TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

TRẦN THỊ NGỌC THANH

TÂY HÀNH NHẬT KÝ – TÁC PHẨM DU KÝ

CHỮ HÁN CỦA PHẠM PHÚ THỨ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa hoc

Th.S LÊ THỊ HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2017

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Lê Thị

Hải Yến – Giảng viên Tổ Văn học Việt Nam; người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo

tận tình giúp tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận: “Tây hành nhật ký –

tác phẩm du ký chữ Hán của Phạm Phú Thứ”.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ

Văn – Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi

để tôi hoàn thành khóa luận này.

Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế,

thiếu sót, tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và

các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2017.

Tác giả khóa luận

Trần Thị Ngọc Thanh

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của

tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Lê Thị Hải Yến. Kết quả thu được là hoàn

toàn trung thực và không trùng với kết quả nghiên cứu của những tác giả

khác.

Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2017.

Tác giả khóa luận

Trần Thị Ngọc Thanh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................. 2

3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 6

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .............................................................. 6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 6

6. Bố cục khóa luận ..................................................................................... 7

NỘI DUNG ....................................................................................................... 7

Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG ............................................................. 7

1.1. Thể tài “du ký” Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX .................................. 7

1.1.1. Vấn đề thuật ngữ “du ký” .............................................................. 8

1.1.2. Phân loại “du ký” ........................................................................... 9

1.1.3. Diện mạo “du ký chữ Hán” Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX ....... 12

1.2. Tác giả Phạm Phú Thứ và Tây hành nhật ký................................... 15

1.2.1. Phạm Phú Thứ - Tiến sĩ Việt Nam đầu tiên tới trời Tây ......... 15

1.2.2. Tác phẩm Tây hành nhật ký ........................................................ 21

Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 24

Chƣơng 2. TÂY HÀNH NHẬT KÝ - NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TIÊU BIỂU .... 26

2.1. Đặc điểm về nội dung ......................................................................... 26

2.1.1. Tiếp xúc, ghi chép trực tiếp về phương Tây ............................... 26

2.1.2. Khát vọng canh tân đất nước ...................................................... 34

2.2. Đặc điểm nghệ thuật .......................................................................... 37

2.2.1. Điểm nhìn nghệ thuật .................................................................. 37

2.2.2. Hệ thống từ ngữ ........................................................................... 42

2.3. Đánh giá vị trí của Tây hành nhật ký ................................................ 45

Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 46

KẾT LUẬN .................................................................................................... 47

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nửa sau thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn,

đặc biệt là thời Tự Đức lâm vào cuộc khủng hoảng về tất cả các mặt. Đứng

trước những khó khăn về kinh tế ngày càng gay gắt, sự rối loạn về chính trị và

nguy cơ mất nước đang đến gần, những người Việt Nam có tri thức và tâm

huyết cứu nước đã mạnh dạn đưa ra những tư tưởng canh tân đất nước trên tất

cả các mặt: nội thương, ngoại giao, kinh tế cũng như văn hóa xã hội. Họ là

một số quan lại và sĩ phu tiến bộ thức thời – những người đã được tiếp xúc

trực tiếp với nền văn minh phương Tây. Trong đó, không thể không nhắc tới

Phạm Phú Thứ (1821 – 1882) cùng với Đặng Huy Trứ (1825 – 1874) và

Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871) là ba nhà duy tân lớn nhất Việt Nam nửa

sau thế kỷ XIX, tư tưởng canh tân của ông được thể hiện sâu sắc cả trên lý

thuyết và hành động thực tế. Về văn chương, Phạm Phú Thứ đã để lại sự

nghiệp sáng tác khá phong phú trong đó có tập Tây hành nhật ký được người

đọc đặc biệt chú trọng. Có thể nói, Tây hành nhật ký là tác phẩm làm nên tên

tuổi của Phạm Phú Thứ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Tập du ký

được coi là cuốn nhật ký đầu tiên của người Việt ghi chép một cách tỉ mỉ, cụ

thể về đời sống sinh hoạt của người dân phương Tây.

Ngoài ra, đặt trong sự so sánh với các tác phẩm cùng thể loại du ký thì

Tây hành nhật ký có tầm quan trọng nổi bật, tập du ký hơn hẳn về quy mô và

phong phú gấp nhiều lần về nội dung. Trần Nghĩa với bài viết: “Vị trí Giá

Viên biệt lục trong văn học trung đại Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX” in trong

Giá Viên toàn tập của Phạm Phú Thứ đã nhận xét: “Giá Viên biệt lục vẫn

đánh dấu bước tiến mới về quy mô phản ánh và đối tượng phản ánh của ký

giai đoạn thứ tư – nửa cuối thế kỷ XIX. Nó chứng tỏ ký có khả năng to lớn,

phản ánh được những vấn đề quan trọng mà thời đại đặt ra, phản ánh những

1

vấn đề mang tầm vóc quốc tế, vượt qua giới hạn của phương Đông trung đại

đến với phương Tây hiện đại và vượt qua giới hạn của sự khác biệt giữa hai

hệ thống ngôn ngữ Đông – Tây.” [10, tr.2131].

Thực tế hiện nay tác giả Phạm Phú Thứ được giới phê bình, nghiên cứu

quan tâm và tìm hiểu trên nhiều bình diện tuy nhiên vẫn còn nhiều điều đáng nói.

Các sáng tác của Phạm Phú Thứ dung lượng khá lớn, tuy nhiên trong giáo

trình văn học trung đại thì cũng chưa giới thiệu nhiều đến những tác phẩm của

ông đặc biệt là tập Tây hành nhật ký.

Bản thân là một giáo viên tôi luôn mong muốn tìm hiểu sâu sắc các tác

giả và các tác phẩm thời xa xưa để có cái nhìn rộng hơn về văn học thời trung

đại. Đặc biệt là nhà nho có tư tưởng canh tân tiến bộ Phạm Phú Thứ.

Đây là những lý do mà chúng tôi chọn đề tài: Tây hành nhật ký – tác

phẩm du ký chữ Hán của Phạm Phú Thứ. Nghiên cứu về đề tài này phần nào

để thấy được giá trị của tập du ký đồng thời chỉ ra vị trí của tập du ký trong

tiến trình du ký Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX cũng như thấy được vị trí của

nhà nho cánh tân Phạm Phú Thứ trong dòng chảy văn học dân tộc.

2. Lịch sử nghiên cứu

Qua hệ thống tài liệu tham khảo chúng tôi thấy tác phẩm Tây hành nhật

ký của Phạm Phú Thứ là đề tài khá hấp dẫn, được giới nghiên cứu quan tâm.

Bàn về vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu với hai quan điểm khác

nhau:

Thứ nhất là quan điểm cho rằng Tây hành nhật ký hay, đặc sắc có những

công trình nghiên cứu sau:

Ngày 29 tháng 5 năm 1994, Hội đồng hương Quảng Nam – Đà Nẵng tại

Thành phố Hồ Chí Minh và Hội khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh tổ

chức hội thảo Danh nhân Phạm Phú Thứ và in kỷ yếu Phạm Phú Thứ với tư

tưởng canh tân do Thái Nhân Hòa làm chủ biên. Kỉ yếu đã tập hợp nhiều bài

2

viết về con người, gia đình, công trạng, thơ văn và tập trung phân tích tư

tưởng canh tân Phạm Phú Thứ. Thái Nhân Hòa đã giới thiệu tác phẩm văn

chương Phạm Phú Thứ. Về Tây hành nhật ký, ông viết: “Tây hành nhật ký là

tập Nhật ký đi Tây của Phạm Phú Thứ trong phái bộ triều đình nhà Nguyễn

sang Pháp và Tây Ban Nha từ đầu tháng 6 năm 1863 đến cuối tháng 3 – 1864

(để chuộc lại ba tỉnh miền đông Nam Kỳ theo hiệp ước Nhâm Tuất 1862)

mang nội dung “tư tưởng canh tân” đã dâng lên vua Tự Đức ngày 31 – 3 –

1864” [4, tr.118].

Năm 1999, Hải Ngọc Thái Nhân Hòa nối tiếp những nghiên cứu về

Phạm Phú Thứ với công trình Trúc Đường Phạm Phú Thứ với xu hướng canh

tân. Thái Nhân Hòa đánh giá tư tưởng canh tân qua khảo sát các di thảo của

cụ Phạm Phú Thứ đồng thời đặt trong mối quan hệ với các nhà nho, trí thức

cùng thời có cùng tư tưởng như Phạm Phú Thứ. Đặc biệt, Thái Nhân Hòa cho

rằng chuyến đi sứ sang Pháp và Tây Ban Nha đã cho Phạm Phú Thứ cái nhìn

mới về xã hội phương Tây: “Tây hành nhật ký không chỉ là công trình khảo

sát thực tế mà còn là những đề xuất, gợi ý canh tân đất nước trên các mặt kinh

tế - xã hội, khoa học kỹ thuật và ngoại giao” [6, tr.56].

Năm 2007, Nguyễn Hữu Sơn có bài Thể tài du ký trên tạp chí Nam

Phong đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4 và xuất bản bộ sách Du ký

Việt Nam – Nam Phong tạp chí (1917 – 1934). Với hai công trình này,

Nguyễn Hữu Sơn đã đưa ra những phân tích, nhận định về thuật ngữ thể tài du

ký đồng thời đánh giá tác phẩm Tây hành nhật ký như là một trong những tác

phẩm tiêu biểu của du ký văn xuôi trung đại.

Năm 2011, trong Hội thảo quốc tế Những lằn ranh văn học tại Thành

phố Hồ Chí Minh Nguyễn Hữu Sơn có bài viết Thể tài văn xuôi du ký chữ

Hán thế kỷ XVIII – XIX và những đường biên thể loại đã đánh giá trong Tây

hành nhật ký có: “những giọng văn tả cảnh, tả vật, tả sự khác nhau và đan xen

3

trong đó một số ít đoạn văn hồi ức, kể sử, bình luận ngoại đề”, “cách ghi chép

khá đa dạng, phong phú” [22, tr.207].

Năm 2011, có Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Minh Quý Nghệ thuật tự

sự trong Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ. Tác giả luận văn đưa ra những

nhận định về giọng điệu tự sự, phương thức và ngôn ngữ tự sự của Phạm Phú

Thứ trong Tây hành nhật ký. Đây là căn cứ để Phạm Phú Thứ khám phá xã

hội, nền văn minh mới bên ngoài nước Việt.

Năm 2011, có công trình của Nguyễn Hoàng Thân Phạm Phú Thứ với

Giá Viên toàn tập tác giả đã giới thiệu về con người, cuộc đời, sự nghiệp

Phạm Phú Thứ, đặt ra và giải quyết vấn đề văn học, đánh giá giá trị học thuật

của Giá Viên toàn tập. Ông đã nhắc đến tác phẩm Tây hành nhật ký của Phạm

Phú Thứ như sau: “ghi chép chi tiết từng hoàn cảnh, sự kiện trên con đường đi

sứ theo từng thời điểm tương ứng” [25, tr.119].

Năm 2014, Trần Thị Mỹ Hạnh với luận văn Thể tài du ký trong văn xuôi

trung đại Việt Nam (Qua Thượng kinh ký sự, Tây hành kiến văn kỷ lược, Giá

viên biệt lục) đã nghiên cứu Giá Viên biệt lục (Tây hành nhật ký) trên khía

cạnh thể tài du ký. Đầu tiên, như về những điều trông thấy – nét đặc trưng của

thể tài du ký: “Phạm Phú Thứ đã giới thiệu về bức tranh hoành tráng tân kỳ

của nền văn minh châu Âu ở các nước phương Tây với những chi tiết sự kiện

chọn lọc.” [3, tr.16]. Hay về điểm nhìn nghệ thuật thì: “Còn ở Giá Viên biệt

lục, các trang viết được kết tinh bởi tầm nhìn của một nhà văn hóa, óc tư duy

của nhà khoa học và xúc cảm của một du khách.” [3, tr.21].

Năm 2014, có công trình nghiên cứu Thể tài du ký văn xuôi chữ Hán thế

kỷ XVIII – XIX, luận văn Tiến sĩ Hà Thị Thanh Nga, Viện Hàn lâm Khoa học

xã hội Việt Nam, Học viên Khoa học xã hội. Ở đây Tây hành nhật ký được

xem xét trên cả khía cạnh nội dung là tập du ký ghi chép toàn bộ cuộc sống

sinh hoạt của người dân các nước phương Tây và nghệ thuật của tác phẩm

4

trên phương diện điểm nhìn trần thuật, không gian, thời gian nghệ thuật của

tập du ký.

Năm 2015, Lê Nguyễn có bài viết Tây hành nhật ký – Tập sử liệu quý

của người xưa đăng trên trang http://baodanang.vn. Bài nghiên cứu bàn về

những giá trị và đóng góp quan trọng của tập du ký đối với văn học cũng như

đối với lịch sử. Tây hành nhật ký là một tài liệu quý vừa là bản tấu của sứ bộ

dâng lên nhà vua, vừa là một tập du ký ghi chép thật tỉ mỉ và tinh tế những

chuyện mắt thấy tai nghe trong suốt cuộc hành trình của Phạm Phú Thứ.

Thứ hai, quan điểm cho rằng Tây hành nhật ký là sự đi xuống của thể

loại ký thể hiện trong bài viết của PGS-TS Nguyễn Đăng Na Vị trí Giá Viên

biệt lục (Tây hành nhật ký) trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 in

trong Phạm Phú Thứ toàn tập (2014). Ở đây, tác giả nhận định: “Nhưng phải

thừa nhận rằng, Giá Viên biệt lục không tạo được sự khoái cảm ở người đọc

bằng Tây hành kiến văn kỷ lược. Những cảm xúc lạ lẫm hoặc ngạc nhiên đến

sung sướng đôi khi là rất ngây thơ trẻ con của Lý Văn Phức theo từng dòng

chữ ùa vào lòng người đọc. Người dọc hăm hở, hồi hộp, buồn vui, kinh dị…

theo tác giả. Ta khó có thể tìm thấy những cảm xúc kiểu đó khi đọc tác phẩm

của nhóm tác giả Phạm Phú Thứ.” [10, tr.2130]. Hay trong bài viết của mình

Nguyễn Đăng Na còn nói: “Và vì vậy, các tác giả đã đưa Giá Viên biệt lục

quay về với hình thức văn học chức năng. Hình thức (văn học chức năng) sẽ

tự mâu thuẫn với nội dung (hiện thực rộng lớn sống động của thế giới phương

Tây tư bản). Giá Viên biệt lục báo hiệu sự bế tắc của thể loại ký.” [10,

tr.2131].

Tóm lại, những công trình nghiên cứu này mới dừng ở mức độ khái quát

một vấn đề nào đó của tập du ký, mà nghiên cứu mang tính chất tổng quát về

nội dung và nghệ thuật của Tây hành nhật ký là chưa có. Với thái độ trân

trọng và kế thừa những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, trong

5

khuôn khổ cho phép, khóa luận xin tiếp tục nghiên cứu, mở rộng và bổ sung

nhiều ý kiến, quan điểm của bản thân về tập Tây hành nhật ký của Phạm Phú

Thứ trong tiến trình du ký Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX.

3. Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng đến các mục đích sau:

- Góp phần tìm hiểu thêm một tác phẩm thuộc thể loại du ký, chỉ ra đặc

điểm nội dung, nghệ thuật của tập Tây hành nhật ký.

- Qua những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Tây hành nhật ký,

khẳng định vị trí, vai trò của tập du ký nói riêng và thể tài du ký nói chung

trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, đối tượng nghiên cứu là tập Tây hành nhật ký của

Phạm Phú Thứ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi tư liệu: chúng tôi lựa chọn bản dịch Tây hành nhật ký của Phạm

Phú Thứ (Bản dịch in trong Phạm Phú Thứ toàn tập (2014), Phạm Ngô Minh

(chủ biên), NXB Đà Nẵng). Bên cạnh đó, để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện và

khách quan trong phân tích, nhận xét, đánh giá, chúng tôi mở rộng biên độ đối

tượng và phạm vi nghiên cứu để so sánh, đối chiếu, khảo sát với 3 tập du ký

chữ Hán thế kỷ XVIII – XIX đó là: Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác), Hải

trình chí lược (Phan Huy Chú) và Tây hành kiến văn kỷ lược (Lý Văn Phức).

Phạm vi nội dung: nghiên cứu đặc điểm nội dung, nghệ thuật của Tây

hành nhật ký và vị trí của Tây hành nhật ký trong thể tài du ký Việt Nam thế

kỷ XVIII – XIX.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu

6

sau đây:

- Phương pháp loại hình

- Phương pháp phân tích tổng hợp

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

6. Bố cục khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, phần

Nội dung chính của khóa luận bao gồm hai chương:

Chương 1. Giới thuyết chung

Chương 2. Tây hành nhật ký – những đặc điểm tiêu biểu

NỘI DUNG

Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG

1.1. Thể tài “du ký” Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX

7

1.1.1. Vấn đề thuật ngữ “du ký”

“Du ký” hiểu theo cách triết tự: du là đi, ký là viết; du ký là đi và viết,

ghi chép những gì mắt thấy tai nghe trên đường đi đến một nơi nào đó. Trong

Từ điển Tiếng Việt (Hoàng phê chủ biên) du ký là thể ký “ghi lại những điều

người viết chứng kiến trong chuyến đi chơi xa” [16, tr.25]. Thuật ngữ du ký

cũng được dựa vào các từ điển chuyên ngành văn học và các nghiên cứu

thuộc lí luận văn học. Du ký cũng đã được nhắc đến với tư cách là một thể

văn trong sách Các thể văn chữ Hán Việt Nam: “Văn du ký là loại văn được

viết ra trong những chuyến đi, vừa để ghi lại hành trình, vừa để bày tỏ cảm

xúc về những điều mắt thấy tai nghe. Đặc điểm của văn du ký là chuyên lấy

việc mô tả thắng cảnh núi sông, phong vật làm đề tài, cách viết đa dạng, có

thể miêu tả, có thể trữ tình, có thể nghị luận, và phải là chính tác giả ghi chép

lại chuyến đi của chính mình, miêu tả lại cảm thụ của bản thân trước núi non,

phong vật.” [32, tr.113].

Từ điển thuật ngữ văn học xác định: “Du ký là một thể loại văn học

thuộc loại hình lý mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân người đi du lịch ngoạn

cảnh về những điều mắt thấy, tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ

hay những nơi ít người có dịp đến. Hình thức của du ký rất đa dạng, có thể là

ghi chép, nhật ký, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những thông tin tri thức

và cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục chân tình của xứ sở ít người biết

đến” [2, tr.94].

Sách Giáo trình lý luận văn học tập 2: “Tác phẩm và thể loại văn học”

cũng có cách định nghĩa với những cách tương đồng:

“Có thể hiểu du ký là thể loại ghi chép về vẻ đẹp kì thú của cảnh vật

thiên nhiên và cuộc đời những cảm nhận, suy tưởng của con người trong

những chuyến du ngoạn, du lịch. Du ký phản ánh, truyền đạt những nhận biết,

những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân người du lịch về những điều

8

mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa lạ, những nơi mọi người ít có dịp đến,

chứng kiến” [23, tr.382].

Thông qua việc tìm hiểu ở trên, chúng tôi chủ trương đưa ra những đặc

điểm để nhận dạng du ký như sau:

- Du ký là một thể tài của ký, viết bằng văn xuôi, thường có dạng hồi ức

và dạng nhật ký, dành cho hoạt động di chuyển giữa các địa điểm có khoảng

cách lớn, ra bên ngoài không gian sống thường ngày, trong một khoảng thời

gian có độ dài nhất định.

- Du ký là những tác phẩm được ra đời từ cuộc hành trình của chính bản

thân người viết đến một vùng đất mới. Đó có thể là một chuyến đi mang tính

chất cá nhân để thăm thú, ngoạn cảnh, du lịch mang tính tự phát. Đó cũng có

thể là chuyến đi công cán, công vụ được tổ chức thành đoàn với mục đích

chính trị, xã hội, văn hóa. Người viết bao giờ cũng có ý thức ghi chép lại một

cách đầy đủ nhất những đặc điểm về vùng đất, con người nơi mình đi qua. Vì

thế, nội dung quan trọng nhất của du ký là người thật, việc thật được trải

nghiệm qua chính người viết. Và phải mang lại cho người tiếp nhận những

nhận thức, cảm xúc mới mẻ về các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và con người.

- Du ký là chi chép sự thật nhưng nó được nhìn qua lăng kính chủ quan

của người viết nên mang dấu ấn cá nhân. Người kể chuyện chủ yếu ở ngôi thứ

nhất xưng “tôi”, đôi khi có thể kể chuyện ở ngôi thứ ba.

1.1.2. Phân loại “du ký”

Du ký xuất hiện đầu tiên trong văn học Lý – Trần. Du ký là một thể tài

của ký nên hình thức tồn tại đương nhiên là văn xuôi, căn cứ vào văn tự mà

văn du ký được chia thành văn du ký chữ Hán và văn du ký chữ Nôm. Các tác

phẩm văn du ký xuất hiện ở thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV thể hiện qua những

bài du ngoạn ngắm cảnh vật như: đi chơi cảnh núi, đi thuyền trên sông và đi

viếng thắng tích chùa chiền... Cụ thể hơn nữa, đến thế kỷ XVIII – XIX với tác

9

phẩm Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác đã đưa du ký viết bằng chữ Hán

tiến thêm một bước mới: ở đây có sự kết hợp đan xen giữa văn tường thuật và

văn du ký, giữa kể và tả, giữa tự truyện và trữ tình, giữa khách quan và chủ

quan... tạo nên kiểu văn du ký mẫu mực trong văn học Việt Nam. Mặt khác, ở

giai đoạn này đã xuất hiện một số tác phẩm văn du ký viết về các chuyến du

công ở nước ngoài như: Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức (1785 –

1849), Hải trình chí lược của Phan Huy Chú (1782 – 1840), Như Tây ký của

Ngụy Khắc Đản (1817 – 1873)... Như vậy, du ký văn xuôi chữ Hán đã được

hình thành ở giai đoạn này. Đó không chỉ là du ký về những chuyến đi trong

nước mà còn là những chuyến viễn du ra ngoài biên giới Việt Nam và Trung

Hoa. Bên cạnh du ký viết bằng chữ Hán, đã xuất hiện một số tác phẩm viết

bằng chữ Nôm như: Tây phù nhật ký của Tôn Thọ Tường (1825 – 1877), Như

Tây ký của Ngụy Khắc Đản, Hương Sơn hành trình của Chu Mạnh Trinh

(1862 – 1905)... Ngoài du ký chữ Hán và du ký chữ Nôm, văn học giai đoạn

XVIII – XIX đã xuất hiện du ký bằng chữ Quốc ngữ như: Chư quấc thại hội,

Như Tây nhật trình của Trương Minh Ký (1855 – 1900), Chuyến đi Bắc Kỳ

năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898). Tóm lại, dưới hình thức tự

sự, du ký rất đa dạng nhưng phát triển mạnh mẽ nhất là giai đoạn thế kỷ

XVIII – XIX.

Tuy nhiên, còn phải kể đến những tác phẩm thuộc thể loại khác có tính

chất du ký như: thơ, phú và truyện. Về các tác phẩm thơ có tính chất du ký thì

ở giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVII có các tác phẩm: Hành dịch

đăng gia sơn (Nhân việc quan lên chơi núi quê nhà), Du Phật Tích sơn ngẫu

đề (Đi chơi núi Phật Tích ngẫu nhiên đề thơ), Đăng Thiên Kì lưu đề (Lên núi

Thiên Kì đề thơ lưu niệm), Sơn hành (Đi chơi núi) của Phạm Sư Mạnh, Du

Phật Tích Sơn đối giang ngẫu tác (Chơi núi Phật Tích Sơn đối diện dòng

sông ngẫu nhiên làm thơ), Du Côn Sơn (Chơi núi Côn Sơn), Thanh Hư động

10

ký (Bài ký động Thanh Hư) của Nguyễn Phi Khanh, bài Nguyệt tịch bộ Tiên

Du sơn tùng kính (Đêm trăng dạo bước trên đường thông núi Tiên Du) của

Chu Văn An (1292 – 1370), Trình Thiền sư tiêu dao ở Phúc Đường của Tuệ

Trung Thượng Sĩ (1230 – 1291)... Mặt khác, có những bài thơ du ký ra đời

trên con đường đi công cán, đi sứ. Những bài thơ này có nội dung liên quan

đến yếu tố lịch sử như Vương lang qui (Chàng Vương trở về) của Ngô Chân

Lưu (tức Khuông Việt: 933 – 1011), Quá Tống đô (Qua kinh đô nhà Tống)

của Trương Hán Siêu (? – 1354). Bên cạnh đó còn có các tác phẩm thơ đi sứ

như: Hiệp Thạch tập của Phạm Sư Mạnh, Giới Hiên thi tập của Nguyễn

Trung Ngạn, Kim Lăng ký của Nguyễn Đình Mỹ, Đỗ Cận; Bắc sứ quốc ngữ

thi tập của Hoàng Sĩ Khải, hay Mai lĩnh sứ Hoa thi tập của Phùng Khắc

Khoan… Còn ở thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX thì có một số tác phẩm thơ có

tính chất du ký nổi bật như: Tụng Tây Hồ phú và Ngự đạo hành cung nhật

trình (Nguyễn Huy Lượng), Nam trình liên thi tập (Ngô Thì Ức), Thanh Hiên

thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân

Hương…

Về phú, có nhiều bài mang tính chất du ký xuất hiện những tác phẩm ở

thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII như: Dục Thúy Sơn linh Tế tháp ký (Bài ký tháp

Linh Tế núi Dục Thúy), Bạch Đằng giang phú (Bài phú sông Bạch Đằng) của

Trương Hán Siêu (? – 1354), Vịnh Vân Yên tự phú (Bài phú Vịnh chùa Vân

Yên) của Huyền Quang thiền sư (1254 – 1334), Tịch cư ninh thể phú và Đại

Đồng phong cảnh phú của Nguyễn Hãng.

Mặt khác, đến thế kỷ thứ XVI đã xuất hiện tác phẩm du ký mang yếu tố

truyện như: Thường quốc nam chính ký (Thường Quốc Công chinh chiến

phương nam) của Nguyễn Quyện (1511 – 1593) viết về cuộc mang quân đi

đánh chiếm vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.

Như vậy, du ký là một thể tài của ký. Tuy nhiên, còn có những thể loại

11

khác mang tính chất của du ký như: thơ, phú, truyện. Trong phạm vi nghiên

cứu, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ - tác

phẩm du ký chữ Hán Việt Nam tiêu biểu thế kỷ XVIII – XIX.

1.1.3. Diện mạo “du ký chữ Hán” Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX

Để thấy được diện mạo du ký chữ Hán Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX chúng tôi đi khảo sát một số tác phẩm du ký tiêu biểu.

1.1.3.1. Thượng kinh ký sự - Lê Hữu Trác

Lê Hữu Trác (1720 – 1791) còn có tên khác là Lê Hữu Huân, hiệu Hải

Thương Lãn Ông, quê ở huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải

Dương (nay thuộc xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).

Khác với con đường hành đạo, lập công danh của đa số các tri thức nho

sĩ phong kiến đương thời, Lê Hữu Trác chọn cho mình một hướng đi riêng.

Sự lập thân của ông trước hết gắn với nghề làm thuốc chữa bệnh cho nhân

dân, đem trí tuệ và nhiệt tâm để soạn bộ sách Y tâm tông lĩnh để lưu lại cho

hậu thế. Sự nghiệp của Lê Hữu Trác được tập hợp trong bộ Y tâm tông lĩnh

được ông biên soạn trong khoảng 40 năm. Tác phẩm có giá trị y học và văn

học đáng kể. Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y lỗi lạc mà còn là một nhà

tư tưởng lớn, một nhà thơ, một nhà văn có đóng góp đáng kể trong nền văn

học trung đại Việt Nam.

Thượng kinh ký sự là tập ký bằng chữ Hán được Lê Hữu Trác hoàn thành

vào cuối năm Quý Mão Cảnh Hưng 44 (tức là tháng 11 năm 1783). Đây là

thời điểm ông đã hoàn thành chuyến lên kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán.

Cuộc hành trình bắt đầu từ ngày 12 tháng 1 năm 1782 kéo dài gần một năm đi

từ vùng núi Hương Sơn, Hà Tĩnh đến kinh thành Thăng Long và ngày 1 tháng

11 năm 1782 Lê Hữu Trác về đến nhà.

Tác phẩm Thượng kinh ký sự đã phác họa bức chân dung Lê Hữu Trác,

ông đứng trên lập trường của một nhà nho có tầm vóc tư tưởng của một cao

12

nhân, ẩn sĩ. Lê Hữu Trác ghi chép chuyến đi của mình theo thời gian tuyến

tính và đánh dấu bằng ngày tháng cụ thể cùng các câu chuyện xảy ra. Trong

tác phẩm ông luôn có sự đan xen giữa du ký công vụ và ghi chép theo kiểu tự

thuật, hồi ức, nhật ký, ký sự, truyện ký văn học. Cảm hứng Đi – Xem trở

thành cảm hứng chủ đạo. Ông đặc biệt quan tâm đến những cảnh, những

người gặp trên đường và miêu tả lại, kể lại một cách tỉ mỉ, chi tiết cùng sự suy

ngẫm của bản thân mình. Giữa đêm đi thuyền trên sông vắng cảm tác mà làm

một bài thơ về nỗi khách tha hương. Đến Thăng Long thì luôn nhớ về cảnh

cũ, người xưa. Về cố hương thì vui sướng vì nếp nhà. Tái ngộ cố nhân lại ưu

tư về mối duyên không thành và cảm động tấm lòng người tri kỉ,... Bên cạnh

đó là những câu chuyện về việc chữa bệnh cho thế tử, về cảnh xa hoa trong

phủ chúa cùng nỗi niềm trước thời cuộc. Con đường đi lên kinh đô chữa bệnh

cho thế tử không thành nhưng Lê Hữu Trác đã để lại trong lịch sử văn học

một thiên du ký đặc sắc, mở đầu cho sự phát triển thể tài du ký trong văn học

trung đại Việt Nam.

1.1.3.2. Hải trình chí lược - Phan Huy Chú

Phan Huy Chú (1782 – 1840) có tên là Hạo, sau vì kiêng quốc Húy của

nhà Nguyễn mới đổi là Chú, tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong. Ông là một nhà

thơ, là thư tịch lớn, nhà bác học Việt Nam.

Sự nghiệp của Phan Huy Chú cũng có nhiều thăng trầm. Năm 1821, ông

được vua Minh Mạng cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế. Năm

này ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên

soạn và được khen thưởng. Nhiều năm sau đó ông liên tục được giữ nhiều

chức quan to nhưng lại gặp khá nhiều trắc trở. Sau đó, ông cáo bệnh xin về ở

ẩn và làm nghề dạy học, soạn sách cho đến khi mất. Các tác phẩm chính: Lịch

triều hiến chương loại chí, Hoàng Việt dư địa chí, Mai Phong du Tây thành

dã lục, Hoa thiều ngâm lục, Hải trình chí lược...

13

Hải trình chí lược được Phan Huy Chú viết trong chuyến đi sứ từ năm

1832 đến khoảng giữa năm sau qua các cửa sông, cảng biển, hải đảo từ Quảng

Nam – Vịnh Thái Lan – Giang Lưu Ba (Singapo) – Batawa (Inđônêsia) – kinh

đô Huế. Đây cũng là một chuyến đi để hiệu lực. Tác phẩm hoàn thành và viết

lời tựa năm 1833. Tác phẩm gồm 43 mục, không ghi theo trình tự thời gian

mà viết theo hành trình đi qua các địa danh cả trong nước và nước ngoài.

Phan Huy Chú đặc biệt chú ý đến những giá trị nổi bật của nền văn minh

phương Tây như: hệ thống quân sự, pháp luật, giao thông, xưởng máy cưa,

lịch Pháp, tiền tệ, chữ viết,...

Phan Huy Chú đã sáng tác với tư duy của một nhân viên công vụ ghi

chép địa lí hành chính, vừa có ý thức điều tra dân tộc học và xã hội học, kinh

tế học, văn hóa học, nhân học, phong tục học. Với một người luôn có tư duy

khảo cứu cùng tư tưởng tiến bộ thì biểu hiện xã hội phương Tây là những

thành tựu lớn, gợi mở ra những định hướng cho sự phát triển của xã hội nước

nhà. Đó là điều luôn khiến một nhà nho cấp tiến như ông trăn trở khi nghĩ về

trình độ, sức mạnh của quốc gia, dân tộc.

1.1.3.3. Tây hành kiến văn kỷ lược - Lý Văn Phức

Lý Văn Phức (1785 – 1849) tự là Lâm Chi, hiệu Khắc Trai và Tố Xuyên,

xuất thân trong một gia đình nhà Nho gốc ở thôn Tây Hương, thuộc huyện

Long Khê, phủ Chương Thâu, tỉnh Phúc Kiến. Cuộc đời làm quan của Lý Văn

Phức lắm thăng trầm với bao lần thăng, biếm song cũng là nơi tạo điều kiện

cho ông thực hiện nhiều chuyến viễn nước ngoài, những chuyến đi này ảnh

hưởng sâu sắc đến nhãn quan nho gia và tạo nguồn cảm hứng vô tận cho ngòi

bút Lý Văn Phức. Sáng tác của Lý Văn Phức phong phú, đa dạng với nhiều

loại hình, cả chữ Hán và chữ Nôm, thơ ca lẫn văn xuôi, văn học nghệ thuật

cũng như văn học chức năng. Văn tài của ông có những đóng góp đáng kể vào

tiến trình phát triển của nền văn hóa, văn học dân tộc.

14

Tây hành kiến văn kỷ lược viết về chuyến đi các nước Đông Nam Á của

phái đoàn do vua Minh Mạng cử, trong đó có Lý Văn Phức với tư cách hiệu

lực. Chuyến đi khởi hành từ cửa biển Đà Nẵng ngày 18 tháng 1 năm 1830 đến

ngày 24 tháng 9 cùng năm thì về đến kinh đô Huế. Tác phẩm ra đời trên cơ sở

việc thực hiện chính sách ngoại giao của vua Minh Mạng. Phái đoàn của Lý

Văn Phức có nhiệm vụ tìm hiểu tình hình các nước Đông Nam Á dưới sự

thống trị của nhà nước tư bản Anh (Hồng Mao). Bởi thế, Lý Văn Phức đã có

sự quan sát tỉ mỉ, chi tiết về những điều mắt thấy tai nghe ở một xã hội đã

theo mô hình tư bản. Nguyễn Đăng Na đánh giá đây là một tác phẩm ký hết

sức độc đáo nó đã mở đầu cho những tác phẩm viết về phương Tây tư bản.

Nội dung tác phẩm này được tổ chức theo từng nội dung cụ thể, thể hiện sự

khoa học, chặt chẽ. Tác phẩm gồm bài Tựa cùng 14 mục chính văn: Danh

hiệu, Nhân vật, Khí tập, Y phục, Ẩm thực, Văn tự, Lễ tục, Quân sự, Thời hậu,

Ốc vũ, Xa thừa, Hóa tệ, Chu thuyền, Địa sản, phần cuối là phụ lục.

Tây hành kiến văn kỷ lược phản ánh cái nhìn của một nhà nho phương

Đông đối với xã hội Tây phương, ông đã vẽ ra một khung cảnh xã hội hoàn

toàn mới mẻ, lạ lùng trong nhãn quan của những người phương Đông. Ngay

trong từng nội dung, tác giả vừa ghi chép vừa kể chuyện, vừa có sự so sánh,

đánh giá trữ tình ngoại đề.

1.2. Tác giả Phạm Phú Thứ và Tây hành nhật ký

1.2.1. Phạm Phú Thứ - Tiến sĩ Việt Nam đầu tiên tới trời Tây

1.2.1.1. Bối cảnh chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX

Sang thế kỷ XVIII – XIX tình hình chính trị xã hội có sự thay đổi. Trong

nước hình thành nhiều lực lượng ở nhiều địa phương khác nhau. Tập đoàn

phong kiến Lê – Trịnh ở Thăng Long khủng hoảng trầm trọng, không còn khả

năng lãnh đạo đất nước và dẫn đến sụp đổ. Nhà Tây Sơn lên ngôi ở Phú Xuân.

Sau đó, nhà Nguyễn chiếm được quyền lực đã tạo ra một cục diện chính trị

15

mới. Các sĩ phu Bắc Hà di chuyển vào Nam làm quan cho nhà Tây Sơn rồi

nhà Nguyễn. Dấu ấn những chuyến đi này thể hiện trong tác phẩm của Bà

Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Cao Bá Quát,…

Thời gian này thương nghiệp cũng phát triển lên một bước đáng kể, đặc

biệt là ngoại thương. Hoạt động buôn bán được tăng cường và mở rộng. Bên

cạnh các thương nhân Trung Quốc, Gia Va, Xiêm, Nhật Bản còn có thuyền

buôn các nước tư bản phương Tây. Đáng chú ý, trong những thế kỷ XVII,

XVIII các quốc gia phương Tây đang trên đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

Ngoài việc buôn bán hàng hóa, cuộc tiếp xúc với văn minh phương Tây thông

qua hoạt động ngoại thương chắc chắn đã đưa đến cái nhìn về một thế giới

mới ngoài Trung Hoa với những tư tưởng tự do, phóng khoáng, ít nhiều người

Việt nghĩ đến sự thay đổi. Hoạt động ngoại thương ở sứ Đàng Trong diễn ra

náo nhiệt hơn Đàng Ngoài. Đàng Trong là vùng đất mới được khai phá, việc

tiếp nhận những trào lưu, tư tưởng, xu hướng mới dường như cũng nhanh

nhạy hơn.

Sự phát triển của công thương nghiệp đã làm xuất hiện một số thành thị

mới và làm hưng thịnh, phồn vinh các trung tâm kinh tế hàng hóa cũ. Kẻ Chợ,

Phố Hiến là hai đô thị nổi tiếng bấy giờ ở Đàng Ngoài. Hội An thành phố

cảng lớn nhất ở Đàng Trong. Bên cạnh đó, các đô thị mới ra đời tại những

vùng có điều kiện thuận lợi về giao thông đường bộ, đường sông, đường biển

như: Đồng Đăng, Kì Lừa (Lạng Sơn), Vân Đồn, Vạn Ninh, Đông Triều

(Quảng Ninh), Vị Hoàng (Nam Định), Phù Trạch, Phúc Lễ (Nghệ An),… Nền

kinh tế hàng hóa dần manh nha trong xã hội nông nghiệp, quan hệ sản xuất

phong kiến. Tầng lớp thị dân ra đời với lối sống phóng khoáng, tự do, dám

nói lên ý kiến cá nhân, dám phục vụ nhu cầu riêng tư,… Những điều này đã

có tác động đến tư duy nhà nho, lực lượng chính sáng tác văn học Việt Nam

thời trung đại.

16

Về phương diện đối ngoại, tầm nhìn của chính quyền Nguyễn còn được

thể hiện rõ trong thế ứng đối với các thế lực phương Tây và phương Đông.

Trong điều kiện chính trị thế giới cũng như khu vực có nhiều thay đổi, những

tri thức, triết luận nho giáo đã tỏ ra không còn là cơ sơ duy nhất, hữu hiệu cho

việc hoạch định kế hoạch, phương châm cho mọi hành động nữa. Trong bối

cảnh đó, lượng thông tin phong phú, đa diện, đa chiều, cùng quan điểm tư duy

thực tiễn, niềm tin sức mạnh của chính mình đã tạo nên những cơ sở chính

yếu cho các quyết sách của Đàng trong.

Bên cạnh đó, hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây cũng có

những ảnh hưởng nhất định đến đời sống, tư tưởng, ý thức hệ người Việt.

Thiên Chúa giáo mang theo quan niệm, lối sống Tây Âu, lại thuyết phục con

người bằng đức tín nên dần lấy được tình cảm của một bộ phận dân chúng.

Các giáo sĩ còn dạy tiếng Pháp, các bộ môn khoa học tự nhiên cho một số

giáo dân, thậm chí đưa họ sang Pháp.

Sự xuất hiện ngày càng nhiều của phương Tây ở Việt Nam đã làm triều

đình phong kiến lo sợ. Trong khoảng thời gian này một số quốc gia Đông

Nam Á đã trở thành thuộc địa của phương Tây. Bởi vậy, chế độ giáo dục thi

cử ở Việt Nam cũng được đẩy mạnh để phục vụ cho nhu cầu củng cố bộ máy

thống trị, đảm bảo quan hệ ngoại giao, mặt khác để tìm cách hạn chế sự xâm

nhập của phương Tây.

Như vậy, tình hình chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX cũng

đã góp phần vào sự ra đời và phát triển các tác phẩm du ký Việt Nam thế kỷ

XVIII – XIX.

1.2.1.2. Cuộc đời, con người Phạm Phú Thứ

Phạm Phú Thứ (1821 – 1882), tự Giao Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu

Giá Viên, là một đại thần triều nhà Nguyễn, quê ở làng Đông Bàn, huyện

Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông xuất thân trong một gia

17

đình Nho phong, tổ năm đời của ông vốn họ Đoàn, gốc Bắc Thành. Mẹ mất

sớm nhưng nhờ thông minh, chăm chỉ và từng được Tùng Thiện Vương dạy

dỗ nên ông sớm có tiếng là người học giỏi. Năm 23 tuổi, cụ đỗ Giải nguyên

Ân khoa năm Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (1842) tại trường Thừa

Thiên. Năm 24 tuổi đỗ hội nguyên và đứng đầu bảng Đệ tam giáp đồng Tiến

sĩ xuất thân khoa thi Hội năm Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843). Sau

khi đỗ được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, tri phủ Lạng Giang, thăng Thị

Độc, đổi bổ Tri Phủ, phủ Từ Nghĩa, ông được điều về kinh giữ chức Viên

ngoại lang ở Bộ lễ, cải bổ chức Án Sát Thanh Hóa, Hà Nội. Sau bị ốm và xin

về quê dưỡng bệnh. Trong thời gian ở quê nhà, ông đề xướng việc đào sông

đắp đê ở Quảng Nam làm lợi cho dân. Phạm Phú Thứ là một viên quan tốt,

một nhà thơ có tài. Thiếu tướng Đỗ Mậu trong hồi kí của mình cũng đã viết

rằng: “Cụ Phạm Phú Thứ là một nhà nho tuy ra làm quan… nhưng cụ luôn

hành xử một cách thanh liêm, cương trực và từng tỏ thái độ bất khuất đối với

người Pháp, nên được giới sĩ phu và nhân dân mình hết lòng ngưỡng mộ.” [9,

tr.58].

Nói về thơ Phạm Phú Thứ đó là tấm lòng của người con đất Quảng

cương trực, với tình cảm chân thành tha thiết, luôn quan tâm chia sẻ nỗi vui

buồn với ngư dân, nông dân trong cuộc sống hàng ngày. Cùng với Đặng Huy

Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ sống trong bối cảnh lịch sử có nhiều

biến động ông cũng sớm có ý thức canh tân, đổi mới và thực hiện nhiều

chuyến đi sứ.

Đầu năm 1863, sau khi vua Tự Đức xét mấy điều khoản trong Hòa ước

Nhâm Tuất còn có chỗ chưa thỏa, liền sung Phạm Phú Thứ làm Khâm sai vào

ngay Gia Định, hội với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp để đàm phán với

quan soái Pháp và quan đại thần nước Y Pha Nho (Tây Ban Nha). Không

hoàn thành nhiệm vụ ông phải bị giáng một cấp. Tháng 5 (âm lịch) năm này,

18

ông được cử làm Phó sứ, cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản và Bồi sứ

Ngụy Khắc Đản sang Pháp và Tây Ban Nha với nhiệm vụ xin chuộc lại ba

tỉnh miền Đông Nam Kì. Tháng 2 (âm lịch) năm 1864 sứ bộ về đến Huế. Sau

đó ngoài bản tường trình cốt để thuyết phục vua Tự Đức mau cải cách việc

học tập và phát triển công nghiệp, Phạm Phú Thứ còn dâng lên vua hai tác

phẩm do ông làm trong chuyến đi, đó là Tây hành nhật ký và Tây Phù thi

thảo. Vua xem cảm động có làm một bài thơ để ghi lại việc này. Được tin cậy

nhà vua thăng ông làm Tham tri bộ lại.

Năm 1865, thăng ông chức Thự Thượng thư bộ hộ, sung cơ mật viện đại

thần. Ở chức vụ này, ông đã mật tâu xin đặt bốn Tuyên phủ sứ ở Quảng Trị,

Bình Định, Nghệ An và Hưng Hóa, đồng thời xin đặt trường giao dịch chợ

búa, sửa thuế thương chính lập thổ tù ở nơi ấy để làm vững mạnh nơi biên

phòng. Ông luôn có tư tưởng canh tân, đổi mới nhưng không thành.

Năm 1866, quan soái Pháp phái tàu đến cửa Thuận An (Huế) đưa thư đòi

quản luôn ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Nhà vua liền phái

Phạm Phú Thứ và Phan Huy Vịnh đến xin giữ giao ước cũ lâu dài.

Năm 1867, Phan Thanh Giản mất, triều đình cử Phạm Phú Thứ làm

người điều đình với Pháp. Năm 1874, triều đình cho mở nhà thương chính ở

Bắc Kỳ. Nhà vua cho Phạm Phú Thứ là người am hiểu và có tài cán lão luyện

nên tháng 10 (âm lịch) năm đó, đổi ông làm Thự Tổng đốc Hải Yên kiêm

Tổng lý thương chánh Đại thần. Đến nơi gặp lúc đê huyện Văn Giang (nay

thuộc Hưng Yên) vỡ, nước lũ tràn cả hai phủ là Bình Giang và Ninh Giang

thuộc Hải Dương. Thấy dân đói khổ, ông lập tức xin trích năm vạn phương

gạo ở kho Hưng Yên để phát cho dân. Đồng thời lại phái thuộc hạ đem những

người dân còn khỏe mạnh đến Đông Triều, Nam Sách… khẩn hoang, cày cấy

kiếm sống.

Năm 1876, Phạm Phú Thứ được thực tụ chức Tổng đốc Hải An. Để yên

19

dân ông xin đặt trường mua gạo ở chợ An Biên (thuộc Hải Phòng) và Đồ Sơn

(thuộc Quảng Ninh) đồng Phái Thương Biện và Lương Văn Tiến (anh em họ

ngoại với Phú Thứ) đi hiểu dụ lưu dân, tạo công ăn việc làm cho họ để họ thôi

càn rỡ, ngang ngược. Ngoài ra, ông còn cho khai rộng sông ở phù Bình

Giang, mở Nha Thương Chánh và trường học chữ Pháp ở Hải Dương vào

năm 1878.

Năm 1880 ông bị giáng làm Quang lộc tự khanh lĩnh chức Tham tri bộ

Dinh. Sau đó nhân có bệnh ông xin về quê.

Phạm Phú Thứ đã đi sứ rất nhiều nơi qua những chuyến đi này ông rút ra

được nhận thức rằng chỉ có con đường canh tân mới giúp đất nước thoát khỏi

thảm họa lạc hậu vì vậy mà ông luôn luôn có tư tưởng đổi mới, canh tân đất

nước. Đây là yếu tố đã chi phối rất nhiều tới nội dung những tác phẩm của

Phạm Phú Thứ.

1.2.1.3. Sự nghiệp sáng tác

Sáng tác của Phạm Phú Thứ cũng phong phú, đa dạng như các hoạt động

chính trị - xã hội của ông. Những tác phẩm thơ văn tập hợp thành bộ Giá Viên

toàn tập (gồm 13 quyển thơ và 13 quyển văn). Riêng tác phẩm Tây hành nhật

ký (in riêng gọi là Giá Viên biệt lục) gồm 3 quyển: quyển hạ, quyển trung và

quyển thượng. Tập văn tập thơ trên ghi lại khá tỉ mỉ những điều mắt thấy tai

nghe về kinh tế, chính trị, phong tục tập quán của người phương Tây, trong

chuyến đi sứ dài ngày vào năm 1863.

Bên cạnh văn chương, Phạm Phú Thứ còn biên soạn một số tác phẩm sử

học như: Lịch triều thống hệ niên phả toát yếu, Bắc quốc lịch triều thông hệ

liên chứ. Khi về quê dưỡng bệnh ông có viết thêm cuốn Bản triều liệt thánh

sự lược toát (toản) yếu. Ngoài ra, ông còn khắc in để phổ biến một số sách

thực dụng cho người Trung Quốc dịch từ sách tiếng Anh ra chữ Hán như: Bác

vật tân biên (sách khoa học phổ thông), Hàng hải kim châm (sách nói về kỹ

20

thuật hàng hải), Vạn quốc công pháp (sách nói về cách thức giao thiệp quốc tế),

Khai môi yếu pháp (sách nói về cách khai thác than đá) đã góp phần vào tư

tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch…

Hiện nay, tất cả các tác phẩm của ông đã được dịch, giới thiệu đầy đủ trong

Giá Viên toàn tập dày hơn 2000 trang do Nxb Đà Nẵng ấn hành, bản dịch đẹp

đẽ, tiện lợi cho việc tìm hiểu và nghiên cứu về con người, thơ văn Phạm Phú

Thứ.

Các tác phẩm của Phạm Phú Thứ đều thể hiện cảm hứng yêu nước gắn liền

với những tư tưởng canh tân nhằm chấn hưng, phát triển sao cho đất nước sớm

trở nên giàu mạnh, đảm bảo giữ vững chủ quyền quốc gia.

1.2.2. Tác phẩm Tây hành nhật ký

1.2.2.1. Hoàn cảnh ra đời

Tây hành nhật ký ra đời trong chuyến đi sứ dài ngay sang Pháp và Tây

Ban Nha, từ 21 tháng 6 năm 1863 đến ngày 28 tháng 3 năm 1864. Tác phẩm

được dâng lên vua Tự Đức để triều đình nắm rõ tình hình các nước phương

Tây. Khác với Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức và Hải trình chí

lược của Phan Huy Chú, Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ được viết theo

trình tự thời gian, đúng kiểu ghi chép hành trình. Tác giả Phạm Phú Thứ tỏ ra

là một viên quan cần mẫn, tận tụy. Trong khoảng 11 tháng đi sứ nước ngoài,

Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ đã ghi chép đến 271 ngày, bằng thời

gian của 9 tháng. Có thể nói, Phạm Phú Thứ đã ghi chép gần như mỗi ngày.

Đó là chưa kể, rất nhiều ngày ông còn ghi sự việc theo từng canh giờ. Với

cách làm này, Tây hành nhật ký như những thước phim quay chậm, tác giả là

người quay phim tái hiện trọn vẹn mỗi việc làm, hành động, lời nói của các

nhân vật. Đoàn sứ đến một nơi nào mới, ông đều miêu tả đến quang cảnh

chung, phục sứ của từng người khách, các phong tục tập quán, lịch sử hình

thành các vùng đất, nghi thức chào hỏi, hành lễ, các món ăn trên bàn tiệc. Nếu

21

xuất hiện một sự vật lạ lẫm kiểu phương Tây, ông cũng tìm cách khám phá

như kỹ thuật đóng thuyền, chế tạo súng, đồng hồ…

Tây hành nhật ký ra đời trong bối cảnh đó cũng cho thấy được những vấn

đề cấp thiết đối với nước ta lúc bấy giờ, đặt ra những yêu cầu phải đổi mới

đối với nhà nước phong kiến ta: cần có những chủ trương chính sách để thay

đổi phù hợp với điều kiện tình hình nước Việt. Nếu Lý Văn Phức, Phan Huy

Chú ra đi với tư cách là kẻ đi đày thì Phạm Phú Thứ đi trong tư thế thay mặt

triều đình Đại Nam đến bàn quốc sự ngoại giao. Vì vậy, họ được các nước

đón tiếp, cư xử rất thân mật nhiệt tình. Do đó hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng

tác của Tây hành nhật ký cũng khác do với các tác phẩm du ký trước đó. Tây

hành nhật ký hơn hẳn các tác phẩm du ký trước đó về quy mô và phong phú

hơn gấp nhiều lần về nội dung.

1.2.2.2. Mục đích sáng tác

Tập du ký được viết ra với mục đích đặc biệt nhằm dâng lên vua Tự Đức

để báo các tình hình với các nước phương Tây với nhiệm vụ của một đại thần

nhận lãnh sứ mệnh trọng đại do nhà vua giáo phó, vừa bằng một tinh thần học

hỏi, một óc nhận xét tinh tế, Phạm Phú Thứ đã mang lại cho người đọc nhiều

chi tiết thú vị về những vùng đất ông đã đi qua như cảng Aden, Le Caire, cảng

Alexandrie, Toulon Marseille,…

Với quan điểm, lập trường của một nhà nho, đặc biệt là nhà nho hành đạo

Phạm Phú Thứ đã có sự nhìn nhận đánh giá sâu sắc. Phạm Phú Thứ đi sứ với

mục đích là muốn thỏa thuận với Pháp giao lại ba tỉnh Nam Kỳ cho nhà

Nguyễn và dâng tấu bản Tây hành nhật ký. Việc ông quan tâm và ghi nhận

thành tựu khoa học, công nghệ, kĩ thuật phương Tây đã mở ra một luồng tư

tưởng mới. Phạm Phú Thứ đã thấy rõ sự đối lập giữa một phương Đông

nghèo đói, lạc hậu với một phương Tây giàu có hiện đại.Vậy nên tư tưởng

canh tân, cải cách đã xuất phát từ chính trải nghiệm này. Bởi thế hành động

22

thực tế của Phạm Phú Thứ sau chuyến đi đã dâng lên triều đình bản tấu sớ báo

các tình hình, sự phát triển của các nước phương Tây với mong muốn canh

tân, đổi mới nước nhà.

Nếu như Lý Văn Phức với thân phận đi đày, viết là để cho mình nên tự do

trong sáng tác, không bị bất cứ một điều kiện nào chi phối. Lý Văn Phức yêu

đất nước mình, ông viết bằng trái tim xúc động mãnh liệt nhất của người

thương dân, yêu quê cha đất tổ trước thế giới mới lạ phương Tây. Còn Tây

hành nhật ký của Phạm Phú Thứ không phải viết ra để dành riêng cho mình,

mà để dâng trình lên nhà vua. Bởi vậy những cảm xúc cá nhân của người cầm

bút bị cất giấu kìm nén mà thay vào đó là trách nhiệm nghĩa vụ. Phạm Phú

Thứ phải ghi chép sao cho chính xác, tỉ mỉ, trung thực và khách quan, còn

những suy nghĩ mới hay không mới, tán thành hay không tán thành, đúng hay

sai, yêu hay ghét… đều thuộc về nhà vua. Tác phẩm trở thành biên bản, tác

giả trở thành thư kí ghi biên bản.

1.2.2.3. Vấn đề bản dịch

Tây hành nhật ký là tác phẩm được Phạm Phú Thứ dâng lên vua Tự Đức

ngay sau chuyến đi để triều đình nắm rõ tình hình các nước phương Tây. Đây

có thể coi là du ký, nhật ký công vụ bởi cách ghi chép theo trình tự thời gian

gần như không bỏ qua ngày nào, chỉ là ít hay nhiều sự kiện mà thôi. Nhật ký

gồm 3 quyển, quyển 1 được Ngô Đình Diệm, sinh viên trường Hậu bổ (sau

làm tổng thống Ngụy quyền tại miền Nam) dịch ra tiếng Pháp, đăng trên tập

san Đô thành Hiếu cổ năm 1919; quyển 2 do Trần Xuân Toản dịch ra tiếng

Pháp cũng đăng trên tập san Đô thành Hiếu cổ năm 1926.

Tại miền Nam, Tây hành nhật ký được dịch ra Việt ngữ lần đầu tiên vào

những năm 1960 – 1962, đăng trên tạp chí Văn Đàn, dịch giả là các ông Tô

Nam, Nguyễn Đình Diệm, chuyên viên Hán học trường Viễn Đông bác cổ Sài

Gòn và Văn Vinh – Lê Khải Văn. Bản dịch trên dựa vào bản sao lục bằng

23

tiếng Hán do cháu gọi bằng chú của tác giả là Phạm Phú Lâm (từng giữ chức

Khâm sai Tả trực Kỳ vào năm 1886) và người đồng châu là Trường Trọng

Hữu sắp xếp thành tập. Bản dịch này có ưu điểm là các dịch giả vận dụng sở

học để ghi lại nguyên ngữ nhiều nhân danh và địa danh đã được Phạm Phú

Thứ phiên âm ra cách đọc của người Việt, mà nếu thiếu nguyên ngữ, người

đọc sau này sẽ gặp nhiều khó khăn. Ví dụ nước Ai Cập (Egypte) là người

soạn ghi là Y – Diệp, cảng Suez viết là Ku – ét, Le Caire thì viết là thành Ke

thiếu tá Pháp Rieunier âm là Lý – A – Nhe, Aubaret thì âm là A – Ba – Ly…

tuy nhiên, một số địa danh và nhân danh vượt ra ngoài khả năng tìm hiểu và

suy đoán, người dịch không hề chú thích gì sau phần phiên âm của tác giả.

Ngoài ra, Tây hành nhật ký còn có bản dịch được in trong Phạm Phú

Thứ toàn tập (2014), NXB Đà Nẵng. Hay tập du ký còn có bản dịch của

Quang Uyển in trong Nhật ký đi Tây (1999), NXB Đà Nẵng.

Có thể xác định Tây hành nhật ký là tập du ký đầu tiên của người Việt

viết về sinh hoạt của một số nước phương Tây (Pháp, Tây Ban Nha, Ý) ở từng

trang ghi chép Tây hành nhật ký cung cấp cho người đọc những tư liệu mới

mẻ trong kho tàng kiến thức: về kinh tế, về nhiếp ảnh, giai thoại lịch sử…

Tiểu kết chƣơng 1

Trong văn học trung đại Việt Nam thể ký đã hình thành, phát triển và có

những đóng góp to lớn vào lịch sử văn học dân tộc. Thể tài du ký là một trong

24

những tiểu loại của ký chỉ những tác phẩm ra đời từ những cuộc hành trình

đến những vùng đất mới lạ với những khám phá, trải nghiệm về thiên nhiên,

cuộc sống, con người, văn hóa của chính người viết. Du ký xuất hiện trong

văn học trung đại Việt Nam ngay từ giai đoạn đầu của văn học viết bằng cách

hướng vào các thể loại như thơ, phú, truyện. Đến thế kỷ XVIII – XIX, xã hội

Việt Nam có những biến động lớn, văn minh phương Tây xâm nhập, con

người có điều kiện thực hiện những cuộc hành trình dài rộng cả về không gian

và thời gian. Thêm vào đó là sự vận động bản thân nền văn học ngày một phát

triển, đổi mới mở rộng hướng tiếp cận, phản ánh đời sống thông qua lăng kính

chủ quan của người viết. Lúc này thể tài du ký được hình thành trọn vẹn với

những du ký trường thiên bằng văn xuôi chữ Hán như: Thượng kinh ký sự của

Lê Hữu Trác, Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức, Hải trình chí lược

của Phan Huy Chú và Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ. Các tác phẩm du

ký đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe của những nhà nho với tư tưởng

canh tân đất nước, về những trải nghiệm của mình khi đặt chân đến các nước

phương Tây. Những tác phẩm du ký đã đặt nền móng tạo nên những giá trị

văn hóa, lịch sử, văn học đặc sắc cho sự phát triển của du ký các thời sau.

25

Chƣơng 2. TÂY HÀNH NHẬT KÝ - NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TIÊU BIỂU

2.1. Đặc điểm về nội dung

2.1.1. Tiếp xúc, ghi chép trực tiếp về phương Tây

Tây hành nhật ký viết về chuyến đi sứ của phái đoàn sứ bộ Phan Thanh

Giản sang phương Tây để thực hiện nhiệm vụ chuộc lại ba tỉnh miền Đông

Nam Kỳ. Đọc tác phẩm, nhờ những ghi chép tỉ mỉ, trung thực độc giả hình

dung ra hình trình của Phạm Phú Thứ cùng sứ đoàn của ông.

Ngày mồng 6 tháng 5 năm Tự Đức thứ 16 tức ngày 21 tháng 6 năm

1863, tại chùa Thuận An (Huế) trên một con tàu lớn của Pháp. Ngày mồng

10, thuyền vào đến cửa Cần Giờ, đoàn sứ lên bộ vào thành Gia Định thực hiện

một số ghi lễ ngoại giao cũng như chuyển hàng hóa lên thuyền. Ngày 20,

thuyền đi qua đảo Côn Lôn bắt đầu xa vùng biển Việt Nam và ngày 22 thì vào

cửa Tân Ba Gia, đi tham quan và tìm hiểu vùng đất này. Sau khi đi qua các

đảo vùng Đông Nam Á, thuyền tới các nước vùng Ấn Độ Dương như

Srilanka, Pakixtan… Sau 27 ngày từ khi rời Tân Ba Gia, thuyền cập bến Aden

(thuộc A Rập, Ye Men). Ngày 26 tháng 6, thuyền nhổ neo đi ngang qua châu

Phi (các nước Etiopia, Xu Đăng). Ngày 4 tháng 7, thuyền cập bến Suze, đi

thăm nước Ai Cập, tìm hiểu văn hóa, phong tục nơi đây. Ngày 14 đoàn sứ di

chuyển bằng xe lửa đến thành Alenxandri (Ai Cập) đến ngày 20 lại lên thuyền

đi vào vùng biển giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, qua Tuy – ni – di, Italia. Ngày

27 tháng 7, thuyền vào hải phận nước Pháp, cập bến Toulon. Sứ bộ vào thành

Toulon tham quan tìm hiểu nhiều lĩnh vực: kĩ thuật chế tạo máy bay, duyệt

quan bộ binh, nhà hát, diễn kịch…

Ngày 30, đoàn sứ di chuyển bằng xe lửa và hôm sau đến thành Paris,

được đón bằng nghi lễ long trọng, sau đó họ trình Quốc thư của nước Nam đế

chuyển ngữ nhằm gửi tới Quốc trưởng nước Pháp (vua Napoleon III). Ngay

24 tháng 9 phái bộ Việt Nam tiếp kiến và trình quốc thư tới Quốc trưởng Pháp

26

Naloleon III. Ngày 27, phái bộ tiếp tục lên đường. Ngày mồng 5 tháng 10, sứ

bộ tới Tây Ban Nha, dâng Quốc thư lên nữ hoàng và tham quan một số nơi.

Đến mồng 10, đoàn sứ lên xe lửa, ngày 12 lại lên thuyền bắt đầu cuộc hành

trình trở về. Ngày 16, thuyền cập bến Italia và thực hiện một số nghi thức

chào hỏi ngoại giao. Ngày 29, đoàn sứ ghé vào vịnh Napoli để sửa chữa

thuyền, cho đến 16 tháng 11 mới nhổ neo, ngày 23 lại thả neo ở vũng Mết xin

đến đầu tháng 12 mới tiếp tục đi. Ngày 17 tháng 12 qua nước Hy Lạp, Ai

Cập, ngày 19 thả neo tại vịnh Alenxandri để đi xe lửa, ngày 21 lại lên thuyền.

Ngày mồng 1 tháng riêng năm Giáp tý (tức ngày 08/02/1864 dương

lịch), thuyền sứ về đến vịnh Aden, vào vùng biển Ấn Độ Dương. Ngày 21,

đoàn sứ ghé thăm Srilanka, ngày 23 tiếp tục lên thuyền, đến 28 đi qua hải

phận Miến Điện, mồng 2 tháng 2 qua Tân Lang, mồng 7 qua cảng Bạch

Thạch. Ngày 11 tháng 2 về đến Bến Nghé thì thả neo tiến hành một loạt nghi

thức, chào hỏi, đón tiếp. Ngày 17, thuyền tiếp tục đi, vào cửa Cần Giờ chờ hết

gió mạnh thì ngày 18 tiếp tục và ngày 21 tháng 2 năm Giáp Tý (tức ngày

28/03/1964) đoàn sứ bộ về đến cửa Thuận An, kết thúc hành trình xuyên châu

lục trong thời gian 9 tháng tròn.

Hơn 9 tháng ở Tây Âu phái bộ Đại Nam đã có dịp xem xét, khảo sát

phương Tây về các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ… Họ được

sống giữa những trung tâm phát triển nhất của chủ nghĩa tư bản: Tu lông, Mác

xây, Pari (Pháp), Cai Rô (Ai Cập), Ma Đít (Tây Ban Nha), Rôm (Italia)… do

đó có điều kiện tìm hiểu các nhà máy, công xưởng, xí nghiệp… những nơi

đóng tàu thủy làm đầu máy xe lửa, chế tạo súng, làm động cơ, thủy điện, sản

suất, làm thuốc lá, kĩ thuật phim ảnh, nặn tượng, làm đồ gốm, mạ vàng, đúc

chì rồi tham quan các vườn sinh học, bảo tàng, mỹ thuật, nhà máy lạp xiếc...

họ tới các nơi nói trên không phải như khách du lịch mà với một ý thức đi sâu

tìm hiểu cấu tạo máy móc, quy trình vận hành sản xuất, những trang thiết bị,

27

những giá trị kinh tế của từng loại cơ sở sản xuất để ghi chép lại và dâng cho

vua đọc.

Dù tới bất kì nơi nào, tác giả cũng đều nghiên cứu, tìm hiểu, hỏi thăm tỉ

mỉ, tường tận để ghi chép lại. Chẳng hạn, khi miêu tả vườn Moncau tác giả

viết: “vườn này rộng chừng hai dặm, chung quanh rào sắt, hai cửa tiền, hậu

rộng hơn mười thước, hàng rào cột trụ bằng sắt mạ vàng. Trong vườn có

nhiều cổ thụ, đường kính đến hơn một thước. Hai bên lối đi hoa cỏ trồng

riêng từng đám. Người đến du ngoại tấp nập ngày đêm. Thật là một nơi thắng

cảnh ở trong thành vậy” [ 10, tr.1904 – 1905]. Hay khi đến xem lò bát đĩa đồ

gốm thì tác giả cũng ghi chép khá tỉ mỉ: “lò đặt ngoài thành cách 25 dặm về

phía tây nam. Ra khỏi thành, đi qua rừng Boulogne trông về ngọn núi phía

Tây thấy trên lưng núi có một lâu đài rất lớn. Aubaret cho biết đó là cung điện

Saint Cloud. Nửa giờ sau thì đến lò gốm. Sở xây 3 tầng, dài mấy chục gian,

hai bên đều có cửa kính, gian đầu có 3,4 phòng, trong phòng ở trên bàn có

bày la liệt các thứ như bình, ly to, đĩa, chậu, lọ hoa... cái nào cũng nhuộm màu

và kẻ chỉ vàng.” [10, tr.1916].

Bên cạnh việc tái hiện lại những địa danh, quang cảnh các nước phương

Tây thì hành ảnh con người phương Tây cũng hiện lên rất cụ thể qua cái nhìn

của Phạm Phú Thứ. Trong Tây hành nhật ký không miêu tả ngoại hình, dáng

vóc người châu Âu, ông lại quan sát kĩ trang phục hoàng gia Pháp, Tây Ban

Nha, vua Napoleon được miêu tả: “Quốc trưởng đội mũ đệt bằng lông vũ và

mặc áo ngắm bằng tơ lông vũ, xe ở giữa và tay hẹp, mũ và áo đều màu đen,

mũ trang sức bằng vàng, cổ áo liền với áo và xẻ ở giữa, hai bên cổ áo và hai

tay đều thêu bằng vàng, người đeo ở ngực một dải hoa bội hạng nhất và đặt ở

thắt lưng một thanh kiếm trang sức bằng vàng.” [30, tr.218-219].

Phạm Phú Thứ cũng chú ý trang phục nữ hoàng Tây Ban Nha: “đầu đội

mũ vàng, có chạm lỗ sưa, dát ngọc trắng, mặc áo da màu đỏ và xanh lợt và vạt

28

sau là một tấm dài lượt thượt chừng bốn năm thước, nên mỗi lần người đứng

dậy đi thì một người hầu đứng theo nâng vạt áo.” [30, tr.242]. Có thể nói đến

thời điểm đoàn sứ bộ Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ sang châu Âu (1863 –

1864) thì người Tây đã không còn xa lạ nữa. Do đó, điều khiến Phạm Phú

Thứ chú ý là điều họ chưa từng thấy. Ông chú ý miêu tả, so sánh diện mạo

của người thường dân châu Âu như các tác giả ở giai đoạn trước. Phạm Phú

Thứ có một cơ hội vô cùng hiếm hoi là được tiếp xúc với hoàng tộc, giới

thương lưu một số nước châu Âu họ trở thành đối tượng quan sát miêu tả của

Phạm Phú Thứ và đem đến cho người đọc những hiểu biết thú vị. Đây cũng là

một đặc trưng của tác phẩm du ký: cung cấp cho người đọc những tri thức

mới lại về những vùng đất mới, nơi ít người được đặt chân đến.

Bên cạnh đó việc miêu tả hình thức bên ngoài là như vậy những thái độ

đối với tính cách của người phương Tây thì ông không hài lòng, ông phê phán

việc làm giàu của họ nhờ buôn bán thuốc phiện. Phạm Phú Thứ có vẻ ôn tồn

nhưng rất thẳng thắn: “còn như thuốc phiện thì Anh Cát Lợi làm ra người

phương Đông dùng chứ người phương Tây không có người nào hút.” [30,

tr.187]. Đây rõ ràng không chỉ là việc làm giàu, mà sau còn trở thành một

trong những chính sách tàn độc mà thực dân Đế quốc đã áp dụng đối với các

nước thuộc địa.

Ngoài ra, Tây hành nhật ký còn đề cấp đến vấn đề thiết chế xã hội ở

phương Tây. Nếu như ở phương Đông người phụ nữ luôn bị xã hội coi

thường, xếp cùng hàng với bọn tiểu nhân, không có tiếng nói và vẫn luôn

“trọng nam kinh nữ” thì ở phương Tây Phạm Phú Thứ lại nhận ra rằng họ

luôn coi trọng và đề cao người phụ nữ. Trong các cuộc chào hỏi tiếp xúc với

các quan chức Pháp, Phạm Phú Thứ nhiều lần miêu tả thái độ trân trọng phụ nữ

của họ. Trong khi phụ nữ phương Đông còn không được đi học thì Tây Ban

Nha lại có quốc trưởng là nữ giới. Điển hình là trường hợp bà Nguyễn Thị Sen,

29

người phụ nữ Việt Nam theo chồng sang Pháp cũng được đối đãi như bao

người phụ nữ khác: “viên quan ấy hướng về phía mẹ con thị, đưa tay ra thi lễ

nhường ngôi ở trường ký và nói chuyện hỏi han” [30, tr.177]. Với các nhà Nho,

sự lạ này khiến họ thắc mắc và được mở mang tầm mắt: “chúng tôi hỏi mới

biết rằng, phương Tây trọng phụ nữ, nên phàm có tiệc tùng thì phụ nữ trong

bữa tiệc được mời trân trọng và trong lúc ứng thù họ cũng như nam giới không

e tránh gì cả, dù chưa từng quen nhau cũng thường như vậy.” [30, tr.177].

Phạm Phú Thứ cũng cho người đọc thấy được vị trí bình đẳng giữa nam

giới và nữ giới phương Tây qua chi tiết: nhà vua Pháp phải đợi hoàng hậu về

mới tiến hành tiếp đoàn sứ “có sắc của Quốc trưởng xuống, ý muốn đợi bà phi

của nước họ về mới chọn ngày sứ bộ tiến kiến cho quốc lễ được long trọng”

[30, tr.197]; khi mời khách: “vợ chồng cùng đứng tên trong danh thiếp để mời

là có ý trọng khách” [30, tr.196]. Còn so sánh với phương Đông thì người phụ

nữ phải lánh vào buồng khuê, chỉ nâng khăn sửa túi cho chồng, đối đãi với

chồng phải trên dưới như một. Người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, không

có tiếng nói cá nhân, tiếng nói của cái tôi. Vì vậy mà phương Đông có câu

nói: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, người phụ nữ khi ở

nhà theo cha, lấy chồng phải theo chồng, chăm lo, lo lắng cho chồng, còn khi

chống mất thì phải theo con. Người phụ nữ phong kiến phải dựa dẫm, bị phụ

thuộc.

Khi viết về xã hội phương Tây những cảnh đối lập trong xã hội không

được Phạm Phú Thứ miêu tả trong Tây hành nhật ký. Trong cuộc hành trình

này, phái đoàn sứ bộ của Việt Nam đi đâu vào lúc nào đều được người Pháp

chỉ định trước và có người dẫn đường. Trong tác phẩm không thấy ghi chép

về việc các thành viên trong sứ đoàn đi thăm quan riêng lẻ, tự do. Mục đích

của Pháp là chỉ để nhìn thấy cảnh phồn hoa, tráng lệ. Vì thế, xã hội phương

Tây trong tác phẩm này hầu hết là những hoàng cung nguy nga, công thự lộng

30

lẫy, nhà xưởng quy mô, phố phường tấp nập, công viên đẹp đẽ. Tuy nhiên,

không phải vì thế mà ông có cái nhìn hoàn toàn tích cực về phương Tây. Bằng

sự hiểu biết, tầm nhìn sâu rộng Phạm Phú Thứ đã tiếp nhận cái văn minh tiến

bộ, hiện đại của các nước một cách chọn lọc.

Phạm Phú Thứ vừa là một nhà quay phim vừa là một nhân vật trải

nghiệm, những gì tác giả đưa đến cho người đọc là những gì họ từng trải qua.

Trong khi phương Đông lạc hậu, cổ hủ với những phong tục tập quán xưa cũ

thì ở những nước phương Tây đã phát triển hiện đại văn minh hơn, phát minh

ra hàng loạt những sản phẩm phục vụ con người. Về tàu “tích – kê” Phạm Phú

Thứ viết bằng chính những trải nghiệm của mình: “tàu này có vỏ ngoài bọc

sắt, chiều dài 20 trượng, cao (80 mét) chiều ngang 2 trượng 4 thước (10 mét),

chiều sâu 3 trượng 5 thước (14 mét), chia làm 4 tầng, trên cùng là nơi đi lại

trông ngắm, tầng thứ hai ngăn làm hơn 20 phòng, một nửa đằng sau là phòng

của thần đẳng 3 người, các quan lại coi tàu, cùng các quan ba, quan tư, quan

năm của Pháp về nghỉ phép, còn nửa trước thì binh sĩ coi tàu chiếm đóng.

Tầng thứ ba thì nhân viên sứ bộ, mấy vị quan một, quan hai của Pháp cũng ở

cùng với biên binh. Đầu tàu có hai ống khói, cuối tàu lắp một bộ máy đuôi cá,

trên dựng ba cột buồm. Do bảy sĩ quan thủy quân trông nom trong số đấy có

hai vị quan ba, ba vị quan hai, hai vị quan một. Lính có 160 tên, còn số quan

quân được nghỉ phép thì có hơn 30 người quan và hơn 300 tên lính. Mũi tàu

và hai bên tàu đều đặt đại bác, hạng đại bác dài năm, sáu thước, rộng bốn,

năm tấn. Ngoài ra, còn rất nhiều súng đạn hạng nhẹ. Mỗi khí gặp ngày lễ dạo

hay cập bến nào, hoặc gặp tàu khác, đều có trương cờ ba sắc (xanh, trắng, đỏ).

Tối đến thì trên cột buồm và hai bên sườn đều có treo đèn suốt sáng (đến đầu

cột buồm đều có treo một cái đèn pha lê để cho tàu khác dễ nhận, bên trái treo

đèn đỏ, bên phải treo đèn xanh để cho hai tàu khác dễ tránh nhau, trong đêm

tối. Tàu nào cũng theo lệ đó)” [10, tr.1854].

31

Phạm Phú Thứ cũng đi xem và miêu tả lại hình dáng của một khinh khí

cầu với những đặc điểm cụ thể: “Trái cầu có hai lớp, có vỏ cách nhau trừng

một thước, đường kính ở giữa hơn bảy mươi thước, chu vi hơn hai trăm

thước, bọc bằng lụa chát heo. Bên ngoài bọc bằng lưới gai, bên trong chứa

hơi, hơi đầy rồi mới bọc lụa lại, phía dưới treo cái thùng bằng mây, trong

thùng chứa mười hai người” [ 30, tr.168].

Như vậy, qua việc quan sát phương tiện đi lại của người phương Tây

cũng thấy được sự khác biệt giữa hai vùng đất. Trong khi người Việt vẫn chủ

yếu đi bộ, đi ngựa, đi thuyền tay chèo thì người phương Tây đã có thuyền

máy, tàu viễn dương, xe lửa thậm chí đã bay lên không trung bằng khinh khí

cầu. Tuy phương Tây họ phô trương trình độ cao xong lại hết sức giữ bí mất

công nghệ. Cho dù Phạm Phú Thứ được đi thăm quan nhiều nơi nhưng khi

hỏi về cách chế tạo thuốc nổ thì bị từ chối, Hà – ba – lí và A – tô – măng đều

nói “đó là việc rất nguy hiểm và nên giữ cẩn mật nhưng nếu muốn học phép

chế thì một hai năm nữa có thể đến” [30, tr.175]; không chỉ người có chức

trách trong bộ máy nhà nước cả đến công nhân cũng không tiết lộ bằng cách

quanh co: “chúng tôi hỏi qua phép chế, nhiều người trông coi các nơi cơ xảo

cũng nói rằng, nếu có cho người sang học tập, bọn họ đều nguyện truyền thụ

phương pháp cho” [30, tr.175]. Hơn nữa, trong Tây hành nhật ký Phạm Phú

Thứ còn ghi chép lại những phong tục của người phương Tây như phong tục

đón tiếp khách, phong tục đãi tiệc rất chu đáo, cẩn thận thể hiện sự nhiệt tình,

tôn trọng và điều đặc biệt là ở phương Tây thì yến tiệc đều thiết về đêm: “vào

khoảng giờ Dậu thì Pháp soái mới thần đẳng và mọi người cùng sang phòng

ăn dự tiệc (chú ý: theo tục lệ Tây phương thì yến tiệc đều thiết về đêm). Giữa

phòng kê một bàn đại, hai đầu đặt hai chiếc đèn pha lê, hoặc hai cây đèn lồng,

mỗi cây đốt sáu hay bốn ngọn bạch lạp; tiếp tới hai đèn đặt hai bình hoa.

Chính giữa đặt mâm hoa quả, bánh ngọt và đĩa đựng món ăn trước (khai vị)

32

rồi đến đĩa nhỏ đứng muối và hồ tiêu, chén đựng tương, dấm, hành, tỏi, bơ,

sữa...Trên bàn có những mảnh giấy khai món ăn theo thứ tự trước sau. Nếu có

cử nhạc thì nhạc trưởng cũng kê khai lên giấy những khúc sẽ hòa trong bữa

tiệc. Chung quanh bàn ăn, chiếu số chủ khách mà đặt chiếc đĩa không, mỗi đĩa

đều có vuông vải tây trắng gấp vuông lót dưới, trên đĩa đều có một mẩu bánh

mì, phía trước để sẵn bốn, năm chiếc ly lớn nhỏ, rượu nhẹ và nước thì dùng ly

lớn, rượu nặng thì dùng ly nhỏ, rượu sâm banh thì dùng ly trảng, bên phải để

một con dao mạ bạc và muỗng. Quanh bàn có để những mảnh thiếp để tên họ,

chức tước, chủ khách cứ nhìn vào thiếp mà nhận chỗ ngồi. Khi yên vị rồi ai

nấy đều lấy khăn trắng che từ bụng trở xuống đề phòng thức ăn rớt xuống

quần áo và dùng để lau tay, lau miệng. Bánh mì thì đặt bên trái chiếc đĩa. Đầu

tiên người bồi bàn bưng lên một tô canh thịt, khách ăn xong bỏ thìa, muỗng

vào tô. Bồi bưng xuống thì những tên bồi khác đem những món ở bàn sang

bàn bên cắt ra từng phiến, để dao hoặc thìa lên trên, rồi đưa từ bên trái sang

bên phải. Khách dùng xong lại thay đĩa khác. Thực phẩm phần nhiều là các

món rán, món khô, còn món nấu thì rất ít. Sau cùng đến các món rau và bánh

ngọt, rượu sâm banh. Tiệc xong dùng nước trà xanh, cà phê với đường ngọt,

tùy ý lựa dùng.” [10, tr.1851-1852]. Qua đây ta thấy được phong tục, cách đãi

tiệc rất cẩn thận, chu đáo của người phương Tây – một nét đẹp văn hóa hiếu

khách.

Tóm lại, qua Tây hành nhật ký người đọc đã thấy hiện lên một bức tranh

chân thực nhất những thành tựu, khoa học – kỹ thuật, cũng như hệ thống tổ

chức xã hội, phong tục tập quán của người phương Tây rất sinh động được tái

hiện một cách khách quan nhất qua lăng kính chủ quan của Phạm Phú Thứ.

Ông đã đưa đến cho người đọc những thước phim hiện thực, cận cảnh nhất về

xã hội các nước phương Tây thời bấy giờ.

33

2.1.2. Khát vọng canh tân đất nước

Đánh giá về những ghi chép của Phạm Phú Thứ, Nguyễn Đăng Na cho

rằng đây không chỉ là tác phẩm quan trọng trong loại hình ký của Việt Nam

thời trung đại mà nó còn là tác phẩm giúp ta hiểu tư tưởng canh tân của Phạm

Phú Thứ, Phan Thanh Giản và Ngụy Khắc Đản. Có thể nói, khát vọng canh

tân đất nước là nội dung mới, khác biệt của Phạm Phú Thứ so với các tác

phẩm du ký chữ Hán cùng thời. Vốn là một nhà nho hành đạo Phạm Phú Thứ

không chỉ viết tác phẩm ra với mục đích tái hiện chân thực một vùng đất, một

đất nước với đặc điểm nổi bật, những thành tựu khoa học – kỹ thuật của nơi

đó mà qua tác phẩm ông còn muốn gửi gắm và thể hiện tư tưởng canh tân đất

nước sâu sắc. Nhà nho hành đạo là kiểu nhà nho muốn thi hành, thực hành

những nguyên tắc, đạo lí Nho giáo. Họ luôn sẵn sàng dấn thân, nhập cuộc với

lí tưởng “trí quân trạch dân” cùng khát vọng xây dựng một xã hội thái bình

thịnh trị theo mô hình thời Nghiêu Thuấn. Trong sáng tác văn học của các nhà

nho hành đạo, hình tượng con người bao giờ cũng mang đầy hoài bão, tráng

khí, khát khao công hiến, khát khao hành động thực tiễn, ưu thời mẫn thế

không tiếc sức mình mà xả thân thụ nghĩa. Bởi vậy nên với vai trò, tấm lòng

của một nhà nho hành đạo Phạm Phú Thứ qua Tây hành nhật ký đã thể hiện

một một tư tưởng canh tân đất nước mãnh liệt. Từ những điều mắt thấy tai

nghe khi đi sứ sang phương Tây Phạm Phú Thứ càng trăn trở về thực trạng

đất nước, ông dâng lên vua Tự Đức tác phẩm Tây hành nhật ký cũng với

mong ước để vua và quần thần trong triều đình thấy được vấn đề bức thiết của

xã hội Việt Nam so với xã hội phương Tây lúc bấy giờ. Qua tác phẩm, Phạm

Phú Thứ còn có ý muốn thuyết phục triều đình mở cửa giao lưu với thế giới

bên ngoài, học tập khoa học kĩ thuật của phương Tây nhằm đưa đất nước phát

triển tự lực, tự cường. Điều này thể hiện tư tưởng cấp tiến cũng như tấm lòng

34

của Phạm Phú Thứ đối với việc canh tân đất nước. Đặng Đức Thi đã từng

nhận xét: “Trong những ngày lưu trú ở Pháp, Phạm Phú Thứ không chỉ quan

tâm tìm hiểu một cách cặn kẽ hơn hai mươi cơ sở công nghiệp nhẹ về khoa

học và công nghệ, về cách thức tổ chức quản lý và sản xuất, về kỹ thuật đóng

tàu, kỹ thuật chế tạo vũ khí, đạn dược và cách thức tổ chức những công việc

của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Pháp, ông còn đặc biệt quan tâm tìm hiểu

nền chính trị của Pháp lúc bấy giờ chẳng hạn như về vai trò của quốc hội về

địa vị của Hoàng đế trong nền quân chủ lập hiến cùng với bộ Dân luật của

nó… Như thế, không thể không nghĩ rằng Phạm Phú Thứ là một trong những

người đầu tiên có ước vọng rõ ràng và có hệ thống việc duy tân đất nước theo

kiểu mẫu phương Tây.” [6, tr.84].

Đứng trên lập trường của mình, Phạm Phú Thứ tiếp thu một cách chọn

lọc “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Tích cực quan sát tìm hiểu, học hỏi kĩ

thuật máy móc, dụng cụ tinh xảo của người phương Tây với ý muốn về nước

truyền lại cho nhân dân nước mình để cải thiện phát triển hơn. Nhưng khi

đứng trước khách quan thế giới Phạm Phú Thứ luôn tôn trọng đề cao đất

nước, thể hiện tấm lòng yêu quê hương đất nước tha thiết. Canh tân đất nước

trên cơ sở lưu giữ, phát huy những giá trị dân tộc. Trong Tây hành nhật ký

được thể hiện qua sự việc: có một lần, khi đoàn sứ đi thăm xưởng làm đồ gốm

ở thủ đô Paris nước Pháp, trong một căn phòng chứa nhiều đồ gốm của các

nước. Giữa đồ của Đại Thanh, Nhật Bản, có đồ gốm của nước ta nhưng đó lại

là “bình vôi của nước ta (bằng đất nung dối)” [30, tr.168]. Điều này chắc chắn

đã làm Phạm Phú Thứ và đoàn sứ suy nghĩ về hình ảnh dân tộc. Bởi thế, Phan

Thanh Giản mới lấy bộ trà Bát Tràng tặng lại để thể hiện tinh hoa của người Việt

trong chế tác gốm sứ. Việc này được ghi chép cụ thể như sau:

“Số là hôm trước, chúng tôi đến thăm lò gốm của họ và thấy trong đó đồ

gốm của các nước được cất giữ ở đấy, có cái bình vôi làm bằng đất nung dối

35

của nước ta, đều là loại thô, nên khi về tôi, Phan Thanh Giản, lấy bộ đồ Bát

Tràng của tôi mang theo, khá vừa mắt (gồm có bốn cái chén và hai cái đĩa,

đều bằng đất sét trắng, có vẽ hình cây trúc mới mọc, màu xanh chàm với câu

thơ đề: “Vị xuất thổ thời thiện hữu tiết”) giao cho Hà – ba – lí gửi tặng người

quản biện của xưởng đó làm lưu niệm, để cho người ta biết rằng đồ gốm của

nước ta không phải là đồ thô xấu cả.” [30, tr.225].

Hay trong tác phẩm có sự xuất hiện của những người Việt đang sống tại

Pháp. Phạm Phú Thứ đã viết về họ bằng tình cảm vô cùng yêu mến, trân

trọng. Đó là Nguyễn Văn Đức con trai một người Pháp (Jean – Baptiste

Chaigneau) với một phụ nữ Việt. Tuy đã sống ở Pháp ba mươi năm và có cha

người Pháp nhưng “lòng thật nhớ nước Nam”, nghe tin sứ quan nước Nam tới

Pháp, ông muốn đến thăm “cho thỏa lòng thương nhớ” [30, tr.157]. Một

người Việt khác tên là Nguyễn Thị Sen đã 75 tuổi cùng con gái Marie, con

trai Nguyễn Văn Lễ bắt xe lửa từ xa xôi tới thăm. Bà cảm động đến nỗi:

“Thấy người nước ta, thị nức nở rơi nước mắt vì cảm động” [30, tr.172], “Nay

quan đại sứ nước ta đến, cho thị gặp mặt, phúc cho thị lắm” [30, tr.173].

Người phụ nữ sống xa quê hương, ở nơi đất khách quê người từ rất lâu nhưng

vẫn nói được tiếng mẹ đẻ dù có nhầm lẫn đôi chút, vẫn giữ gìn được những

nét bản sắc của dân tộc. Thậm chí, bà Nguyễn Thị Sen còn: “Nguyện ở lại chờ

lúc sứ bộ về để tiến đưa cho thỏa tấm lòng phương xa” [30, tr.201]. Những

tấm lòng yêu quê hương đất nước, luôn nhớ về cội nguồn của những người

Việt khi sống ở nước ngoài thật đáng trân trọng và ngợi ca.

Mặc dù giao lưu tiếp xúc, gặp gỡ với những nền văn minh, nguồn tri

thức mới, hiện đại bị chi phối, ảnh hưởng nhưng họ - người dân nước Việt

vẫn luôn có tư tưởng, tấm lòng, tình cảm hướng về quê hương đất nước, góp

phần phát triển đất nước. Đó là những tấm lòng cao quý, không chỉ là tình

cảm tinh thần thuần túy mà còn là những hành động thiết thực với tư tưởng

36

tiến bộ muốn canh tân đất nước.

Tây hành nhật ký đã thể hiện tư tưởng canh tân đất nước của Phạm Phú

Thứ xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm thể hiện qua việc ông đã ghi chép

cụ thể, chi tiết từng lối sống sinh hoạt, những tựu khoa học kỹ thuật tiến bộ,

văn minh của người dân các nước phương Tây để làm tài liệu, căn cứ sau này

để truyền đạt giúp người dân nước mình học tập, cải tiến phát triển. Ông

muốn đổi mới, đưa ra những chủ trương thay đổi góp phần đưa nhân dân

thoát khỏi đói kém, khó khăn, đất nước thoát khỏi khủng hoảng, lạc hậu trên

cơ sở so sánh nền văn minh nước ta với với phương Tây qua việc dâng lên

vua tác phẩm Tây hành nhật ký mong muốn nhà vua nhìn lại và đưa ra những

chính sách đổi mới. Phạm Phú Thứ muốn góp một phần sức lực của mình vào

sự nghiệp lớn – sự nghiệp canh tân của cả dân tộc không chỉ trên lí thuyết mà

còn bằng chính hành động thiết thực, thực tế của mình.

Tư tưởng canh tân được thể hiện trong Tây hành nhật ký năm 1863 –

1864 là thời kì đỉnh cao của tư tưởng canh tân Phạm Phú Thứ, thể hiện tấm

lòng sắt son vì lợi ích đất nước và nhân dân, là tấm lòng sáng cho hậu thế noi

theo. Chủ trương của Phạm Phú Thứ đã ảnh hưởng rõ nét qua phong trào duy

tân Việt Nam hồi đầu thế kỉ XX và đã mở ra cho lịch sử nước nhà một bước

ngoặt quan trọng. Đó là chủ trương “khai dân trí, chánh dân khí, hậu dân

sinh” dưới sự lãnh đạo của ba nhà yêu nước lớn: Phan Châu Trinh, Trần Quý

Cáp, Huỳnh Thúc Kháng.

Tóm lại, qua Tây hành nhật ký Phạm Phú Thứ đã thể hiện một tư tưởng

canh tân đất nước sâu sắc – một tư tưởng tiến bộ của nhà nho có tấm lòng yêu

quê hương đất nước mãnh liệt.

2.2. Đặc điểm nghệ thuật

2.2.1. Điểm nhìn nghệ thuật

Có nhiều ý kiến khác nhau về điểm nhìn nghệ thuật ở đây chúng tôi hiểu

37

cái nhìn nghệ thuật là vị trí, chỗ đứng để người trần thuật quan sát, cảm thụ và

miêu tả đánh giá đối tượng đồng thời là cách nhìn, cách cảm nhận, quan điểm

của chủ thể đối với thế giới.

Xuất phát điểm cũng là cửa ngõ để độc giả đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn. Mỗi nhà văn lại có một cách nhìn, tình cảm, cách nghĩ riêng. Điều

này chi phối việc lựa chọn điểm nhìn, tức là chi phối cách quan sát, cách cảm

và miêu tả hiện thực. Du ký ghi chép “những điều trông thấy” từ các chuyến

đi do chính người đi thuật lại nên tất cả được nhìn nhận và đánh giá bởi một

con người cụ thể. Với thể tài này người kể chuyện luôn ở ngôi thứ nhất và

cũng chỉ có một người kể chuyện duy nhất. Cái tôi của người cầm bút trực

diện xuất hiện với tư cách là người trong cuộc.

Các tác phẩm du ký (Thượng kinh ký sự - Lê Hữu Trác, Hải trình chí

lược - Phan Huy Chú, Tây hành kiến văn kỷ lược - Lý Văn Phức, Tây hành

nhật ký - Phạm Phú Thứ), như tên gọi tác phẩm cũng như định danh thể tài, là

những tác phẩm viết về những chuyến đi của các nhà nho. Trong bốn tác

phẩm tác giả đồng thời là nhân vật tham gia vào nội dung suốt từ đầu đến

cuối. Những gì họ thuật lại chính là những trải nghiệm mới mẻ của họ trên

con đường rong ruổi sứ người. Trong các sự kiện hoạt động, người kể chuyện

luôn xưng “tôi” và bộc lộ cảm nhận, suy nghĩ của mình. Như thế, người kể

chuyện đã chọn điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ nhất, hay là điểm

nhìn từ bên trong. Trong Thượng kinh ký sự Lê Hữu Trác sử dụng cách kể

ngôi thứ nhất. Từ đầu đến cuối tác phẩm đại từ xưng “tôi” liên tục xuất hiện

mặc dù ở một số đoạn Lê Hữu Trác tỏ ra dè dặt, kín đáo khi đưa ra nhận xét

riêng tư song chính hình tượng nghệ thuật, chi tiết, giọng điệu… đã tự nó bộc

lộ rõ và thể hiện thái độ của người viết. Hay hiện tượng cái tôi tác giả trong

Tây hành kiến văn kỷ lược cũng hiện lên sinh động và không kém phần hấp

dẫn đó là thế giới phương Tây hoàn toàn xa lạ và đảo ngược qua cái nhìn địa

38

lý nho gia và cảm quan của một nhà văn hiện thực. Còn điểm nhìn nghệ thuật

ở cuốn du ký Tây hành nhật ký có những điểm khác biệt đặc biệt bởi ký giả

không chỉ có một mà có đến ba người, đối tượng độc giả lại chỉ có một người

cụ thể. Tính chất chức năng ở tác phẩm là rất đậm nên cái tôi người viết buộc

phải kìm nén, giản lược. Đó chính là điểm nhìn tự sự và nhân vật người kể

chuyện trong Tây hành nhật ký.

Ngoài ra, trong Tây hành nhật ký còn có sự phối hợp nhiều điểm nhìn

trần thuật. Nếu trong Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác đã có sự kết hợp

khéo léo nhiều điểm nhìn trần thuật. Mọi cảnh đời, con người hiện lên qua đôi

mắt giản dị của một người thường dân, một tri thức tài hoa, một thầy thuốc,

một nhà văn và một nhà thơ. Ở Tây hành kiến sự văn kỷ lược người đọc thấy

đươc cái tôi chính khách trong cái tôi của một nhà khoa học, nhà dân tộc học

Lý Văn Phức... Còn ở Tây hành nhật ký các trang viết được kết tinh bởi tầm

nhìn của một nhà văn hóa, óc tư duy của một nhà khoa học, ngoại giao, cảm

xúc của một du khách.

Với điểm nhìn của nhà văn hóa Tây hành nhật ký đã đem đến cho người

đọc những hiểu biết thú vị về nhiều địa điểm khác nhau trên thế giới, mang

đến cho người đọc những chuyến du lịch văn hóa vượt thời gian vô cùng thú

vị. Không gian văn hóa trong Tây hành nhật ký được tác giả miêu tả với

những hình ảnh đậm tính tây Âu. Đó là dinh soái phủ Pháp ở Sài Gòn, là buổi

tiệc phong cách châu Âu mà người Pháp mời đoàn sứ bộ. Trong hành trình

của mình, Phạm Phú Thứ cũng nhắc đến các địa danh như núi Địa Bàn, đảo

Lợn Mẹ, Lợn Con, núi Tây Trúc, phật Quan Âm. Từ những trang viết này

không gian Việt Nam cũng được mở rộng vào Đàng Trong với những đặc

trưng về văn hóa, phong tục tập quán và tính cách con người.

Bên cạnh đó, Phạm Phú Thứ còn viết về nhiều vùng đất như Tân Ba Gia,

Mô Đồ, Đồ Bà, Trấn Minh Ca. Đây là các địa danh thuộc Indonesia,

39

Malaysia, Singapore, lúc bấy giờ là thuộc địa hay cơ sở của Anh, Hà Lan.

Đây có thể coi là nhiều nước có ít nhiều quen thuộc trong văn hóa phương

Đông nhưng phần nào cũng bị lạ hóa của văn minh phương Tây. Nền văn

minh này được chi phối rất nhiều, có ảnh hưởng sâu sắc trên mọi mặt kinh tế,

văn hóa, xã hội tới các nước này... nó phần nào tác động, cho thấy sự lỗi thời

của văn hóa các nước phương Đông. Còn đối với cái nhìn của một nhà ngoại

giao. Tác phẩm Tây hành nhật ký ra đời gắn với các sự kiện chính trị Việt

Nam bấy giờ. Nó không chỉ là chuyến đi sứ đơn thuần đến các nước phương

Tây mà còn liên quan đến số phận của các vùng đất, liên quan đến các vấn đề

ngoại giao ảnh hưởng đến cuộc sống của con người thậm chí của cả dân tộc.

Trong những tác phẩm, các tác giả du ký tham gia trực tiếp, tiếp xúc, sống với

môi trường chính trị, ngoại giao vì vậy mà nó không còn là chuyến đi khám

phá hay du lịch nữa mà trở thành chuyến đi công vụ quan trọng. Và các vùng

đất họ đi qua được nhìn, nhận xét và đánh giá qua con mắt của nhà ngoại giao

có óc tư duy khoa học.

Thực hiện chuyến đi sứ Phạm Phú Thứ được giao trọng trách quan trọng

là thỏa thuận với Pháp để chuộc lại 3 ba tỉnh miền Đông Nam Kì là: Biên

Hòa, Gia Định và Định Tường. Các hoạt động đều thực hiện ở nước ngoài.

Đó là xã hội phương Tây mới mẻ, lạ lẫm về văn hóa, ngôn ngữ, luật pháp,

sinh hoạt...Vậy nhưng Phạm Phú Thứ cùng đoàn sứ bộ của mình vẫn rất cần

mẫn, chịu khó và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Triều đình Pháp đã chấp

nhận cho nước ta chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kì.

Nếu Lý Văn Phức và Phan Huy Chú không đi với tư cách ngoại giao mà

hai ông đi để hiệu lực để lấy công chuộc tội hay Lê Hữu Trác đi để thực hiện

mệnh lệnh với tư cách cá nhân, hi vọng nhân dịp này có thể in được cuốn sách

thuốc của mình thì với tư cách là những nhà ngoại giao đi làm nhiệm vụ,

chuyến đi của Phạm Phú Thứ được ông miêu tả một cách đầy đủ kế hoạch

40

ngày lên đường, cuộc sống sinh hoạt thường ngày, các cuộc viếng thăm tiếp

đón tại các điạ phương mà họ đến. Từ việc từ biệt kinh đô đến Gia Định, cuộc

tiếp đón ở soái phủ tại Sài Gòn đến những cuộc viếng thăm ở nước ngoài đều

được Phạm Phú Thứ tái hiện chi tiết tỉ mỉ.

Một điểm nhìn nghệ thuật nữa cũng được thể hiện rất rõ qua Tây hành

nhật ký đó là điểm nhìn của một nhà văn, nhà chép sử.

Du ký là những tác phẩm ra đời từ quá trình đi và viết ở nhiều vùng đất

mới lạ. Vì vậy, nó miêu tả bức tranh hiện thực xã hội đang diễn ra, nhà văn là

người chứng kiến, tham gia vào các sự kiện đó. Do đó, du ký phản ánh được

không khí thời đại nhà văn đang sống, các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử.

Nếu Thượng kinh ký sự là tác phẩm tái hiện bức tranh xã hội thời Lê – Trịnh

của Lê Hữu Trác. Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức thì chỉ rõ cuộc

sống đối lập giữa hai tầng lớp, thẳng thắn bộc lộ thái độ của mình về cuộc

sống của người phương Tây ở thuộc địa. Họ sống giàu sang, đầy đủ còn người

dân bản địa lại có cuộc sống khốn khổ, thiếu thốn. Thì Tây hành nhật ký của

Phạm Phú Thứ lại tái hiện lại cuộc sống của chính các nước phương Tây, các

vùng đất ở Châu Á bị phương Tây xâm lược. Tại đây, Phạm Phú Thứ đã

chứng kiến một Châu Âu tư bản giàu sang, hiện đại, văn minh, sang trọng.

Thành Paris hoa lệ được ông miêu tả: “Trong thành, lâu đài, dinh thự và nhà

thờ làm theo kiểu cao rộng”, “Phố xá thì nhà tầng liên tiếp” [30, tr.141], “Nơi

nào cũng đều có bồn hoa (trong thành cũng như ngoài thành đều có vườn hoa:

cứ vài dãy phố thì chừa một khoảng đất trống để trồng cỏ có hoa và đặt máy

phun nước, bên cạnh bày ghế dựa và ghế dài)” [30, tr.142]. Đối lập với cuộc

sống đó thì người dân vịnh An – điên của nước A-rờ-bi (Ả Rập Xê Út) lại

phải sống trong cảnh khốn khổ: “Người Anh đến ở đây trên hai mươi năm

qua, làm bãi chứa than để tiếp tế cho thuyền lửa đi lại phương Đông. Nước

Phú – lãng – sa cũng thuê đất, chở than đến chứa ở đấy và đặt lãnh sự để

41

trông coi thuyền đậu ở bến thường là vài chục chiếc. Người địa phương không

phục người Anh nên rình họ lúc đi một mình để giết” [30, tr.81]. Cuộc sống

của người Ả Rập cũng vô cùng cực khổ: “Họ chỉ ăn đậu lành, khoai lang và

khoai tây chứ không có thóc gạo và các thứ ngũ cốc khác. Những người ở rải

rác ven bờ bể thì sống nghề đánh cá hoặc nghề buôn; nhưng cũng đều bị

người Anh nô dịch cả.” [30,tr.81].

Với tư cách là một nhà văn, nhà chép sử Phạm Phú Thứ đã ghi chép tái

hiện lại cuộc sống, khung cảnh các nước Châu Âu với từng sự việc, sự kiện

lịch sử cụ thể nhất.

2.2.2. Hệ thống từ ngữ

Khác với ngôn từ nghệ thuật trong văn xuôi trung đại thường đẹp đẽ,

trau chuốt, các sáng tác du ký lại có lối hành văn trong sáng, mộc mạc, tự

nhiên, câu văn ngắn gọn mang giá trị thông tin cao. Không vay mượn những

khuôn mẫu, chất liệu có sẵn các tác phẩm du ký chú trong khai thác chất liệu

từ đời thường, đời tư. Đây là bước đi mạnh mẽ của văn xuôi nghệ thuật thời

trung đại trên con đường thoát khỏi cái ước lệ tượng trưng, khuôn sáo để xây

dựng một loại ngôn ngữ văn học uyển chuyển, mềm mại, giàu sức biểu cảm

và gần gũi với hiện thực cuộc sống. Có thể nói, thể tài du ký đã tạo điều kiện

thuật lợi để ngôn ngữ văn học được dân tộc hóa, dân chủ hóa. Do đó, trong

Tây hành nhật ký hệ thống từ ngữ được sử dụng khá phong phú, đa dạng, gần

gũi với đời thường, ngôn ngữ hàng ngày. Vì là cuốn nhật ký ghi lại sự việc

diễn ra hàng ngày, về lịch sử văn minh, hoạt động buôn bán giao lưu của các

nước phương Tây nên hệ thống từ ngữ cũng được sử dụng theo những đặc

trưng, cách nói của họ: “Ngôn ngữ và y phục: Quốc trượng và quần thần ăn

mặc cũng theo Tây phương; theo lối cũ thì áo dài tay rộng, từ hai bên nách

khâu xuống dưới chỉ hở độ hai tấc, thay vào quần thì lấy một vuông vải hay

lụa, quấn từ trên rốn trở xuống, tới gần ống chân, rồi xẻ đôi ra để bắt nếp cho

42

vào trong bí tất, chân đi giày da đỏ. Đàn bà thì trên mặc áo dưới quần xiêm,

trên cằm có xăm, trổ những đường chỉ xanh trông như bộ râu của đàn ông,

cánh tay cũng trổ vẽ, còn móng tay nhuộm đỏ; chân đi dép. Khi ra đường thì

quấn vải kín từ cổ xuống chân; giữa trán có đeo một cái ống nhỏ bằng ngón

tay út bằng vàng, bạc hay đồng, ống dài đến tận lỗ mũi; một dải lụa dài độ

bốn, năm tấc được dính vào đầu cái ống đo và được buông thả đến đầu gối.

Còn mũ bằng tơ đó là thứ thông dụng (mũ hình tròn, trên đỉnh có đính ba

chục sợi tơ đen; thường dân thì sợi dây bằng vải trắng)” [10, tr.1874].

Hay “Phong tục: Khi gặp khách hay ngững bậc quyền quý, họ chào bằng

cách cúi rạp đầu giơ bàn tay lên ngực rồi lên ngang trán; người làm thì

khoanh tay đứng hầu. Muốn biếu ai thứ gì, họ cũng quỳ gối để dâng lên, rất là

cung kính. Bạn hữu gặp gỡ nhau họ cũng ôm nhau, chạm mũi nhau để tỏ tình

thân. Việc hôn nhân thì rất sớm, bất cứ trai gái, hễ trên mười tuổi, tức thì

dựng vợ gả chồng. Khi sắp cưới, trai gái ăn vận lịch sự rồi cùng nhau đi tới

giáo đường làm lễ (Hồi giáo). Trên đường có âm nhạc giúp vui, lễ xong họ

kéo nhau đi dạo đường phố. Thế là bọn trẻ được coi như là trưởng thành rồi.

Tới ngày cưới, phường nhạc lại đưa bọn trẻ tới sông Nil để tắm gội (lễ rửa

tội). Tục lệ đó được thi hành một cách rất trọng thể.” [10, tr.1875].

Bên cạnh đó, hệ thống từ ngữ được sử dụng trong tác phẩm Tây hành

nhật ký rất chính xác vì ghi chép lại những sự việc xảy ra từng ngày, từng giờ.

Chẳng hạn như trong tác phẩm:

“Ngày 30.7 (12.9.1863)

Giờ Thìn, trấn quan trong thành đã phái một đoàn xe ngựa tới đón thần

đẳng ra nhà ga; theo đi tiễn tống có Rieunier và Aubaret. Giờ tỵ xe bắt đầu

chạy. Đường đi quanh co trong vùng sơn thủy: nhà cửa dân cư liên tiếp, ruộng

mênh mông; xét ra bên Tây không có giống trâu, người ta bắt ngựa kéo cày

hoặc lấy bò. Cày có hai chặng để tay cầm; lưỡi cày có hai bánh xe đỡ để cho

43

súc vật đỡ mệt. Nước Pháp phần nhiều ruộng cát, nên chỉ sản xuất lúa mì và

các thứ hoa quả, nhiều nhất là các thứ rau.

Giờ Ngọ hôm ấy, xe lửa qua lại một cái cầu bắc qua sông Durance. Cuối

giờ Ngọ, xe chui qua hai quãng đường hầm (đường này đục qua sườn núi, một

hầm dài 10 trượng, một hầm dài hơm 10 dặm). Chập tối tàu đến thành phố

Avignon. Bên Tây, dẫu gọi là thành nhưng không những chỉ có những nơi đào

hào xây lũy như các thành bên ta, mà còn chỉ cả những nơi dân cư đông đảo.

Thành lớn thì có Trấn mục; thứ giữa thì đặt các viên phủ huyện cai trị, còn

những thành nhỏ thì là xã hương.

Sang đầu giờ Tuất đi qua một chiếc cầu đá trên sông Côn – đà. Sông này

phát nguyên tự núi Mont – Blanc của nước Suisse (Thụy Sỹ - BT), từ phía

đông nam chảy qua nơi đây rồi rót ra bể. Cuối giờ Tuất đến thành

Montrslimar.” [10, tr.1895-1896].

Một đặc điểm đặc biệt là ở Tây hành nhật ký Phạm Phú Thứ đã đưa ra

khá nhiều hệ thống từ ngữ, tiếng nước ngoài vào tác phẩm của mình như

những từ ngữ chỉ khoa học, kĩ thuật, công nghệ như “hột nở”, “cường thủy”,

“kính hiển vi”, tàu Europeen “,... Hay những từ chỉ tên riêng địa danh vùng

đất phương Tây: “cảng Sonde”, “kênh Suez”, “đảo Perim”, “núi Xubagia”,

“thành La Mecque”, “thành Cairo”, “phố Avigron”, “sông Durance”, “núi

Mont – Blance”...

Với cách sử dụng hệ thống ngôn ngữ linh hoạt khéo léo từ đó giúp cho

Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ được tái hiện lại một cách chân thực và

cụ thể nhất, dường như tất cả mọi việc dù nhỏ nhất cũng được ông thu nhận

và kể lại tường tận, tỉ mỉ, hấp dẫn. Bởi vậy dù là mục đích ban đầu chỉ là ghi

chép công vụ nhưng cuối cùng Tây hành nhật ký lại trở thành một tác phẩm

ký, một thiên du ký đặc sắc về chuyến đi sứ bộ nước Nam vượt đại dương

sang Châu Âu.

44

2.3. Đánh giá vị trí của Tây hành nhật ký

Tây hành nhật ký là cuốn nhật ký ghi lại cuộc hành trình của phái đoàn

sứ bộ Việt Nam sang phương Tây. Hơn chín tháng ở Tây Âu phái bộ Đại

Nam đã có dịp tiếp xúc, xem xét, khảo sát về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã

hội, chính trị... Cuốn nhật ký như một thước phim quay chậm chi tiết toàn bộ

mọi khía cạnh của các nước phương Tây mà Phạm Phú Thứ chính là nhà quay

phim cần mẫn, chu đáo. Ta có thể tìm thấy trong Tây hành nhật ký từ máy

điện báo đến hệ thống công trình lọc nước ngọt, hệ thống trữ và dẫn nước

mưa của Anh, xưởng khí đốt, xưởng bện dây thừng tàu biển, xưởng thủy tinh,

xưởng giấy hoa, nhà máy thuốc lá, nhà nuôi tằm, xưởng tác tượng, hiệu chụp

ảnh, khinh khí cầu… đến các cơ sở kỹ nghệ công nghiệp nặng như: tàu thủy,

xe lửa, luyện kim, cơ khí, đóng và sửa chữa tàu thủy, xưởng quân giới… của

Pháp. Để diễn đạt được những khái niệm bách khoa, những thuật ngữ khoa

học kỹ thuật mới mẻ và hoàn toàn xa lạ với người Việt Nam lúc bấy giờ bằng

ngôn ngữ Hán cổ, Phạm Phú Thứ đã phải sáng tạo một thuật ngữ khoa học

đảm bảo ba yếu tố: khoa học, dân tộc và hiện đại. Từ đây, có thể thấy Tây

hành nhật ký là một tác phẩm có giá trị to lớn, kết tinh tài hoa của một nhà

nho hành đạo và làm nên sự thành công cho nhà văn nói riêng cũng như cho

nền văn học trung đại nói chung.

Tây hành nhật ký được coi là tập du ký đầu tiên của người Việt ghi chép

về sinh hoạt của một số nước phương Tây. Đây là tác phẩm lớn hơn hẳn về

quy mô, dung lượng so với các tác phẩm du ký trước đó. Tây hành nhật ký có

một vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình ký Việt Nam thế kỷ XVIII –

XIX. Nó chứng tỏ rằng, ký có khả năng to lớn phản ánh những vấn đề quan

trọng mà thời đại đặt ra, phản ánh những vấn đề mang tầm vóc quốc tế, vượt

qua giới hạn phương Đông trung đại đến với phương Tây hiện đại và vượt

qua sự khác biệt giữa hai hệ thống ngôn ngữ Đông – Tây. Tác phẩm đã đánh

45

dấu sự phát triển vượt bậc của thể loại ký thế kỷ XVIII – XIX, đặt dấu mốc

quan trọng cho sự lớn mạnh của thể loại ký sau này.

Tiểu kết chƣơng 2

Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ là một tác phẩm du ký có nội dung

và nghệ thuật đặc sắc, riêng biệt thể hiện điểm khác biệt so với những tác

phẩm du ký trước đó. Về phương diện nội dung, tác phẩm đã tái hiện chân

thực cuộc sống của các nước phương Tây đồng thời qua đó thể hiện tư tưởng

canh tân đất nước vô cùng sâu sắc của ông. Về phương diện nghệ thuật, Tây

hành nhật ký đã thể hiện một phong cách độc đáo biểu hiện qua cách sử dụng

điểm nhìn trần thuật trực diện với cái tôi người viết kết hợp linh hoạt nhiều

điểm nhìn khác để phản ánh hiện thực từ nhiều góc độ, nhiều tư cách tạo nên

màu sắc đa dạng cho tác phẩm. Hệ thống từ ngữ mới được sử dụng sinh động,

hấp dẫn tạo nên sự độc đáo riêng cho tập du ký.

46

KẾT LUẬN

Du ký là một thể tài của ký, đã có rất nhiều ý kiến, quan điểm đánh giá

khác nhau về vấn đề này. Trong chặng đường dài phát triển, thể tài du ký đã

đạt được nhiều thành tựu đáng kể, được kết tinh ở những tác phẩm đoản thiên

và trường thiên. Làm nên sự trưởng thành vượt bậc ấy không thể không kể

đến các yếu tố lịch sử xã hội, bối cảnh văn hóa, văn học. Khát vọng giải

phóng của bản ngã cá nhân. Các du ký trường thiên như Thượng kinh ký sự,

Tây hành kiến văn kỷ lược, Hải trình chí lược ra đời từ thế kỷ XVIII – XIX là

kết quả từ những chuyến du hành dài ngày của các nhà Nho có tấm lòng thiết

tha với đời, với tư tưởng canh tân đất nước sâu sắc. Mỗi cuốn du ký có những

đặc điểm riêng song tất cả đã phản ánh trình độ phát triển của thể tài ở thời kì

này. Các tác phẩm du ký được viết ra trên đường thực hiện công vụ đã tạo ra

những thiên du ký trường thiên, đánh dấu sự định hình của thể tài du ký, góp

phần quan trọng vào sự phát triển của văn xuôi tự sự trong văn học Việt Nam

thời trung đại. Từ việc nương theo các thể loại khác, nhất là thể ký, thể tài du

ký thế kỷ XVIII – XIX đã khẳng định được mình bằng những tác phẩm có giá

trị. Diện mạo văn du ký thể kỷ XVIII – XIX được đánh dấu với sự xuất hiện

của những tập du ký như: Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Tây hành kiến

văn kỷ lược của Lý Văn Phức, Hải trình chí lược của Phan Huy Chú và đặc

biệt là Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ.

Về nội dung phản ánh những tác phẩm du ký này đã khái quát được bức

tranh hiện thực rộng lớn mang tầm vóc thời đại, những con người in dấu vào

lịch sử. Không gian văn học được mở rộng, tư duy nhà nho thay đổi theo

hướng cởi mở, cấp tiến. Cùng với các thể loại, thể tài văn học khác cùng giai

đoạn, du ký văn xuôi chữ Hán thế kỷ XVIII – XIX đã tạo ra bước chuyển

mình để văn học tiến tới những thay đổi lớn về sau, có sự giao lưu tiếp xúc

với nhiều nền văn hóa, văn minh khác nhau.

Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ mang giá trị văn học, lịch sử, mang

47

một tư tưởng canh tân sâu sắc, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tấm

lòng cao cả của nhà nho Phạm Phú Thứ. Tây hành nhật ký là tập du ký đã ghi

chép tỉ mỉ, chi tiết về các nước phương Tây với những tiến bộ trong khoa học

kỹ thuật, nền văn minh hiện đại, với những phong tục nổi bật mang đậm bản

sắc văn hóa nước mình. Không chỉ đặc sắc ở nội dung mà Tây hành nhật ký

còn kết tinh giá trị nghệ thuật độc đáo với sự kết hợp linh hoạt nhiều điểm

nhìn trần thuật và hệ thống từ ngữ mới hàm súc, ngôn ngữ nước ngoài phong

phú thể hiện sự phát triển cũng như nền văn minh tiến bộ của các nước

phương Tây.

48

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại Học Quốc Gia.

[2]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2013),

Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.

[3]. Trần Thị Mỹ Hạnh (2014) Thể tài du ký trong văn xuôi trung đại Việt

Nam (Qua Thượng kinh ký sự, Tây hành kiến văn kỉ lược, Giá Viên biệt

lục), Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Cần Thơ.

[4]. Thái Nhân Hòa (1994), Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân, Hội

Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.

[5]. Thái Nhân Hòa (1995), Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân, NXB

Đà Nẵng.

[6]. Hải Ngọc Thái Nhân Hòa (1999), Trúc Đường Phạm Phú Thứ với xu

hướng canh tân, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[7]. Thái Nhân Hòa (2005), Xu hướng canh tân, phong trào duy tân – Sự

nghiệp đổi mới (Từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XX), NXB Đà

Nẵng.

[8]. Nguyễn Hữu Lễ (2014), “Một số vấn đề về thể loại của du ký”, Tạp chí

Nghiên cứu văn học, (số 8), tr.52-62.

[9]. Hoàng Linh Đỗ Mậu (1995), Việt Nam máu lửa quê hương tôi, NXB

Công an nhân dân.

[10]. Phạm Ngô Minh (Chủ biên) (2014), Phạm Phú Thứ toàn tập, NXB

Đà Nẵng.

[11]. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt

Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[12]. Nguyễn Đăng Na (Chủ biên) (2010), Văn học trung đại Việt Nam, tập 1,

NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

[13]. Nguyễn Đăng Na (Chủ biên) (2010), Văn học trung đại Việt Nam, tập

2, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

[14]. Nguyễn Đăng Na (Giới thiệu và tuyển soạn) (2001), Văn xuôi tự sự Việt

Nam thời trung đại, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[15]. Hà Thị Thanh Nga (2014), Thể tài du ký văn xuôi chữ Hán thế kỷ XVIII

– XIX, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt

Nam – Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

[16]. Hoàng Phê (2001), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

[17]. Trần Minh Quý (2001), Nghệ thuật tự sự trong Tây hành nhật ký của

Phạm Phú Thứ, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Cần Thơ.

[18]. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Thể tài du ký trên tạp chí Nam Phong”, Tạp

chí Nghiên cứu Văn học (4), http://tailieu.vn.

[19]. Nguyễn Hữu Sơn (Sưu tầm và giới thiệu) (2007), Du ký Việt Nam – Nam

Phong tạp chí (1917-1934), tập 1, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[20]. Nguyễn Hữu Sơn (Sưu tầm và giới thiệu) (2007), Du ký Việt Nam – Nam

Phong tạp chí (1917-1934), tập 2, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[21]. Nguyễn Hữu Sơn (Sưu tầm và giới thiệu) (2007), Du ký Việt Nam – Nam

Phong tạp chí (1917-1934), tập 3, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[22]. Nguyễn Hữu Sơn (2011), Thể tài văn xuôi du ký chữ Hán thế kỷ XVIII –

XIX và những đường biên thể loại, Kỉ yếu Hội thảo Quốc tế “Những

lằn ranh văn học”, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

[23]. Trình Đình Sử (Chủ biên) (2011), Giáo trình lí luận Văn học, tập 2,

“Tác phẩm và thể loại văn học”, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

[24]. Nguyễn Q. Thắng (2005), Quảng Nam trong hành trình mở cõi và giữ

nước- Nhìn từ góc độ văn hóa, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

[25]. Dị cổ Nguyễn Hoàng Thân (2011), Phạm Phú Thứ với Giá Viên toàn tập,

NXB Văn học, Hà Nội.

[26]. Phạm Phú Thứ (1960), Giá Viên văn tuyển (tuyển dịch, tư liệu nội bộ),

Viện triết học, Hà Nội.

[27]. Phạm Phú Thứ (1999), Nhật ký đi Tây (Nhật ký của sứ bộ Phan Thanh

Giản sang Pháp và Tây Ban Nha 1863-1864) (Quang Uyển dịch), NXB

Đà Nẵng.

[28]. Phạm Phú Thứ (1998), Phái đoàn Phan Thanh Giản (1863-1864), (dịch

Q1: Tây hành nhật ký) (Đặng Như Tùng dịch từ Pháp văn sang Việt

văn), NXB Thuận Hóa.

[29]. Phạm Phú Thứ (2001), Sứ bộ Phan Thanh Giản (1863-1864), (dịch Q2:

Tây hành nhật ký) (Trần Xuân Toán dịch từ Hán văn sang Pháp văn),

NXB Thuận Hóa, Huế.

[30]. Phạm Phú Thứ (2001), Tây hành nhật ký (Sứ bộ Phan Thanh Giản và Y

Pha Nho, 1863-1864) (Tô Nam và Văn Vinh dịch), NXB Văn nghệ

Thành phố HCM.

[31]. Nguyễn Sinh Uy (2006), Quảng Nam và những vấn đề sử học, NXB

Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

[32]. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2010), Các thể văn chữ Hán Việt Nam,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

[33]. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2010), Văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX,

những vấn đề lý luận và lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[34]. A. DELVAUX (2004), Sứ bộ Phan Thanh Giản năm 1863 theo các tư

liệu Pháp, NXB Thuận Hóa, Huế.