T R ƯỜ NG ĐẠI HỌC NGOẠI T H Ư Ơ NG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH CHUYÊN N G À NH KINH DOANH QUỐC TÉ
goCQcss
KHÓA LUÂN TỐT NGHIÊP
Đe tài:
VẬN DỤNG C ÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA LIÊN MINH C H ÂU Âu EU VỀ CHẤT L ƯỢ NG VÀ N H ÃN HIỆU H À NG HOA NHẰM T Ă NG C ƯỜ NG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM V ÀO THỊ T R ƯỜ NG N ÀY
Sình viên thực hiện
Lóp
Khóa
ĐỖ Trà Mi M-QMU- Anh 6 L j* i LJ 45B
Giáo viên hướng dẫn
TS. Nguyễn Minh H ng
Hả Nội - 05/2010
MỤC LỤC
1
L ỜI MỞ Đ ÀU
C H Ư Ơ NG 1: LIÊN MINH CHÂU Âu VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP
LÝ VỀ C H ẤT L ƯỢ NG VÀ N H ÃN HIỆU H À NG H ÓA NHẬP K H ẨU
V ÀO THỊ T R ƯỜ NG N ÀY 4
ì. Khái quát về Liên minh châu Âu 4
ì. Tổng quan về Liên minh châu Ầu 4
2. Đặc điểm của thị trường EU. 6
2. ỉ. Những điểm tương đồng giữa thị trường các nước thành viên EU. ..ố
2.2. Những điếm khác biệt giữa thị trường các nước thành viên EU. li
3. Quan hệ kinh tế Việt Nam - EU: 12
l i. Các quy định pháp lý của Eư về chất lượng và nhãn hiệu hàng hoa
nhỰp khẩu vào thị trường này 15
ĩ. Các quy định về chất lượng hàng hoa. lố
2. Các quy định về nhãn hiệu hàng hóa. 25
2.1. Quy định ve nhãn hiệu hàng hóa 25
2.2. Quy định về bảo hộ sở hữu công nghiệp. 26
C H Ư Ơ NG 2: T H ỰC T R Ạ NG V I ỆC ÁP D Ụ NG C ÁC QUY ĐỊNH P H ÁP
LÝ VÊ C H ẤT L ƯỢ NG VÀ N H ÃN HIỆU H À NG H OA C ỦA EU Ở C ÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT N AM KHI X U ẤT K H ẨU SANG THỊ
T R ƯỜ NG N ÀY 30
ì. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU. 30
/. Kim ngạch xuất khẩu. 30
2. Các mặt hàng xuất khấu chủ lực. 31
n. Thực tiễn xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang EU.33
/. Mặt hàng giày dép 34
2. Mặt hàng dệt may. 35
3. Mặt hàng nông sản 37
4. Mặt hàng thủy sản 38
5. Gô và các sản phẩm từ gỗ. 40
in. Các doanh nghiệp Việt nam vói việc vận dụng các quy định pháp lý về
chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa khi xuất khẩu sang thị trường EU 41
1. về vẩn đề đảm bảo chất lượng hàng hóa. 41
2. về vẩn đề nhãn hiệu hàng hoa. 48
rv. Những nhận xét và đánh giá về thực tiễn vận dụng các quy định pháp
lý về chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam
52
khi xuất khẩu sang thị trường EU
1. Những thành công. 52
2. Những tồn tại và nguyên nhăn 55
C H Ư Ơ NG 3: M ỘT SÒ GIẢI P H ÁP N Â NG C AO HIỆU Q UẢ V I ỆC ÁP
DỤNG C ÁC QUY ĐỢNH P H ÁP LÝ C ỦA EU VÈ C H ẤT L ƯỢ NG VÀ
N H ÃN HIỆU H À NG H ÓA C ỦA C ÁC D O A NH NGHIỆP V I ỆT N AM
59 N H ẰM T H ÚC ĐẨY X U ẤT K H ẨU SANG THỢ T R ƯỜ NG N ÀY
ì. Định hướng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn ÍỚÍ..59
1. Tương lai quan hệ kinh tế Việt Nam -EU. 59
2. Định hướng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn
2010-2015. 60
n. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định pháp
lý về nhãn hiệu và chất lượng hàng hóa để thúc đẩy xuất khẩu sang EU..63
ỉ. 1. về đối ngoại.
63
1. Giải pháp ở t m vĩ mô. 63
1.2.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý làm nền tảng tạo thuận l ợi t ối
đa cho các doanh nghiệp xuất khẩu
64
1.2. về đối nội 64
1.2.2. Tăng cường thiết lập các kênh thông tin về thị trường, các
quy đinh pháp lý... của EU cho các doanh nghiệp xuất khẩu 66
1.2.3. Đẩy mạnh các biện pháp quản lý và giám sát quá trình sản
xuất từ khâu nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra của các
doanh nghiệp xuất khẩu 67
Ì .2.4. Phát triển các ngành hàng chủ lực sang thị trường EU 69
1.2.5. Gắn nhập khẩu công nghệ nguồn với xuất khẩu 72
2. Các giải pháp ở tầm vi mô
73
2.1. Tăng cường nghiên cứu và nhận thức đúng vê thị trường EU
73
2.2. Nâng cao chất lượng hàng hoa
76
2.3. Phát triền nguôn nhân lực
79
2.4. Đấy mạnh áp dụng thương mại điện tử.
80
2.5. Tăng cường công tác đãng kỷ nhãn hiệu tại thị trường EU
81
KÉT LUẬN
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
86
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.
Nghĩa tiếng Việt
Nghĩa tiêng Anh
Chữ viêt tát
Nhãn hiệu hàng hóa Cộng
Community Trade Mark
1. CTM
đồng.
European Union
Liên minh châu Âu.
2. EU
ủy ban châu Âu.
European Commission
3. ÉC
European Economic
Cộng đồng kinh tế châu Âu.
4. EEC
Community
5. GPS
Global Positioning System Hệ thống định vị toàn cầu.
6. GSP
Generalized System of
Hệ thống ưu đãi thuế quan
Preference
phổ cập.
7. HACCP Hazard Analysis Critical
Phân tích mối nguy và điểm
Control Point
kiểm soát tới hạn.
8. ISO
Intemational Organization
Tố chức tiêu chuẩn hóa quốc
tế.
for Standardization
9. l ưu
Illegal, ưnreport and
Luật chống đánh bắt cá b t
Unregulated íishing
họp pháp, không báo cáo và
không theo quy định của ÉC.
10.PCA
Hiệp định họp tác và đối tác
toàn diện giữa Việt Nam và
Cộng đồng châu Âu.
11.REACH Registration, Evaluation,
Luật hóa ch t REACH
Authorisation and
Restriction of Chemicals.
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng Ì: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn 2005 - 2009
_ ~ 30
Bảng 2 : Kim ngạch xuất khẩu lo mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang thị
trường EƯ trong các năm từ 2007 đến 2009 32
Bảng 3 : Giá trị xuất khẩu giầy dép của Việt Nam sang EU 35
giai đoạn 2002 - 2009 35
Bảng 4 : Giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU 36
giai đoạn 2002 - 2009 36
Bảng 5 : Giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU 39
giai đoạn 2002 - 2009 39
Bảng 6 : số doanh nghiệp được phép chế biến thủy sản xuất khấu theo thị
trường (tính tới 20/04/2009) 48
LÒI MỞ ĐẦU
Thế kỷ 21 là thế kỷ của kinh tế tri thức, xu hướng khu vực hóa và toàn
cầu hóa đang mờ ra cho các hoạt động thương mại quốc tế những cơ hội mới.
Việt Nam sau khỉ gia nhập WTO lại càng có thêm nhiều cơ hội để phát triển
một cách toàn diện. Đe phát triển nhanh về kinh tế, không còn cách nào khác
là đấy mạnh xuất khảu. Tuy nhiên thị trường nhập khảu trên thế giới có rất
nhiều, vậy nên tập trung chú trọng vào thị trường nào để mang lại hiệu quả
cao cho sự tăng trưởng xuất khảu nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung?
Những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20 đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước ta: nền kinh tế chuyển từ cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Điều này đã tạo đà cho sản xuất trong nước phát triển đồng
thời đấy mạnh việc thiết lập quan hệ kinh tế thương mại với nước ngoài.
Thành tựu đáng ghi nhớ là năm 1990 Việt Nam đã chính thức thiết lập quan
hệ ngoại giao với Liên minh châu Âu (EƯ), kể từ đó, quan hệ buôn bán với
EU phát triển khá mạnh.
Thị trường Liên minh châu Âu là một thị trường tiêu thụ rộng lớn, với
dân số khoảng 493 triệu người nhưng chiếm tới 4 1% thương mại toàn cầu.
EU là thị trường nhập khảu lớn thứ hai thế giới sau Mỹ, nhu cầu nhập khảu
hàng năm đa dạng và phong phú. EU nhập rất nhiều các mặt hàng nông sản,
khoáng sản, thủy sản, giầy dép và dệt may. Đây là những mặt hàng xuất khảu
chủ lực của Việt Nam. hàng giầy dép, dệt may, thủy hải sản, đồ gốm, đồ gia
dụng, cà phê, chè và gia vị của Việt Nam đang là những mặt hàng được ưa
chuộng tại thị trường EU và triển vọng phát triển các mặt hàng này là rất khả
quan. Vì vậy, có thể nói rằng EU là thị trường xuất khảu quan trọng và tiềm
năng của Việt Nam. Đảy mạnh xuất khảu hàng hóa sang EU, Việt Nam đã
Ì
phần nào có được sự tăng trưởng ổn định về kim ngạch xuât khẩu qua các
năm.
Trong 20 năm kể từ khi Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao với EU, hoạt động xuất khẩu hàng hóa cọa Việt Nam sang EU không
ngừng tăng cả về chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên tỷ trọng xuât khâu cọa
Việt Nam trong kim ngạch ngoại thương cọa EU còn khá khiêm tốn và chưa
tương xứng với tiềm năng cọa hai bên.
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng hạn chế cơ
hội xuất khẩu cọa các doanh nghiệp Việt Nam chính là hành lang pháp lý hết
sức chặt chẽ cọa EƯ. Những quy định pháp lý này đã trở thành những rào cản
đối với các mặt hàng xuất khẩu cọa Việt Nam. Nó hạn chế khả năng thâm
nhập và chiếm lĩnh thị trường EU cọa các doanh nghiệp Việt Nam. Việc
nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề pháp lý và thực tiễn vận dụng cọa Việt
nam khi thâm nhập thị trường này là điều hết sức quan trọng.
Chính vì những lý do như vậy nên tác giả đã chọn đề tài : "Vận dụng
các quy định pháp lý cọa Liên minh châu Âu EU về chất lượng và nhãn
hiệu hàng hóa nhằm tăng cường xuất khẩu cọa Việt Nam vào thị trường
này" để nghiên cứu và viết khóa luận tốt nghiệp, nhằm đi sâu tìm hiểu về thị
trường EU và các yêu cầu cọa thị trường EU đối với hàng hóa xuất khẩu cọa
Việt Nam cũng nhu việc vận dụng các quy định pháp lý cọa EU ở các doanh
nghiệp Việt Nam. Đe hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp, tác giả đã sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp trên cơ sở những thông tin thu thập được
cùng các phương pháp thống kê, so sánh... đế nghiên cứu những yêu cầu mà
đề tài đặt ra. Do thời gian nghiên cứu có hạn và việc thu thập tài liệu còn gặp
nhiều hạn chế nên Khóa luận tốt nghiệp này không tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong nhận được ý kiến đóng góp cọa các thầy cô giáo, các bạn sinh
viên để Khóa luận được hoàn thiện hơn.
2
Chương 1: Liên minh châu Âu và những quy định pháp lý về chất
lượng và nhãn hiệu hàng hóa nhập khẩu vào thị trường này.
Chương 2: Thực trạng việc áp dụng các quy định pháp lý về chất lượng
và nhãn hiệu hàng hóa của EU ở các doanh nghiệp Việt Nam khi xuât khâu
sang thị trường này.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
pháp lý của EU về chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp
Việt Nam nhầm thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô,
Ban giám hiệu, phòng Đào tạo, khoa Quản trị kinh doanh và các phòng ban
khác của trường Đại học Ngoại Thương đã tạo môi trường thuận lợi cho tác
giả được học tập và rèn luyện trong suốt 4 năm qua. Đặc biệt tác giả xin được
gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Nguyễn Minh Hầng, người đã nhiệt
tình hướng dẫn tác giả và giúp tác giả hoàn thành Khóa luận này. Qua Khóa
luận tốt nghiệp này, tác giả cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới cha mẹ
và gia đình, những người đã không ngừng động viên và ủng hộ tác giả cả về
vật chất lẫn tinh thần trong suốt những năm ngồi trên ghế nhà trường.
Hà Nội tháng 05 năm 2010,
Sinh viên
Đỗ Trà Mi.
3
C H Ư Ơ NG Ì LIÊN MINH CHÂU Âu VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VÈ CHÁT LƯỢNG VÀ N H ÃN HIỆU H À NG H ÓA NHẬP KHẨU V ÀO THỊ TRƯỜNG NÀY.
ì. Khái quát về Liên minh châu Âu.
1. Tổng quan về Liên minh châu Âu
Liên minh Châu Âu (European Union - Eư) là một tổ chức liên kết
kinh tế khu vực lớn nhất, thành công nhất trên thế giới và được coi là sự mẫu
mực của xu thế hợp tác kinh tế quốc tế. Liên minh châu Âu không phải là một
liên bang giống như Họp chủng quốc Hoa Kỳ. Liên minh châu Âu cũng
không chỉ đơn thuần là một tổ chức liên chính phủ như Liên hợp quốc. Trên
thực tế, đó là một mô hình duy nhất trong quan hệ quốc tế. Các nước lởp nên
Liên minh châu Âu (hay các nước thành viên) tởp hợp chủ quyền của họ lại để
tạo nên một sức mạnh và ảnh hưởng trên thế giới mà từng nước riêng lẻ
không thể đạt được. Trên thực tế, tởp họp chủ quyền nghĩa là các quốc gia
thành viên dành một phần ra quyết định của họ cho những thể chế chung mà
họ tạo ra để những quyết định về những vấn đề cụ thế có liên quan đến lợi ích
chung có thể được đưa ra ở cấp độ châu Âu. Hiện nay cùng với Mỹ, Nhởt
Bản, Liên minh Châu Âu đang là một trong ba trung tâm kinh tế hùng mạnh
của thế giới.
Cội nguồn lịch sử của Liên minh châu Âu bắt nguồn từ Chiến tranh thế
giới thứ hai. Ý tưởng về hội nhởp châu Âu được nhởn thức rằng sẽ ngăn chặn
được sự chết chóc và các hành động phá hủy sẽ không xảy ra nữa. Ý tưởng
được Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman đề xuất lần đầu tiên trong
một bài phát biểu nổi tiếng ngày 9 tháng 5 năm 1950. Ngày này hiện nay
chính là ngày sinh nhởt của EU và được kỷ niệm hàng năm là ngày Châu Âu.
4
Đầu tiên, EU bao gồm 6 quốc gia: Bỉ, Đức, Pháp, Italia, Luych-xam-
bua và Hà Lan. Đan Mạch, Ailen và Anh gia nhập năm 1973, Hy Lạp năm
1981, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1986; Áo, Phần Lan, Thụy Điển năm
1995. Ngày 01/05/2004 là làn sóng gia nhập Liên minh châu Âu lớn nhất
trong lịch sử diễn ra với lo thành viên mới là đảo Síp, cộng hòa Séc, Estonia,
Hungary, Latvia, Lithuania, Malta, Ba Lan, Slovenia và Slovakia. Gần đây
nhất, năm 2007, EU kết nạp thêm hai thành viên nờa là Bungary và Rumani.
Hiện nay, số lượng các nước thành viên EU đã lên tới con số 27.
Vào thời gian đầu, hợp tác chủ yếu giờa các nước EU là về kinh tế và
thương mại nhưng ngày nay EƯ cũng đã giải quyết nhiều vấn đề mới có tầm
quan trọng đối với cuộc sống hàng ngày của người dân như nhờng quyền cơ
bản của công dân, đảm bảo sự tự do, an ninh và công bằng, tạo việc làm, phát
triển khu vực và bảo vệ môi trường, đảm bảo toàn cầu hóa có lợi cho tất cả
mọi người. EU ngày nay là kết quả công sức vất vả của rất nhiều phụ nờ và
nam giới châu Âu làm việc vì một châu Âu thống nhất. EU được xây dựng
trên nhờng thành tựu cụ thể. Không nơi nào trên thế giới các nước tập họp
được chủ quyền cao như mức ở EU và có tầm quan trọng đối với công dân
của EU '. EU đã tạo ra một đồng tiền chung và một thị trường chung thống
nhất năng động ở đó con người, dịch vụ, hàng hóa, tư bản được tự do hoạt
động. EU vẫn tiếp tục đấu tranh để đảm bảo rằng chính thông qua nhờng tiến
bộ xã hội và cạnh tranh lành mạnh, ngày càng có nhiều người được hưởng lợi
ích của thị trường chung này.
Nhờng nguyên tắc cơ bản của Liên minh châu Âu được đề ra trong một
loạt nhờng Hiệp ước, có thể nhận thấy là Hiệp ước Paris thành lập nên Cộng
' Tổng quan về Liên minh châu Âu (truy cập 17/04/2010),
www.delvnm.ec.europa.eu/european union/euoverviewv.pdf
đồng Than và sắt châu Âu (ECSC) năm 1951, Hiệp ước Rome thành lập nên
5
Cộng đồng kinh tế (EEC) và Cộng đồng năng lượng nguyên tử (Euratom)
năm 1957.
Những Hiệp ước cơ sở này được sửa đổi vào năm 1986, 1992, 1997 và
2001. Hiệp định Masstricht năm 1992 cũng dẫn đến sự ra đời của một hiệp
định mới về Liên minh châu Âu. Những sửa đổi đối với những hiệp ước trên
đã làm đấy mảnh quan hệ giữa các nước thành viên, mang lải những thay đổi
lớn lao về mặt thể chế của Liên minh và tăng cường hoảt động tới nhiều lĩnh
vực khác.
2. Đặc điểm của thị trường EU.
2.1. Những điểm tương đồng giữa thị trường các nước thành viên EU.
EU hiện nay là một thị trường rộng lớn với 27 nước thành viên, dân số
493 triệu người, có diện tích 4.422.773 km2, với tổng GDP khoảng 15,7 ngàn
tỷ USD chiếm 3 0% GDP, 4 1% thương mải và 4 3% đầu tư toàn cầu (năm
2008) 2 . EU là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa hàng đầu thế giới.
Tuy là thị trường có nhiều thành viên nhưng đây vẫn là thị trường thống nhất
trên nhiều khía cảnh.
Ngay từ cuối những năm 60 của thể kỷ 20, EU đã là thị trường có hệ
thống hải quan thống nhất trong cả khối với định mức chung ở các nước thành
viên.
Từ khi hiệp định Maastricht có hiệu lực (01/01/1993), EU thành thị
trường chung thống nhất hủy bỏ đường biên giới nội bộ trong liên minh (biên
giới lãnh thổ quốc gia và biên giới hải quan). Ngoài một thể chế thống nhất,
liên minh còn có cơ chế thống nhất trong việc ra quyết định và thực hiện
' Đoàn Tất Thắng (2008), Nâng cao mối quan hệ họp tác đối tác Việt Nam - EU lén tầm cao mới Tảp chí Nghiên cứu châu Âu số 7/2008.
trong phảm vi cộng đồng. Những quyết định của cộng đồng phải được tuân
6
thủ nghiêm túc ở mỗi quốc gia thành viên. Điều này được thế hiện trong
nguyên tắc " Luật cộng đồng luôn cao hon luật quốc gia".
Gắn liền với sự ra đời của thị trường chung châu Âu là một chính sách
thương mại chung. Nó điều tiết hoạt động xuất nhập khỏu và lưu thông hàng
hóa dịch vụ trong nội khối. EƯ ngày nay được xem như một đại quốc gia ở
châu Âu. Bời vậy chính sách thương mại chung của EƯ cũng giống như chính
sách thương mại của một quốc gia. Nó bao gồm chính sách thương mại nội
khối và chính sách ngoại thương. Chính sách thương mại nội bộ khối tập
trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung châu Âu nhằm xóa bỏ
việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia và hải quan (Xóa bỏ các hàng rào
thuế quan và phi thuế quan) để tự do lưu thông hàng hóa, sức lao động, dịch
vụ và vốn đồng thời điều hòa các chính sách kinh tế và xã hội của các nước
thành viên. Tất cả các nước thành viên EU đều áp dụng một chính sách ngoại
thương chung với các nước ngoài khối. ủy ban chầu Âu (ÉC) là người đại
diện duy nhất cho liên minh trong việc đàm phán ký kết các hiệp định thương
mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. Các biện pháp được áp dụng
phổ biến trong chính sách ngoại thương của EU là thuế quan, hạn ngạch hạn
chế về số lượng, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khấu.
Chính sách ngoại thương của EU từ năm 1951 đen nay phân thành
những nhóm chủ yếu sau: Nhóm chính sách khuyến khích xuất khỏu, nhóm
chính sách thay thế nhập khỏu, nhóm chính sách tự do hóa thương mại và
nhóm chính sách hạn chế xuất khỏu tự nguyện.
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại, EU đã thực hiện
các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khỏu và chống hàng giả.
EU đã ban hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế "chống bán
phá giá" để đấu tranh với những trở ngại trong buôn bán với thế giới. Bên
cạnh việc áp dụng các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh trong
thương mại, EƯ còn sử dụng một biện pháp để đỏy mạnh thương mại với các
7
nước đang và chậm phát triển. Đó là Hệ thống ưu đãi thuế quan phô cập
(GSP). Bằng cách này, EU có thể làm cho nhóm các nước đang phát triên
(trong đó có Việt Nam) và nhóm nước chậm phát triển dễ dàng thâm nhập vào
thị trường của mình hơn....
Ngoài ra để đảm bảo quyền lợi và an toàn cho người tiêu dùng trong
khối, EU còn ban hành rất nhiều đạo luật chủ yếu cấm buôn bán các sản phàm
được sản xuất từ những nước có điều kiện sản xuất chưa đạt mộc an toàn
ngang với tiêu chuẩn của EU. Chẳng hạn như đạo luật 91/493/EC của hội
đồng ÉC "Những điều kiện đối với sộc khỏe đối với việc nhập khấu kinh
doanh hàng thủy sản trên thị trường EU". Theo điều lo của đạo luật này, các
tiêu chuẩn áp dụng ít nhất là tương đương với những tiêu chuẩn chỉ đạo được
áp dụng trên thị trường nội địa EU.
EU cũng thông qua những quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo,
nhãn hiệu... Các tổ chộc chuyên nghiên cộu đại diện cho người tiêu dùng sẽ
đưa ra các quy chế định chuẩn Quốc gia hoặc châu Âu. Hiện nay ở châu Âu
có 3 tổ chộc định chuẩn: ủy ban châu Âu về định chuẩn; ủy ban châu Âu về
định chuẩn điện tử; Viện định chuẩn viễn thông châu Âu. Đặc biệt EU có quy
chế về nhãn mác rất khắt khe, nhất là đối với các mặt hàng thực phẩm, đồ
uống, thuốc men và vải lụa. Điều này chi phối rất lớn tới xuất khẩu nông sản
về thủy sản của Việt Nam.
Nhờ ộng dụng thành tựu công nghệ thông tin, EU đã thiết lập hệ thống
chống gian lận về hạn ngạch trong toàn khối. Hải quan EU với những phương
tiện hiện đại nắm rất chắc các số liệu nhập khẩu của từng nước hàng ngày,
không cho phép vượt số lượng giao hàng theo quy định dù chỉ là một đơn vị.
EU hiện nay có 27 quốc gia thành viên. Mỗi thị trường lại có đặc điểm
tiêu dùng riêng. Do vậy có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng
và phong phú về hàng hóa. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán và
8
thị hiếu tiêu dùng nhưng 27 nước thành viên EU vẫn có những điếm tương
đồng về kinh tế và văn hóa. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước
khá đồng đều, bên cạnh đó có sự thống nhất ờ khía cạnh văn hóa do cùng chịu
ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, cho nên người dân thuộc khối EƯ cũng
có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng.
Trước đây, người tiêu dùng châu Âu nói chung và EU nói riêng có sở
thích và thói quen sử dổng các sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thê giới.
Họ cho rằng, sự nổi tiếng gắn liền với chất lượng sản phẩm và uy tín lâu đời,
cho nên dùng những sản phẩm này sẽ an tâm về mặt chất lượng và an toàn
cho người sử dổng. Vì vậy trong nhiều trường họp, mặc dù sản phẩm giá rất
đắt nhưng họ vẫn mua mà không thích chuyển sang tiêu dùng những sản
phẩm không nổi tiếng khác cho dù giá thành rẻ hơn rất nhiều. Nhưng trong
thời buổi khủng hoảng kinh tế như hiện nay, sản phẩm đắt tiền không còn là
ưu tiên số Ì của người châu Âu mà thay vào đó là những mặt hàng có giá cả
phải chăng mà vẫn đảm bảo chất lượng.
Đặc tính tiêu dùng của người châu Âu — EU về một so loại mặt hàng:
- Lương thực thực phẩm: Xu hướng đầu tiên của người tiêu dùng châu
Âu nói chung và EU nói riêng là khi lựa chọn sản phàm, họ muốn mua những
sản phẩm thực phẩm sạch, an toàn và có lợi cho sức khỏe. Các sản phẩm là
thực phẩm ăn liền sẽ được bán chạy ở EU, bởi phổ nữ ở khu vực này tham gia
lao động nhiều và dành ít thời gian cho nấu nướng tại gia đình.
- Hàng may mặc và giày dép: Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới
chất lượng và thời trang của hai loại sản phẩm này. Một thông tin đáng chú ý
với nhóm sản phẩm giày dép và may mặc là người châu Âu có xu hướng
muốn mua sản phẩm mới nhanh hơn, thay vì phải chờ 5 -6 tháng để thay đổi
trang phổc đông hoặc hè như trước đây.
- Thủy sản: Người tiêu dùng EU không mua những sản phẩm thủy hải
sản không rõ nguồn gốc, bị nhiễm độc do tác động của môi trường hay do các
9
chất phụ gia không được phép sử dụng. Đối với những sản phẩm thủy hải sản
qua chế biến, người châu Âu chỉ dùng những sản phẩm đóng gói có ghi tên
sản phàm, nơi sản xuất, các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số mã vạch.
Họ tay chay các loại thủy sản nhập khẩu có chằa khuẩn Salmonela, độc tố
Lustamine, nhiễm V.Parahearmoliticus, nhiễm V.Cholerea... Người châu Âu
ăn ngày càng nhiều thủy sản vì họ cho rằng sẽ giảm được béo mà vẫn khỏe
mạnh.
Nhìn chung, xu hướng tiêu dùng trên thị trường EU đang có những thay
đổi như: không thích dùng đồ nhựa mà thích dùng đồ gỗ; thích ăn thủy sản
hơn ăn thịt; yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng thay đổi nhanh đặc biệt đối với
những mặt hàng thời trang (giày dép, quần áo...). Sở thích và thói quen tiêu
dùng trên thị trường này đang thay đổi rất nhanh cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ. Ngày nay người châu Âu ùa chuộng những sản
phẩm với chu kỳ thời gian hẹp lại và số lượng cho từng chủng loại hàng hóa
giảm đi. Không như trước kia họ chỉ thích dùng những hàng hóa chất lượng
cao có giá đắt, vòng đời sản phẩm dài, hiện nay sở thích tiêu dùng lại là
những sản phẩm có chu trình sống ngắn hơn và giá rẻ hơn cũng với phương
thằc dịch vụ tốt hơn. Thói quen này áp dụng đối với tất cả hàng hóa tiêu dùng
kể cả hàng công nghệ cao. Tuy có sự thay đổi về sở thích và thói quen tiêu
dùng như vậy nhưng chất lượng hàng hóa vẫn là yếu tố quyết định hàng đầu
đối với các hàng hóa tiêu thụ trên thị trường này.
Một điểm tương đồng nữa mà chúng ta phải kể đến đó là văn hóa trong
kinh doanh của các doanh nhân EU. Với các đối tác trong khu vực này, nhiều
khi đã thỏa thuận xong về chất lượng, giá cả nhưng họ vẫn đến tận nơi để xem
xét tình hình, môi trường sản xuất rồi mới ký họp đồng, Trong giao dịch, các
doanh nhân EU rất coi trọng chữ tín. Họ không chấp nhận việc giao hàng
không đúng thời hạn quy định, không thỏa mãn các yêu cầu về chất lượng
hợp đồng. Các nhà nhập khẩu châu Âu rất cẩn trọng trong việc lựa chọn các
10
nhà cung cấp, các doanh nghiệp thường yêu cầu các nhà cung cấp ký quỹ 5%
giá trị hợp đồng, khoản tiền này sẽ mất nếu không giao hàng
2.2. Những điểm khác biệt giữa thị trường các nước thành viên EU.
EU là một thị trường chung thống nhất trong đó, hàng hóa, dịch vụ, vốn
và sức lao động được tử do lưu thông giữa các nước thành viên và đến nay đã
lưu hành đồng tiền chung Euro trong số 16 trên tổng số 27 nước thành viên.
Tuy nhiên, dù không có rào cản giữa các quốc gia thành viên, các quốc gia
mở cửa cho các quốc gia thành viên khác, các nền kinh tế thống nhất và hệ
thống quy định, pháp luật hòa hợp, thì tính chất thị trường của các nước vẫn
có những điểm khác biệt do sử khác biệt về dân số, diện tích, tôn giáo, phong
tục tập quán, văn hóa xã hội... M ỗi quốc gia đều có nguồn gốc dân tộc cơ bản
có những giá trị truyền thống và những đặc trưng văn hóa của riêng mình.
Điều đó đã tạo nên những nét riêng biệt trong tính cách và thị hiếu tiêu dùng
EU. Vì vậy chúng ta phải chú ý đến yếu tố này khi làm ăn buôn bán với từng
nước trong khu vửc.
Đối với người tiêu dùng châu Âu trong đó có EU, họ rất miễn cưỡng
phải sử dụng thẻ tín dụng, khác với Mỹ, họ cố gắng trả hết tiền sau một thời
gian. Thói quen tiêu dùng của EU đối với một số sản phẩm lưu thông trên thị
trường cũng có sử phân biệt. Chẳng hạn đối với sản phẩm thủy hải sản, những
người tiêu dùng ở những quốc gia Bắc Âu (Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch) ưa
thích các loại thủy hải sản vùng nước lạnh hơn các loại thủy hải sản ở vùng
nước ấm, vốn là sở thích tiêu dùng của các nước Nam Âu và vùng Địa Trung
Hải; trong khi những người dân Áo, Đức và Hà Lan ưa chuộng mặt hàng may
mặc và giầy dép không có chất nhuộm, có nguồn gốc hữu cơ thì người dân
của các quốc gia khác lại không coi tiêu chí đó là quan trọng...
Hệ thống phân phối sản phẩm trên thị trường EU cũng có những nét
đặc thù đối với từng nhóm quốc gia. Ví dụ ở Bắc Âu việc phân phối các sản
li
phẩm tiêu dùng có xu hướng tập trung cao, giảm bót trung gian, rút ngắn
đường đi của sản phàm tới người tiêu dùng, tập trung vào các cửa hàng bán lẻ
lớn, các siêu thị. Ngược lại ở các quốc gia Nam Âu, việc phân phối các sản
phàm tiêu dùng chủ yếu do các cửa hàng bán lẻ nhỏ truyền thống thầc hiện
(Italia, Hy Lạp, Tây Ban Nha...).
Đe xuất khấu được hàng hóa vào thị trường EU, các doanh nghiệp Việt
Nam không những cần phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu tiêu dùng;
đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà còn
phải thành thạo kênh phân phối, hệ thống luật pháp và yếu tố văn hóa cũng
như hệ thống quản lý xuất nhập khẩu của EƯ nói chung và đặc thù của từng
nước thành viên nói riêng.
3. Quan hệ kinh tế Việt Nam - EU:
Hiện nay, EU có thể coi là một tổ chức có tiềm năng to lớn để hợp tác
về mọi mặt, đặc biệt trong lĩnh vức thương mại và đầu tư.
Do hoàn cảnh lịch sử nên đến trước 1975 quan hệ kinh tế - thương mại
giữa Việt Nam và EU còn rất nhiều hạn chế. Trong giai đoạn 1975 - 1979,
EƯ đã dành cho Việt Nam khoản viện trợ lớn. Song từ tháng 7 năm 1979, do
vấn đề Campuchia nên EU đã ngừng viện trợ cho Việt Nam, kể cả những
khoản viên trợ đã được phê chuẩn. Từ cuối năm 1984, EƯ bắt đầu nối lại viện
trợ nhân đạo cho Việt Nam.
Dấu mốc quan trọng mở ra giai đoạn phát triển mới trong quan hệ Việt
Nam - EU là việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng đồng châu Âu ngày 22/10/1990. Tiếp đó
ngày 17/07/1995, Việt Nam và ủy ban châu Âu đã ký Hiệp định khung hợp
tác tạo cơ sở pháp lý hết sức quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại
giữa hai bên trong những năm sau này.
12
Trước khi ký hiệp định khung họp tác giữa hai bên, tống kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam vào EU hàng năm tăng như sau 3 : 1993/1992 tăng
39,3%, 1994/1993 tăng 3 2% và 1995/1994 tăng 45,4%. Sau khi Hiệp định
khung hợp tác ra đời, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng khá
nhanh và ổn định. Trong suốt giai đoạn tính đến năm 2000, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam vào EU chiếm khoảng 1 2% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam với quy mô buôn bán ngày càng được rộng mở sang nhiều mỳt
hàng khác.
Số liệu thống kê cho thấy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU
tăng lên rất nhanh trong những năm qua. Đen năm 1999 kim ngạch xuất khẩu
sang EU đã đạt 2.506,3 triệu USD, tăng 17,7 lần so với năm 1990. Trong vòng
10 năm (1990 - 1999), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này
đạt 8.492,6 triệu USD, tăng 37,2%/ năm. Chỉ tính riêng thời kỳ được điều chỉnh
bởi Hiệp định khung về hợp tác 1995 - 2000, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang EU đã tăng trung bình hàng năm là 36,6%, còn của thời kỳ 1990 -
1994 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EƯ chỉ tăng 2 8 , 3 1 % 4
Trong thời kỳ kể từ 2001 đến nay, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực trong đó đáng chú ý nhất là việc Việt
Nam khẳng đinh vai trò của một trong những thành viên ASEAN được phía
EƯ quan tâm, coi như một chỗ dựa quan trọng khi duy trì quan hệ với cả khối
ASEAN. Cũng trong thời kỳ phát triển mới này, EU đã liên tục kết nạp thêm
thành viên mới với các sự kiện mở rộng năm 2004 và 2007 khiến EU đạt tới
con số 27 quốc gia thành viên. Các diễn biến này khiến cho quan hệ thương
mại Việt Nam - EU đạt tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và liên tục trong
3 PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh châu Ầu - Thực trạng và triển vọng (sách chuyên khảo), N XB Khoa học xã hội, trang 83. 4 PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh châu Âu - Thực trạng và triển vọng (sách chuyên kháo), N XB Khoa học xã hội, trang 84.
nhiều năm. số liệu thống kê của cả hai phía đều cho thấy kim ngạch trao đổi
13
thương mại Việt Nam - EU vẫn tăng trưởng đều trong thời kỳ 2001 - 2006
với tốc độ tăng trung bình 2 0% /năm. số liệu của Eurostat cho thấy kim ngạch
thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU - 25 đã tăng từ mức 6,5 tỷ Euro
năm 2001 lên 7,5 tỷ Euro năm 2004 và đạt tới con số kỷ lục 10,8 tỷ Euro vào
năm 2007 5.
N ăm 2009, quan hệ kinh tế Việt Nam - EU diắn ra trong bối cảnh có
nhiều khó khăn, thách thức hơn các năm trước. Cuộc khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ quý HI năm 2008, kéo dài trong cả
năm 2009 đã đẩy nền kinh tế các nước EƯ vào quá trình suy giảm nghiêm
trọng cả về đầu tư, thương mại và du lịch. Nếu như những năm trươc đây, EU
là thị trường xuất nhập khẩu lớn của Việt Nam, thì bắt đầu từ cuối năm 2008
và cả năm 2009, quy mô và phạm vi của thị trường này bị thu hẹp rất lớn.
Hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là dệt may, giày dép, hàng thủy sản, đồ gỗ, rau
quả, thủ công mỹ nghệ, nhưng do tác động của khủng hoảng kinh tế, thất
nghiệp tại 27 nước thành viên EU tăng cao, nhu cầu tiêu dùng và sức mua của
dân cư giảm, kéo theo thị trường thu hẹp. Hàng nhập khấu của Việt Nam từ
EU chủ yếu là nguyên liệu, phụ liệu dệt may, da giày, máy móc thiết bị, sắt
thép, sữa bột, bột mỹ và thực phẩm cao cấp... cũng chịu chung số phận.
Bên cạnh đó, một số nước EU khôi phục xu hướng bảo hộ bằng các rào
cản kỹ thuật đối với hàng hóa xuất khẩu như tăng cường việc ban hành các
quy định về an toàn sản phẩm, bảo vệ môi trường, luật hóa chất (REACH), đòi hỏi nguồn gốc xuất xứ mặt hàng thủy sản (lưu),... gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất, chế biến, xuất khẩu của Việt
Nam. Một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU như thủy sản đồ gỗ
rau quả, thực phẩm đã gặp khó khăn khi EƯ ban hành các biện pháp bảo vệ
5 PGS.TS Nguyắn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh té Việt Nam - Liên minh châu Âu - Thực trạng và triển vọng (sách chuyên kháo), N XB Khoa học xã hội, trang 84.
người tiêu dùng và bảo vệ môi trường.
14
Tuy nhiên, để tăng cường thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam - EU
trong thời gian tới, từ tháng 6 năm 2008, giữa Việt Nam và EU đã tiến hành
các vòng đàm phán và ký kết một số hiệp định quan trọng làm cơ sở pháp lý
cho các hoạt động thương mại, đầu tư và du lịch. Vòng đàm phán đầu tiên về
Hiệp định hợp tác và đối tác toàn diện (PCA) giữa hai bên nhằm tạo khuôn
khễ pháp lý mới cho sự họp tác trong thế kỷ 21 giữa EU và Việt Nam diễn ra
vào trung tuần tháng 6/2008. Gần đây nhất, vào đầu tháng 11/2009, vòng đàm
phán thứ 5 Hiệp định PCA đã đạt được bước tiến mới, hai bên hy vọng có thể
tiến tới hoàn tất đàm phán và ký kết PCA vào cuối năm 2010 này.
T óm lại, quan hệ kinh tế Việt Nam - EU tính đến năm 2009 vẫn tồn
tại nhiều khó khăn, bất cập. Đó là hàng rào thuế quan của EU đối với một số
sản phẩm của Việt Nam như giày mũ da, xe đạp, chốt cài inox... vẫn áp thuê
cao trên thị trường EU. Mới đây, tháng 12/2009, ủy ban châu Âu quyết định
kéo dài mức đánh thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng giày mũ da Việt
Nam nhằm bảo hộ ngành giày dép của một số nước thành viên EU, gây tốn
hại cho ngành giày dép Việt Nam. Đây là điều rất đáng tiếc. Hàng rào kỹ
thuật vẫn là công cụ phòng vệ thương mại khá phố biến đế hạn chê hàng
nhập khẩu với mục đích tuyên bố là bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi
trường..., nhưng cũng nhằm bảo hộ các ngành sản xuất trong khối đang bị
mất dần lợi thế so sánh so với hàng nhập khẩu. Điều này đã gây ra rất nhiều
trở ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu vào thị trường này.
li. Các quy định pháp lý của EU về chất lượng và nhãn hiệu hàng hoa
nhập khẩu vào thị trường này.
Liên minh châu Âu EƯ là một thị trường với nhu cầu tiêu dùng lớn
đồng thời các yêu cầu, đòi hỏi về chất lượng, nhãn hiệu đối với hàng hóa nhập
khẩu là rất cao. Hệ thống các quy định mang tính pháp lý đối với các vấn đề
về chất lượng và nhãn hiệu sản phẩm nhập khẩu vào thị trường EU là hết sức
15
phức tạp. Vì vậy, trong giới hạn của bài viết này, tác giả chỉ dừng lại ở việc
tìm hiểu một số quy định mang tính bắt buộc của Liên minh châu Âu Eư đối
với một số ngành hàng vốn được coi là thế mạnh của Việt Nam khi xuầt khầu
sang thị trường này.
1. Các quy định về chầt lượng hàng hoa.
Liên minh châu Âu bao gồm chủ yếu các quốc gia phát triến, dân cư có
mức sống cao. Lẽ thường, khi người dân có mức sống cao, nhu cầu tiêu dùng,
trong đó đặc biệt là đồ ăn thức uống thay đổi theo hướng đòi hỏi cao đến mức
khắt khe về chầt lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, các mặt
hàng tiêu dùng khác như quần áo, giầy dép, đồ gỗ gia đình... cũng phải đảm
bảo về độ an toàn sử dụng và bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Vì lẽ đó,
chúng ta cần nắm rõ những quy định nghiêm ngặt về nhập khẩu hàng hóa từ
các quốc gia khối EU. Muốn xuầt khẩu vào EU, các doanh nghiệp Việt Nam
không còn cách nào khác là phải vượt qua những đòi hỏi đó.
a) Mặt hàng da giầy
Một số quy định pháp lý của EU được áp dụng cho mặt hàng da giầy
mà các doanh nghiệp xuầt khẩu Việt Nam bắt buộc phải tuân thủ nếu không
muốn hàng hóa bị tẩy chay khỏi thị trường hoặc không tiếp cận được thị
trường.
- Luật REACH, luật về quản lý hóa chầt. REACH là đăng ký
(Registration), Đánh giá (Evaluation) và cầp phép hóa chầt (Authorization of
Chemical). REACH là một quy định mới đang được Cộng đồng châu Âu áp
dụng nhằm bảo vệ tốt hơn sức khỏe con người và môi trường tránh khỏi
những hóa chầt độc hại. Quy định REACH được ban hành vào tháng 6 năm
2007, chính thức có hiệu lực vào ngày 01/06/2008. Bắt đầu từ ngày
01/06/2008 đen 01/12/2008, các doanh nghiệp phải đăng ký, công bố các
thông tin về hóa chầt trong các sản phẩm của mình với Cơ quan quản lý hóa
16
chất châu Âu (ECHA). Ke tiếp, việc đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của REACH
cần phải đạt được trong khoảng thời gian hạn định 10 năm, để chứng minh
răng các hóa chất đã công bố không gây hại đến sức khỏe con người và môi
trường. Theo quy định này, danh mục bắt buộc khai báo bao gỗm tất cả các
sản phẩm thuộc ngành công nghiệp liên quan đến tiêu dùng như hóa chất,
nhuộm, in, vải sợi, may mặc, giày dép, gỗ, vật dụng trong gia đình, đỗ chơi
trẻ em... Như vậy, danh mục này bao gỗm cả những mặt hàng được coi là chủ
lực của Việt Nam xuất khẩu sang EU.
- Luật của EU về phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính Ao: Khí Ao là một
trong những loại khí kính có tác động mạnh. Khí này có thể tỗn tại rất lâu
trong bầu khí quyển và gây hiệu ứng nhà kính. Khí này được sử dụng trong
nhiều ngành công nghiệp như sản xuất dược phẩm, các sản phẩm nông hóa,
thuôc nhuộm, các con chip silic, các loại vật liệu các điện và pin nhiên liệu,
giầy dép.
- Chỉ thị 85/374/EEC về trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm
bị lỗi. Nhà sản xuất ở đây bao gỗm: bất cứ ai tham gia vào quá trình sản xuất;
nhà nhập khẩu của sản phẩm bị lỗi; bất cứ ai có tên, nhãn hiệu hay các đặc
điểm phân biệt khác trên sản phẩm; bất cứ ai cung cấp sản phẩm mà không
thể nhận biết được nhà sản xuất 6.
- Chỉ thị 94/62/EC quy định những tiêu chuẩn tối thiểu về đóng gói và
chất thải đóng gói đã được thực hiện ở hầu hết các nước châu Âu như luật
quốc gia.
- Việc dán nhãn trên giày dép hoặc trên các phụ kiện chính được bán
riêng lẻ phải tuân thủ theo các quy định về dán nhãn của Liên minh châu Âu
(EƯ). Cơ sở pháp lý của yêu cầu nhãn mác là Chỉ thị 94/11/ÉC của Nghị viện
châu Âu và của ủy ban châu Âu (ÉC) ban hành ngày 23/03/1994 về các luật
6 C o u n c il Directive 85/374/EEC of 25 July 1985 ôn the approximation of the laws, regulations a nd
administrative provisions of the M e m b er states c o n c e m i ng liabílity for defective products,
http://europa.eu/legislation summaries/consumers/consumer safetv/132012 en.htm
17 \.uụo^
lệ, quy định và các điều khoản hành chính của các quốc gia thành viên liên
quan đến dán nhãn nguyên vật liệu được sử dụng trong các bộ phận chính của
giày dép đê bán cho người tiêu dùng. Nội dung chỉ thị nêu rõ nhãn mác phải
miêu tả rõ những nguyên liệu của 3 phần chính trên mặt hàng giầy dép (phần
mặt trên, phẩn vải lót và đế giầy), nêu rõ trong tấng trường họp là "da", "da
thuộc", "vải" hay "loại khác". Nếu không có loại vật liệu nào chiếm ít nhất
8 0% sản phẩm thì nhãn mác phải nêu rõ thông tin về 2 vật liệu chính đã được
sử dụng tạo thành sản phàm.
b) Mặt hàng dệt may.
Dệt may là một trong những mặt hàng chủ đạo của Việt Nam xuất khẩu
sang EU. Các loại quần áo lót, quần áo ngoài, áo khoác, mũ, tất... hàng ngày
đều tiếp xúc trực tiếp với người sử dụng. Vì vậy EU đòi hỏi rất cao về độ an
toàn của các nguyên vật liệu sử dụng trong quá trình sản xuất đế tránh gây
ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất
khẩu hàng may mặc vào EU cần nắm rõ những quy định mang tính bát buộc
về mặt hàng này. Trong số đó :
- Luật REACH (như đã trình bày ở phần a)
- Chỉ thị 2002/61/ÉC đã được 27 quốc gia EU đưa vào luật quốc gia.
Nội dung của thông tư này là cấm bán sản phẩm dệt may có chứa thuốc
nhuộm azo bị nghi ngờ là gây ưng thư.
- Chỉ thị 94/27/EC về giới hạn Niken trong các vật trang sức và phụ
kiện may mặc.
- Chỉ thị số 2003/53/EC (sửa đổi tấ Chỉ thị 76/769/EEC), EU đã đặt ra
những quy định hạn chế đối với việc sử dụng những hóa chất dễ gây nguy
hiểm, trong đó có Nonnyl Phenols (NP) và Nonnyl Phenol Ethoxylates
(NPEs) là những hóa chất có ảnh hưởng đến tuyến nội tiết nếu được sử dụng
trong các sản phẩm dệt may.
18
- Chỉ thị số 76/769/EEC (sửa đổi từ Chỉ thị 83/264/EEC) cấm việc
marketing và sử dụng những sản phẩm dệt tiếp xúc vợi da nếu nhũng sản
phẩm này chứa các chất làm chậm khả năng bắt cháy bao gầm :
+ Tri - (2,3, - dibromopropyl) - phosphate (TRIS)
+ Tris - (aziridinyl) - phosphineoxide (TEPA)
+ Polybromobiphenyles (PBB)
- EU cũng có quy định về cách thức ghi nhãn cho các sản phẩm dệt
may bán tại EU qua Thông tư 96/74 /ÉC. Việc ghi nhãn này bắt buộc phải
được xem là một phần của chất lượng. Phạm vi áp dụng : các sản phàm chỉ
gầm toàn xơ dệt; các sản phẩm dệt có chứa ít nhất 8 0% xơ dệt theo khối
lượng ; vải bọc đầ gỗ, ô, vật liệu che nắng, vật liệu trải sàn, thảm, găng tay,
bao tay...
c) Mặt hàng gỗ.
Quy định chung của EU mang tính bắt buộc đối với tất cả những sản
phẩm gỗ nhập khẩu vào thị trường các nước EU. Do đó, khi xuất khẩu vào
những thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tuân theo tất cả
những yêu cầu và đảm bảo sản phẩm của mình phải phù hợp với những quy
định đó.
về mặt hàng gỗ, EU ban hành bộ Quy định sản phẩm, gầm có trách
nhiệm pháp lý theo quy định 85/343/EEC, nghĩa là phải có đền bù thiệt hại
cho cá nhân hoặc tập thể khi sản phẩm không an toàn, gây thiệt hại cho người
sử dụng. Kế đến, quy định kiểm soát các chất nguy hiểm có thể có trong sản
phẩm như : Cadmium, PCP bị hạn chế dư lượng ; các chất amiăng, PCB, PCT
bị cấm, hóa chất gây thủng tầng ozon (bị cấm từ 2015) và cho kiểm soát theo
chế độ đặc biệt khắt khe đối với những lô hàng làm từ gỗ gụ, thông Chile, gỗ
hầng sắc của Braxin. Bên cạnh đó, Luật hóa chất REACH cũng được EU áp
dụng cho mặt hàng này.
19
Ngoài ra, EU còn có các quy định về việc sử dụng hóa chất trong các
sản phẩm gỗ như :
- không có chất Fogmandehit trên ván gỗ (nồng độ tối đa 0,1 mi trên
m 3)
- Việc marketing các sản phẩm chứa thành phần PCP Pentaclophenol bị
cấm (chất PCP thường được sử dụng để chống nấm mốc trên sản phẩm dệt
may, sản phẩm da và để hoàn thiện các sản phẩm gỗ).
- Penta BDE (được sử dụng để sản xuất bột Pholiurethane cho sản
phẩm gỗ và hàng bủc nệm) tối đa là 0,1 by mass.
d) Mặt hàng nông sản và thủy sản.
Theo Luật thực phẩm của EU số 2002/178/EC, mỗi công dân đề có
mong muốn chính đáng về an toàn và chất lượng thực phẩm hủ tiêu dùng.
Điều 14 của Luật này - Yêu cầu về an toàn thực phẩm - nêu rõ :
Ì. Thực phẩm sẽ không được bán tại chợ nếu không được đảm bảo an
toàn.
2. Thực phẩm coi như không đảm bảo an toàn k h i:
(a) gây tổn thương tới sức khỏe con người.
(b) không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng.
3. Đe khẳng định thực phẩm trong điều kiện an toàn, cần chú ý tới :
(a) các điều kiện sử dụng thực phẩm thông thường bởi người tiêu dùng
và từng công đoạn sản xuất, chế biến và phân phối,
(b) các thông tin cung cấp cho người tiêu dùng, gồm thông tin về nhãn
mác, hoặc thông tin chung, sẵn có cho người tiêu dùng liên quan
đến việc tránh các ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe từ một loại thực
phẩm hay một nhóm thực phẩm nào đó...
20
4. Đe khẳng định một loại thực phẩm không đáp ứng nhu câu của
người tiêu dùng, cần chú ý xem loại thực phẩm đó không đáp ứng vì
bị nhiễm khuẩn bời vật chất lạ, sự xuống cấp về chất lượng hoặc
thối rảa 1.
Đe đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm, Liên minh châu Âu thực
hiện nguyên tắc quản lý chất lượng và kiểm soát định hướng quá trình qua các
dây chuyền cung cấp thực phẩm - từ tàu đánh bắt hoặc nơi nuôi trồng, chế
biến tới bàn ăn 'Tròm the Farm to the Fork". Vì vậy tìm hiểu các quy định
của EU về vệ sinh an toàn thực phẩm là rất cần thiết, giúp các doanh nghiệp
nắm rõ và vận dụng tốt khi muốn thâm nhập vào thị trường này.
Cá và thủy sản có vỏ, cà phê, hạt điều, chè, hạt tiêu, gỗ, rau quả, mật
ong... là các mặt hàng nông - thủy sản xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam.
Trong đó, cà phê, chè, gỗ và gạo thường không gặp phải các quy định chặt
chẽ dưới hình thức các biện pháp vệ sinh dịch tễ mặc dù nước nhập khẩu có
thể áp dụng quy định bắt buộc không có dư lượng bảo vệ thực vật hay mức độ
nhiễm khuẩn quá mức cho phép. Trái lại, cá, thủy sản có vỏ và động vật chăn
nuôi lại là đối tượng chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt bởi các biện pháp vệ sinh
động thực vật để bảo đảm an toàn thực phẩm cho con người.
Biện pháp vệ sinh động thực vật - bất cứ biện pháp nào được áp
dụng.
a) Để bảo vệ sức khỏe con người hay động thực vật trong phạm vi lãnh
thổ của nước thành viên khỏi các nguy hiểm nẩy sinh từ khâu nhập khẩu, từ
sự hình thành và lây lan của các côn trùng có hại, dịch bệnh, các sinh vật
mang bệnh hoặc các sinh vật gây bệnh.
7 Regulation (ÉC) No 178/2002 of The European parliament and of The Council of 28 January 2002 laying down the general principles and requừements of food law, establishing the European Food Saíety Authority and laying down producers in matters of food safety, http://ec.europa.eu/food/food/foodlaw/index en.htm
21
b) Đe bảo vệ sức khỏe, cuộc sống con người, động thực vật trong phạm
vi lãnh thổ của nước thành viên khỏi các nguy hiểm phát sinh từ các chát phụ
gia, chịt gây ô nhiễm, độc tố hay các sinh vật gây bênh trong đô ăn, thức
uống, thực phẩm.
c) Đe bảo vệ sức khỏe cuộc sống con người, động thực vật trong phạm
vi lãnh thổ của nước thành viên khỏi các nguy hiểm phát sinh từ các dịch
bệnh lây từ động vát, thực vật và các sản phẩm của nó, hay từ khâu nhập
khẩu, từ sự hình thành và lây lan của các loại côn trùng có hại.
d) Để ngăn chặn hoặc hạn chế những nguy hại khác trong phạm vi lãnh
thổ của các nước thành viên từ khâu nhập khẩu, sự hình thành và lây lan của
các côn trùng có hại.
Các biện pháp vệ sinh động thực vật bao gồm tịt cả các luật, nghị định,
quy định, yêu cầu và các thủ tục liên quan,.... ,và các yêu cầu đóng gói, dán
nhãn trực tiếp liên quan đến sự an toàn của thực phẩm 8.
Dưới đây là một số quy định của EU nhằm thực hiện các biện pháp vệ
sinh động thực vật:
Một số quy định của EU về hóa chất bị cẩm và hóa chất bị hạn chế
dư lượng.
- EU áp dụng MLRs (Maximum Residue Limit) là một giới hạn tối đa
dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (biểu thị bằng mg/kg), mới đây nhịt được ban
hành ngày 01/09/2008, quy định rằng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tìm thịy
trong thức ăn phải an toàn cho người sử dụng và ở mức thịp nhịt có thể. Giới
hạn tối đa là mức độ cao nhịt có thể của dư lượng thuốc trong thực phẩm và
thức ăn chăn nuôi được coi là hợp pháp. Quy chế mới này bao gồm khoảng
1100 loại thuốc trừ sâu đã và đang được sử dụng trong nông nghiệp trong và
8 Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chịt lượng (tải ngày 15/04/2010) Hiệp định SPS
http://portal.tcvn.vn/quangbinh/media/TBT/Hiep%20Dinh%20SPS.doc
ngoài EƯ. Nó liệt kê giới hạn tối đa thuốc trừ sâu cho 315 sản phẩm nông
22
nghiệp. Trường họp thuốc trừ sâu là loại không được đề cập cụ thể, một mặc
định chung MRLs là 0,01 mg/kg được áp dụng 9
- Hiện EU đang thực hiện chính sách "dư lượng = 0" đối với 26 chất
kháng sinh bị cấm hoàn toàn. Trong đó có :
+ Chloramphenicol: gây suy tảy, rối loạn tăng trưởng sụn
xương.
+ Nitroíurans (bao gồm cả Furazolidone) : gây ung thư nêu sử
dụng trong thời gian dài.
+ Green Malachite : là chất được dùng phổ biến trên thế giới để
trị các bệnh nấm, ký sinh trên trứng cá, cá và các loại sò hến (nhuyễn thế), đó
là một loại thuốc trừ nấm rất công hiệu và thường được dùng để tẩy trùng
trong các hồ nuôi cá giống. Còn chất Leucomalachite Green là chất phát sinh
trong quá trình chuyển hóa cảa Malachite Green và thường tồn dư trong cá
một thời gian dài, ngay cả khi không còn thấy Malachite Green nữa. Nó gây
tổn hại đến sức khỏe người tiêu dùng. Do vậy EU không chấp nhận sử dụng
chất này trong thực phẩm.
+ ...
- Bên cạnh các chất kháng sinh bị cấm hoàn toàn, EU còn quy định các
chất kháng sinh bị hạn chế (cho phép sử dụng nhưng quy định giới hạn tối đa)
trong đó có một số chất thuộc nhóm Fluoroquinolone như Ciproíloxacine,
Enroíloxacine, Oxolinic acid... gây sụ đầu xương, chậm phát triển chiều cao...
EU ngày càng hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng kháng sinh trên cơ sở hiện
đại hóa thiết bị kiểm tra. Mỗi khi nâng cấp thiết bị kiểm tra dư lượng kháng
sinh ở trong thịt gia sức, gia cầm và thảy sản nhập khẩu, EU lại hạ thấp
9 New rules ôn pesticide residues to strengthen food saíety in European Union, Ì September 2008, http://europa,eu/rapid/pressReleasesAction.do?refeience=IP/08/1282&format=HTML&aged=0&language=E
N
ngưỡng phát hiện dư lượng kháng sinh.
23
Một số quy định của EU về phụ gia thực phẩm.
Phụ gia thực phẩm là các loại nguyên liệu khác nhau được dùng để
thêm vào thực phẩm nhằm mục đích làm tăng thêm sự hấp dẫn của sản phẩm,
hoặc làm đông đặc thực phẩm. Phụ gia thực phẩm là đối tượng điều chỉnh của
luật pháp EU. ữ các nước thuộc Liên minh châu Âu, các phụ gia thực phẩm
được chấp nhận đều mang số hiệu nhận biết: trước số hiệu là chữ E. Các phụ
gia thực phẩm được ghi nhận trong danh sách các thành tố trên bao bì bằng
cách cho biết tên chất hay số liệu ban hành của nó.
- Phẩm màu được thêm vào thực phẩm nhằm mục đích làm cho thực
phẩm dễ bắt mắt, sinh động hem và kích thích người tiêu dùng. Quy định của
EU về phụ gia trong thực phẩm là phẩm màu được nêu trong Chỉ thị
94/3 6/EC chỉ được dùng các chất màu đã được quy định để làm phụ gia trong
thực phẩm. Ngoài ra Chỉ thị còn nêu rõ là không được thêm phụ gia vào các
thực phẩm là thịt gia cầm, cá, nhuyễn thể, động vật có vỏ (ngoại trừ trường
hợp đặc biệt).
- Chất làm ngọt được sử dụng phổ biến trong thực phẩm để tăng thêm
sự lôi cuốn của sản phẩm. Quy định của EU về chất phụ gia trong thực phẩm
là chất làm ngọt được nêu trong Chỉ thị 94/35/EEC. Chất làm ngọt có thành
phần là những chất không có hại cho sức khỏe và môi trường. Hạn chế những
chất làm ngọt có nguồn gốc từ hóa học.
- Hương liệu sử dụng trong thực phẩm làm cho thực phẩm ngon và
thơm hơn. Hương liệu là nguồn bố sung vào thực phàm và phải đảm bảo rằng
không chứa bất kỳ một nguyên to hay hợp chất nào có hàm lượng độc tố nguy
hiểm ; phải tuân theo bất cứ một tiêu chuẩn nào về độ tinh khiết; không chứa
hơn 3 mg/kg asenic ; chì không quá lo mg/kg ; Cadimi không quá lmg/kg và
10 Đinh Thị Ngọc Linh (2008), Các tiêu chuẩn về môi trường EU và vần để xuất khẩu thủy sàn của Việt Nam Đề tài nghiên cứu cấp Viện, v i ện Nghiên cứu châu Âu.
thủy ngân không quá lmg/kg 10.
24
Một số quy định khác.
Quy định 1005/2008 của ủy ban châu Âu (ÉC) về thiết lập hệ thống
kiểm soát nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ hoạt động khai thác, đánh
bắt thủy sản bất hợp pháp (Illegal, Unreport and Unregulated íĩshing - lưu)
chính thờc có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010. Theo lưu, các lô hàng thủy
sản khi xuất khẩu vào thị trường EU phải có giấy chờng nhận thể hiện thông
tin về tính hợp pháp của sản phẩm. Các thông tin bao gồm thông tin về tàu
khai thác, tên chủ tàu, phương tiện đánh bắt, vùng biển khai thác, loại sản
phẩm và trọng lượng, giấy báo chuyển hàng trên biển...
2. Các quy định về nhãn hiệu hàng hóa.
2.1. Quy định về nhãn hiệu hàng hóa
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ
chờc, cá nhân khác nhau ". Nhãn hiệu là một yếu tố đặc trưng gắn liền giữa
thị trường thương mại và lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Nó được sử dụng
trong một thời gian dài bời các nhà sản xuất cũng như các thương nhân để xác
định nguồn gốc xuất xờ của hàng hóa hay dịch vụ của họ và phân biệt những
hàng hóa, dịch vụ đó với các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hay bán bởi các
chủ thể khác. Chờc năng phân biệt nguồn gốc hàng hóa hay dịch vụ của nhãn
hiệu luôn được xem là yếu tố quan trọng nhất của nhãn hiệu hàng hóa. Vì vậy
nó luôn đóng vai trò trung tâm và được đề cập đến rất nhiều trong pháp luật
về nhãn hiệu hàng hóa của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
EU quy định nhãn hiệu cơ bản có thể hình thành bằng chữ, bằng hình
vẽ lẫn với nhiều màu sắc khác nhau. Dùng những phương tiện này nhà sản
xuất có thể tạo nên rất nhiều loại hình nhãn hiệu khác nhau phù họp với từng
mặt hàng của từng đối tượng tiêu thụ. EƯ không dùng các loại nhãn hiệu sau
" Định nghĩa về Nhãn hiệu, Điều 4 khoản 16 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005.
đây:
25
- Giống quốc kỳ, quốc huy hay quân huy của nước nào đó,
- Huy hiệu hay giống huy hiệu của một đoàn thể xã hội nào đó,
- Trùng hoặc giống hệt một nhãn hiệu đã được đăng ký hay đã được
sử dụng,
- Chân dung người khác mà chưa được sự đồng ý của người đó,
- Chân dung hay tên lãnh tụ,
- Dùng tên địa lý...
2.2. Quy định về bảo hộ sạ hữu công nghiệp.
EU đã tham gia Công ước Paris về bảo hộ sạ hữu công nghiệp. Đối
tượng bảo hộ bao gồm patent, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ và chống
cạnh tranh không lành mạnh.
Tại EU, các nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa được ghi nhận trong
2 văn bản pháp luật quan trọng được ban hành liên quan một cách trực tiếp
đến pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa, đó là Văn bản hướng dẫn đầu tiên năm
1988, 104/89/EEC, về hài hòa pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của các quốc
gia và Quy định của Hội đồng năm 1993, 40/94/EC, về Nhãn hiệu hàng hóa
Cộng đồng.
* Văn bản hướng dẫn 104/89/EEC được ban hành không phải nhằm
mục đích thống nhất tất cả các hệ thống pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của
các quốc gia. Mục đích của nó chỉ là hướng đến việc cố gắng làm giảm đi sự
khác biệt giữa các hệ thống nhãn hiệu hàng hóa quốc gia là nguyên nhân gây
ra những rào cản cho thương mại và ảnh hưạng đến sự lưu thông tự do hàng
hóa, dịch vụ cũng như hạn chế sự phát triển của các thị trường đơn lẻ. Có 3
điều khoản quan trọng của văn bản liên quan đến cơ chế đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa cũng như việc xác lập quyền thông qua đăng ký, đó là:
-Điều 3: Chỉ ra những căn cứ cho việc từ chối hay vô hiệu hóa sự đăng
ký của các nhãn hiệu hàng hóa;
26
- Điều 4: Đe cập đến những trường họp được coi là gây ra sự xung đột
với những nhãn hiệu hàng hóa trước đó;
- Điều 5: Xác lập quyền thông qua thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.
Theo những quy định tại Điều 4 của Luật này, một nhãn hiệu hàng hóa
sẽ không thế được đăng ký, hoặc nếu đã được đăng ký sẽ có thể bị tuyên bố
vô hiệu ẫ các quốc gia châu Âu nếu nó bị coi là giống hoặc tương tự với
những nhãn hiệu đã được đăng ký được sử dụng cho những hàng hóa hay dịch
vụ tương tự, hoặc nó có thể gây ra sự nhầm lẫn với những nhãn hiệu Cộng
đồng trước đó.
Ngoài ra, một nguyên tắc quan trọng khác liên quan đến việc bảo hộ
nhãn hiệu hàng hóa ẫ châu Âu quy định rằng việc bảo hộ đối với nhãn hiệu
hàng hóa sẽ không chỉ bị giới hạn trong phạm vi những hàng hóa và dịch vụ
tương tự. Theo đó, phạm vi bảo hộ sẽ được mẫ rộng cho cả những trường hợp
nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng cho những loại hàng hóa hay dịch vụ không
tương tự khi sự sử dụng như thế có thể gây thiệt hại hoặc tạo ra những điều
kiện bất lợi cho danh tiếng của nhãn hiệu trước đó .
* Quy định 40/94/EC của Hội đồng châu Âu năm 1993 chủ yếu đề cập
đến những vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa cộng đồng. Vì thế, nó
còn được biết đến với tên gọi Quy định về Nhãn hiệu hàng hóa Cộng đồng
(Community Trade Mark Regulation - CTMR).
Hệ thống đăng ký Nhãn hiệu hàng hóa Cộng đồng ra đời để giúp các
chủ sẫ hữu nhãn hiệu tiến hành đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của mình vào các
nước châu Âu thuận lợi, nhanh chóng và đỡ tốn kém hơn. Hệ thống này tồn
tại độc lập với các nước thuộc cộng đồng. Nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký
12 ThS. Phan Ngọc T âm (2006), Bào hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật châu Âu và Hoa Kỳ Tạp chí Khoa học Pháp luật số 4/2006.
thông qua hệ thống này được gọi là nhãn hiệu cộng đồng hay còn gọi là CTM.
27
CTM là dấu hiệu chung để xác định và phân biệt hàng hóa, dịch vụ
cùng loại của các nhà sản xuất khác nhau được đăng ký qua hệ thông đăng ký
CTM và có hiệu lực pháp lý tại tất cả các quốc gia thành viên của Cộng đông
châu Âu.
Đe được đăng ký CTM, nhãn hiệu phải được cả 27 nước trong cộng
đồng đồng ý. Sau khi được đăng ký tại cơ quan đăng ký này, nhãn hiệu đó sẽ
có hiệu lực ở tất cả các nước thành viên EU. Ngược lại, nếu nhãn hiệu bị huy
bỏ hay mất hiệu lực ở một nước thành viên thì đương nhiên bị mất hiệu lực
trong cả cộng đồng.
Trong quá trình đăng ký, chữ cần một trong các nước EU từ chối bảo hộ
thì việc đăng ký nhãn hiệu thông qua hệ thống đăng ký CTM coi như không
thành công. Lúc này, nếu chủ sở hữu vẫn muốn đăng ký nhãn hiệu vào những
nước thành viên khác không từ chối bảo hộ nhãn hiệu thì có thể chuyển đơn
đăng ký CTM thành nhiều đon đăng ký quốc gia vào từng nước này.
Vì hệ thống đăng ký CTM độc lập và không có ảnh hưởng đối với hệ
thống đăng ký quốc gia của mỗi nước thành viên cộng đồng , nên chủ sở hữu
nhãn hiệu hoàn toàn tự do nộp đơn đăng ký nhãn hiệu CTM, hoặc nộp đơn
quốc gia, hoặc cả hai. Điều này có nghĩa là nhãn hiệu CTM và nhãn hiệu đăng
ký quốc gia đều có thế song song tôn tại.
Ngoài ra, nếu muốn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ở EƯ, doanh nghiệp
còn có thể làm theo một cách khác. Đó là nộp đơn đăng ký theo hệ thống
Madrid mà EU là một thành viên (bao gồm cả Thỏa ước Madrid và Nghị định
thư Madrid).
Có thể nói, EU ngày nay được coi là một đại quốc gia ở châu Âu. Cùng
với các chính sách thương mại và các chính sách ngoại thương, các quy định
pháp lý được xây dựng nhằm tạo cơ hội kinh doanh cho mọi đối tượng trong
thị trường chung và ngăn ngừa cạnh tranh không lành mạnh bắt nguồn từ sự
méo mó về thương mại. Một thị trường lành mạnh không thể vận hành một
28
cách suôn sẻ nếu không thống nhất các quy định và điều kiện cạnh tranh áp
dụng. Và đối với các quốc gia có quan hệ thương mại với Liên minh châu Âu
EU, việc nghiên cứu và áp dụng các quy định pháp lý nêu trên có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Trong xu thế nhập mở cửa hiện nay, nắm bắt thời cơ và hiểu
rõ thị trường sẽ giúp các quốc gia có thể định hướng chính sách phát triển,
thúc đữy quan hệ buôn bán và hòa nhập với nền kinh tế thế giới. V ới thị
trường EU, việc quan hệ với khối liên minh này sẽ đem lại cho các quốc gia
nhiều cơ hội cũng như cả những thách thức.
về phía Việt Nam, kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với EU năm
1990, quan hệ kinh tế thương mại ngày càng phát triển và được củng cố về
mọi mặt. Đặc biệt trong những năm gần đây, Việt Nam đang xúc tiến, khai
thông, thâm nhập vào thị trường EU. Trên thực tế vấn đề thâm nhập này
không phải dễ dàng khi những quy định pháp lý và những rào cản thương mại
luôn gây trở ngại cho phía doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù đứng trước những
thử thách lớn như vậy, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam không ngần ngại
"vượt rào" để có thể tiếp cận được với thị trường đầy tiềm năng này. Đe làm
rõ hơn điều đó, nội dung của chương tiếp theo sẽ trình bày cụ thể thực tiễn
vận dụng các quy định pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khữu
sang thị trường EU.
29
C H Ư Ơ NG 2 THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VÈ CHẤT LƯỢNG VÀ N H ÃN HIỆU H À NG HOA CỦA EU Ở CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG NÀY.
ì. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu cờa Việt Nam vào thị trường EU.
1. Kim ngạch xuất khẩu.
Ngay sau khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1990, việc
buôn bán giữa Việt Nam và EU phát triển khá mạnh. "Hiệp định dệt may" ký
kết năm 1993 và Hiệp định khung năm 1995 đã đánh dấu bước đột phá trong
mối quan hệ giữa Việt Nam và EƯ. Việc ký kết các Hiệp định này đã mở ra
những triển vọng mới trong quan hệ hợp tác và tạo cơ sở pháp lý cho sự phát
triển các mối quan hệ bền chặt lâu dài giữa Việt Nam - EU cũng như các
nước thành viên.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu cờa Việt Nam sang EU giai đoạn 2005 - 2009 Đơn vị: triệu USD
2008 2009 2007 2006 2005 Năm 1. Tổng 62 685,1 48 561,4 57 096,3 39 826,2 32 447,1 KNXK cờa VN 2. Trong đó 9 096,4 7 094,0 10 853,0 9 378,3 5 517,0 KNXK sang EU 17,8 18,7 17,3 17 16,4 3.Tỷ trọng %
13 Website cùa Bộ Công thương (truy cập 20/03/2010), Trị giá xuất khẩu hàng hóa phân theo khối nước phân theo nước và vùng lãnh thô, http://tttiĩi.moit.gov.vn/dstk.aspx?NewID=10E&CateID=l
(Ngu n : Thống kê của Bộ Còng thương 1 3 )
30
Qua bảng Ì ta thấy kim ngạch xuất khẩu của của Việt Nam sang Eư
tăng đều qua các năm từ 2005 đến 2008, trung bình tăng khoảng 2 5% so với
năm trước, tuy nhiên tỷ trọng so với kim ngạch xuất khẩu chung của Việt
Nam chi ở mức trên dưới 18%. Con số này còn chưa cân xứng với tiềm năng
trao đối thương mại của cả hai bên. Duy chỉ có năm 2009, do tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra trên toàn thế giới, kim ngạch xuất khẩu nói
chung và kim ngạch xuất khẩu sang EU nói riêng có sị sụt giảm khoảng 9%
và 1 3% so với năm 2008.
2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lịc.
Mặc dù EU là một thị trường hết sức "khó tính", khó thâm nhập, nhung
Việt Nam cũng đã tìm ra những mặt hàng chiến lược có thể chinh phục được
thị trường này. Cơ cấu hàng xuất khẩu có sị thay đổi tùy từng giai đoạn nhát
định. Trong những năm 1991 - 1992, mặt hàng chủ lịc của Việt Nam là gạo,
nông sản (gạo chủ yếu xuất sang nước thứ 3). Từ khi hai bên ký kết Hiệp định
hàng dệt may thì trong các năm từ 1992 đến 1997, mặt hàng chủ lịc của Việt
Nam lại là hàng dệt may, giày dép, thủy hải sản. Hiện nay, các mặt hàng Việt
nam xuất sang EU ngày càng phong phú và đa dạng. EU hiện là một trong
những đối tác thương mại lớn nhất của Việt nam, xuất khẩu của Việt Nam
sang EU chiếm 17 - 1 8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Cơ cấu
mặt hàng của Việt Nam sang EU chủ yếu tập trung vào các mặt hàng truyền
thống : Giày dép, dệt may, cà phê, gạo, cao su, than đá, điều nhân, rau quả,
hàng thủ công mỹ nghệ và thủy hải sản. Những mặt hàng này chiếm tới 7 9%
tổng kim ngạch xuất khấu của Việt Nam vào EU. Trong đó riêng giày dép
chiếm 30%, dệt may chiếm 25%, cà phê và hải sản chiếm trên dưới 14%. Từ
năm 1996 đến nay, trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam xuất hiện thêm
một số mặt hàng như : đồ chơi trẻ em, đồ thể thao, đồ gỗ nội thất và các sản
phẩm gốm.
31
Bảng 2 : K im ngạch xuất khẩu 10 mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang
thị trường EU trong các n ăm từ 2007 đến 2009.
Năm 2009
Năm 2008
Năm 2007
Nội dung Nội dung
Giá trị
K.lượng
Giá trị
K.lượng
Giá trị
K.lượng
(nghìnUSD)
(tấn)
(nghìnUSD)
(tấn)
(nghìnUSD)
(tấn)
9 378 294
10 853 004
9 095 953
KNXK sang EU
Trong đó các
HHXKchủ yếu
1 948 304
2 508 276
2 184 763
Giày dép
1 602 939
1 703 627
1 498 950
Dệt may
550 168
806 351
641 212
Đô gô
813 078
558 456
994 310
502 027
878 884
559 759
Cà phê
77 290
43 821
165 608
67 623
147 573
77 731
Cao su
Máy vi tính và
415 662
457 024
414 807
linh kiện
Túi
xách,
327 620
292 200
248 477
vali.mũ và ô dù
Sản phàm mây,
109 655
76 302
120 126
tre,cói và thảm
1 149 207
Hải sản
923 965
1 050 453
Hạt điêu
37 870
165 644
253 368
37 103
186 290
(Nguồn : Tổng cục thống kê 1 4 )
Ngoài những mặt hàng truyền thống, hàng xuất khẩu của Việt Nam còn
xuất hiện những mặt hàng mới, phù hợp với nhu c u của thị trường EU, khai
" Website của Tổng cục thống kê (truy cập 20/03/2010) Trị giá xuất khẩu phân theo một số nước khái nước và vùng lãnh tho chù yểu và phàn theo mặt hàng chủ yểu sơ bộ các năm 2001 2008 2009 http://www.gso.°ov.vn/default.aspx?tabid=629&idmid=4
32
thác được thế mạnh của Việt Nam và chiếm một tỷ trọng tương đối trong cơ
cấu hàng xuất khấu sang EU như hàng điện tử : máy vi tính và linh kiện. Chỉ
tính riêng kim ngạch xuất khẩu của của hai mặt hàng này đã đạt trên 400 triệu
USD một năm (theo bảng 2), chiếm khoảng 5% kim ngạch xuất khẩu sang
EƯ. Bước đầu hoạt động xuất khẩu của các mặt hàng trên đã gặt hái được
nhờng thành công và thâm nhập được vào thị trường tiềm năng này.
li. Thực tiễn xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang EU.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU không ngừng
tăng cả về lượng và chất. Tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé
chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Thực tế cho thấy, một trong
nhờng nguyên nhân quan trọng hạn chế cơ hội xuất khấu của các doanh
nghiêp Việt Nam chính là hành lang pháp lý của Liên minh này. Đe quản lý
chất lượng, EU đã ban hành nhờng quy định rất khắt khe về tiêu chuẩn an
toàn vệ sinh thực phẩm và môi trường. Ngoài ra EU cũng đưa ra các quy định
cụ thể về nhãn hiệu và bảo hộ quyền sở hờu công nghiệp đối với mỗi mặt
hàng. Nhận thức được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã cố gắng
tuân thủ các quy định pháp lý để tạo nền tảng, từng bước mở rộng thị trường
mặt hàng xuất khẩu. Hơn nờa các mặt hàng xuất khấu của Việt Nam đang
hướng tới tiêu chí làm cho người tiêu dùng châu Âu quen dần với thương hiệu
của hàng hóa Việt Nam, từng bước hình thành tập quán và thói quen tiêu dùng
hàng Việt Nam. Tuy nhiên, căn cứ vào khả năng của Việt Nam thì tốc độ gia
tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU vẫn còn chưa tương xứng. M ột
nguyên nhân quan trọng ở đây là do việc vận dụng các quy định về nhãn hiệu
và chất lượng sản phẩm còn chưa hiệu quả. Ta sẽ xem xét thực tiễn xuất khẩu
một số mặt hàng chủ yếu để rút ra một số vấn đề cần xúc tiến đồng thời giải
quyết nhờng vấn đề còn tồn tại liên quan đến việc thực hiện các quy định
33
pháp lý của Liên minh châu Âu EU nhằm tăng kim ngạch xuất khấu của hàng
hóa Việt Nam sang thị trường này.
1. M ặt hàng giày dép.
Đây là mặt hàng quan trọng nhất của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị
trường EU và hiện nay vẫn là mặt hàng có kim ngạch lớn nhất. Trước đây, khi
xuất khẩu mặt hàng này sang EU, các nhà xuất khẩu Việt Nam phải xin giấy
phép nhưng từ sau khi ký Hiệp định khung hợp tác (17/07/1995) thì nhóm
hàng này được nhập khẩu tỳ do vào EU. Chính vì vậy kim ngạch xuất khẩu
tăng nhanh : năm 1995 đạt 481,3 triệu USD, năm 1996 đạt 664,6 triệu Ư SD ;
năm 1997 đạt 1032,3 triệu Ư SD I5. Với kim ngạch như vậy đã vượt xa mặt
hàng dệt may đã từng giữ vị trí số Ì trong thời kỳ 1992 -1995.
Trong thời kỳ từ năm 2000 đến nay, kim ngạch xuất khẩu giày dép của
Việt Nam nhìn chung vẫn ổn định với mức tăng trưởng biến động không
nhiều qua các năm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam đã, đang và sẽ còn
gặp phải nhiều khó khăn trong xuất khẩu mặt hàng này do nhiều yếu tố liên
quan tới khả năng cạnh tranh, các biện pháp hạn chế của EU như là từ ngày
06/04/2006 Liên minh châu Âu chính thức áp thuế chống bán phá giá đối với
sản phẩm giày mũ da nhập khẩu từ Việt Nam với mức thuế khởi đầu là 4,2%,
tăng dần tới mức cao nhất 16,8% và cuối cùng dừng lại ở mức 10%; năm
2008, EƯ ra quyết định về việc bãi bỏ ưu đãi thuế quan GSP đối với mặt hàng
giày dép của Việt Nam. Hay mới đây nhất, ngày 22/12/2009, EU đã bỏ phiếu
chính thức thông quan đề xuất của úy ban châu Âu (ÉC) kéo dài thêm 15
tháng thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da nhập khẩu tù
Việt Nam. Quyết định có hiệu lỳc kế từ ngày 01/01/2010. Điều này dỳ báo
rằng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng giầy dép của chúng ta khó có thể tăng
15 PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh châu Âu - Thực trạng và
triển vọng (sách chuyên khảo), N XB Khoa học xã hội, trang 105.
34
trong thời buổi suy thoái kinh tế này. Theo Tổng cục thống kê, tông k im
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Eư năm 2009 giảm 14,4% so với năm
2008, trong đó mặt hàng giày dép đạt 1,9 tỷ USD, giảm 23,2% so với năm
2008.
Bảng 3 : Giá trị xuất khẩu giầy dép của Việt Nam sang EU
giai đoạn 2002 - 2009
Giá trị (triệu USD)
N ăm
1 327,9
2002
1 602,5
2003
1 782,4
2004
1 783,2
2005
1 960,7
2006
2 184,7
2007
2008
2 508,3
2009
1 948,3
Nguồn : Bộ Công thương 16
Điều đáng chú ý là việc xuất khẩu mặt hàng giầy dép của Việt Nam
sang thự trường EU cho đến nay chủ yếu vẫn là hình thức gia công (chiếm 70
- 8 0% kim ngạch) nên hiệu quản thực tế rất nhỏ (25 - 3 0% tống doanh thu
xuất khẩu).
2. M ặt hàng dệt may.
Dệt may là mặt hàng xuất khau có kim ngạch lớn thứ 2 của Việt Nam
sang EU, hiện nay EU là thự trường xuất khấu hàng dệt may theo hạn ngạch
lớn nhất của Việt Nam. Từ năm 1980, hàng dệt may được xuất khẩu sang một
số nước thành viên EU như Đức, Anh, Pháp... nhưng đặc biệt phát triển mạnh
16 Trị giá xuất khất một số mặt hàng chủ yếu sang EU giai đoạn 2002 -2009, số liệu do cán bộ phòng Tổng hợp - Vụ châu Âu - Bộ Công thương cung cấp.
sau khi Hiệp đựnh buôn bán hàng dệt may được hai bên ký kết.
35
Phải thừa nhận rằng Hiệp định buôn bán hàng dệt may đã dành những
ưu đãi đánh kể cho các nhà xuất khẩu Việt Nam, nhờ đó kim ngạch xuất khấu
hàng dệt may vào EU tăng khá nhanh : năm 1995 đạt 350 triệu USD, sau 4
năm đến năm 1999 đã tăng gấp đôi đạt 700 triệu USD. Thị trường EƯ chiếm
tỷ trọng 46,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
năm 1995, đến năm 1999 con sở này là 48,1% 17.
Trong thời kỳ 2002 - 2009, cùng với quá trình EU mở rộng từ 15 quởc
gia thành viên lên 27 quởc gia như hiện nay thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may sang EU cũng đạt tởc độ tăng trưởng tởt và luôn chiếm vị trí là một trong
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Cụ thể sở liệu thởng kê của
Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy kim ngạch dệt may đã tăng đều từ 552
triệu USD năm 2002 lên 1603 triệu USD năm 2009 (xem bảng 4)
Bảng 4 : Giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU
giai đoạn 2002 - 2009
Giá trị (triệu USD)
Năm
551,9
2002
537,1
2003
760
2004
882,8
2005
1 244,6
2006
1 499,0
2007
1 703,9
2008
1 602,9
2009
" PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh châu Âu - Thực trạng và triển vọng (sách chuyên khảo), N XB Khoa học xã hội, trang 109.
18 Trị giá xuất khẩu một so mặt hàng chú yếu sang EU giai đoạn 2002 - 2009, sở liệu do cán bộ phòng T ổ n" hợp - Vụ châu Âu - Bộ Công thương cung cấp.
Nguồn : Bộ Công thương 1
36
Theo bảng số liệu trên, năm 2009 vừa qua kim ngạch xuất khâu hàng
dệt may sang EU đạt 1,7 tỷ USD, giảm 3 1% so với năm 2008, cùng chung số
phận với ngành da giầy nói riêng và toàn bộ ngành hàng xuất khấu nói chung
do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế.
Trên thị trường hàng dệt may EU, bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của
Việt Nam là Đức, chiếm 46,9% kim ngạch, bở xa các nước Pháp là 10,8%,
Anh 9,4%; Bỉ 6,1%... 19
Mặc dù hiện nay EU đã trở thành thị trường xuất khẩu hàng dệt may
lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch tăng khá nhanh nhưng cũng giống như
mặt hàng giầy dép, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU
chủ yếu là theo hình thức gia công (chiếm tỷ trọng trên 8 0 %) nên hiệu quả
thực tế rất nhở.
3. Mặt hàng nông sản.
Hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU là cà phê, cao
su, gạo, chè, gia vị và một số rau quả. Do đã và đang được tập trung thành các
khu vực sản xuất và chế biến lớn, mang tính công nghiệp nên các mặt hàng
cao su, cà phê và chè xuất khẩu sang EU khá ổn định với tốc độ tăng trưởng
cao. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường EU trong
suốt giai đoạn từ 1995 đến nay đã tăng liên tục. Đặc biệt trong các năm từ
2001 đến 2007, xuất khẩu nông sản sang EƯ đã chiếm 18 - 1 9% kim ngạch
xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp của Việt nam. Ke hoạch xuất khau nông
sản của Việt Nam vào thị trường EU đã được xây dựng và thực hiện trong
nhiều năm dưới sự điều phối của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và
" PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh châu Âu - Thực trạng và
triển vọng (sách chuyên khảo), N XB Khoa học xã h ộ i, trang Ì lo.
mục tiêu đặt ra là đạt được kim ngạch khoảng 7 tỷ USD/ năm kể từ năm 2010,
37
từ đó nâng cao tỷ trọng xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào thị trường EU
lên mức khoảng 3 0 % 2 0 .
Ngoài mặt hàng cà phê có nhiều biến động về kim ngạch xuất khâu do
biến động mạnh về giá trên thị trường thế giới thì gạo cũng là mặt hàng xuât
khẩu quan trọng sang EU, dù kim ngạch chưa cao do thuế nhập khấu rát cao
(100%) và nhập khẩu vào chủ yếu đổ tái suất sang nước thứ ba. Rau quả là
mặt hàng mới thâm nhập vào thị trường EU vài năm gần đây nhưng kim
ngạch tăng tương đối nhanh. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị
trường này chiếm khoảng 1 8% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt
Nam. Các thị trường xuất khấu nông sản chính của Việt Nam trong khối EU
là Hà Lan, Thụy Điổn, Pháp, Anh, Bỉ.
4. Mặt hàng thủy sản.
Đây là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam sang
EU. Trong giai đoạn từ 1995 đến 2000, thủy sản được xuất khẩu sang EU với
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rất nhanh (89%/ năm). Tuy nhiên, kổ từ năm
2000 đến 2002, hoạt động xuất khẩu thủy sản có phần chững lại sau khi EU
tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường
như kiổm tra dư lượng kháng sinh, hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng các
chất kháng sinh, chất bảo quản trong thực phẩm... Tuy nhiên sau đó phía Việt
Nam đã nhanh chóng có các biện pháp điều chỉnh thích hợp đế khắc phục vấn
đề do phía EU đặt ra.
Tuy kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU tăng nhanh
trong những năm qua, nhưng hiện nay hàng thủy sản của Việt Nam chiếm tỷ
trọng khá khiêm tốn trên thị trường này. Thị trường EU hàng năm có nhu cầu
20 PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh châu Âu - Thực trạng và triển vọng (sách chuyên khảo), N XB Khoa học xã h ộ i, trang n i, 112.
rất lớn về hàng thủy sản nhưng lại có yêu cầu rất cao về tiêu chuẩn chất lượng
38
và vệ sinh thực phẩm. Hiện nay, các doanh nghiệp chế biến và xuất khâu thực
phẩm đều buộc phải tuân thủ nhiều quy định liên quan đến nhập khâu sang
EU. Tuy nhiên, trong thực tế kinh doanh xuất khẩu, một số lô hàng thủy sản
của Việt Nam đưa vào EU còn không an toàn (nhiễm khuẩn, nhiễm bẩn...) và
chất lượng chưa được ổn định.
Bảng 5 : Giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU
giai đoạn 2002 - 2009
Giá trị (triệu USD)
Năm
97,9
2002
153,2
2003
245,3
2004
439,9
2005
726,0
2006
924,0
2007
1.149,2
2008
1.050,4
2009
Nguồn : Bộ Công thương 21
Trước đây hàng thủy sản của Việt Nam xuất sang nước thành viên nào
phải tuân thủ quy định về vệ sinh thực phẩm riêng của nước đó và không
được tự do luân chuyển giầa các thành viên EU. Tuy nhiên kể từ tháng
11/1999, trong khuôn khổ thị trường EU thống nhất và theo tinh thần của
Hiệp định hợp tác, các cơ quan chức năng của hai bên đã phối hợp kiểm tra
các điều kiện sản xuất để công nhận các doanh nghiệp chế biến thủy sản của
21 Trị giá xuất khẩu một số mặt hàng chù yếu sang EU giai đoạn 2002 - 2009, số liệu do cán bộ phòng Tồng hợp - vụ châu Âu - Bộ Công thương cung cấp.
Việt Nam đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh. Từ đó có nhiều
39
doanh nghiệp được công nhận đảm bảo tiêu chuẩn và đã đẩy mạnh xuất khẩu
sang EU với các điều kiện thông thoáng và tự do hơn. Những doanh nghiệp
này chỉ phải tuân theo quy định chung của khối EƯ về vệ sinh thực phẩm và
được cơ quan thẩm quyền Việt Nam cấp chứng nhận an toàn thực phẩm là
được đưa sản phẩm vào EU và được lưu thông tự do giữa các nước thành
viên. Việc công nhận này không những đảm bảo cho các doanh nghiệp Việt
Nam xuât khấu ổn định hàng thủy sản vào EU mà còn nâng cao uy tín về chất
lượng hàng thủy sản Việt Nam trên các thị trưồng khác.
5. Gỗ và các sản phẩm từ gỗ.
Liên minh châu Âu (EU) hiện là thị trưồng nhập khẩu gỗ lớn nhất thế
giới trong khi các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ của Việt Nam có trình độ đang
được nâng cao có thể đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trưồng này.
Chính vì thế sản phẩm gỗ đang được đánh giá là mặt hàng có nhiều tiềm năng
phát triển. Những năm qua mặt hàng này đã thâm nhập khá tốt vào thị trưồng
EU với kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình hàng năm là 34,6%. N ăm 2006
đạt 501,91 triệu USD ; năm 2007 đạt 641,22 USD, năm 2008 đạt 795,06 và
đến năm 2009 do chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn
thế giới, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ sang EU cũng bị sụt giảm như
phần lớn các mặt hàng khác, đạt 550,17 triệu USD .
Thị trưồng xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là
Pháp (29,1%); Anh (24,8%); Italia (12,6%); Hà Lan ( 9 % ) . . . 2 3 .
Hiện nay, đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào EU vẫn đang được hưởng
thuế GSP với mức thuế suất chủ yếu là 0% (một số mã hàng chịu thuế 2,1%)
22 Trị giá xuất khẩu một số mặt hàng chù yếu sang EU giai đoạn 2002 - 2009, số liệu do cán bộ phònơ Tổng hợp - Vụ châu Âu - Bộ Công thương cung cấp. 23 PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh châu Âu - Thực trạng và triển vọng (sách chuyên khảo), N XB Khoa học xã hội, trang 115.
đã giúp Việt nam có một lợi thế nhất định khi chen chân vào thị trưồng EU so
40
với Trung Quốc, Indonesia, Braxin... do các nước này không được hưởng
GSP. Tuy nhiên so với tổng lượng nhập khẩu và tiêu dùng của EU thì mức
xuất khấu của Việt Nam còn khiêm tốn và chưa phản ánh đúng tiềm năng.
Mặt khác, đồ gỗ Việt Nam còn mắc phải mạt số nhược điểm như : phụ thuạc
quá nhiêu vào nguồn nguyên liệu nhập khấu, hàng năm chúng ta phải nhập
khâu khoảng 8 0% nguồn nguyên liệu gỗ cho hoạt đạng sản xuất phục vụ xuất
khâu ; hàng xuất khấu của ta chủ yếu cũng là gia công cho các doanh nghiệp
nước ngoài... Bên cạnh đó, cơ sở sản xuất nhỏ, còn manh mún, thiếu đầu tư
cho sản xuất từ mẫu mã đến chất lượng cũng như ứng dụng các tiêu chuẩn
quốc tế trong sản xuất... công tác xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường
còn hạn chế, kiến thức về các vấn đề pháp lý về nhãn hiệu còn chưa cao ;
nguồn cung nguyên liệu và phân phối còn chưa ổn định, đồng bạ, ít nhiều còn
manh nha...
ni. Các doanh nghiệp Việt nam với việc vận dụng các quy định pháp lý
về chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa k hi xuất khẩu sang thị trường EU.
1. về vấn đề đảm bảo chất lượng hàng hóa.
Hiện nay, hai ngành xuất khẩu chủ lực dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu
sang EU là da giầy và dệt may. Tuy nhiên, ờ hai ngành này, các doanh nghiệp
Việt Nam chủ yếu nhận gia công cho đối tác nước ngoài. Ngay cả nguyên vật
liệu, phụ liệu sử dụng trong xuất khẩu phần lớn cũng là nhập khẩu do điều
kiện cơ sở vật chất và kỹ thuật của chúng ta chưa đủ đáp ứng cho việc sản
xuất nguyên phụ liệu trong nước đáp ứng được đòi hỏi của các bạn hàng nước
ngoài. Điều này khiến cho hai ngành này tuy kim ngạch xuất khẩu cao nhưng
lợi nhuận thu về còn bị hạn chế. Nhưng cũng chính nhờ lý do đó nên việc tuân
thủ các quy định pháp lý của Liên minh châu Âu về chất lượng, môi trường...
không quá khó khăn do chúng ta chủ yếu chỉ nhận gia công. Chính vì vậy mà
tình trạng hàng xuất đi bị trả về, bị tiêu hủy... là không nhiều. Tuy nhiên, mặt
41
hàng nông sản và thủy sản thì lại khác. Do chúng ta chịu trách nhiệm hoàn
toàn từ khâu trồng trọt, đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, bảo quản... nên tình
trạng vi phạm các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi
trường của EU vẫn diễn ra thường xuyên... Vì vậy, trong phần này, chúng ta
sẽ chủ yếu tìm hiụu thực trạng tình hình tuân thủ các quy định pháp lý của
Việt Nam cũng như EU của các doanh nghiệp nuôi trồng chế biến thủy sản
xuất khẩu.
Trong những năm vừa qua, việc vận dụng các quy định pháp lý của EU
về vệ sinh an toàn thực phẩm, về dư lượng chất kháng sinh, các hóa chất, chất
độc hại... vẫn còn là một vấn đề hết sức bức bối đối với ngành nông sản, thủy
sản nói riêng và ngành thực phẩm của nước ta nói chung.
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam tăng trưởng cao liên tiếp trong
nhiều năm qua, thế nhưng chưa bao giờ chất lượng thủy sản lại đáng báo động
như hiên nay khi liên tiếp bị nước ngoài cảnh báo.
Thành tích xuất khẩu tôm của Việt Nam vào EU trong năm 2002 thấp hơn
năm 2001 là 5 5% về khối lượng và 61,6% về giá trị. Do các sản phẩm bị tiêu
hủy do không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nên đầu năm 2003, 6 doanh
nghiệp Việt Nam đã mất quyền xuất khẩu vào EU 2 4.
Vào quý Ì năm 2003, với sự kiụm soát nghiêm ngặt của EU, 75
container hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang bị phát hiện là có chứa dư
lượng thuốc kháng sinh, và do đó phải tiêu hủy. Trong những trường hợp như
vậy, các nhà sản xuất Việt Nam phải chịu mọi phí tổn. Do vậy, sự kiụm soát
nghiêm ngặt về dư lượng thuốc kháng sinh của phía EU đã làm thiệt hại nặng
nề cho ngành thủy sản Việt Nam.
Cũng trong năm 2003, Trung tâm Kiụm tra chất lượng và Vệ sinh thủy
24 TS. Nguyễn thị Thanh Hà & Ths. Nguyễn Văn Tiền (2005), Nhĩmg thách thức chù yếu cùa ngành thúy sàn, Tạp chi Nghiên cứu kinh tế số 3/2005.
sản (Naíiquacen) đã triụn khai kiụm soát dư lượng kháng sinh trên toàn quốc,
42
gồm 130 vùng, tại 34 tỉnh. Đối tượng được kiểm soát bao gồm tôm sú, tôm
càng xanh, cá tra, cá basa, cua, cá rô phi, thuốc thú y, thức ăn và nguyên liệu
thủy sản tai các đại lý. Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ mẫu phát hiện nhiễm
kháng sinh bị cấm rất thấp (4/524 nhiễm Chloramphenicol và 0/56 mẫu kiểm
tra bị phát hiện thấy Furazolidone) 2 5. Tuy nhiên, trên thực tế, số lô hàng thủy
sản xuất khỹu năm trước bị phát hiện nhiễm dư lượng còn nhiều : EU 19 lô,
Thụy Sỹ 15 lô, Canada 16 lô... Nguyên nhân là do việc lấy mẫu từ vùng nuôi
mới chỉ mang tính chất đại diện về các chỉ tiêu ô nhiễm môi trường (kim loại
nặng, thuốc bảo vệ thực vật), chưa mang tính đại diện về các chỉ tiêu lây
nhiễm từ thực hành nuôi (dư lượng kháng sinh, hóa chất...); thực tế nuôi
manh mún, mỗi vùng nuôi trồng bao gồm nhiều chủ nuôi/ao nuôi, dân tới
không đồng nhất trong việc sử dụng thức ăn, thuốc thú y và phương pháp nuôi
thả, chăm sóc. Đây chính là lý do dẫn đến việc kiểm soát dư lượng kháng sinh
tại vùng nuôi chưa được triệt đế.
Hiện nay, các còng ty thủy sản đang phải đối mặt với thực tế cạnh tranh
không lành mạnh từ chính các đồng nghiệp trong nước, khi tình trạng hàng
xuất khỹu Việt Nam vi phạm chất lượng an toàn thực phỹm bị cảnh báo tăng
mạnh trong quý 1/2010 vừa qua. Theo Hệ thống cảnh báo nhanh của EU
(Rasff Portal), tháng 3/2010, có 3 lô hàng thủy sản Việt Nam xuất khỹu sang
thị trường này bị cảnh báo. So với hai tháng trước, số lô hàng bị cảnh báo có
xu hướng gia tăng. Tính chung ba tháng đầu năm 2010, có tới 6 lô hàng thủy
sản Việt Nam nhập khấu vào EU bị cảnh báo. 2 trong số 3 lô hàng bị cảnh báo
trong tháng 3 có chứa dư lượng kháng sinh Neomycin vượt quá giới hạn cho
Công ty T N HN thủy sàn M ai Sao (đãng 07/01/2003), K i ềm soát chặt du lượng kháng sinh trong thủy sà
http://www.maisao.com/detail.asp?id=186
phép. Đây là một loại kháng sinh được chiết xuất từ nấm, có tác dụng diệt
43
khuẩn tại chỗ, được sử dụng hạn chế trong nuôi trồng và sản xuất thủy sản và
mới xuất hiện trong hệ thống cảnh báo của EU.
Cũng trong thời gian vừa qua, Tây Ban Nha liên tục công bố một số
lệnh cảnh báo đối với hàng Việt Nam xuất khẩu vào EU.
Ngày 14/02/2010, Bộ Y tế và Tiêu dùng Tây Ban Nha đã gửi Công
hàm thông báo về việc phía bạn nhển được lệnh cảnh báo 2010/0050 của ủy
ban châu Âu phát hiện có Salmonella quá mức cho phép trong lô hàng tôm
đông lạnh xuất khẩu mang mã số DL 153 của công ty "TRÚC
ANHCO.LTD". Tây Ban Nha đã ban hành lệnh cảnh báo y vụ đối ngoại số
2010/15UE ấn định các biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với dòng sản phẩm
trên tại các cửa khẩu của Tây Ban Nha.
Ngày 18/02/2010, Bộ Y tể và tiêu dùng Tây Ban Nha đã gửi Công hàm
thông báo về việc phía bạn phát hiện salmonella trong lô hàng philê cá ba sa
số DL 239 của công ty Đông Tháp Trading Corporation Branch - DOCIFISH
và ban hành lệnh cảnh báo y vụ đối ngoại số 2010/ 36PO ấn định các biện
pháp kiểm soát đặc biệt đối với dòng sản phẩm trên tại các cửa khẩu của Tây
Ban Nha.
Tiếp tục, ngày 12/03/2010, Bộ Y tế và Tiêu dùng Tây Ban Nha đã gửi
Công hàm thông báo về việc phía bạn phát hiện Monoxit Carbon trong lô
hàng cá ngừ khúc xuất khẩu số DL 388 của công ty OCEANBLUECO.LTD
và ban hành lệnh cảnh báo y vụ đối ngoại số 2010/56UE ấn định các biện
pháp kiểm soát đặc biệt đối với dòng sản phẩm trên tại các cửa khẩu của Tây
Ban Nha.
Gần đây nhất, ngày 14/04/2010, Bộ Y tế và Tiêu dùng Tây Ban Nha đã
gửi Công hàm thông báo về việc phía bạn phát hiện hàm lượng lưu huỳnh
(Sulíite) vượt quá giới hạn cho phép trong lô hàng tỏi xuất khẩu của công ty
L &D Enterprise CO.LTD và ban hành lệnh cảnh báo y vụ đối ngoại số
44
2010/81UE ấn định các biện pháp k i ểm soát đặc biệt đối v ới dòng sản phẩm
trên tại các cửa khẩu của Tây Ban Nha.
Căn bệnh tiêm chích tạp chất vào nguyên liệu tuy không còn là điêu
mới mẻ ở nước ta tuy nhiên vẫn chưa có cách trị liệu hiệu nghiệm. B an đầu là
ghim đinh hoặc k im loại vào tôm. Các nhà m áy phải trang bị m áy rà k im loại.
N g ưằi ta "khắc phục" bằng cách dùng rau câu, bột năng tiêm chích vào thân
tôm đê tránh bị m áy rà k im loại phát hiện. Các doanh nghiệp lại phải trang bị
thuốc t hử tinh bột để phát hiện các "tạp chất" trên. H i ện nay, bí đao đang
được sử dụng rộng rãi để b om vào tôm, vì nó chưa bị thuốc t hử phát hiện.
Trong k hi đó các tàu đánh bắt xa bằ thì lại sử dụng các loại thuốc bị cấm sử
dụng trong thực phẩm để g iữ cho nguyên liệu tươi lâu, như Chloramphenicol,
Nitrophurans... Các nhà m áy phải trang bị phưằng tiện đắt tiền để k i ểm t ra
các loại kháng sinh này trong nguyên liệu. N h ư ng thỉnh thoảng v ẫn bị phát
hiện ở nước ngoài và bị trả hàng về V i ệt N am (hoặc bị tiêu hủy). N hư vậy, có
thể nói tình trạng gian lận của ngưằi nuôi trồng và đánh bắt thủy sản đến nay
vẫn rất khó k i ểm soát.
Ngoài các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, các doanh nghiệp
xuất khẩu thủy sản V i ệt N am hiện nay đang phải đứng trước m ột thách thức
rất lớn là bắt buộc phải tuân thủ quy định lưu về truy xuất nguồn gốc t h ủy
sản của EU. V i ệt N am hiện đang sở h ữu đội tàu khoảng 170.000 chiếc 26 khai
thác đánh bắt thủy sản theo k i ểu manh m ú n, n hỏ lẻ. Đa phần ngư dân không
có thói quen ghi nhật ký hành trình các chuyến đánh bắt cá ngoài khơi, hay
ghi chép sổ sách về chuyện tôm cá đánh bắt được ở đâu hay mua của tàu
nào... Do vậy, v ới ngư dân thì việc phải ghi nhật ký từ tọa độ đánh bắt, độ sâu
của biển, độ dài của lưới... trong mỗi chuyến ra khơi là việc làm hoàn toàn
mới, chưa thể đáp ứng được ngay. T h ậm chí nhiều ngưằi đi biển còn không
26 ThS. Lê Minh Tâm (2009), Thị trường thúy sàn EU: Tiêm năng và rào càn kỹ thuật thương mại Táp chí Nghiên cứu châu Âu số 10/2009
45
biết chữ. Chính vì vậy mà quy định lưu rất khó triển khai về đến ngư dân khi
lâu nay họ quen đánh bắt theo kiểu đa ngành, đa loài và nhỏ lẻ ; hoàn toàn
khác với xu hướng đánh bắt hiện đại là đơn ngành, đơn loài và quy mô bài
bản.
Hơn nữa, số lượng tàu thuyền của Việt Nam quá lớn nhưng chủ yếu lại
là loại thuyền nhỏ nên chưa có trang bị định vị GPS, việc ghi chép nhật trình
là rát khó. Việc phân loài càng khó hơn vì trong mẻ cá có nhiều loài, mà
không có loài nào có số lượng áp đảo. Hiện nay số tàu cá không có đăng
kiểm, sẫ dụng chất nổ, vi phạm đánh bắt vẫn còn nhiều.
Ngoài ra, tình trạng doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thu mua nguyên
liệu từ nhiều nguồn khác nhau, tàu cá lại bán cho nhiều doanh nghiệp khác
nhau nên việc kê khai nguồn gốc gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy khi có quy
định bắt buộc lưu thì doanh nghiệp lại phải đầu tư thêm tiền bạc để làm lại
cả một quy trình khai báo xuất xứ hàng hóa rất phức tạp. Điều này sẽ làm cho
giá sản phẩm tăng theo, làm giảm sức cạnh tranh của thủy sản Việt Nam trên
thị trường EU.
Nếu theo quy định của lưu thì thật khó để trong thời gian ngắn, các
phương tiện đánh bắt hiện có của nước ta cũng như các doanh nghiệp chế biến
thủy sản nước ta có thể hoàn thành các thủ tục khai báo và đăng ký theo quy
định của lưu, nhất là khi Việt Nam chưa hình thành được đội tàu khai thác
quy mô lớn.
Mặt hàng rau quả xuất khẩu cũng không phải là một ngoại lệ. M ột số
thành viên của Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho rằng vấn đề an toàn thực
phẩm ngày càng được khách hàng xem trọng không chỉ ở thị trường xuất khẩu
mà ngay cả thị trường nội địa. Đây là thách thức lớn của ngành Nông nghiệp
nói chung và ngành rau quả nói riêng.
Thực tế cho thấy, đã có một số lô rau quả xuất khẩu của Việt Nam từng
bị nhà nhập khẩu khiếu nại. Đó là vấn đề dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đối
46
với các lô thanh long tươi xuất đi Đan Mạch (năm 2006), xuất sang Anh (năm
2007). N ăm 2008, thanh long xuất khẩu cũng bị phát hiện dư lượng
Prochloraz... Một số mặt hàng khác như : vải hộp có hàm lượng kim loại, dứa
có hàm lượng Asid lactic, rau đông lạnh xuất đi Nhật bị phát hiện có vật lạ
(nút áo, tóc...). Một số thị trường như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài
Loan... không cho nhập rau quả tươi từ Việt Nam do vấn đề "ruểi đục quả".
Một số nhà nhập khẩu châu Âu cũng yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu rau quả
chế biến (đóng hộp, cô đặc, đông lạnh...) phải có xác nhận "giống không
chuyển đổi gien" hoặc phải cung cấp danh mục các loại thuốc bảo vệ thực vật,
phân bón đã sử dụng đối với nguyên liệu đầu vào cho sản phẩm 21.
Dù còn nhiều thiếu sót, tuy nhiên, hiệu quả kiểm soát an toàn thực
phẩm trong chế biến thủy sản tại Việt Nam bước đầu đã được các cơ quan
thẩm quyền của các quốc gia như EU, Nhật bản, Hoa Kỳ, Canada, Hàn Quốc,
Trung Quốc... công nhận thông qua kết quả các đạt thanh tra định kỳ tại Việt
Nam, trong đó Liên minh châu Âu EU bắt đầu tiến hành các đạt thanh tra kể
từ năm 2002. Hiện nay, số doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam được
phép xuất khấu sang một số thị trường như sau :
27 Dự án hỗ trợ thương mại đa biên EƯ - Việt Nam (đăng 12/07/2009), Khó khăn của doanh nghiệp xuất khẩu sang EU,
httD://\vww.rnLitrap.org.vn/Lisls/Post5/Posl.aspx'»List^5276b79d-4e3a-4c5b-a2ad-c903807cc7ea&ID=287
47
Bảng 6 : số doanh nghiệp được phép chế biến thủy sản xuất khâu theo
thị trường (tính tới 20/04/2009)
Tong số doanh nghiệp đáp ứng đ ược nhu cầu và
Thị trường
được phép xuất khẩu vào thị trường
EU
300
Nhật Bản
440
Hoa Kỳ
438
H àn Quôc
438
Trung Quôc
440
Canada
232
(Nguồn : Website H i ệp h ội chế biến và xuất khẩu thủy sản V i ệt N am )
2. về vấn đề nhãn hiệu hàng hoa
Chuyện mất thương hiệu đang diễn ra v ới rất nhiều doanh nghiệp của
V i ệt N am do chưa nhận thức đầy đủ về t ầm quan trọng của việc đăng ký nhãn
hiệu tại thị trưừng EU nói riêng và các thị trưừng l ớn trên thế g i ới nói chung.
Trong k hi các mặt hàng V i ệt N am xuất khẩu bằng nhãn hiệu V i ệt N am
còn dừng lại ở những con số khiêm t ốn vì chúng ta chưa có nhiều thương hiệu
uy tín thì lại xảy ra tình trạng nhãn hiệu V i ệt N am bị "đánh cắp hợp pháp" ở
nhiều nơi trên thế giới. N h i ều công ty V i ệt N am đã mất nhiều công sức thăm
dò thị trưừng, tiếp thị, tổ chức đại lý tiêu thụ... nhưng đến k hi bán được hàng
sang thị trưừng hết sức khó tính là EƯ thì lại bị hớt tay trên vì không đăng ký
nhãn hiệu sản phẩm của mình.
Nguyên nhân của việc này là do các doanh nghiệp V i ệt N am k hi xuất
khẩu hàng sang EU đã không chú ý đến việc đăng ký quyền sở h ữu công
28 Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (truy cập ngày 10/04/2010), Báo cáo về hoại động kiếm soát chắt lượng, an toàn vệ sinh thực phàm trong sàn xuất kinh doanh cả tra, basa tại Việt Nam www.vasep.com.vn/vascD/.../Kiem%20soat%20ca%20tra.Ddf
48
nghiệp về nhãn hiệu hàng hóa. Ví dụ như trường hợp của sản phẩm phồng
tôm Sa Giang. Trước đây các sản phẩm Sa Giang xuất khẩu sang Pháp rất ôn
định. Sau đó có một đại lý đã đem nhãn hiệu Sa Giang đi đăng ký nhãn hiệu
tại Pháp và EU. Kết quả là nếu sản phẩm Sa Giang muốn xuất khẩu vào Pháp
và EU thì phải xin phép và trả tiền thuê nhãn hiệu cho nhà buôn kia. Còn
trường hợp của công ty Mỹ phẩm Sài Gòn, hàng đang bán chạy tại Đức thì bị
một nhà phân phối bên đó đăng ký luôn nhãn hiệu và ra giá tiền chuộc là
20.000 USD. Sau khi thương lượng, cuối cùng tiền chuộc thỉa thuận còn
5000 USD.
Một ví dụ khác là trường hợp của nước mắm Phú Quốc. Tháng
04/2009, ủy Ban nhân dân tỉnh Kiên Giang đã phê duyệt cho phép Hiệp hội
sản xuất nước mắm Phú Quốc làm chủ đon đăng ký tên gọi xuất xứ "Phú
Quốc" tại EU cho sản phẩm nước mắm sản xuất tại Phú Quốc. Hồ sơ đăng ký
tên gọi xuất xứ nước mắm Phú Quốc tại EU được xây dựng với sự hỗ trợ của
Dự án hỗ trợ đa biên Việt Nam - EU giai đoạn li (MUTRAP). Sản phẩm cuối
cùng của dự án là bản mô tả tính chất, chất lượng đặc thù và danh tiếng của
sản phẩm phù hợp với quy định của Quy chế ÉC về bảo hộ chỉ dẫn tên gọi
xuất xứ của nông sản và thực phẩm của EU.
Tuy nhiên, theo tìm hiểu của một Văn phòng luật sư tại Việt Nam thì
tên gọi "Phú Quốc" đã được một công ty ở Mỹ đăng ký bảo hộ với danh nghĩa
là nhãn hiệu tại Mỹ, Cộng đồng châu Âu ÉC và úc. Cụ thể, nhãn hiệu "Phú
Quốc, hình" đã được đăng ký tại Cộng đồng châu Âu cho sản phẩm "nước
mắm" theo đăng ký số 003022654 ngày 12/05/2004 dưới tên chủ sở hữu là
Viet Huong Fishsauce Company, Inc có địa chỉ đăng ký tại Mỹ. Căn cứ theo
các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ của Cộng đồng châu Âu thì chắc
chan việc đăng ký bảo hộ tên gọi xuất xứ nước mắm Phú Quốc tại thị trường
này sẽ gặp rất nhiều khó khăn và nhiều khả năng sẽ bị từ chối bảo hộ.
49
Như vậy, việc chậm trễ trong việc đăng ký bảo hộ tên gọi Phú Quôc -
một tài sản quý giá của Việt Nam - tại nước ngoài có thể dẫn đến những hệ
quả và thiệt hại rất lớn. Tên gọi xuất xứ nước mắm "Phú Quốc" không những
đang đối diện với nguy cơ bồ từ chối đăng ký ở Cộng đồng châu Âu mà các
sản phẩm của nước mắm Phú Quốc của Việt Nam có thể còn không được
phép xuất khẩu sang thồ trường này do bồ coi là hàng xâm phạm nhãn hiệu của
người khác đã được đăng ký bảo hộ.
Mặc dù vậy, những năm gần đây, ý thức về việc bảo hộ nhãn hiệu của
doanh nghiệp Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Trong thời gian vừa qua,
số đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu nộp cho Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam đã gia
tăng đáng kể. Nếu năm 2000 mới chỉ có 5.882 đơn trong đó 3.483 đơn của
doanh nghiệp Việt Nam và 2.399 đơn của doanh nghiệp nước ngoài thì đến
năm 2007, theo số liệu thống kê của Cục sở hữu trí tuệ, tổng số đơn đã lên
đến 27.110 trong đó doanh nghiệp Việt Nam chiếm 19.653 đơn còn doanh
nghiệp nước ngoài chiếm 7.457 đơn, tăng hơn 5 lần so với năm 2000 2 9.
Tuy còn có những khó khăn nhất đồnh về tài chính và thủ tục khi tiến
hành đăng ký nhãn hiệu tại nước ngoài, nhưng nhiều doanh nghiệp Việt Nam
đã quan tâm đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của mình từ khá sớm và có những
thành công đáng kể trên thồ trường EU nói riêng và thồ trường quốc tế nói
chung. Trong số những doanh nghiệp đã đăng ký nhãn hiệu quốc tế, không
chi các doanh nghiệp lòn với những nhãn hiệu đã khắng đồnh được vồ trí trên
thồ trường trong nước như : Vinamilk cho sản phàm sữa, Sài Gòn cho sản
phẩm bia, Minh Long cho sản phẩm gốm sứ, Vinataba cho sản phẩm thuốc lá,
Kymdan cho sản phẩm đệm mút, Miliket cho sản phẩm mỳ tôm, Thiên Long
cho các sản phẩm bút... mà còn có cả những nhãn hiệu dường như chưa được
29 Cục Sờ hữu tri tuệ Việt Nam (tài xuống 11/04/2010), số liệu thống kê Nhãn hiệu hàng hóa
http://www,noip,gov.vn/noip/cms vn.nsfyywDisplavContentNews/9698D92E9FD97E5C4725768D0034A8B F?OpenDocument
nhiều người tiêu dùng biết đến như cà phê Mỹ Lệ của công ty T N HH Mỹ Lệ
50
(tỉnh Bình Phước), giày dép Tân Tuấn Kiệt của công ty T N HH Sản xuất và
Thương mại Tân Tuấn Kiệt (TP. HCM), trà Trâm Anh của doanh nghiệp
Trâm Anh (tỉnh Lâm Đồng)...
Một trong những ví dụ điển hình về sự nỗ lực xây dựng thương hiệu
trên thị trường quợc tế là thương hiệu "Minh Long" của công ty gợm sứ Minh
Long ì. Hiện tại, sản phẩm gợm sứ Minh Long không chỉ chinh phục được
người tiêu dùng trên thị trường trong nước mà còn chiếm lĩnh được các thị
trường lớn như Pháp, Đức, Thụy Sỹ, Anh, Mỹ... Nhận thấy ý nghĩa quan
trọng của việc bảo hộ thương hiệu tại thị trường nước ngoài, ngay từ năm
2000, công ty Minh Long đã nộp đơn đăng ký nhãn hiệu quợc tế theo Thỏa
ước Madrid cho các sản phẩm gợm sứ và chi định đăng ký tại 16 quôc gia chủ
yếu là các nước có nền công nghiệp gợm sứ phát triển của châu Âu như Pháp,
Đức, Cộng hòa Séc, Nga, Hungary... Chính nhờ ý thức tạo dựng và bảo vệ tài
sản trí tuệ cũng như sự quyết tâm của doanh nghiệp mà công ty gợm sứ Minh
Long không gặp phải những thua thiệt khi thâm nhập thị trường nước ngoài
mặc dù các loại sản phàm của công ty là nhóm sản phàm rất dễ bị làm giả,
làm nhái.
Tuy nhiên, cũng theo Cục Sở hữu trí tuệ, tính đến năm 2008 mới có
khoảng hơn 1.500 thương hiệu Việt Nam được đang ký bảo hộ ở nước ngoài
so với hàng chục ngàn thương hiệu được sinh ra ở Việt Nam 3 0. Còn theo sợ
liệu của Văn phòng sở hữu trí tuệ quợc tế WIPO thì kể từ khi nhãn hiệu đầu
tiên của Việt Nam được đăng ký quợc tế theo Thỏa ước Madrid (năm 1986)
đến tháng 10/2007, mới có 156 nhãn hiệu của Việt Nam được đăng ký và nộp
50 Đăng ký thương hiệu ờ nước ngoài theo cách nào? (23/04/2008), http://www.vietnambranding.corn/thong-tin/phong-su-thuong-hieu/4040/dane-lcv-thuone-hieu-o-nuũc-ngoai- theo-cach-nao
đom theo hệ thợng đăng ký nhãn hiệu quợc tế theo Madrid, trong khi đó, sợ
51
lượng nhãn hiệu từ các nước chỉ định đăng ký tại Việt Nam là 59.014 3 I. Nhìn
vào con số nay có thể nhận thấy số lượng nhãn hiệu của Việt Nam được đăng
ký quốc tế còn rất hạn chế so với số lượng nhãn hiệu từ các nước chỉ chỉ định
vào Việt Nam. Quả là quá ít để tạo hành lang an toàn cho chính doanh nghiệp
và cho cả nền kinh tế quốc gia. Mất thương hiệu ở nước ngoài không chỉ đơn
thuần doanh nghiệp mất đi tài sản vô hình mà cả nền kinh tế quốc gia cũng
mất đi giá trị thương mại. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam dựa vào hơn 5 0% từ
giá trị xuât khâu. Xuât khâu mạnh khi giá trị uy tín và thương hiệu được
khụng định.
IV. Những nhận xét và đánh giá về thực tiễn vận dụng các quy định pháp
lý về chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam
khi xuất khẩu sang thị trường EU.
1. Những thành công.
về phía doanh nghiệp, trong vài năm gần đây, ý thức về việc tuân thủ
các quy định pháp lý đối với chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa của EU đã
được nâng lên rất nhiều.
Vấn đề đăng ký nhãn hiệu trong vài năm trở lại đây không còn xa lạ với
các doanh nghiệp sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước cũng như phục vụ nhu
cầu xuất khẩu. Điển hình là số đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hóa gửi về cho
Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam gần đây đã tăng lên đáng kể so với những năm
trước. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã sớm ý thức được tầm quan trọng
của việc đăng ký nhãn hiệu ở thị trường EU nên đã sớm đi đăng ký nhãn hiệu
31 Sờ khoa học và công nghệ tinh An Giang (đăng 18/03/2008;, Phương thức tránh mất nhãn hiệu, http7/webcache.googleusercontentxoiWseărèh?q-cache:gdJHsZH77ZMJ:sokhoahoccn.angiang.gov.vn/xemn oidung. a S D%3Fmaidtt%3D4270%2S20%26page%3D122%26+.+mới+có+156+nhãn+hiêu+cùa+Viêt+Nam+đ ươc+đăng+ký+vả+nôp+đQTi+theo+hê+thống+đăng+kv+nhãn+hiêu+quốc+tế+theo+Madrid&cd=4&hl=vi&ct
=clnk&gl=vn
quốc tế cho hàng hóa của mình.
52
Các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong cải thiện chất
lượng hàng hóa xuất khẩu. Hàng hóa Việt Nam phần lớn đã được chấp nhận ở
các thị trường thuộc EƯ vốn là một thị trường có yêu cầu cao về an toàn sức
khỏe và vệ sinh môi trường. Bằng chứng là kim ngụch xuất khẩu của Việt
Nam sang EƯ vẫn tiếp tục tăng đều qua các năm, chỉ bị giảm ở năm 2009 do
tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Bên cụnh đó, các doanh
nghiệp đã có những điều chỉnh nhất định chiến lược kinh doanh để đáp ứng
tốt hơn các vấn đề chất lượng, môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế như
tăng cường thông tin, đầu tư đổi mới công nghệ, từng bước quy hoụch sản
xuất, lựa chọn các phương pháp nuôi trồng, chế biến... đảm bảo an toàn cho
người sử dụng và thân thiện với môi trường.
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu
nói riêng ngày nay đã quan tâm nhiều hơn đến việc áp dụng các tiêu chuẩn
quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm, hệ thống quản lý chất lượng, môi
trường... như ISO 14000 (Bộ tiêu chuẩn quốc tế về quản lý môi trường),
HACCP ( Hệ thống Phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hụn trong quá
trình sản xuất và chế biến thực phẩm), ISO 9000 (Hệ thống quản lý chất
lượng quốc tế),... Điều đó được thể hiện ở việc hiện nay, mật độ ISO 9000 tụi
Việt Nam là cao nhất khu vực ASEAN nếu sử dụng GDP để so sánh, nói cách
khác mức độ quan trọng của ISO 9000 ở Việt Nam cao hơn các nước ASEAN
khác32.
Bên cụnh đó, về phía Nhà nước, khung pháp lý và hệ thống các quy
định, tiêu chuẩn chất lượng, môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm... ngày
càng được hoàn thiện theo hướng tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong đó có
EU. Nước ta cũng đã ban hành Luật sở hữu trí tuệ có hiệu lực từ 01/07/2006 ;
32 Trung tâm năng suất Việt Nam, TS. Phan Chí Anh Khoa (truy cập 27/03/2010;, /so 9000 và tác động tới két quà hoạt động doanh nghiệp Việt Nam , http://www.vpc.vn/PortletBlank.aspx/DD2F3B76S4B249C6A702E867DD 15B8D1 /Vỉew/Luan-dam-6- 09/1SO 9000 VA T ÁC DONG TOI K ẸT Q UA H O ẠT DONG D O A NH NGHIEP V1ET NAM/?print =150185747
53
Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa có hiệu lực từ ngày 01/07/2008; Luật bảo
vệ môi trường của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực từ
ngày 01/07/2006... Các bộ luật này tạo ra khung pháp lý buộc các doanh
nghiệp Việt Nam phải tuân thủ, đồng thời cũng giúp các doanh nghiệp bước
đầu làm quen với những luật lệ còn phốc tạp hơn rất nhiều ở các thị trường
xuât khấu, trong đó bao gồm cả các luật của EU... Ngoài ra, nước ta cũng đã
xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc gia. Nhiều văn bản về vệ sinh
an toàn thực phẩm, sử dụng hóa chất đã được ban hành và có tác dụng đối với
sản xuất kinh doanh... Đây chính là những tiền đề tạo thuận lợi cho việc ống
dụng các bộ tiêu chuẩn quốc tể về sau này.
Kênh thông tin trên mạng internet trợ giúp cho doanh nghiệp Việt Nam
khi xuất khẩu sang EU hiện nay là khá phong phú. Ngoài website của các cơ
quan nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương như website của Cục xúc tiến
thương mại; website của Bộ Công thương... còn có các trang thông tin điện tử
khác như website của Dự án thương mại đa biên Việt Nam - EU MUTRAP ;
vvebsite của Phòng thương mại EU tại Việt Nam Eurocham ; Diễn đàn điện tử
doanh nghiệp Việt Nam - EU... Các kênh thông tin trên mạng này tạo rất
nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tìm kiếm thông tin,
nghiên cốu thị trường, hỏi đáp thắc mắc...
Thành công nữa là ở việc nước ta bước đầu đã có sự phối kết, lồng
ghép các vấn đề môi trường vào các chính sách thương mại và các vấn đề
thương mại vào trong chính sách môi trường. Nhà nước đã có những biện
pháp hỗ trợ nhất định đối với doanh nghiệp như cung cấp kỹ thuật, xây dụng
các tiêu chuẩn quốc gia, cấp giấy chống nhận bảo hộ công nghiệp, đáp ống
tiêu chuẩn chất lượng, môi trường... giám sát chặt chẽ các nguồn hàng xuất
khẩu và xử lý các vi phạm.
54
2. Những tồn tại và nguyên nhân.
Tuy đã đạt được những thành công nhất định trong việc áp dụng các
quy định pháp lý của EU về chất lượng và nhãn hiệu sản phẩm nhưng vẫn còn
rất nhiều tồn tại mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể khắc phục được hay
khắc phục chưa triệt đế.
về phía doanh nghiệp, thứ nhất, nhận thức của các doanh nghiệp về các
quy định pháp lý, tiêu chuẩn về chất lượng, môi trưừng còn bị hạn chế. Các
doanh nghiệp còn chưa nắm bắt được đầy đủ và chính xác các thông tin vê
hiệp định hàng hóa, môi trưừng đa phương hoặc các quy định của EU về chất
lượng, nhãn hiệu, môi trưừng...
Thứ hai, đa phần các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và
nhỏ nên đôi khi họ nghĩ rằng việc đăng ký thương hiệu ở thị trưừng nước
ngoài là không cần thiết.. Mặc dù trên thị trưừng quốc tế trong đó có EU, các
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như chè, cà phê, cá ba sa... đều có chất
lượng không thua kém gì các nước khác nhưng do các doanh nghiệp Việt
Nam lại có nhận thức chưa đúng về giá trị thương hiệu nên đã vô tình làm
hàng của mình bị mất giá, thâm chí phải mượn tên của ngưừi khác làm nhãn
hiệu cho mình. Thêm vào đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ do thiếu vốn lại
thiếu hiểu biết nên chưa có sự đầu tư đúng mức, đúng chỗ cho việc xây dựng
thương hiệu. Họ chưa nhận ra rằng chi phí cho việc xây dựng, đăng ký nhãn
hiệu tốn kém không đáng bao nhiêu so với việc bị nhái nhãn hiệu, đó là chưa
tính đến những khó khăn trong trưừng hợp xảy ra kiện tụng về nhãn hiệu hàng
hóa ở thị trưừng nước ngoài mà cụ the là thị trưừng EƯ.
Thứ ba, tình hình các lô hàng thủy sản bị trả về hàng năm của Việt
Nam cho thấy hàng bị nhiễm kháng sinh chiếm tỷ lệ cao hon so với nhiễm vi
sinh. Điều này chứng tỏ phần lớn nguyên nhân xuất phát từ khâu chăn nuôi.
Ngưừi nuôi trồng thủy sản hiểu rất rõ tác hại của các loại thuốc có khả năng
55
để lại dư lượng kháng sinh trong sản phẩm, nhưng vì chạy theo lợi nhuận nên
họ vẫn cố tình vi phạm.
Thứ tư, luật lưu bắt đầu có hiệu lực kể từ đầu năm nay được coi là một
rào cản mịi đối vịi các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu thủy hải sản
vào thị trường EU. Đây sẽ là khó khăn lịn đối vịi các doanh nghiệp chế biến
xuất khẩu sản phẩm từ khai thác. Bởi lẽ, để đáp ứng được điều đó, trưịc hết,
doanh nghiệp phải phân loại ngay từ đầu những lô hàng nào có đầy đủ giấy
chứng nhận, những lô hàng nào không đạt yêu cầu của EU để quyết định việc
mua nguyên liệu chế biến xuất khẩu đi EU. Đe xuất khẩu vào EU, doanh
nghiệp không thể sử dụng các lô hàng thủy hải sản không rõ nguồn gốc,
không có đủ chứng từ. Đây sẽ là trở ngại lịn cho các doanh nghiệp trong bối
cảnh khả năng cung cấp nguyên liệu đầu vào cho chế biến xuất khẩu thủy sản
luôn là vấn đề "nóng". Vịi số lượng rất lịn thông tin cần cung cấp khi xuất
khẩu sản phẩm thủy hải sản, rất dễ xảy ra rủi ro (thiếu thông tin), có thể ảnh
hưởng đến toàn bộ lô hàng. Việc thực hiện quy định chắc chan sẽ làm nâng
giá thành sản phẩm, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Thứ năm, công nghệ sản xuất các mặt hàng chế biến của Việt Nam hiện
nay còn lạc hậu, không đảm bảo chất lượng, gây ô nhiễm môi trường, phương
pháp đánh bắt hải sản còn thô sơ... Bên cạnh các doanh nghiệp thực hiện tốt
các quy định về vệ sinh an toàn thực phàm, vẫn còn có một số doanh nghiệp
do hạn chế về vốn đầu tư nên chưa áp dụng tốt công nghệ xử lý độc tố và côn
trùng trong sản phẩm và do đó chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chất
lượng hàng hóa xuất khẩu. Tình trạng vi phạm các quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm còn khá phố biến đối vịi các doanh nghiệp chế biến thủy sản,
rau quả, thịt...
Nhìn chung, về phía doanh nghiệp, nguyên nhân của những tồn tại trên
là do nhận thức hạn chế, hoặc nhận thức được nhưng vẫn cố tìm cách lách
56
luật, nhằm giảm chi phí sản xuất, chạy theo mục đích t hu l ợi trước mắt, cục
bộ mà không tính đến l ợi ích lâu dài và toàn cục.
Bên cạnh những nguyên nhân từ phía doanh nghiệp, việc tồn tại những
bất cập trên cũng có m ột phần trách n h i ệm thuộc về cơ quan quản lý N hà
nước. T r o ng đó, các nguyên nhân c hủ yếu là:
T hẩ nhất, hệ thống quy định pháp lý như các Bộ luật về chất lượng
hàng hóa và sản phẩm, Luật sở hữu trí tuệ, Luật môi trường... tuy đã được ban
hành tuy nhiên chưa hoàn thiện và còn nhiều kẽ hở tạo điều k i ện cho các
doanh nghiệp lách luật. Rõ ràng các quy định pháp luật của nước ta hiện nay
còn có rất nhiều vấn đề phải khắc phục, chẳng hạn như v ấn đề liên quan đến
tính hợp lý, tính k hả thi, tính khoa học... Đối v ới công cuộc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung ở V i ệt Nam, việc tham khảo và tranh t hủ
các thành t ựu pháp lý quốc tế là hết sẩc cần thiết. T r o ng đó, hệ thống pháp
luật của Liên m i nh châu Âu là m ột hệ thống pháp luật t i ến bộ trên thế g i ới mà
V i ệt N am cần nghiên cẩu học hỏi.
T hẩ hai, công tác giám sát t hi hành luật còn chưa có hiệu q u ả; việc
quản lý, k i ểm soát quá trình sản xuất từ khâu nguyên liệu ban đầu đến khâu
xuất khẩu cuối cùng còn chưa chặt chẽ và đồng bộ ... N h ất là trong b ối cảnh
bùng nổ nghề nuôi trồng thủy sản đang vượt k h ỏi t ầm k i ểm soát của cơ quan
chẩc năng, dẫn đến ô n h iễm nguồn nước, làm gia tăng nguy cơ n h iễm bệnh
của thủy sản. Điều đáng nói hơn ở đây là sự " l ọt lưới" khó hiểu của hàng
phòng vệ trong nước. B ởi có nhiều lô hàng xuất khẩu, mặc dù cơ quan k i ểm
nghiệm trong nước cho là tốt nhưng k hi ra nước ngoài l ại bị phát hiện là
nhiễm kháng sinh, vi sinh... Có thể về thiết bị, ta đã đầu tư tốt, v ấn đề ở đây
chính là cách làm của người có trách nhiệm. Điều này không chỉ gây t ốn k ém
cho quốc gia mà còn tạo ra tiền lệ tự làm mất uy tín của hàng hóa và của cơ
quan k i ểm dịch của V i ệt nam trên trường thế g i ớ i.
57
Thứ ba, các biện pháp xử phạt đối với doanh nghiệp xuất khấu vi phạm
các quy định của EU về chất lượng hàng hóa còn chưa nghiêm minh, chưa
thích đáng, mới chỉ mang tính răn đe chứ chưa quyết liệt và triệt để... Chính
điều này một phần đã dẫn đến việc các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu nghiêm
túc và thiếu tổ giác trong việc tuân thủ pháp luật.
Thứ tư, Nhà nước thổc thi chưa có hiệu quả việc tổ chức các kênh
thông tin nhằm tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nâng cao nhận
thức vê các quy định pháp lý về tiêu chuẩn chất lượng, nhãn hiệu do EU đưa
ra. Công tác phổ biến kiến thức về thị trường EU đến các doanh nghiệp tại địa
phương còn chưa nhiều. Điều này gây ra tình trạng rất nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu vừa và nhỏ thiếu hiểu biết về các quy định pháp lý của EU.
Thứ năm, Nhà nước chưa đưa ra được những phương hướng, biện pháp
khả thi, hiệu quả trong việc khắc phục, thay đổi tình trạng nuôi trồng, sản
xuất, buôn bán nhỏ lẻ, manh mún ở nước ta vốn là nguyên nhân gây ra những
khó khăn trong công tác quản lý về nguồn gốc, chất lượng sản phàm, vệ sinh
an toàn thổc phẩm... Ngay như quy định về truy xuất nguồn gốc thủy sản lưu
đã chính thức có hiệu lổc từ đầu năm nay nhưng Việt Nam vẫn chưa đưa ra
được những biện pháp cụ thể để giúp các doanh nghiệp tuân thủ và thổc hiện
tốt quy định này, đảm bảo cho ngành xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU
phát triển ổn định.
58
C H Ư Ơ NG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP N Â NG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG C ÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA EU VÊ CHẤT L ƯỢ NG VÀ N H ÃN HIỆU
H À NG H ÓA CỦA C ÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM NHẰM T H ÚC
ĐẨY XUẤT KHẨU SANG THỊ T R ƯỜ NG NÀY.
ì. Định hướng xuất khẩu cạa Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn tới.
1. Tương lai quan hệ kinh tế Việt Nam - EU.
EU là một trong ba trụ cột của nền k i nh tế thế giới, là đối tác thương
mại và đầu tư hàng đầu trên thế giới. T r o ng chiến lược đối ngoại của mình,
V i ệt N am rất coi trọng hợp tác v ới EU trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Thực tế,
V i ệt N am đã có quan hệ lâu dài v ới nhiều nước thành viên EU, trong đó các
thị trường lớn nhất là Pháp, Hà Lan, Đức, Italia và Anh.
Chủ trương chung của V i ệt nam là m o ng m u ốn phát triển toàn diện v ới
EU. Điều này được thể hiện rất rõ trong Đe án từng thể phát triển quan hệ hợp
tác toàn diện V i ệt nam - Liên m i nh châu Âu n ăm 2005, là c hủ động xây dựng
"quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác toàn diện, lâu dài giữa V i ệt N am và Liên
minh châu Âu vì hòa bình và phát triển". Cùng v ới việc mờ rộng quan hệ EU
như là một từ chức khu vực, V i ệt N am cũng coi trọng quan hệ hợp tác v ới từng
nước thành viên, nhất là các nước lớn trong EƯ trên cơ sở khai thác l ợi thế của
từng nước và mối quan hệ truyền thống giữa V i ệt N am v ới từng n ướ c 3 3 .
Trên cơ sở này, quan hệ họp tác về k i nh tế được coi là n ội dung hợp tác
quan trọng nhất được cả hai bên hết sức quan tâm. T uy nhiên, để hợp tác k i nh
tế của V i ệt N am v ới EU phát triến mạnh và hiệu quả, V i ệt N am cần có định
hướng cụ thể về chiến lược phát triển, công cụ, biện pháp và lĩnh v ực ưu
tiên... Ngoài định hướng riêng cho phát triển chính trị ngoại giao và các lĩnh
vực nhằm hỗ trợ thêm sự hợp tác về k i nh tế.
33 Đề án tồng thể phát triển quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Âu đến 2010 và định huống 2015.
59
Vì vậy, để tạo dựng cơ sở phát triển mạnh mẽ quan hệ kinh tê Việt
Nam với Eư, hai bên sẽ tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác chính trị làm cơ sở
vững chắc cho quan hệ hợp tác kinh tế. Quan hệ chính trị - ngoại giao được
tăng cường vừa tạo ra sự thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, vừa xóa bẻ những cản
trở về vấn đề nhân quyền, chia sẻ các vấn đề quốc tế mà hai bên cùng quan
tâm.
Trong bối cảnh mới, các yêu cầu cho sự phát triển cũng khác đi, đồng
thời với mong muốn hợp tác cao hơn đòi hẻi phải có khuôn khổ pháp lý rõ
ràng và chi tiết hơn. Vì vậy, thời gian tới, Việt Nam cần chủ động đàm phán
và ký, kết các hiệp định mới làm cơ sở cho phát triển quan hệ giữa hai bên.
Thêm vào đó, EU vẫn nổi bật là một nhà cũng cấp viện trợ phát triển
không hoàn lại lớn nhất cho Việt Nam và tiếp tục giúp Việt Nam trong nhiều
lĩnh vực ưu tiên, bao gồm phát triển con người, ủng hộ tiến trình cải cách kinh
tế xã hội, hỗ trợ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. về thương
mại và đầu tư, EU vẫn là đối tác hàng đầu của Việt Nam. Tuy nhiên, cần thấy
rằng quan hệ kinh tế Việt Nam - EU vẫn có thể tiếp tục mở rộng thêm nhiều
về quy mô và chất lượng, chủng loại hàng hóa. Chúng ta cần nhận thức được
điều đó để đề ra được phương hướng phát triển đúng đắn.
2. Định hướng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2010
-2015.
Trước mắt, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trang xuất khẩu vào thị
trường EU các mặt hàng truyền thống như nông sản, khoáng sản và hàng tiêu
dùng sử dụng nhiều lao động (hàng may mặc, giày dép, thủy sản, cà phê, đồ
gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ...) với chất lượng, mẫu mã và tiêu chuẩn môi
trường phù họp với các quy định pháp lý của EU...; đồng thời tích cực gia
tăng tỷ trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, kể cả thông qua liên
60
doanh, gia công cho các doanh nghiệp châu Âu và từng bước xây dựng
thương hiệu Việt Nam đối với các sản phẩm xuất khẩu sang EƯ; coi trọng
việc mở rộng quan hệ thương mại dịch vụ, phấn đấu năm 2010 nâng kim
ngạch xuất khẩu lên 7,5 - 8 tỷ USD, nhập khẩu lên trên 5 tỷ USD để từ đó tạo
cơ sở định hướng mở rộng quan hệ này đến 2015.
Đối với một số mựt hàng xuất khấu chủ đạo, cần có định hướng rõ ràng
để việc thực thi đạt hiệu quả cao nhất. Cụ thế :
- Đối với mặt hàng dệt may: Đầu tư vào công nghệ sản xuất tiên tiến và
luôn đổi mới trang thiết bị là con đường duy nhất tạo sức cạnh tranh trên
trường quốc tế. Cùng với đó là tăng niềm tin cho các nhà nhập khẩu EU khó
tính bằng cách nâng cấp chất lượng sản phẩm và giảm thời gian giao hàng.
Tuy nhiên cũng cần biết rằng đối với thị trường châu Âu thì chất lượng hàng
hóa tốt, giá cả hợp lý và kinh doanh nhạy bén là chưa đủ bởi những người
quản lý ở đây ngày càng chú ý tới các chính sách của nhà sản xuất, chang hạn
như các chính sách về bảo vệ môi trường, về lao động họ quan tâm tới tiên
lương, nơi làm việc an toàn cho người lao động và các tiêu chuẩn xã hội
khác...
- Đối với mặt hàng da giầy : v ấn đề chủ yếu phải giải quyết của ngành
da giầy cho những năm trước mắt là phải dần trở thành ngành sản xuất độc
lập chứ không phải chủ yếu là gia công như hiện nay. Hiện nay các xí nghiệp
da giầy Việt Nam chủ yếu nhận lại họp đồng (sub - contracting) từ các công
ty thương mại Đài Loan và Hàn Quốc, tức là đối tác nước ngoài cung cấp
nguyên liệu (tính chung phụ thuộc vào nhập khấu đến 8 0 %) và thiết kế mẫu
mã, sau đó thành phẩm được xuất ra thị trường nước ngoài dưới sự quản lý
của các nhà thầu ngoại quốc. Trước tình hình đó, nhà nước cần có một chính
sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hoực các
doanh nghiệp sản xuất đã xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang EU.
- Đổi với mặt hàng thủy sản: Do đực điểm nước ta có 3.260km đường
bờ biển không kể các đảo, 2 mựt phía Nam và phía Đông tiếp giáp với vịnh
61
Thái Lan, vịnh Bắc Bộ và biển Đông do đó có rất nhiều thuận lợi cho sự phát
triển của ngành thủy sản. Chính vì thể thách thức lớn nhất của ngành thủy sản
Việt Nam hiện nay là sự phát triển và mở rộng thị trường mà đi kèm đó là vấn
đề giữ chân được các thị trường truyền thẩng quan trọng Hoa Kỳ, Nhật Bản,
EU.
- Đối với mặt hàng nông sản : Nước ta vẩn là một nước nông nghiệp,
do đó việc chú trọng phát triển xuất khẩu các sản phẩm nông sản là một việc
hết sức cần thiết. Vấn đề quan trọng đẩi với hàng nông sản hiện nay là thiếu
năng lực chế biến (gây tổn thất 2 0% tổng sản phẩm). Liên quan chặt chẽ với
vấn đề này là sự thiếu hụt vẩn đầu tư và dù có thì cũng phải giải quyết sự
manh mún nhỏ lẻ của nền sản xuất với hàng triệu nông hộ nhỏ và nghèo. Đó
là chưa kế đến các vấn đề chất lượng và vệ sinh an toàn thực phàm... những
vấn đề mà thị trường EU ngày càng quan tâm.
- Đối với sản phẩm gỗ: Chúng ta cần thấy rằng Việt Nam có khả năng
trở thành nước có ngành nghề chế biến gỗ cạnh tranh nhất trong khu vực bởi
giá lao động rẻ và người lao động có tay nghề khéo léo trong xử lý gỗ, thêm
nữa chúng ta có nhiều làng nghề truyền thẩng như Đồng Kị (Bắc N i n h ); Vân
Hà (Đông Anh); ... Do vậy, cần tiếp tục duy trì và mở rộng thị trường sản
phẩm gỗ trên thị trường EU. Bên cạnh đó cần tìm ra cách giải quyết cho tình
trạng phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khấu đồng thời tăng
nguồn nguyên liệu trong nước.
62
li. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định
pháp lý về nhãn hiệu và chất lượng hàng hóa để thúc đẩy xuất khẩu sang
EU.
1. Giải pháp ở tầm vĩ mô.
1.1. về đối ngoại.
Đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường EU thông qua việc
đàm phán ký kết các Hiệp định, thỏa thuẳn thương mại nhằm tạo ra các tiền
đề, hành lang pháp lý để đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng cường đàm phán thương
mại cấp Chính phủ giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu để tạo khung pháp
lý cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhẳp thị trường EU. Chẳng hạn như
Hiệp định hợp tác hay còn gọi là Hiệp định khung giữa Việt Nam và Cộng
đồng châu Âu được ký kết vào 07/1995 đã đưa mối quan hệ hợp tác Việt Nam
- EU chuyển sang một trang mới. sắp tới đây, sau 15 năm ký Hiệp định
khung, quan hệ Việt Nam - EƯ lại đang chuẩn bị bước tới một cột mốc mới
với việc ký kết Hiệp định hợp tác và đối tác (PCA) dự kiến sê được tiến hành
vào cuối năm nay, sau khi trải qua 5 vòng đàm phán kể từ khi bắt đầu vào
tháng 06/2008. Hay như Việt Nam là nước thứ hai trong ASEAN, sau
Singapore, được EU chọn để mời tham gia đàm phán Hiệp định thương mại
tự do (FTA) riêng rẽ... Đe có được kết quả này, ngoài sự phát triển về kinh tế,
chính trị được EU và thế giới thừa nhẳn, phải kể đến sự nỗ lực trong việc thúc
đẩy quan hệ ngoại giao cũng như thương mại của Chính phủ Việt Nam đối
với EU. Nhà nước cần có thêm các biện pháp cải cách mạnh mẽ hem nữa để
xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, nhằm gây ấn tượng tốt cho các
nhà hoạch định chính sách của EU. Việc EU công nhẳn Việt Nam đã đáp ứng
được tiêu chí thứ nhất của một nền kinh tế thị trường vào trung tuần tháng
02/2010 vừa qua đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc gây dựng hình
ảnh về một Việt Nam có nền kinh tế thị trường phát triển.
63
Bên cạnh đó, tăng cường xúc tiến thương mại tại EU cũng là một việc
làm hết sức cần thiết từ phía Nhà nước. Các bộ, ngành trực tiếp xúc tiên
thương mại tại thị trường EU, trong đó:
Bộ Công thương kết họp với Hiệp hội ngành hàng lập dự án xây dựng
"Trung tâm thương mại Việt Nam" tại các thị trường các nước thành viên EU,
trong đó lưu ý khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam đang kinh
doanh tại châu Âu, họp tác với các doanh nghiệp trong nước xây dựng các
kênh phân phối hàng hóa và dịch vẩ của Việt Nam tại EU, chú trọng sản
phẩm mang thương hiệu Việt Nam, chỉ dẫn địa lý Việt Nam phân phối trực
tiếp đến người tiêu dùng cuối cùng.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì và phối họp với các bộ, cơ
quan liên quan xây dựng chương trình tuyên truyền đối ngoại, kể cả việc hợp
tác với các kênh thông tin đại chúng của các nước EU, nhằm quảng bá hình
ảnh, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người, truyền thống văn hóa, tiềm năng
kinh tế, thương mại... của Việt Nam đến các doanh nghiệp và người tiêu dùng
1.2. về đối nội.
1.2.1. H o àn t h i ện hành lang pháp lý làm n ền t ả ng tạo t h u ận l ợi t ối đa cho
các d o a nh n g h i ệp x u ất k h ấ u.
EU...
Đe có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường khác nhau
trên thế giới trong đó có EU, trước hết chúng ta cần thực hiện tốt việc quản lý
chất lượng sản phẩm, nhãn mác sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, vấn đề
bảo vệ môi trường... ở trong nước. Hiện nay Việt Nam đã có đạo luật riêng về
chất lượng sản phẩm : Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa, chính thức có hiệu
lực vào tháng 07/2006. Đây là đạo luật đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt
Nam quy định về quyền và nghĩa vẩ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh sản phẩm hàng hóa và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất
64
lượng hàng hóa, quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên, đạo luật
trên đây vẫn còn nhiều bất cập, nhất là việc quy định người khiếu nại, khởi
kiện phải trả cho phí lấy mẫu và thử nghiệm hoặc giám định chất lượng sản
phàm, hàng hóa tranh chấp, trong khi đó ở nước ngoài, trách nhiệm này thuộc
vê các nhà sản xuất. Điều này đã gây tâm lý e ngại trong việc khởi kiện của
người tiêu dùng Việt Nam cũng như các nhà nhập khẩu nước ngoài.
Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng đã ban hành Luật sở hừu trí tuệ có hiệu
lực kể từ 01/07/2006 và lần chỉnh sửa mới đây là vào năm 2009, trong đó
pháp luật bảo hộ Sáng chế, giải pháp hừu ích; Kiểu dáng công nghiệp; Nhân
hiệu; Chỉ dẫn địa lý (bao gồm xuất xứ và chỉ dẫn địa lý). Điều này giúp cho
việc đăng ký nhãn hiệu nói riêng và bảo hộ sở hừu công nghiệp nói chung ở
nước ta ngày càng trở nên quen thuộc và phổ biến. Chính từ việc nhân thức
được phải bảo vệ nhãn hiệu của mình ở trong nước, các doanh nghiệp xuất
khẩu sẽ có ý thức bảo vệ nhãn hiệu của mình ở cả thị trường ngoài nước,
trong đó có thị trường EƯ. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện các bộ luật về chất
lượng sản phẩm, sở hừu trí tuệ, bảo hộ công nghiệp... đế tương thích với các
luật khác, với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia là một
việc làm hết sức cần thiết của Nhà nước không chỉ giúp bảo hộ sản xuất trong
nước mà còn giúp các doanh nghiệp xuất khấu làm quen với các luật lệ này ở
nước ngoài trong đó có thị trường EU.
Tuy nhiên, cho đến năm 2008, trong 638 tiêu chuẩn quốc gia của Việt
Nam về thực phẩm thì có đến 5 0% không phù hợp với yêu cầu trong Hiệp
định về rào cản kỹ thuật thương mại (TBT) và Hiệp định về các biện pháp vệ
sinh và vệ sinh thực phẩm (SPS) do WTO đưa ra. Do đó việc đổi mới hệ
thống tiêu chuẩn Việt Nam cần được đặc biệt quan tâm và phải được xác định
là một nhiệm vụ trọng tâm trong hội nhập quốc tế. Điều này rất có ý nghĩa với
Việt Nam vì nó sẽ giúp chúng ta vượt qua được các rào cản kỹ thuật của thị
trường các nước công nghiệp phát triển bao gồm khối EU
65
1.2.2. Tăng cường thiết lập các kênh thông tin về thị trường, các quy đinh
pháp lý... của EU cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Các Bộ ngành, các cơ quan chức năng có liên quan đến hoạt động xuất
khâu nói chung và xuất khẩu sang EƯ nói riêng, từ trung ương đến địa
phương, cần tăng cường tổ chức các buổi hội thỏa, tập huấn... nhằm tuyên
truyền, nâng cao nhận thức về các quy định pháp lý cũng như liên tục cập
nhật nhễng sự thay đổi về quy định pháp lý của Liên minh châu Âu cho các
doanh nghiệp xuất khẩu.
Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện và xây dựng thêm nhễng trang thông
tin chính thống, cung cấp thông tin về thị trường EU trên mạng internet như
website của Bộ công thương; website của Cục xúc tiến thương mại; vvebsite
của Dự án thương mại đa biên Việt Nam - EU MUTRAP ; website của Phòng
thương mại EU tại Việt Nam Eurocham ; Diễn đàn điện tử doanh nghiệp Việt
Nam - EU... Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho các doanh nghiệp xuất khấu
trong việc tìm kiếm nguồn thông tin đáng tin cậy phục vụ cho nhu cầu xuất
khẩu.
Nhà nước và các tỉnh, thành phô cân đây mạnh hoạt động của Văn
phòng Thông báo và điểm hỏi đáp quốc gia về hàng rào kỹ thuật thương mại
TBT và Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về Vệ sinh an toàn
thực phẩm và Kiểm dịch động thực vật SPS bằng cách đẩy mạnh quảng bá
cho hoạt động của các văn phòng SPS và TBT đến các doanh nghiệp; kiện
toàn cơ cấu tổ chức và nâng cao trình độ cán bộ của văn phòng; hỗ trợ tài
chính thường xuyên cho hoạt động của hai văn phòng này từ nguồn ngân
sách...
Hiện nay, ở Việt Nam cũng có nhễng tổ chức đại diện hỗ trợ về quyền
sở hễu công nghiệp như: Trung tâm hỗ trợ sáng tạo và bảo hộ quyền sở hễu
công nghiệp (INVENCO) trực thuộc liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật
66
Việt Nam; Hội bảo trợ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam; Trung tâm hô
trợ nghiên cứu và tư vấn pháp lý (LERES) của trường Đại học khoa học xã
hội và nhân văn và rất nhiều các văn phòng luật tư nhân... Thực tiễn đã chứng
minh vai trò của các hội, văn phòng này trong việc nâng cao nhận thức của
cộng đồng về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Bởi vậy, Nhà nưẩc cần có
chính sách khuyến khích để nhân rộng loại hình hoạt động này.
1.2.3. Đẩy mạnh các biện pháp quản lý và giám sát quá trình sản xuất từ
khâu nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra của các doanh nghiệp
xuất khẩu.
Việc đầu tiên Nhà nưẩc cần thực hiện là đề ra các biện pháp nhằm hạn
chế và quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu và sử dụng các hóa chất độc hại trong
sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu như hiện nay. N ăm 2006, Việt Nam nhập
hơn 1,2 tỷ USD hóa chất cho ngành chế biến, lương thực nhưng không quan
tâm đến việc những hóa chất này được sử dụng ra sao. Ngay tại thành phố Hồ
Chí Minh, người ta có thể dễ dàng tìm thấy hàng trăm, hàng nghìn loại hóa
chất, từ Acid Chlohydric, Sulũiric đến Vitamin tổng hợp, phụ gia đủ loại cho
các ngành tại chợ Kim Biên, thậm chí muốn mua Cyanure giết người cũng có,
cho nên việc lạm dụng hóa chất là điều thường thấy trong khi các cơ quan
chức năng chưa đủ khả năng đế kiếm soát và khống chế. Vì vậy, việc ngăn
chặn hóa chất độc hại ngay từ khi nhập khẩu, cấm chỉ hoặc hạn chế; quản lý
nghiêm ngặt việc sử dụng hóa chất đế chế biến không có giấy phép, gian lận
thương mại bằng cách pha trộn tạp chất (dưẩi tên gọi phụ gia)... có hại cho
người tiêu dùng trong nưẩc lẫn người tiêu dùng nưẩc ngoài phải được quan
tâm ngang nhau, không có lý gì hàng bị từ chối nhập khẩu vì vi phạm luật
nưẩc sở tại lại quay ngược về thị trường trong nưẩc làm ảnh hưởng sức khỏe
người tiêu dùng một cách tràn lan như hiện nay.
67
Đối v ới các ngành như nuôi trồng thủy sản; chế biến lương thực thực
phẩm xuất khẩu... cần thường xuyên tổ chức các Đoàn thanh t ra đi thực tế
xuống địa phương để k i ểm tra tình hình tuân thủ các quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm từ các ao nuôi, chuồng trọi... cho đến nơi chế biến sản xuất.
Việc tăng cường giám sát trong suốt quá trình sản xuất của doanh nghiệp từ
khâu thu mua nguyên liệu đầu vào đến khâu chế biến sản phẩm đầu ra sẽ giúp
họn chế sự vi phọm các quy định của EU về v ấn đề đảm bảo chất lượng và vệ
sinh an toàn thực phẩm.
Ngoài ra, công tác k i ểm dịch và k i ểm soát chất lượng các lô hàng trước
khi cho phép xuất khẩu của các cơ quan chức năng cũng đóng m ột v ai trò hết
sức quan trọng trong việc g iữ gìn uy tín của hàng hóa V i ệt N am trên thị
trường EU. Hoọt động này cần phải được thực hiện m ột cách nghiêm túc và
kỹ lưỡng vì đây là khâu cuối cùng trước k hi thông quan. Không thể để tái diễn
tình trọng các lô hàng xuất khẩu sang EU dễ dàng vượt qua công tác k i ểm
dịch và kiểm soát chất lượng trong nước nhưng đến k hi ra nước ngoài lọi bị
thiêu hủy hoặc trả về do không đáp ứng được các quy định về chất lượng.
Điều này không chỉ gây thiệt họi về k i nh tế cho chính các doanh nghiệp xuất
khẩu mà còn làm mất uy tín của hàng hóa V i ệt N am trên thị trường EU. Đe
thực hiện được vấn đề này, N hà nước cần trang bị cho các cơ quan chức năng
có liên quan các trang thiết bị hiện đọi nhằm phát hiện các vi phọm dù là n hỏ
nhất về việc sử dụng hóa chất, về dư lượng kháng sinh, thuốc bảo vệ thực
vật... Bên cọnh đó, cần luyện rèn m ột đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên
môn, trung thực, làm việc nghiêm túc đế đảm n h i ệm vụ được giao được thực
hiện m ột cách có hiệu quả.
Trong trường hợp phát hiện sai phọm, cần có chế tài xử phọt thật
nghiêm m i nh để tránh tình trọng doanh nghiệp tái diễn các sai phọm, đồng
thời răn đe các doanh nghiệp khác. Đối v ới các doanh nghiệp xuất khẩu do
thiếu hiếu biết nên m ới vi phọm và vi phọm lần đầu thì có thể xử phọt hành
68
chính cùng m ột vài biện pháp mang tính cảnh cáo khác. Còn đối v ới các
doanh nghiệp vi phạm nhiều lần các quy định pháp lý của EU, hoặc dù biết
nhưng vẫn cố tình vi phạm thì cần phải xử phạt thật nặng, thậm chí tước giấy
phép sản xuất k i nh doanh để không làm t ổn hại uy tín chung của cả ngành
hàng quốc gia.
Thiết nghĩ, nhỉng động thái và phản ứng hiện nay của các nước nhập
khẩu hàng hóa của V i ệt N am không chỉ là l ời cảnh báo, đe dọa mà là nhỉng
lời góp ý cần thiết, nêu lên nhỉng bất cập cần phải khắc phục để chúng ta có
biện pháp điều chỉnh kịp thời, không nhỉng đảm bảo chất lượng trong xuất
khẩu, g iỉ gìn giá trị của thương hiệu V i ệt mà còn giúp chúng ta có cơ h ội
nhìn lại việc tăng cường quản lý đối v ới cả các mặt hàng đang được tiêu t hụ
trong nước.
N hà nước cần có chính sách cụ thể để phát triển các ngành hàng xuất
khẩu chủ lực. Thông qua sự hỗ t rợ về vốn, ưu đãi về thuế và tạo điều k i ện
thuận lợi trong sản xuất k i nh doanh cho các doanh nghiệp, từ đó phát triển sản
xuất, đồng thời nâng cao được k hả năng cạnh tranh của hàng hóa và doanh
nghiệp V i ệt N am trên thị trường EU.
Đối v ới mặt hàng xuất khẩu chủ lực là giầy dép và dệt may, do có đặc
thù riêng trong sản xuất và xuất khẩu: ta chủ y ếu làm gia công cho nước ngoài
nên hiệu quả thực tế t hu được từ xuất khẩu rất thấp (25 - 3 0% doanh thu).
H ơn nỉa, do gia công theo đơn đặt hàng và sản xuất theo kỹ thuật nước ngoài
nên các doanh nghiệp V i ệt N am hoàn toàn bị động về mẫu m ã, sản xuất cũng
như tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ như hiện tại chúng ta nhận gia công cho các tên
tuổi l ớn như: Abercrombie & Fitch; Mango; Hollister; Zara; ... (về quần áo);
Clark; Adidas; Converse... (về giày dép). Đây là m ột điểm y ếu trong xuất
khẩu hai mặt hàng này của ta. N ấu cứ tiếp tục kéo dài tình trạng này sẽ rất bất
69
1.2.4. Phát triển các ngành hàng chủ lực sang thị trường EU.
lợi cho Việt Nam. Nhà nước cần có chính sách cụ thể để khuyến khích các
doanh nghiệp sản xuất làm ăn có hiệu quả hoặc các doanh nghiệp sản xuất đã
xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang EƯ thuộc hai ngành công nghiệp này tiếp
tục đầu tư vốn và đổi mới công nghệ trong quá trình sản xuất để cải tiến sản
phẩm cho phù hợp với thị hiếu của ngưồi tiêu dùng EU, nâng cao chất lượng;
tăng cưồng xuất khẩu theo phương thức mua đứt bán đoạn, giảm dần phương
thức gia công xuất khẩu; đồng thồi đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sản phẩm có
tỷ lệ nội địa hóa cao và tiến tới xuất khẩu sản phẩm 1 0 0% nguyên liệu trong
nước nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hai mặt hàng này.
Đối với những mặt hàng đang được ưa chuộng trên thị trưồng EU như
hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng, đồ dùng phục vụ du lịch, đồ chơi trẻ
em, hàng điện tử và hàng thủy sản..., Nhà nước cần có chính sách cụ thể
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn và công nghệ hiện đại đế mở rộng
quy mô sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm, đa dạng
hóa và nâng cao trình độ tiếp thị sản phẩm nhằm mục đích tăng khối lượng và
nâng cao hiệu quả xuất khẩu những mặt hàng này sang EU.
Riêng đối với mặt hàng gỗ, Nhà nước cần có kế hoạch khắc phục việc
phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu bằng cách xây dựng chiến
lược khai thác hợp lý nguồn gỗ rừng tự nhiên, xác định tính hợp pháp và khả
năng tái sinh của khu vực khai thác; kết hợp với quy hoạch trồng rừng mới để
duy trì và mở rộng ngành chế biến gỗ mà vốn có thế mạnh về lao động và kỹ
thuật tay nghề truyền thống. Bên cạnh đó, xúc tiến việc thành lập chợ gỗ cũng
là việc làm cần thiết vì nếu liên kết để nhập khẩu gỗ với khối lượng lớn thì
các doanh nghiệp có thể tiết kiệm được ít nhất 1 0% chi phí.
Đối với một số mặt hàng nông sản có khả năng xuất khẩu sang thị
trưồng EU như cà phê, chè, điều, hạt tiêu, cao su, rau quả..., Nhà nước cần
xây dựng quy hoạch, chọn lựa và có chính sách khuyến khích cụ thể để đẩy
mạnh đầu tư vốn tạo ra các vũng sản xuất chuyên canh, ứng dụng các kỳ thuật
70
tiên tiến, công nghệ sau thu hoạch để đảm bảo sản phẩm làm ra có năng suât
cao, chất lượng tốt, đồng đều, giá thành hạ và khối lượng lớn. Việc tạo ra
vùng sản xuất chuyên canh cho xuất khẩu sẽ giúp cho công tác quản lý chát
lượng được thực hiện tốt từ khâu chọn giống, kỹ thuật thâm canh, chăm sóc
đến lựa chọn đảm bảo chất lượng, khắc phỏc được tình tràng chất lượng kém,
không ổn định và nguồn cung cấp nhỏ.
Còn đối với mặt hàng thủy sản, Nhà nước cần sớm có biện pháp quy
hoạch các hộ nuôi trồng manh mún, nhỏ lẻ thành các vùng chuyên canh lớn
về nuôi trồng thủy sản tại các địa phương để giúp cho công tác quản lý chất
lượng được thực hiện từ khâu nguyên liệu đầu vào đến khâu chế biến thành
phẩm. Ngoài ra, để giúp các donh nghiệp tuân thủ luật truy xuất nguồn gốc
thủy sản lưu, không còn cách nào khác là phải xây dựng các đội tàu lớn với
trang thiết bị hiện đại và cung cách đánh bắt chuyên nghiệp. Điều này đòi hỏi
sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà nước trong việc xác định phương hướng, hướng
dẫn thực hiện và thậm chí cả hỗ trợ tín dỏng.
Chúng ta vẫn đang thực hiện tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và phương hướng đến năm 2020, Việt Nam cở bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại (phát biểu của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh trong
buổi bế mạc Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa X).
Như vậy trong khoảng lo năm tới, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ
chuyển mạnh theo hướng: tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo và giảm
mạnh tỷ trọng hàng nguyên liệu thô. Đe có cơ cấu hàng xuất khẩu như trên
trong tương lai gần, Nhà nước cần có một chính sách cỏ thế khuyến khích các
doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo (thực phẩm
chế biến, đồ điện, điện tử gia dỏng, điện tử - tin học (phần mềm), công nghệ
viễn thông...) đầu tư theo chiều sâu đế nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và
tính độc đáo của sản phàm, đa dạng hóa mặt hang nhằm tăng nhanh khối
lượng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường EU.
71
Riêng đối với các doanh nghiệp lớn của Nhà nước thuộc các ngành
điện tử - tin học, công nghệ viễn thông, các ngành có hàm lượng chất xám
cao, Nhà nước cần có sự hỗ trợ về vốn và khuyến khích họ tập trang cho
nghiên cứu cơ bản đế tữo ra các sản phẩm công nghệ cao. Đối tượng áp dụng
của chính sách là những doanh nghiệp chế biến và chế tữo có uy tín trên
thương trường quốc tế.
1.2.5. Gắn nhập khẩu công nghệ nguồn với xuất khẩu.
Việt Nam xuất khẩu sang EU nhưng đồng thời cũng nhập khẩu từ EU.
Chúng ta chủ yếu nhập khẩu những mặt hàng sau: máy móc, thiết bị công
nghệ cao, máy chế biến thực phẩm, phương tiện vận tải, máy bay hóa chất tân
dược, nguyên phụ liệu dệt - may - da. Đe phát triển xuất khẩu, cần nhớ rằng
so với các thị trường xuất khẩu truyền thống khác của Việt Nam thì thị hiếu
tiêu dùng EU là rất khắt khe, kênh phân phối phức tữp và có nhiều quy định
ngặt nghèo về hàng nhập khẩu. Song, Việt Nam và EU có cơ cấu hàng hóa
xuất nhập khẩu hoàn toàn bố sung cho nhau.
Bấy lâu nay chúng ta thường nhập khẩu máy móc thiết bị tù châu Á giá
rẻ nhưng không bền. Nấu chúng ta tăng cường nhập khẩu công nghệ nguồn từ
châu Âu sẽ làm cân bằng cán cân thanh toán, phía EU không tìm cách cản trở
hàng xuất khẩu của ta, đồng thời nhập khẩu được công nghệ hiện đữi giúp
thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng cao khả năng cữnh tranh và hiệu quả
xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường EU nói riêng.
Do vậy, Việt Nam có thế đấy mữnh xuất khấu những mặt hàng mình có
lợi thế, đồng thời tăng cường nhập khẩu máy móc thiết bị và dây chuyền sản
xuất hiện đữi của EU để phát triển sản xuất tữo động lực đẩy mữnh kinh tể
phát triển. Những sản phẩm thu được từ công nghệ sản xuất hiện đữi lữi xuất
khẩu trở lữi EU.
72
Nhập khẩu công nghệ nguồn từ Eư có thể thực hiện bằng 2 biện pháp
sau đây: (1) Đầu tư của Chính phủ; (2) Thu hút các nhà đầu tư EU tham gia
vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam. Đe thực hiện những
biện pháp này, Nhà nước cần có những ưu đãi dành riêng cho các nhà đầu tư
EU bên cạnh những ưu đãi và quyền lợi mà hố được hưởng theo luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Những ưu đãi này có thể là về thuế nhập khẩu công
nghệ nguồn từ EƯ, thuế suất lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận... Các đối tác EU
chỉ được hưởng những ưu đãi này nếu góp vốn bằng công nghệ hiện đại được
chế tạo tại Liên minh và đầu tư vào những lĩnh vực sau: ngành công nghiệp
chế biến thực phẩm, ngành công nghiệp sản xuất các thiết bị điện, ngành điện
tử, viễn thông...
Thực hiện các biện pháp này, Việt Nam vừa thu hút được công nghệ từ
EU lại vừa nâng cao và tiêu chuẩn hóa chất lượng hàng xuất khẩu nói chung
và chất lượng hàng sang thị trường EU nói riêng. Với sự góp mặt của các nhà
đầu tư EƯ trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu, hàng hóa Việt Nam có thể
đáp ứng tốt nhất các yêu cầu khắt khe của thị trường EU về chất lượng, vệ
sinh, bảo vệ môi trường, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú... từ đó hàng hóa
của chúng ta sẽ nâng cao khả năng đáp ứng các quy định pháp lý về chất
lượng, môi trường, nhãn hiệu... vốn là một rào cản khó vượt qua khi xuất
khẩu sang EU. Đồng thời, quá trình sản xuất được thực hiện dưới sự giám sát
điều hành của các doanh nghiệp EU nên hàng Việt Nam sẽ được trang bị tính
cạnh tranh quốc tế cao.
2. Các giải pháp ở tầm vi mô.
2.1. Tăng cường nghiên cứu và nhận thức đúng về thị trường EU
EƯ là thị trường tiêu dùng khắt khe trên thế giới và có hệ thống các quy
định pháp lý về chất lượng, môi trường và nhãn hiệu sản phẩm mà hàng xuất
khẩu của các nước đang phát triển không dễ dàng vượt qua. Các doanh nghiệp
73
Việt Nam cần tìm hiểu kỹ về thị trường EU vì tuy là một thị trường thống
nhất về kỹ thuật song thị trường này thực tế là một nhóm các thị trường quôc
gia và khu vực, mỗi nước có bản sắc riêng, đặc điểm riêng mà các nhà nhập
khữu tại các nước phát triển thường rất chú trọng. Ngoài những yêu cầu mang
tính tối thiếu được áp dụng chung cho cả Cộng đồng, mỗi nước trong EU lại
có những quy định pháp lý riêng về bao bì, mẫu mã sản phữm... Cộng đồng
châu Âu không phải là một mẫu hình thống nhất cho nên quyết định mua
hàng chịu ảnh hưởng của các mô hình văn hóa của từng quốc gia riêng trong
EU. Các doanh nghiệp muốn thành công trong xâm nhập thị trường EU cần
phải hiểu rõ và sẵn sàng thích nghi.
Các doanh nghiệp cần phải tổ chức tìm hiểu và nắm vững các thông tin
về các quy định pháp lý liên quan đến ngành hàng của mình; nghiên cứu thị
trường; điều tra xã hội học; thu thập thông tin về nhu cầu thị hiếu tiêu dùng,
về chất lượng, giá cả của hàng hóa Việt Nam cũng như các nước khác trên thị
trường EU để đạt hiệu quả cao trong việc xuất khữu. Thậm chí các doanh
nghiệp xuất khữu nên có một phòng ban hoặc một tổ riêng, chuyên phụ trách
việc tìm hiểu các quy đinh pháp lý của EƯ về ngành hàng của doanh nghiệp
mình, hay có thể thuê luật sư riêng tư vấn để đảm bảo việc tuân thủ luật pháp
trong nước cũng như luật pháp EU được nghiêm ngặt, tránh tình trạng do
doanh nghiệp không hề cố ý mà do thiếu hiểu biết nên mới phạm luật.
Doanh nghiệp cần nhận thức được rằng thị trường EU có tính cạnh
tranh mạnh mẽ, bắt buộc các công ty phải tạo cho mình lợi thế canh tranh hơn
các đối thủ khác. Có nghĩa là chất lượng sản phữm phải liên tục cải thiện, mẫu
mã kiểu dáng phải được đổi mới nhanh hơn trước. Chu trình sống của một sản
phữm sẽ ngắn hơn và phương thức dịch vụ tốt hơn. Tuy nhiên vẫn phải tuân
thủ đầy đủ các yêu cầu và quy định pháp lý về chất lượng và nhãn hiệu sản
phữm của EƯ.
74
Bên cạnh đó, có thể nói các yêu cầu về vệ sinh và y tế cũng như môi
trường đã thúc đấy tạo ra các tiêu chuẩn quốc tế, ký mã hiệu, nhãn mác,
chứng chỉ... Mà các doanh nghiệp nhập khẩu cũng như người tiêu dùng EU lại
rất xem trọng các loại chứng chỉ, tiêu chuẩn mang tầm quốc tế này. Thực tế
cho thấy, ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, hàng hóa của các
doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000, ISO 14000...thâm nhập vào thả
trường EU dễ dàng hơn rất nhiều. Do đó, các nhà xuất khẩu thuộc các nước
như Việt Nam chúng ta phải tuân thủ và cố gắng đáp ứng các quy đảnh và yêu
cầu của thả trường.
Bên cạnh những điều kiện bắt buộc, việc tìm hiểu các chứng chỉ, tiêu
chuẩn, nhãn mác... mang tính tự nguyện được EU công nhận và đánh giá cao
là hết sức cần thiết. Ví như trong lĩnh vực an toàn sản phàm, ký mã hiệu EU
trở nên hết sức quan trọng trong việc lưu thông hàng chế tạo trên thả trường
EU. Ví dụ ký mã hiệu CE bắt buộc đối với đồ chơi, thiết bả áp thấp, các sản
phàm an toàn cho con người, thiết bả y tế và nguyên vật liệu xây dựng. Trong
lĩnh vực chế biến thực phẩm, các công ty phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh
an toàn một cách chặt chẽ. về phương diện này, việc áp dụng hệ thống
HACCP trở nên vô cùng cần thiết.
Nhìn chung thả trường EƯ luôn đánh giá cao và danh ưu ái cho các
doanh nghiệp đạt các tiêu chuẩn, nhãn mác và chứng chỉ được quốc tế công
nhận. Ngoài HACCP, ISO 9000, ISO 14000, FSC (chứng chỉ rừng cho ngành
gỗ) thì còn có GAP (Good Agriculture Practice), các nhãn sinh thái
(Ecolabels) và các bộ luật mang tính xã hội về đạo đức như tiêu chuẩn SA
8000 (The Social Accountability 8000)... đang ngày càng phổ biến. Đây
không phải là những quy đảnh mang tính bắt buộc, nhưng có thể nói đây chính
là giấy thông hành cho hàng xuất khẩu Việt Nam nếu muốn xâm nhập vào thả
75
trường EU nói riêng và thả trường thế giới nói chung.
Tóm lại, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự tin, chủ động tìm hiêu
kỹ môi trường pháp lý về xuất khẩu sang thị trường EU. Các doanh nghiệp
khi xuất hàng đi cần phải đảm bảo sản phàm tốt, không có phế phàm, coi
trọng kiểm tra chất lượng sản phẩm dớng thời cần đảm bảo thời gian giao
hàng, lựa chọn hãng vận chuyển tin cậy.
2.2. Nâng cao chất lượng hàng hoa.
Chất lượng hàng hóa là yếu tố sống còn, có ý nghĩa quyết định sức
cạnh tranh của hàng hóa và của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
EƯ. Để đảm bảo hàng hóa có chất lượng cao tuân thủ các quy định pháp lý và
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng các doanh nghiệp Việt Nam phải có các
biện pháp sau đây:
- Đầu tư thiết bị máy móc, công nghệ mới (cố gắng nhập khẩu từ những
nước có công nghệ nguớn) nhằm sản xuất ra hàng hóa xuất khẩu có chất
lượng tốt đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của tất cả các thị trường nước ngoài. Bên
cạnh đó, đổi mới công nghệ thông qua liên doanh, liên kết với nước ngoài,
dưới các hình thức đầu tư trực tiếp, gián tiếp.
- Đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề kỹ thuật cao, đủ trình độ
tiếp thu công nghệ mới đế sản xuất ra những sản phàm có chất lượng cao.
- Đảm bảo nguớn cung cấp nguyên liêu cho sản xuất ổn định, chất
lượng tốt nhằm đáp ứng yêu cầu về sản phẩm và chủ động sản xuất, đảm bảo
thời gian giao hàng. Đây là một trong những nhân tố nâng cao sức cạnh tranh
cho sản phẩm.
- Chú ý chặt chẽ khâu kiểm tra chất lượng, không chỉ ở khâu cuối mà
ngay từ khâu đầu tiên. Đặc biệt với ngành nông sản và thủy sản, cần kiểm tra
kỹ chất lượng hàng ngay khi nhận nguyên liệu từ người nuôi trớng, đánh bắt,
trớng trọt... trước khi đưa vào chế biến hoặc xuất khấu để tránh việc họ gian
76
lận nhằm tăng l ợi nhuận, gây ra những thiệt hại không đáng có k hi xuât hàng
đi.
- K i ếm t ra nghiêm ngặt thành phẩm trước k hi đóng gói và xuất khâu
trên cơ sở các tài liệu kỹ thuật và mẫu hàng.
- Xây dựng các phòng thí nghiệm, k i ểm nghiệm, phòng thanh tra chất
lượng v ới trang thiết bị hiện đại; k i ểm tra chất lượng m ảt cách đồng bả và
hoàn chỉnh, có k hả năng k i ếm tra nhanh chóng, chính xác và phù hợp v ới tiêu
chuẩn quốc tế.
- Liên tục đổi m ới mẫu mã, k i ểu dáng sản phẩm phù hợp v ới thị hiếu
khách hàng.
- Bên cạnh đó cần tự mình nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, c oi đó là
mảt điều kiện sống còn đối v ới sự thành công của doanh nghiệp c hứ không
chỉ đơn thuần mang tính đối phó. Từ đó đề ra những giải pháp thiết thực và
hiệu quả như đầu tư thiết bị công nghệ vào quá trình xử lý nước thải sau sản
xuất, khói bụi thải ra trong quá trình sản xuất... Đồ ng thời cần nghiên c ứu và
tìm ra loại bao bì "sạch" và thân thiện v ới môi trường, có thể tái sử dụng và
dễ phân hủy... V i ệc này hết sức quan trọng vì nó không chỉ giúp hàng hóa
xuất khẩu dễ thâm nhập vào thị trường EƯ hơn mà còn góp phần bảo vệ môi
trường trong nước.
- Đối v ới mặt hàng giày dép và dệt may, chúng ta chủ y ếu làm gia công
xuất khẩu, các doanh nghiệp V i ệt N am cần phấn đấu sản xuất hoặc tìm nguồn
sản xuất nguyên phụ liệu n ải địa đảm bảo yêu cầu chất lượng, không có các
chất bị EU cấm sử dụng. Nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên p hụ liệu t r o ng nước,
tăng tỷ lệ n ải địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm, tăng
sức cạnh tranh trên thị trường EU. N hư vậy l ợi nhuận mang lại sẽ cao hơn.
- Đối v ới mặt hàng thủy hải sản, cần tăng cường đầu tư quản lý t ốt việc
đánh bắt hải sản xa bờ và nuôi trồng thủy sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu
"sạch" cho chế biến xuất khẩu. Q uá trình chế biến, bảo quản... tuyệt đối
77
không được sử dụng các chất bị EU cấm. N ếu phát hiện ra những lô hàng bị
nhiễm kháng sinh, vi sinh không được cho phép, cần tìm giải pháp xử lý kịp
thời... thay vì cố tình tìm m ọi cách để được xuất khẩu, r ồi đến k hi bị phát hiện
thiệt hủi còn nặng nề hơn và còn gây ảnh hưởng x ấu đến uy tín của cả ngành
Các doanh nghiệp V i ệt N am phải tăng cường đầu tư và hoàn thiện công
tác quản lý vì đây là hai yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất, có tính
quyết định đối v ới việc cho ra đời m ột sản phẩm như thế nào. N êu m ột doanh
nghiệp đã chú trọng vào việc đầu tư v ốn và công nghệ tiên tiến vào quá trình
sản xuất, lủi áp dụng một hệ thống quản lý có hiệu quả sẽ tủo ra những sản
phẩm xuất khẩu có chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng
và vượt được rào cản kỹ thuật của bất kỳ thị trường nào dù là khó tính nhất.
Tủi thời điểm này, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của V i ệt
N am muốn hướng vào EU thì không còn cách nào khác là phải tăng cường áp
dụng các hệ thống quản lý I SO 9000, HACCP... Việc áp dụng hệ thống tiêu
chuẩn chất lượng ISO 9000 sẽ đ em lủi rất nhiều l ợi ích cho doanh nghiệp như:
tủo lòng tin cho người tiêu dùng, cải thiện danh tiếng cho doanh nghiệp, giúp
doanh nghiệp nâng cao k hả năng thỏa mã khách hàng t ốt hơn, cũng như tủo
lợi thế củnh tranh cho doanh nghiệp k hi thâm nhập vào thị trường v ốn n ổi
tiếng khó tính là EU. cần hiểu rằng đầu tư đế áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế
này trong sản xuất tuy t ốn k ém lúc ban đầu nhưng sẽ mang lủi vô vàn l ợi ích
trong tương lai, k hi hệ thống quản lý hoủt động trơn tru, hiệu quả thì năng
suất và chất lượng tăng là điều không hề khó.
N hư vậy, có thể nói rằng việc nâng cao nhận thức về thị trường xuất
khẩu, đổi m ới công nghệ, áp dụng các bộ tiêu chuẩn quốc tế như I SO 9000,
ISO 14000 và HACCP... giúp ích rất nhiều cho các doanh nghiệp V i ệt N am
trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm đồng thời bảo vệ được môi trường
hàng.
78
nhằm tuân thủ các quy định khắt khe từ phía EU. Có thể nói đó chính là chìa
2.3. Phát triển nguồn nhân lực.
khóa để các doanh nghiệp Việt Nam mở cánh cửa vào thị trường EU.
Con người là yếu tố quan trọng cho quá trình sản xuất. Đê tứo ra sản
phẩm có chất lượng cao và đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng,
ngoài việc trang bị máy móc thiết bị hiện đứi, cần phải có những cán bộ kỹ
thuật và công nhân lành nghề. Tuy nhiên, nước ta hiện nay số lượng các cán
bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao còn rất ít. Vì vậy dẫn tới
tình trứng: sản xuất hàng hóa chất lượng chưa cao, không đồng đều và kiểu
dành còn đơn điệu, thiếu tính sáng tứo. Vì thế mà khả năng cứnh tranh quốc tế
của hàng hóa rất thấp.
Do vậy, để khắc phục tình trứng này, các doanh nghiệp trong nước cần
phải chú trọng vào những việc làm sau đây:
- Chú trọng công tác đào tứo để nâng cao năng lực cán bộ và công nhân
kỹ thuật vì họ là nhân tố quan trọng không thể thiếu trong việc nâng cao chất
lượng hàng hóa, từ đó có thể thâm nhập và cứnh tranh được trên thị trường
EU. Các doanh nghiệp phải luôn chú trọng nâng cao trình độ công nhân kỹ
thuật vì họ là người trực tiếp làm ra sản phẩm. Bên cứnh đó, phải đồng thời
đào tứo một đội ngũ cán bộ thương mứi, quản lý am hiếu về thị trường, tinh
thông về pháp luật của nước nhập khẩu để kết hợp với đội ngũ công nhân kỹ
thuật cho ra đời những sản phẩm xuất khấu đảm bảo chất lượng và đáp ứng
được các quy định của EU.
- Từng doanh nghiệp phải dành một khoảng kinh phí nhất định cho hoứt
động này và phải biết tận dụng các chương trình đào tứo cán bộ, công nhân kỹ
thuật của Chính phủ để cử cán bộ của mình tham gia. Đối với cán bộ thương
mứi, các doanh nghiệp không chỉ chú trọng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn
mà còn phải nâng cao ngoứi ngữ vì ngoứi ngữ kém sẽ trở thành rào cản trong
79
việc đ àm phán và thường bất l ợi trong giao dịch k i nh doanh. H ơn nữa còn có
thể dẫn đến hiểu l ầm trong k hi tìm hiểu về các Bộ luật và quy định được viết
bằng tiếng nước ngoài, khiến cho việc áp dụng luật bị đi lệch hướng hoặc
không hiệu quả, gây tủn thất cho doanh nghiệp.
- Tủ chức tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân tham gia các khóa thuyết
trình, các buủi h ội thảo, tập huấn... g i ới thiệu các thông t in m ới nhất về chế độ
chính sách, những thay đủi về luật, xu hướng tiêu dùng m ới cũng như các
hướng dẫn về bao bì hàng hóa, marketing...của Liên m i nh châu Âu do Chính
phủ, các cơ quan ban ngành tủ chức. Tham gia các h ội nghị, h ội thảo do Liên
minh châu Âu tố chức để trao đủi học h ỏi k i nh nghiệp v ới g i ới doanh nhân
châu Âu...
- Tủ chức các đoàn đại biểu đi nghiên cứu, thăm dò thị trường EU,
đồng thời m ời các doanh nghiệp EU vào làm việc , tìm hiểu các cơ h ội k i nh
doanh và đầu tư sản xuất ở tại doanh nghiệp mình...
2.4. Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử.
Các doanh nghiệp V i ệt N am nên đẩy mạnh việc áp dụng thương m ại
điện tử vì thương mại điện tử đ em lại cho các doanh nghiệp những lợi ích to
lớn. Các doanh nghiệp EU cũng như doanh nghiệp Mỹ có quan n i ệm là: "Nếu
công ty bạn không t ồn tại trên Internet thì công ty bạn không t ồn t ạ i" và họ
luôn quan tâm xem có tìm thấy đối tác cần tìm trên Internet hay không. N hư
vậy thương m ại điện tử cũng là giải pháp có tính thách thức l ớn đối v ới doanh
nghiệp V i ệt Nam. Các website của doanh nghiệp được ví như là những T r u ng
tâm thông tin, văn phòng đại diện và cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp ở m ọi
lúc m ọi nơi trên m ọi phương diện. Do vậy, nó có t ầm quan trọng trong việc
xúc tiến g i ới thiệu sản phẩm doanh nghiệp mình trên thị trường thế giới.
K ết n ối Internet, sử dụng các công cụ tìm k i ếm p hủ biến như Google
Yahoo, A O L, A l ta Vista..., doanh nghiệp có thể tìm thấy hầu hết các thông t in
80
về thị trường, về quy định pháp lý, rào cản thương mại... của EU phục vụ cho
hoạt động xuất khẩu của mình cũng như tìm k i ếm đối tác rất nhanh và hiệu
quả.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng không thể bỏ qua việc đăng ký tên
miên trên Internet. Internet ngày nay t rở thành một thế mạnh trong giao
thương quốc tế cần phải được khai thác triệt để, trong đó có việc tiếp thị. M ột
địa chễ tên miền ngắn gọn, thông dụng dễ truy cập là sự thuận l ợi cho doanh
nghiệp k hi đưa hình ảnh, thông tin... của mình đến v ới đối tác và người tiêu
dùng. Điều đó sẽ mang lại rất nhiều lợi ích nếu thực hiện được, m ột trong sô
đó chính là việc giúp người tiêu dùng làm quen và phân biệt được sản p h àm
và nhãn hiệu thật nếu xảy ra trường họp bị làm hàng nhái, hàng g iả hay bị các
doanh nghiệp khác ăn cắp thương hiệu... Doanh nghiệp có thế đăng ảnh mẫu
so sánh hoặc hướng dẫn người tiêu dùng cách phân biệt hàng thật, hàng nhái;
nhãn hiệu thật, nhãn hiệu không phải của doanh nghiệp... trên website của
mình. Điều đó sẽ giúp ích rất nhiều cho khách hàng và góp phần xây dựng
thườn hiệu.
Đe được pháp luật bảo hộ tránh những r ủi ro bị x âm phạm nhãn hiệu,
các doanh nghiệp V i ệt N am cần phải đăng ký nhãn hiệu ở trong nước và đặc
biệt ở nước ngoài. Đối v ới các doanh nghiệp xuất khấu, đăng ký nhãn hiệu tại
thị trường nước ngoài mang ý nghĩa sống còn. V i ệc đăng ký không chễ đ em
lại l ợi ích trước mắt cho các doanh nghiệp: có thể bán hàng trực tiêp cho
doanh nghiệp nước ngoài không cần t ốn k ém chi phí trung gian, không bị các
công ty nước ngoài lấy nhãn mác của mình đặt tên cho sản phẩm của họ, sản
phẩm không bị dìm giá trên thị trường vì lý do không có nhãn mác,.... Đ ă ng
ký nhãn hiệu tại nước ngoài còn đ em lại nhũng lợi ích lâu dài, đó là tạo d ự ng
một thương hiệu uy tín, chất lượng đối v ới các đối tác cũng như người tiêu
81
2.5. Tăng cường công tác đăng ký nhãn hiệu tại thị trường EU
dùng nước ngoài mà ở đây là Cộng đồng EU. Doanh nghiệp tuy nhiên cũng
không vì thế mà đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp bừa bãi ở các thị trường
mà mình không có ý định vươn tới vì như thế sẽ gây mất thời gian, tôn kém
và lãng phí...
Trước khi đăng ký thương hiệu, doanh nghiệp cần xác định thị trường
của mình đê tìm hiếu luật sở hữu của nước đó. Doanh nghiệp cần tìm hiểu
xem quốc gia cần đăng ký thương hiệu nợm trong hệ thống sở hữu trí tuệ nào
để doanh nghiệp có thể tham gia đăng ký theo hệ thông đó.
Hiện nay, để đăng ký nhãn hiệu ở EU, doanh nghiệp Việt Nam có thê
thực hiện theo nhiều cách:
- Đăng ký trực tiếp ở từng nước, theo đó doanh nghiệp có thể trực tiếp
nộp đon tại từng quốc gia dự định đăng ký cho nhãn hiệu thông qu đại diện
hợp pháp của mình tại các nước này. Hạn chế lớn nhất của hình thức đăng ký
này là ngoài khoản phí nộp cho cơ quan nhà nước, doanh nghiệp sẽ phải nộp
thêm một khoản chi phí cho Luật sư nước sở tại do hầu hết các nước đều cho
phép các doanh nghiệp tự nộp đơn đăng ký mà không thon qua đại diện của
mình. Đồng thời, việc không am hiểu pháp luật về sở hữu trí tuệ của từng
nước cũng có thế gây cho doanh nghiệp nhiều khó khăn trong quá trình đăng
ký.
- Đăng ký nhãn hiệu thông qua hình thức nộp đơn quốc tế:
+ Đăng ký theo hệ thống Mađrid (bao gồm cả Thỏa ước Madrid và
Nghị định thư Madrid): doanh nghiệp chỉ cần nộp đơn duy nhất tại Cục sở
hữu trí tuệ Việt Nam và đơn nhãn hiệu sẽ được xét nghiệp tại các nước mà
doanh nghiệp chỉ định. Nhãn hiệu sẽ được bảo hộ tại các nước chỉ định nếu
đạt tiêu chuẩn bảo hộ. Việc từ chối bảo hộ của một nước nào không ảnh
hưởng đến việc bảo hộ tại các nước khác. Tuy nhiên cần lưu ý là nếu doanh
nghiệp nộp đơn theo Thỏa ước Madrid thì nhãn hiệu đó phải được bảo hộ tại
82
nước sở tại - Việt Nam trước. Hệ thống nộp đơn này hiện nay đã có hơn 100
nước thành viên trong đó có Liên minh châu Âu EU.
+ Đăng ký Nhãn hiệu hàng hóa Cộng đồng (CTM): như đã nói ở
chương Ì, phần li, mục 2.2, với hình thức này, văn bằng bảo hộ sẽ có hiệu lực
đồng thời tại toàn bộ các nước thành viên thuộc Cộng đông chung châu Au.
Tuy nhiên, ngoài ưu điểm thủ tục đơn giản, tiết kiệm chi phí thì hình thức
đăng ký này lại có một nhưửc điểm rất lớn đó là nếu như có một nước thành
viên từ chối bảo hộ thì nhãn hiệu sẽ không còn đưửc độc quyền sử dụng tại tất
cả các nước còn lại.
83
KÉT LUẬN
Số lượng các quy định pháp lý về vấn đề bẩm đảm chất lượng, bảo hộ
công nghiệp... của Liên minh châu Âu đang ngày một gia tăng được coi là
một rào cản khó vượt qua đối với các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát
triên. Nhiêu doanh nghiệp đang bị mất cơ hội làm ăn do những đòi hỏi ngày
càng khắt khe từ phía đối tác EU. Khi một doanh nghiệp vi phạm các quy
định pháp lý của Liên minh châu Âu, không chể doanh nghiệp đó bị thiệt hại
về tài chính và uy tín mà còn ảnh hưởng đến uy tín của các doanh nghiệp khác
trong toàn ngành. Do đó, đáp ứng đúng và đầy đủ các quy định pháp lý là
điều kiện sống còn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể trụ vững và thành
công trên thị trường EU.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài "Vận dụng các quy định pháp lý
của Liên minh châu Âu EU về chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa nhằm
tăng cường xuất khấu của Việt Nam vào thị trường này", bài khóa luận
này đã trình bày một số vấn đề sau:
- Thứ nhất, trình bày tóm gọn một số quy định pháp lý mang tính bắt
buộc về chất lượng, nhãn hiệu mà EU hiện nay đang áp dụng cho hàng hóa
lưu thông trên thị trường, trong đó bao gồm cả các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam sang thị trường này.
- Thứ hai, đánh giá khái quát năng lực của Việt Nam trong việc đáp
ứng các quy định pháp lý trên như: thực tế việc tuân thủ các quy định về vệ
sinh an toàn thực phẩm, đăng ký nhãn hiệu,... của các doanh nghiệp xuất khấu
sang EU; những điểm đáng ghi nhận và những điểm còn thiếu sót của các
doanh nghiệp Việt Nam trong việc vận dụng các quy định pháp lý đó; những
tác động tích cực từ phía Nhà nước và những điều còn chưa làm được... Đồng
thời, khóa luận cũng đi sâu vào phân tích tình hình xuất khẩu và khả năng đáp
ứng các quy định pháp lý của một vài ngành hàng xuất khẩu chính : dệt may,
84
da giầy, nông nghiệp, thủy hải sản, gỗ. Trong đó đặc biệt tập trung vào ngành
nông nghiệp và thủy hải sản bởi đây là 2 ngành khó đáp ứng các quy định
pháp lý của EU nhất...
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp khắc phục những điẩm còn tồn tại và
phát huy những điẩm mạnh của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Qua
đó kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang EU.
Tóm lại, đẩ đấy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần hiẩu rằng, đáp
ứng các quy định pháp lý của Việt Nam, của Liên minh châu Âu hay của các
thị trường khác trên thế giới là một việc làm cần thiết, là một chiến lược lâu
dài chứ không chỉ là các biện pháp đối phó ngày một ngày hai.
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trên sách báo và t ạp chí
1. GS.TS. Đỗ Đức Bình (2008), Giải pháp vượt rào cản ký thuật để đẩy
mạnh xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU, Tạp chí Nghiên
2. GS.TS. Đỗ Đức Bình (2009), Rào cản môi trường - "Rào cản xanh"
cứu châu Âu số 5/2008.
của EU và giải pháp vượt rào đẩy mạnh xuất khau hàng hóa của Việt
Nam sang thị trường EU, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 6/2009.
3. TS. Nguyễn thị Thanh Hà & ThS. Nguyễn Văn Tiền (2005), Những
thách thức chủ yếu của ngành thủy sản, Tạp chí Nghiên cứu kinh tê sô
4. ThS. Bùi Việt Hưng, (2008), Thị trường EƯ: Cơ hội và thách thức cho
3/2005.
xuất khẩu mặt hàng giầy dép Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số
4/2008.
5. PGS.TS. Nguyễn Hữu Khải & ThS. Đào Ngọc Tiến (2008), Hàng rào
kổ thuật của EƯ và giải pháp đấy mạnh xuất khấu đối với các doanh
6. Đinh Thị Ngọc Linh (2008), Các tiêu chuẩn về môi trường EU và vấn
nghiệp Hà Nội, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 10/2008.
đề xuất khấu thủy sản của Việt Nam, Đe tài nghiên cứu cấp Viện, Viện
7. TS. Ngô Duy Ngọ (2009), Hệ thống thuế quan và phi thuế quan của
Nghiên cứu châu Âu.
Liên minh châu Âu, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 8/2009.
8. ThS. Phan Ngọc Tâm (2006), Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp
luật châu Âu và Hoa Kỳ, Tạp chí Khoa học Pháp luật số 4/2006
86
9. ThS. Lê Minh Tâm (2009), Thị trường thủy sản EU: Tiềm năng và rào
cản kỹ thuật thương mại, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 10/2009.
10. Đoàn Tất Thắng (2008), Nâng cao mối quan hệ hợp tác đối tác Việt
Nam - EUlên tầm cao mới, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 7/2008.
11. PGS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, (2008), Quan hệ kinh tế Việt Nam —
Liên minh châu Âu từ năm 1995 đến nay và triển vọng, Tạp chí nghiên
cứu châu Âu sổ 4/2008.
12. PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam -
Liên minh châu Âu - Thực trạng và triển vọng (sách chuyên khảo),
NXB Khoa học xã hội.
13.Viện Nghiên cứu châu Âu (2008), Tọa đàm hợp tác Việt Nam - Liên
minh châu Âu khi Việt Nam — Liên minh châu Âu cùng hướng tới tương
lai, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 11/2008.
14. Luật sở hữu trí tuệ 2005.
15. Quyết định số 07/2005/QĐ - BTS của Bộ trưởng Bộ thủy sản về việc
ban hành danh mực hóa chất, kháng sinh cấm và hạn chế sử dựng trong
Tài liệu trên các website
sản xuất, kinh doanh thủy sản.
Ì. Báo Đầu Tư trực thuộc Bộ Ke hoạch và Đầu tư, Nghiên cồu đặc tính
tiêu dùng tại £ơ(đăng 24/06/2009),
http://www.vir.com.vn/Client/Dautu/dautu.asp?CatID= Ị 5&DocID= Ị 89
48
2. Cổng thương mại điện tử quốc gia - Bộ Công thương, Đãng ký nhãn
hiệu Cộng đồng (CTM) (truy cập 15/03/2010),
http://www.ecvn.com/ROOTSYS/book/anyone/Hoidapdangkvnhanhieu
taithitruongEU/DangKyCTM.html
87
3. Công ty TNHN thủy sản Mai Sao (đăng 07/01/2003), Kiểm soát chặt
dư lượng kháng sinh trong thủy sản,
http://www.maisao.com/detail.asp7icH186
4. Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (tải xuống 11/04/2010), số liệu thống kê
Nhãn hiệu hàng hóa,
http://www.noip.gov.vn/noip/cms vn.nsf/vwDisplavContentNews/969
8D92E9FD97E5C4725768D0034A8BF?OpenDocument
5. Dự án hỗ trợ thương mại đa biên Việt Nam - EU, Vượt qua rào cản
SPS để đẩy mạnh xuất khẩu sang Liên minh châu Au (đăng
10/03/2010),
http://www.mutrap.org.vn/Lists/Posts/Post.aspx?List=5276b79d-4e3a-
4c5b-a2ad-c903807cc7ea&ID=387
6. Dự án hỗ trợ thương mại đa biên EU - Việt Nam (đăng 12/07/2009),
Khó khăn của doanh nghiệp xuât khâu sang EU,
http://www.mutrap.org.vn/Lists/Posts/Post,aspx?List=5276b79d-4e3a-
4c5b-a2ad-c903 807cc7ea&ID=287
7. Đăng kỷ thương hiệu ở nước ngoài theo cách nào? (đăng 23/04/2008),
http://www.vietnambranding,com/thonạ-tin/phong-su-thuonạ-
hieu/4040/danạ-ky-thuong-hieu-o-nuoc-ngoai-theo-cach-nao
8. Đầu tư Chứng khoán điện tử - Báo Đầu tư trực thuộc Bộ Ke hoạch và
Đầu tư (đăng ngày 06/05/2010), Thủy sản tự làm khó mình,
http://tinnhanhchungkhoan.vn/RC/N/CFCEEA/thuy-san-tu-lam-kho-
minh.html
9. Hiệp hội chế biến và xuất kh u thủy sản Việt Nam (truy cập ngày
10/04/2010), Bảo cáo về hoạt động kiêm soát chất lượng, an toàn vệ
sinh thực phàm trong sản xuất kinh doanh cá tra, basa tại Việt Nam
www.vasep.com.vn/vasep/., ./Kiem%20soat%20ca%20tra,pdf
88
10. Sở công thương Thái Bình (đăng 19/05/2008), Xuất khẩu sangEU
phải đăng ký hóa chất,
http://www.thaibinhtrade.gov.vn/default.aspx?ID=16&LangID=l&Ne
WSĨD=93 ì &PageNum= Ị 06
11. Sờ Khoa học và Công nghệ tỉnh Ben Tre (đăng 27/12/2006), Đăng kỷ
nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài: Việc cần làm ngay,
http://www.dost-bentre.gov.vn/chuyen-muc/so-huu-tri-tue/149-ng-ky-
nhan-hiu-hang-hoa--nc-ngoai-vic-cn-lam-ngay.html
12.SỞ Khoa học và Công nghệ tỉnh Hải Dương,ThS. Nguyễn Thị Yến
(truy cập 19/03/2010), Rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may,
http://www.haiduongdost.gov.vn/index.php7optiorFCom content&vie
w=article&id=1664:rao-cn-k-thut-i-vi-hang-dt-may&catid=236:thong-
tin-tbt&Itemid=214
13.Sở khoa học và công nghệ tỉnh An Giang (đăng 18/03/2008^, Phương
thức tránh mất nhãn hiệu,
http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:gdJHsZH77Z
MJ:sokhoahoccn.angiang.gov.vn/xemnoidung.asp%3Fmaidtt%3D4270
%2520%26page%3D122%26+,+mới+cỏ+156+nhãn+hiêu+của+Viêt+N
am+đươc+đãng+ký+và+nôp+đơn+theo+hê+thống+đăng+kv+ĩihãn+hiê
u+quốc+tế+theo+Madrid&cd=4&hl=vi&ct=clnk&gl=vn
14.Tổng quan về Liên minh châu Âu (truy cập 17/04/2010),
www.delvnm.ec.europa,eu/european union/euoverviewv.pdf
15.Tổng cợc tiêu chuẩn đo lường chất lượng (tải ngày 15/04/2010), Hiệp
định SPS,
http://portal.tcvn.vn/quangbinh/media/TBT/Hiep%20Dinh%20SPS.doc
20/05/2009), Yêu cầu về thâm nhập thị trường đối với gõ và sản phẩm
ló.Trang tin điện tử Cợc xúc tiến thương mại, Tạ Hoàng Lan (đăng
gô tại Anh,
89
http://www.vietrade.gov.vn/index.php7optioriecom content&view=arti
cle&id= Ị 84:veu-cau-ve-tham-nhap-thi-truong-doi-voi-go-va-san-
pham-go-tai-anh&catid=86:g-va-cac-sn-phm-t-g&Itemid=189
17.Trang tin điện tử Cục xúc tiến thương mại, Tạ Hoàng Lan (truy cập
20/03/2010), Yêu cầu thâm nhập thị trường đối với ảo khoác ngoài tại
Anh,
http://www.vietrade.gov.vn/index.php7optioiFCom content&view=arti
cle&id=464:veu-cau-ve-tham-nhap-thi-tmong-doi-voi-ao-khoac-ngoai-
tai-anh&catid= ĩ 55 :ao-khoac-ngoai&Itemid= Ị 89
18.Trang tin điện tử Cục xúc tiến thương mại, Trần Hoài Hương (2010),
Một số yêu cầu tiếp cận thị trường giày dép Anh — Phân ỉ,
http://www.vỉetrade.gov.vn/index.php?option=com content&view=arti
cle&id=l 186:mt-s-yeu-cu-tip-cn-th-trng-giay-dep-anh-
p Ị &catid=223 :da-giav-va-cac-sn-phm-t-da&Itemid= Ị 98
19. Trang tin điện tử Cục xúc tiến thương mại (đăng 05/11/2009), Yêu cầu
thâm nhập của một so thị trường xuất khấu da giầy chính —P.l,
http://www.vietrade.gov.vn/da-giay-va-cac-sn-phm-t-da/1009-yeu-cau-
tham-nhap-cua-mot-so-thi-truonẹ-xuat-khau-da-giay-chinh-p Ị .html
20.Trang thông tin của Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Vĩnh Long, Dư
lượng thuốc bảo vệ nông sản theo tiêu chuẩn GlobalGap của EU (tải
xuống 15/04/2010),
http://vinhlone.agroviet.gov.vn/index.asp?cat=2&con=l&bydate-&pag
e=l&lavID=2450
21 .Trung tâm Báo chí và Họp tác truyền thông Quốc tế (CPI) trực thuộc
Bộ thông tin và truyền thông (đăng 25/01/2002), Báo động tình trạng
thương hiệu bị đánh cáp ở M ,
http://vietbao.vn/Kinh-te/Bao-dong-tinh-trang-thuong-hieu-bi-danh-
cap-o-Mv/10756392/87/
90
22.Trung tâm Năng suất Việt Nam, TS. Phan Chí Anh Khoa (truy cập
27/03/2010), ISO 9000 và tác động tới kết quả hoạt động doanh nghiệp
Việt Nam,
http://www.vpc.vn/PortletBlank.aspx/DD2F3B7654B249C6A702E867
DD15B8Dl/View/Luan-dam-6-
09/ISO 9000 VA T ÁC DONG TOI K ÉT QUA H O ẠT DONG D
OANH NGHĨEP VIET NAM/?print=150185747
23 .Trung tâm Thông tin PTNNNT trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT
(đăng 24/09/2007), Tuyên chiến với nạn gian dối trong nuôi trồng thủy
sản, http://www.agro.gov.vn/news/newsdetail.asp?targetID=4570
24. Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về tiêu chuẩn đo
lường chất lượng (đăng 04/05/2010), Tây Ban Nha công bố một số lệnh
cảnh báo đối với hàng Việt Nam xuất sang EU,
http://www.tbtvn.org/Lists/Tin%20nng/DispFomiCustomize.aspx7List
=d9127cb8-f83c-45cc-95b2-fl536Sf57808&ID=863
25. Văn phòng luật sư Lê & Lê (đăng 07/05/2009), Tên gọi xuất xứ nước
mắm Phú Quốc nhiều khả năng sẽ bị từ chối đăng kỷ ở M , úc và Cộng
đồng châu Âu, http://www,lele.vn/vn/ip-news/l Ị 6-ten-goi-xuat-xu-
nuoc-mam-phu-quoc-nhieu-kha-nang-se-bi-tu-choi-dang-ky-o-my-uc-
Tài liệu tiếng Anh
va-cong-dong-chau-au
1. Regulation (ÉC) No 178/2002 of The European parliament and of The
Council of 28 January 2002 laying down the general principles and
requirements of food law, establishing the European Food Safety
Authority and laying down producers in matters of food safety,
http://ec.europa.eu/food/food/foodlaw/index en.htm
91
2. N ew rules ôn pesticide residues to strengthen food safety in European
Union, Ì September 2008,
http://europa.eu/rapid/pressReleasesAction.do?reference=IP/08/ĩ282&f
ormat=HTML&aged=Q&lanạuage"EN
3. Council Directive 85/374/EEC of 25 July 1985 ôn the approximation of
the laws, regulations and administrative provisions of the Member
States concerning liability for defective products,
http://europa,eu/legislation summaries/consumers/consumer safety/132
012 en.htm
92