TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA VẬT LÝ

NGUYỄN THỊ MAI

PHƯƠNG PHÁP PHỔ TỔNG TRỞ VÀ ỨNG DỤNG

Chuyên ngành: Vật lý chất rắn

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ ĐÌNH TRỌNG

i

HÀ NỘI, 2017

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành khóa luận này, em

đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị

cùng các bạn. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin được bày tỏ lời

cảm ơn chân thành tới:

PGS. TS Lê Đình Trọng, người Thầy kính mến đã hết lòng hướng dẫn,

giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em thực hiện khóa luận tốt nghiệp

này.

Tập thể các thầy cô giáo trong khoa Vật lý trường Đại học Sư phạm Hà

Nội 2, đã trang bị cho em những kiến thức và kinh nghiệm quý giá trong quá

trình học tập tại trường

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian có hạn, trình độ, kỹ

năng của bản thân còn nhiều hạn chế nên chắc chắn đề tài khóa luận tốt

nghiệp này của em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong được

sự đóng góp, chỉ bảo, bổ sung thêm của thầy cô và các bạn.

Hà Nội, ngày 19 tháng 04 năm 2017

Sinh viên

ii

Nguyễn Thị Mai

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này

là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan

rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này đã được cảm ơn và các

thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 19 tháng 04 năm 2017

Sinh viên

iii

Nguyễn Thị Mai

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. ii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................... v

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 2

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 2

6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 2

NỘI DUNG ....................................................................................................... 3

Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT ....................................................................... 3

1.1. Một số khái niệm về lí thuyết mạch xoay chiều ...................................... 3

1.2. Các phần tử mạch điện của bình điện hóa ............................................... 7

1.2.1. Điện trở dung dịch điện ly .............................................................. 7

1.2.2. Điện dung lớp kép ........................................................................... 8

1.2.3. Điện trở phân cực ........................................................................... 8

1.2.4. Điện trở dịch chuyển điện tích ...................................................... 10

1.2.5. Sự khuếch tán ................................................................................ 11

1.2.6. Điện dung lớp phủ ......................................................................... 12

1.2.7. Thành phần pha không đổi ........................................................... 13

1.3. Các mô hình mạch tương đương thông dụng ........................................ 13

1.3.1. Mô hình lớp phủ thuần điện dung ................................................. 14

1.3.2. Mô hình bình điện hoá Randles .................................................... 15

1.3.3. Mô hình động lực học hỗn hợp và khống chế khuếch tán ............ 16

1.3.4. Mô hình lớp phủ kim loại .............................................................. 18

iv

Chương 2. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM TỔNG TRỞ ........................ 20

2.1. Các phương pháp đo tổng trở điện hóa .................................................... 20

2.1.1. Phương pháp hai điện cực ............................................................ 20

2.1.2. Phương pháp ba điện cực ............................................................. 20

2.1.3. Phương pháp bốn điện cực ........................................................... 21

2.2. Mạch tương đương và đặc trưng phổ tổng trở của mẫu đo ba điện cực ...... 21

2.3. Phổ tổng trở của mẫu đo hai điện cực ...................................................... 22

2.4. Sự trùng khít bình phương tối thiểu không tuyến tính ............................. 24

Chương 3. THỰC NGHIỆM ........................................................................... 25

3.1. Độ dẫn ion Li+ của perovskite La0,67-xLi3xTiO3 dạng khối ....................... 25

3.2. Độ dẫn ion Li+ của màng mỏng La0,67-xLi3xTiO3 ..................................... 28

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 34

v

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 35

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết Cụm từ đầy đủ

tắt/ký hiệu

C Dung kháng

I Cường độ dòng điện

EIS Phổ tổng trở điện hóa

L Cảm kháng

NLLS Thuật toán làm khớp bình phương tối

thiểu không tuyến tính

R Điện trở

RE Điện cực so sánh

SE Điện cực đối

U Thế hiệu

WE Điện cực làm việc

Z Tổng trở của mạch

ac Dòng điện xoay chiều

vi

dc Dòng điện một chiều

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Phổ tổng trở điện hoá (EIS) là một phương pháp được sử dụng để nghiên

cứu tính chất dẫn ion rất hữu hiệu. Phương pháp EIS bao hàm việc sử dụng

một tín hiệu nhỏ của điện thế hoặc dòng điện. Tín hiệu là một sóng hình sin

đơn hoặc sự chồng chất của một số sóng hình sin với các tần số khác nhau.

Tín hiệu đáp ứng đo được thường lệch pha so với tín hiệu áp đặt. Từ những

tín hiệu sử dụng và tín hiệu đáp ứng đo được, tổng trở và sự lệch pha được

xác định. Dựa trên dữ liệu của phép đo phổ tổng trở cho phép phân tích đóng

góp của sự khuếch tán, động học, lớp kép, phản ứng hoá học,… vào quá trình

điện cực [2]. Các đại lượng đo được như là một hàm của tần số tín hiệu sử

dụng, vì vậy công nghệ được gọi là phổ học.

Kỹ thuật đo điện dòng một chiều (dc) đã và đang được sử dụng rộng rãi

đối với phép đo độ dẫn điện, nhưng phương pháp này nói chung đòi hỏi tín

hiệu tác động (hoặc tín hiệu phân cực) tương đối lớn và có thể, trong thực tế,

không khả thi khi xác định độ dẫn của các môi trường có độ dẫn thấp [8]. Các

phương pháp đo điện xoay chiều (ac) vì thế có khả năng ứng dụng ngày càng

tăng trong nghiên cứu điện hoá, vì chỉ cần sử dụng những tín hiệu xoay chiều

nhỏ (chúng không làm nhiễu loạn các tính chất điện) và các môi trường độ

dẫn thấp có thể được nghiên cứu.

Phổ tổng trở điện hoá trong thiết bị điện hoá (AutoLab-potentiostat) cần

có các modul FRA hoặc FRA2 và phần mềm FRA. Kết hợp các modul này

cho phép lựa chọn các phép đo khác nhau, các đặc trưng điện hoá đa dạng có

thể nhận được [4].

Chính vì vậy, việc tìm hiểu về phương pháp phổ tổng trở cũng như ứng

dụng của nó trong việc xác định tham số vật liệu là rất cần thiết để tiếp cận

với khoa học công nghệ hiện đại. Đó là lý do tôi chọn để tài này.

1

2. Mục đích nghiên cứu

- Tìm hiểu về phương pháp phổ tổng trở

- Ứng dụng trong thực tế: Xác định độ dẫn điện của vật liệu, xác định

điện dung hoặc độ tự cảm,…

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Phương pháp phổ tổng trở và ứng dụng của nó.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Cơ sở lý thuyết của phương pháp phổ tổng trở.

- Nghiên cứu về ứng dụng của phương pháp này.

- Thực nghiệm ứng dụng phương pháp phổ tổng trở xác định các đại

lượng điện đặc trưng của vật liệu.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu tài liệu về phương pháp phổ tổng trở.

- Thực nghiệm: xác định một số các đại lượng điện đặc trưng trên hệ

điện hóa Autolab 302N

6. Cấu trúc khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung được

trình bày trong 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý thuyết

Chương 2: Phương pháp thực nghiệm tổng trở

2

Chương 3: Thực nghiệm

NỘI DUNG

Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT

Lí thuyết tổng trở điện hóa là một nhánh được phát triển từ lí thuyết

mạch điện xoay chiều mô tả về mức độ hồi đáp của một mạch điện với dòng

điện xoay chiều hay điện thế xoay chiều. Cơ sở toán học của lí thuyết này

nằm ngoài lĩnh vực được xem xét nên chúng ta chỉ đưa ra một số lí thuyết cơ

bản như sau:

1.1. Một số khái niệm về lí thuyết mạch xoay chiều

Chúng ta biết rằng tín hiệu xoay chiều hình sin được đặc trưng bởi thế

hiệu (U) hoặc dòng điện (I) phụ thuộc thời gian có dạng:

U = Uo sin(t) hoặc I = Io sin(t),

trong đó U0 và I0 là biên độ của thế hiệu và cường độ dòng điện,  là tần số

góc. Mối quan hệ giữa tần số góc (ω) và tần số (f) có dạng:

 = 2f.

Khi tín hiệu kích thích được diễn đạt như một hàm của thời gian:

U = U0.cos(ωt).

Dòng điện qua mạch khi đó có thể diễn đạt dưới dạng:

I = I0.cos(ωt – φ).

Trong đó  là góc lệch pha của dòng điện và thế hiệu.

Khi dòng điện trong mạch thoả mãn điều kiện chuẩn dừng, mối liên hệ

giữa cường độ dòng điện và thế hiệu tuân theo định luật Ohm. Trở kháng của

mạch là:

3

Nếu ta vẽ tín hiệu U dạng sin trên trục x và tín hiệu I trên trục y, ta sẽ

nhận được đồ thị có dạng oval được gọi là đường Lissajous. Phân tích đường

Lissajous trên màn hình dao động ký là phương pháp đã được sử dụng để đo

trở kháng trước khi có các phương pháp phân tích sự hưởng ứng tần số bằng

khuyếch đại Lock-in.

Ngoài ra, bằng phương pháp số phức, từ công thức Euler:

.

Khi đó, trở kháng có thể diễn đạt như một hàm phức. Điện thế và cường

độ dòng điện qua mạch khi đó có dạng:

U = U0.exp{j(ωt)}

I = I0. exp{j(ωt - φ)}

Do vậy trở kháng có thể được viết dưới dạng:

(1.1)

Trong trường hợp chỉ có điện trở thuần (Z = Z0 = R), cường độ dòng điện

I và thế hiệu U cùng pha với nhau.

I = U/R hay U = I.R.

Khi trong mạch có chứa các thành phần điện khác (dung kháng, cảm

kháng), cường độ dòng điện qua mạch và thế hiệu áp đặt lệch pha nhau.

Chẳng hạn, mạch điện trên hình 1.1 gồm R, C và L mắc nối tiếp. Khi cho

Hình 1.1: Mạch R, C và L

dòng điện I = I0.sinωt đi qua, ta có:

mắc nối tiếp.

Thông qua phép biến đổi ta được:

4

Hay:

Với Z là tổng trở của mạch:

(1.2)

Từ (1.1) và (1.2) suy ra phần thực và phần ảo của tổng trở Z:

Z’ = RealZ = Z0.cosφ = R (1.3)

(1.4) Z” = -ImZ = Z0.sinφ =

(1.5)

Trong điện hoá ít khi có thành phần cảm kháng L nên:

(1.6)

2)1/2

với XC = 1/(C). Độ lớn của Z:

(1.7) Z= Z0 = (R2 + XC

và góc lệch pha được xác định bởi:

(1.8)

Như vậy, tổng trở Z là một đại lượng phụ thuộc vào tần số của tín hiệu

xoay chiều, nó có thể được biểu diễn qua hai thành phần: thành phần thực và

thành phần ảo.

Nếu hai thành phần này được viết trên hai trục Z” và Z’ của hệ tọa độ

Đêcac vuông góc, ta có đường Nyquist, Sluyters, Cole – Cole hoặc đồ thị mặt

phẳng phức. Lưu ý rằng, trong đồ thị này, trục Z’ có giá trị âm và mỗi điểm

trên đường Nyquist là trở kháng ở một tần số.

Trên đồ thị Nyquist, trở kháng có thể được diễn đạt như một vectơ có

chiều dài Z và góc giữa vectơ và trục Z’ là φ (độ lệch pha giữa thế hiệu và

dòng điện qua bình điện hoá). Đồ thị Nyquist có một hạn chế, đó là, không

5

thể biết được tần số tại một điểm cụ thể trên đồ thị.

Đồ thị Nyquist trong hình 1.2 là của

mạch điện đơn giản bao gồm một điện trở

thuần và một tụ điện được mắc song song

với nhau. Hình bán nguyệt là đặc tính của

“hằng số thời gian” đơn. Đồ thị trở kháng

Hình 1.2: Đồ thị Nyquist với vectơ

điện hóa thường chứa một vài hằng số

trở kháng.

thời gian. Trong thực nghiệm, thường chỉ

có thể thấy được một phần của một hoặc

nhiều hơn các bán nguyệt của chúng.

Một phương pháp trình bày phổ biến khác cũng thường được sử dụng,

đó là đồ thị Bode. Trở kháng được viết theo logarit của tần số trên trục x và cả

hai giá trị bao gồm giá trị tuyệt đối của trở kháng |Z| = Zo hoặc logarit của Z’,

Z” và độ lệch pha được vẽ trên trục y của đồ thị. Không giống như đồ thị

Nyquist, đồ thị Bode có thể cho thấy rõ các thông tin về tần số.

Kỹ thuật phổ tổng trở chính là để xác định sự phụ thuộc của tổng trở

theo tần số. Thông thường các quá trình này được khảo sát trong vùng tần số

từ vài trăm mHz cho tới hàng chục MHz thậm chí GHz. Tuỳ vào đối tượng và

mục đích nghiên cứu mà người ta sử dụng khoảng tần số thích hợp. Đối với

các vật liệu có tính dẫn ion và các quá trình điện hoá, quá trình dẫn điện có sự

tham gia của các ion, hạt tải điện có độ linh động nhỏ hơn nhiều so với độ

linh động của điện tử vì vậy phép đo chỉ thích ứng trong khoảng tần số thấp

để các ion có thể đáp ứng sự biến đổi của điện trường ngoài. Để xác định các

tham số như độ dẫn điện, các tham số về quá trình dịch chuyển điện tích hay

hệ số khuếch tán của các ion trong các vật liệu bằng kỹ thuật phổ tổng trở

chúng ta phải dựa vào mối liên hệ của chúng với các thành phần điện trở hay

6

tụ điện trong sơ đồ mạch điện tương đương.

1.2. Các phần tử mạch điện của bình điện hóa

Một bình điện hoá có thể coi như mạch điện bao gồm những thành phần

chủ yếu sau (Hình 1.3a):

- Điện dung của lớp kép, đặc trưng bởi tụ điện Cdl.

- Tổng trở của quá trình Faraday Zf.

- Điện trở R0, đó là điện trở dung dịch giữa điện cực so sánh và điện cực

Hình 1.3: Mạch điện tương đương của một bình điện hoá.

làm việc.

Tổng trở Faraday Zf thường được phân thành hai cách tương đương:

- Điện trở Rs mắc nối tiếp với một giả điện dung Cs (Hình 1.3b).

- Điện trở chuyển điện tích Rct và tổng trở khuếch tán Waburg ZW đặc

trưng cho quá trình dịch chuyển khối lượng (Hình 1.3c). Trong các đại lượng

này chỉ có R0 không phụ thuộc tần số.

Nếu phản ứng chuyển điện tích dễ dàng Rct → 0 và Zw sẽ khống chế. Khi

phản ứng chuyển điện tích khó khăn thì Rct → ∞ thì Rct khống chế. Sơ đồ thứ

hai (Hình 1.3c) gọi là mạch Randles. Trong trường hợp này Zf còn được gọi là

tổng trở Randles và thường có ký hiệu là ZR.

1.2.1. Điện trở dung dịch điện ly

Điện trở dung dịch điện ly thường là thông số quan trọng trong tổng trở

7

của bình điện hoá. Potentiostat ba điện cực bù đắp cho điện trở dung dịch giữa

điện cực đối và điện cực so sánh. Tuy nhiên, điện trở dung dịch giữa điện cực

so sánh và điện cực làm việc phải kể đến khi làm mô hình bình điện phân.

Điện trở của dung dịch ion phụ thuộc vào mật độ ion, loại ion, nhiệt độ và

diện tích hình học trong đó dòng điện chạy qua. Trong diện tích giới hạn A,

chiều dài ℓ dòng điện chạy qua điện trở được xác định bằng:

(1.9)

Trong đó ρ là điện trở suất dung dịch, điện dẫn suất của dung dịch (σ)

thường được sử dụng trong tính điện trở dung dịch. Nó liên hệ với điện trở

dung dịch:

(1.10)

Đơn vị đo điện dẫn suất σ là Simen trên mét (S.m-1), 1 S = 1/Ω.

1.2.2. Điện dung lớp kép

Lớp điện kép tồn tại ở mặt tiếp giáp giữa điện cực và chất điện ly bao

quanh. Lớp kép này được hình thành khi các ion từ dung dịch bị giữ lại ở bề

mặt điện cực. Các điện tích trong điện cực bị phân tách với các điện tích của

các lớp ion này. Sự ngăn cách rất nhỏ, chỉ vào cỡ Å, tạo thành một tụ điện.

Giá trị của điện dung lớp kép phụ thuộc vào nhiều tham số bao gồm thế điện

cực, nhiệt độ, nồng độ ion, loại ion, lớp oxit, độ gồ ghề của điện cực, sự hấp

thụ tạp,…

1.2.3. Điện trở phân cực

Mỗi khi điện thế của điện cực có sự thay đổi ra khỏi giá trị của nó ở chế

độ mạch hở khi đó xuất hiện sự phân cực điện cực. Khi điện cực bị phân cực,

nó có thể gây ra dòng điện do các phản ứng điện hóa xuất hiện ở bề mặt điện

cực. Cường độ dòng điện được điều khiển bởi động học của các chất phản ứng

và sự khuyếch tán của các chất phản ứng theo hai hướng đi vào và đi ra khỏi

8

điện cực.

Trong các bình điện hoá, điện cực chịu sự ăn mòn đồng nhất ở chế độ

mạch hở, thế mạch hở được khống chế bởi sự cân bằng giữa hai phản ứng điện

hoá khác nhau. Một trong các phản ứng sinh ra dòng catôt và phản ứng còn lại

sinh ra dòng anôt. Thế mạch hở cuối cùng ở điện thế mà khi đó các dòng catôt

và anôt bằng nhau. Nó được qui cho bằng điện thế tổng hợp. Giá trị của dòng

điện đối với phản ứng này hay phản ứng kia được gọi là dòng điện ăn mòn.

Sự điều khiển thế hỗn hợp cũng xuất hiện trong các bình điện hoá khi mà điện

cực không bị ăn mòn. Các kết quả đưa ra về các phản ứng ăn mòn vẫn có khả

năng áp dụng được trong các trường hợp không ăn mòn.

Trường hợp đơn giản, khi có hai phản ứng được điều khiển động, thế của

bình điện hoá liên hệ với dòng theo công thức Butler-Volmer:

(1.11)

Ở đây: I - cường độ dòng đo được qua bình điện hoá (A).

Icorr - cường độ dòng ăn mòn (A).

Eoc - thế hở mạch (V).

a - hệ số Tafel ở anôt (V/10).

c - hệ số Tafel ở catôt (V/10).

Nếu chúng ta sử dụng tín hiệu E sao cho E - Eoc là nhỏ, từ phương trình

(1.11) nhận được [4]:

. (1.12)

Phương trình (1.12) đưa vào một tham số mới, Rp, đó là điện trở phân

cực. Điện trở phân cực có tính chất giống như một điện trở thuần.

Nếu biết được hằng số Tafel, Icorr có thể được xác định theo Rp khi sử

9

dụng phương trình (1.12). Icorr có thể được sử dụng để tính tốc độ ăn mòn.

1.2.4. Điện trở dịch chuyển điện tích

Điện trở dịch chuyển điện tích là điện trở hình thành bởi phản ứng điện

hoá được khống chế động. Trong trường hợp này không có điện thế tổng hợp,

nhưng có một phản ứng đơn ở trạng thái cân bằng.

Xét một đế kim loại trong tiếp xúc với chất điện ly. Các phân tử kim loại

có thể hoà tan điện phân vào trong chất điện ly, theo phương trình:

Me ↔ Men+ + ne - (1.13)

Hoặc tổng quát hơn:

Red ↔ Ox + ne - (1.14)

Theo chiều thuận của phương trình (1.13), các điện tử đi vào kim loại và

các ion kim loại khuếch tán vào chất điện ly. Khi đó điện tích được dịch

chuyển. Phản ứng dịch chuyển điện tích này có tốc độ phụ thuộc vào loại phản

ứng, nhiệt độ, mật độ của các sản phẩm phản ứng và điện thế. Mối liên quan

tổng quát giữa điện thế và dòng điện [4]:

. (1.15)

* - nồng độ chất ôxi hoá ở bề mặt điện cực và trong khối;

Trong đó: i0 - mật độ dòng điện trao đổi

* - nồng độ chất khử ở bề mặt điện cực;

C0, C0

CR, C0

F - hằng số Faraday

T - nhiệt độ

R - hằng số khí

α - bậc phản ứng

n - số electron bị hấp thụ

η - hiệu điện thế (E – E0)

Hiệu điện thế (η) là điện thế điện cực trừ điện thế cân bằng đối với phản

10

ứng biểu thị mức độ phân cực.

* và CR =

*. phương trình (1.15) đơn giản thành:

Khi nồng độ trong khối tương tự như ở bề mặt điện cực, C0 = C0

CR

(1.16)

Phương trình này được gọi là phương trình Butler-Volmer. Nó có thể ứng

dụng khi sự phân cực phụ thuộc chỉ vào động lực học dịch chuyển điện tích.

Quá trình khuấy sẽ làm cực tiểu những ảnh hưởng khuếch tán và giữ giả định

Co = Co* và CR = CR* có hiệu lực.

Khi hiệu điện thế, η, rất nhỏ và hệ điện hoá ở trạng thái cân bằng, biểu

thức cho điện trở dịch chuyển điện tích đổi thành [4]:

(1.17)

Từ phương trình này sự thay đổi mật độ dòng điện có thể được tính khi

biết Rct.

1.2.5. Sự khuếch tán

Sự khuếch tán có thể tạo ra tổng trở được biết như tổng trở Warburg.

Tổng trở này phụ thuộc tần số của điện thế áp đặt. Ở các tần số cao tổng trở

Warburg nhỏ vì các chất phản ứng khuếch tán không phải dịch chuyển xa. Ở

các tần số thấp, các chất phản ứng phải khuếch tán xa hơn, do đó làm tăng

tổng trở Warburg. Phương trình cho tổng trở Warburg “vô hạn” là:

Z = δ(ω)-1/2(1 – j) (1.18)

Trong giản đồ Nyquist tổng trở Warburg vô hạn xuất hiện bằng đường

chéo với độ dốc bằng 0,5. Trong giản đồ Bode, tổng trở Warburg biểu lộ sự

thay đổi pha bằng 45o.

Trong phương trình (1.18), δ là hệ số Warburg định nghĩa bằng:

11

(1.19)

Trong đó: ω - tần số góc

D0 - hệ số khuếch tán của chất oxi hoá

DR - hệ số khuếch của chất khử (chất hoàn nguyên)

A - diện tích bề mặt của điện cực

n - số electron dịch chuyển

C* - nồng độ khối của các hạt khuếch tán (mol/cm3)

Công thức (1.18) của tổng trở Warburg chỉ phù hợp nếu lớp khuếch tán

có độ dày vô hạn. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp không thoả mãn điều

kiện này. Nếu lớp khuếch tán là giới hạn, tổng trở ở các tần số thấp không

tuân theo phương trình (1.18) nữa. Khi đó tổng trở Warburg có dạng:

(1.20)

Với d - độ dầy lớp khuếch tán Nernst; D - Giá trị trung bình của các hệ số

khuếch tán của các hạt khuếch tán.

Phương trình này được gọi là Warburg “hữu hạn”. Đối với các tần số

cao, khi mà , hoặc đối với lớp khuyếch tán có chiều dài vô hạn d,

phương trình trên đơn giản thành phương trình trở kháng Warburg vô hạn.

1.2.6. Điện dung lớp phủ

Tụ điện được hình thành khi hai lớp dẫn được ngăn cách bởi môi trường

không dẫn điện, được gọi là điện dung lớp phủ. Giá trị của điện dung phụ

thuộc vào kích thước của các lớp, khoảng cách giữa các lớp và tính chất của

điện môi. Mối quan hệ là:

(1.21)

Trong đó: ε0 - hằng số điện môi;

εr - hằng số điện môi tương đối;

A - diện tích bề mặt của một lớp;

12

d - khoảng cách giữa hai lớp.

Chú ý: Điện dung của chất nền phủ thay đổi khi nó hấp thụ nước. Phổ tổng trở

điện hoá thường được sử dụng để đo sự thay đổi đó.

1.2.7. Thành phần pha không đổi

Các tụ điện trong các thực nghiệm phổ tổng trở điện hoá thường không

phải là tụ điện lý tưởng. Thay vào đó, chúng thể hiện như một thành phần pha

không đổi (CPE) được định nghĩa như sau:

Trở kháng thành phần pha không đổi (CPE) có dạng:

Z = A(jω)-α (1.22)

Đối với tụ điện, hằng số A = 1/C (nghịch đảo của điện dung) và số mũ

α = 1. Đối với thành phần pha không đổi, số mũ α nhỏ hơn 1.

“Tụ điện lớp kép” trong các bình điện hoá thực thường thể hiện giống

như một CPE thay vì như một tụ điện lý tưởng. Một vài lý thuyết được đưa ra

để tính cho tính không lý tưởng của lớp kép nhưng đều không được chấp nhận

phổ biến. Trong hầu hết trường hợp, chúng được xử lý bằng kinh nghiệm mà

không cần quan tâm đến cơ sở vật lý của chúng.

1.3. Các mô hình mạch tương đương thông dụng

Trong phần này tôi trình bày một số mô hình mạch tương đương thông

dụng. Các mô hình mạch tương đương này có thể được sử dụng để giải thích

Bảng 1.1: Các thành phần mạch được sử dụng trong các mô hình

số liệu phổ tổng trở điện hoá đơn giản.

Thành phần tương

Độ dẫn nạp

Tổng trở

đương

R

R

1/R

C

1/jωC

JωC

L

jωL

1/jωL

W (Warburg vô hạn)

Y0

1/Y0

O (Warburg hữu hạn)

Q (CPE)

Y0(jω)α

1/Y0(jω)α

13

Các thành phần được sử dụng trong các mạch tương đương được liệt kê

trong bảng 1.1. Các phương trình cho đồng thời độ dẫn và tổng trở được đưa

ra đối với mỗi thành phần. Các lượng biến đổi được sử dụng trong các phương

trình này là R, C, L, Y0, B và α.

1.3.1. Mô hình lớp phủ thuần điện dung

Kim loại bao bọc với lớp phủ

hoàn chỉnh, nói chung có tổng trở rất

Hình 1.4: Điện dung lớp phủ thuần

cao. Mạch tương đương trường hợp

này được biểu diễn trong hình 1.4.

Mô hình bao gồm điện trở (cơ bản

của chất điện ly) và điện dung lớp

phủ mắc nối tiếp.

Giản đồ Nyquist cho mô hình

này cho thấy trong hình 1.5. Giá trị

của tụ điện không thể xác định được

Hình 1.5: Giản đồ Nyquist tiêu biểu

từ giản đồ Nyquist. Nó có thể được

cho lớp phủ điển hình.

xác định bởi đường cong trùng khít

hoặc từ sự xem xét của các điểm dữ

liệu. Phần bị chặn của đường cong với trục thực cho phép ước lượng điện trở

dung dịch. Tổng trở lớn nhất trên đồ thị này gần tới 1010 Ω sát tới giới hạn của

phép đo tổng trở của hầu hết các hệ EIS.

Hình 1.6 biểu thị giản đồ Bode cho mô hình lớp phủ trong hình 1.4. Chú

ý rằng điện dung có thể được ước tính từ đồ thị nhưng giá trị điện trở dung

dịch không xuất hiện trên đồ thị. Sự hấp thụ nước vào màng thường là quá

trình khá chậm. Nó có thể được đo bởi EIS ở các khoảng thời gian cài đặt sẵn.

14

Sự tăng trong điện dung màng được qui cho sự hấp thụ nước.

Hình 1.6: Giản đồ Bode tiêu biểu cho lớp phủ điển hình.

1.3.2. Mô hình bình điện hoá Randles

Bình điện hoá Randles là một trong

những mô hình bình điện hoá phổ biến và

đơn giản nhất, bao gồm một điện trở dung

dịch (Rs), một tụ điện lớp kép (Cdl) và một

Hình 1.7: Biểu đồ sơ đồ bình

điện trở dịch chuyển điện tích hoặc phân

cực (Rct hoặc Rp). Ngoài tính hữu dụng của

nó, mô hình bình điện hoá Randles thường là điểm khởi đầu cho các mô hình

khác phức tạp hơn.

Mạch tương đương cho bình đo

Randles cho thấy trong hình 1.7. Điện

dung lớp kép song song với tổng trở vì

chống lại sự dịch chuyển điện tích.

Giản đồ Nyquist cho bình điện hoá

Randles luôn là một bán nguyệt (Hình

1.8). Điện trở dung dịch có thể xác định

Hình 1.8: Giản đồ Nyquist ứng

được bằng cách đọc giá trị trên trục thực

với mạch Randles.

ở điểm chặn tần số cao. Đây là điểm

chặn gần như bắt đầu của giản đồ. Giản

15

đồ Nyquist được tạo ra trong hình 1.8 với giả định Rs = 20 Ω và Rp = 270 Ω.

Giá trị trục thực ở điểm chặn về phía tần số thấp là tổng của điện trở phân cực

và điện trở dung dịch (Rs + Rp). Đường kính của bán nguyệt do đó bằng điện

Hình 1.9: Giản đồ Bode cho bình điện hoá Randles điển hình.

trở phân cực (Rp).

Hình 1.9 là giản đồ Bode cho bình điện hoá Raldles. Điện trở dung dịch

và tổng của điện trở dung dịch và điện trở phân cực có thể đọc được từ giản

đồ cường độ. Góc pha không đạt tới 900 như đối với tổng trở điện dung thuần.

Nếu các giá trị đối với Rs và Rp tách xa nhau rộng hơn pha sẽ tiến tới 90o.

1.3.3. Mô hình động lực học hỗn hợp và khống chế khuếch tán

Bình điện hoá được quan tâm đầu tiên

gồm một phần tử, ở đó sự khuyếch tán bán

vô hạn, nối tiếp với một điện trở dung dịch

như tổng trở bình điện hoá khác. Giản đồ

Nyquist cho phần tử này được được biểu

diễn trong hình 1.10. Rs được giả định

Hình 1.10: Giản đồ Nyquist

khoảng 20 . Hệ số Warburg được tính

đối với trở kháng Warburg.

vào khoảng 120 .s-1/2 ở nhiệt độ phòng.

Chú ý: tổng trở Warburg xuất hiện như

một đường thẳng với độ dốc 45°. Cũng dữ liệu như vậy được vẽ dưới dạng

16

Bode trong hình 1.11. Góc pha của tổng trở Warburg là 45°.

Hình 1.11: Đồ thị Bode của một trở kháng Warburg

Thêm vào một điện dung lớp kép

và một trở kháng dịch chuyển điện tích,

chúng ta có mạch tương đương như

Hình 1.12: Mạch tương đương với

hình 1.12. Mạch này mô phỏng một

động học hỗn hợp và khống chế

bình điện hoá ở đó sự phân cực là kết

dịch chuyển điện tích

quả của các quá trình động học và

khuyếch tán. Giản đồ Nyquist cho mạch

này được mô tả trong hình 1.13. Hệ số

Warburg được giả định vào khoảng 150

.s-1/2.

Giản đồ Bode cho dữ liệu tương tự

được cho thấy trên hình 1.14. Giới hạn

tần số thấp đã được dời xuống tới 1

Hình 1.13: Giản đồ Nyquist đối

mHz để mô tả tốt hơn sự khác biệt trong

với mạch khống chế hỗn hợp.

độ dốc của cường độ và pha giữa tụ điện

và tổng trở Warburg. Lưu ý rằng pha

17

gần như 45° ở tần số thấp.

Hình 1.14: Giản đồ Bode cho mạch khống chế hỗn hợp

1.3.4. Mô hình lớp phủ kim loại

Tính chất tổng trở của điện dung lớp phủ thuần đã được trao đổi trong

mục 1.3.1. Hầu hết các lớp phủ bị suy biến theo thời gian, dẫn đến các tính

chất phức tạp hơn. Sau một thời gian xác định, nước thấm vào lớp phủ và hình

thành lớp tiếp giáp chất lỏng/kim loại mới dưới lớp phủ. Hiện tượng ăn mòn

có thể xuất hiện ở trên lớp tiếp giáp mới này.

Tổng trở của các kim loại phủ nghiên cứu rất khó. Sự giải thích dữ liệu

tổng trở từ lớp phủ suy biến có thể rất phức tạp. Ở đây chỉ với mạch tương

đương đơn giản cho thấy trong hình 1.15 được trao đổi. Thậm chí mô hình

đơn giản này đã từng là nguyên nhân

tranh luận trong các tài liệu. Hầu hết các

nhà nghiên cứu đồng ý rằng mô hình này

có thể được sử dụng để đánh giá chất

Hình 1.15: Mạch tương đương

lượng của lớp phủ. Tuy nhiên, họ không

cho lới phủ suy biến.

đồng ý quá trình vật lý tạo ra các phần tử

mạch tương đương. Do đó, dưới đây chỉ

là một trong số những giải thích của mô hình này.

Điện dung của lớp phủ còn nguyên vẹn được ký hiệu là Cc, giá trị của nó

nhỏ hơn nhiều diện dung lớp kép điển hình. Rpo (điện trở lỗ xốp) là điện trở

18

của các kênh dẫn phát triển trong lớp phủ. Các kênh này có thể không phải là

các lỗ xốp được làm đầy với chất điện ly. Trên mặt kim loại có lỗ xốp, chúng

ta giả sử rằng diện tích của lớp phủ đã bị phân lớp và hình thành các túi được

lấp đầy với dung dịch điện ly. Dung dịch điện ly này có thể rất khác so với

dung dịch khối bên ngoài lớp phủ. Mặt tiếp giáp giữa túi dung dịch này và kim

loại trần được mô phỏng như một tụ điện lớp kép song song với điện trở dịch

chuyển điện tích khống chế động học.

Khi sử dụng EIS để kiểm tra lớp

phủ, sự trùng khít cho phép ước tính giá

trị các thông số của mô hình, như điện

trở lỗ xốp hoặc điện dung lớp kép. Dựa

vào các thông số này để đánh giá chất

lượng của lớp phủ. Giản đồ Nyquist cho

Hình 1.16: Giản đồ Nyquist cho

mô hình này được cho thấy trong hình

lớp phủ suy biến.

1.16. Chú ý: có hai hằng số thời gian

định rõ trên giản đồ này.

Hình 1.17 biểu diễn giản đồ Bode cho mô hình này. Hai hằng số thời

gian có thể quan sát thấy nhưng kém rõ so với giản đồ Nyquist. Giản đồ Bode

không tới tần số đủ cao để đo điện trở dung dịch. Trong thực nghiệm, khi

Hình 1.17: Giản đồ Bode cho lớp phủ không hoàn thiện.

19

kiểm tra lớp phủ, nó thường không được chú ý.

Chương 2. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM TỔNG TRỞ

2.1. Các phương pháp đo tổng trở điện hóa

2.1.1. Phương pháp hai điện cực

Dạng cơ bản nhất của bình điện hoá hai điện cực nhúng trong chất điện

ly được mô tả trong hình 2.1. Dòng điện

qua bình khi giữa hai điện cực được áp đặt

Hình 2.1: Bình điện hoá hai

một thế hiệu. Các điện cực bao gồm: điện

điện cực.

cực làm việc (WE), ở đó mặt tiếp giáp

chất điện ly và điện cực được nghiên cứu

và điện cực đối (SE), chúng cho phép dòng điện qua bình điện hoá. Sự sắp

xếp kiểu này được sử dụng để nghiên cứu các tính chất điện ly, như độ dẫn,

khi đó thông số chính là điện trở chất điện ly.

2.1.2. Phương pháp ba điện cực

Trong các trường hợp cần khảo

sát phản ứng ở điện cực làm việc,

mối quan hệ giữa dòng điện và điện

Hình 2.2: Bình điện hoá ba điện cực

thế điều khiển phản ứng này cần

được xác định, điện cực thứ ba (điện

cực so sánh RE) được thêm vào (Hình 2.2).

Đo điện thế giữa điện cực làm việc và điện cực so sánh cho phép thay

đổi điện thế của điện cực làm việc cần để gây ra dòng điện xác định truyền

qua. Thông thường điện cực so sánh được tách biệt với điện cực làm việc,

trong một ngăn riêng biệt. Ngăn được liên kết với điện cực làm việc bởi ống

thuỷ tinh hẹp (ống mao dẫn Luggin) chúng chứa chất điện ly. Điều đó cho

phép phân biệt các tính chất khối của chất điện ly từ các tính chất bề mặt phân

cách. Sự sắp xếp làm tăng thêm một điện trở nhỏ (trong một vài trường hợp là

20

đáng kể) vì chất điện ly giữa đầu của ống mao dẫn Luggin và điện cực làm

việc. Chúng có thể được giảm tối thiểu bởi sự đặt hai điện cực gần nhau mà

không làm nhiễu dòng qua điện cực làm việc.

2.1.3. Phương pháp bốn điện cực

Bình điện hoá bốn điện cực

có thể được sử dụng để đưa ra sự

Hình 2.3: Bình điện hoá bốn điện cực.

phân tích những quá trình xảy ra

trong chất điện ly, giữa hai điện

cực đo phân tách, thí dụ, bằng màng. Trong trường hợp này mục đích của các

điện cực làm việc và điện cực đối chỉ là cho phép dòng điện chảy qua. Điều

đó cho phép nghiên cứu sự dịch chuyển ion xuyên qua màng (Hình 2.3).

2.2. Mạch tương đương và đặc trưng phổ tổng trở của mẫu đo ba điện cực

Các nghiên cứu về quá trình điện hoá cho thấy phép đo ba điện cực có sơ

đồ mạch điện tương đương dạng

mạch Randle như biểu diễn trong

hình 1.3. Bằng tính toán lý thuyết

[2], [4] người ta đã xác định được

mối liên hệ của Rs và Cs với tần

số theo biểu thức sau:

Rs = Rct + δ/1/2 (2.1)

Hình 2.4: Dạng phổ tổng trở của bình

và Cs = 1/(δ.1/2 ) (2.2)

điện hoá ba điện cực.

δ - hệ số Waburg được xác định

bằng công thức (1.19):

Phổ tổng trở của mạch tương đương theo phần thực và phần ảo được

biểu diễn theo công thức [2], [4]:

21

(2.3)

(2.4)

Ở vùng tần số thấp,   0, biểu thức (2.3), (2.4) có dạng rút gọn:

(2.5) ZRe = R0 + Rct + δ-1/2

(2.6) Zim = δ-1/2 + 2δ2Cd

Loại bỏ tần số  trong hai phương trình trên ta có:

Zim = ZRe - Ro - Rct + 2δ2Cd (2.7)

Như vậy phổ tổng trở biểu diễn trên mặt phẳng phức theo phần thực và

phần ảo đối với trường hợp giới hạn tần số thấp (  0) có dạng đường thẳng

với độ dốc bằng đơn vị và kéo dài sẽ cắt trục thực tại giá trị bằng:

ZRe = Ro + Rct - 2δ2Cd (2.8)

Trong vùng tần số cao biểu thức (2.3) và (2.4) được rút gọn:

(2.9)

(2.10)

Từ hai biểu thức này chúng ta nhận được biểu thức liên hệ giữa phần

thực và phần ảo có dạng:

(2.11)

Phương trình (2.11) biểu diễn trên mặt phẳng phức có dạng một nửa

đường tròn. Nửa đường tròn này cắt trục thực tại R0 khi tần số tiến tới vô cùng

và tại (R0 + Rct) khi tần số tiến tới 0. Từ giá trị Rct thu được từ thực nghiệm có

thể xác định độ dẫn ion () của vật liệu theo công thức (1.10).

2.3. Phổ tổng trở của mẫu đo hai điện cực

Việc xác định phổ tổng trở của một mẫu đo hai điện cực có dạng kiểu

22

bánh kẹp gồm hai điện cực phẳng song song ở giữa là chất điện phân được

đưa ra bởi Mac Donall và được sử dụng rất hữu hiệu trong nghiên cứu các

chất dẫn ion. Theo cách xử lý này, tổng trở là một hàm của tần số được kết

Hình 2.5: Sơ đồ tương đương ở các vùng tần số khác nhau và phổ tổng trở

ở mẫu đo hai điện cực

hợp bởi ba vòng cung tương ứng với ba khoảng tần số khác nhau (Hình 2.5).

- Vùng tần số cao: Khi không có quá trình dịch chuyển điện tích tại biên

phân cách giữa các điện cực và chất điện ly. Sơ đồ tương đương như trên

Hình 2.5.a, trong đó điện dung hình học Cg là điện dung hình thành giữa hai

điện cực song song và chất điện ly; Rb là điện trở lớp điện ly. Phổ tổng trở của

trường hợp này là đường cong Arc3.

- Vùng tần số trung bình: Trong vùng tần số này ảnh hưởng của điện

dung hình học không còn. Khi đó tổng trở được quyết định bởi điện dung của

lớp kép hình thành tại vùng tiếp xúc giữa chất điện ly và điện cực. Nó cho

phép quá trình dịch chuyển điện tích tại biên phân cách do các phản ứng bề

mặt. Sơ đồ mạch tương đương biểu diễn ở Hình 2.5.b với Rct là điện trở dịch

chuyển điện tích, Cdl- điện dung lớp kép (lớp Helmholtz). Phổ tổng trở có

dạng đường cong Arc2.

23

- Vùng tần số thấp: Do tần số thấp nên số các điện tích dịch chuyển trong

nửa chu kỳ đầu có tác dụng gây ra một gradien nồng độ trong chất điện phân.

Đường biểu diễn phổ tổng trở Arc3 có đoạn tuyến tính với độ dốc bằng đơn

vị. Khi tần số thấp hơn nữa các thăng giáng nồng độ và sự phân bố các trạng

thái giả bền phát triển và khi đó đường cong phổ tổng trở sẽ dần dần trở về

trục điện trở thực. Sơ đồ mạch điện tương đương có dạng như hình 2.5.c.

Tóm lại, để khảo sát các tham số của vật liệu trên cơ sở kỹ thuật phổ

tổng trở đòi hỏi phải xác định sơ đồ mạch điện tương đương của mẫu đo được

chế tạo. Các tham số được xác định thông qua việc xác định các giá trị của

các thành phần điện trở và tụ điện của mạch tương đương trên cơ sở biểu diễn

phổ tổng trở trên mặt phẳng phức.

2.4. Sự trùng khít bình phương tối thiểu không tuyến tính

Các phân tích EIS hiện đại sử dụng máy tính để tìm ra các tham số mô

hình tạo ra sự phù hợp tốt nhất giữa phổ trở kháng của mô hình và phổ trở

kháng thực nghiệm. Đối với hầu hết các phần mềm phân tích dữ liệu EIS,

thuật toán làm khớp bình phương tối thiểu không tuyến tính (non-linear least

squares fitting-NLLS) Levenberg-Marquardt được sử dụng [6].

NLLS bắt đầu với các ước đoán đầu tiên cho tất cả các tham số của mô

hình được cung cấp bởi người sử dụng. Bắt đầu từ điểm này, thuật toán tạo ra

các thay đổi trong một vài hoặc tất cả các giá trị tham số và đánh giá các kết

quả làm khớp. Nếu sự thay đổi làm cho đường trùng khít kém hơn, giá trị

tham số cũ được giữ lại. Tiếp đó một giá trị tham số khác được thay đổi và

quá trình kiểm tra được lặp lại. Quá trình cứ tiếp tục đến khi đường làm khớp

đạt được tiêu chuẩn chấp nhận, hoặc tới khi số lần kiểm tra đạt đến giới hạn.

Thuật toán NLLS là không hoàn hảo. Trong một số trường hợp chúng không

tạo nên một đường làm khớp hữu ích. Điều đó có thể là nguyên nhân của một

số nhân tố bao gồm:

- Một mô hình không thích hợp cho dữ liệu được chọn để trùng khít;

- Các giá trị ban đầu được ước lượng không phù hợp;

24

- Nhiễu.

Chương 3. THỰC NGHIỆM

3.1. Độ dẫn ion Li+ của perovskite La0,67-xLi3xTiO3 dạng khối

Độ dẫn ion Li+ của các mẫu perovskite La0,67-xLi3xTiO3 chế tạo bằng

phương pháp phản ứng pha rắn [9] được xác định bằng phép đo phổ tổng trở

xoay chiều phụ thuộc tần số f. Mẫu đo dạng đồng xu với hai điện cực kiểu

bánh kẹp.

Khi dải tần số sử dụng để đo phổ tổng trở đủ rộng (chẳng hạn từ 0,1 Hz

tới 30 MHz thậm chí 100 MHz), giản đồ tổng trở trong mặt phẳng phức gồm

ba phần riêng biệt. Bán nguyệt ở vùng tần số rất cao cao (trên 0,1 MHz) liên

quan tới quá trình dẫn ion khối của vật liệu [3], [5], bán nguyệt ở vùng tần số

thấp hơn (nó có thể mở rộng tới các tần số khoảng 10 Hz) liên quan tới quá

trình dẫn ion trong biên hạt [5], [7], [10], [11], và phần đường thẳng ở vùng

tần số thấp (nhỏ hơn 10Hz) liên quan tới quá trình khuếch tán của các ion Li+

trên lớp Helmholtz giữa điện cực và chất điện ly rắn dẫn ion. Trong thực tiễn,

chúng ta thường không quan sát thấy thấy đồng thời tất cả ba sự đáp ứng kể

trên vì sự hạn chế của dải tần số của dụng cụ đo được sử dụng hoặc vì ba sự

đáp ứng này tồn tại lấn lên nhau.

Hình 3.1 là giản đồ Nyquist biểu diễn sự phụ thuộc phần thực Z’ vào

phần ảo Z” của tổng trở. Phép đo được tến hành tại nhiệt độ phòng, trên hai

dải tần số khác nhau. Hình 3.1a biểu thị phổ tổng trở của mẫu đo được trên

dải tần số cao (30 MHz ÷ 300 kHz), có dạng là một bán nguyệt. Hình 3.1b

biểu thị phổ tổng trở của mẫu trong vùng tần số thấp hơn, nó cũng có dạng là

một bán nguyệt và có thể mở rộng tới các tần số rất thấp (cỡ 1 Hz). Điểm

chặn của bán nguyệt thứ nhất bởi trục thực Z’ về phía tần số thấp được xem

như điểm chặn của bán nguyệt thứ hai bởi trục thực về phía tần số cao. Cả hai

bán nguyệt đều có đường kính giảm khi nhiệt độ tăng. Bán nguyệt thứ nhất

25

được qui cho độ dẫn suất khối (σb) của vật liệu. Bán nguyệt thứ hai được qui

cho sự dẫn biên hạt [3], [15], [7]. Sự khác nhau về bề rộng trong phổ giữa

vùng tần số cao và vùng tần số trung bình đơn giản là bởi sự khác nhau về

a)

b)

Hình 3.1: Giản đồ Nyquist của mẫu La0,67-xLi3xTiO3 đo tại nhiệt độ phòng: a)

trong dải tần số 30 MHz ÷ 0,3MHz, b) trong dải tần số 1MHz ÷ 0,1 Hz.

thang đo trên các trục.

Khi phép đo được tiến hành trên hệ AutoLab. Potentiostat 302V, có dải

tần số đo từ 1 MHz ÷ 0,1 Hz, phổ tổng trở mà chúng ta quan sát thấy chỉ gồm

một bán nguyệt trong vùng tần số từ 1 MHz và kết thúc trong vùng tần số cỡ

một vài chục Hz, chúng được qui cho sự dẫn ion Li+ trong biên hạt. Điện trở

tổng cộng (Rb+Rgb) và điện trở khối (Rb) của các mẫu vì thế nhận được từ các

điểm chặn bên phải và bên trái của đường bán nguyệt với trục thực trong các

giản đồ, tương ứng [3], [7]. Giá trị của điện trở biên hạt (Rgb) đơn giản là sự

khác nhau giữa (Rb+Rgb) và Rb.

Để xác định chính xác hơn các giá trị điện trở đặc trưng cho hạt và biên

hạt, chương trình trùng khít không tuyến được sử dụng. Nhờ phương pháp

này cho phép chúng ta có thể phân biệt sự đóng góp của các quá trình dịch

26

chuyển điện tích trong hạt, biên hạt cũng như quá trình xảy ra trên biên tiếp

xúc giữa điện cực chặn và chất điện ly [12]. Qua thực nghiệm và phân tích

cấu hình của mẫu đo tổng trở

kiểu bánh kẹp với các điện

cực chặn (Au, Ag hoặc Al)

Hình 3.2: Mạch tương đương dùng để trùng

được chế tạo bằng phương

khít phổ tổng trở của các mẫu.

pháp bốc bay trong chân

không. Phổ tổng trở của các

mẫu đo tổng trở La0,67-xLi3xTiO3 kiểu bánh kẹp, Ag  LLTO  Ag, có thể được

trùng khít tốt bởi mạch tương đương Rb(CgbRgb)(RcQc)(Cin[Rin(CdlW)]) được

mô tả trên hình 3.2, trong đó Rb là điện trở đặc trưng cho sự dẫn ion trong

hạt; Rgb và Cgb là điện trở và điện dung biên hạt đặc trưng cho sự dẫn ion

trong biên hạt; Rin và Cin là điện trở và điện dung của màng thụ động của bề

mặt tiếp giáp giữa điện cực Ag và chất điện ly; W và Cdl là tổng trở Warburg

đặc trưng cho sự khuếch tán

điện tích và điện dung lớp kép

của tiếp giáp điện cực/chất điện

ly (La0,67-xLi3xTiO3); Rc, Qc,

tương ứng là điện trở, thành

phần pha không đổi (CPE), liên

quan tới điện cực.

Hình 3.3 cho thấy có sự

Hình 3.3: Phổ tổng trở của mẫu đo La0,67-

xLi3xTiO3 (x=0,11): số liệu thực nghiệm

trùng khít tốt giữa phổ tổng trở

(các vòng tròn nhỏ) và đường trùng khít

nhận được từ mạch tương

nhận từ mạch tương đương.

đương (Hình 3.2) và số liệu

nhận được từ thực nghiệm. Kết

quả trùng khít được liệt kê trong bảng 3.1. Vậy, bằng phương pháp trùng khít,

chúng tôi có thể xác định được chính xác các giá trị đặc trưng cho mẫu đo,

27

đặc biệt là điện trở Rb và Rgb đặc trưng cho độ dẫn khối và độ dẫn biên hạt

của mẫu. Điện trở toàn phần của mẫu đo đơn giản là sự nối tiếp của điện trở

Bảng 3.1: Kết quả nhận được khi trùng khít phổ thực nghiệm với mạch

tương đương (Hình 3.3).

Phần tử mạch

Giá trị

Sai số

192,0

1,833

Rb (Ω)

7,60

13,967

Rgb (kΩ)

32,8

8,151

Cgb (nF)

14.03

46,457

Rc (kΩ)

0,6828e-09

39,517

Qc Y0

n

0,5705e+00

0,757

48,6

10,976

Cin (nF)

17,92

5,443

Rin (kΩ)

1,234

37,028

Cdl (μF)

W

0,7071e-05

1,840

Rb và Rgb, tức là: Rtp = Rb + Rgb.

Với kích thước mẫu đo có chiều dày l = 1,2 mm, diện tích điện cực A =

0,5 cm2. Dựa trên công thức (1.10), độ dẫn suất ion Li+ (b và σgb) của mẫu

được xác định có giá trị là:

σb = 1,25×10-3 S.cm-1

σgb = 3,15×10-5 S.cm-1.

3.2. Độ dẫn ion Li+ của màng mỏng La0,67-xLi3xTiO3

Màng La2/3-xLi3xTiO3 (LLTO) được chế tạo bằng phương pháp bốc bay

chùm tia điện tử [13] và ủ nhiệt sau khi lắng đọng tại 300 0C trong 1 giờ. Để

xác định độ dẫn ion Li+ của màng, lớp điện cực bạc hoặc vàng được phủ lên

trên màng bằng phương pháp bốc bay nhiệt theo cấu hình bánh kẹp (ITO /

LLTO / Ag).

Các phép đo tổng trở xoay chiều đối với mẫu màng mỏng LLTO dẫn ion

28

Li+ được thực hiện trên hệ AutoLab. PGS-30 trong dải tần số từ 1 MHz tới 1

Hz với tín hiệu xoay chiều 0,02 V. Qua thực nghiệm cho thấy tùy thuộc vào

độ dày của màng LLTO, dạng phổ tổng trở, do vậy, mạch điện tương đương

được sử dụng để trùng khít có dạng khác nhau. Để có thể đưa ra sơ đồ tương

đương phù hợp, chúng tôi sử dụng chương trình phân tích số liệu tổng trở

bằng phương pháp trùng khít phổ thực nghiệm với đường cong lý thuyết.

Chương trình này cho phép chúng ta lựa chọn các mạch tương đương với các

thành phần và cách mắc đa dạng. Mỗi một mạch tương đương sẽ có đường

cong lý thuyết tương ứng, trên cơ sở đó chúng tôi đã tìm ra mạch tương

Hình 3.4: Giản đồ Nyquist của màng LLTO (x = 0,11), độ dầy 267 nm,

đo tại nhiệt độ phòng.

Hình 3.5: Sơ đồ mạch tương đương được dùng để trùng khít với phổ tổng trở

của các màng có dạng như hình 3.4.

29

đương cho đường cong lý thuyết phù hợp tốt nhất với số liệu thực nghiệm.

Đối với các màng mỏng LLTO có độ dày từ 250 ÷ 450 nm, giản đồ

Nyquist của phổ tổng trở có dạng như hình 3.4. Giản đồ lồng cho thấy rõ nét

hơn hình bán nguyệt của giản đồ ở vùng tần số cao. Phổ tổng trở bao gồm hai

phần: phần ở vùng tần số cao có dạng bán nguyệt đặc trưng cho độ dẫn ion

Li+ của màng LLTO, nửa đường thẳng ở vùng tần số thấp đặc trưng cho sự

khuếch tán ion Li+ trên lớp Helmholtz xuất hiện tại lớp tiếp giáp giữa LLTO

và điện cực chặn. Mạch điện tương đương dùng để trùng khít với số liệu thực

nghiệm được mô tả trong hình 3.5. Trong sơ đồ này có thể chia ra thành ba

thành phần với sự đóng góp khác nhau vào tổng trở của mạch. Đó là: Thành

phần I chỉ có một điện trở thuần R1 mắc nối tiếp với toàn mạch bao gồm điện

trở của điện cực ITO và điện trở dây dẫn, không phụ thuộc vào tần số đo.

Thành phần II thể hiện đặc trưng đáp ứng ở vùng tần số cao, đó là các đại

lượng liên quan đến bản chất dẫn ion của màng. Thành phần này gồm tụ điện

C1 - điện dung hình học xuất hiện giữa hai điện cực mắc song song với điện

trở R2 - điện trở của màng LLTO là đại lượng đặc trưng cho độ dẫn ion của

màng. Thành phần III được xem như phần đóng góp của các quá trình trên bề

mặt lớp tiếp xúc giữa màng với các điện cực, liên quan đến đặc trưng đáp ở

vùng tần số thấp. Trong đó R3 là điện trở đặc trưng cho quá trình chuyển dịch

điện tích (ion) qua lớp biên phân cách. C2 là điện dung của lớp Helmholtz.

Thành phần pha không đổi Q đặc trưng cho tính chất xốp của điện cực.

Đường nét liền trong hình 3.4 biểu thị phổ tổng trở lý thuyết nhận được từ

mạch tương đương mô tả trong hình 3.5.

Đối với các mẫu màng LLTO có độ dầy từ 100 ÷ 150 nm, giản đồ

Nyquist của phổ tổng trở có dạng như trong hình 3.6. Hình 3.6 (các chấm

tròn) là giản đồ phổ tổng trở của màng LLTO (x = 0,15) có độ dầy 100 nm,

được đo tại nhiệt độ phòng trong dải tần số từ 1 MHz đến 1 Hz. Đường

Nyquist có dạng của sự kết hợp hai bán nguyệt. Bán nguyệt ở vùng tần số cao

30

ứng với sự đóng góp của quá trình dẫn ion Li+ trong vật liệu. Bán nguyệt ở

vùng tần số thấp có bán kính lớn hơn ứng với quá trình dịch chuyển điện tích

Hình 3.6: Giản đồ Nyquist của màng

Hình 3.7: Sơ đồ mạch tương đương

LLTO (x = 0,15), độ dầy 100 nm, đo

được dùng để trùng khít với phổ tổng

tại nhiệt độ phòng (32 0C).

trở của các màng có dạng như hình 4.9.

trên biên tiếp xúc giữa vật liệu và các điện cực.

Hình 3.7 biểu diễn mạch điện tương đương cho các mẫu đo tổng trở

màng LLTO có độ dầy mỏng. Sơ đồ này cũng có thể được chia thành ba

thành phần. Thành phần I và II đóng vai trò hoàn toàn tương tự như trong sơ

đồ mạch tương đương biểu diễn trên hình 3.5. Thành phần III cũng được xem

như phần đóng góp của các quá trình trên bề mặt lớp tiếp xúc giữa màng với

các điện cực và liên quan đến đặc trưng đáp ở vùng tần số thấp. Trong đó R3

là điện trở chuyển dịch ion, phản ánh quá trình chuyển dịch ion qua lớp biên

phân cách. C2 là điện dung của lớp Helmholtz. Điện dung C3 và điện trở R4

xuất hiện là do tác dụng của gradien điện tích lớn tại lớp tiếp giáp giữa chất

điện ly và điện cực chặn.

Đường nét liền trong hình 3.6 biểu thị phổ tổng trở lý thuyết nhận được

từ mạch tương đương mô tả trong hình 3.7.

31

Sự khác nhau của phổ tổng trở và do vậy có sự khác nhau của mạch

tương đương cho các mẫu đo có độ dày khác nhau do sự đóng góp của các

quá trình trên mặt phân cách giữa chất điện ly và điện cực chặn là khác nhau.

Đối với màng có độ dày quá mỏng, sự ảnh hưởng của lớp Helmholtz càng trở

lên đáng kể [1]. Do vậy, để xác định giá trị độ dẫn ion của vật liệu màng

mỏng cần phải có sơ đồ mạch tương đương khác chính xác phù hợp với hình

dạng, kích thước của mẫu đo. Kết quả thực nghiệm cho thấy các màng LLTO

được chế tạo trong cùng một điều kiện công nghệ nhưng có độ dày khác nhau

có phổ tổng trở khác nhau. Khi được trùng khít với các mạch tương đương

Bảng 3.2: Kết quả nhận được khi trùng khít phổ thực nghiệm với mạch

tương đương (Hình 3.6)

thích hợp cho cùng kết quả độ dẫn như nhau.

Phần tử mạch Giá trị Sai số (%)

R1 (Ω) 349,0 1,278

R2 (Ω) 107,0 10,676

C1 (nF) 17,24 11,505

C2 (nF) 88,3 16,121

R3 (Ω) 180,8 6,155

Q1 Y0 0,1137e-05 6,721

N 0,8084e+00 0,718

Bảng 3.2 liệt kê giá trị của các thông số mạch tương đương nhận được

khi trùng khít phổ tổng trở lý thuyết với số liệu thực nghiệm. Màng điện ly là

LLTO (x = 0,11) có độ dày ℓ = 267 nm, diện tích điện cực A = 9×10-2 cm2.

Áp dụng công thức (1.10), độ dẫn ion của màng được xác định σLi = 2,8×10-6

S.cm-1.

Như vậy, bằng việc phân tích và áp dụng phương pháp phổ tổng trở, tính

32

chất dẫn ion của perovskite La2/3-xLi3xTiO3 dạng khối cũng như màng mỏng

đã được nghiên cứu. Bằng phương pháp trùng khít phổ lý thuyết và số liệu

thực nghiệm, cho phép đánh giá định lượng chính xác các quá trình xảy ra

trong mẫu đo. Phân tách sự dẫn trong hạt, biên hạt, loại bỏ ảnh hưởng của lớp

Helmholtz, tính chất của điện cực, … do vậy kết quả phép đo đạt độ chính xác

cao. Và cũng nhờ đó có sự định hướng đúng trong việc cải tiến điều kiện,

33

công nghệ chế tạo vật liệu để đạt được sản phẩm có chất lượng cao.

KẾT LUẬN

Phép đo phổ tổng trở ac là một công cụ mạnh cho sự nghiên cứu các hệ

điện hoá, bao gồm: sự ăn mòn, sự xử lý bề mặt, khảo sát pin, các hiệu ứng

quang điện và sinh học. Sử dụng tín hiệu kích thích điều hoà của hệ, đo dòng

điện và điện thế qua potentiostat, cho phép xác định chính xác và lặp lại sự

hưởng ứng mặc dù tín hiệu nhỏ, mức độ nhiễu cao và sự có mặt của các phản

ứng không tuyến tính.

Phổ tổng trở là một công cụ đơn giản để phát hiện sự dịch chuyển ion

trong khối và trong biên hạt của các vật dẫn ion rắn. Nó tạo ra cơ hội không

chỉ nhận được các tính chất vật lý mà còn để nghiên cứu các thuộc tính động

lực học gây gởi sự dịch chuyển khối lượng và điện tích trong các điện ly rắn.

Để phân tích và đánh giá chính xác các quá trình xảy ra trong bình đo

điện hoá các mô hình mạch tương đương được sử dụng. Về nguyên tắc, các

nhà phân tích cố gắng tìm kiếm một mô hình sao cho tổng trở của nó phù hợp

với các số liệu đo được. Các kiểu phần tử điện trong mô hình và các cách kết

nối giữa chúng quyết định hình dạng của phổ tổng trở. Các tham số của mô

hình (chẳng hạn như giá trị trở kháng của điện trở) điều khiển kích thước của

các đặc trưng trong phổ. Tất cả các tham số này ảnh hưởng lên mức độ phù

hợp của phổ trở kháng của mô hình và phổ EIS đo được.

Trong mô hình vật lý, mỗi thành phần của mô hình được đưa ra xuất phát

từ quá trình vật lý trong bình điện hoá. Sự lựa chọn mô hình vật lý nào để áp

dụng cho phần tử được đưa ra dựa trên sự hiểu biết về các đặc tính vật lý của

phần tử đó. Các mô hình cũng có thể một phần hoặc hoàn toàn dựa trên kinh

nghiệm. Các nhà phân tích EIS có kinh nghiệm sử dụng hình dạng của phổ

EIS của phần tử để giúp cho việc lựa chọn trong số các mô hình vật lý khả thi

cho phần tử đó. Mô hình được chọn là mô hình có thể đưa ra sự phù hợp tốt

34

nhất giữa trở kháng của mô hình và trở kháng đo được.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Năng Đinh, Lê Đình Trọng (2006), “Ứng dụng phương pháp

phổ tổng trở để nghiên cứu tính chất dẫn ion của màng mỏng LiMn2O4”,

Journal of Science and Technology 44(5), pp. 55-62.

2. Trương Ngọc Liên (2000), Điện hóa lý thuyết, NXB Khoa học và Kỹ

thuật, Hà Nội.

Tiếng Anh

3. Ban C.W., Choi G.M. (2001), “The effect of sintering on the grain

boundary conductivity of lithium lanthanum titanates”, Solid State Ionics

140, pp. 285-292.

4. Barsoukov E., Macdonald J.R. (2005), Impedance Spectroscopy Theory,

Experiment, and Applications, Published by John Wiley & Sons, Inc.,

Hoboken, New Jersey.

5. Bohnke O., Bohnke C., Fourquet J.L. (1996), “Mechanism of ionic

conduction and electrochemical intercalation of lithium into the

perovskite lanthanum lithium titanate”, Solid State Ionics 91, pp. 21-31.

6. Boukamp B.A. (2004), “Electrochemical impedance spectroscopy in

solid state ionics: recent advances”, Solid State Ionic 169, pp. 65-73.

7. Chen C.H., Amine K. (2001), “Ionic conductivity, lithium insertion and

extraction of lanthanum lithium titanate”, Solid State Ionics 144, pp. 51-

57.

8. Cogger N.D. and Evans N.J. (1999), An Introduction to Electrochemical

Impedance Measurement, Solartron Limited, England.

9. Nguyen Nang Dinh, Pham Duy Long, Le Dinh Trong, (2004), “Crystalline perovskite

ionic conducting characterization”, La0,67-xLi3xTiO3: preparation and

35

Communications in Physics 14(2), page 90-94.

10. Inaguma Y., Liquan C., Itoh M., Nakamura T., Uchida T., Ikuta H. and,

Wakihara M. (1993), “High ionic conductivity in lithium lanthanum

titanate”, Solid State Communications 86(10), pp. 689-693.

11. Inaguma Y., Chen L., Itoh M., Nakamura T. (1994), “Candidate

compounds with perovskite structure for high lithium ionic

conductivity”, Solid State Ionics 70-71(1), pp. 196-202.

12. Orliukas A.F., Kezionis A., Kazakevicius E. (2005), “Impedance

spectroscopy of solid electrolytes in the radio frequency range”, Solid

State Ionics xx, pp. xxx-xxx.

13. Le Dinh Trong, Pham Duy Long, Vu Van Hong, Nguyen Nang Dinh

(2007), “Optical and electrical properties of perovskite La0.67-xLi3xTiO3

solid electrolyte thin films made by electron beam deposition”, A

Journal of the Asean Commitee on Science & Technology 24(1-2), pp.

36

35-40.