ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

----------------------

LƯỜNG VĂN KIM ĐỒNG

NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG NHÓM CÂY:

(LONG NÃO, BÁCH XANH, SƯA ĐỎ, GÙ HƯƠNG, RE HƯƠNG)

TRONG VƯỜN THỰC VẬT CHUYỂN VỊ, TẠI MÔ HÌNH KHOA

LÂM NGHIỆP, TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ Đào Tạo : Chính quy

Chuyên Ngành : Quản Lý Tài Nguyên Rừng

Khoa : Lâm nghiệp

Khóa học : 2015 – 2019

Thái Nguyên - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

----------------------

LƯỜNG VĂN KIM ĐỒNG

NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG NHÓM CÂY:

(LONG NÃO, BÁCH XANH, SƯA ĐỎ, GÙ HƯƠNG, RE HƯƠNG)

TRONG VƯỜN THỰC VẬT CHUYỂN VỊ, TẠI MÔ HÌNH KHOA

LÂM NGHIỆP, TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ Đào Tạo : Chính quy

Chuyên Ngành : Quản Lý Tài Nguyên Rừng

Khoa : Lâm nghiệp

Khóa học : 2015 – 2019

Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS: Trần Quốc Hưng

Thái Nguyên - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng

dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Quốc Hưng

Các số liệu kết quả nghiên cứu trong khóa luận của tôi hoàn toàn

trung thực và chưa hề công bố hoặc sử dụng để bảo vệ học vị nào.

Nội dung khóa luận có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông

tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí,…đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng năm 2019

Giáo viên hướng dẫn Sinh viên

PGS.TS: Trần Quốc Hưng Lường Văn Kim Đồng

XÁC NHẬN CỦA GV CHẤM PHẢN BIỆN

Xác nhận đã sửa chữa sai sót sau khi Hội đồng đánh giá chấm

(Ký, họ và tên)

ii

LỜI CẢM ƠN

Thực hiện tốt nghiệp là một giai đoạn cần thiết và hết sức quan trọng

của mỗi sinh viên, đó là thời gian để sinh viên tiếp cận với thực tế, nhằm củng

cố và vận dụng kiến thức mà mình đã học được trong nhà trường. Được sự

nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường, giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm

khoa Lâm nghiệp – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, em tiến hành

thực hiện đề tài: “Nghiên cứu và đánh giá sinh trưởng một số loài cây bản

địa Long não, Bách xanh, Sưa đỏ, Gù hương, Re hương trong vườn thực

vật chuyển vị, tại mô hình khoa Lâm nghiệp, trường Đại học Nông Lâm

Thái Nguyên” Sau một thời gian nghiên cứu và thực tập tốt nghiệp, bản báo

cáo thực tập tốt nghiệp của em đã hoàn thành.

Vậy em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong

khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã giảng dạy và

hướng dẫn chúng em.

Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS Trần

Quốc Hưng đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài.

Em xin cảm ơn nhà trường và khoa Lâm nghiệp đã tạo điều kiện giúp

em trong quá trình thực tập để hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này.

Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn động viên

giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019

Sinh viên

Lường Văn Kim Đồng

iii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Đo D00. Đơn vị (cm) .................................................................................... 33

Bảng 3.2: Đo Hvn. Đơn vị (cm) .................................................................................. 33

Bảng 4.1: Tỷ lệ sống của 5 loài cây bản địa trong mô hình ................................. 35

vườn cây bản địa ............................................................................................................. 35

Bảng 4.2: Sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa trong

mô hình vườn cây bản địa ............................................................................................. 37

Bảng 4.3. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Long não .............................. 40

Bảng 4.4. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Sưa đỏ .................................. 41

Bảng 4.5. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Re hương ............................. 42

Bảng 4.6: Sinh trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình ...... 43

Bảng 4.7. Sinh trưởng về chiều cao của cây Long não ......................................... 46

Bảng 4.8. Sinh trưởng về chiều cao của cây Sưa đỏ .............................................. 47

Bảng 4.9. Sinh trưởng về chiều cao của cây Re hương ......................................... 48

iv

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1 cây Long Não ................................................................................... 23

Hình 2.2 Cây bách xanh .................................................................................. 26

Hình 2.3 Cây Sưa đỏ ....................................................................................... 27

Hình 2.4 Cây Gù hương .................................................................................. 28

Hình 2.5 cây Re hương ................................................................................... 29

Hình 4.1: Sơ đồ thể hiện đường kính D(oo) của 5 loài cây bản địa ............... 36

Hình 4.2: Sơ đồ thể hiện chiều cao H(vn) của 5 loài cây bản địa ................... 44

v

DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT

STT Viết tắt Nghĩa đầy đủ

Đường kính gốc 1 D00

Chiều cao vút ngọn 2 Hvn

Sai tiêu chuẩn 3 S

Hệ số biến động 4 S%

Trung bình 5 TB

Long não 6 Ca

Bách xanh 7 Cm

Sưa đỏ 8 Dt

Gù Hương 9 Ba

Re hương 10 Pa

vi

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii

DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ iii

DANH MỤC HÌNH .................................................................................................. iv

DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT ........................................................................... v

MỤC LỤC ................................................................................................................. vi

MỤC LỤC

PHẦN 1.MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1

1.1. Đặt vấn đề ............................................................................................................ 1

1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài ............................................................................. 3

1.2.1. Mục tiêu ............................................................................................................ 3

1.2.2. Yêu cầu .............................................................................................................. 3

1.3. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................................. 3

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập ........................................................................................ 3

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất ................................................................................. 3

PHẦN 2.TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU ................................................................... 4

2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu ................................................................ 4

2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ............................................... 5

2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới .................................................................... 5

2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................... 12

2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu .......................................................................... 22

2.3.1. Đất đai ............................................................................................................. 22

2.3.2. Đặc điểm khí hậu, thời tiết .............................................................................. 23

2.3. Khái quát chung về đặc điểm sinh thái của các loài cây nghiên cứu: ................ 23

2.3.1 Long Não (Cinnamomum camphora) .............................................................. 23

2.3.2 Bách Xanh (Calocedrus Macrolepis) .............................................................. 25

2.3.3. Sưa Đỏ (Dalbergia Tonkinensis Prain) .......................................................... 27

2.3.4. Gù Hương (Cinnamomum balansae, Lecomte) ............................................. 28

vii

2.3.5 . Re Hương (Cinnamomum parthenoxylon) ..................................................... 29

PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..... 31

3.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ................................................... 31

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................... 31

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 31

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ...................................................................... 31

3.3. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 31

3.4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 31

3.4.1. Nghiên cứu sinh trưởng ................................................................................... 31

3.4.3. Xử lý số liệu .................................................................................................... 33

PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ...................................... 35

4.1. Đánh giá tình hình sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng

trong mô hình vườn cây bản địa tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên ......... 35

4.1.1. Kết quả tỷ lệ sống của 5 loài ........................................................................... 35

4.1.2. Kết quả sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa

trong mô hình vườn cây bản địa ................................................................................ 36

4.1.3. Kết quả đặc điểm sinh trưởng chiều cao của 5 loài cây bản địa

trong mô hình vườn cây bản địa ................................................................................ 42

4.3. Hoàn thiện các bước trong xây dựng mô hình vườn cây bản địa

tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên ............................................................. 49

4.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm mục đích phát triển

mô hình vườn cây bản địa ......................................................................................... 52

4.4.1. Về kỹ thuật ...................................................................................................... 52

4.4.2. Giải pháp ......................................................................................................... 53

PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................. 56

5.1. Kết luận .............................................................................................................. 56

5.2. Kiến nghị ............................................................................................................ 57

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 58

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 61

1

PHẦN 1

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Rừng là tài nguyên nguyên vô cùng quý giá đối với nước ta. Ngoài đem

lại giá trị về gỗ và lâm sản ngoài gỗ, rừng là yếu tố địa lý không thể thiếu

trong tự nhiên điều hòa khí hậu bảo vệ đất đai chống xói mòn. Chính vì vậy

rừng không chỉ có chức năng kinh tế - xã hội, mà rừng còn mang giá trị sinh

thái cảnh quan, bảo vệ môi trường, du lịch, bảo tồn…

Mặc dù thời gian đã có những nỗ lực không ngừng của các cấp các

ngành trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng nhưng nhìn chung kết quả đạt

được chưa toàn diện, thiếu vững chắc .Tình trạng phá rừng khai thác và sử

dụng đất lâm nghiệp trái phép vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt ở các địa

phương còn nhiều rừng tự nhiên .Nhiều băng nhóm phá rừng chuyên nghiệp

,đường dây buôn bán lâm sản chưa được theo dõi, phát hiện và bắt giữ kịp

thời.Nhiều điểm nóng về phá rừng nghiêm trọng kéo dài chưa được giả quyết

triệt để. Theo tổng cực lâm Nghiệp ( Bộ NN&PTNT) chỉ hơn 5 năm ( 2012-

2017), diện tích rừng tự nhiên bị mất do chuyển mục đích sử dụng rừng tại

các dự án được duyệt chiếm 89% tổng diện tích rừng giảm; còn lại là do phá

rừng trái pháp luật làm mất 11%.

Vấn đề bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng được coi là nhiệm vụ

trọng tâm trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.

Nhà nước đã có nhiều chương trình xúc tiến đẩy mạnh quá trình trồng rừng

phủ xanh đất trống đồi núi trọc và trồng rừng kinh tế với hiệu quả ban đầu

tương đối khả quan. Nhưng do chạy theo xu thế phát triển kinh tế, vốn đầu tư

còn` hạn chế nên các chương trình trồng rừng ở nước ta mới chỉ tập trung

vào các loài cây mọc nhanh như: Keo, Bạch đàn, Bồ đề,.v.v những loài cây

này

mới chỉ đáp ứng được mục tiêu kinh tế là chính, tính bền vững chưa cao.

2

Trong chiến lược phát triển Lâm nghiệp, ngành Lâm nghiệp đã chú trọng đến

việc bảo tồn và phát triển các loài cây bản địa đang ngày càng bị thu hẹp lại

về cả diện tích cũng như số loài do những hiểu biết về chúng ngày càng

nhiều. những lợi ích to lớn mà các loài cây bản địa mang lại, không chỉ đơn

thuần là cung cấp lâm đặc sản mà chúng còn là những loài cây "của tự

nhiên", có sự phát sinh và tiến hoá trong thời gian dài nên có khả năng thích

nghi cao với điều kiện nơi mọc và có tính bền vững cao, "thân thiện với môi

trường sinh thái".

Ngoài ra, chúng mang những ý nghĩa nhân văn to lớn trong đời sống

của các cộng đồng dân cư sống gần rừng, gắn liền với kiến thức bản địa và

phong tục tập quán của họ, do vậy việc đem gây trồng chúng cũng sẽ có

nhiều phần lợi hơn. Khoa Lâm Nghiệp Trường Đại Học Nông Lâm Thái

Nguyên đã tiến hành gây trồng mô hình trồng một số loài cây bản địa , Theo

đánh giá ban đầu, các mô hình này đã đạt được những thành công nhất định.

Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu định lượng cụ thể nào

nhằm đánh giá tình hình sinh trưởng của các loài cây bản địa này mà mới chỉ

có điều tra sơ bộ để đánh giá và chọn ra một số loài có triển vọng tại khu

rừng trồng. Trước những thực trạng trên, để bảo vệ hợp lý tài nguyên rừng

nói chung và một số loài cây bản địa nói riêng, để nâng cao hiệu quả bảo tồn

một số loài cây bản địa tại mô hình trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên,

việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu và đánh giá sinh trưởng một số loài cây

bản địa Long não, Bách xanh, Sưa đỏ, Gù hương, Re hương trong vườn

thực vật chuyển vị, tại mô hình khoa Lâm nghiệp, trường Đại học Nông

Lâm Thái Nguyên” là thực sự cần thiết để đưa ra những đánh giá, giải pháp

phù hợp trong việc phát triển, bảo vệ các loài cây bản địa hiệu quả.

3

1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài

1.2.1. Mục tiêu

Nghiên cứu xây dựng và tạo ra mô hình rừng cây bản địa, nhằm mục

đích tạo cảnh quan sinh thái và vườn thực vật cây bản địa, tại trường Đại học

Nông Lâm Thái Nguyên.

1.2.2. Yêu cầu

Đề xuất được một số biện pháp kỹ thuật trồng các loài cây bản địa trong

việc nhân rộng địa bàn trồng của vườn thực vật đến nhiều nơi khác nữa.

1.3. Ý nghĩa của đề tài

1.3.1. Ý nghĩa trong học tập

- Giúp củng cố lại kiến thức đã học, có thêm cơ hội kiểm chứng những

lý thuyết đã học trong nhà trường đúng theo phương châm học đi đôi với hành.

- Tích lũy thêm được nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tế trong

việc nghiên cứu xây dựng và tạo ra mô hình rừng cây bản địa. Đây là những

kiến thức rất cần cho quá trình nghiên cứu, học tập và làm việc sau này.

1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất

Kết quả nghiên cứu góp phần lựa chọn được một vài loài cây như:

Long não, Bách xanh, Sưa đỏ, Gù hương, Re hương tốt nhất để đưa vào mô

hình tạo cảnh quan sinh thái và vườn thực vật cây bản địa cho trường Đại học

Nông Lâm Thái Nguyên.

4

PHẦN 2

TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu

- Đánh giá sinh trưởng cây rừng nói chung và đánh giá sinh trưởng các

loài cây bản địa nói riêng là nội dung rất quan trọng, cần thiết trong việc gây

trồng ở địa điểm mới, nhằm đưa ra được kết quả chúng có phù hợp với khu

vực để đưa các loài cây này vào công tác xây dựng vườn thực vật và đồng

thời mở rộng diện tích và cả quy mô. Đánh giá tỷ lệ sống và sinh trưởng của

các loài cây bản địa trong vườn thực vật chuyển vị, tại mô hình khoa Lâm

nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

- Vườn thực vật chuyển vị nơi chứa đựng rất nhiều loài cây quý hiếm và

có tên trong các danh lục đỏ hay nghị định đang đứng trên bờ vực nguy hiểm,

với mục đích bảo tồn về nguồn gen và xây dựng nơi nghiên cứu khoa học cho

mọi người thì việc xây dựng vườn thực vật rất cần thiết với thực trạng hiện nay.

- Khái niệm về biện pháp chuyển vị: Là một trong những biện pháp

quan trọng và có hiệu quả trong bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học. Biện

pháp bảo tồn ngoại vi là chuyển dời và bảo tồn các loài hoặc các nguyên liệu

sinh học của chúng trong môi trường mới không phải là nơi cư trú tự nhiên

vốn có của chúng. Bảo tồn ngoại vi bao gồm bảo quản giống, loài, nuôi cấy

mô, thu thập các cây để trồng và các loài động vật để nuôi nhằm duy trì vốn

gen quý hiếm cho việc nghiên cứu khoa học, nâng cao dân trí và giáo dục

lòng yêu thiên nhiên cho mọi tầng lớp nhân dân.

- Trên cơ sở đang xây dựng 1 vườn thực vật trong mô hình khoa Lâm

nghiệp giống như hình thành 1 tế bào nhỏ và sẽ nuôi tế bào ấy lớn mạnh theo

thời gian để các loài cây bản địa luôn được giữ và bảo tồn. Đó cũng là 1

trong những mục tiêu để phát triển rừng một cách bền vững. Các vườn thực

5

vật loài cây bản địa hiện đang được chú trọng và xây dựng nhiều trên thế giới,

cũng như Việt Nam không phải ngoại lệ, điều đó chứng minh con người ngày

càng quan tâm đến thiên nhiên, quan tâm đến sự hài hòa của cuộc sống. Mô

hình vườn thực vật chuyển vị tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên là

một ví dụ điển hình cho vườn thực vật bảo tồn các loài cây bản địa, đồng thời

lồng ghép giúp sinh viên có nơi học tập và nghiên cứu. Với mục tiêu sẽ là một

hạt mầm để nhân rộng đến các vùng lân cận nhằm phát triển ngày càng nhiều

các mô hình loài cây bản địa như vậy.

2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước

Do trồng rừng thuần loài đã bộc lộ nhiều nhược điểm nên nhiều nhà

khoa học trên thế giới đã quan tâm nghiên cứu nhằm tạo lập các lâm phần

rừng trồng hỗn loài bằng nhiều loài cây khác nhau trong đó đa số là sử dụng

cây bản địa. Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu thử nghiệm và trồng rừng

hỗn loài thành công bằng loài cây này. Sau đây là một số công trình nghiên

cứu điển hình

2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

*Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa:

Ở Kasma Forest Technology Centre (Nhật Bản) đã thiết lập hàng loạt

các mô hình rừng nhiều tầng tán bao gồm nhiều loài cây và ở nhiều cấp tuổi,

trồng ở một số mật độ khác nhau, đặc biệt ở vùng Tsucuba với độ cao dưới

876 m so với mực nước biển đã trồng loài cây Tuyết tùng (Japanese ceder) để

tạo ra các lâm phần bền vững có giá trị, các nhà nghiên cứu ở đây nhận thấy

có ảnh hưởng lẫn nhau giữa các loài cây khi trồng rừng hỗn giao với nhau và

ảnh hưởng của môi trường tới từng loài cây trồng. Khi nghiên cứu về trồng

rừng hỗn loài, các tác giả trên đều cho rằng việc bố trí các loài cây trong mô

hình rừng trồng hỗn loài thường có ảnh hưởng khá rõ tới sinh trưởng của

chúng tuỳ theo đặc điểm từng loài và cự ly trồng từng cá thể.

6

Tại Malaysia, năm 1999 trong dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã giới

thiệu cách thiết lập mô hình rừng hỗn loài trên 3 đối tượng: Rừng tự nhiên,

rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) 10 – 15 tuổi và 2 – 3 tuổi.

Dự án đã sử dụng 23 loài cây bản địa có giá trị, trồng theo băng 30m

trong rừng tự nhiên, trên mỗi băng người ta có thể trồng 6 hàng cây bản địa

và trồng 14 loài cây bản địa dưới tán rừng Keo tai tượng. Thí nghiệm đối với

rừng Keo tai tượng dự án chia thành 2 khu:

Khu chặt theo băng:

Mở băng 10m trồng 3 hàng cây bản địa;

Mở băng 20m trồng 7 hàng cây bản địa;

Mở băng 40m trồng 15 hàng cây bản địa;

Khu chặt theo hàng:

Chặt 1 hàng Keo trồng 1 hàng cây bản địa;

Chặt 2 hàng Keo trồng 2 hàng cây bản địa;

Chặt 4 hàng Keo trồng 4 hàng cây bản địa;…

Kết quả cho thấy, trong các loài cây bản địa được trồng trong các băng

có 3 loài cây gồm: Shorea roxburrghii; S.ovalis; S.leprosula có khả năng sinh

trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất. Tỷ lệ sống giữa các công thức

khôngkhác biệt, sinh trưởng chiều cao cây trồng trong băng 10m và băng

40m tốt hơn băng 20m. Kết quả thí nghiệm trồng theo hàng đã chỉ ra rằng

trồng 1 hàng cho tỷ lệ sống, khả năng sinh trưởng chiều cao cao hơn nơi

trồng từ 2 – 4 hàng. Về khả năng sinh trưởng đường kính lại tốt ở công thức

trồng 6 hàng và 16hàng. Dự án cònvạch ra kế hoạch điều chỉnh các công thức

trồng tại những thời điểm 2, 8, 12, 18, 28, 34, 41, 47 năm sau khi trồng (dẫn

theo Lê Minh Cường, 2007)[7].

Tại Bayern - Đức, Vân sam (Abies) trồng hỗn loài với Sồi (Terminalia

Catappa) có sản lượng cao hơn trồng thuần loài, nhưng ngược lại Sồi lại mọc

7

tốt hơn trong các quần thụ thuần loài. Hỗn giao của loài Bạch dương (Bulô)

với Vân sam đã nâng cao sản lượng lên từ 135-160% (dẫn theo Nguyễn Đức

Thế, 2007)[23]. Linh sam Douglas (Pseudotsuga menziesii) trong quần thụ

hỗn giao với Tuyết tùng đỏ (Cryptomeria Japonica) cũng đạt tới 217m3/ha,

so với các quần thụ thuần loài Linh sam Douglas chỉ đạt 203m3/ha và Tuyết

tùng đỏ cũng chỉ đạt 175m3/ha. Điều này chứng tỏ trồng hỗn loài có năng

suất cao hơn trồng thuần loài.

Tại Đan Mạch, thông qua nghiên cứu sinh trưởng của Jensen (1983)

cho thấy rằng Vân sam (Abies) trồng hỗn giao với Linh sam bạc (Abies alba)

có sản lượng cao hơn chính nó trồng thuần loài. Tương tự, Bulô hỗn giao với

Thông tốt hơn Bulô thuần loài. Hỗn giao giữa Betula pendula với Abies theo

tỷ lệ 25-50% đã làm tăng sản lượng của Abies ở tất cả các tuổi (dẫn theo

Nguyễn Đức Thế, 2007)[23].

Tại Costa Rica, ba kiểu rừng trồng, mỗi kiểu rừng trồng là hỗn giao

của 4 loài cây bản địa chịu bóng khác nhau trong vùng đất thấp ẩm ướt cho

thấy từ 2 - 4 6 năm tuổi, đường kính ngang ngực trong các quần thụ hỗn giao

lớn hơn trong các quần thụ thuần loài của những loài mọc nhanh (dẫn theo

Nguyễn Đức Thế, 2007)[23].

Một nghiên cứu khác tại Costa Rica, Haggar.J và J.Ewel (1995) đã

trồng hai loài cây Hyeronima alchorneoides và Cordia alliodora ở vùng đất

thấp theo hai phương thức khác nhau là thuần loài và hỗn loài. Các tác giả đã

nhận định rằng cả hai loài trồng hỗn giao với nhau đều sinh trưởng tốt hơn

trồng thuần loài. Hơn nữa, hai loài cây này trồng phối hợp với nhau khá thích

hợp. Bởi vì, sự phân bố của hệ thống rễ cũng như tán lá ở các vị trí khác nhau

trong không gian tạo nên sự phối hợp hỗ trợ lẫn nhau nhiều hơn là cạnh tranh

không gian dinh dưỡng. Cũng hai tác giả này, khi nghiên cứu về khả năng

sinh trưởng của loài Cordia alliodora trong rừng hỗn loài ở Costa Rica thì

8

thấy loài này sinh trưởng nhanh hơn so với các quần thụ thuần loài (7,9m

trong hỗn giao và 4,9m trong thuần loài ở giai đoạn 2 năm tuổi) (dẫn theo

Nguyễn Đức Thế, 2007)[23].

Tại Nga, G.S. A.A. Montanoop đã nghiên cứu sinh trưởng của loài Dẻ

với một số loài khác theo các băng có chiều rộng khác nhau 20m, 50m,

100m, 200m. Kết quả cho thấy Dẻ sinh trưởng ở băng 50m là tốt nhất.

Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu khác về trồng rừng dưới

tán, trồng theo băng, rạch với độ tàn che nhẹ và có sử dụng cây bản địa. Điển

hình ở các nước Nigieria, Congo, Camorun… đây là những công trình đã đạt

được nhiều thành công do lợi dụng được thảm che tự nhiên, chúng đã hỗ trợ

tốt cho cây bản địa trong giai đoạn đầu.

Nghiên cứu về lĩnh vực này điển hình là Mathew (1995)[29], ông đã

nghiên cứu tạo lập mô hình rừng trồng hỗn loài giữa cây thân gỗ với cây họ

đậu. Kết quả cho thấy cây họ đậu có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho cây trồng

chính. Ngoài việc xác định được loài cây phù trợ thì việc nghiên cứu các biện

pháp kỹ thuật điều chỉnh lâm phần rừng trồng hỗn loài theo quá trình sinh

trưởng cũng rất quan trọng. Các tác giả Ball, Wormald và Russo (1994) đã

tác động vào các lâm phần rừng trồng hỗn loài thông qua việc giảm bớt sự

cạnh tranh giữa các loài cây. Kết quả cho thấy, sau khi được tác động các

biện pháp tỉa cành, tỉa thưa thì các loài cây mục đích đã được tạo điều kiện

thuận lợi để sinh trưởng phát triển tốt hơn.

Không chỉ có vậy, khi nghiên cứu trồng rừng hỗn loài cũng cần lưu ý

đến cấu trúc tầng thứ. Vì thế, nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng cũng

đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Trong lĩnh vực này điển hình là tác

giả Bennar Dupuy (1995), tác giả cho thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng

trồng hỗn loài phụ thuộc vào đặc tính sinh học và tính hợp quần của các loài

cây trong trong lâm phần (dẫn theo Hoàng Văn Thắng, 2007)[21].

9

Điều này cho thấy, để tạo được các mô hình rừng trồng hỗn loài có

cấu trúc hợp lý, tận dụng được tối đa không gian dinh dưỡng thì cần phải dựa

vào khả năng sinh trưởng cũng như phải quan tâm đến mối quan hệ qua lại

giữa các loài cây để lựa chọn các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là cơ sở

quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của các mô hình rừng

trồng hỗn loài.

Tại Malaysia (1999) [30], trong dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã

giới thiệu cách thiết lập mô hình trồng rừng hỗn loại trên 3 đối tượng: Rừng

tự nhiên, rừng Acacia mangium 10 - 15 tuổi và 2 - 3 tuổi. Dự án đã sử dụng

23 loài cây bản địa có giá trị trồng theo băng 30 m mở ra trong rừng tự nhiên,

trồng 6 hàng cây. Trong rừng Acacia mangium mở băng 10 m trồng 3 hàng

cây, băng 20 m trồng 7 hàng cây, mở 40 m trồng 15 hàng cây với 14 loài

khối B chặt 1 hàng keo trồng 1 hàng, chặt 2 hàng trồng 2 hàng, chặt 4 hàng

trồng 4 hàng…. Trồng 3 loài sau khi chặt 5 năm, trồng 7 loài sau khi chặt 7

năm. Trong 14 loài cây trồng khối A, có 3 loài S. roxburrghii; S. ovanlis; S.

leprosula sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất. Tỉ lệ sống không

khác biệt, sinh trưởng chiều cao cây trồng tốt ở băng 10 m và băng 40 m.

Băng 20 m không thỏa mãn điều kiện sinh trưởng chiều cao. Khối B có tỷ lệ

sống, sinh trưởng chiều cao tốt khi trồng 1 hàng, sinh trưởng đường kính tốt

cho công thức trồng 6 và 6 hàng.

Kolexnitsenko (1997) khi nghiên cứu về sự phối hợp giữa các loài cây

gỗ trong trồng rừng hỗn loài đã đúc kết được 5 nguyên tắc lựa chọn loài cây

trồng, đó là:

• Nguyên tắc kinh nghiệm.

• Nguyên tắc kiểu lâm hình học.

• Nguyên tắc lý sinh.

• Nguyên tắc sinh vật dinh dưỡng

10

• Nguyên tắc cảm nhiễm tương hỗ.

Có thể nói đây là những nguyên tắc rất cơ bản và tương đối toàn diện

về các lĩnh vực của rừng trồng hỗn loài. Để xây dựng thành công các mô

hình rừng trồng hỗn loài cần phải dựa vào 5 nguyên tắc trên. Trong đó,

nguyên tắc cảm nhiễm tương hỗ là rất quan trọng và cần phải có thời gian dài

nghiên cứu. Nhìn chung, các nguyên tắc này phản ánh được mối quan hệ bên

trong và có tính chi phối tới sự tồn tại và sinh trưởng của các loài. Sự phân

loại theo đặc điểm hoạt hóa của chúng như kích thích, ức chế hoặc kìm hãm

quá trình sống thông qua ảnh hưởng của phitonxits là căn cứ để quyết định tỷ

lệ tổ thành các loài cây trong lâm phần hỗn loài. Nghiên cứu về vấn đề này

tác giả đã đề nghị mật độ loài cây trồng chính trong mô hình trồng rừng hỗn

loài không nên ít hơn 50%, loài cây hoạt hóa không nên quá 30 – 40%, loài

cây ức chế không quá 10 – 20% trong tổng số các loài cây được lựa chọn để

trồng[13].

Với đặc thù riêng của rừng nhiệt đới người ta thường tác động theo các

hướng sau (dẫn theo Hoàng Đức Doanh, 2007)[8]:

a. Hướng thứ nhất:

Từ những lâm phần rừng tự nhiên hỗn giao lá rộng, thông qua sự tác

động của những biện pháp kỹ thuật lâm sinh trở thành những lâm phần có

cấu trúc ít phức tạp. Ưu thế thuộc về một số loài cây có giá trị kinh tế, tuổi ít

chênh lệch nhau. Tại một số nước Châu Phi thuộc khu vực nói tiếng Pháp,

người ta sử dụng phương thức trồng dặm dưới tán theo kiểu quảng canh.

Fomy (1956) đã tóm tắt kinh nghiệm thu được về kiểu rừng trồng dặm và nêu

ra một số điểm cần thiết về kỹ thuật để đi đến thành công như sau:

1. Đặt cây theo khoảng cách hẹp, dọc trên rạch trồng để có được sự lựa

chọn về số cây cần giữ lại và hạ được chi phí về nhân công chăm sóc.

2 .Chỉ dùng những loài cây ưa sáng.

11

3. Thiết kế rạch trồng theo hướng Đông - Tây để tận dụng được tối đa

ánh sáng.

4. Phương pháp không đem lại hiệu quả gì nếu có thú lớn.

5. Không bao giờ đánh giá thấp sự cạnh tranh của rễ cây và bóng rợp ở

trên đầu và bên sườn.

b. Hướng thứ hai:

Thay thế hoàn toàn lâm phần cũ bằng lâm phần mới (phương pháp cải

tạo triệt để) đã được nhiều quốc gia áp dụng nhằm tạo diện tích rừng đều tuổi

thuần loài có giá trị kinh tế cao.

Theo tài liệu của Baur và Catino đã giới thiệu và đánh giá các phương

thức tái sinh rừng tự nhiên và nhân tạo ở Châu Phi, Ấn Độ và một số nước

Đông Nam Á đều đi đến kết luận rằng việc đưa cây rừng vào các thảm rừng

tự nhiên nhằm bổ xung tổ thành, nâng cao chất lượng rừng tùy thuộc vào

cách xử lý, điều kiện ánh sáng, xử lý các thảm rừng cũ một cách thích hợp

đối với đặc tính sinh thái của từng loài ở từng giai đoạn tuổi khác nhau mới

có thể đem lại hiệu quả (dẫn theo Hoàng Đức Doanh 2007)[8].

*Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây lá kim với cây bản địa

lá rộng

Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cây lá

kim phục vụ cho công tác trồng rừng như ở Anh, Pháp, Úc, Canada, Đan

Mạch…. Đa số các công trình tập trung chủ yếu là nghiên cứu các quy luật

phân bố, quy lụât tăng trưởng, cấu trúc, đặc tính cơ lý gỗ, một số tính chất lý

hoá học đất, tính chất hoá học của nhựa…Về trồng rừng hỗn loài giữa cây lá

kim và cây lá rộng bản địa đã có một số nước nghiên cứu về vấn đề này song

chưa nhiều.

Nghiên cứu trồng cây lá kim hỗn giao với cây bản địa điển hình là ở

Đài Loan và một số nước Châu Á. Sau khi trồng phủ xanh đất trống đồi núi

12

trọc bằng cây lá kim đã tiến hành gây trồng cây bản địa dưới tán. Kết quả cho

thấy đã tạo ra những mô hình rừng hỗn giao bền vững, đạt năng suất cao, có

tác dụng tốt trong việc bảo vệ chống xói mòn đất [21].

Tóm lại, các kết quả nghiên cứu về cây bản địa và trồng rừng hỗn loài

trên thế giới tuy chưa nhiều, song với những thông tin thu thập được về cách

lợi dụng độ tàn che tầng cây cao, cách sử dụng cây phù trợ và các phương

thức bố trí loài cây trong các mô hình thí nghiệm và với những thông tin về

tiểu hoàn cảnh rừng … là những tài liệu tham khảo và bài học kinh nghiệm

có giá trị.

2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

* Nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa:

Việt Nam là 1 quốc gia được đánh giá rất cao về tính đa dạng loài cả

trong khu vực cũng như trên Thế Giới. Nhất là hệ thực vật với khí hậu nhiệt

đới mưa ẩm đã tạo giúp cho Việt Nam có những khu rừng rộng lớn với nhiều

loài, nhưng do nhu cầu đáp ứng cuộc sống của chính chúng ta mà dẫn đến

suy thoái sự đa dạng này. Chính vì vậy, Nhà nước đã có nhiều chương trình

dự án hỗ trợ để xây dựng các vườn hỗn loài, khu bảo tồn nhằm bảo vệ được

tính đa dạng nguồn gen của những loài cây bản địa vừa phục vụ mục đích

học tập và nghiên cứu khoa học.

Trong giai đoạn 1930-1980 có rất ít các công trình nghiên cứu về rừng

trồng hỗn loài và nghiên cứu chọn loài cây trồng cũng chỉ tập trung cho một

số loài cây thuộc họ Dầu. Từ năm 1985 đến nay, việc nghiên cứu trồng rừng

hỗn loài bằng các loài cây bản địa được triển khai nhiều hơn kể cả số lượng

loài cây và diện tích rừng trồng. Trong giai đoạn này nhiều loài cây lá rộng

bản địa đã được lựa chọn để nghiên cứu cho các vùng sinh thái trong cả

nước. Các loài cây lá rộng bản địa được lựa chọn để nghiên cứu trồng rừng

hỗn loài chủ yếu là các loài có giá trị kinh tế cao.

13

Một số loài cây bản địa được lựa chọn cho vùng Tây nguyên và Nam

bộ như: Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Cẩm lai (Dalbergia oliveri), Căm xe

(Xylia xylocarpa), Tếch (Tectona grandis) ... và được trồng chủ yếu tại các

trạm thực nghiệm Trảng Bom tỉnh Đồng Nai, Lang Lanh và Măng Linh tỉnh

Lâm Đồng, Ekmat tỉnh Đắc Lắc, Tân Tạo Thành Phố Hồ Chí Minh. Ở miền

Bắc, các loài cây chủ yếu được lựa chọn để trồng rừng hỗn loài là Lim xanh

(Erythurophleum fordii), Lim xẹt (Peltophorum tonkinnensis), Giổi xanh

(Mechelia mediocris), Re gừng (Cinamomum ilcidioides), Mỡ (Manglietia

conifera), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Lát hoa (Chukrasia tabularis), Ràng

ràng mít (Ormosia balansae), Xoan đào (Prunus arborea), Vạng trứng

(Endospermum chinense) ...

Trần Ngũ Phương (2000) [19], cũng đã nghiên cứu xây dựng các mô

hình trồng rừng hỗn loài tạo ra rừng nhiều tầng tán nhằm mục đích cho

phòng hộ và sản xuất thông qua các phương thức hỗn loài khác nhau nhờ hỗn

loài giữa cây cao với cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ kết

quả của các công trình nghiên cứu các quy luật chủ yếu ở rừng tự nhiên ở

miền Bắc Việt Nam, tác giả đã chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nước ta đều

phân thành nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chưa kể tầng cây nhỡ và thảm

tươi. Dựa trên quy luật đó tác giả đã đề xuất mô hình trồng rừng hỗn loài đáp

ứng mục tiêu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó có 2 mô

hình hỗn loài nổi bật là mô hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng

và rừng sản xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.

Năm 1962, các nhà lâm học Học viện Nông lâm đã tiến hành thí

nghiệm trồng rừng hỗn loài, lấy cây Mỡ (Manglietia glauca) làm đối tượng

chính của rừng hỗn loài và dùng các loài cây bạn theo từng cặp: Mỡ

(Manglietia glauca) + Lim Xanh (Erythrophloeum); Mỡ (Manglietia glauca)

+ Xà cừ (Khay senegalensis), Mỡ (Manglietia glauca) + Tếch (Tectona

14

grandis). Mỗi loài trồng 1 hàng, hàng cách hàng 2m, cây cách cây 2m, kết

quả cho thấy Xà cừ và Tếch không thích hợp với phương thức trồng này nên

tốc độ sinh trưởng chậm và bị các loài cây khác cạnh tranh, cuối cùng chỉ còn

Mỡ thuần loài. Đối với Lim xanh, 2 năm đầu sinh trưởng kém, nhưng giai

đoạn tiếp theo Lim xanh phát triển chiều cao nhanh hơn, đến tuổi 10 – 12

Lim xanh đã vươn lên cùng tầng với Mỡ. Trần Nguyên Giảng đã nhận xét

rằng Lim xanh có khả năng trồng hỗn loài với Mỡ nhưng chưa tìm được tỷ lệ

thích hợp. Xét về mặt cải thiện đất, cây Lim xanh có thể là cây cải tạo đất

khá tốt, nhưng Xà cừ và Tếch thể hiện tác dụng này chưa rõ [4]

Nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996) [12], Nguyễn Ngọc Lung và Võ

Đại Hải (1996) [18], đã xây dựng 20 khu nghiên cứu định vị ở Tây Nguyên

dưới các dạng thảm thực vật có cấu trúc khác nhau. Đây là những công trình

nghiên cứu tương đối toàn diện về xói mòn đất rừng ở nước ta, đặc biệt là đã

làm rõ vai trò phòng hộ chống xói mòn và điều tiết nước của rừng. Các

nghiên cứu của Võ Đại Hải cho thấy khi giảm độ tàn che từ 0,7 - 0,8 xuống

mức 0,3 - 0,4 thì dòng chảy mặt tăng 30,4% đối với rừng tự nhiên và 33,8%

đối với rừng Le. Khi độ dốc tăng lên thì thì lượng dòng chảy cũng tăng lên.

Chẳng hạn khi độ dốc tăng lên 2 lần thì lượng dòng chảy mặt tăng lên 58,1%.

Từ năm 1980 trở lại đây, việc phục hồi rừng bằng các loài cây bản địa

lá rộng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Nổi bật là công trình

nghiên cứu phục hồi rừng vùng Sông Hiếu thông qua việc xây dựng cấu trúc

hỗn loài Lát hoa với một số loài cây khác của Nguyễn Bá Chất (1994)[4].

Tác giả đã trồng hỗn loài Lát hoa (Chukrasia tabularis) với một số loài cây lá

rộng bản địa như: Lim xẹt (Peltophorum tonkinense), Giổi xanh (Michelia

mediocris), Thôi chanh (Alangium barbatum), Lõi thọ (Gmelina Arborea),

Ràng ràng (Orosia Pinnata) nhằm tạo được một cấu trúc rừng hợp lý. Mô

hình này được theo dõi đến năm thứ 10 kết quả cho thấy khả năng sinh

trưởng rừng Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn rừng Lát hoa trồng thuần loài .

15

Nguyễn Bá Chất (1996) đã nhận thấy việc chọn loài phối hợp với Lát

hoa đang còn khoảng trống cơ sở lý luận và thực tiễn. Thí nghiệm trồng hỗn

giao Lát hoa với các loài Trai (Garcinia fagraeo), Nghiến (Burretiodendron

13 tonkinense), Bứa (Garcinia oblongifolia)… ở tuổi 5 chưa thấy có ảnh

hưởng đến sinh trưởng của Lát hoa [4].

Khi đánh giá một số mô hình trồng rừng hỗn loài giữa cây bản địa với

Keo tai tượng ở các tỉnh phía Bắc, Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) đã

có nhận xét rằng hầu hết cây trồng chính trong các mô hình rừng hỗn loài đều

đã và đang bị cây phù trợ (Keo tai tượng) lấn át mạnh. Nhưng đối với mô

hình trồng rừng hỗn loài trong nghiên cứu đã điều chỉnh được cây phù trợ kịp

thời nên bước đầu đã tạo điều kiện cho cây trồng chính sinh trưởng tốt, tỷ lệ

sống cao từ 80 – 93%. Tỷ lệ sống chung cho cả lâm phần đạt trên 90%. Tác

giả còn đề xuất được 2 mô hình có triển vọng nhất đó là mô hình trồng hỗn

loài với thảm che Keo tai tượng 7 tuổi ở Ngọc Lặc - Thanh hóa và mô hình

trồn hỗn loài với cây phù trợ Keo tai tượng trồng trước 1 năm ở Cầu Hai –

Phú Thọ[22].

Nguyễn Thế Hưng (2008)[14], đã cho thấy khả năng giữ nước của các

thảm thực vật giảm dần từ thảm cây bụi cao đến rừng trồng Keo, rừng trồng

Bạch đàn và thấp nhất là thảm cây bụi thấp, với tổng lượng nước hàng năm

giữ được trong các thảm thực vật tương ứng là 988,97 tấn/ha, 639,07 tấn/ha,

724,58 tấn/ha và 660,62 tấn/ha.

Khi nghiên cứu trồng rừng hỗn loài giữa các loài cây lá rộng bản địa

với cây ngoại nhập (Eucalyptus urophylla) ở Đoan Hùng – Phú Thọ, Nguyễn

Đức Thế (2007)[23] đã cho thấy cây Giổi xanh (Michelia mediocris) trồng

xen với Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) có khả năng sinh trưởng cao gấp

1,5 lần so với trồng thuần loài.

Ngoài các công trình nghiên cứu tạo lập các lâm phần rừng trồng hỗn

loài bằng các loài cây lá rộng còn có một số công trình nghiên cứu tạo ra

16

rừng hỗn loài giữa cây lá kim với cây lá rộng, giữa các loài cây ngoại nhập

với nhau. Điển hình là công trình nghiên cứu của Phùng Ngọc Lan

(1986)[16] đã cho thấy rừng hỗn loài ở Núi Luốt (Trường Đại học Lâm

nghiệp – Xuân Mai) giữa Thông đuôi ngựa với Keo lá tràm (Acacia

auriculiformis) và Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis) theo các tỷ lệ,

mật độ, phương thức, thời điểm khác nhau. Kết quả cho thấy sau 2 năm sinh

trưởng của Thông trồng hỗn loài tốt hơn so với Thông trồng thuần loài. Tỷ lệ

hỗn giao chưa có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của Thông trên các công

thức thí nghiệm. Đất dưới tán rừng được cải thiện tốt hơn, giun đất phát triển

nhiều hơn so với nơi trồng thuần loài. Điều này chứng tỏ đất dước các mô

hình trồng rừng hỗn loài thì các tính chất của đất đã được cải thiện rõ rệt. Với

thí nghiệm trên sau 2 năm, kết quả cho thấy khả năng sinh trưởng chiều cao

của Thông trồng thuần loài đạt 2,53m trong khi đó chiều cao Thông được

trồng hỗn loài với Keo theo tỷ lệ 1:1 là 2,8m và tỷ lệ 1:2 là 2,72m. Sinh

trưởng đường kính của Thông trồng hỗn loài với Keo theo tỷ lệ 2:1 cũng lớn

hơn và nhanh hơn.

* Các nghiên cứu về trồng cây bản địa:

Do giá trị của cây bản địa ngày càng được đánh giá cao trong khi nhiều

khu rừng đã được khuyến khích trồng. Đòi hỏi chúng ta phải tìm ra được loại

cây ưu thế hơn, sinh trưởng nhanh và phải bảo vệ được môi trường sinh thái.

Trong những năm gần đây, đã có nhiều tác giả đi sau nghiên cứu bảo tồn và

phát triển một số loài cây bản địa ở Việt Nam.

Phạm Xuân Hoàn (2002) [13] đã đề xuất 10 loài cây bản địa gồm: Gội

trắng (Aphanamixis grandifolia), Re hương (Cinnamomum iners), Nhội

(Bischofia trifoliate), Trám (Cinnamomum sp), Sấu (Dracontomelon

duperreanum), Lát hoa (Chukrasia tabularis), Lim xanh (Erythrophloeum),

Lim xẹt (Peltophorum tonkinense), Dẻ (Castanopsis) và Kim giao

(Podocarpus fleurgi) để trồng dưới tán các lâm phần Keo lá tràm (A.

17

auriculiformis) và Keo tai tượng (A. mangium) ở Vườn quốc gia Cát Bà - Hải

Phòng theo phương thức trồng hỗn giao theo hàng. Tác giả đã nhận thấy rằng

dưới tán rừng Keo tai tượng các loài cây bản địa sinh trưởng kém hơn dưới

tán rừng Keo lá tràm. Tỷ lệ sống của các loài cây bản địa trồng hỗn giao dưới

tán Keo tai tượng đạt 79,1%, thậm chí loài Sấu chết hoàn toàn. Trong khi đó,

ở dưới tán Keo lá tràm tỷ lệ sống đạt tới 95,3%. Lượng tăng trưởng thường

xuyên và tăng trưởng bình quân của cây bản địa dưới tán Keo lá tràm cũng

cao hơn so với dưới tán rừng Keo tai tượng. Ví dụ như Gội trắng có lượng

tăng trưởng bình quân về đường kính gốc 0,61cm, tăng trưởng bình quân về

chiều cao vút ngọn đạt 0,45m và tăng trưởng đường kính tán lá đạt 0,8 m.

Tác giả cho rằng tầng cây cao là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng

đến khả năng sinh trưởng và phát triển của các loài cây bản địa trồng dưới

tán. Hoàng Vũ Thơ (1998) [15]cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số

nhân tố sinh thái đến sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythrophloeum) trồng

dưới tán rừng, kết quả cho thấy Lim xanh sinh trưởng tốt nhất ở độ tàn che

tầng cây cao từ 0,1- 0,4 .

Nguyễn Minh Đức (1998) nghiên cứu sinh trưởng loài Lim xanh tại

vườn quốc gia Bến En – Thanh Hóa đã nhận xét: sự thay đổi cường độ ánh

sáng dẫn tới sự thay đổi nhiệt độ từ đó làm thay đổi ẩm độ dưới tán rừng và

điều này có ảnh hưởng đến sinh trưởng 12 của cây rừng đặc biệt là cây tái

sinh [10].

Nguyễn Đức Thế (2007)[23] đã nghiên cứu 10 loài cây bản địa dưới

tán rừng Keo lá tràm (A. auriculiformis) và Keo tai tượng (A. mangium) tại

Vườn quốc gia Cát Bà. Kết quả thấy rằng sau một năm trồng các loài cây bản

địa bước đầu sinh trưởng tương đối tốt, nhưng sang năm thứ 2 thì cây trồng

dưới tán rừng Keo lá tràm sinh trưởng tốt hơn trồng dưới tán rừng Keo tai tượng.

Lê Anh Tuấn (1999) đã nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu kỹ thuật gây

trồng và sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng thử nghiệm tại Vườn

18

thực vật - Vườn Quốc gia Cúc Phương”. Kết quả tìm ra một số loài có sinh

trưởng nhanh như Tai Chua, Chò đãi, Trầm hương [24].

Việt Nam là một nước đa dạng về hệ thực vật, song đó là sự khai thác

các loài thực vật cũng rất lớn đã đẩy sự đa dạng của Việt Nam đang giảm

dần, vì vậy nhà nước cũng đẩy mạnh việc xây dựng mới các vườn thực vật

hoặc bổ sung mở rộng diện tích các vườn thực vật đã được xây dựng từ lâu

như Thảo cầm viên xây dựng từ năm 1864, Thảo Cầm Viên có 1800 cây gỗ

thuộc 260 loài, không những thực vật mà còn có cả động vật khoảng 26 loài

với diện tích hiện nay khoảng 17 hecta. Bên cạnh đó thì một số vườn thực vật

được xây dựng ngay trong các khu bảo tồn vừa phục vụ bảo tồn lại vừa lồng

ghép tham quan giải trí, giáo dục đem lại nguồn kinh tế ví dụ như vào năm

2012 vườn thực vật tại thôn Cà Đâng, xã Tà Bhinh diện tích xây dựng vườn

thực vật này khoảng 50,3 ha trên khu đất nương rẫy trồng cây hàng năm.

Vườn thực vật Phong Nha - Kẻ Bàng có diện tích trên 40ha.

Cùng với đó chúng ta đã xây dựng các vườn thực vật ngay trong

trường giúp học sinh-sinh viên có nơi học tập ngoài giờ lý thuyết khô khan,

tất nhiên đồng thời vẫn có thể bảo tồn các loài thực vật như vào năm 2008

trường tiểu học Lương Thế Vinh (Thủ Đức) có diện tích khoảng 300m2 với

hơn 100 các loại cây và các trường tiểu học khác gần vùng lân cận trong địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh. Dù trên thế giới hay trong nước thì sự cấp thiết

của việc bảo tồn các loài thực vật đang có nguy cơ tuyệt chủng là việc cấp

bách, bên cạnh đó ta có thể tạo nơi học tập nghiên cứu, tham quan giải trí cho

mọi người với thực trạng hiện nay thì việc xây dựng thêm các vườn thực vật

đảm bảo cho việc bảo tồn, tăng sự đa dạng sinh học, và hoàn toàn có thể thu

được nguồn lợi từ các vườn thực vật như nguồn tri thức, kinh tế và rất nhiều

giá trị vô vàn nữa.

Trong những năm gần đây nhiều mô hình thử nghiệm trồng rừng hỗn

loài đã thu được những thành công nhất định. Điển hình là mô hình rừng ẩm

19

hỗn loài bằng các loài cây bản địa: Gội, Sấu, Trám, Lim xẹt…trên đất nương

rẫy trống trọc tại Vườn Quốc gia Cát Bà - Hải Phòng của Trần Nguyên Giảng

(1994 - 1998).

Công trình nghiên cứu xây dựng mô hình rừng trồng hỗn loài bằng các

loài cây lá rộng bản địa (Lim xanh, Re gừng, Trám trắng, Vạng trứng, Sồi

phảng và Giổi xanh) trên đất thoái hóa ở các tỉnh phía Bắc (Hoàng Văn

Thắng và cộng sự, 2000 - 2004).

Nguyễn Thanh Bình (2003) [3] đã đề cập đến một số đặc điểm lâm học

của loài Giổi ăn quả phục hồi tự nhiên ở Bắc Giang. Kết quả nghiên cứu đã đưa

ra được những đặc điểm về hình thái, vật hậu, phân bố, cấu trúc tái sinh tự

nhiên của loài, tác giả cho rằng phân bố N/H và D/H đều có chung một đỉnh.

Lâm Phúc Cố (1995) khi nghiên cứu một số loài cây bản địa được chọn

trồng rừng phòng hộ đầu nguồn Sông Đà ở Púng Luông, Mù Cang Chải đã

chọn được 4 loài cây bản địa là: Pơ mu (Fokieniahodginsic Henry et thomas),

Tô Hạp Hương (Altingia takhtadjanii), Giổi (Tahauma Gioi A. Chev) và cây

Song Mật (Calamus ealusetris) có thể trồng làm giàu rừng theo phương thức

trồng xen dưới tán hay làm giàu rừng theo băng [6]

Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus

massoniana Lamb) Thực tế đã chứng minh rằng rừng trồng thuần loài, nhất là

rừng trồng một số loài Thông ở nước ta trong những năm qua rất kém bền

vững, dịch sâu róm thông thường xuyên xuất hiện không những hạn chế sinh

trưởng và khả năng cung cấp nhựa mà còn làm ảnh hưởng đến môi trường

sinh thái khá rõ cụ thể như:

Từ năm 1937 sâu róm thông đã phá hoại mạnh trên nhiều diện tích

trồng Thông thuộc dẫy núi Nham Biền (Yên Dũng - Bắc Giang). Tháng 8 -

1958 sâu róm thông phá hại nghiêm trọng ở Phú Nham, Phú Điền, Sơn Viện

thuộc tỉnh Thanh Hoá, diện tích bị sâu ăn trụi lá Thông khoảng gần 100 ha.

Năm 1958 và 1959 ở Bắc Giang, sâu róm thông lại phát dịch đã gây hại 160

20

ha rừng Thông đuôi ngựa tại dãy núi Neo thuộc huyện Yên Dũng, sâu còn ăn

cả cây con mới đem trồng được 2 năm, làm thiệt hại khá nhiều cho công tác

trồng rừng nơi đây. Từ năm 1959 - 1960 ở Nghệ An đã phát sinh nạn dịch

sâu róm thông rất lớn làm trụi 515 ha rừng Thông. Không chỉ có sâu hại

thông mà còn thường xảy ra các loại bệnh dịch nguy hiểm như: Bệnh khô

xám thông, bệnh rơm lá thông, bệnh khô ngọn thông… đã gây ảnh hưởng

nghiêm trọng đến hàng ngàn ha rừng và sản xuất lâm nghiệp ở nước ta [2].

Để khắc phục vấn đề này, gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu

trồng một số loài cây bản địa dưới tán rừng Thông nhằm chuyển hóa rừng

Thông thuần loài thành rừng hỗn loài, điển hình là một số công trình nghiên

cứu sau đây:

Tại Núi Luốt – Đại học Lâm Nghiệp – Xuân Mai, Phạm Xuân Hoàn

(2002)[13] đã nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông đuôi

ngựa và Keo lá tràm. Hai loài cây này được sử dụng để tạo lập hoàn cảnh ban

đầu từ năm 1985, khi độ tàn che của rừng đạt 0,7 – 0,8 vào các năm 1990 –

1991 thì các loài cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng. Tại khu thực

nghiệm này, số loài cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng Keo và

Thông là 165 loài khác nhau. Dưới tán rừng Thông trồng gồm 27 loài, dưới

tán rừng Keo trồng gồm 21 loài, số còn lại được trồng dưới tán rừng hỗn loài

Thông – Keo lá tràm, Thông – Keo tai tượng và Bạch đàn…Kết quả sau 10

năm trồng cây bản địa dưới tán cho thấy tỷ lệ sống của cây bản địa dưới tán

rừng Thông đạt 93,2% và dưới tán rừng Keo lá tràm đạt 91,2%. Tăng trưởng

thường xuyên và tăng trưởng bình quân của cây bản địa có sự phân hóa rõ rệt

ở các loài. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là một số loài cây thường được đánh

giá là sinh trưởng chậm như Đinh thối, Re hương, Lim xanh, Sưa…nhưng ở

giai đoạn chịu bóng dưới tán rừng Thông và Keo lại có tăng trưởng khá

nhanh, cụ thể là: Re hương có ZDoo = 0,5cm, ZHvn = 0,5m, ZDt = 0,2m;

Lim xanh có ZDoo = 0,5cm, ZHvn = 0,45m, ZDt = 0,15m. Tác giả còn nhận

xét khả năng sinh trưởng và phát triển các loài cây bản địa trên chịu sự chi

21

phối, ảnh hưởng rất lớn của các nhân tố độ tàn che của tầng cây cao (giai

đoạn chịu bóng…), cường độ ánh sáng, đất đai... Cũng tại Trường Đại Học

Lâm nghiệp - Xuân Mai đã xây dựng vườn thực vật với gần 300 loài cây bản

địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus massoniana), và Keo tai tượng

(A. mangium). Sau nhiều năm nghiên cứu đã tìm ra một số loài cây thích hợp

trồng dưới tán rừng như: Đinh thối (Fernandoa brilletii), Máu chó (Knema

pierrei), Tai chua (Garcinia cowa), Re hương (Cinnamomun camphora)…

Ngoài ra, ở đây cũng đã xác định đượcmột số loài không thích nghi trồng

dưới tán rừng Thông mã vĩ (dẫn theo Lê Minh Cường, 2007)[7]. Nghiên cứu

về đặc điểm sinh lý, sinh thái của một số loài cây gỗ bản địa trồng dưới tán

rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm tại Núi Luốt – Trường Đại học Lâm

Nghiệp - Xuân Mai,

Đỗ Thị Quế Lâm (2003) cũng đã nhận định các loài Lim xanh

(Erythrophloeum fordii), Re hương (Cinnamomum iners), Đinh thối (F.

brilletii) có khả năng sinh trưởng tương đối tốt ở giai đoạn chịu bóng. Tuy

nhiên, trong từng giai đoạn khác nhau yêu cầu về độ tàn che cũng khác nhau.

Tại khu vực nghiên cứu, loài Lim xanh sinh trưởng thích hợp nhất ở độ tàn

che từ 0,47 - 0,52; loài Đinh thối sinh trưởng thích hợp nhất với độ tàn che từ

0,51 - 0,58; Re hương sinh trưởng tốt nhất với độ tàn che trong khoảng 0,48 -

0,52. Trong giai đoạn hiện nay, loài Lim xanh có nhu cầu về ánh sáng cao

nhất, sau đó đến Re hương, nhu cầu về ánh sáng của Đinh thối thấp nhất. Khi

nghiên cứu trồng cây bản địa dưới tán rừng Thông mã vĩ ở Đại Lải-Vĩnh

Phúc[17]. Lê Minh Cường (2007)[7] đã đề xuất được 3 loài cây bản địa có

triển vọng trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lamb) gồm:

Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Re hương (Cinnamomum iners Reinw) và

Sao đen (Hopea odorata Roxb). Trong đó, Lim xanh là loài cây có khả năng

sinh trưởng tốt nhất dưới tán rừng Thông mã vĩ. Đây là cơ sở có thể ứng

dụng cho những vùng có điều kiện sinh thái tương tự. Tóm lại, điểm qua các

công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ở trên đây cho thấy đã có

22

khá nhiều công trình nghiên cứu về trồng rừng hỗn giao, trồng rừng cây lá

rộng bản địa dưới tán rừng cây lá kim nói chung và rừng Thông mã vĩ nói

riêng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đã thực hiện trong hoàn

cảnh cụ thể khác nhau, loài cây bản địa khác nhau, kỹ thuật cũng có thể khác

nhau. Việc áp dụng trong hoàn cảnh cụ thể ở một địa phương nước ta cần

phải xem xét thận trọng hơn. Đặc biệt, trong các côngtrình nghiên cứu đã đề

cập ở trên còn 1 số tồn tại cần phải đặt ra để tiếp tục nghiên cứu như sau:

- Về giống cây bản địa và đặc điểm sinh thái của các loài như nhu cầu

ánh sánh, đất đai, dinh dưỡng, địa hình…

- Kỹ thuật gây trồng, tiêu chuẩn cây con khi trồng.

- Kỹ thuật chăm sóc, tỉa thưa để đáp ứng nhu cầu ánh sáng cho từng

giai đoạn.

Tuy còn nhiều tồn tại cần phải nghiên cứu, nhưng trong phạm vi giới

hạn của đề tài chỉ có thể giải quyết một số vấn đề về độ tàn che, độ dốc ảnh

hưởng đến sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng

Thông mã vĩ ở khu vực Lạng Sơn và biện pháp kỹ thuật gây trồng, biện pháp

tác động vào tầng cây cao, các biện pháp kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng các

loài cây bản địa trồng dưới tán.

2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu

Vườn thực được xây dựng trong mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại

học Nông lâm Thái Nguyên.

2.3.1. Đất đai

Đất đai của xã Quyết Thắng được hình thành do hai nguồn gốc: Đất

hình thành tại chỗ do phong hoá đá mẹ và đất hình thành do phù sa bồi tụ.

Nhóm đất phù sa chiếm tỷ lệ ít, là nhóm đất ở địa hình bằng, được bồi

đắp bởi sản phẩm phù sa của dòng chảy của các suối và do thời tiết, thời gian

được chia thành. Đất phù sa không được bồi tụ hàng năm trung tính ít chua,

thành phần cơ giới chủ yếu là thịt trung bình đất phù sa ít được bồi hàng năm

trung tính ít chua, thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ.

23

Nhóm đất xám bạc màu: phát triển trên đất phù sa cổ có sản phẩm

Feralitic trên nền cơ giới nặng, đây là đất bạc màu có thành phần cơ giới nhẹ,

dễ bị xói mòn, rửa trôi.

Nhóm đất Feralit: Phân bố chủ yếu ở địa hình đồi núi, được phát triển

trên phù sa cổ, dăm cuội kết và cát kết, loại đất này diện tích khá lớn.

Đất khu vực vườn ươm là đất tụ pha cát lẫn với đá nhỏ, đất có màu

xám đen, hàm lượng dinh dưỡng trong đất thấp do đã sử dụng nhiều năm.

Đất là đất feralit, nguồn gốc của đất xuất phát từ đá sa thạch, độ pH của đất

thấp, đất nghèo mùn. Đất có độ màu mỡ thấp nên cây con sinh trưởng và phát

triển mức trung bình, đôi khi có cây phát triển kém.

2.3.2. Đặc điểm khí hậu, thời tiết

Mô hình khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông lâm nằm trong khu

vực xã Quyết Thắng thành phố Thái Nguyên nên mang đầy đủ các đặc điểm

khí hậu của thành phố Thái Nguyên. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia

làm 4 mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông. Có 2 mùa chính: Mùa mưa và mùa khô.

Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.

2.3. Khái quát chung về đặc điểm sinh thái của các loài cây nghiên cứu:

2.3.1 Long Não (Cinnamomum camphora)

2.3.1.1. Đặc điểm nhận biết

Hình 2.1 cây Long Não

24

Tên khoa học: Cinnamomum camphora.

Cây Long não hay còn gọi là cây Dã hương, cây gỗ lớn có thể cao tới

40m, đường kính đạt 200cm.

Long não có nguồn gốc ở khu vực Đông Á, bao gồm Đài Loan, miền

nam Nhật Bản, đông nam Trung Quốc và Đông Dương, tại đây người ta trồng

nó để sản xuất dầu long não. Nó cũng được trồng tại khu vực ven bờ biển

Đen của khu vực Kavkaz.

Ở Việt Nam Long não mọc tương đối chậm. Mùa hoa tháng 3 - 4, mùa

quả tháng 10 - 11. Là cây tương đối ưa sáng, lúc nhỏ che bóng, ưa khí hậu

ấm và ẩm nhiệt độ trung bình năm 15 - 20°C, lượng mưa trên 1.000mm. Mọc

tốt trên đất sét pha tầng dầy, không sống được trên đất mặn, đất trũng hoặc

quá khô.

2.3.1.2. Đặc điểm sinh học và sinh thái

Các bộ phận của cây đều có thể cất tinh dầu dùng trong công nghiệp và

y dược. Có thể trồng cây Long não ven đường lấy bóng mát và trồng thành

rừng phòng hộ.

2.3.1.3. Phân bố địa lý

Ở điều kiện thích hợp long não có thể tái sinh hạt và chồi tốt. Cây Long

não mọc tự nhiên và đã được gây trồng trên diện tích nhỏ ở các tỉnh biên giới

phía Bắc Việt Nam. Một số nơi trồng ven đường để lấy bóng mát như Hà Tây

(cũ), Hà Nội, Hà Bắc (cũ), Thừa Thiên- Huế, Gia Lai… Gỗ cây Long não màu

nâu hồng. Giác mỏng màu xám trắng, là loài gỗ chịu nước, không bị mối mọt có

mùi thơm, dùng để đóng đồ, làm đồ mỹ nghệ…

2.3.1.4. Giá trị

Cây Long não có tác dụng thanh lọc không khí.

Một trong những tác dụng hiếm thấy mà không phải loài cây nào cũng

có đó là Long não có khả năng thanh lọc không khí. Bởi lá cây Long não có

khả năng hấp thụ các ion kim loại nặng (như chì) làm sạch môi trường.

25

Chúng giúp tạo ra môi trường ôzôn rất mạnh. Do đó, khi đứng ở dưới những

cây này, người ta sẽ cảm thấy dễ thở, cơ thể thoải mái và thư thái.

Gỗ Long não có tác dụng chống mối mọt. Gỗ Long não trên thực tế

không bị côn trùng phá hại, bởi gỗ Long não có mùi thơm và có khả năng

khử được mùi ẩm mốc, xua đuổi ruồi muỗi. Vì thế người ta dùng nó để sản

xuất các vật dụng nhỏ trong gia đình (tráp, hộp, chuỗi vòng hạt, quạt v.v).

Long não có tác dụng làm thuốc chữa bệnh, phục vụ công tác tinh

chế dầu Long não: Người ta chưng cất bằng hơi nước các loại gỗ nghiền nhỏ,

rễ, cành non của cây Long não để thu được tinh dầu, mà từ đó trong quá trình

ngưng tụ và làm lạnh có thể thu tới 90% Long não. Bằng việc chưng cất phân

đoạn tinh dầu thô người ta thu được các thành phần khác nhau, được sử dụng

trong kỹ thuật (tinh dầu Long não đỏ, chứa safrol), y tế (Long não y tế), ướp

thơm (tinh dầu Long não trắng). Long não có tác dụng làm thuốc chữa bệnh.

Lá Long não có thể nấu nước xông chữa cảm. Tinh dầu có tác dụng trị

bỏng, xua muỗi, chế dầu cao xoa bóp. Camphor dùng ngoài làm thuốc sát

trùng, tiêu viêm, dùng trong dưới dạng thuốc tiêm (Dung dịch camphor 10-

20% trong dầu) chữa trị tim.

Ngoài ra, trong giới y học còn kết hợp tinh bột Long não với các vị

thuốc khác nhau để chữa một số bệnh như: hắc lào, bong gân, chấn thương,

sai khớp, hôi nách, viêm họng, ho đờm khò khè, tiêu chảy thể hàn…xong

dùng thuốc phải có liều lượng nhất định, bạn nên tham khảo và uống theo chỉ

dẫn của bác sỹ tránh tự ý dùng thuốc.

2.3.2 Bách Xanh (Calocedrus Macrolepis)

2.3.2.1. Đặc điểm nhận biết

Cây thân gỗ to, thường xanh, cao đến 20- 25m hay hơn đường kính

thân 0,6 -0,8, thân thangwg, nhưng khi cao trên 10m, vặn vỏ màu nâu đen,

nứt doc. Cây bách xanh phân cành sớm, cành to mọc gần cành ngang, cành

con mang cac nhánh nhở nằm trong cùng một mặt phẳng. Tán cây hình tháp rộng.

26

Hình 2.2 Cây bách xanh

Lá cây bách xanh hình vảy, xếp áp sát trên cành thành từng đốt có 2 lá

lưng bụng to hơn và hai lá trên nhỏ hơn và 2 bên lá nhỏ hơn. Lá to dài 5mm,

lá nhở dài 2mm gần giống lá pơ mu (Fokienia hodginsii) về hình dạng và

màu sắc mặt trên màu lục thẫm, măt dưới bạc hơn. Non dơn tính cùng gốc;

Non cái hình bầu dục, dài 12 – 18mm rộng 6mm, hoa gỗ và nứt thành 2 mảnh

bên với mảnh giữa mang 2 hạt to, mỗi hạt có 2 cánh không bằng nhau

Hình thái, bách xanh giống Pơ mu, nhưng khác ở chỗ Pơ mu cao

tohown và nón cái hình cầu mang nhiều hạt với vảy hình khiên có mũi nhọ

hơn ở giữa.

2.3.2.2. Đặc điểm sinh thái

Cây bách xanh cho hạt tháng 10 – 12 (Đà lạt). Tái sinh bằng hạt tốt,

Đặc biệt ở nơi có nhiều ánh sáng. Cây con mọc nhiều như mạ nhưng chỉ một

số ít phát triển thành cây trưởng thành

2.3.2.3.Phân bố địa lý

Việt Nam: Lào Cai (Sapa), Hòa Bình, Hà Tây (Ba vì) ở độ cao 1100 –

1200m , Đắc lắc, Lâm Đồng, khánh hòa, (Nha Trang: núi tou ha), Ninh Thuận

Trên thế giới: Trung Quốc (Vân Nam) Đại Loan, Ân Độ, Thái Lan

27

2.3.2.4. Giá trị

Gỗ cây bách xanh có thớ thẳng, khá min, khi khô ít nứt nẻ và không bi

biến dạng, không bị mối mọt và mục dẽ gia công. Dùng đẻ xây dựng nhà cửa,

đóng đồ gỡ cao cấp, tienj dồ mỹ nghệ và làm độ dùng văn phòng. Do gỗ có

mùi thăm dịu nên còn được dùng làm bát hương. Ngoài ra cây có dạng đẹp có

thể trông làm cảnh.

2.3.3. Sưa Đỏ (Dalbergia Tonkinensis Prain)

2.3.3.1 Đặc điểm nhận biết

Hình 2.3 Cây Sưa đỏ

Là cây gỗ nhỡ, rụng lá theo mùa, cao từ 6-12m (cũng có thể cao tới

15m), sinh trưởng trung bình. Thân cây dạng hợp trục, dáng phân tán.Vỏ thân

cây màu vàng nâu hay xám, nứt dọc, cành non màu xanh, có lông mịn thưa, lá

mọc cách, cấu tạo lá dạng kép lông chim lẻ, mỗi là kép có từ 9-17 lá chét đính

so-le trên cuống chính, lá chét hình xoan thuôn, đầu nhọn hoặc có mũi ngọn,

đuôi tròn, mặt dưới phiến lá thường có màu tái trắng, kích thước lá chét dài từ

6–9 cm, rộng từ 3–5 cm, lá ché đính ở đầu cuống kép thường có kích thước

lớn hơn các lá còn lại, cuống chính và các cuống lá chét không lông, phiên lá

chét không lông, có lá kèm nhỏ không lông, sớm rụng.

28

2.3.3.2. Đặc tính sinh học và sinh thái

Là cây ưa sáng, ưa đất sâu, dày, độ ẩm cao. Phân bố ở đai độ cao tuyệt

đối dưới 500m. Trong tự nhiên tìm thấy trong rừng mưa nhiệt đới và rừng

mưa nhiệt đới gió mùa.

Gỗ Sưa thớ mịn, vân thớ gỗ đẹp.Thời phong kiến vua chúa dùng gỗ trắc

thối để đóng đồ nội thất cao cấp trong cung đình vì nó vừa là hương liệu vừa

là dược liệu.

2.3.3.3. Phân bố địa lý

Phân bố chủ yếu là ở Việt Nam và được tìm thấy rải rác tại Hải Nam,

Trung quốc

2.3.3.4. Giá trị

Giá 1kg lõi gỗ sưa đỏ loại đẹp có giá dao động từ 5 – 7 triệu đồng, (giá

thu mua thương lái Trung Quốc ). Đây là loài gỗ cực kỳ quý hiếm

2.3.4. Gù Hương (Cinnamomum balansae, Lecomte)

2.3.4.1. Đặc điểm nhận biết

Hình 2.4 Cây Gù hương

Cây gỗ to, thường xanh, cao tới 50 m, đường kính thân 0,7 - 1,2 m,

cành nhẵn, màu hơi đen khi khô. Lá mọc cách, dai, hình trứng, dài 9 - 11 cm,

rộng 4 - 5 cm, thót nhọn về hai đầu, gân bậc hai 4 - 5 đôi, cuống lá dài 2 - 3

29

cm, nhẵn. Cụm hoa chuỳ ở nách lá, dài 4 - 5 cm, phủ lông ngắn màu nâu;

cuống hoa dài 1 - 4 mm, phủ lông, bao hoa 6 thuỳ, có lông, nhị hữu thụ 9, bao

phấn 4 ô, 3 nhị vòng trong cùng mỗi nhị có 2 tuyến, nhị lép 3, hình tam giác, có

chân, bầu hình trứng, nhẵn, vòi ngắn, núm hình đĩa. Quả hình cầu, đuờng kính 8

- 10 mm, đính trên đế hoa hình chén. Tái sinh bằng hạt hoặc giâm cành

2.3.4.2 Đặc tính sinh học và sinh thái

Mùa hoa vào tháng 1-5, mùa quả chín tháng 6-9, tái sinh bằng hạt hoặc

giâm cành.

2.3.4.3. Phân bố địa lý

Phân bố ở việt nam, tây nguyên ,Đồng nai...

2.3.4.4. Giá trị

Là một loài cây đặc hữu ở việt nam, trong thân và lá có chứa tinh dầu

với thành phần chính là long não nên được ưa chuộng làm đồ đạc đóng bàn

ghế, tủ đồ dùng…

2.3.5 . Re Hương (Cinnamomum parthenoxylon)

2.3.5.1. Đặc điểm nhận biết

Hình 2.5 cây Re hương

30

Cây gỗ to, thường xanh, cao đến 30 m, đường kính thân 70 - 90 cm,

cành nhẵn, màu hơi đen khi khô. Lá mọc cách, dai, hình trứng, dài 9 - 11 cm,

rộng 4 - 5 cm, thót nhọn về 2 đầu; gân bên 4 - 7 đôi, gân giữa phẳng ở mặt

trên, lồi ở mặt dưới; cuống dài 2 - 3 cm, nhẵn. Cụm hoa chuỳ ở nách lá, dài 6

- 12 cm, phủ lông màm nâu; cuống hoa dài 1 - 3 mm, phủ lông; bao hoa 6

thuỳ, có lông dài 1,5 - 2 mm, thuôn; nhị hữu thụ 9, chia 3 vòng, 2 vòng nhị

ngoài không tuyến, chỉ có lông, nhị vòng thứ 3 có 2 tuyến, tuyến không chân,

nhị lép 3, hình tam giác có chân; bầu hình trứng, nhẵn, vòi ngắn, núm hình

đĩa. Quả hình cầu, đường kính 8 - 10 mm, đính trên ống bao hoa hình chén.

2.3.5.2. Đặc tính sinh học và sinh thái

Mùa hoa tháng 1 - 5, quả tháng 6 - 9. Mọc trong rừng rậm nhiệt đới

thường xanh, ẩm trên núi đất hay núi đá vôi, ở độ cao 100 - 600 m.

2.3.5.3. Phân bố địa lý

Trong nước: Cao Bằng, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Bắc Giang, Quảng

Trị, Đà Nẵng.

Thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc.

 Nguồn gen hiếm.Gỗ tốt không mối mọt, dùng trong xây dựng, Làm tà

2.3.5.4. Giá trị

vẹt, đóng tàu. Lá vỏ và rễ có thể chiết suất tinh dầu và tạo ra những sản phẩm

nội thất, mỹ nghệ cao cấp

31

PHẦN 3

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu

Là 5 loài cây trồng trong vườn tại mô hình khoa Lâm nghiệp, Trường

Đại học Nông lâm Thái Nguyên

- Long não (Cinnamomum camphora)

- Bách xanh (Calocedrus Macrolepis)

- Sưa đỏ (Dalbergia Tonkinensis)

- Gù hương (Cinnamomum balansae Lecomte )

- Re hương (Cinnamomum parthenoxylon)

3.1.2. Phạm vi nghiên cứu

Tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính gốc, chiều cao, khả năng ra lá của cây.

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

- Địa điểm: Vườn thực vật tại mô hình Khoa Lâm Nghiệp trường Đại

học Nông lâm Thái Nguyên.

- Thời gian tiến hành: Từ tháng 07/ 2018 đến tháng 05/2019

3.3. Nội dung nghiên cứu

- Đánh giá sinh trưởng của 5 loài cây bản địa.

Sinh trưởng đường kính gốc

Sinh trưởng chiều cao

- Đánh giá tình hình sâu bệnh hại.

- Hoàn thiện biện pháp trồng, chăm sóc và bảo vệ cây bản địa.

3.4. Phương pháp nghiên cứu

3.4.1. Nghiên cứu sinh trưởng

Đo đếm và gán nhãn cây theo từng loài cho toàn bộ số cây của 5 loài

nghiên cứu tại khu vực mô hình.

32

Cách gán nhãn:

- Long não: Ca

- Bách xanh: Cm

- Sưa đỏ: Dt

- Gù hương: Ba

- Re hương: Pa

Thời gian đo đếm 30 ngày đo đếm sinh trưởng/1 lần.

Các bảng đo đếm:

Thu thập số liệu

Trong quá trình điều tra số liệu để dễ dàng hơn cho việc thu thập và

điều tra, đã sử dụng biện pháp gắn mã số thẻ cho từng cây, gắn biển cây cho

mỗi hàng trong mô hình giúp việc thu thập số liệu tốt hơn.

Đường kính gốc (D00), được đo gốc cây trồng bằng thước kẹp cơ khí,

đo theo 2 chiều Đông – Tây và Nam – Bắc rồi tính trị số bình quân.

Chiều cao vút ngọn (Hvn) được đo bằng thước dây. Dùng bút xóa trắng

kẻ 1 đường làm mốc ở gốc cây làm chuẩn rồi dùng thước đo từ điểm chuẩn

đến đỉnh ngọn sinh trưởng của cây.

Quá trình thu thập số liệu được chia làm 11 đợt đó là:

Đợt 1: ngày 10/07/2018

Đợt 2: ngày 10/08/2018

Đợt 3: ngày 10/09/2018

Đợt 4: ngày 10/10/2018

Đợt 5: ngày 10/11/2018

Đơt 6: ngày 10/12/2018

Đợt 7: ngày 10/01/2019

Đợt 8: ngày 10/02/2019

Đợt 9: ngày 10/03/2019

Đợt 10: ngày 10/04/2019

33

Đợt: 11: ngày 10/05/2019

- Thời gian đo đếm 30 ngày đo đếm sinh trưởng/1 lần

Bảng 3.1: Đo D00. Đơn vị (cm)

STT Lần đo 1 Lần đo 2 Lần đo 3 Lần đo 4 …

Cây 1

Cây 2

Cây 3

…..

Bảng 3.2: Đo Hvn. Đơn vị (cm)

STT Lần đo 1 Lần đo 2 Lần đo 3 Lần đo 4 …

Cây 1

Cây 2

Cây 3

…..

3.4.3. Xử lý số liệu

Phương pháp xử lý số liệu:

Sau khi tiến hành điều tra ta thu được bảng số liệu thô. Từ bảng số liệu

ta tiến hành xử lý số liệu:

Ứng dụng phần mềm thống kê trong lâm nghiệp trên máy tính bằng

Excel cho phép loại bỏ những chỉ số đặc thù có thể sai khi quan sát số liệu.

𝐧

- Tính tỷ lệ sống :

𝑵

C% = x 100

Trong đó: C%: Tỷ lệ sống

N: Số cây sống

N: Tổng số cây trồng trong mô hình

34

∑𝐝

- Đường kính TB của cây ở mỗi lần đo:

𝑴

D00TB =

Trong đó: D00TB: Đường kính trung bình của cây

∑d: Tổng số đo đường kính các cây

M: Tổng số cây

- Chiều cao trung bình của cây ở mỗi lần đo:

∑𝐡

𝑴

HvnTB =

Trong đó: Hvn TB: Chiều cao trung bình của cây

∑h: Tổng số đo chiều cao các cây

𝟏

M: Tổng số cây

𝒏

- Xác định số trung bình mẫu: 𝒙̅ = ∑ 𝒙𝒊𝒏 𝟏

- Tính sai tiêu chuẩn:

2

S =

Trong đó: xi: Trị số điều tra như đường kính (D00) và chiều cao (Hvn)

𝑥 ̅: Trung bình mẫu

𝑠

- Hệ số biến động:

𝑥 ̅

S % = x 100

Trong đó: S: Sai tiêu chuẩn

𝒙̅: Trung bình mẫu

- Tỷ lệ cây bị sâu bệnh hại: P%= n.100/N

Trong đó: n là số cây bị sâu bệnh

N là tổng số cây điều tra

35

PHẦN 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Đánh giá tình hình sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng trong mô

hình vườn cây bản địa tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

4.1.1. Kết quả tỷ lệ sống của 5 loài

Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ sống của 5 loài đến đợt đo cuối đạt được

như trong bảng 4.1.

Kết quả đánh giá tỷ lệ sống của các loài cây bản địa được điều tra và tổng

hợp tại bảng 4.1

Bảng 4.1: Tỷ lệ sống của 5 loài cây bản địa trong mô hình

vườn cây bản địa

STT Tên loài

Số lượng cây (5/2018) Số cây chết Tỷ lệ cây sống (%) Số cây lần đo đầu (7/2018)

1 Long Não 2 Bách Xanh 3 Sưa Đỏ 4 Gù Hương 5 Re Hương 19 8 9 30 30 100(%) 100(%) 100(%) 90(%) 70(%) 19 8 9 27 21 0 0 0 3 9

Số cây lần đo cuối (5/2019) 19 8 9 27 21 (Nguồn số liệu điều tra năm 2018-2019)

- Nhận xét: qua kết quả của bảng 4.1 đánh giá tỷ lệ sống của 5 loài cây

bản địa đã cho ta thấy 5 loài cây bản địa có tỷ lệ sống cao đến 100% bên

cạnh đó do một số cây trong quá trình phát triển đã chết do thời tiết như cây

Gù hương , Re hương

Cây được trồng vào tháng 10/2017. Tính đến thời điểm lấy số liệu

cuối thì các loài cây bản địa đã trồng được 19 tháng, do thời điểm trồng có

thời tiết thuận lợi có mưa nhiều và độ ẩm cao nên cây sinh trưởng rất tốt,

36

hiện tại 5 loài cây bản địa có tỷ lệ sống như sau: Long não đạt 100% cây

phát triển tốt lá mọc đều, Bách xanh đạt 100%,Sưa đỏ đạt 100%, Gù hương

giảm 3 cây đạt 90% do điều kiện đất thiếu chất dinh dưỡng và cỏ dại xâm

lấn đã làm cho cây chết vào tháng 7,8/2018 số lượng cây so với những lần

đo đầu đã giảm, Re hương giảm 9 cây đạt 70% do thời tiết như nắng to làm

cho cây bị cháy mép lá và sự xâm lấn của dây leo rất nhanh đã làm cây chậm

phát triển và dẫn đến chết vào tháng 7,8/2018 số lượng cây so với thời điểm

đo đầu đã giảm đi do trong quá trình cây sinh trưởng ảnh hưởng bởi các tác

động từ các yếu tố ngoại cảnh và đặc điểm sinh học của mỗi loài cây.

Kết quả cho thấy 5 loài cây bản địa có tỷ lệ sống khá tốt với điều kiện

trong vườn cây bản địa. Một trong những đặc điểm sinh học được quan tâm

nhiều nhất trong nghiên cứu sinh trưởng cây trồng là quy luật sinh trưởng

theo thời gian. Đề tài chủ yếu quan tâm đến hai chỉ tiêu sinh trưởng là sinh

trưởng đường kính (Doo) chiều cao (Hvn).

4.1.2. Kết quả sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa trong mô

lần đo 1

3

lần đo 2

2.5

lần đo 3

lần đo 4

2

lần đo 5

1.5

lần đo 6

lần đo 7

1

lần đo 8

lần đo 9

0.5

lần đo 10

0

lần đo 11

Xưa đỏ

Gù hương Re hương

Long Não

Bách Xanh

hình vườn cây bản địa

Hình 4.1: Sơ đồ thể hiện đường kính D(oo) của 5 loài cây bản địa

37

Sinh trưởng đường kính: Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng đường

kính sát gốc (D00) được trình bày tại bảng 4.2.

Bảng 4.2: Sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa trong

Long não

Bách xanh

Sưa đỏ

Gù hương

Re hương

Tên loài

Chỉ tiêu

S%

S%

S%

S%

S%

D(oo) cm

D(oo) Cm

D(oo) cm

D(oo) cm

D(oo) cm

Thời gian

1,315

0,093

0,762

0,041

1,088

0,108

1,159

0,141

0,885

0,068

Đo lần 1 10/7/2018

Đo lần 2

1,402

0,093

0,812

0,039

1,255

0,136

1,511

0,139

1,047

0,049

10/8/2018

Đo lần 3

1,542

0,093

0,825

0,045

1,355

0,140

1,701

0,157

1,190

0,062

10/9/2018

Đo lần 4

1,557

0,096

0,825

0,045

1,355

0,140

1,737

0,161

1,204

0,061

10/10/2018

Đo lần 5

1,631

0,096

0,862

0,062

1,422

0,136

1,896

0,169

1,319

0,078

10/11/2018

1,715

0,101

0,887

0,069

1,494

0,133

2,057

0,184

1,426

0,084

Đo lần 6 10/12/2018

1,713

0,102

0,900

0,065

1,494

0,133

2,098

0,186

1,430

0,083

Đo lần 7 10/1/2019

1,765

0,115

1,025

0,079

1,500

0,134

2,175

0,198

1,542

0,087

Đo lần 8 10/2/2019

Đo lần 9

1,797

0,118

1,131

0,045

1,544

0,145

2,444

0,203

1,642

0,107

10/3/2019

Đo lần 10

1,836

0,121

1,200

0,056

1,566

0,146

2,525

0,200

1,707

0,118

10/4/2019

Đo lần 11

1,857

0,124

1,237

0,006

1,611

0,146

2,609

0,204

1,777

0,128

10/5/2019

Tăng trưởng

0,542

0,475

0,523

1,450

0,892

Tăng trưởng

0,054

0,047

0,052

0,145

0,089

bình quân

(Nguồn số liệu điều tra năm 2018-2019)

mô hình vườn cây bản địa

38

Qua bảng 4.2 và Hình 4.2 đã cho ta thấy :

Sinh trưởng đường kính D(oo)cm của 5 loài cây bản địa qua 11 lần đo

trồng chăm sóc và theo dõi thấy kết quả cây sinh trưởng tốt, cụ thể như sau :

- Đối với cây Long Não có đường kính gốc trung bình D(oo) từ lần đo

1-2 bình quân tăng được 0,105cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng được

0,14cm/tháng; lần đo 3-4 tăng được 0,015cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân tăng

được 0,074cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng được 0,084cm/tháng; lần đo

6-8 bình quân tăng được 0,05cm/tháng; lần đo 8- 9 bình quân tăng được

0,032cm/tháng; lần đo 9-10 bình quân tăng được 0,039cm/tháng; lần đo 10-

11bình quân tăng được 0,021cm/tháng và có sự tăng trưởng so sánh giữa lần

1-11 là 0,542cm, có tăng trưởng bình quân là 0,054cm

- Đối với loài cây Bách xanh có đường kính gốc trung bình D(oo) từ

lần đo 1-2 bình quân tăng được 0,05cm/tháng ;lần đo 2-3 bình quân tăng được

0,013cm/tháng ; lần đo 3-4 và 5 bình quân tăng được 0,037cm/tháng ; lần đo

5-6 bình quân tăng được 0,025cm/tháng; lần đo 6-7 và 8 bình quân tăng được

0,138cm/tháng; lần đo 8-9 và 10 bình quân tăng được 0,175cm/tháng; lần đo

10-11bình quân tăng được 0,037cm/tháng và có sự tăng trưởng so sánh giữa

lần 1-11 là 0,475cm, có tăng trưởng bình quân là 0,047cm

- Đối với cây Sưa đỏ có đường kính gốc trung bình D(oo) từ lần đo 1-2

bình quân tăng được 0,167cm/tháng ; lần đo 2-3 và 4 bình quân tăng được

0,1cm/tháng; lần đo 4-5 và 6 bình quân tăng được 0,137cm/tháng; lần đo 6-7

và 8 bình quân tăng được 0,06cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được

0,044cm/tháng; lần đo 9-10 và 11 bình quân tăng được 0,067cm/tháng và có

sự tăng trưởng so sánh giữa lần đo đầu và cuối là 0,523cm, có tăng trưởng

bình quân là 0,052cm

- Đối với cây Gù Hương có đường kính gốc trung bình D(oo) từ lần đo

1-2 sinh trưởng bình quân 0,352cm/tháng ;lần đo 2-3 bình quân tăng được

39

0,19cm/tháng; lần đo 3-4 tăng bình quân thêm được 0,036cm/tháng; lần 4-5

bình quân tăng được 0,159cm/tháng; lần 5-6 bình quân tăng thêm

0,161cm/tháng; lần đo 6-7 bình quân tăng thêm 0,041cm/tháng; lần đo 7-8

bình quân tăng thêm 0,077cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng thêm

0,269cm/tháng; lần đo 9-10 bình quân tăng thêm 0,081cm/tháng; lần đo 10-11

bình quân tăng thêm 0,084cm/tháng và có sự tăng trưởng so sánh giữa lần đo

1-11 là 1,45cm, có tăng trưởng bình quân là 0,145cm

-Đối với cây Re Hương có đường kính gốc trung bình D(oo) từ lần đo

1-2 sinh trưởng bình quân 0,162cm/tháng; lần đo 2-3 có sinh trưởng bình

quân tăng thêm 0,143cm/tháng; lần đo 3-4 có sinh trưởng bình quân tăng

thêm 0,014cm/tháng; lần đo 4-5 có sinh bình quân 0,115cm/tháng; lần đo 5-6

tăng bình quân sinh trưởng 0,107cm/tháng; lần đo 6-7 và 8 tăng bình quân

sinh trưởng 0,116cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân sinh trưởng tăng

0,1cm/tháng; lần đo 9-10 và 11 tăng thêm bình quân sinh trưởng

0,135cm/tháng; và có sự tăng trưởng so sánh giữa lần đầu và lần đo cuối là

0,892cm, có tăng trưởng bình quân là 0,089cm

Tăng trưởng bình quân đường kính gốc của 5 loài cây bản địa qua 11

lần đo cao nhất là cây Gù hương 1,45cm; sau đó là cây Re Hương 0,892cm;

Long Não 0,542cm; cây Sưa đỏ 0,523cm và thấp nhất là cây bách xanh đạt

0,475cm

- So sánh sinh trưởng đường kính:

- So sánh sự sinh trưởng đường kính của cây Long Não với kết quả

nghiên cứu của Hoàng Thúy Hoa, “Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu

bệnh hại một số loài thuộc họ Long Não (Lauraceae); họ Trầm (Thymelaceae),

họ Bứa (Clusiaceae) tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp Trường Đại

Học Nông Lâm Thái Nguyên”

40

Bảng 4.3. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Long não

theo kết quả của Hoàng Thúy Hoa

Lần đo Doo(cm) S ∆

1 0.971 0.065 -

2 1.092 0.073 0.121

3 1.228 0.082 0.136

4 1.364 0.089 0.136

5 1.478 0.094 0.114

0.507 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5

Từ những dữ liệu tại bảng 4.3 cho thấy :

Cây Long não có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo cuối

thu được là 1.478cm. Với hệ số biến động từ 0.065 đến 0.094%. Có lượng

tăng trưởng so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.507cm.

- Nhận xét: So sánh giữa cây Long não trong mô hình cây bản địa với

Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại một số loài thực vật thuộc

họ Long Não (Lauraceae), họ Trầm (Thymelaceae), họ Bứa (Clusiaceae) tại mô

hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp, cho ta thấy cây Long não mô hình trồng

cây bản địa sinh trưởng tốt hơn so với nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu

bệnh hại do điều kiện chăm sóc khác nhau, điều này chứng tỏ cây Long não rất

phù hợp và sinh trưởng tốt ở điều kiện tại mô hình chúng tôi nghiên cứu

- So sánh sự sinh trưởng đường kính của cây Sưa đỏ với kết quả nghiên

cứu của Trần Quang Ngọc. “Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại

một số loài thực vật thuộc họ đậu (Fabaceae), trồng tại mô hình vườn thực vật

khoa Lâm Nghiệp Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên’’

41

Bảng 4.4. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Sưa đỏ

theo kết quả của Trần Quang Ngọc

Tăng 1 2 3 4 5 Lần đo trưởng

D(oo) 0.5 1.0 1.1 1.2 1.3 0.300 cm Sưa đỏ (Dalbergia

tonkinensis) ∆ 0.040 0.060 0.120 0.080 0.300

0.122 0.140 0.122 0.124 0.122 S

Từ dữ liệu bảng 4.4 cho ta thấy :

- Đối với cây Sưa đỏ có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo

cuối thu được là 1.3cm, Với hệ số biến động từ 0.122 đến 0.140% và có sự tăng

trưởng về đường kính gốc so sánh giữa lần đo cuối và lần đo đầu là 0.3 cm.

- Nhận xét: So sánh giữa cây Sưa đỏ trong mô hình cây bản địa với

Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại một số loài thực vật thuộc

họ đậu (Fabaceae), trồng tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp đã cho ta

thấy cây sưa đỏ mô hình trồng cây bản địa sinh trưởng tốt hơn so với nghiên cứu

sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại do điều kiện chăm sóc khác nhau, điều này

chứng tỏ cây Sưa đỏ rất phù hợp và sinh trưởng tốt ở điều kiện tại mô hình chúng

tôi nghiên cứu

- So sánh sự sinh trưởng đường kính của cây Re hương với kết quả nghiên

cứu của Hoàng Thúy Hoa, “Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại

một số loài thuộc họ Long Não (Lauraceae); họ Trầm (Thymelaceae), họ Bứa

(Clusiaceae) tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp Trường Đại Học

Nông Lâm Thái Nguyên”

42

Bảng 4.5. Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Re hương

theo kết quả của Hoàng Thúy Hoa

S lần đo Doo(cm) ∆

0.109 1.090 - 1

0.121 1.254 0.164 2

0.156 1.481 0.227 3

0.193 1.736 0.255 4

0.218 1.990 0.254 5

0.900 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5

Từ bảng 4.5 cho ta thấy:

Cây Re hương có đường kính trung bình sát gốc D(00) tại lần đo cuối

thu được là 1.990 cm. Với hệ số biến động từ 0.109 đến 0.218%. Có sự tăng

trưởng so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.900cm.

Nhận xét: So sánh giữa cây Re hương trong mô hình cây bản địa với

Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại một số loài thực vật thuộc

họ Long Não (Lauraceae), họ Trầm (Thymelaceae), họ Bứa (Clusiaceae) tại mô

hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp, cho ta thấy cây Re hương mô hình trồng

cây bản địa sinh trưởng chậm hơn so với nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu

bệnh hại, do điều kiện chăm sóc khác nhau và địa hình của cây trồng khác nhau và

điều kiện chăm sóc tưới tiêu bị thiếu làm cho cây trong mô hình bản địa chậm lớn

hơn so với vùng khác

4.1.3. Kết quả đặc điểm sinh trưởng chiều cao của 5 loài cây bản địa trong

mô hình vườn cây bản địa

Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng chiều cao vút ngọn (Hvn) được trình

bày tại bảng 4.6.

43

Tên loài

Long não

Bách xanh

Sưa đỏ

Gù hương

Re hương

Chỉ tiêu

S%

S%

S%

S%

S%

Hvn (cm)

Hvn (cm)

Hvn (cm)

Hvn (cm)

Hvn (cm)

62,052

3,94 46,062

5,011 66,333

9,089

90,666

6,673

81,858

3,474

Thời gian Đo lần 1 10/7/2018

69,105

4,409 50,500

5,301 68,888

8,802

92,666

6,396

85,809

3,664

Đo lần 2 10/8/2018

77,21

4,85 52,875

5,692 74,111 10,040 102,333

7,259

90,523

4,202

Đo lần 3 10/9/2018

84,21

5,208 52,875

5,692 74,222 10,009 106,888

7,892

91,523

4,128

Đo lần 4 10/10/2018

89,157

6,321 54,500

5,994 75,777

9,957 109,000

8,016

96,428

5,016

Đo lần 5 10/11/2018

89,789

6,345 54,750

6,206 78,666 10,430 112,555

7,811 100,428

5,064

Đo lần 6 10/12/2018

91,315

6,553 55,375

6,405 79,000 10,362 114,333

7,837 101,000

5,017

Đo lần 7 10/1/2019

93,578

6,067 58,625

7,218 81,888

9,869 117,259

7,788 105,666

5,048

Đo lần 8 10/2/2019

94,263

7,251 68,525

6,158 86,666

9,885 125,259

8,708 110,333

5,519

Đo lần 9 10/3/2019

96,368

7,306 72,750

5,799 88,888 10,000 130,148

8,737 113,238

5,390

Đo lần 10 10/4/2019

7,169 75,750

6,235 90,222 10,315 134,370

8,989 117,381

5,171

Đo lần 11 10/5/2019

101,15 7

Tăng trưởng

39,105

29,698

23,889

43,704

35,523

3,910

2,969

2,388

4,307

3,552

Tăng trưởng bình quân

(Nguồn số liệu điều tra năm 2018-2019)

Bảng 4.6: Sinh trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình

44

160

lần đo 1

140

lần đo 2

120

lần đo 3

100

lần đo 4

80

lần đo 5

60

lần đo 6

40

lần đo 7

20

lần đo 8

lần đo 9

0

Xưa Đỏ

Gù Hương

Re Hương

Long Não

Bách Xanh

Hình 4.2: Sơ đồ thể hiện chiều cao H(vn) của 5 loài cây bản địa

Qua bảng 4.6 và Hình 4.2 ta thấy sự phát triển đồng đều về chiều cao

Hvn của các cây bản địa, không thấy sự ngừng hay không phát triển của các

cây mà liên tục phát triển.

- Từ kết quả tại bảng 4.2 cho thấy: Chiều cao vút ngọn (Hvn) của 5 loài

cây bản địa tăng trưởng rất tốt với điều kiện môi trường mới cụ thể như:

- Đối với cây Long Não chiều cao H(vn)từ lần đo 1-2 bình quân chiều cao

tăng 7,053cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng trưởng chiều cao tăng được

8,105cm/tháng; lần đo 3-4 bình quân tăng 7cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân tăng

trưởng 4,947cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng trưởng 0,632cm/tháng; lần đo

6-7 bình quân tăng trưởng 1,526cm/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng trưởng

chiều cao tăng 2,263cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được 0,632cm/tháng;

lần đo 9-10 tăng được 2,158cm/tháng; lần đo 10-11 bình quân tăng được

4,789cm/tháng và có sự tăng trưởng chiều cao giữa lần đo đầu và cuối 39,105cm

trong 11lần đo và có sự tăng trưởng bình quân là 3,910cm

- Đối với cây bách xanh chiều cao H(vn) từ lần đo 1-2 bình quân tăng

được 4,438cm/tháng;lần đo 2-3và 4 bình quân tăng được 2,375cm/tháng; lần đo

4-5 bình quân tăng 1,625cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng 0,25cm/tháng; lần

45

đo 6-7 bình quân tăng 0,625cm/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng 3,25cm/tháng;

lần đo 8-9 bình quân tăng 9,375cm/tháng; lần đo 9-10 tăng 4,74cm/tháng; lần đo

10-11 tăng 3cm/tháng và có sự tăng trưởng chiều cao giữa lần đo đầu và cuối

29,698cm, có sự tăng trưởng bình quân là 2,969cm

- Đối với cây Sưa đỏ chiều cao H(vn)từ lần đo 1-2 bình quân chiều cao

tăng 2,555cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng trưởng chiều cao tăng được

5,223cm/tháng; lần đo 3-4 bình quân tăng 0,111cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân

tăng trưởng 1,55cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng trưởng 2,889cm/tháng; lần

đo 6-7 bình quân tăng trưởng 0,334/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng trưởng

chiều cao tăng 2,888cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được 4,778cm/tháng;

lần đo 9-10 tăng được 2,222cm/tháng; lần đo 10-11 bình quân tăng được

1,334cm/tháng và có sự tăng trưởng chiều cao giữa lần đo đầu và cuối 23,889cm

trong 11lần đo, có sự tăng trưởng bình quân là 2,388cm

- Đối với cây Gù Hương chiều cao H(vn)từ lần đo 1-2 bình quân chiều

cao tăng 2 cm/tháng;lần đo 2-3 bình quân tăng trưởng chiều cao tăng được

9,667cm/tháng; lần đo 3-4 bình quân tăng 4,555cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân

tăng trưởng 2,112cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng trưởng 3,555cm/tháng;

lần đo 6-7 bình quân tăng trưởng 1,778cm/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng

trưởng chiều cao tăng 2,926cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được

8cm/tháng; lần đo 9-10 tăng được4,889cm/tháng; lần đo 10-11 bình quân tăng

được 4,222cm/tháng và có sự tăng trưởng chiều cao giữa lần đo đầu và cuối

43,704cm trong 11lần đo, có sự tăng trưởng bình quân là 4,307cm

- Đối với cây Re hương chiều cao H(vn)từ lần đo 1-2 bình quân chiều cao

tăng 3,951 cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng trưởng chiều cao tăng được

4,714cm/tháng; lần đo 3-4 bình quân tăng 1cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân tăng

trưởng 4,905cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng trưởng 4cm/tháng; lần đo 6-7

bình quân tăng trưởng 0,572cm/tháng; lần đo 7-8 bình quân tăng trưởng chiều

46

cao tăng 4,666cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được 4,667cm/tháng; lần đo

9-10 tăng được 2,095cm/tháng; lần đo 10-11 bình quân tăng được

4,143cm/tháng và có sự tăng trưởng chiều cao giữa lần đo đầu và cuối 35,523cm

trong 11lần đo, có sự tăng trưởng bình quân giữa các lần đo là 3,552cm

Từ những kết quả trên cho thấy 5 loài cây bản địa sinh trưởng về chiều

cao Hvn rất tốt, cao nhất là loài Long Não 39,105cm; thấp nhất là loài cây

Sưa đỏ 23,889cm

Nhưng nhìn chung với điều kiện lập địa mới hoàn toàn, các cây bản địa

trong vườn thực vật đang phát triển rất tốt về chiều cao, sự thay đổi rõ rệt qua

từng lần đo có thể nhìn thấy dễ dàng qua kêt quả của các lần đo bên trên.

- So sánh sinh trưởng chiều cao vút ngọn:

- so sánh về sự sinh trưởng chiều cao H(vn) của cây Long Não với kết

quả nghiên cứu của Hoàng Thúy Hoa, “Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình

sâu bệnh hại một số loài thuộc họ Long Não (Lauraceae); họ Trầm

(Thymelaceae), họ Bứa (Clusiaceae) tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm

Nghiệp Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên”

Bảng 4.7. Sinh trưởng về chiều cao của cây Long não

theo kết quả của Hoàng Thúy Hoa

lần đo Hvn(m) S ∆

1.032 0.064 - 1

1.143 0.065 0.111 2

1.260 0.068 0.117 3

1.351 0.068 0.101 4

1.423 0.061 0.072 5

0.391 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5

47

- Sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn(m) trung bình của cây Long não

có trung bình chiều cao vút ngọn Hvn(m) tại lần đo cuối thu được là 1.423 m.

Với hệ số biến động từ 0.061 đến 0.068%. Có sự tăng trưởng trung bình so

sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.391 m

- Nhận xét: So sánh giữa cây Long não trong mô hình cây bản địa với

Nghiên cứu sinh trưởng chiều cao vút ngọn và tình hình sâu bệnh hại một số

loài thực vật thuộc họ Long Não (Lauraceae), họ Trầm (Thymelaceae), họ Bứa

(Clusiaceae) tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp, cho ta thấy cây Long

não mô hình trồng cây bản địa sinh trưởng chiều cao như nhau so với nghiên cứu

sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại là điều kiện phát triển như nhau, điều này

chứng tỏ cây Long não rất phù hợp và sinh trưởng tốt ở điều kiện tại mô hình

chúng tôi nghiên cứu

- So sánh sự sinh trưởng chiều cao H(vn) của cây Sưa đỏ với kết quả

nghiên cứu của Trần Quang Ngọc. “Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu

bệnh hại một số loài thực vật thuộc họ đậu (Fabaceae),trồng tại mô hình vườn

thực vật khoa Lâm Nghiệp Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên’’

Bảng 4.8. Sinh trưởng về chiều cao của cây Sưa đỏ

theo kết quả của Trần Quang Ngọc

Lần đo 1 2 3 4 5 Tăng trưởng

0.746 0.770 0.794 0.816 0.836 0.090 Hvn (m)

0.024 0.024 0.022 0.020 0.090 ∆ Sưa đỏ (Dalbergia tonkinensis)

0.042 0.043 0.044 0.043 0.043 S

Từ kết quả của bảng 4.8 cho ta thấy: Trung bình chiều cao vút ngọn

H(vn) của cây Sưa đỏ tại lần đo cuối thu được là 0.836 m. Với hệ số biến

48

động từ 0.042 đến 0.044%. Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo

cuối và đầu là 0.09m.

Nhận xét: So sánh giữa cây Sưa đỏ trong mô hình cây bản địa với

Nghiên cứu sinh trưởng chiều cao vút ngọn và tình hình sâu bệnh hại một số

loài thực vật thuộc họ đậu (Fabaceae),trồng tại mô hình vườn thực vật khoa

Lâm Nghiệp đã cho ta thấy cây xưa đỏ mô hình trồng cây bản địa sinh trưởng về

chiều cao tốt hơn so với nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại do điều

kiện chăm sóc khác nhau, điều này chứng tỏ cây Sưa đỏ rất phù hợp và sinh

trưởng tốt ở điều kiện tại mô hình chúng tôi nghiên cứu

- So sánh về sự sinh trưởng chiều cao H(vn) của cây Re Hương với kết

quả nghiên cứu của Hoàng Thúy Hoa, “Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình

sâu bệnh hại một số loài thuộc họ Long Não (Lauraceae); họ Trầm

(Thymelaceae), họ Bứa (Clusiaceae) tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm

Nghiệp Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên

Bảng 4.9. Sinh trưởng về chiều cao của cây Re hương

theo kết quả của Hoàng Thúy Hoa

Lần đo Hvn (m) S ∆

1 1.194 0.120 -

2 1.358 0.130 0.164

3 1.534 0.152 0.176

4 1.643 0.158 0.285

5 1.756 0.163 0.113

0.562 Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5

- Qua bảng 4.9 cho thấy: Sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn(m) trung

bình của cây Re hương có trung bình chiều cao vút ngọn Hvn(m) tại lần đo

49

cuối thu được là 1.756 m. Với hệ số biến động từ 0.120 đến 0.163%. Có sự

tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.562 m

- Nhận xét: So sánh giữa cây Re hương trong mô hình cây bản địa với

Nghiên cứu sinh trưởng chiều cao vút ngọn và tình hình sâu bệnh hại một số

loài thực vật thuộc họ Long Não (Lauraceae), họ Trầm (Thymelaceae), họ

Bứa (Clusiaceae) tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp, cho ta thấy

cây Re hương mô hình trồng cây bản địa sinh trưởng chiều cao thấp hơn so

với nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại là điều kiện chăm sóc

khác nhau, điều này cho thấy cây Re hương phát triển chậm hơn so với

nghiên cứu mà mô hình khác đã nghiên cứu

4.3. Hoàn thiện các bước trong xây dựng mô hình vườn cây bản địa tại

trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

Trong quá trình trồng và chăm sóc các loài cây bản địa việc áp dụng

biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý là hết sức quan trọng. Ở từng giai đoạn

sinh trưởng nên áp dụng các biện pháp khác nhau cho phù hợp.

Bước 1: Xử lý thực bì

Công việc này đòi hỏi người trồng phải tìm hiểu rõ loại đất trồng, tính

chất đất cho phù hợp với cây trồng. Việc xử lý thực bì chính là phát dọn tất cả

các loài cây bụi, thảm tươi có khả năng ảnh hưởng đến việc cạnh tranh dinh

dưỡng với các loài cây bản địa được trồng. Sau đó san ủi lấp hố lấy lại mặt

phẳng

Bước 2: Quy hoạch phân lô trồng

Do các điều kiện đất cát, sỏi đá lẫn và trơ nền đá mẹ nên sau khi lấp,

nhóm nghiên cứu đã xem xét các điều kiện đất để chia khu trồng cho phù hợp

theo từng nhóm loài cây như là tầng đất, nơi có khả năng tiếp cận nước, …,

mật độ.

Thiết kế trồng cây theo hàng, theo thiết kế thì mỗi hàng sẽ tương ứng 1

50

loài cây. Cây được trồng theo hàng, mỗi loài là một hàng trải dọc theo mô

3 m

2 m

hình với mật độ hàng cách hàng 3 mét và cây cách cây 2 mét (3x2).

Bước 3: Đào hố bón phân chuẩn bị trồng.

- Dùng cuốc đào hố với kích thước 40x40x60

- Rắc khoảng 1 – 3 kg phân chuồng hoai mục xuống gốc làm phân lót

cho cây.

Bước 4: Tiến hành trồng cây

Dùng cây con, chủ yếu đã được nuôi dưỡng trong vườn ươm một thời

gian, làm nguyên liệu để trồng rừng, đây là phương pháp được áp dụng phổ

biến hiện nay. Cây con có đủ rễ, thân, lá nên có sức đề kháng cao, tiết kiệm

hạt giống và giảm số lần chăm sóc rừng.

Nên trồng cây vào lúc chiều mát sẽ đảm bảo được tỷ lệ sống cao nhất.

Cách trồng như sau:

1: Rạch bỏ vỏ bầu và rắc phân lót

Một tay cầm bầu, tay kia cầm dao rạch vỏ bầu 1 đường từ trên xuống.

2: Đặt cây xuống hố

Đặt cây ngay ngắn giữa hố, mặt bầu thấp hơn mặt hố từ 2-4cm.

51

3: Lấp đất lần 1

Lấp đất nhỏ phủ kín 2/3 chiều cao bầu, dùng 2 bàn tay nén đất quanh

bầu theo chiều thẳng đứng.

4: Lấp đất lần 2

Lấp đất nhỏ phủ kín bầu, nén đất lần 2 tương tự lần 1.

5: Lấp đất lần 3

Lấp đất phủ kín mặt hố (trên cổ rễ cây 1-2cm), vun đất vào gốc cây

theo hình mâm xôi.

Bước 5: Theo dõi sinh trưởng

Tiến hành theo dõi định kỳ cứ 30 ngày đo D00 và Hvn một lần và 15

ngày đối với sâu bệnh hại. Cần theo dõi tình hình sinh trưởng của cây để đảm

bảo cây sinh trưởng đều, có kế hoạch trồng dặm khi cây bị chết.

Bước 6: Chăm sóc cây trồng

Tưới nước: tưới nước đều trong giai đoạn đầu vì là cây non, ngày nào

cũng tưới trong 30 ngày đầu.

Làm cỏ nhằm trừ bỏ hệ rễ và thân cành lá của cây cỏ dại, do đó loại bỏ

khả năng tranh dành nước, chất dinh dưỡng, ánh sáng của cây cỏ dại với cây

trồng. Nhìn chung cây cỏ dại là có hại cho cây trồng, cần phải diệt tận gốc.

Xới đất: Làm cho đất tơi xốp, phá vỡ mặt đất bị đóng váng, giảm bốc

hơi nước… tạo điều kiện cho đất giữ và thấm nước tốt hơn… ở nước ta hầu

hết đất trồng rừng đều khô hạn, chặt cứng, cho nên khi chăm sóc phải xới đất.

Làm cỏ, xới đất là hai công việc thường được tiến hành cùng một lúc.

Làm cỏ xới đất có thể tiến hành theo phương thức toàn diện hoặc cục bộ.

Phương thức toàn diện được áp dụng ở nơi có địa hình bằng phẳng hoặc độ

dốc dưới 50, nơi trồng nông lâm kết hợp.

Làm cỏ xới đất theo hố là làm cỏ xới đất xung quanh gốc cây trồng với

đường kính từ 0.6 đến 1.2m, độ sâu xới đất tốt nhất nên sâu hơn hệ rễ cỏ dại,

52

không được làm tổn thương đến hệ rễ cây trồng. Làm cỏ xới đất thường kết

hợp vun gốc, thông thường vun cao 10-20cm

Bón thúc: Bón thúc thường kết hợp với các lần chăm sóc, tuỳ theo mức

độ thâm canh mà số lần bón, liều lượng bón mỗi lần có khác nhau. Thông

thường có thể sử dụng các lại phân bón với liều lượng như sau: Phân chuồng

hoai 1-3 kg/cây, phân NPK 0.1 – 0.2 kg/cây, Phân vi sinh 0.1 – 0.2 kg/cây Có

thể bón phối hợp các loại phân trên. Phương pháp bón là bón tập trung vào

gốc cây.

Cần áp dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh nhằm mang lại hiệu quả

kinh tế cao nhất, phòng trừ bằng biện pháp cơ giới như: Ngắt bỏ lá bị bệnh,

làm cỏ sạch sẽ, đối với sâu hại bắt giết vào sáng sớm và chiều tối và không xử

lý bằng phương pháp hóa học. Sau khi tiến hành các biện pháp cứ 5 ngày

vào kiểm tra 1 lần tình trạng sâu hại.

4.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm mục đích phát triển mô hình vườn

cây bản địa

4.4.1. Về kỹ thuật

- Làm vệ sinh cỏ dại, xới tơi đất: Diệt trừ cỏ dại tránh bị phân tán chất

dinh dưỡng, sâu bệnh hại khó có chỗ cư trú, xới tơi đất có tác dụng làm bộ rễ

tăng khả năng chao đổi chất, rễ cứng cáp và phát triển hơn.

- Tạo hố trồng sâu tại các khu vực có nhiều sỏi đá 40x40x80cm khoảng

cách trồng giữa các hố trồng là 3m x 2m, có thể xa hơn tùy vào địa hình và

bón nhiều phân hữu cơ trước khi trồng tại các khu đất nhiều sỏi đá, đất cát

nhiều tầng đất mỏng.

- Nên trồng cây họ đậu xen kẽ để hạn chế cỏ dại xấm lấn cũng như cải

tạo đất tăng dinh dưỡng cho cây (lạc dại, đậu đỗ các loại …)

- Tạo hệ thống tưới nước đầy đủ để hạn chế tác động thời tiết khô hạn và

khô hanh.

53

- Cần tưới nước một lượng nước định kì cho cây, cây có đầy đủ nước sẽ

phát triển thuận lợi

- Bón phân chu kỳ hàng tháng bằng phân bón thúc NPK vào 2 đợt tháng

10 và tháng 2 sau đợt mưa ẩm, cây cần nhiều đạm và kali để phát triển tốt

nhất vào những năm đầu, mỗi năm cần bón cho cây 4 lần theo định kì 3 tháng

1 lần.

- Vào đầu mùa mưa mỗi năm cần bón thêm 10kg/cây.

- Cách bón phân: Rải đều phân quanh các rãnh cây đã đào trước xung

quanh các cây bản địa rồi lấp đất cho phẳng

4.4.2. Giải pháp

- Việc xây dựng một hàng rào xung quanh vườn thực vật để phòng tránh

sự xâm nhập của người dân và cả gia súc của người dân chăn thả gần đó. Giải

pháp tạo nên một hiệu quả rất cao do cây được bảo vệ tốt đồng nghĩa sẽ có thể

sinh trưởng một cách toàn vẹn nhất. Nhưng để thực hiện giải pháp này khá

tốn kém, do diện tích khu mô hình rộng và địa hình không bằng phẳng đòi hỏi

nguồn vật lực và nhân lực khá cao. Cần duy trì công tác chăm sóc bảo vệ

thường xuyên (làm cỏ, hạn chế xâm nhập gia súc…)

- Trong quá trình chăm sóc cần làm cỏ, phát dây leo, cây bụi, loại bỏ

cây sâu bệnh, hàng tháng một lần nhằm làm giảm sự xâm lấn giữa cây cỏ với

sự sinh trưởng của cây bản địa, việc này rất tốn kém và mất thời gian do dùng

máy cắt cỏ để phát dọn, trong khi nguồn lực không có nhiều. Vì vậy đề xuất

dải miếng nilon quanh gốc là một đề xuất vô cùng hợp lý để bảo vệ cho cây

con đồng thời giảm công sức và chi phí cho việc làm cỏ.

Miếng nilon để dải dưới gốc cây là loài nilon mỏng, trắng không màu

trong suốt, có diện tích 1 mét vuông giúp việc tiếp nhận ánh sáng của cây vẫn

được diễn ra bình thường. Nhờ có miếng nilon này cỏ bên dưới sẽ khó có thể

phát triển được ở dưới lớp nilon đè sát xuống mặt đất.

56

PHẦN 5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1. Kết luận

Qua những nghiên cứu , đánh giá sinh trưởng của 5 loài cây bản địa

trồng trong mô hình vườn cây bản địa tại Trường Đại Học Nông Lâm Thái

Nguyên, đề tài rút ra một số kết luận như sau đây:

- Sinh trưởng về đường kính gốc D(oo) của 5 loài cây bản địa dao động

từ 0,542 đến 1,450 cm, cao nhất là Gù hương 1,450 cm, sau đó là Re hương

tăng trưởng trung bình là 0,892 cm, Long não là 0,542 cm, Sưa đỏ là 0,523

cm, và thấp nhất là cây Bách xanh 0,475 cm.

- Sinh trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn

cây bản địa sau điều tra số liệu, dao động từ 23,889cm đến 43,704cm, và

chiều cao vút ngọn cao nhất là Gù hương 43,704 cm, tiếp sau đó là Long não

39,105 cm, Re hương đạt 35,523 cm, Bách xanh đạt 29,698 cm, và thấp nhất

là Sưa đỏ 23,889 cm, các loài cây bản địa được trồng trong mô hình phù hợp

với yếu tố lập địa trong mô hình vườn cây bản địa

Các khâu chăm sóc và thời điểm trồng cây phù hợp do có lượng mưa và

độ ẩm cao tốt cho cây sinh trưởng ở trong các giai đoạn.

Từ những kết quả trên cho thấy các loài cây bản địa đang sinh trưởng

khá tốt trong môi trường lập địa của mô hình vườn thực vật. Đã có thể sử

dụng cho mục đích học tập và nghiên cứu cho sinh viên trong trường nhất

là khoa Lâm Nghiệp.

Nhìn chung hầu hết các loài đều không bị sâu bệnh gây hại, riêng chỉ

có Re hương là xuất hiện sâu bệnh hại 12,5% chiếm 3 trên tổng số 27 cây

còn sống. Vì loại sâu hại này ít ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển của

Re hương, số cây bị hại không nhiều và rải rác nên xếp vào cấp II mức độ

57

gây hại nhẹ.

Tôi chỉ tiến hành điều tra, phòng trừ bằng biện pháp cơ giới như: Ngắt

bỏ lá bị bệnh, làm cỏ sạch sẽ, đối với sâu hại bắt giết vào sáng sớm và chiều

tối và không xử lý bằng phương pháp hóa học. Còn lại 4 loài bản địa khác

đều sinh trưởng đều và tốt không có dấu hiệu sâu bệnh.

5.2. Kiến nghị

Tiếp tục theo dõi sinh trưởng của 5 loài cây bản địa (Long não,Bách

xanh ,Sưa đỏ, Gù hương, Re hương) trong những năm tiếp theo để khẳng định

những kết quả đề tài đưa ra.

Cần thêm kinh phí để thực hiện việc làm hàng rào bảo vệ ngăn cách

giữa vườn thực vật và khu dân cư sống gần mô hình.

Ngoài phân tích những quy luật trên cần nghiên cứu sâu thêm các quy

luật kết cấu lâm phần để đề xuất biện pháp lâm sinh phù hợp hơn.

Để có kết luận chắc chắn hơn cần tiếp tục nghiên cứu rừng trồng cây

bản địa ở các địa phương khác nhau.

58

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Bộ NN&PTNT (2004), Cẩm nang ngành Lâm nghiệp, NXB Thống kê.

2. Bộ NN&PTNT (2010), Quyết định số 2140/QĐ – BNN – TCLN, ngày

9/8/2010 về việc công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2009, Hà Nội.

3. Nguyễn Thanh Bình (2003), đã đề cập đến một số đặc điểm lâm học của

loài Giổi ăn quả phục hồi tự nhiên ở Bắc Giang. Kết quả nghiên cứu đã

đưa ra được những đặc điểm về hình thái, vật hậu, phân bố, cấu trúc tái

sinh tự nhiên của loài, tác giả cho rằng phân bố N/H và D/H đều có chung

một đỉnh. Tương quan giữa Hvn và D1.3 có dạng phương trình logarit.

4. Nguyễn Bá Chất (1996), “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm học và biện pháp

kỹ thuật gây trồng loài lát hoa”, Luận án Tiến sỹ khoa học Lâm Nghiệp.

5. Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên (2000), Giáo trình thực vật rừng, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

6. Lâm Phúc Cố (1995) “khi nghiên cứu một số loài cây bản địa được chọn

trồng rừng phòng hộ đầu nguồn Sông Đà ở Púng Luông, Mù Cang Chải

đã chọn được 4 loài cây bản địa là: Pơ mu (Fokieniahodginsic Henry et

thomas), Tô Hạp Hương (Altingia takhtadjanii), Giổi (Tahauma Gioi A.

Chev) và cây Song Mật (Calamus ealusetris)”

7. Lê Minh Cường (2007), “ Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số loài

cây lá rộng bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ ở Đại Lải – Vĩnh Phúc

làm cơ sở để chuyển hóa rừng trồng thuần loài thành rừng hỗn loài”, Luận

văn thạc sĩ khoa học Lâm nghiệp, Trường Đại Học Lâm Nghiệp, Hà Tây.

8. Hoàng Đức Doanh (2007), “Nghiên cứu đánh giá kết quả trồng rừng cây

bản địa lá rộng trên đất trống đồi núi trọc tỉnh Quảng Trị”, Luận văn

thạc sĩ khoa học Lâm nghiệp, Trường Đại Học Lâm Nghiệp, Hà Tây.

59

9. La Quang Độ. Bài giảng thực vật rừng.

10. Nguyễn Minh Đức (1998) nghiên cứu sinh trưởng loài Lim xanh tại vườn

quốc gia Bến En – Thanh Hóa.

11. Lê Tự Đức “Nghiên cứu kỹ thuật gây trồng và đánh giá sinh trưởng một

số loài cây bản địa trồng dưới tán cây mọc nhanh tại huyện Mai Sơn, tỉnh

Sơn La”, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại Học Lâm Nghiệp, Hà Tây.

12. Võ Đại Hải (1996), Nghiên cứu các dạng cấu trúc hợp lý cho rừng phòng

hộ đầu nguồn ở Việt Nam. Luận án phó tiến sỹ khoa học nông nghiệp.

13. Phạm Xuân Hoàn (2002), Đặc điểm một số nhân tố tiểu hoàn cảnh của

rừng trồng thí nghiệm hỗn giao cây lá rộng nhiệt đới tại phân khu phục

hồi sinh thái Vườn quốc gia Cát Bà - Hải Phòng, Trường Đại Học Lâm

Nghiệp, Hà Tây.

14. Nguyễn Thế Hưng (2008), “Nghiên cứu khả năng giữ nước của các

thảm thực vật giảm dần từ thảm cây bụi cao đến rừng trồng Keo, rừng

trồng Bạch đàn và thấp nhất là thảm cây bụi thấp”.

15. Hoàng Vũ Thơ (1998) Nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố sinh

thái đến sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythrophloeum) trồng dưới tán rừng.

16. Phùng Ngọc Lan (1986) đã cho thấy rừng hỗn loài ở Núi Luốt (Trường

Đại học Lâm nghiệp – Xuân Mai) giữa Thông đuôi ngựa với Keo lá tràm

(Acacia auriculiformis) và Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis)

theo các tỷ lệ, mật độ, phương thức, thời điểm khác nhau.

17. Đỗ Thị Quế Lâm (2003), “Nghiên cứu đặc điểm sinh lý, sinh thái học của

một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông đuôi ngựa và Keo lá

tràm tại Núi Luốt Trường Đại Học Lâm Nghiệp”. Luận văn thạc sĩ khoa

học Lâm nghiệp, Trường Đại Học Lâm Nghiệp, Hà Tây.

18. Nguyễn Ngọc Lung, Võ Đại Hải (1996), Kết quả bước đầu nghiên cứu

tác dụng phòng hộ nguồn nước của một số thảm thực vật chính và các

nguyên tắc xây dựng rừng phòng hộ . NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

60

19. Trần Ngũ Phương (2000), Một số vấn đề về rừng nhiệt đới ở Việt Nam,

NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

20. Hồ Ngọc Sơn, (2015) Giáo trình Nguyên lý bảo tồn, Trường Đại học

Nông lâm Thái Nguyên

21. Hoàng Văn Thắng (2007), “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng

rừng hỗn loài cây lá rộng bản địa cung cấp gỗ lớn ở Ngọc Lặc – Thanh

Hóa và Cầu Hai – Phú Thọ”, Luận văn thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp,

Trường Đại học Lâm Nghiệp, Hà Tây.

22. Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005), “Nghiên cứu đánh giá rừng trồng

hỗn giao dự án KFW ở Bắc Giang và Lạng Sơn”.

23. Nguyễn Đức Thế (2007), “Nghiên cứu sinh trưởng của Lát hoa, Trám

trắng, Giổi xanh và Bạch đàn trồng thí nghiệm hỗn giao tại Đoan Hùng -

Phú Thọ, Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy, Phú Thọ”.

24. Lê Anh Tuấn (1999) đã nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu kỹ thuật gây trồng

và sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng thử nghiệm tại Vườn

thực vật - Vườn Quốc gia Cúc Phương”.

25. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam - Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật

Bản (2000), Sử dụng cây bản địa vào trồng rừng ở Việt Nam, Nxb Nông

nghiệp, HN.

26. Tên cây rừng Việt Nam. Nhà xuất bản nông nghiệp năm 2000.

II. Tiếng Anh

27. Forest Inventory and Planning Institute (1996), Vietnam Forest Trees,

Agricultural Publishing House, Ha Noi.

28. Julian Evans (1982), Plantation Forestry in the tropics, Oxford University Press

29. Matthew J Kelly (1995), Experimental Designs for the Analysis of Inter –

Species Interraction in Mixed Stands.

30. The Multi - Storied Forest Management in Malaysia, 1999.

61

PHỤ LỤC

STT

Tên loài

Tên danh pháp

Số lượng Ngày trồng

45

18/10/2017

1

Sao đen

Hopea odorata

19

18/10/2017

2

Long não

Cinnamamun camphora

18

18/10/2017

3

Giổi

Michelia mediocris Dandy

21

18/10/2017

4

Ngọc am

Cupressus funebris

8

18/10/2017

5

Bách xanh

Calocedrus macrolepis

39

18/10/2017

6

Xoan

Melia azedarach

30

18/10/2017

7

Lát hoa

Chukrasia tabularis

12

18/10/2017

8

Dẻ

Castanea sativa

30

18/10/2017

9

Re hương

30

18/10/2017

10

Gù hương

Cinnamomum parthenoxylon Cinamomum balansae lecomte

128

18/10/2017

11

Đinh hương

Syzygium aromaticum

20

18/10/2017

12

Thông tre

Fodocarpus neriifolius

13 14 15 16 17 18 19 20

Parashorea chinensis Fagraea fragrans Erythrophleum fordii Dalbergia tonkinensis Burretiodendron hsienmu Nageia fleuryi Dalbergia bariaensis Aphanamixis polystachya

30 17 28 9 29 20 16 17

18/10/2017 18/10/2017 18/10/2017 18/10/2017 18/10/2017 18/10/2017 18/10/2017 18/10/2017

Danh sách các loài cây trồng trong mô hình khoa lâm nghiệp

Chò chỉ Trai lí Lim xanh Sưa đỏ Nghiến Kim giao Cẩm lai Gội nước

62

63

1. Biểu theo dõi sinh trưởng của cây

Tên cây Long não Bách xanh STT

Gù hương

D00

D00

Hvn

D00

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 ….

Sưa đỏ Hvn D00 Hvn D00 Hvn Re hương Hvn

64

Bảng thu thập số liệu từng chỉ tiêu cho từng loài

 Bảng thu thập số liệu đường kính sát gốc D00

Lần 1

Lần 2

Lần 3

Lần 4

Lần 5

Lần 8

Lần 9

Lần 10

Lần 11

Lần 6 Lần 7

Tên loài… Cây 1 Cây 2 Cây 3 Cây 4 Cây 5 Cây 6 Cây 7 Cây 8 Cây 9 Cây 10 Cây 11 Cây 12 Cây 13 Cây 14

 Bảng thu thập số liệu chiều cao Hvn

Lần 2

Lần 3

Lần 4

Lần 5

Lần 7

Lần 8

Lần 9

Lần 10 Lần 11

Lần 6

Tên loài Lần 1 Cây 1 Cây 2 Cây 3 Cây 4 Cây 5 Cây 6 Cây 7 Cây 8 Cây 9 Cây 10 Cây 11 Cây 12 Cây 13 Cây 14 ….

65

 Bảng theo dõi đánh giá tình hình sâu bệnh hại

Triệu chứng

Đánh giá

STT Tên loài

Long Não

……

…..

1

………

……

2 …

…….

…….

3 …..

…….

……

4 …..

5

6

Hình. Mô hình trồng cây bản địa

2. Dụng cụ đo: Thước dây và thước kẹp