế
nên anh luôn đuổi theo những cô gái đẹp để tìm được cái đẹp hoàn hảo nơi các cô
để có thể khỏa lấp được ẩn ức xấu xí của mình. Và đến khi anh bắt gặp được cô gái
“xấu xí” như anh, thì anh lại cảm thấy được an ủi biết nhường nào. Anh như cảm
thấy bản thân mình được giải thoát khỏi cái xấu, và được hòa nhập vào thế giới mà
89
anh vốn thuộc về. Vậy, hành trình đi tìm hình bóng người mẹ ở đây còn là hành
trình thoát khỏi mặc cảm thân phận, xóa bỏ khoảng cách với tha nhân để hòa vào
cuộc sống.
Hình bóng mẹ
Nhân vật nam Nhân vật nữ
Cái xấu, tự ti, Cái đẹp, chia sẻ,
mặc cảm Thoát khỏi mặc cảm bản thân cảm thông
Sơ đồ 3.2: Ẩn dụ nghệ thuật qua phức cảm Genji từ góc độ tâm lý
Bằng tài hoa và sự nhạy cảm của một bật thầy văn chương, Kawabata đã vẽ
ra một bức tranh “phức cảm Genji” vô cùng tinh tế và đầy sắc màu. Là tình yêu, là
nhục dục nhưng nó không hề dung tục hay thô thiển mà tất cả đều mang hơi thở của
cái đẹp. Chủ nghĩa duy mỹ của Kawabata còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc bởi
nó hàm chứa thông điệp: Chỉ có cái đẹp - cái đẹp của nghệ thuật và của tính nữ mới
có thể cứu rỗi con người trong cơn khủng hoảng của thời hiện đại. Với những nỗi
niềm hoài cổ, băn khoăn, truy vấn về những giá trị truyền thống đang dần mai một
và ngã rẽ cho những con người lạc lõng trong xã hội “bất bình thường” thời hậu
chiến, Kawabata bằng nghệ thuật sử dụng phức cảm Genji như một phương tiện
truyền tải tâm tư, tình cảm của mình đến với độc giả, đánh thức họ trước cơn bão
của thời đại, giúp người Nhật nhận ra bài học về việc lưu giữ truyền thống văn hóa
đẹp đẽ của mình. Đó là một trái tim hướng về quốc hồn, quốc túy của dân tộc Nhật
Bản.
3.3. Phức cảm Genji và hành trình tìm kiếm bản ngã con người hiện đại của
Harumi Murakami
Haruki Murakami là một trong những nhà văn đương đại Nhật nổi tiếng và
có sức ảnh hưởng nhất của Nhật Bản ra thế giới. Ông được sinh ra trong một gia
đình có truyền thống văn học khi cả cha và mẹ của ông đều là những người giảng
dạy văn học Nhật Bản. Còn ông nội ông lại là một thiền sư. Murakami lớn lên trong
bối cảnh đất nước Nhật đã dung hòa sâu sắc cái hiện đại của văn hóa phương Tây
vào trong truyền thống, văn hóa Nhật Bản. Vì thế, từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với
90
văn hóa phương Tây như âm nhạc và văn học và ngôn ngữ. Vốn rất giỏi tiếng Anh,
từ sớm, Murakami đã đọc nguyên tác nhiều tác phẩm kinh điền văn học phương Tây,
đặc biệt là văn học Âu - Mỹ. Những điều trên đã tác động hết sức to lớn đến phong
cách sáng tác, chủ đề và tư tưởng văn chương của nhà văn.
Sự cộng hưởng giữa những yếu tố nội sinh trong văn học Nhật Bản và những
yếu tố kỹ thuật viết từ phương Tây đã mang đến cho Murakami những thành công
vuợt bật. Ông đã tạo ra một cuộc “cách mạng” trong tiểu thuyết hiện đại Nhật Bản.
Khi Murakami xuất hiện và nổi tiếng, văn học Nhật cũng bắt đầu xuất hiện cách
phân biệt hai giai đoạn văn học: trước và sau Murakami. Qua nhiều tác phẩm được
dịch ra nhiều thứ tiếng, ông đã dần khẳng định được phong cách riêng cho mình.
“Murakami tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng, khiến ngôn từ
trở nên mập mờ. Ông quan niệm ngôn ngữ văn chương mới phải sáng sủa, rõ ràng,
sống động, phải gần gũi với tiếng nói chân thật mà người dân Nhật vẫn dùng hằng
ngày – đó là những âm thanh của cuộc sống, đầy tính ngẫu hứng và không một chút
khuôn sáo.”[15,456]. Trong các sáng tác của Murakami, ông viết về những vấn đề
của cuộc sống Nhật Bản hiện đại một cách đa diện, đa chiều. Những trang viết xoay
quanh vấn đề “cuộc sống buồn chán của lớp thanh thiếu niên thành phố nặng về
vấn đề vật chất và nỗi khiếp sợ của những tâm hồn nhạy cảm”[15,400] hay “thân
phận, hành trình tìm kiếm ý nghĩa đích thực của cuộc sống, nỗi băn khoăn trước
hiện thực nổi chìm của xã hội”[15,400-401] Những nhân vật trong tác phẩm ông rất
đỗi bình thường, nhưng họ luôn đeo mang sự bất hạnh và sự bơ vơ không lối thoát,
không tình yêu, hạnh phúc và cả hơi ấm tình thân.
Tuy nhiên, một số nhà văn thủ cựu Nhật Bản, trong đó đặc biệt là nhà văn
Kenzaburo Oe (Nobel văn học thứ hai của Nhật) và Masao Miyoshi đã tẩy chay tác
phẩm của Murakami và cho rằng đó là “thứ văn chương đại chúng”, “thứ văn
chương chỉ độc giả dễ dãi mới quan tâm”. Thế nhưng, hơn ai hết, những nhà phê
bình công tâm và những độc giả yêu thích tác phẩm của Murakami vẫn xem ông là
một văn hào với những tác phẩm xuất sắc, đáng đọc. Tiêu biểu có thể kể tên những
tác phẩm như: Rừng Nauy, Kafka bên bờ biển, Người tình Sputnik,… đã được biết
bao độc giả trong và ngoài nước yêu thích và khen ngợi.
91
Trong đó, Kafka bên bờ biển là tác phẩm gây được tiếng vang lớn ở khắp
châu Á, châu Mỹ. Thậm chí, ở Trung Quốc, người ta yêu thích và bắt đầu quan tâm
đến nhà văn Kafka của cộng hòa Czech nhiều hơn từ sau khi đọc Kafka bên bờ biển
của Murakami. Với lối viết sử dụng yếu tố ngụ ngôn, ẩn dụ, và cách vận dụng
huyền thoại, cổ mẫu ... Murakami đã mang đến một món ăn tinh thần hết sức phong
phú và hấp dẫn. Kafka bên bờ biển được xem là một tác phẩm không phải đọc một
lần là hiểu. Bởi lẽ, nó là một chuỗi những ẩn dụ, tầng lớp triết học mà độc giả cần
giải mã những cánh cửa ẩn dụ ấy thì mới có thể hiểu tác phẩm ở chiều sâu nghệ
thuật. Trên cái nền ấy, phức cảm Genji cũng được Murakami lồng vào tác phẩm lớn
này trong một kỹ thuật hư cấu ẩn bật thầy để truyền đạt những thông điệp mang
đậm hơi thở của cuộc sống thời hiện đại.
Thứ nhất, phức cảm Genji được đan cài trong một motif tâm lý mang tên
mặc cảm Oedipus - một motif của văn học phương Tây. Trong câu chuyện, cậu bé
Kafka đã thực hiện cuộc trốn chạy lời nguyền “Một ngày kia mày sẽ giết cha mày
và ngủ với mẹ mày”[11,230] từ người cha ruột của mình. Cậu sợ hãi và thực hiện
việc bỏ trốn vào đúng ngày sinh nhật lần thứ 15. Kafka đến với thư viện Komura và
gặp được Miss Saeki. Hành trình này là một hành trình của Oedipus thời hiện đại.
Oedipus cũng đã sợ hãi và bỏ trốn khỏi vương quốc mà cậu đang sống (vương quốc
cha mẹ nuôi). Nhưng chàng không thể ngờ rằng, hành trình ấy lại là hành trình quay
về nghiệt ngã (quay về vương quốc cha mẹ ruột và giết cha, cưới mẹ) để rồi hiện
thực hóa lời nguyền giết cha, lấy mẹ. Phức cảm Genji trong tác phẩm không bị áp
chế bởi hành trình Oedipus mà nó là một nhân tố cộng hưởng. Mặc cảm Oedipus
tạo nền tảng cho phức cảm Genji trỗi dậy. Còn phức cảm Genji lại đi vào trong tâm
lý nhân vật, góp phần làm sâu sắc hơn, tinh tế hơn đời sống nội tâm nhân vật mang
lời nguyền Oedipus.
Thứ hai, Phức cảm Genji được đặt trong một mê lộ ẩn dụ về triết lí cuộc
sống mà Murakami đã đan cài một cách tài tình. Trước hết, trong Kafka bên bờ biển,
Murakami đã khắc họa những nhân vật mang dấu ấn thời đại của xã hội Nhật Bản
một cách rõ nét. Đó là mẫu hình của những con người cô đơn, con người đa ngã,
92
con người tìm đường ,… Tất cả những mẫu hình tâm lý trên đều có tìm thấy ở cậu
bé Kafka.
Trước hết, Kafka là nhân vật tiêu biểu cho những người trẻ cô đơn, xa lạ với
gia đình, xã hội và lưu vong trong chính thực tại của mình. Trong tác phẩm, mẹ của
Kafka đã bỏ nhà ra đi từ lúc cậu lên 4 tuổi. Lúc bấy giờ cậu sống trong một thế giới
khép kín, cô đơn trong chín căn nhà của mình. Mặc dù cậu sống cùng người cha,
tuy nhiên, giữa họ lại dường như có một bức tường cách ngăn. Một căn nhà nhưng
lại có hai thế giới riêng biệt. Hai thế giới cô đơn. “Đã khá lâu, cha con tôi tránh gặp
nhau. Chúng tôi sống chung dưới một mái nhà, nhưng thời gian biểu của chúng tôi
hoàn toàn khác nhau. Phần lớn thời gian ông ở trong phòng làm việc của mình, và
tôi cố hết sức tránh mặt ông”[11,12]. Kafka dường như muốn xây dựng cho mình
một thế giới riêng và bap phủ bởi của sự ô đơn. “Cố nhiên, tôi chẳng có bạn nào cả.
Tôi đã xây quanh mình một bức tường, không để ai lọt vào trong, còn bản thân thì
cố không mạo hiểm ra ngoài”.[11,13]. Và sự cô đơn của Kafka dường như làm cho
cậu trở thành một người cô độc. “Mắt trong gường nom lạnh như mắt thằn lằn,
thần thái trân trân không ai đọc nổi. Tôi không nhớ nổi lần cuối tôi cười thành
tiếng hoặc thậm chí nhếch mép với ai - kể cả với chính mình - là bao giờ”[11,13].
Kafka trở thành một con người cô đơn đến cô độc ngay cả với bản thân cậu. Và đôi
lúc sự cô đơn ấy lại tạo ra cho cậu một tâm hồn trống rỗng và vô nghĩa. Cậu mất
định hướng trong suy nghĩ. Đơn độc trong rừng sâu, cậu bé Kafka cảm nhận đến tận
cùng nỗi cô đơn trống rỗng trong tâm hồn: “Trơ trọi một mình trong rừng sâu, cái
thằng tôi này cảm thấy trống rỗng, phải, trống rỗng kinh khủng. Oshima có lần
dùng cụm từ những con người rỗng. Ờ, đích xác là tôi đã trở nên như thế đó. Có
một khoảng trống trong tôi, nó cứ bành trướng dần, nuốt hết những gì còn lại từ
trong người vốn là tôi. Tôi có thể nghe thấy điều ấy đang diễn ra. Tôi đi tong hoàn
toàn rồi, mất tiêu bản sắc.” [11,.441]. “Tôi hoàn toàn đơn độc trong một mê cung
tối om”[11,443]. Ngoài ra, nhân vật Miss Saeki cũng là một con người hết sức cô
đơn. Bà cô đơn và cảm thấy cuộc sống dường như vô nghĩa, trống rỗng từ cái chết
của người yêu khi bà ở tuổi 20.
93
Những con người cô đơn, trống rỗng trong tâm hồn là một kiểu người trong
xã hội hiện đại Nhật Bản khi con người phải sống trong sự phát triển quá nhanh,
quá vội vã của guồng quay công nghiệp. Nhật Bản là một nước có tốc độ phát triển
thần kì và nhanh đến mức không ngờ đến. Nhưng, cũng chính vì thế mà con người
trong xã hội Nhật bị mất sự cân bằng trong cuộc sống. Họ có cảm giác bị bỏ lại
đằng sau trong sự chạy đua của đất nước. Mọi người hăm hở phát triển đất nước,
sống trong công việc và những dự án phát triển,… Tiêu biểu, trong tác phẩm, chính
là cha của Kafka, một kiến trúc sư. Ông chỉ quan tâm đến công việc, sống trong thế
giới của công việc mà thờ ơ, lạnh nhạt với con trai của mình. Từ đó, dẫn đến sự cô
đơn ngay cả trong tình thân. Sống trong sự cô đơn quá lâu, con người ta sẽ mất dần
khả năng giao tiếp với xã hội và dần cuộc sống sẽ thu vào những chiếc vỏ ốc của sự
cô độc và trống rỗng như chính cậu bé Kafka. Theo Will Slocombe: “Sự hoang
vắng và cô biệt trong các tác phẩm của Murakami có nguồn gốc sâu xa từ sự bất
lực của các nhân vật trong việc giao tiếp thực sự với nhau. Vấn nạn của các nhân
vật của Murakami, cũng như trong thế giới thực tại, ấy là họ không thể thoát khỏi
cái ngã của mình đủ để hoàn toàn thấu hiểu người khác.” [25,56]
Tiếp đến, chính là những con người đa ngã. “Đa ngã là cách để con người tự
vệ trước những nguy hiểm, bất trắc đang rình rập, để giảm bớt những áp lực tâm lý
trong đời sống tinh thần. Con người đa ngã thường che giấu bản ngã thật của mình,
họ có thể sống bằng những cái ngã khác, thậm chí có đến hai, ba ngã “phiên
bản””[45,68]. Trong Kafka bên bờ biển, Miss Saeki là một con người “đa ngã thật
sự”. Ở bà là sự xuất hiện của hai bản thể. Một cô bé Miss Saeki 15 tuổi và một
người đàn bà trung niên Miss Saeki. Cô gái 15 tuổi ngự trị ẩn sâu trong tâm hồn bà.
Cô gái, bản thể mãi ghi dấu về tình yêu nồng cháy của bà với người yêu khi anh ta
mất lúc 20 tuổi. Đó là bản thể mà tâm hồn bà “thực sự còn sống”, còn biết yêu
thương và rất sôi nổi. Còn đối với một Miss Saeki đã già nua, tâm hồn bà như đa
chế. Bà sống trong nỗi cô đơn, sự trống rỗng trong tâm hồn. “Dẫu đơn độc trên
hành trình tìm lại bản ngã, các nhân vật của Murakami vẫn luôn nỗ lực hết mình
trong cuộc truy tầm cái tôi đích thực và ý nghĩa hiện tồn. Thậm chí, họ sẵn sàng hi
sinh mạng sống để bảo toàn bản ngã trước sự hủy hoại tất yếu của những giá trị và
lí tưởng sống. Cái chết không đồng nghĩa với việc đầu hàng mà là hành động
94
“không thỏa hiệp”[45,74]. Bằng tài hoa của mình, Murasaki đã thể hiện được nét
tâm lý của những con người đa diện trong xã hội Nhật Bản hiện đại. Những khía
cạnh tâm lý luôn đấu tranh trong mỗi con người Nhật giữa xã hội bộn bề và tình yêu
thương, giữa những nét đẹp truyền thống và sự hiện đại, tân tiến.
Con người tìm đường cũng là kiểu nhân vật quen thuộc. Thế nhưng, khi đi
vào tác phẩm của Murakami nó lại mang một sự ngụ ngôn, ẩn dụ và đầy triết lí.
“Hầu hết các nhân vật chính của Murakami luôn được đặt trong trạng thái vận
động “tìm đường”. Họ phiêu lưu trong những chuyến du hành kì lạ, thực hiện
những cuộc hành trình tìm kiếm, khám phá số phận cá nhân và lí giải bản chất xã
hội”[45,76]. Kafka Tamura, như đã nói, cậu bị lời nguyền rủa từ cha mình. Thế nên,
cậu quyết định ra đi vào sinh nhật lần thứ 15 của mình.thế là cậu chuẩn bị cho mình
một hành trang kĩ lưỡng. Đó là sự rèn tập cơ thể săn chắc và khỏe mạnh từ “hai
năm đầu tiên ở trường cấp hai” [11,12]. Và một chiếc ba lo với tiền mặt, một cái
bật lửa nhỏ, một con dao nhíp, đèn pin, kính râm nhãn Revo, đồng hồ Casio, tấm
ảnh chụp với chị, chiếc điện thoại di động và cục sạc, quần áo. Tất cả hành trang
cho một cuộc hành trình. Trốn chạy. Với tất cả hành trang mà mình có được, cậu
lên chiếc xe xuyên đêm và đi đến thư viện Komura ở Takamatsu. Cuộc hành trình
ấy đã cho cậu những traair nghiệm hết sức kì lạ trên đời. Đó là sự gặp gỡ Sakura và
Kafka nghĩ đó là chị mình. Hay với Miss Saeki, cậu nghĩ đó là mẹ của cậu. Cậu
thấy mình tỉnh dậy với chiếc áo đầy máu, cậu hoang mang không biết mình có giết
cha cậu ở quê nhà hay không (thật trùng hợp, ông đã chết trong thời gian đó). Và
một tình cảm đặc biệt giữa cậu với một “linh hồn 15 tuổi” mà cậu cho rằng đó là
Miss Saeki thuở thiếu thời với kỉ niệm về một mối tình vĩnh cửu,… Những lần quan
hệ tình dục mơ, thực lẫn lộn. Tất cả những điều đó làm cho cậu bé vô cùng hoang
mang và mất hết phương hướng. Thế nhưng, cậu quả thật là một cậu bé 15 tuổi kiên
cường, cậu cũng đã đi được đến cuối cùng cuộc hành trình.
Tất cả những điều ấy như là một sự tìm kiếm số phận của con người. Những
con người luôn hướng về những câu hỏi: Tôi là ai? Tôi đi về đâu? Tôi từ đâu tới?...
Muarakami đã xây dựng cho nhân vật vật mình một công cuộc “tìm đường” hết sức
nhân bản mang đậm chất Thiền và tính triết lí sâu sắc của Phân tâm học. Murakami
95
đã vẽ nên một xã hội với những con người luôn đau đáu một nối niềm. Đó chính là
sự vùng vẫy cố thoát ra cuộc sống tù túng. Không có một giải pháp nào tối ưu hơn
là mỗi con người phải biết dối diện, phải dấn thân đi tìm câu trả lời cho chính bản
thân mình.
Thứ ba, Murakami là nhà văn đưa phức cảm Genji đến gần với “sex”.
Tanazaki là một nhà văn nổi tiếng với lối viết đi sâu vào những thế giới thầm kín
một cách “trần trụi” và “bệnh hoạn”, thế nhưng, với sự thể hiện phức cảm Genji thì
Murakami bạo tay hơn ông. Ông có những đoạn miêu tả cảnh quan hệ giữa Kafka
Tamura thật đến từng chi tiết. Ông “phơi bày’ tất cả như một thước phim quay
chậm vậy. “Tay bà nhẹ nhàng mơn quan quanh tinh hoàn của mày và lặng lẽ kéo
tay mày đặt lên mu bà. Âm đạo của bà ấm nóng và ướt. Bà hôn ngực mày, bú đầu
vú mày. Ngón tay mày như bị hút, từ từ luốn vào bên trong bà”[11,319],… “Cả thế
giới như trở nên nồng ấm, ướt át, mờ mịt và chỉ còn tồn tại con cu cứng đơ, bóng
nhẫy của mày… Và chẳng mấy chốc mày xuất tinh…”[11,320]. Không chỉ được nói
đến một lần mà cảnh tượng ấy lặp lại nhiều lần trong tác phẩm. Phức cảm Genji như
cũng được Murakami đưa đến gần hơn với cuộc sống, với tâm lý của con người
hiện đại. Nếu như ở thời đại Heian, thời đại của cái đẹp, những cảnh ân ái được nói
đến bằng một sự hoa mỹ, đầy tinh tế thì đối với thời hiện đại, nó phải được nói đến
thật “rõ ràng, sáng rõ”, không uyển chuyển, hoa lệ.
Murakami đã đem Phức cảm Genji từ quá khứ đến với một giới hiện đại. Ở
thế giới ấy, nó bị hòa lẫn vào xã hội “bất thường” Nhật Bản. Bằng tài năng của
mình, Murakami đã không để cho sự thể hiện phức cảm Gennji trở nên quá lạ lẫm
mà vẫn mang trong đó cái gốc rễ. Những gốc rễ bám sâu vào thời đại và sản sinh ra
những biến đổi vi tế nhất trong cách biểu hiện mà thôi.
96
KẾT LUẬN
Đề tài luận văn “Phức cảm Genji qua sáng tác của một số nhà văn hiện đại
Nhật Bản” hướng đến những kết luận sau:
1. Phức cảm Genji được bắt nguồn từ cội nguồn văn hóa lâu đời với sự tôn
thờ nữ thần Mặt Trời Amaterasu- thủy tổ, người mẹ đầu tiên của dân tộc Nhật. Trải
qua bao biến thiên của lịch sử cùng với Amaterasu và sự nối tiếp vai trò của người
phụ nữ Nhật Bản qua nhiều thời đại, hình ảnh người nữ đã đi sâu vào tiềm thức và
trở thành biểu tượng “người nữ vĩnh cửu” trong văn hóa Phù Tang. Văn học cũng là
phương diện làm thăng hoa yếu tố tính nữ Nhật Bản. Trên nền tảng ấy, Genji
monogatari của nữ sĩ Murasaki Shikibu ra đời, đã làm rạng danh nền văn học Nhật.
Từ tiểu thuyết tâm lý đầu tiên này hình thành nên phức cảm Genji. Phức cảm đặc
biệt này đã trở thành một dòng chảy tâm lý và một motif văn học độc đáo, thể hiện
bản chất văn hóa và tinh thần Nhật Bản.
2. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi thấy rằng ở các tác phẩm của những
nhà văn Tanizaki, Kawabata và Murakami, phức cảm Genji được biểu hiện độc đáo
qua cách xây dựng nhân vật và việc sử dụng phương tiện nghệ thuật. Nếu như các
nhân vật nam đều có chung số phận mất mát khi thiếu vắng đi hình bóng người mẹ
và thông qua phức cảm Genji, họ muốn thoả mãn những ẩn ức cá nhân của mình thì
các nhân vật nữ lại có những đặc trưng gợi nhớ mãnh liệt về người mẹ. Đó là bộ
ngực, biểu tượng cho sự nồng ấm, cho nguồn sống và nữ tính. Hay những chi tiết
cánh tay, cổ, làn da, lời nói… Tất cả những điều ấy đều dẫn đến một “thiên tính
nữ” tác động, làm trổi dậy hình ảnh người mẹ trong tâm hồn những người đàn ông.
Ngoài ra, biểu tượng giấc mơ cũng là một yếu tố hữu hiệu được các nhà văn sử
dụng trong việc thể hiện phức cảm Genji. Giấc mơ trở thành chất xúc tác, tấm
gương soi của vô thức để những nhân vật có thể tìm về với “phức cảm Genji” –
nguồn cội tinh thần của mình.
3. Sống trong những giai đoạn lịch sử, văn học với những hoàn cảnh, cá tính
khác nhau, các nhà văn Tanizaki, Kawabata, Murakami đã tạo ra những phong cách
riêng, trong sáng tác, đem đến cho văn đàn Nhât Bản những món ăn tinh thần mới
mẻ. Sự thể hiện phức cảm Genji của họ vì thế cũng mang đến những ngã rẽ khác
97
nhau cho dòng chảy văn học độc đáo: phức cảm Genji. Kawabata với tâm hồn của
“lữ khách u buồn đi tìm cái đẹp” đã thể hiện phức cảm Genji trên một phông nền
màu xám trong cuộc đấu tranh giữa truyền thống và hiện đại Nhật Bản của các giá
trị văn hóa. Ông diễn tả mọi biến chuyển của xã hội, tinh thần Nhật Bản một cách
tinh tế và uyển chuyển. Còn ngòi bút Tanizaki một cuộc tìm về nguyên vẹn bản chất
phức cảm Genji của thời Heian như trong tác phẩm mẹ - Genji monogatari. Dù vậy,
phong cách của ông vẫn rõ nét khi “phức cảm Genji” mang màu sắc sùng bái,
cuồng si cái đẹp nữ tính – một trong những nét đặc trưng của phong cách Tanizaki,
nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ Nhật Bản. Muarakami, nhà văn thế hệ Heisei, người
ảnh hưởng sâu sắc nền văn hóa – văn học Tây phương, lại mang đến cho người đọc
một “phức cảm Genji” đầy triết lí, thể hiện chủ đề tìm kiếm bản ngã của con người
hiện đại. Phức cảm Genji của Murakami mang màu sắc và hơi thở thời đại trong sự
gợi mở con đường tìm về sức mạnh bản nguyên, giúp con người tìm thấy lối thoát
trước một đời sống bất an, phi lí.
4. Qua nghiên cứu này, chúng tôi thấy phức cảm Genji có vai trò quan trọng
vì nó góp phần khám phá góc khuất đời sống tâm lý và văn hóa “phương Đông”.
Trong sự đối sánh với phương Tây thông qua phức cảm Oedipus, thì Phức cảm
Genji mang đến nhiều phát hiện hết sức thú vị. Nếu như người phương Tây nhìn
nhận mặc cảm Oedipus dưới góc độ đạo đức, luân lí và trong thế đối chọi với vai trò
của người cha thì người Nhật lại xem đây là một hiện tượng rất đỗi bình thường, có
nguồn gốc lâu đời trong tâm lý dân tộc, và đề cao vai trò quan trọng của người mẹ
trong đời sống tinh thần. Văn hóa phương Tây đặt trọng tâm vào quyền lực người
cha trong “sự trừng phạt” và áp đặt. Còn phương Đông lại khẳng định vai trò của
người mẹ trong sự hòa hợp, chở che trong mối quan hệ với con.
5. Đề tài của chúng tôi chỉ giới hạn trong phạm vi tác phẩm của các nhà văn
hiện Tanizaki, Kawabata, Murakami, vì vậy không tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Bởi khi xem xét vấn đề phức cảm Genji – một yếu tố quan trọng trong
tinh thần Nhật Bản, thiết nghĩ cần soi rọi thêm ở nhiều góc độ và phạm vi rộng lớn
hơn mới đủ tầm bao quát. Trong thời gian tới, nếu có điều kiện phát triển đề tài,
chúng tôi sẽ mở rộng nghiên cứu thêm ở tác phẩm của các nhà văn hiện đại khác
98
như: Natsume Soseki, Akutagawa Ryunosuke, Yukio Mishima,… Điều này hứa hẹn
sẽ mang đến kết quả khả quan hơn cho nghiên cứu phức cảm Genji nói riêng và văn
học Nhật Bản nói chung.
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, báo, tạp chí
1. Nhật Chiêu (2001), Câu chuyện văn chương phương Đông, NXB Giáo dục.
2. Nhật Chiêu (2003), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo Dục, Đà
Nẵng.
3. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, NXB Giáo dục
4. Nhật Chiêu (2015), Ba nghìn thế giới thơm, NXB Văn học.
5. D.T.Suzuki, Eric Fromm, Richchard de Martino (2017), Như Hạnh dịch,
Thiền và phân tâm học, NXB Hồng Đức.
6. Nguyễn Tấn Đắc (2011), Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif, NXB
Khoa học –Xã hội, Hà Nội.
7. Eiichi Aoki (2008), Nguyễn Kiên Tường dịch, Nhật Bản, đất nước và con
người, NXB Văn học.
8. Gheerbrant, Jean Chevalier (1997), Nhiều tác giả dịch, Từ điển biểu tượng
văn hoá thế giới, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
9. Đoàn Lê Giang (chủ biên) (2011), Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so
sánh, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
11. Haruki Murakami (2009), Dương Tường dịch, Kafka bên bờ biển, Nhã Nam
và NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
12. Đào Thị Thu Hằng (2007), Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata, NXB
Giáo dục.
13. Phạm Ngọc Hiền (2016), Thi pháp học, NXB Văn học.
14. Lý Kim Hoa (2006), Để tìm hiểu văn hóa Nhật Bản, NXB Văn nghệ.
15. Nguyễn Tuấn Khanh biên soạn và giới thiệu (2011), Những cây bút kiệt xuất
trong văn học Nhật Bản hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
16. Phạm Minh Lăng (2002), Sigmund Freud và Tâm phân học, NXB Văn hóa -
Thông tin, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
100
17. Mai Liên tuyển chọn, giới thiệu và dịch (2010), Hợp tuyển Văn học Nhật
Bản – Từ khởi thủy đến giữa thế kỉ XIX, NXB Lao động – Trung tâm văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội
18. Trần Thị Ngọc Ly (2015), Thiên tính nữ qua tác phẩm Truyện Kiều -
Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều và Chinh phụ ngâm
khúc - Đặng Trần Côn; Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm, TP.HCM.
19. Phạm Phương Mai (2011), Yếu tố tình dục trong tiểu thuyết Murakami,
Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư Phạm TP.HCM.
20. Murasaki Shikibu (1991), Truyện kể Genji (2 tập), NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội
21. N.I. Konrad (2007), Nhiều tác giả dịch, Phương Đông học, NXB Văn học
22. Hữu Ngọc (2006), Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, NXB văn nghệ.
23. Hoàng Thị Mỹ Nhị (2016), Mỹ cảm “aware” trong văn học Nhật Bản qua
tiểu thuyết “Truyện Genji” của Murasaki Shikibu và “Ngàn cánh hạc” của
Yasunari Kawabata, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học quốc gia, Hà Nội.
24. Nhiều tác giả (2013), Văn học Việt Nam và Nhật bản trong bối cảnh Đông Á,
NXB văn hóa – văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
25. Nhiều tác giả (2007), Kỷ yếu hội thảo về Haruki Murakami, Công ty Cổ
phần văn hóa truyền thông Nhã Nam và Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam,
Hà Nội.
26. Lê Thị Kim Oanh (2011), Nhật Bản: Một góc nhìn từ văn hóa lễ hội, NXB
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Hoàng Phê chủ biên (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng
28. Ronald de Sousa, Thái An dịch, Dẫn luận về Tình yêu, NXB Hồng Đức.
29. Ruth Benedict (2016), Thành Khang-Diễm Quỳnh dịch, Hoa cúc và gươm,
NXB Hồng Đức.
30. Vĩnh Sính (2001), Việt Nam và Nhật Bản –giao lưu văn hóa, NXB Văn nghệ,
TP Hồ Chí Minh.
31. Takeo Doi (2008), Hoàng Hưng dịch, Giải phẫu cái tự ngã: cá nhân chọi
với xã hội, NXB Tri Thức.
101
32. Takeo Doi (2008), Hoàng Hưng dịch, Giải phẫu sự phụ thuộc, NXB Tri
Thức.
33. Tanizaki Junichiro (2008), Nhật Chiêu dịch, Yêu trong bóng tối, NXB Văn
nghệ.
34. Nguyễn Thị Bích Thúy (2010), Phức cảm Genji trong tiểu thuyết Kafka bên
bờ biển của Haruki Murakami, Tạp chí Văn học, số 5.
35. Đỗ Lai Thúy (2003), Phân tâm học và tình yêu, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội
36. Ngô Minh Thủy (2010) , Phụ nữ Nhật Bản và vai trò của họ đối với văn học,
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, trang 1-7.
37. Ngô Minh Thủy - Ngô Tự Lập (2003), Nhật Bản- Đất nước, con người, văn
học, NXB Văn hóa – thông tin.
38. Hoàng Thị Phương Thủy (2012), Kiểu nhân vật hành trình trong tiểu thuyết
Y. Kawabata, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh.
39. Trần Minh Tiết (2015), Tìm hiểu người Nhật Bản, NXB Thế giới.
40. Nguyễn Nam Trân (2011), Tổng quan Lịch sử văn học Nhật Bản, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
41. Nguyễn Nam Trân (2013), Giáo trình lịch sử Nhật Bản (Quyển 1), Bản Pdf
42. Nguyễn Nam Trân chủ biên (2017), Tuyển tập truyện ngắn Tanizaki
Junichiro, NXB Hội Nhà Văn.
43. Nguyễn Bích Nhã Trúc (210), Tính nữ vĩnh cửu trong Tanka Nhật Bản, Tạp
chí VHNT số 309.
44. Nguyễn Bích Nhã Trúc (2011), Biểu tượng cổ mẫu và thực tại phức diện qua
tiểu thuyết Murakami Haruki, Tạp chí văn học – Nghệ thuật, số 328.
45. Nguyễn Bích Nhã Trúc (2012), Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami
Haruki, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
46. Lưu Đức Trung (1997), Yasunari Kawabata – Cuộc đời và tác phẩm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
47. Lưu Đức Trung (2004), Chân dung các nhà văn thế giới, NXB Giáo dục.
48. Liễu Trương (2011), Phân tâm học và phê bình văn học, NXB Phụ nữ.
102
49. Véronique Motter (2016), Thái An dịch, Dẫn luận về Tính dục, NXB Hồng
Đức.
50. Viện văn hóa Nhật Bản (2014), Vũ Hữu Nghị dịch, Văn hóa Nhật Bản: từ
vựng, phong tục, quan niệm, NXB Thế giới.
51. Trần Lam Vy (2013), Biểu tượng trong tác phẩm Kafka bên bờ biển của
Murakami Haruki, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học Cần Thơ.
52. Nguyễn Thị Huê Vân (2012), Kiểu nhân vật đi tìm bản ngã trong tiểu thuyết
của Haruki Murakami, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm TPHCM
53. Yasunari Kawabata (1969), Trùng Dương dịch, Ngàn cánh hạc, NXB Trình
bày.
54. Yasunari Kawabata (2012), Quế Sơn dịch, Người đẹp ngủ mê, NXB Hội
nhà văn.
55. Yasunari Kawabata (2016), Uyên Thiểm dịch, Hồ, NXB Văn học.
Tài liệu Internet
56. Lam Anh (2015), Thế giới nhân vật trong Genji monogatari,
http://yenlam.blogspot.com/2015/11/the-gioi-nhan-vat-trong-genji-
monogatari.html
57. Lam Anh (2016), Bối cảnh văn hóa – xã hội Nhật Bản thời Heian và sự ra
đời của Genji monogatari,
http://uyenlam.blogspot.com/2016/04/boi-canh-van-hoa-xa-hoi-nhat-ban-
thoi.html
58. Hoàng Long, (2015), Truyện Genji- tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của thế giới,
http://www.kilala.vn/van-hoa-nhat/truyen-genji-tieu-thuyet-tam-ly-dau-tien-cua-
the-gioi.html
59. Thuần Chân (2015), Thiền định – Tinh hoa văn hóa Nhật Bản,
https://www.dkn.tv/van-hoa/thien-dinh-tinh-hoa-van-hoa-nhat-ban.html
60. Nhật Chiêu (2017), Thiền (Zen) Nhật Bản,
http://thientrithuc.vn/thien-zen-nhat-ban/
103
61. Nguyễn Tuấn Dũng (2017), Phê bình Phân tâm học,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/ly-luan-va-phe-binh-van-
hoc/6467-ph%C3%AA-b%C3%ACnh-ph%C3%A2n-t%C3%A2m-
h%E1%BB%8Dc.html
62. Th.S Nguyễn Thị Bích Hằng, Quan niệm của S.Freud về động lực sinh tồn,
phát triển của con người và xã hội,
http://tuhieuminh.blogspot.com/2013/12/quan-niem-cua-sfreud-ve-ong-luc-
sinh.html
63. PGS.TS. Đỗ Thu Hà, Cái đẹp trong tác phẩm của Kawabata,
http://butnghien.com/cai-dep-trong-tac-pham-cua-kawabata.t54202/
64. Thư Hiên (2015), Vai trò của người mẹ trong nền giáo dục Nhật Bản,
http://www.kilala.vn/gia-dinh-va-am-thuc/vai-tro-cua-nguoi-me-trong-nen-giao-
duc-nhat-ban.html
65. TS. Hoàng Thị Huế (2012), Biểu tượng giấc mơ trong thơ Nguyễn Bính, Hàn
Mặc Tử,
http://vietvan.vn/vi/bvct/id3430/Bieu-tuong-giac-mo-trong-tho-Nguyen-Binh,-
Han-Mac-Tu/
66. Nguyễn Quang Huy (2011), Nguyên lý mẫu và nữ tính vĩnh hằng,
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c243/n8697/Nguyen-ly-mau-va-nu-tinh-
vinh-hang.html
67. Dương Thị Huyền (2015), Nguyên lý tính mẫu trong truyền thống Văn học
Việt Nam,
http://vanhaiphong.com/ly-luan-phe-binh/1593-2015-03-04-04-35-57.html
68. Lê Đình Khẩn (2013), Bầu vú với văn hóa nhân loại
http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-
van-hoa/bau-vu-voi-van-hoa-nhan-loai
104
69. Nguyễn Tuấn Khanh (2012), Khái quát một trăm năm văn học nhật bản hiện
đại qua những cây bút kiệt xuất,
http://www.inas.gov.vn/290-khai-quat-mot-tram-nam-van-hoc-nhat-ban-hien-
dai-qua-nhung-cay-but-kiet-xuat.html
70. Khuyết danh, Biểu tượng cơ thể nữ trong tác phẩm “Người đẹp say ngủ”
của Kawabata (2010),
http://baomuahe2011.vnweblogs.com/ac33071/van-hoc-nhat-ban.html
71. Khuyết danh, Kagura - điệu múa thần thánh của Nhật Bản,
http://duhoc.viet-sse.vn/2010/10/kagura-dieu-mua-than-thanh-cua-nhat-ban
72. Khuyết danh, Nguyên Tác: Tanizaki Jun.ichirô
http://m.khotruyenhay.mobi/truyen-doc/235055/-nguyen-tac-tanizaki-
junichiro.html
73. Khuyết danh, Nhật Bản: Hoa cúc vàng,
https://nationalsymbolss.com/2015/08/27/japan/
74. Khuyết danh, Vai trò của phụ nữ tại Nhật Bản,
http://www.htc-vn.com/Vai-tro-cua-phu-nu-tai-Nhat-Ban-70302.dvit
75. Khuyết danh, Ý nghĩa và lịch sử quốc kỳ Nhật Bản (2015),
http://isenpai.jp/y-nghia-va-lich-su-quoc-ky-nhat-ban/
76. Khuyết danh, The Genji complex: the search for the ideal woman (2017),
https://yolandachavez.wordpress.com/2017/04/11/the-genji-complex/
77. Nguyễn Thanh Nguyệt (2014), Nguyên lý Yasashi - nguyên lý cơ bản trong
quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản qua tiểu thuyết “Xứ tuyết” của Yasunari
Kawabata (nhìn từ phương diện vẻ đẹp ngoại hình nhân vật nữ)
http://nguvan.hnue.edu.vn/Sinhvien/Nghiencuu/tabid/116/newstab/260/Default.a
spx
105
78. Nguyễn Công Lai (2017), Vài nét về Thuyết Phân tâm học của Sigmund
Freud và ý nghĩa của nó trong đời sống cá nhân,
http://ngoiloivn.net/suy-tu/vai-net-ve-thuyet-phan-tam-hoc-cua-sigmund-frued-
va-y-nghia-cua-no-trong-doi-song-ca-nhan/
76. Hoàng Long (2016), Hoa cúc và gươm, những kiến giả căn tính người Nhật,
http://www.kilala.vn/van-hoa-nhat/hoa-cuc-va-guom-nhung-kien-giai-ve-can-
tinh-nguoi-nhat.html
80. Hoàng Long dịch (2016), Một số khái niệm đặc thù trong xã hội Nhật Bản,
http://www.kilala.vn/van-hoa-nhat/mot-so-khai-niem-dac-thu-trong-xa-hoi-nhat-
ban-p2-.html
81. Đặng Hồng Nam (2011), Kafka bên bờ biển và Thiền,
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-
nhin-van-hoa/kafka-ben-bo-bien-va-thien
79. Phương Nguyên, Hãy cứ khát khao hãy cứ dại khờ
https://news.zing.vn/tanizaki-hay-cu-khat-khao-hay-cu-dai-kho-post777543.html
83. Lê Thị Thanh Tâm (2016), Mono no aware ( 物の哀れ) và văn chương
Nhật – đôi điều cảm nhận,
https://letamnet.wordpress.com/2016/07/04/mono-no-aware-
%E7%89%A9%E3%81%AE%E5%93%80%E3%82%8C-va-van-chuong-nhat-
doi-dieu-cam-nhan/
84. Trần Quang Thanh (2014), Thần đạo Shinto (P2): Truyền thuyết về các Vị
thần,
https://nipponkiyoshi.com/2014/12/06/shinto-phan-2-truyen-thuyet-ve-cac-vi-
than/
85. Trần Quang Thanh (2014), Thần đạo Shinto (P3): Thủy tổ của Thiên hoàng,
https://nipponkiyoshi.com/2014/12/07/shinto-phan-3-thuy-to-cua-thien-hoang/
106
86. Nguyễn Nam Trân (2013), Thần thoại và cổ tích Nhật Bản,
https://nghiencuulichsu.com/2013/08/01/than-thoai-va-co-tich-nhat-ban/
87. Nguyễn Nam Trân (2017), Bước vào thế giới văn chương Tanizaki,
https://news.zing.vn/buoc-vao-the-gioi-van-chuong-tanizaki-post747421.html
88. Wikipedia, Amaterasu,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amaterasu#Amaterasu_trong_văn_hóa_đại_chú
ng
89. Wikipedia, Danh sách Thiên hoàng (Nhật Bản),
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_Thi%C3%AAn_ho%C3%A0
ng_(Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n)
90. Wikipedia, Quốc kỳ Nhận Bản
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quốc_kỳ_Nhật_Bản
91. Wikipedia, Tam chủng thần khí,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_chủng_thần_khí
92. Wekipedia, Thần đạo,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A7n_%C4%91%E1%BA%A1o
93. Wikipedia, Thời kỳ Heian,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_k%E1%BB%B3_Heian
94. Wikipedia, Hiragana,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hiragana