TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------------------
PHẠM LINH NHI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
HÀ NỘI, 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------------------
PHẠM LINH NHI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Lan
HÀ NỘI, 2019
Lời cám ơn
Đề tài “Một số vấn đề cơ bản trong triết học Phật giáo của Trần Nhân
Tông” là nội dung tôi chọn để nghiên cứu và làm khóa luận tốt nghiệp sau bốn năm
theo học chương trình cử nhân chuyên ngành Triết học tại trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Để hoàn thành quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận này, lời đầu tiên
tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến Cô PGS.TS.Lê Thị Lan thuộc Viện Triết học -
Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thiện khóa luận này. Ngoài ra tôi xin
chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Triết học đã đóng góp những ý kiến
quý báu cho khóa luận này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã luôn bên tôi, động viên
tôi hoàn thành khóa học và bài khóa luận này.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày...tháng... năm 2019
Sinh viên
Phạm Linh Nhi
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG HÌNH THÀNH TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG .................................................... 7
1.1. Bối cảnh Phật giáo thời Trần ......................................................................... 7
1.1.1. Những chính sách buổi đầu của nhà Trần ................................................. 8
1.1.2. Vài nét về đời sống tư tưởng đời Trần ......................................................... 9
1.2. Một số tiền đề tư tưởng cho sự hình thành triết học triết học Phật giáo
Trần Nhân Tông ...................................................................................................... 11
1.2.1. Trần Thái Tông – Trần Thánh Tông, hai vị Hoàng đế đầu đời Trần và
những chủ trương đối với Phật giáo. ...................................................................... 12
1.2.2. Tinh thần siêu thoát của Tuệ Trung Thượng Sĩ. ...................................... 23
1.2.3. Trần Nhân Tông và việc khai sinh ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. ..... 25
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 29
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ QUAN NIỆM TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN
NHÂN TÔNG VÀ CON ĐƯỜNG TU TẬP GIẢI THOÁT ................................. 30
2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về Phật, Phật tính, niết bàn. .................. 30
2.1.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “Phật”................................................. 30
2.1.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “Phật tính”. ........................................ 33
2.1.3. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “niết bàn”. .......................................... 40
2.2. Một số quan niệm về nhân sinh và con đường tu tập giải thoát của Trần
Nhân Tông. ............................................................................................................... 43
2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về nhân sinh. ......................................... 43
2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về con đường tu tập và giải thoát........... 47
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 55
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 56
1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 58
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật công nghệ ngày nay, bên
cạnh những thành tựu vĩ đại mà cả nhân loại đã đạt được trong nền văn minh vật
chất thì những giá trị về mặt văn hóa, tinh thần, tôn giáo không hề bị xem nhẹ. Mà
ngược lại nó ngày càng được coi trọng và quan tâm hơn. Cùng với thay đổi của xã
hội, trong điều kiện lịch sử mới, các tôn giáo không ngừng thay đổi để ngày càng
thích ứng và phù hợp hơn. Chính sự phát triển và giao lưu giữa các tôn giáo đã góp
thêm phần thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa trong các lĩnh vực. Vì vậy, việc
nghiên cứu về tôn giáo nói chung là không thể bỏ qua.
Bước vào giai đoạn hậu công nghiệp, hay nền văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri
thức, bên cạnh những điểm mạnh mà công nghệ khoa học kỹ thuật đem lại thì đời
sống tinh thần của con người trong xã hội lại ngày càng phải đối mặt với những áp
lực, những khổ nạn mới như: sự phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh và xung đột, ô
nhiễm môi trường, sự tha hóa về mặt đạo đức, lối sống... Để giúp con người giải
thoát được những khổ nạn ấy, dường như chúng ta không thể không nhắc tới Phật
giáo với những giá trị nhân bản trong việc giải thoát cho con người về mặt nhu cầu
tâm linh, bù lấp khoảng trống và nỗi thất vọng trong lòng con người trong một thế
giới vong thân. Với khả năng điều chỉnh sự cân bằng trong nội tâm, Phật giáo có thể
giúp con người sống hài hòa, an vui hơn trong thực tại.
Ngày nay, có một điều ngạc nhiên khi mà nhân loại, đặc biệt là các nước
Phương Tây đang có trào lưu hướng về Châu Á, nhất là hướng về đạo Phật. Vì sao
vậy? Điều này có thể lý giải một phần từ những giá trị nhân sinh của đạo đức Phật
giáo. Hơn nữa, Phật giáo đã thực sự nhập thế trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể
cả trong các hoạt động kinh tế, tưởng như rất xa lạ với giáo lý Phật giáo. Hơn thế,
Phật giáo hiện đại không dạy con người ta xa rời cuộc sống để làm thần, làm thánh
hay xuất gia để làm hòa thượng nơi chùa chiền, rừng xa mà hướng tới cải tạo xã hội,
2
cải tạo thế giới bằng đạo đức, làm cho con người chúng ta ngày càng nhân văn hơn.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam ta từ khá sớm và đã nhanh chóng hòa quyện
với tín ngưỡng bản địa, trở thành một tôn giáo của dân tộc. Trải dài suốt lịch sử phát
triển Việt Nam, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc. Các thiền sư Việt Nam, đặc
biệt là dưới các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đã tích cực khi đem tài năng và trí
tuệ của mình phục vụ cho đất nước, cho dân tộc mà không hề cầu lợi, luôn giữ thái
độ xuất thế. Phật giáo do vậy còn tạo nên những yếu tố quan trọng của bản sắc văn
hóa Việt Nam. Cho đến hiện nay, vẫn còn rất nhiều tranh cãi về triết học Phật giáo,
điển hình trong đó là Triết học Phật giáo Trần Nhân Tông có những đặc điểm và nội
dung gì, tính hiện đại của triết học Trần Nhân Tông nằm ở vấn đề nào... ? Để đi tìm
câu trả lời cho những câu hỏi này, cùng với sự say mê nghiên cứu Phật giáo Việt
Nam, tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề trong triết học Phật giáo Trần Nhân
Tông” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một tôn giáo – triết học lớn, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học
giả trong và ngoài nước, Phật giáo có một khối lượng đồ sộ các công trình nghiên
cứu tổng quan hay các khía cạnh khác nhau.
Về khái niệm triết học Phật giáo cũng đã có nhiều bài viết, tiêu biểu là Đỗ
Quang Hưng với “Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa” (tạp
chí Khoa học xã hội số 9/006, tr58-66). Trong đây, tác giả đã rất đề cao vai trò của
Phật giáo trong xã hội hiện đại và những thay đổi của Phật giáo nói chung cho phù
hợp với thời đại. Từ đó, tác giả đã chỉ ra nhiệm vụ của Phật giáo trong giai đoạn
hiện nay. Tác giả cũng nhấn mạnh, Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập thế. Khái
niệm “nhập thế” được tác giả phân tích, chứng minh là không đồng nhất với khái
niệm “thế tục hóa” của phương tây, xu hướng nhập thế của Phật giáo được tác giả
phân tích, chứng minh là không đồng nhất với khái niệm “thế tục hóa” của phương
Tây.
Tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc với “Phật giáo dân gian: con đường nhập thế
của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí nghiên cứu tôn giáo số 8/2008, tr25-32) đã đi
3
phân tích rất cụ thể về khái niệm nhập thế dưới góc độ chức năng, nhiệm vụ của
tăng ni, Phật tử và đi đến kết luận: Phật giáo nhập thế là Phật giáo từ bi và đắc
dụng. Sau đó, tác giả đi làm rõ tinh thần nhập thế của Phật giáo dân gian Việt
Nam,...
Nhắc đến Phật giáo Việt Nam nói chung cũng như triết học Phật giáo nói riêng
, chúng ta không thể không nhắc tới Trần Nhân Tông. Ông đã kế thừa dòng chảy
của những vị tiền bối đi trước và vận dụng linh hoạt nó vào tư tưởng Thiền giáo.
Nghiên cứu về ông cũng như về tư tưởng Thiền học có khá nhiều công trình như
sau:
Tác giả Lê Mạnh Thát cũng có khá nhiều bài báo, bài nghiên cứu về Thiền học
hay cũng như những bài viết về Trần Nhân Tông. Cụ thể là cuốn “Toàn tập Trần
Nhân Tông” (Nxb Tp HCM, 2000), qua khái quát tổng hợp toàn bộ những tư tưởng
và hành động của Trần Nhân Tông trong công cuộc dựng và giữ nước, đặc biệt tác
giả đi nhấn mạnh vào tài khéo léo ứng dụng đạo Phật trong công cuộc trị quốc, an
dân của Trần Nhân Tông. Ngoài ra Lê Mạnh Thát còn viết một số cuốn sách như
cuốn “Trần Nhân Tông, con người và tác phẩm” (1999, Nxb Tp. HCM); bài viết
“Một số vấn đề tư tưởng của Trần Nhân Tông” (ngày đăng: Thứ 7, ngày
10/8/2013);... Ở đây, tác giả đã đi nghiên cứu tìm hiểu về Trần Nhân Tông nói
chung cũng như là triết học Phật giáo Trần Nhân Tông nói riêng.
Tác giả Nguyễn Tài Thư với điển hình trong cuốn “Xu hướng nhập thế trong
tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tông” (tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 11/2009,
tr.13-20). Tư quá trình phân tích lập luận tác giả đi đến kết luận: Ở Trần Nhân Tông
thể hiện rõ sự thống nhất hai mặt ở con người ông là con người của triều thần và
con người của Phật tử.
Tiếp đến là những công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tài Đông, trong
“Việt Nam hóa Phật giáo ở Trần Nhân Tông” (Tạp chí triết học số 12/2008, tr 38-
46), tác giả đã đi làm rõ tư tưởng “tức tâm tức Phật” của Trần Nhân Tông. Từ đó đi
phân tích và nhấn mạnh vào vai trò của Trần Nhân Tông trong hai cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên Mông và tinh thần cởi mở của ông trong việc kết hợp tam giáo,
4
trong đó lấy Phật giáo làm xương sườn cho vận mệnh quốc gia. Tác giả cũng đi
khẳng định, Thiền học ở Trần Nhân Tông không thoát ly cuộc sống mà lúc nào
cũng thấm đẫm hơi thở của cuộc sống, tất cả vì nhân sinh. Cùng với đó là một số
bài báo, như “Việt Nam hóa Phật giáo ở Trần Nhân Tông” của tác giả Nguyễn Tài
Đông (Tạp chí triết học, số 12 (211), tháng 12 – 2008),...
Tác giả Thích Chân Tuệ thì đã cho xuất bản hai cuốn “Cư trần lạc đạo” (Nhà
xuất bản Tôn giáo PI2551 – DL 2007) để giới thiệu cho độc giả một khái khái lược
và bao quát nhất về Trần Nhân Tông. Trong cuốn sách tác giả đã đi vào từng phần
một như: An lạc hạnh phúc, Bát chánh đạo, Bát phong, Bất tuy phong biệt, chánh
kiến và chánh tín,… hay ở tập II, tác giả đã giới thiệu cho độc giả về Chánh ngữ,
Giác ngộ và giải thoát, hay là Làm sao gặp Phật?...
Tác giả Nguyễn Hùng Hậu với “Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việ Nam
thời Lý – Trần” (Viện nghiên cứu Tôn giáo Hà Nội, 1990, tr39-45). Tác giả đã đưa
lăng kính thời kỳ Lý – Trần để nhìn nhận về tinh thần nhập thế của Trần Thánh
Tông. Và cho độc giả thấy rõ , nhập thế là sự lựa chọn tích cực của Phật giáo Việt
Nam nói chung và Phật giáo Lý – Trần nói riêng, trong đó Trần Nhân Tông là một
nhân vật điển hình.
Ngoài những tác giả đã nêu trên, còn có rất nhiều những công trình nghiên cứu
về Phật giáo Việt Nam nói chung, cũng như Phật giáo Trần Nhân Tông nói riêng.
Một trong số đó có một nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể như trong luận án của Bùi
Huy Du “Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông” số 6222.80.01. Trong luận án
này, tác giả đã đi nghiên cứu và hệ thống lại toàn bộ những tư tưởng triết học trọng
tâm của Trần Nhân Tông như: thế giới quan trong tư tưởng triết học Trần Nhân
Tông (tr 86-113), nhân sinh quan và triết lý đạo đức (tr.114-122). Hay Nguyễn Kim
Sơn với “Cội nguồn triết học của tinh thần Thiền nhập thế Trần Nhân Tông”;
Nguyễn Lang với Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn học, Hà Nội, 2008); Đỗ
Trung Lai với “Trần Nhân Tông, nhân vật kiệt xuất nhất trong sơ đồ Phật giáo Việt
Nam” (Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 1/2008)... và rất rất nhiều công trình nghiên
5
cứu cũng như các bài viết khác.
Như vậy, cho đến nay đã có khá nhiều luận văn, luận án, cũng như các sách
báo của các tác giả đi nghiên cứu về Phật giáo, Triết học Phật giáo nói chung, cũng
như là triết học của Trần Nhân Tông nói riêng. Với giới hạn nhận thức của bản thân
cũng như giới hạn của bước đầu nghiên cứu, khóa luận của tôi kế thừa và phát huy
kết quả từ những công trình nghiên cứu đi trước, từ đó xây dựng nên “Một số vấn
đề cơ bản trong triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của khóa luận là đi tìm hiểu về bối cảnh ra đời thiền phái Trúc Lâm,
cũng như làm rõ một số vấn đề triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông
Để hoàn thành mục đích trên, khóa luận của tôi sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
Làm rõ bối cảnh hình thành triết học Phật giáo Trần Nhân Tông
Phân tích một số tư tưởng nổi bật triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các tài liệu về bối cảnh Phật giáo Việt Nam
thế kỷ XIII và các tác phẩm triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, nghiên cứu văn bản... để
lập luận. .
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, tiểu kết và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
6
dung chính của khóa luận gồm 2 chương và 4 tiết
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG HÌNH THÀNH
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
1.1. Bối cảnh Phật giáo thời Trần
Bắt tay nghiên cứu vào Phật giáo mà bỏ qua Phật giáo thời Trần, thì quả là
một thiếu sót vô cùng lớn. Vì Phật giáo đời Trần là thời đại mà Phật giáo thật sự hoà
nhập từ hình thức lẫn nội dung, yếu tố đưa đến thành công và những đặc sắc của
đạo Phật.
Đạo Phật thật sự đã được gieo mầm từ lâu và đã trải qua hàng bao thế kỷ, nó
đã thích nghi với con người và phong tục Việt Nam, đến đời Trần là đỉnh cao để
Phật giáo Việt Nam đơm hoa kết nụ sau thời gian dài được Việt Nam hóa. Phật giáo
đã trở thành cốt tuỷ và hoà nhập với nền văn hóa dân tộc. Do đó nó hoàn toàn phù
hợp với tâm tư nguyện vọng của dân tộc Việt Nam ta.
Khi chiến tranh chống ngoại xâm Nguyên Mông, đạo Phật là trí tuệ tập hợp
những tâm hồn yêu nước, thương dân, đoàn kết mọi người một lòng với ông Bụt từ
bi và giáo lý thực tiễn không tách rời cuộc sống bằng thân, khẩu, ý. Đặc sắc của
Phật giáo đời Trần là tính tích cực nhập thế, đạo không tách rời đời và đời cũng
không thiếu vắng đạo, nó trở thành một hợp thể linh động, sáng tạo và diệu dụng
trong mọi hoàn cảnh. Có thể nói rằng các vị vua, các thiền sư đã sử dụng đúng tiềm
năng của đạo Phật, khiến cho nó trở thành Phật giáo Việt Nam mà không phải Phật
7
giáo Trung Hoa hay Ấn Độ từ cách nhìn, suy nghĩ cho đến hành động.
1.1.1. Những chính sách buổi đầu của nhà Trần
Triều Lý1 tàn tạ và bất lực trong quản lý đất nước đã trở nên cần thiết phải
được thay thế bằng một triều đại khác. Nhà Trần2 đã thay thế nhà Lý cai trị đất
nước, ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế và củng cố vương quyền
của dòng họ Trần. Do vậy, các vua Trần đã nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của
Đại Việt lúc bấy giờ, đồng thời đưa Đại Việt lên vị trí thành một cường quốc ở
Đông Nam Á.
Nhà Trần tuân theo qui luật phát triển của nhà nước quân chủ tập quyền. Ngay
khi tập trung những quyền lực trong triều đã cho biên soạn một bộ luật mới, đó là
bộ luật hình thư.
Mở rộng đất đai về phía Nam và tiến hành ban cấp hàng loạt ruộng đất cho quí
tộc và quan lại. Ngoài quí tộc họ Trần, các vị cao tăng của Phật giáo cũng được
hưởng chế độ ban cấp này. Sự hậu đãi ấy đã dẫn đến sự xuất hiện của các tự viện
lớn.
Với những quyền lực to lớn về kinh tế, chính trị, quân sự… của quí tộc biểu
hiện những yếu tố phân tán còn tồn tại trong xã hội đời Trần. Tuy nhiên, những yếu
tố đó không những không gây ra tình trạng cát cứ chống lại chính quyền trung
ương, mà về nhiều mặt còn làm tăng thêm sức mạnh cho triều đình. Sự củng cố
quan hệ họ hàng, bà con trong hoàng tộc bằng lợi ích kinh tế có tác dụng thắt chặt
tinh thần cố kết trong giai cấp thống trị. Điều đó cũng thể hiện rõ trong lời nói của
Trần Thánh Tông với các tôn thất : “Thiên hạ là thiên hạ của Tổ tông, người nối
nghiệp của Tổ tông nên cùng với anh em trong họ cùng hưởng phú quý. Tuy bên
ngoài thì cả thiên hạ tôn thờ một người, nhưng bên trong thì ta cùng các khanh là
1 Triều nhà Lý: niên đại kéo dài từ 1009 - 1225
2 Triều nhà Trần: niên đại kéo dài từ 1225 - 1400
3 Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Viện KHXHVN, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998
8
đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui”3.
Những bước phát triển mới trong chính sách buổi đầu của nhà Trần không
những củng cố thêm cơ sở vật chất của quốc gia phong kiến, mà còn có tác dụng
quan trọng nâng cao đời sống của người dân và tăng thêm sức mạnh quốc phòng
của đất nước.
1.1.2. Vài nét về đời sống tư tưởng đời Trần
Theo như chúng ta đã biết, Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ và truyền sang các
nước Đông Á theo hai đường đó là: phía bắc sang Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa,
Nhật Bản, Triều Tiên; phía đông sang Miến Điện, Thái Lan, Indonexia và miền nam
Đông Dương. Từ đó đã hình thành hai phái Phật giáo đại thừa và Phật giáo tiểu
thừa.
Trước tiên là Phật giáo đại thừa, Phật giáo đại thừa truyền sang nước ta vào
khoảng đầu công nguyên và phát triển mạnh trong các thế kỷ VII, VIII, IX. Thời
bấy giờ đã có những cao tăng người Việt xuất thân từ tầng lớp hào trưởng. Từ khi
nhà nước dành độc lập, Phật giáo tiếp tục phát triển và được coi là quốc giáo.
Trị vì từ năm 968 đến 97, Đinh Tiên Hoàng đã phân phẩm hàm cho nhà sư và
cấp tự điền cho nhà chùa. Thời Tiền Lê, sư tăng ngày càng có vai trò quan trọng
trong triều đình, được đặc biệt ưu đãi, thường giữ việc đi sứ hoặc tiếp sứ. Đến thời
Lý, Phật giáo bước vào giai đoạn hưng thịnh nhất. Và cho đến thời Trần thì Phật
giáo thời bấy giờ đã chi phối xã hội một cách mạnh mẽ. Bấy giờ, chùa chiền được
dựng lên ở khắp nơi, từ kinh đô Thăng Long cho đến mọi miền của đất nước. Cũng
bấy giờ số người xuất gia tu hành rất đông, trong số đó có cả những người trong
hoàng tộc, thậm chí là cả hoàng đế. Trong hoàng tộc, nhiều người rất mộ Phật. Họ
thường thỉnh các bậc cao tăng về tư dinh để được nghe giảng đạo. Phật giáo đời
Trần đã có những đóng góp lớn lao, ưu điểm lớn nhất của Phật giáo là tinh thần
khoan dung và tự do. Phật giáo không bao giờ chống đối và chỉ trích Nho giáo và
Đạo giáo. Phật giáo đã để cho Nho giáo và Đạo giáo phát triển. Chính những Phật
tử thuần thành nhất như Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông đã mở rộng Nho giáo.
Năm 1253, Trần Thái Tông lập Quốc học viện ở kinh sư và tạc tượng Chu Công,
9
Khổng Tử, Mạnh Tử, cùng vẽ tranh 72 vị tiền hiền để thờ cúng. Trần Thánh Tông
đã cho hoàng đệ là Trần Ích Tắc mở trường dạy Nho học. Nhà Trần đãi kẻ sĩ một
cách khoan dung, không hẹp hòi, hoà vị mà có lễ phép, cho nên nhân sĩ thời ấy ai
cũng biết tự lập anh hào tuấn vì vượt ra ngoài lưu tục, làm cho quang vinh cả sử
sách, không thẹn với trời đất.
Bấy giờ, cùng chung thời thịnh với Phật giáo là Đạo giáo. Đền miếu được
dựng lên ở khắp nơi. Số lượng đạo sĩ cũng khá đông đảo. Trên vũ đài chính trị và tư
tưởng của nước nhà, nhất là trong thời hùng mạnh của triều Trần, sau vị trí chi phối
của Phật giáo chính là vị trí quan trọng của Đạo giáo. Tuy nhiên, gắn liền với sự
phát triển của Phật giáo và Đạo giáo đến thế kỷ XIV, Nho giáo vươn lên lấn át ưu
thế của Phật giáo. Với các thuyết “Thiên mệnh” “Chính danh”, Nho giáo khuyên
người ta ở đời hãy chấp nhận danh phận của mình, trực tiếp bảo vệ trật tự quân chủ,
biện hộ cho quyền áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị.
Ở các thế kỷ X – XIV, Phật giáo ở Việt Nam đã phát triển cực thịnh. Trong
khi Nho giáo chưa trở thành ý thức hệ chính thống của nhà nước quân chủ trung
ương tập quyền, thì Phật giáo đã có tác dụng thống nhất nhân tâm tạo điều kiện cần
thiết để củng cố và phát triển nhà nước quân chủ. Do vậy, Phật giáo ở các thế kỷ
này có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ sinh hoạt văn hoá đương thời và in dấu rõ nét
trong văn học, nghệ thuật. Thế nhưng từ giữa thế kỷ XIV thì vị trí đó nó đã thay đổi
hoàn toàn đó là Nho giáo đứng vị trí quan trọng nhất, kế đến là Phật giáo, sau cùng
là Đạo giáo. Đến đầu thế kỷ XV, tình hình đó lại biến đổi nữa đó là từ đây trở đi
Nho giáo chiếm vị trí độc tôn, còn Phật giáo và Đạo giáo tuy vẫn tiếp tục phát triển,
thậm chí là không hề thua kém trước đó nhưng đã lùi ra khỏi vũ đài chính trị, tư
tưởng để phát triển ở trong lòng xã hội. Đây là nét mới trong đời sống tư tưởng của
đời Trần. Có một số người cho rằng như thế là Phật suy, Đạo suy là không đúng.
Bởi vì nó không còn có mặt trên vũ đài chính trị và tư tưởng. Sự phát triển của một
tôn giáo không phải là tôn giáo đó có bao nhiêu người làm quan. Điều đáng nói
trong đời sống tư tưởng là chủ nghĩa yêu nước lúc này là dòng chủ lưu nhưng đã
góp phần làm cho chủ nghĩa yêu nước phát triển. Trong đó có cả sự cống hiến của
10
nhà Phật.
“Nhân loại vĩnh viễn mắc vào ba vấn đề cơ bản: Xung đột với thiên nhiên;
Xung đột với tha nhân; Xung đột với chính mình” Bertrand Russell đã nhận xét
Nhờ có đủ tài đức mà các vị vua Trần đã động viên được sự đoàn kết ủng hộ
của mọi tầng lớp nhân dân. Do đó đã lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống quân
xâm lược đạt đến thành công rực rỡ. Lịch sử cho chúng ta thấy, mỗi khi tổ quốc
đứng trước những thử thách khắc nghiệt một mất một còn thì mọi người cùng đoàn
kết bên nhau để bảo vệ sự sống còn của bản thân mình và sự tồn tại của quê hương
xứ sở. Nhưng muốn thu phục được toàn dân thì các nhà lãnh đạo phải có thực tài
thực đức. Đó là những yếu tố rất tiên quyết mà các vì vua đầu đời Trần đều có đủ.
Nhờ vậy mà họ đã thành công. Theo đà của những cuộc chiến thắng, mọi người đều
phấn khởi tinh thần, do đó đất nước phát huy được nhiều mặt tích cực, như nền
kinh tế mở mang, pháp luật nghiêm minh, chính trị ổn định, võ bị vững chắc, ngoại
giao thắng lợi, văn học khởi sắc, giáo dục được củng cố.v.v… Tất nhiên không loại
trừ cơ hội thuận lợi nhất cho việc phát triển tôn giáo, đê cao và quảng bá chính
pháp. Các nhà lãnh đạo quốc gia lúc bấy giờ vốn là những Phật tử thuần thành. Thế
nên những chiến công chính nghĩa, vẻ vang của họ cũng có thể mặc nhiên xem như
những thắng lợi của Phật giáo. Trong hoàn cảnh mà đất nước trên đà cường thịnh,
dân chúng an cư, lạc nghiệp mọi người có điều kiện phát huy tài năng về nghề
nghiệp của mình để kiến tạo một xã hội thanh bình, xây dựng tương lai tươi sáng,
thì một tôn giáo mang bản chất nhập thế hành động như đạo Phật, hẳn nhiên được
phát triển rực rỡ lúc bấy giờ.
1.2. Một số tiền đề tư tưởng cho sự hình thành triết học triết học Phật giáo
Trần Nhân Tông
Về danh nghĩa, tông Trúc Lâm ra đời năm 1229 khi Trần Nhân Tông xuất gia
vào núi Yên Tử tu hành, thu nhận đồ đệ hình thành sơn môn Yên Tử. Thế nhưng
trên thực tế, tư tưởng sơn môn Yên Tử phải kể từ khi Trần Thái Tông, Tuệ Trung
4 Trích trong “Triết học Phật giáo Việt Nam”, tr.415, PGS. Nguyễn Duy Hinh, Nxb.VHTT và Văn hóa Việt Nam
11
thượng sĩ, hai tiền bối của Trần Nhân Tông.4 Cho nên nghiên cứu tư tưởng triết học
thiền phái Trúc Lâm không thể không đề cập tới hai vị tiền bối đó. Dưới đây, dưới
nghiên cứu của một bài khóa luận, tôi đề cập tới 3 vị: Trần Thái Tông, Trần Thánh
Tông, Tuệ Trung thượng sĩ là những người có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng Trần
Nhân Tông.
1.2.1. Trần Thái Tông – Trần Thánh Tông, hai vị Hoàng đế đầu đời Trần và
những chủ trương đối với Phật giáo.
Trần Thái Tông chính là vị tiền bối đầu tiên mà Trần Nhân Tông chịu ảnh
hưởng. Trần Thái Tông tên là Trần Cảnh, con thứ của Trần Thừa, sinh năm Mậu
Dần niên hiệu Kiến Gia thứ tám (1218) Triều Lý. Gia thế ở hương Tức Mặc, phủ
Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc,huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định) ông cha làm
nghề đánh cá. Nhờ có công dẹp loạn, họ Trần dần dần có thế lực từ đời Lý Cao
Tông. Trần Cảnh mới có tám tuổi được Lý Chiêu Hoàng nhận làm chồng và truyền
ngôi cho, lấy hiệu là Thái Tông. Thế là sự nghiệp nhà Lý đến đây đã chấm dứt. Lịch
sử Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn nhà Trần. Năm Thái Tông
lên 20 tuổi, Lý Chiêu Hoàng 19 tuổi đang là Hoàng hậu, bị Trần Thủ Độ ép Thái
Tông giáng Chiêu Hoàng làm công chúa, lấy Thuận Thiên là vợ Trần Liễu (anh ruột
Thái Tông) làm Hoàng Hậu. Lý do, vì Trần Thủ Độ nôn nóng Thái Tông có con để
kế thừa, mà Chiêu Hoàng chậm con, Thuận Thiên đang mang thai.
Trước khi Trần Thái Tông yên tâm ở ngôi báu trị vì đất nước, năm 1236, theo
bài tựa “Thiền tông chỉ nam”, ông đã trốn lên Yên Tử gặp Quốc sư Trúc Lâm đại sa
môn xin đi tu. Theo sách “Thiền uyển tập anh” thì vị Quốc sư này có thể là Viên
Chứng, thế hệ nhà sư thứ hai tu ở Yên Tử. Trần Thái Tông đã chịu ảnh hưởng tư
tưởng Thiền trực tiếp từ vị quốc sư này. Theo lời khuyên của Quốc sư, Trần Thái
Tông đã thuận lòng trở về kinh thành, vừa chuyên tâm cai trị đất nước, vừa gắng
sức nghiên cứu Thiền họ. Sau khoảng 10 năm, ông đã viết cuốn “Thiền tông chỉ
nam”. Sách này nay không còn mà chỉ còn bài tựa. Theo đó, ta biết được lời khuyên
của Quốc sư và căn cứ vào hành trạng của Trần Thái tông, ta có thể đoán định rằng
ông đã thấu triệt tôn chỉ Thiền tông trong lời khuyên này: “Trong núi vốn không có
12
Phật. Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu, đó chính là Phật. nay nếu bệ
hạ giác ngộ điều đó thì lập tức thành Phật, không cần khổ công tìm kiếm bên
ngoài”5.
Qua câu nói này có thể thấy những thành tựu tư tưởng Thiền Phật giáo thời
Lý đã có ảnh hưởng lớn đến các vị trụ trì trên núi Yên Tử, chịu ảnh hưởng của thiền
phái Vô Ngôn Thông, là phái thiền tập trung vào khái niệm tâm. Theo Thiền phái
Vô Ngôn Thông thì Phật tức tâm, tâm tức Phật, khi người tu tập khiến cho cái tâm
trở nên trong sạch, trở nên siêu việt trên mọi ý niệm, trở thành “tâm không” thì đó
chính là lúc tâm đồng nhất với Phật. Lời của Quốc sư đã chỉ ra những yếu chỉ cơ
bản của Thiền Vô Ngôn: 1-Phật tại tâm (lòng), 2-tu tập đến độ giữ cho tâm yên tĩnh,
phẳng lặng , đạt tới “tâm không” mà thấu đạt mọi lẽ là đạt tới cảnh giới Phật, 3-
Giác ngộ được chân lý đó là thành Phật. Với những chỉ dẫn này của Quốc sư, Trần
Thái Tông đã trở về kinh thành và suy niệm, triển khai tư tưởng Thiền theo hai
hướng: 1-tiếp tục triển khai tư tưởng “tâm không” như là bản thể, diệu tính, chân
như của vạn vật và một số tư tưởng Thiền học khác mang tính lý luận siêu hình
uyên áo; 2-hướng dẫn phương pháp tu tập Thiền để thanh lọc thân tâm, hướng tới
giác ngộ. Tất thảy những tư tưởng đó đều có trong sách “Khoá hư lục”- sách tập
hợp một số tác phẩm của ông còn lại đến ngày nay. Theo Việt sử tiêu án của Ngô
Thì Sĩ thì Trần Thái Tông viết sách này sau khi nhường ngôi vào núi tu hành, trong
khoảng từ năm 1258 đến năm 1277.
“Khóa hư lục” gồm tất cả 3 quyển, trong đó “quyển Thượng” và “quyển
Trung” và “quyển hạ”.
Đầu tiên là Quyển thượng. Trong cuốn này nói về nghĩa “hư vô” và chỉ ra
rằng, vì người ta không biết thân mình là hư vô nên mới chìm đắm ở bến mê, trôi
dạt trong bể khổ và qua lại vòng luân hồi, lên xuống trong khoảng bốn núi, bốn núi
nói ở đây là sinh, lão, bệnh, tử. Trong quyển thượng, tác giả cho rằng thân người là
đáng trọng đáng quý, và chính vì thế nên phải biết trân trọng và giữ gìn. Ngoài ra
ông cũng chỉ ra cho chúng ta biết về ba điều khó gặp của thân, đó là: thứ nhất, trong
5Tổng tập văn học Việt Nam.Sđd. Tập 2. Tr. 30
13
sáu đường (lục đạo) thì chỉ có con người là quý nhất; thế mà không được làm người
mà rơi vào con đường khác - đó là điều khó gặp thứ nhất; điều khó gặp của thân thứ
hai là được làm người nhưng lại sinh ở nơi mọi rợ… không được giớ nhân, không
nhuần thánh hoá; điều khó gặp cuối cùng là tuy sinh ra ở đất nước văn minh nhưng
sáu căn không đủ, bốn thể không toàn.
Theo Trần Thái Tông, tuy “thân mệnh” là đáng trọng, nhưng cũng còn chưa
trọng bằng cái đạo tối cao. Các bậc thánh nhân khinh thân mình mà trọng đạo.Muốn
vượt vòng luân hồi lục đạo thì chỉ còn đường tắt nhất thừa (bồ tát). Nên tìm chính
kiến; chớ tin tà sư. Hiểu rồi mới có lối vào; tu được mới hay thoát tục.Đó là mục
đích của Trần Thái Tông muốn mọi người tích cực đi vào con đường tu hành để
tránh sự mê lầm, để “trở về quê hương”, tức bản lai diện mục, kiến tính thành Phật.
Sau “Quyển hạ” là “Quyển trung” gồm các bài kệ và các bài văn chúc hương
buổi sáng, bài kệ dâng hương, bài kệ dâng hoa và bài văn khải bạch. Quyển hạ bắt
đầu bằng bài kệ răn chúng chập tối, bài văn chúc hương chập tối, bài kệ dâng
hương, bài kệ dâng hoa, bài văn khải bạch, rồi đến mấy bài sám hối về các tội thiệt
căn, thân căn, ý căn, tương đương với ba buổi mặt trời lặn, nửa đêm và cuối đêm,
mỗi bài sám hối cũng đều kèm theo những câu và những bài như ở quyển trung.
Ông quan niệm bản thể là không, thế giới hiện tượng cũng là không, chẳng
qua là do vọng niệm, do cái tâm chấp cảnh mà thành khởi niệm. Một trong những
nét dặc thù của Trần Thái Tông là việc ông dùng hình ảnh “Quê hương” để diễn tả
về cái Phật tính, Tự tính, nhằm khơi dậy tình cảm của con người trên con đường tu
hành giác ngộ.
Theo ông, con đường nhận thức được bản thể vốn không và đích cuối cùng là
giải thoát, là sự từ bỏ vọng niệm, vọng tâm để đến với trạng thái vô niệm của tâm -
đó là con đường nhận thức luận. Con đường ấy trải qua các bước trì giới, thiền định
cuối cùng là giác ngộ. Tam học kết hợp với sám hối. Ông nhấn mạnh rằng, “muốn
rửa thân và tâm mà không dùng lễ sám hối thì khác gì muốn tiện đi lại mà không
dùng thuyền xe”. Sám hối là nhằm gột rửa sạch mọi nhơ bẩn để “khiến thân lòng
trong trẻo, trụi sạch như trước, gió tắt sóng lặng …”. Trần Thái Tông đã lấy sáu căn
14
chia sáu buổi, mỗi buổi làm lễ sám hối một căn. Gọi là lục thì sám hối.
Khi bàn về “giới định tuệ” ông cho rằng, con đường của chư Phật chỉ có kinh
Phật mà thôi. Những điều trong kinh không ngoài ba việc: Giới định tuệ. Giải thoát
luận nói rằng, giới định tuệ là nói về con đường giải thoát.Giới nghĩa là uy nghi;
định nghĩa là không loạn; tuệ nghĩa là hiểu biết. Giới là giai đoạn đầu; định là giai
đoạn giữa; tuệ là giai đoạn cuối của thiện… Ngoài giới định tuệ, Trần Thái Tông
còn bàn về niệm Phật. Mục đích của niệm Phật là nhằm khơi dậy nghiệp chính và
dập tắt ba nghiệp chướng do thân, miệng và ý gây ra.
Bài tựa Thiền tông chỉ nam với quan điểm “Phật không phân biệt Nam Bắc, ở
đâu cũng có thể tu cầu; tính có cả trí ngu, tính nào cũng có thể giác ngộ”. Lời của
Trúc Lâm đại sa môn đã làm cho ông thức tỉnh khi biết tâm trạng của ông muốn vào
núi cầu Phật: Trong núi vốn không có Phật, chỉ có trong lòng. Lòng lặng mà biết, ấy
là chân Phật. Ví bằng Bệ hạ giác ngộ lòng ấy, thì lập tức thành Phật, không cần phải
nhọc cầu ở ngoài. Thấm nhuần điều đó, lại đọc kinh Kim Cương có câu “Ưng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm” (Đừng bám vào gì mà để lòng vào, tức xem mọi vật đều là
không hết mà đối với mọi vật đều là vô tâm), Trần Thái Tông bỗng nhiên giác ngộ.
Tác phẩm “Khóa Hư Lục” của Trần Thánh Tông đã khẳng định rõ ràng bản
thế của thế giới (Phật tính, chân như, v.v.) tất thảy đều là không. Đã vạch ra phương
pháp đạt đạo (đi đến giác ngộ thông qua tu hành sám hối,…). Đây là một Khóa tác
phẩm mang ý nghĩa lý luận sâu sắc cho thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, được Tuệ
Trung thượng sĩ (Trần Tung) và Trần Nhân Tông cũng như các thiền sư về sau phát
triển thành hệ thống giáo lý quan trọng.
Qua đây, ta có thể rút ra được một số tư tưởng Thiền học căn bản Thiền học
của Trần Thái Tông đó là lấy tâm làm khái niệm căn bản để chỉ bản thể của thế giới.
Trần Thái Tông kế thừa quan niệm bản thể thế giới là không của Thiền học thời Lý:
“Nguyên lai, tứ đại vốn là không, ngũ uẩn cũng chẳng có. Từ không khởi ra hư
vọng, từ hư vọng thành ra sắc tướng mà sắc tướng là từ cái chân không” 6.
Bốn núi chót vót muôn khóm xanh,
6Tổng tập văn học Việt Nam.Sđd. Nói rộng về bốn núi.Tập 2.Tr. 34.
7Nt. Bài kệ về bốn núi. Tr. 35
15
Hiểu ra thì tất cả là hư vô, vạn vật là không”7
Bên cạnh khái niệm về tính không như trên, Trần Thái Tông còn đưa ra các
khái niệm “chân tể”, “bản tính”, “chân tâm”. “bản tâm” để chỉ bản thể của thế
giới: “Bản tính huyền ngưng, chân tâm trạm tịch, dứt tuyệt ý niệm về tròn khuyết,
nếu không phải là người trí thì không truy cứu đến giềng mối của nó. Nó không
hợp, không tan, không mất, không còn… Vì nó không phải hữu cũng không phải vô,
không đạo cũng không tục, nó độc tồn, siêu nhiên, ngoài nó không có gì khác, vì
vậy nó là tự tính kim cương8.
Quan niệm chân tâm đồng nhất với tính không như trên của Trần Thái Tông
có rất nhiều điểm đồng nhất với quan niệm về “đạo” của Lão Tử. Điều này cũng
được ông thừa nhận khi tiếp tục quan điểm Thiền học thời Lý cho rằng mọi người
đều có Phật tính, ai ai cũng có thể thành tựu được quá trình tu tập, đạt tới giác ngộ
nếu nhận thức được Tâm không: “Nào biết bồ đề giác tính, ai nấy viên thành; hay
đâu trí tuệ thiện căn, người người đều đủ. Chẳng cứ đại ẩn tiểu ẩn; đâu nền tại gia
xuất gia.Chẳng nề tăng tục, chỉ cốt tỏ lòng; nào kể gái trai, cớ sao nề tướng?Người
chưa hiểu chia bừa thành tam giáo; giác ngộ rồi cùng thấu một chữ tâm”9.
Từ quan niệm tâm không đồng nhất với Phật tính, đồng nhất với bản thể của
vũ trụ, Trần Thái Tông đi tới những kiến giải nhận thức luận về thế giới sự vật hiện
tượng bên ngoài.
Lý giải sự xuất hiện của thế giới giả tượng, Trần Thái Tông cho rằng do niệm
khởi, duyên hội, ngũ uẩn hợp thành. Chân tâm vốn như gương, do vọng niệm mà
trở nên mờ tối, do đó mà có thế giới giả tượng: “Pháp tính như như, không vướng
mảy may niệm lự. Chân tâm lặng lặng xưa nay vốn dứt bụi nhơ.Chỉ vì bị che lấp
nên vọng duyên mới khởi, ảo thể hiện thành”10. Do vậy, cần phải làm cho chân tâm
trở lại tĩnh lặng, trong sáng để dập tắt vọng duyên, có vậy mới thấy được chân tính,
8 Trích theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nguyễn Tài Thư chủ biên.NXB KHXH.HÀ Nội. 1988. Tr. 219-220.
9Tổng tập văn học Việt Nam.Tập 2.Sđd. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề.Tr. 50.
10 Trích theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Tài Thư chủ biên, NXB KHXH. Hà Nội. 1988. Tr. 220
16
bản thể.
Tuân thủ nguyên lý căn bản của Thiền học “kiến tính thành Phật”. Ông cho
rằng: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản tính”11. Theo nguyên tắc Thiền học,
Trần Thái Tông quan niệm, để kiến tính, thấy được bản tính Phật, thấy được chân
tể, phải “cố thủ nội khán” (quay đầu nhìn vào bên trong), hướng vào tu tập nội tâm
để thấy tính: “Nếu hay phản chiếu hồi quang, đều được rõ tính thành Phật”12.
Như vậy, Trần Thái Tông tiếp tục xu hướng Thiền học Vô Ngôn Thông, chú
trọng việc chiêm nghiệm tính không là bản thể vũ trụ, là chân tể của vạn vật.Khi
quay đầu nhìn vào bên trong (nguyên tắc thanh lọc nội tâm), tu tập để cho tâm bình
lặng, đạt tới trạng thái Tâm Không (dứt mọi niệm), là khi đó đã đạt tới cảnh giới
Phật. Do vậy, Phật tại tâm, không cần tìm kiếm đâu xa. Càng tìm kiếm ở ngoại giới
thì càng xa rời “quê hương”- xa rời Phật tính- bởi quá trình tìm kiếm ở ngoại giới
đó sẽ bị lục căn, lục tặc (các giác quan) làm cho mê lầm:
“Mũi quyện mùi thơm, lưỡi tham vị ngọt,
Mắt mờ vì sắc đẹp, tai mê tiếng hát hay.
Mãi mãi làm khách phong trần trôi dạt,
Ngày càng xa quê hương muôn vạn dặm đường”13.
Qua một số tư tưởng Thiền học căn bản của Trần Thái Tông nêu trong sách
“Khoá hư lục” như trên, chúng ta thấy những tư tưởng này cuả ông một mặt là sự
tiếp nối tư tưởng Thiền học của phái Vô Ngôn Thông dưới thời Lý, mặt khác là sự
lý giải cụ thể hơn và sâu sắc hơn các nguyên lý tư tưởng mang tính siêu hình của
Thiền học. Nhờ đó, người học đạo dễ dàng tiếp cận tới chân lý Thiền học hơn là
những bài kệ súc tích mang tính yếu chỉ Thiền dưới thời Lý. Cũng do vậy mà Thiền
học qua cách diễn giải của Trần Thái Tông trở nên gần gũi với nhận thức với người
tu thiền và dân chúng. Đó là đặc trưng tư tưởng Thiền học của Trần Thái Tông.
11Tổng tập văn học Việt Nam.Tập 2.Sđd. Bàn về ngồi thiền. Tr.62.
12Nt. Sđd. Rộng khuyên mọi người mở lòng bồ đề. Tr.48.
13 Nt. Sđd. Núi thứ nhất. Tr. 37.
17
Vậy tu tập Thiền như thế nào? Xuất phát từ các nguyên lý tư tưởng Thiền học
căn bản nêu trên và từ các luận thuyết Phật giáo căn bản về Tứ diệu đế, Bát chính
đạo, Nghiệp, Thập nhị nhân duyên… Trần Thái Tông đưa ra những phương pháp tu
tập Thiền để người tu hành không bị mê lầm trên con đường chứng ngộ Phật tính.
Dựa trên lý lẽ của cả Nho, Phật, Đạo, Trần Thái Tông cho rằng: con đường tu
tập, thanh lọc thân tâm trước nhất phải là thực hành ngũ giới: không sát sinh, không
trộm cắp, không mê nữ sắc, không nói càn và không uống rượu. Như vậy, trên con
đường tu tập thì giới là bước khởi đầu. Đây chính là giai đoạn chế định ham muốn,
kiểm soát bản thân khỏi sự quyến rũ của các giác quan. Tuân thủ triết học Phật giáo
về giải thoát, Trần Thái Tông dẫn giải quá trình đi tới giác ngộ là con đường thiện
và chia con đường giải thoát thành 3 giai đoạn: giới, định, tuệ. Người tu hành thực
hành tốt cả ba giai đoạn thì mới có thể hoàn toàn giác ngộ.
Giai đoạn đầu, nếu thành tựu được, người tu tập sẽ vui mừng khiến thân
nghiêng ngả nên vẫn chưa kiểm soát được cái tâm.
Giai đoạn hai của thiện, giúp cho thân dừng lại, giúp tâm đứng vững. “Vì tâm
đứng vững nên nhận biết được sự chân thực. Do vậy gọi là giai đoạn giữa của
thiện”14. Để đạt được giai đoạn hai của thiện là định, ông tập trung vào một số
phương pháp tu tập cơ bản cho người hành thiền: thụ giới, niệm Phật, ngồi thiền.
Thụ giới là việc tiếp nhận giới luật của Phật giáo. Người tu hành như người qua
sông phải dùng bè mảng tiếp nhận giới luật của Phật giáo giống như việc dùng bè
để qua sông vậy. “Giới như thuyền bè vượt qua bể khổ. Giới như chuỗi ngọc làm
cho pháp thân trang nghiêm”15.Thực hành giới luật Phật giáo chính là để chấm dứt
nghiệp thân.Cùng với phương pháp thụ giới là phương pháp niệm Phật. Ai cũng có
điều nghĩ, ai cũng có điều nảy sinh.Nghĩ, nảy sinh điều thiện thì nghiệp thiện
khởi.Nghĩ, nảy sinh điều ác thì nghiệp ác khởi. Tất cả đều do tâm động khởi mà
thành ý. Để khơi dậy ý nghĩa chân chính không gì bằng niệm Phật. Cuối cùng là
14Tổng tập văn học Việt Nam.Tập 2.Sđd. Bàn về giới định tuệ.Tr. 58.
15Nt. Sđd. Bàn về thụ giới.Tr. 59.
18
phương pháp Ngồi thiền, mục đích cuối cùng của thiền giả là chứng nghiệm Tâm
không, thấy được bản tính, giác ngộ. Trần Thái Tông nhấn mạnh mục đích và tầm
quan trọng của phương pháp ngồi thiền là: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản
tính. Tuy chịu tất cả mọi tịnh giới mà không ngồi thiền thì định lực không sinh.định
lực không sinh thì ý nghĩ sai lầm không diệt được, thế mà lại muốn thấy bản tính,
chẳng cũng khó sao!”16.Ông cho rằng cả đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể thiền
nhưng chỉ có ngồi thiền mới là phương pháp hiệu quả nhất để dập tắt ý nghĩ, không
để “tâm vượn” trỗi dậy.Tuy nhiên, cũng có người ngồi thiền mà không tắt mọi ý
nghĩ thì đó là giả thiền và nguy hiểm như “ngồi dưới núi hắc Sơn trong hang
quỷ”17.Ông cũng chia ngồi thiền làm bốn loại để người tu hành tự kiểm nghiệm xếp
loại hành thiền của mình đang ở mức độ nào.Loại dùng kế lạ làm vui người trên,
chán kẻ dưới mà tu hành gọi là ngoại đạo thiền.Loại hết lòng tin ở nhân quả nhưng
cũng lấy việc làm vui, gây chán mà tu gọi là phàm phu thiền.Loại hiểu rõ lẽ cuộc
sống là không, chứng riêng được đạo chân chính mà tu hành, là tiểu giáo thiền.Loại
hiểu rõ người và pháp đều không mà tu hành là đại giáo thiền. Và Trần Thái Tông
khuyến khích mọi người tu theo đại giáo thiền18.
Giai đoạn tuệ là giai đoạn cuối cùng của Giác ngộ. Theo Trần Thái Tông, “Tuệ
sinh ra từ định lực. Nếu như tâm định thì gương tuệ sinh; nếu tâm loạn thì gương
tuệ mất”19. Nhưng ông cũng cho rằng định và tuệ có quan hệ tương hỗ lẫn nhau:
“Cho nên biết rằng tuệ xuất hiện từ định; định nảy sinh từ tuệ. Định và tuệ nương
dựa nhau, không bỏ sót một bên nào”20.nếu ngồi thiền mà tâm không định thì
gương tuệ không thể sinh, nếu có tuệ tính mà không tập ngồi thiền thì cũng không
thể đạt được gương tuệ “vắng lặng mà thường chiếu, thường chiếu mà vắng lặng”21.
Giai đoạn tuệ là giai đoạn lý tưởng của thiền giả. Đạt được trạng thái tuệ là thiền giả
16Tổng tập văn học Việt Nam.Sđd. Tập 2.Bàn về ngồi thiền.Tr. 62.
17 Nt. Tr. 63.
18 Nt. Tr. 63.
19Tổng tập Văn học Việt Nam.Sđd. Bàn về gương tuệ.Tr. 63.
20Tổng tập văn học Việt nam.Sđd. Tập 2.Bàn về gương tuệ. Tr.63.
21Nt. Sđd. Tr. 64.
19
đã đạt được trạng thái tâm không, chứng ngộ được bản tính, giác ngộ được chân lý
Phật tại tâm.
Như vậy, con đường tu tập của thiền giả bắt buộc phải trải qua ba giai đoạn
giới, định, tuệ nói trên. Đó cũng là con đường thiện, thanh lọc thân tâm, quay đầu
nhìn vào bên trong tâm thức, khiến cho thân được trong sạch, kiềm chế được lục
tặc, định được tâm, từ đó mở ra huệ nhãn giác ngộ chân lý nhà Phật. Trì giới, niệm
Phật, ngồi thiền là ba phương pháp căn bản mà thiền giả phải luôn luôn thực hành
trên con đường thiện để đạt được chân lý Phật tại tâm nói trên của Thiền phái.
Trần Thái Tông được coi là người khơi nguồn Thiền học thời Trần. Bộ sách
“Khoá hư lục” là bộ sách mà Trần Thái Tông đã thâu tóm toàn bộ những yếu chỉ
căn bản về tư tưởng và phương pháp tu thiền của Thiền học Vô Ngôn Thông, diễn
giải chúng hết sức dễ hiểu và đầy đủ trong như trên đã phân tích. Sự tổng hợp và hệ
thống những yếu chỉ Thiền học đó của Trần Thái Tông không chỉ có ý nghĩa xây
dựng những nền tảng cơ bản cho Thiền học thời Trần phát triển, giúp cho người tu
thiền đương thời và hậu thế tránh được những mê lầm trong nhận thức và thực hành
thiền, mà còn giúp phổ biến Thiền học và thu hút quảng đại dân chúng hướng tới tu
Thiền bởi sự giản dị, khúc triết trong cách dẫn giải tư tưởng và phương pháp tu
thiền đó.
Trần Thánh Tông là cha của Trần Nhân Tông, vậy nên tư tưởng của ông có
ảnh hưởng rất lớn tới Trần Nhân Tông.
Vua Trần Thánh Tông tên là Trần Hoảng, là con thứ hai của Trần Thái Tông,
thân mẫu là Thuận Thiên thái hậu, người họ Lý. Thực ra, vua là con trưởng. Nhân
vua Thái Tông mơ thấy trời trao cho một gươm báu, Hoàng hậu liền có mang. Giờ
ngọ ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý (1240 ) tại kinh thành Thăng Long, vua sinh ra
liền lập làm Hoàng thái tử. Lên ngôi ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258 ) đổi
niên hiệu Thiệu Long. Bản chất thiên tài, vẻ toát ra ngoài sáng ngời, mang sẵn
những điều khác thường, xử sự dứt khoát, vừa xem rộng mọi sách vở, lại rất tinh
thông nội điển. Vua ở ngôi hai mươi năm, rồi nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm
20
(Trần Nhân Tông) để lên làm Thái thượng hoàng 12 năm. Sau đó xuất gia ở chùa
Tư Phúc, thờ quốc sư Đại Đăng làm thầy. Hằng ngày vua thường bàn luận với các
thiền khách, được truyền sâu ý nghĩa thiền, tự là Vô Nhị Thượng Nhân. Vua mất
ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần (1290), thọ 50 tuổi.
Trong thời Ngài làm vua thì đất nứớc thạnh trị thái bình. Lúc Trần Thái Tông
còn ở ngôi vua thì giặc Nguyên sang đánh lần thứ nhất. Thời gian Ngài làm vua thì
không có giặc. Khi Ngài truyền ngôi cho Nhân Tông lên làm Thái thượng hoàng thì
giặc Nguyên sang đánh lần thứ hai. Nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc đã
được bảo vệ và củng cố một phần lớn là nhờ vua Trần Thánh Tông cùng với con
mình là vua Trần Nhân Tông lãnh đạo thành công hai cuộc chiến tranh vệ quốc năm
1258 và 1278. Qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc ấy, vua Trần Thánh Tông thể hiện
là một vị anh hùng dân tộc. Trong giai đoạn nắm quyền từ năm 1258 cho đến 1278,
vua Trần Thái Tông đã tiến hành một đường lối ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên
quyết với mục đích giúp dân tộc có đủ thời gian bồi dưỡng tiềm lực nhằm đối phó
với cuộc chiến tranh xâm lược, mà kẻ thù đang tìm cách áp đặt lên nước ta. Chính
nhờ đường lối ngoại giao mềm dẻo ấy, đất nước Đại Việt có hòa bình để chuẩn bị
và xây dựng lực lượng làm cơ sở cho những chiến thắng vang dội trong hai cuộc
chiến tranh vệ quốc năm 1258 và 1278.
Về mặt tư tưởng thì trong học lý Thiền Tông, vua Trần Thánh Tông có hai
đóng góp lớn. Thứ nhất, nhà vua tiếp thu ảnh hưởng xu thế chung của Phật giáo thời
đại mình cùng với tư tưởng thiền thuộc trường phái Dược Sơn Duy Nghiễm (751 -
841). Chính dưới thời vua Trần Thánh Tông tại ngôi, mà chùa Phổ Minh lịch sử
hiện còn tới ngày nay đã được xây dựng. Thứ hai, vua Trần Thánh Tông đã công
khai chấp nhận trường phái thiền Đại Huệ. Trường phái này do Đại Huệ Tông Cảo
(1089 - 1163) thành lập. Đại Huệ Tông Cảo là một nhân vật lớn của trường phái
Lâm Tế thuộc chi phái Dương Kỳ Phần Hội. Trường phái thiền này ảnh hưởng đến
tư tưởng thiền của vua Trần Thánh Tông, vì nó phù hợp với xu thế tư tưởng chung
của thời đại nhà vua và đất nước Đại Việt lúc bấy giờ.
Vua Trần Thánh Tông là một ông vua tu ngộ đạo, những tác phẩm của ngài để
lại cho chúng ta thấy ngài là người thấu lý đạo tường tận sâu xa. Cuộc sống thiền
21
mà vua Trần Thánh Tông muốn đạt đến hết sức đơn giản và bình dị. Nền Phật giáo
của giai đoạn này là nền Phật giáo thế sự, kêu gọi mọi người cùng đóng góp tuỳ
theo khả năng của mình để xây dựng một thế giới an lạc cho bản thân, gia đình và
cộng đồng.
Ta có thể dễ dàng bắt gặp tư tưởng của Lý Cao trong thơ văn Trần Thánh
Tông. Chẳng hạn bài thơ đầu tiên do Thánh đăng ngữ lục tờ 12a8 - b3 chép lại của
vua Trần Thánh Tông đọc thế này:
Bốn chục năm hơn một tấm lòng
Muôn trùng cửa ngục vượt ra xong
Động như hang trống gào vang gió
Tĩnh tựa hồ yên trăng sáng trong
Câu nọ năm huyền mình hiểu hết
Đường kia mười chữ mặc xáo xông
Có người hỏi tớ tin gì mới
Mây tại trời xanh nước ở thùng.
Câu cuối nguyên văn chữ Hán là:
Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.
Câu thơ gốc nằm trong bài tứ tuyệt do Lý Cao (772 - 841) viết để tặng
cho thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm (751 - 834):
Luyện đắc thân hình tợ hạc hình,
Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh.
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết,
Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.
Vậy Lý Cao là ai? Và ông có những tư tưởng nổi bật nào? Lý Cao, tuy là
một Phật tử, nhưng đã có những bài viết lên án việc độ tăng và làm chùa to đúc Phật
lớn. Ông cho rằng những việc làm đó chẳng có công đức gì mà chỉ là những việc
làm hút máu mỡ của dân. Đối với việc độ tăng, Lý Cao cho rằng: “Những môn
đồ đạo Phật không chăn tằm mà quần áo đầy đủ, không cày bừa mà ăn uống sung
túc, ngồi rỗi mà kẻ phục dịch có đến mấy nghìn trăm vạn người. Suy ra đủ biết tất
22
có bao nhiêu người đói rét”. Đối với việc làm chùa, đúc tượng, ông lý luận
những việc làm ấy tốn kém hơn xây dựng cung A phòng và đặt vấn đề: “Đó há
chẳng phải đều lấy từ nhân tài vật lực của trăm họ mà ra đó sao?”. Về sau này, ta
cũng sẽ bắt gặp những nét tương đồng về quan điểm của Lê Văn Hưu (1230-?).
1.2.2. Tinh thần siêu thoát của Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Quốc Tung, là con đầu của Khâm Minh
Từ Thiện Đại Vương, là anh cả của Trần Hưng Đạo và Hoàng thái hậu Nguyên
Thánh Thiên Cảm, vợ vua Trần Thánh Tông. Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là
tước hiệu vua Trần Thái Tông ban cho anh ruột là An Sinh Vương Trần Liễu khi
ông này mất. Vào năm ấy Tuệ Trung Thượng Sĩ được 21 tuổi và được phong tước
Hưng Ninh Vương.
Ngay từ nhỏ, ngài đã có lòng mộ đạo Phật. Lớn lên, Tuệ Trung được cử trấn
đất Hồng Lộ, tức là Hải Dương bây giờ. Ông có công hai lần trong việc ngăn chặn
giặc phương Bắc xâm lăng, được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ trấn giữ hải đạo
Thái Bình. Có lần đến thăm Tiêu Dao thiền sư nghe giảng thuyết mà tỉnh ngộ, ngài
liền tuyệt ý công danh chuyên tâm học đạo, từ chức lui về phong ấp là Vạn Niên
Hương, tại đây ông dựng lên Dưỡng Chân Trang làm nơi tu niệm. Vua Thánh Tông
rất kính trọng, phong tước hiệu ngài là Tuệ Trung Thượng Sĩ và ký thác vua Trần
Nhân Tông cho ngài. Ngài hết lòng dạy bảo vua Nhân Tông về phần đạo lý. Khi
trong nước có giặc, ngài lại lấy võ công mà giúp vua Nhân Tông.
Đối với Thượng Sĩ, thế giới vũ trụ là bản thể trong suốt không dơ, không sạch,
không có cái đầu tiên cũng không có cái sau cùng, không phân biệt phàm thánh, mê
ngộ, chúng sinh và Phật không kẹt mắc trong hình thức đối đãi. Thượng Sĩ sống
giữa lòng thế tục, hoà cùng ánh sáng. Trong việc đối xử, ngài chưa hề phụ lòng ai,
nhân đó tiếp nối được cuộc sống chánh pháp, dìu dắt người sơ cơ. Người nào đến
hỏi han cũng được ngài chỉ cho chỗ cương yếu, khiến tâm tánh họ ứng dụng được
nhẹ nhàng, có chỗ nương tựa. Thượng Sĩ không ràng buộc bởi hình thức, khi thì ẩn
tàng, khi thì lộ diện, ngài không chấp vào hình thức và danh tự. Tư tưởng của Tuệ
Trung thượng Sĩ rất bình dị và dễ gần gũi, không chấp nê khuôn khổ hay vào một
23
giáo điều nào cả. Nắm biết được quy luật của cuộc sống, hài hoà cùng tự nhiên, tâm
hồn đạt đến chỗ thanh thoát. Một giai thoại thật lý thú về buổi tiệc trong hoàng cung
mà Khâm Từ hoàng hậu (em gái ngài) làm bữa cơm thịnh soạn để thiết đãi. Thượng
Sĩ gặp gì ăn nấy, gặp thịt ăn thịt. Hoàng hậu hỏi Thượng Sĩ cười đáp : “Phật tự là
Phật, anh tự là anh, anh không đòi làm Phật, Phật không đòi làm anh. Chẳng thấy
bậc tu xưa nói Văn Thù tự là Văn thù, giải thoát tự là giải thoát đó ư”.22 Một sự ăn
chay không thể thành Phật được. Quả là một câu nói vô cùng độc đáo, chứa đựng
đầy ắp tinh thần phóng khoáng, đúng là cái nhìn của bậc Thượng Sĩ có khác. Ngài
tuyên bố như thế là nhằm đả phá những đầu óc bảo thủ, cố chấp. Tâm luôn luôn mở
rộng cho đến khi không chấp vào cái gì nữa, cả đến Phật cũng không còn nữa. Như
Trần Thái Tông đã nói trong Khóa Hư Lục “Đến khi Phật cũng không, Tổ cũng
không, thì biết giới nào trì, kinh nào niệm”. Bởi thế cho nên Thượng Sĩ bảo đừng
nên chấp vào sự thành Phật để tu, chỉ nên cố giải thoát cho tâm hồn khỏi chấp, như
thế tự nhiên thành Phật. Vì hễ tâm hồn vô tư thanh tịnh không còn vướng bận một
mảy may ý niệm nào tức thì thành Phật. Để thấy tinh thần siêu phóng lần nữa của
Tuệ Trung Thượng Sĩ, chúng ta nhìn qua lối đối đáp cuối cùng của ngài trước khi
viên tịch.
Sau khi bệnh sơ sài, ngài không nằm ở phòng riêng mà nằm ở Dưỡng Chân
Trang. Tại đây giữa nhà trống, ngài kê một giường gỗ, nằm theo phép kiết tường,
mắt nhắm xuôi. Các người hầu hạ và thê thiếp khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt
ngồi dậy, sai người lấy nước rửa tay súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng :“Sống chết là lẽ
thường, sao buồn thảm luyến tiếc chi mà làm não chân tánh ta”23. Dứt lời, ngài êm
thấm mà tịch. Bấy giờ nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ bảy (1291 ) đời Trần Nhân
Tông, năm Tân Mão, ngày mồng một tháng tư, ngài thọ 62 tuổi. Theo thiền tông,
Tuệ Trung Thượng Sĩ không còn đặt nặng vấn đề về sinh tử, cũng không cần giải
quyết. Điểm then chốt là thấy được cái không sinh tử ở nơi mình. Cái không sinh tử
thênh thang trùng khắp, mà chúng ta không thấy, không biết, cứ nơm nớp lo sợ cái
22 Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải, trang 29, H.T Thích Thanh Từ, https://thuvienhoasen.org/images/file/OlR9p51G0QgQAFN1/tuetrungthuongsi.pdf
23 Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Tung, tr284, http://vnbet.vn/thien-su-viet-nam/tue-trung-thuong-si- tran-tung-10957.html
24
sinh tử cỏn con tạm bợ . Chúng ta quen nhìn theo con mắt phàm phu coi sinh tử là
trọng đại, rồi khổ đau với nó. Nếu dùng trí bát nhã quán sát lý nhân duyên, nhơn
duyên hội thì gọi là sinh, nhơn duyên ly tán thì gọi là tử. Sinh tử không có thực thể
cố định, chỉ là sự hợp tan của nhơn duyên mà thôi. Bởi không có thực thể cố định
nên thân này là tạm bợ hư dối, không có gì bảo đảm lâu dài. Một qui luật không
chối cải được “có hợp thì phải có tan” kể cả thân Phật cũng như thế, cho nên thân
nào rồi cũng diệt. Vai trò nổi bật của Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ trong giới
Phật giáo đời Trần, không khác gì với Trưởng Lão Duy Ma Cật ở Ấn Độ, ngài Huệ
Năng ở Trung Quốc, vua Trần Thái Tông ở Việt Nam đã đạt đến chỗ chứng đắc tột
đỉnh, giải thoát hoàn toàn. Trong thơ văn Lý Trần tập hai nói : Thượng Sĩ là người
thần thái nghiêm túc, cử chỉ đĩnh đạt. Khi người đàm luận về lẽ cao siêu huyền diệu
thì như gió mát trăng thanh. Đương thời, các bậc đạo cao đức trọng đâu đâu cũng
đều tôn trọng, cho Thượng Sĩ là người tinh sâu biết rõ, ngược xuôi thật khó mà
lường được.
Tuệ Trung Thượng Sĩ hẳn là, phải là một bậc xuất thế kiểu như vậy, cho nên
mặc dù ăn mặn và có thê thiếp, thế nhưng cả tăng lẫn tục thời bấy giờ, kể cả Trần
Nhân Tông đều kính trọng như bậc thầy trong đạo, không phải là bậc thầy bình
thường mà là một minh sư xuất sắc lỗi lạc, mà những lời dạy, những câu thiền đã
được Trần Nhân Tông cho khắc in lại, để lưu truyền cho hậu thế đời đời không
quên. Chính vấn đề này mà Hòa Thượng Mật Thể căn dặn rất chân tình: “Chỗ này
rất nên chú ý, đừng nên lầm sự vô ngại của các ngài đã giải thoát với những hành
vi phóng túng buông lung mà ngụy biện là giải thoát. Đối với người tu hành bao giờ
cũng lấy thanh tịnh trì giới làm gốc”. Nói về diện mục và tính cách của Tuệ Trung
Thượng Sĩ, thiết nghĩ bao nhiêu lời trên cũng tạm đầy đủ, thật khó mà diễn tả hết
đặc thù của ngài.
1.2.3. Trần Nhân Tông và việc khai sinh ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Để khai sinh ra một giáo hội thì cần có một giáo chủ mới, và Trần Nân Tông
chính là người nắm giữ vai trò đó. Ông là con trưởng của Trần Thánh Tông, thân
mẫu là Nguyên Khánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, là Sơ Tổ phái thiền Trúc Lâm.
Ngài tên là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Vua tuy ở địa
vị sang cả mà tâm hâm mộ thiền tông từ thuở nhỏ. Năm 16 tuổi (1274 ) được lập
25
Hoàng thái tử, ngài cố từ chối để nhường lập cho em mà vua cha không chấp nhận.
Vua cha cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc Mẫu cho ngài, tức là Khâm Từ thái
hậu sau này. Mặc dù sống trong cảnh vui hoà hạnh phúc ấy mà tâm ngài vẫn thích
đi tu. Một hôm vào lúc giữa đêm, ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến
chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá ngài bèn
vào nằm nghỉ trong tháp. Vị sư trụ trì ở đây thấy ngài tướng mạo khác thường, liền
làm cơm thiết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi, tìm thấy, ngài bất đắc dĩ phải trở
về.
Năm 21 tuổi (1279 ), Trần Nhân Tông lên ngôi Hoàng đế. Tuy ở địa vị cửu
trùng mà ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Thường ngày, ngài đến chùa Tư
Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa
sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh
chỉ ngài nói:“Biết ông Phật này chăng? Là đức Phật Biến Chiếu”, tỉnh giấc, ngài
đem việc đó tâu lên vua cha. Vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc. Con nguời ngài
rất thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, suốt thông nội điển (kinh Phật giáo)
và ngoại điển (sách đời ). Những khi nhàn rỗi, ngài mời các vị thiền sư khác bàn
giải về thiền tông, tham học thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ, thâm đắc đến chỗ thiền
tủy. Vua tôn thờ Tuệ Trung Thượng Sĩ làm thầy và hết lòng trọng đãi. Ngài nhập tư
tưởng thiền, lại có một tâm hồn nghệ sĩ và khí tiết hào hùng trong việc trị nước an
dân. Trần Nhân Tông là vị vua anh minh đức độ, lại là anh hùng của dân tộc. Tất cả
những đức tính cao cả, trí tuệ, từ bi, bình đẳng, uy dũng đều kết tinh trong con
người của ngài. Nhà vua luôn lấy đức trị dân, trong nước trên thuận dưới hòa, lấy ý
dân làm nền tảng xây dựng nước nhà, vui trong niềm vui của dân tộc.
Những khi giặc Nguyên sang xâm chiếm, vua phải xếp việc kinh kệ để lo giữ
gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn kết nhân dân, ngài đã hai lần đuổi được quân Nguyên giữ
gìn trọn vẹn đất nước. Sau trận chiến thắng thứ hai, non nước thái bình Thượng
hoàng Trần Thánh Tông có hai câu thơ kỷ niệm.
“Xã tắc hai phen bon ngựa đá
26
Non song thiên cổ vững âu vàng”.
Năm Quý Tỵ (1293 ), vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con là Trần
Anh Tông, lên làm thái Thượng hoàng. Ở ngôi Thái thượng hoàng để chỉ dạy cho
con được sáu năm, ngài sắp đặt việc xuất gia. Đến tháng mười năm Kỷ Hợi (1299 ),
ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu đà (
khổ hạnh ) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà (sau này ngài đổi hiệu là Trúc Lâm
Đầu Đà ). Trần Nhân Tông là người truyền thừa chính thức của phái Yên Tử, thuộc
hệ thứ sáu, tiếp nối vị Tổ thứ năm là ngài Huệ Tuệ. Ngài là người sáng lập ra thiền
phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông viên tịch tại am Ngọc Vân núi Yên Tử, nhằm ngày
mồng một tháng mười năm Hưng Long thứ 16 (1308 ), thọ 51 tuổi.
Trần Nhân Tông, một vị anh hùng, một đức Phật. Đúng như toàn bộ thân thế
sự nghiệp nhà vua. Anh hùng đánh dẹp giặc Nguyên hung hãn nhất thế giới. Vị Phật
sáng lập ra phái Trúc Lâm. Ngài đã chọn núi Yên Tử cũng nhằm mục đích mô
phỏng Siddhartha vào Tuyết Sơn. Trên Yên Tử có Ngự Dội, có hàng tùng cổ kính.
Ngài tắm Ngự Dội, lên gốc tùng thiền định như Siddhartha tắm ở dòng sông Ni –
liên – thiền lên ngồi gốc cây bồ đề đắc đạo. Yên Tử có rừng trúc, Trần Nhân Tông
dựng tịnh xá ở đó như Siddhartha đã lấy Trúc Lâm làm nơi trú đông cho hàng đệ tử.
Cũng từ ý mô phỏng đó mà Ngài lấy tên cho giáo phái mới của mình là phái Trúc
Lâm. Chính vì thế hoàn cảnh lịch sử đã nói lên thống nhất ý thức hệ mà Trần Nhân
Tông đảm nhiệm. Một ông vua là Phật, sáng lập ra giáo phái và tuyên truyền cả
nước. Điều đó được tiêu biểu trong con người của ngài qua hai mặt: nhà vua và giáo
chủ.
Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tính tinh thần của nó là
uy tính tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của nền văn hóa Việt Nam
độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung
Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình. Đứng về phương
diện tư tưởng, tổ chức, cũng như hành đạo, giáo hội Trúc Lâm có những nét độc đáo
khiến cho nó chỉ có thể là một giáo hội Việt Nam, phục vụ người Việt, duy trì và
bồi đắp cá tính Việt.
Đọc qua tiểu sử và quá trình hành đạo của Trần Nhân Tông, chúng ta nhận
27
thấy Ngài quả là con người vẹn toàn cả đời lẫn đạo. Một vì vua anh minh, nhân hậu,
một vị thiền sư, một nhà lãnh đạo siêu xuất và cũng rất bình dị dễ gần gũi. Sự
nghiệp của Trần Nhân Tông về đời lẫn đạo được các nhà sử học từ xưa cho đến nay
đánh dấu tốt đẹp. Vì thế mà Ngài được suy tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc
Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Phật Tổ. Do yêu cầu thời đại, thiền
phái Trúc Lâm đã Đại Việt hóa, dân tộc hóa tư tưởng thiền Tông và sáng tạo một số
tư tưởng cụ thể, sắc bén, thích hợp với hoàn cảnh Đại Việt lúc bấy giờ, phần nào
đáp ứng được yêu cầu của thời đại xã hội. Đồng thời đào tạo nên những thiền sư
tâm hướng về đạo mà lòng vẫn gắn bó với đời, hoà vào cuộc sống trần thế. Họ vừa
28
là những con người tôn giáo, vừa là những con người xã hội.
Tiểu kết chương 1
Bước đầu tìm hiểu về triết học Phật giáo Trần Nhân Tông, chúng ta cần phải
hiểu rõ về những tiền đề hình thành nên triết học Phật giáo Trần Nhân Tông. Để xây
dựng nên một hệ thống ý thức hệ độc lập với phương Bắc trước đó, thì đòi hỏi nhà
Trần cần phải có một hệ thống những giáo lý, quan điểm tư tưởng đổi mới và phù
hợp hơn. Chính vì vậy đã hình thành nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trong thiền
phái này là sự tích hợp những tư tưởng của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ
Trung Thượng sĩ,... để Trần Nhân Tông kế thừa và phát triển. Trần Thái Tông với
quan niệm Phật tại tâm, tức là Phật không hiện diện ở chốn xa vời, mà Phật hiện
diện ngay chính trong mỗi người trong chúng ta, điều đó đã được ông hệ thống lại
trong đứa con tinh thần “Khóa Hư Lục”. Tiếp đến là trong tư tưởng triết học Phật
giáo của Trần Thánh Tông, ông luôn muốn con người chúng ta xây dựng được một
thế giới an lạc. Vậy nên ông luon chủ chương mọi người đoàn kết lại để đống góp
một phần sức lực phù hợp với khả năng của bản thân để gây dựng một thế giới an
lạc không chỉ cho bản thân, cho gia đình mà còn cho cả xã hội loài người. Còn đối
với Tuệ Trung Thượng Sĩ, ông quan niệm thế giới vũ trụ là bản thể trong suốt
không dơ, không sạch, không có cái đầu tiên cũng không có cái sau cùng, không
phân biệt phàm thánh, mê ngộ, chúng sinh và Phật không kẹt mắc trong hình thức
đối đãi. Tất thảy những điều trên đã góp phần hình thành nên tư tưởng triết học Phật
29
giáo của Trần Nhân Tông.
CHƯƠNG 2.
MỘT SỐ QUAN NIỆM TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
VÀ CON ĐƯỜNG TU TẬP GIẢI THOÁT
2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về Phật, Phật tính, niết bàn.
Các khái niệm như: Phật, Phật tính, niết bàn không phải là những gì được
soạn thảo một cách trí thức nhằm vào mục đích nghiên cứu, mà đúng hơn là một
số phương tiện giúp chúng ta nhìn thấy chính xác hơn sự hiện hữu của chính mình.
Do đó thiết nghĩ cũng nên dành ra chút thì giờ để suy nghĩ về từng khái niệm một
nhằm hiểu rõ hơn tư tưởng triết học Phật giáo để vận dụng cho mỗi người.
2.1.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “Phật”.
Theo quan điểm của Phật giáo thì thấy sắc thân Phật chưa hẳn là thấy Phật
thật, mà trong đó còn có một cái gì sâu xa hơn, vượt qua cái thấy của hai tròng mắt
này, vượt qua cái hiểu của tâm suy nghĩ phân biệt này, không thể đem tâm phàm
phu sinh diệt này mà suy đoán nhận hiểu, đòi hỏi phải mở con mắt giác ngộ mới
nhận rõ: Phật không phải ở đâu xa vời, mà Phật ở ngay tâm giác ngộ của mỗi một
con người
Để đi tìm được đúc kết được khái niệm đó, Đức Phật đã phải trải qua quá trình
gian khổ tu tập nhiều kiếp rồi ngài mới ngộ. Lúc đầu Ngài cũng hiện ra từ một con
người như bao nhiêu người, cũng có cha có mẹ… nhưng đặc biệt không giống mọi
người, Ngài không bằng lòng với số phận của kiếp người đã an bài, mà quyết tìm
cách vượt ra. Khi dạo qua bốn cửa thành, thấy cảnh người già, người bệnh, người
chết và vị sa môn, Ngài có thắc mắc: Tại sao ai sinh ra cũng phải già, bệnh, chết
như thế ? Mọi người đều cho đó là chuyện dĩ nhiên, là định luật đã an bài, từ xưa
đến nay vốn như thế, chỉ cúi đầu chấp nhận thôi. Song với Ngài thì không chấp
30
nhận là vốn như thế, mà nó phải có nguyên nhân của nó, quyết tìm ra nguyên nhân
thì có cách giải quyết, không thể cúi đầu chấp nhận. Do đó, Ngài vượt thành xuất
gia tìm Đạo, và quả nhiên Ngài đã thành công.
Cũng dựa trên quan điểm đó của đạo Phật, Trần Nhân Tông cũng cho rằng,
Phật không chính ở đâu xa, mà Phật ở ngay trong chính mỗi cá nhân con người.
Ông quan niệm “Phật là bụt”. Bụt không nên cầu ở ngoài, mà chính phải tìm ngay ở
chính mình, nếu con người chúng ta biết tích nhân, tu đạo đức, làm theo 10 nghiệp
lành, thì ai dám bảo đó không phải là Bồ Tát, không phải là Thích Ca. Điều đó đã
được thể hiện rõ trong Cư Trần Lạc Đạo Phú của ông:
“Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm,
muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính…
Dứt trừ nhân ngã, thì ra tướng thật Kim cương;
dứt hết tham sân, mới lảu lòng màu viên giác.
Tịnh độ là lòng sạch,
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương… ;
Vậy mới hay! Bụt ở trong nhà; chẳng phải tìm xa.
Nhân khấy bản (quên gốc) nên ta tìm Bụt,
Đến cốc hay chỉn (chính) Bụt là ta…”
Bụt hay Phật vốn ở ngay nơi ta, không phải nhọc nhằn tìm ở đâu khác. Bởi
chúng ta quên gốc đuổi theo ngọn nên cứ đuổi tìm kiếm Bụt ở bên ngoài. Nào ngờ,
khi đạt đến tỏ ngộ mới tỉnh ra, chính Bụt ở trong tâm giác ngộ của mình đây thôi.
Bao nhiêu công phu chạy tìm liền buông xuống nhẹ nhàng. Kế thừa quan điểm
trong đạo Phật, Phật giáo được định hình ngay từ khi Đức Phật còn tại thế. Trần
Nhân Tông sau khi nhường ngôi cho con, ngài cũng xuất gia và trở thành Sơ tổ Trúc
Lâm “đi khắp mọi nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỉ các dâm từ và thực hành giáo lý
Thập thiện”24.
Trong đạo Phật, khi đi tìm nguyên nhân của già chết, ngài khám phá ra rằng
24 Thích Phước Sơn dịch và chú (1995), Tam Tổ thực lục, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, tr.20.
31
chính “vô minh” là gốc sinh khởi để kết nhóm, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn
tức thân tâm này, mà tất cả chúng sinh phải mang lấy trong cuộc luân hồi dài từ vô
thỉ. Dứt vô minh thì các duyên theo đó đều dứt, sinh tử khổ ưu não dừng, là vấn đề
sống chết được giải quyết xong.
Vậy “vô minh” là gì ? Vô minh tức là mê mờ không sáng suốt khởi chấp ngã,
thấy có một cái ta tồn tại, rồi bám chặt vào đó mà tạo thành nghiệp lành, nghiệp dữ,
và bị nghiệp dẫn đi trong luân hồi. Bởi bám vào cái ta này, nên mất nó liền tìm cái
khác thay vào, dòng sinh tử tiếp nối không dừng chính từ đây.
Chúng ta cũng thế, bám vào mấy cục thịt, mấy đốt xương, mấy sợi gân… vô
tri này cho là mình rồi cũng giết hại con này, con kia nuôi dưỡng nó, tạo thành biết
bao nghiệp ác cũng vì nó. Nhưng cuối cùng, nó cũng bỏ mình để trở về với cát bụi,
còn nghiệp ác đã tạo kia, mình phải mang lấy sang kiếp sau mà nhận quả khổ, thật
có đau đớn chăng ? Phật gọi chúng sinh mê lầm là như thế.
Giờ đây, nếu tỉnh ngộ, biết mình là linh tri, là sáng suốt không phải những thứ
vô trí, hư hoại đó, buông nó đi, tức thành giải thoát. Không bám vào nó, lấy đâu có
chỗ để sinh? Ngay đó là pháp vô sinh chớ gì! Rất thực tế và gần gũi với chúng ta vô
cùng!
Trong chính sách của mình, Trần Nhân Tông cũng rất khéo léo và tài tình ở
chỗ thống nhất được các thiền phái Phật giáo thành một để đất nước Đại Việt của
vua có được một đạo Phật đủ tiềm lực tôn giáo, phát triển nội lực cá nhân và tập thể,
có thể làm lợi ích cho bản thân mình và đồng loại, trong đó có lợi nhiều mặt
cho quốc gia và xã hội.
Cũng trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, ông cho rằng, đạo Phật khuyên con
người từ bỏ tham, sân, si được chừng nào thì bớt khổ được chừng ấy, giảng dạy
thuyết nhơn quả, nghiệp báo, luân hồi, tái sinh, tu sửa theo 10 thiện nghiệp, nêu
cao lý tưởng Bồ-tát cứu khổ độ sinh… Sạch giới lòng, dồi giới tướng, nội ngoại nên
Bồ-tát trang nghiêm; Ngay thờ vua, thảo thờ cha, thế mới thật trượng phu trung
32
hiếu.
Chưa nói thành Phật - Thánh, nhưng nếu có bất kỳ ai làm được những điều
khuyên ấy, đều là người có ích cho mình và mọi người, nếu xã hội thực
hiện những lời khuyên ấy thì xã hội ổn định và phát triển. Có lẽ nhờ vậy nên nhân
dân ta đã đánh thắng quân Nguyên chăng…? Đây là vấn đề đạo đức và luân lýxã
hội hết sức nhạy cảm trong xã hội ngày nay.
Tóm lại, TrầnNhân Tông cũng như Đạ Phật đều chỉ coi “Phật” chỉ là một
danh từ, một hình tướng biểu tượng bên ngoài là phương tiện tạm thời để nhắc nhở
người tỉnh giác, không phải Phật thật. Cẩn tỏ ngộ lại tâm sáng suốt nơi chính mình,
đó mới là Phật gốc. Đức Thích Ca hay Trần Nhân Tông cũng đều thành Phật ngay
trong tâm .
“Đêm đêm ôm Phật ngủ
Sáng sáng cùng Phật dậy,
Ngồi đứng cùng theo nhau,
Nói nín cùng chung ở,
Chẳng mảy may tạm rời,
Giống hệt hình với bóng.
Muốn biết chỗ Phật đi,
Chính cái nói năng đó.”25
2.1.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “Phật tính”.
Nền tảng của những lời dạy là Phật tính.Vậy nên hiểu rõ khái niệm “Phật tính”
là rất quan trọng.
Đức Phật hay Trần Nhân Tông cũng đều cho rằng, Phật tính không phải là
25 Theo Thiền sư Bảo Phước Tùng Triển, đệ tử nối pháp Tuyết Phong Nghĩa Tồn, đời thứ 6 dưới ngài Thanh Nguyên.
33
những điều chúng ta tự tưởng tượng hay tạo ra, mà Phật tính là sự tồn tại vốn có
trong mỗi chúng ta. Và mỗi một con người cá nhân lại có những cách khác nhau để
đánh thức Phật tính luôn hiển diện trong mỗi người.
Nếu như trong Đạo Phật ban bố lời dạy theo những cách thức khác nhau như:
Giới luật, Luận tạng, Kinh điển, và Mật điển; thì Trần Nhân Tông, ông lại chủ
trương lấy tông chỉ “thiền tông” làm chủ đạo.
Theo Đạo Phật, Giới luật dạy căn bản về những nguyên lý và chuẩn mực đạo
đức; Luận tạng quan tâm chính về học thuật, những khía cạnh vi tế về sự hình
thành, và quy luật vận hành của vạn vật, Kinh điển tập trung vào những lời dạy
về từ bi; và Mật điển trình bày những phương pháp chuyển hóa bằng sự tỉnh
thứcdần dần và cuối cùng có thể đạt tới giác ngộ. Mục đích của những lời dạy
này đơn giản nhằm giúp chúng ta đánh thức bản chất tối thượng của chính mình –
đó là Phật tính.
Với Trần Nhân Tông, ngài linh động kết hợp giảng kinh thuyết pháp, mục đích
giúp cho người học Phật hiểu sâu kinh điển, chuyển những lời kinh chết trong sách
vở thành những bài kinh sống, chứng minh cho Tâm Thiền sáng ngời không có gì
sai khác. “Kinh đâu có lỗi gì? Lỗi do người chấp kinh. Thiền đâu có gì sai khác?
Sai do người phân biệt. Kinh từ miệng Phật nói, Thiền là tâm Phật vốn chẳng phải
là hai!”26
Theo Phật giáo, tất cả chúng sinh có Phật tính cuối cùng đều sẽ đạt được giác
ngộ. Mặc dù có một vài chúng sinh cần thời gian dài hơn để tịnh hóa, để nhận ra
Phật tính của họ, nhưng có những chúng sinh có thể được giác ngộ nhanh hơn. Điều
này là tùy vào từng cá nhân theo đuổi con đường tỉnh giác như thế nào, và có
những lựa chọn gì. Có một điều chắc chắn là tất cả chúng sinh sẽ có thể làm được
26 Theo bài báo “Vua Trần Nhân Tông với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử”, đăng ngày Thứ năm, 28 Tháng tám 2008 09:15, http://www.thuongchieu.net/index.php?option=com_content&view=article&id=843:vua-trn-nhan- tong-vi-thin-phai-truc-lam-yen-t&catid=17:ttttp&Itemid=347
34
điều này bởi lẽ bản chất của họ là Phật.
Còn với Trần Nhân Tông, ông cho rằng để giác ngộ, hay để thành Phật không
có gì là khó khăn, bởi trong chính bản thân mỗi người, chúng ta chỉ cần thắng chính
chúng ta, thắng được con quỷ dữ trong tâm thức của mỗi người, như vậy là tâm sẽ
sáng, ắt sẽ thành Phật. Tâm tức là Phật và Phật tức là tâm.
Trong Phật giáo cho rằng, nếu như một ai đó không tự nhận thức được Phật
tính của họ, có nghĩa là “vô minh”. Nhưng Phật tính là không thể thay đổi, nên
dù chúng ta vô minh thế nào thì Phật tính của chúng ta vẫn nguyên vẹn. Và
dù chúng ta giác ngộ như thế nào thì Phật tính của chúng ta cũng còn lại nguyên
vẹn. Đó là bản chất không thay đổi. Cùng theo quan điểm đó, Trần Nhân Tông cũng
cho rằng, trong bản tính của mỗi con người đều có phần Phật, nếu như ai đó không
có, thì chẳng qua là anh ta chưa ngộ ra, chưa thiền ra mà thôi. Giác ngộ chính
là hiện thân đầy đủ Phật tính của chúng ta ở mọi cấp độ của sự biểu thị sắc
tướng của chúng ta.
Khi đạt tới giác ngộ, chúng ta nhận ra được trọn vẹn phạm vi của những phẩm
tính này. Việc làm của một vị Phật là vượt ra sự nhị nguyên. Trong một kinh
điển, Đức Phật đã nói: “Ta chưa bao giờ dạy điều gì”. Điều này ngụ ý rằng những
lời dạy của Ngài được truyền lại là sự hiển thị tự nhiên. Điều đó không phải đơn
giản như là một người này nói chuyện với người kia, mà sự hiển hiện này giống như
ánh sáng chói lọi của mặt trời, mang những năng lượng tốt đẹp để trợ giúp sự tinh
tấn của chúng sinh. Ánh sáng mặt trời làm được rất nhiều điều. Nó làm ấm hạt
giống để có thể phát triển rễ và bám được trong đất. Ánh sáng mặt trời giúp quả
chín trên cây. Nó cho ánh sáng, làm ấm các đại dương, hơi nước bốc lên và các đám
mây được hình thành. Tất cả những biểu hiện này không cần đặt kế hoạch, giống
như hành động tự nhiên của một vị Phật.
Bởi lẽ việc làm của Phật là bất nhị, một vị Phật có thể giúp đỡ những chúng
sinh khác. Đức Phật là vô hạn vì Ngài đã vượt qua tính nhị nguyên, do vậy ngay cả
cùng một lúc, nếu toàn bộ chúng sinh trong vũ trụ cầu nguyện Ngài và xin được ban
phúc, thì sự cầu phúc của Đức Phật sẽ được ban đều cho tất cả, và chúng sinh tùy
35
theo căn cơ của mình để nhận sự cầu phúc đó.
Khi Đức Di Lặc luận bàn về những che chướng và làm thế nào để khắc phục
chúng, Ngài đã nói về “những che chướng tạm thời , không có những che
chướng vĩnh cửu. Các che chướng luôn luôn chỉ là tạm thời.” Ngài cũng nói có
những che chướng liên miên, và xác định chín loại chủ yếu: tham ái, sân hận, vô
minh, và sáu loại che chướng liên quan đến quả vị bồ tát – từ cấp sơ địa đến
cấp thập địa.
Những che chướng này khiến chúng ta bị cuốn vào vòng luân hồi sinh – tử. Và
để khắc phục nó chúng ta cầm từ bỏ tham sân si, để không bị nó điều khiển,
không lệ thuộc vào nó. Có như vậy thì chúng ta mới hiểu biết đúng đắn hơn, không
mắc phải sự đố kỵ, hận thù, ganh ghét, tránh làm điều ác. Đạo Phật khuyên răn con
người nên từ bi hỷ xả đối với mọi người.
Trong phần cuối bài giảng về Phật tính, Đức Di Lặc đã dạy về năm sự bất
lợi do không hiểu biết Phật tính, và năm lợi ích do hiểu biết Phật tính. Bất lợi của
sự vô minh về Phật tính được xem xét đầu tiên, mà trước hết là do tự ti. Không
có kiến thứcvề tiềm năng của mình, chúng ta có xu hướng xem những lỗi
lầm của chúng ta là bất biến và là bản chấttự nhiên của chúng ta. Đây là một trong
số sai lầm lớn nhất của chúng ta. Bất kỳ trí tuệ hay nhận thứcmà chúng ta may
mắn phát triển được là để có thể nhìn ra trạng thái tự huyễn hoặc đúng hơn sự
thật là gì – một sự tỉnh thức về tiềm năng tối thượng của chúng ta. Nếu không nhận
thức về Phật tính, chúng tadễ bị thuyết phục về sự vô giá trị và hồ nghi về bất cứ
phẩm tính tốt đẹp nào chúng ta có được. Đây là một quan niệm sai.
Bất lợi thứ hai do không biết về Phật tính là do bản ngã của ta. Khi không biết
về Phật tính, bản ngã của chúng ta dễ phát triển. Khi chúng ta phát triển các phẩm
tính tốt đẹp như là kết quả từ những nỗ lực tích cực của mình, chúng ta thường nghĩ
mình đã tự tạo ra, và điều này thổi phồng bản ngã của chúng ta. Chúng
ta không nhận ra rằng mình có Phật tính như là các chúng sinh khác, và một phẩm
tính tốt đẹpchính là một chút biểu hiện về Phật tính trong ta, và chúng ta là tối
thượng nhưng không phải là cao quí hơn bất kỳ ai khác. Nếu không nhận
thấy những chúng sinh khác cũng có những khả năng như vậy, chúng ta rất dễ nảy
36
sinh sự kiêu hãnh sai lầm về những thành quả nhỏ mà mình đạt được.
Đức Di Lặc nói về những bất lợi thứ ba và thứ tư như là “khẳng định và phủ
định”. Sự cuồng tín là một thí dụ về khẳng định và phủ định. Thiếu nhận
thức về Phật tính dẫn đến tâm trí hẹp hòi, giới hạn, và là nguyên nhân khiến chúng
ta khẳng định những quan điểm giới hạn của mình là duy nhất và phủ nhận sự
thật của những quan điểm khác. Thí dụ, nếu chúng ta nhìn vào hình ảnh và nghi
thức của Phật tử, chúng ta có thể cũng làm như thế mà không nhận ra bản chất, mục
đích thực sự của chúng là gì. Chúng ta chỉ nắm bắt hình tướng bên ngoài. Không
có hiểu biết chúng ta phủ nhận bản chất và khẳng định hình ảnh bên ngoài. Nếu
không thể phân biệt giữa hình ảnh và bản chất bên trong, và tạo ra sự liên hệgiữa
điều quan trọng và các thứ vặt vãnh xung quanh, điều này có thể là một bất lợi rất
lớn. Nếu khôngdẫn đến cuồng tín có thể làm hại những chúng sinh khác, thì
cũng lãng phí nhiều thời gian và năng lượng do để mất đi điểm cốt lõi.
Đức Di Lặc dạy rằng tham ái là bất lợi thứ năm. Khi một người vô
minh về Phật tính thì có khuynh hướng trở nên bám víu vào những vận may tốt
hoặc là bất kỳ phẩm tính đã đạt, và miễn cưỡng chia sẻ những điều này với người
khác. Điều này nghĩa là bất kỳ điều tốt đẹp được phát triển trong cuộc sống
của chúng ta sẽ không làm lợi lạc cho những người khác. Chúng ta sẽ bị sa lầy trong
bất kỳ điều gì đạt được, và cuối cùng chúng ta bị thụt lùi thay vì tinh tấn.
Về năm lợi ích của hiểu biết Phật tính. Đầu tiên là hỷ lạc. Dù chúng ta nghèo
khó thế nào, dù chúng tatrải qua đau khổ ra sao, dù chúng ta đang ở trong hoàn
cảnh nào, chúng ta luôn có niềm vui vì biết rằng bản chất tối thượng của chúng
ta là hoàn hảo. Bởi chúng ta biết mình đang hướng tới sự tỉnh thức cuối
cùng về Phật tính, chúng ta cảm thấy hoàn toàn an tâm và hạnh phúc. Trong một số
bài giảng hướng dẫn về Mật thừa, điều này được coi là quan điểm rất quan trọng.
Có một châm ngôn được dịch từ tiếng Tạng sang tiếng Anh như sau, “ Ngay cả
nếu chúng ta phải chịu đau khổ, thì chúng ta cũng đau khổ một cách hạnh
phúc.” Đau khổ một cách hạnh phúc nghĩa là nhận thức rằng đau khổ chỉ là bên
ngoài và vô thường. Phật tính của chúng ta có thể không bao giờ đau khổ, vì
37
vậy đau khổ một cách hạnh phúc là điều có thể. Ngay cả khi chúng ta không thể
tránh được nỗi thống khổ, chúng ta vẫn có một khoảng không để chúng ta có thể an
lạc trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Đức Di Lặc nói lợi ích thứ hai của hiểu biết về Phật tính là sự tôn
trọng. Chúng ta có thể tôn trọng tất cả chúng sinh, và mọi người, bởi vì họ đều
có Phật tính như ta. Chúng ta có thể tôn trọng môi trường và tự nhiên nữa, bởi vì đó
là những biểu hiện của Phật tính thông qua những giác quan liên hệ lẫn nhau
của chúng ta.
Thông thái là lợi ích thứ ba. Khi biết về Phật tính, chúng ta hiểu về chân lý
tương đối. Hiểu biết và nhận thức về chân lý tương đối để sử dụng nó một cách
thông thái.
Khi hiểu về Phật tính, chúng ta hiểu về chân lý tuyệt đối. Sự hiểu biết chân
lý tuyệt đối là trí tuệ. Trí tuệsẽ chỉ dẫn chúng ta lựa chọn và đẩy nhanh chúng
ta hướng tới giác ngộ. Trí tuệ là lợi ích thứ tư.
Lợi ích thứ năm của hiểu biết Phật tính là lòng bi. Chúng ta biết rằng tất
cả chúng sinh đều có thể tiến bộvì bản tính nguyên sơ của họ là hoàn hảo, và
những nỗ lực của họ để tinh tấn – cũng như những cố gắng của chúng ta để giúp họ
- sau cùng rồi cũng đạt được kết quả. Mọi chúng sinh đều có Phật tính. Đó là sự
khích lệ cho chúng ta, bởi vì nếu không có khả năng để tinh tấn, thì chúng ta không
thể giúp chính chúng ta hoặc là chúng sinh khác, và như vậy thì sự cố gắng là vô
ích. Chúng ta có lòng bi bởi chúng ta nhận thức sâu sắc về những nỗi thống
khổ mà chúng sinh đang phải chịu đựng. Bởi vì Phật tính của mình, chúng ta có thể
hành động một cách yêu thương và bi mẫn để giúp đỡ chúng sinh. Khi tụng những
lời cầu nguyện của Phật tử “ mong rằng tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau
và nguyên nhân của khổ đau,” lời cầu nguyện của chúng ta là hiện thực, vì chúng
ta biết mọi chúng sinh đều có Phật tính.
“Đi khắp mọi nẻo thon quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo
27 Thích Phước Sơn dịch và chú (1995), Tam Tổ thực lục, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, tr.20.
38
lý Thập thiện”27 luôn là ấp ủ của Trần Nhân Tông. Thập thiện, tức là mười điều
lành do ba nghiệp tạo nên, gôm có: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm,
không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lời hai chiều, không nói lời hung ác,
không tham lam, không sân hận, không si mê.
Trong kinh Thế ký thuộc Trường A-hàm có đề cập: “Ở thế gian vào thời kiếp
giảm, con người sống đến 84 ngàn tuổi, sau đó giảm dần ... cho đến 200, và ngày
nay, con người sống khoảng 100 tuổi. Sở dĩ tuổi thọ và phước báocon người suy
giảm là do không tu pháp Thập thiện mà ngược lại còn làm Thập ác… Qua kiếp
tăng, con người làm ác cùng cực, chợt thức tỉnh tu thiện, từ 1 cho đến 10 điều thiện,
thì phước báo và tuổi thọ tăng dần lên đến 84 ngàn tuổi, và thế giới trở thành an
lạc, hạnh phúc vô cùng”28. Điều đó cũng được đề cập khi Hòa thượng Thích Thanh
Từ đề cập đến lợi ích của pháp Thập thiện: “Người tu từ cư sĩ tại gia cho đến xuất
gia lẫn người thế gian, nếu biết áp dụng pháp tu Thập thiện trong cuộc sống thì
được bình an hạnh phúc. Người tu thì mau tiến đến quả giải thoát. Người đời thì
phước báu ngày càng lớn, tuổi thọ ngày càng tăng trưởng.”29
Trần Nhân Tông độ sinh bằng cách bố thí cả tài và pháp, điển hình như: “Quý
Mão năm thứ 11 (1303) (Nguyên Đại Đức năm thứ 7), mùa xuân, tháng Giêng,
ngày 15, Thượng hoàng ở phủ Thiên Trường, mở hội Vô Lượng ở chùa Phổ
Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp cho người nghèo trong nước và giảng
kinh giới thí”30, ông không những tự mình giữ giới mà còn khuyên mọi người giữ
giới; hết lòng siêng năng chăm lo cho quốc gia dân tộc và phụng sự đạo pháp; nhẫn
nhục với mọi chướng duyên nghịch cảnh; luôn dùng thiền định và trí tuệ làm kim
chỉ nam hướng đạo cho lộ trình tu tập giải thoát, hoằng dương giáo pháp, luôn sống
28 Xem thêm: Kinh Thế ký, Kinh Trường A-hàm, Đại chánh tân tu Đại tạng kinh, tập I, tr.144-145.
29 Thích Thanh Từ (1993), Kinh Thập thiện giảng giải, Thành hội Phật giáo TP.HCM ấn hành, tr.7.
30 Ngô Sĩ Liên (Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính) (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, NXB.Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội, tr.561.
39
và hành động với tấm lòng từ bi vô cùng bao la rộng lớn.
Phật tính là giáo lý thiết thực, một quan điểm đầy khát vọng. Chúng ta có thể
thực sự giải thoát tất cả chúng sinh được không? Chúng ta có thể. Chúng ta có thể
đạt giác ngộ được không? Tất nhiên. Điều gì khiến chúng ta tin tưởng như
vậy? Phật tính. Mọi danh vọng, tiền đồ chỉ là mây là gió, quan trọng là làm thế nào
để ai trong chúng ta cũng có thể giác ngộ cho chính chúng ta, để được sống an lành,
hạnh phúc ngay trong chính cuộc đời này. Chính vì lẽ ấy mà người tu Thập
thiện nghiệp thì trong đời hiện tại thân tâm được cải thiện tốt đẹp, tránh khỏi đọa
lạc chốn tam đồ, lại được hưởng phước báo cõi nhân thiên và chứng đắc Phật quả.
Đây là nền tảng cơ bản để thực hiện. Chúng ta vốn đã được giác ngộ. Chúng ta chỉ
cần đánh thức vị Phật đang ngủ trong mỗi chúng ta.
2.1.3. Quan niệm của Trần Nhân Tông về “niết bàn”.
Mỗi một giáo hội lại có những quan niệm khác nhau. Như trong Thiên Chúa
giáo, thế giới có đầy hoa thơm trái ngọt, chỉ có hạnh phúc, yêu thương, không thù
hận gọi là “thiên đường”; Trong Nho giáo, xã hội lý tưởng là một xã hội đại đồng;
Còn với Phật giáo thì đích của giải thoát lại là “Niết bàn”.
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây
là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của
cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc
khi đã chết (Vô dư Niết bàn).
Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn,
từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một
Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan
niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là
trong xã hội hiện đại.
Vậy Niết bàn là gì? Có khá nhiều quan niệm về Niết bàn. Theo tiếng Sanscrit
là Nirvana, tiếng Pali là Nibhana. Hay học giả Đoàn Trung Còn, Niết bàn là “cảnh
40
trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến
ái”31. Hay theo Pháp sư Huyền Trang thì triết tự Niết bàn - Nirvana như sau: 1, Nir:
ra khỏi, ly khai; vana: con đường vòng vèo, quanh quẩn, đổi thay. Nirvana là ly khai
con đường quanh quẩn, chuyển dịch (bứt vòng sinh tử luân hồi); 2, Nir: không;
vana: hôi tanh, dơ bẩn, Nirvana là không hôi tanh, dơ bẩn (thanh tịnh, trong sạch);
3, Nir: xa lìa, đào thải; vana: rừng rậm, Nirvana là xa lìa rừng rậm (đào thải những
phiền tạp của đời sống). Mặc dù các cách hiểu này không đồng nhất song đều có
chung một nghĩa căn bản: Niết bàn là sự đoạn trừ dục vọng, dứt nghiệp báo luân
hồi, thanh tịnh tuyệt đối. Đó là sự ngưng đọng vĩnh cửu của không - thời gian trong
cõi tâm linh sâu thẳm của con người.
Trong phạm vi nghiên cứu của một bài khóa luận, tôi sẽ đi đề cập tới khái
niệm của Đạo Phật xem như thế nào là Hữu dư niết bàn, thế nào là Vô dư niết bàn,
đề cập tới khái niệm niết bàn của phái Đại Thừa và Tiểu thừa. Để đến cuối cùng đi
tới khái niệm niết bàn của Trần Nhân Tông, cũng như là của phải thiền tông.
Hữu dư Niết bàn là Niết bàn tương đối, Niết bàn tại thế: nghĩa là, Niết bàn đạt
được khi thể xác vẫn còn tồn tại nhưng tâm đã thoát khỏi vòng luân hồi bất tận.
Người đó tuy còn sống nhưng mọi phiền não đã được diệt, ba nọc độc tham - sân -
si đã tiêu trừ. Bản thân Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đạt tới Hữu dư Niết bàn khi ông
35 tuổi, lúc nhìn thấy sao mai mọc, sau 49 ngày ngồi dưới gốc cây bồ đề để chiêm
nghiệm về chân lý. 45 năm còn lại của cuộc đời, mặc dầu tâm đã xoá được vô minh,
phiền não song ông vẫn không thoát khỏi sinh - lão - bệnh - tử.
Vô dư Niết bàn là Niết bàn tuyệt đối, Niết bàn xuất thế hay còn gọi là Đại Niết
bàn. Kinh Bản sinh giải thích: “Thế nào là Vô dư Niết bàn?... Đó là trạng thái đã
chứng được La Hán, hết sạch các phiền não, phạm hạnh đã được thành lập, việc
cần làm đã làm đủ, đã vứt bỏ mọi gánh nặng, đã chứng tự nghĩa, đã khéo giải
thoát, đã được biết khắp. Tất cả các điều cảm thụ bây giờ đều không còn do nhân
dẫn đến, không còn mong cầu, hy vọng cũng hết, rốt ráo tịch lặng, vĩnh viễn trong
31 Đoàn Trung Còn. Phật học từ điển, t.1. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1995, tr 335
41
mát, ẩn lặng không hiện, chỉ y vào cái thanh tĩnh không lý luận, không thể bảo rằng
có, cũng chẳng thể nói rằng không mà cũng không cho rằng chẳng có chẳng
không”32. Vô dư Niết bàn chỉ đạt được khi đã chấm dứt sự tồn tại của thân xác.
Xét về mặt bản chất, Hữu dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn đều chỉ về trạng thái
tâm linh thanh tịnh tuyệt đối, tự do tự tại của con người. Điểm khác biệt là ở chỗ,
Niết bàn đó đạt được khi thân thể còn sống hay đã chết mà thôi.
Khái niệm Niết bàn trong Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa như thế
nào?
Xuất phát từ lập trường thực tại luận, Tiểu thừa cho rằng, thế giới này tồn tại
thực sự, con người cũng tồn tại thực sự nên những khổ đau của con người cũng là
có thật chứ không phải chỉ là những gì thuộc về cảm giác. Từ đó, họ đi tới kết luận,
chỉ có thể giải thoát khỏi khổ đau bằng con đường lánh đời, thoát tục, xuất gia tu
hành, lấy “diệt tận là cứu cánh” với phương châm diệt (diệt mọi phiền não), tận
(chấm dứt mọi nghiệp sinh tử), ly (giải thoát khỏi nỗi khổ trong ba cõi), diệu (đạt tới
Vô dư Niết bàn). Niết bàn mà Tiểu thừa hướng tới là Niết bàn xuất thế, lánh đời, đạt
được bằng lối tu kham nhẫn. Với Tiểu thừa, vì vô ngã là Niết bàn nên muốn đến
được Niết bàn, con người phải từ bỏ những thú vui trần thế, những yêu thương và
khao khát “trở thành”. Không còn những sôi động, buồn vui nơi nhân thế, Niết bàn
chỉ là sự tịch diệt, cô đơn, vắng lặng, cô đơn, buồn tẻ và vô cảm. Lý tưởng Niết bàn
Vô dư tịch tĩnh đã khiến Phật giáo mất dần sức hấp dẫn, khó thực hiện với mọi
người, chỉ dành cho thiểu số người có cơ duyên đặc biệt.
Đối với Đại thừa, Niết bàn và luân hồi không có gì sai khác. Theo họ, vì bị
bóng tối của đám mây vô minh bao phủ nên con người mới nhầm lẫn hiện tượng ảo
giả với bản chất đích thực của thế giới. Do đó, giải thoát không cần sự chối bỏ cuộc
sống mà chỉ cần “xuất tự thế gian tướng” để đạt tới trạng thái không còn phân biệt
bờ bên này - sinh tử và bờ bên kia - giải thoát, không còn phân biệt chúng sinh và
Phật, mê và ngộ. Sinh tử tức Niết bàn, phiền não tức Bồ đề. Niết bàn và luân hồi chỉ
là một nhưng nhìn trong vô minh thì là luân hồi, nhìn khi giác ngộ là Niết bàn,
32 Thích Trí Nghiêm (dịch). Kinh Bản sinh.Http://www.quangduc.com.
42
giống như nhìn sợi dây thừng trong bóng tối là con rắn nhưng nhìn trong ánh đèn thì
chỉ là sợi dây thừng, không còn đáng sợ nữa. Vì vậy, phải chấp nhận sống trong
luân hồi thì mới chi phối được nghiệp báo luân hồi.
Đối với Thiền giáo nói chung hay Trần Nhân Tông nói riêng, Niết bàn ở đây
không phải là thoát khỏi vòng luân hồi như Hữu Dư Niết bàn; hay không phải chỉ
đạt được khi chấm dứt sự tồn tại của thân xác như Vô Dư Niết Bàn hay chỉ đạt được
khi xuất thế, xa lánh cuộc đời giống Tiểu Thừa. Niết bàn của Trần Nhân Tông cũng
mang một chút hơi hướng của Đại Thừa là sống cùng những buồn vui nhân thế.
Nhưng Niết bàn của Thiền giáo lại có điểm khác, nó không phải là chỉ đạt được khi
không còn phân biệt bờ bên này - sinh tử và bờ bên kia - giải thoát, khi không còn
phân biệt chúng sinh và Phật, mê và ngộ như Đại Thừa.
Niết bàn mà Thiền giáo bàn tới ở đây là trạng thái giác ngộ của con người sau
khi đã thoát khỏi những khổ đau, những ràng buộc của cuộc sống trần tục. Là khi
mà người ta đạt được huệ nhãn, có một tầm nhận thức đúng đắn. Không giống như
Đạo Thiên Chúa – con người sẽ được lên thiên đường sau khi chết. Mà đối với
Thiền giáo, niết bàn tồn tại ngay chính trong cuộc sống trần tục. Con người chúng ta
ai cũng có thể thành Phật, và thành Phật ngay trong chính cuộc đời này.
Qua đây, ta có thể thấy rằng, Niết bàn là một khía niệm vô cùng quan trọng,
nó đem lại một diện mạo mới cho sức sống mới cho Phật giáo. Hiểu được niết bàn
là một điều vô cùng cần thiết. Khái niệm Niết bàn đã trở nên hấp dẫn hơn, thể hiện
một triết lý sống nhân bản của tôn giáo.
2.2. Một số quan niệm về nhân sinh và con đường tu tập giải thoát của
Trần Nhân Tông.
2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về nhân sinh.
Trong hệ thống tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông, thì nhân sinh quan và
triết lý đạo đức là quan trọng nhất. Nếu ở vấn đề thế giới quan ông chủ yếu khai
thác tiếp thu và thể hiện khá sâu sắc thế giới quan Phật giáo thì ở vấn đề nhân sinh
quan, ngoài quan điểm Phật giáo ông còn kết hợp nhuần nhuyễn với những yếu tố
43
triết lí đạo đức nhân sinh của nho giáo, hòa quyện quan điểm của đạo giáo và sự
tổng hợp quan điểm của thiền và tịnh độ. Hầu như toàn bộ dòng tư tưởng triết học
của Trần Nhân Tông được bắt đầu từ tâm và kết thúc cũng ở tâm tĩnh lặng, hư
không. Cho nên cùng với vấn đề thế giới quan mang đậm dấu ấn triết học thiền của
Trần Nhân Tông.
Về vấn đề nhân sinh quan, ông cho rằng đây mới là những vấn đề chủ yếu và
quan trọng cuối cùng của đời sống thiền, bởi ông hiểu rõ cuộc đời rất ngắn ngủi, vô
thường nên ông tích cực nhập thế và mong muốn cống hiến toàn bộ sức lực, sự
nghiệp cho đời và đạo. Chính tinh thần nhập thế tích cực này đã đưa Thiền Phái
Trúc Lâm mà người sáng lập là Trần Nhân Tông đến đỉnh cao của sự phát triển Phật
giáo đời trần và là đại biểu cho Phật giáo việt nam với diện mạo, sắc thái riêng.
Trần Nhân Tông cho rằng sống mà không giúp ích gì cho đời là điều đáng hổ
thẹn của kẻ trượng phu (sinh vô bổ thế trượng phu tàn). Chính vì thế trong triết lí
nhân sinh của mình, Trần Nhân Tông luôn gắn liền vấn đề lợi ích của dân tộc với
quan điểm cho rằng làm trai quyết trả nợ non nước phải để lại gì cho núi sông, phải
giúp ích gì cho đời.
Trong cuộc đời mình, dù làm vua hay làm thiền sư, Trần Nhân Tông lúc nào
cũng lo cho dân cho nước (ưu quốc) lòng (ưu quốc ấy được ông thể hiện rõ trong
bài tiễn sứ Bắc Ma Hạp Kiều Nguyên Lãng rằng:
“Trung Thống, chiếu xưa lời hãy nhớ
Nỗi lo đất nước dịu lòng tôi”33
Cả cuộc đời của mình, Trần Nhân Tông lúc nào cũng vì nước vì dân dù thời
chiến hay thời bình. Chính vì vậy mà ông đã lập ra dòng thiền Việt Nam- Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử.
Một trong những vấn đề lớn trong cuộc sống con người được tất cả các nhà tư
tưởng, các trường phái triết học từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, trong đó có triết lí
33 Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần tập 2, quyển thượng, trang 479 Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
44
Phật giáo quan tâm đó là vấn đề sống chết của con người. Về vấn đề sống chết,
cũng như Lão Tử, Trần Nhân Tông đã nhìn thấy răng “làm người ắt phải có thân, có
thân tức là có họa”. Điều này được Trần Nhân Tông thể hiện rõ ngay trong những
câu thơ đầu của bài đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, rằng:
“Sinh có nhân thân,
Ấy là họa cả.
Ai hay cốc được,
Mới ốc là đã”34
Nghĩa là: sinh ra có thân mình, ấy là họa lớn. ai hay được điều đó mới gọi là
giác ngộ. Vì người ta sinh ra có thân thể, hình hài nên sự hợp tan, họa phúc, sống
chết của con người là lẽ thường. Do vậy, theo Trần Nhân Tông, người ta cần phải
vượt qua cái thể xác, hình hài tạm bợ của mình. Hơn thế nữa, do thấm nhuần triết lí
vô thường, vô ngã của Phật giáo, Trần Nhân Tông cho rằng mọi pháp đều không
sinh, mọi pháp đều không diệt ; cho nên trong cuộc đời, con người cần chấp nhận và
vượt lên trên sự sống chết, không cần quan tâm nhiều đến hình hài, thể xác và sống
chết, mà điều cần quan tâm, chú trọng và đề cao nhất đó là ý nghĩa giá trị đạo đức,
giá trị cuộc sống và thái độ sống của con người. Người ta chỉ đạt được ý nghĩa, giá
trị cao cả ấy bằng con đường tu luyện trí tuệ, đạo đức của mình ; công danh chẳng
trọng, phú quí chẳng màng, sống đạm bạc, dứt trừ vọng niệm, giác tính sáng trong,
thân tâm vui vẻ, rũ hết trần duyên, chẳng còn bỉ thử, tranh nhân chấp ngã, thị phi
chẳng hề, ngồi trong trần thế, chẳng quản sự thay, săn hỉ xả, nhuyến từ bi ; rèn lòng
làm bụt, sạch giới lòng ; chùi giới tướng, tham thiền, kén bạn, xem kinh, đọc lục,
học đạo, thờ thầy35.
Khác với Tuệ Trung Thượng sĩ coi sinh tử nhàn nhi dĩ (sống chết là lẽ
thường), trong triết lí nhân sinh, Trần Nhân Tông bàn khá nhiều về vấn đề sinh tử.
có lẽ cách giải quyết vấn đề sinh tử của các thiền sư đi trước, kêt cả Tuệ Trung
34 Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, tr.532, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
35 Nt, tr.507 - 508
45
Thượng sĩ đều không thể tỏa mãn được một sự thật rất hiển nhiên đầy tính thuyết
phục là sống- chết như hai thái cực đối lập, vẫn diễn ra với tất cả mọi người mang
đầy vẻ thần bí của nó. Trên thực tế, các thiền sư chưa ai vượt qua cái chết, dù đã đạt
đến giác ngộ, chưa ai trở về từ cái chết dù đã nắm được cái bản thể hư không của
chúng. Vì thế, vấn đề sống chết vẫn là một trăn trở hoài nghi của các thiền sư Thiền
phái Trúc Lâm. Chẳng thế mà sơ tổ trúc lâm dù coi Tuệ Trung Thượng sĩ là ngọn
đèn tổ cũng vẫn dặn dò các đệ tử rằng: “các ngươi hãy xuống núi mà lo tu hành,
đừng coi sinh tử là việc nhàn”
Trong triết học Phật giáo, khái niệm sinh tử thường được sử dụng theo hai
nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, sinh là toàn bộ các pháp hữu vi hiện ra, khởi
lên. Các pháp (dhrama) trải qua bốn giai đoạn sinh trụ dị diệt. đây là các pháp hữu
vi theo nhân duyên hòa hợp mà xuất hiện và cũng theo nhân duyên ly tán mà ra.
Sinh theo nghĩa rộng là một khái niệm hết sức phức tạp nhất trong Phật giáo, nó gắn
liền với học thuyết karma nghiệp của triết học Phật giáo nguyên thủy. Sinh theo
nghĩa hẹp là xuất hiện sự sống còn của chúng sinh là một trong tứ khổ, nên nhà Phật
thường nói sinh khổ hay sinh sinh. Trong tứ khổ thì sinh là khổ đầu tiên, nó lưu
chuyển mãi trong vòng luân hồi, không bao giờ dứt, từ đời này tới đời khác, từ xứ
này sáng xứ khác.
Còn tử theo nghĩa rộng là diệt. diẹt là từ cái có trở về với cái không, nó thường
được dùng đồng nghĩa với tắt, đoạn, tuyệt, tịch và hoại. Tử là loại bỏ cái thân mà
mình thừa nhận, là mất đi cái sinh mạng của mình. Sinh, diệt theo nghĩa rộng là
khái quát toàn bộ sự luân chuyển của các pháp hữu vi, các Phật tử thường gọi là tục
đế hay là các triết lí thế tục, không có tính cách giải thoát, nên Trần Nhân Tông đã
trình bày quan niệm về sinh diệt của mình trong bài kệ trước khi viên tịch như sau :
“Mọi pháp đều không sinh
Mọi pháp đều không diệt
Nếu hiểu được như thế
Chư Phật thường hiện tiền
36 Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (1995), Tam tổ thực lục (Thích Phước Sơn dịch và chú giải), tr.33
46
Chẳng đi cũng chẳng lại”36
Theo Trần Nhân Tông vấn đề sinh tử hiểu theo nghĩa rộng chỉ tính chất hư vô
thường, huyền ảo của thế giới hiện tượng nhưng bản chất của nó là hư không, chẳng
sinh cũng chẳng diệt, chẳng đi cũng chẳng đến, không đầu không cuối vô thủy vô
chung. Tuy nhiên giữa thế giới hiện tượng và bản chất không có gì khác biệt ngăn
cách cả, chúng là một. vấn đề quan trọng là ở chỗ cái tâm. Cùng một hoàn cảnh đời
sống bằng cái tâm tĩnh lặng hư không thì thấy sinh tử là niết bàn, tâm là Phật, phàm
là thánh, tất cả là một. còn nếu bằng cái tâm vọng động, xao động thì sinh là sinh, tử
là tử, tất cả là một. tất cả là một hay tách biệt đối đãi đều do cái tâm mà ra cả. Tư
tưởng trên của Trần Nhân Tông là thống nhất với tư tưởng của Trần Thái Tông và
Tuệ Trung Thượng sĩ.
Còn theo nghĩa hẹp, lẽ sinh tử được Trần Nhân Tông hiểu nó là cái có tính
chất vô thường ngắn ngủi của cuộc sống con người, nó như hơi thở qua buồng phổi
mà thôi.Vậy con người có thế thoát ra khỏi giới hạn sinh tử không ? theo Trần Nhân
Tông, con người không thể tránh khỏi sinh tử và vòng nhân quả. Vì ngời ta không
thể chạy trốn khỏi sinh tử, hay nhân quả để tìm ra niết bàn, mà ngược lại phải ở
ngay trong sinh tử để thấy hiểu suốt bản tính của nó rằng sinh tử là lẽ thường của
cuộc đời con người và để nhận ra sinh tử là không sinh, không tử. vì thế, vấn đề
sinh tử không phải là chuyện vô ích, mà là vấn đề lớn, quyết định đến thái độ sống
của hành giả. Thái độ sống của Trần Nhân Tông trước cuộc đời ngắn ngửi là tích
cực, sống cho hết mình đừng để thời gian qua một cách vô ích.
2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về con đường tu tập và giải thoát.
Mục đích cao nhất mà đạo Phật hướng đến là giải thoát. Và theo đạo Phật, nếu
con người muốn thoát khỏi những khổ đau đó thì chỉ có Bát Chánh Đạo mới diệt trừ
được. Theo Kinh Dhammapāda thì con đường cao thượng nhất là Bát Chánh
Đạo, chân lý cao thượng nhất là Tứ Diệu Đế... đó là con đường duy nhất, không
còn con đường nào khác dẫn đến tri kiến thanh tịnh. Hãy đi theo con đường ấy, để
sớm thoát khỏi mọi điên đảo của Ma vương. Và giải thoát đối với đạo Phật, không
phải là bám víu vào một đấng cứu thế, hay một phép thần thánh nào đó. Mà chính là
sự đoạn tuyệt tham, sân, si trong chính mỗi cá nhân con người. Đạo Phật quan niệm
47
đời là bể khổ, và để thoát khỏi sự khổ đau đó thì con người cần phải giữ giới như:
Không sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ, bán rượu, giao nói lỗi của bốn
chúng, tự khen mình chê người, bòn xẻn thêm mắng đuổi, giận hờn không chịu xám
hối, hay hủy báng tam bảo. Trần nhân tông ko phủ định những điều luật hay con
đường tu tập giải thoát của Đạo Phật, mà ông chú trọng hơn vào vào thiền.
Trần Nhân Tông cho rằng cần chấp nhận sự sinh tử như một lẽ tự nhiên,
không chạy trốn. cần phải sống giữa đời, giải quyết những thách đố của đời thường,
tùy duyên mà hành đạo. sống tùy tục, trộn lẫn với đời thường cũng chính là sống
hành động với cái tâm hướng thiện. theo ông, sự giác ngộ cần phải được thực hiện
ngay trong vòng sinh tử, thiền gia phải sống hết mình để thực hiện giải thoát ngay
khi còn sống. Vì thế, mọi hoạt động xã hội như quân sự, chính trị, tôn giáo đều là
hành thiện cả. thiền gia chỉ đắc đạo ngay giữa đời thường như hoa sen chỉ thanh cao
khi thấp ướt bùn lầy. như thế, Trần Nhân Tông hiểu một cách sâu sắc tính cách vô
thường ngắn ngủi của cuộc sống con người. nó như hơi thở qua buồng phổi mà thôi.
Trần Nhân Tông cũng rất coi trọng đến vấn đề rèn luyện đạo đức, trí tuệ và
giải thoát. Vấn đề tu luyện đạo đức, trí tuệ để đạt tới giác ngộ và giải thoát cũng là
một trong những vấn đề đặc sắc trong triết lý nhân sinh của Trần Nhân Tông. Trong
tác phẩm Cư trần lạc đạo phú, ông viết : Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tua một sức giồi
mài ;đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lưu lọc37
“Tham ái nguồn dừng, chẳng cong nhớ châu ngọc quý;
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh
ngâm”38
Trần Nhân Tông không những đã đích thân đi khắp nơi giảng thuyết Thập
thiện mà bản thân nhà vua sau khi xuất gia đã sống một nếp sống cực kỳ đạo hạnh,
37 Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, tr.508 Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
38 Nt. Tr 505
48
giản dị, trong sáng, một cuộc sống thiền khó tìm thấy ở một ông vua nào khác.
“Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thuỵ khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.”39
Dịch nghĩa
Bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường,
Móc rơi trên sân thu, hơi đêm thoáng mát.
Tỉnh giấc không biết tiếng chày nện vải ở nơi nào,
Trên chùm hoa quế trăng vừa mọc.
Hay trong bài Sơn phòng mạn hứng, Trần Nhân Tông cũng viết :
Thuỳ phọc cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm, hà tất mịch thần tiên.
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Dịch nghĩa
Ai trói buộc mà phải tìm phương giải thoát,
Phẩm cách chẳng phàm tục cần gì tìm thần tiên.
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người cũng đã già,
Vẫn một chiếc giường thiền ở am mây cũ.
Với tấm lòng yêu thương chúng sinh vô hạn, ông đã chỉ ra cái gốc trong mỗi
con người, rồi lại chỉ ra cho họ tại sao bị lạc đường, để cho họ tại sao bị lạc đường,
để cho họ trở về gốc, trở về với chính bản thân mình.
Theo Trần Nhân Tông, tâm là nơi xuất phát,nơi ẩn chứa Phật tính mà mọi
người không biết nên họ chạy đông, chạy tây tìm bụt. Điều này cũng giống như con
39 Trần Nhân Tông, Nguyệt ,
huơu khát nước chạy trên bãi sa mạc, càng tìm càng không thấy bởi lẽ họ đã quên
https://www.thivien.net/Tr%E1%BA%A7n-Nh%C3%A2n- T%C3%B4ng/Nguy%E1%BB%87t/poem-4TbMJ6DPxhCRayuAI8aY_w
49
gốc, theo cách gọi của Trần Nhân Tông là “khuây bản”. Bởi vì vậy mọi người hãy
hồi tâm, hãy nhìn lại tự tâm như Trần Nhân Tông kêu gọi. “Bụt ở trong nhà , chẳng
phải tìm xa. Nhân khuây bản nên ta tìm thấy bụt ; đến cốc hay chỉn bụt là ta.”40
Ngoài ra Trần Nhân Tông còn chỉ ra rằng, tu đạo phải gắn liền với việc rèn
tính sáng, nén niềm vọng, dứt trừ nhân ngã, dứt hết tham sâu, xét thân tâm… Nghĩa
là phải ra sức dùi mài lực học, phải công phu như người đãi cát tìm vàng, để dẫn
đến ngừng nguồn tham ái, lạng tiếng thị phi. Bởi lẽ không có sự tập trung cao độ,
nếu thân tâm không trong sạch. Khi đầu óc cháy bỏng những khát vọng ham muốn,
tham lam, ích kỷ, khi tâm mờ mịt vì sắc đẹp, tình yêu và dục vọng về cuộc đời và sự
vật xung quanh. Vì thế, trong Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tông đã viết :
Gìn tính sáng tính mới hầu an;
Nén niềm vong, niềm dừng chẳng thác.
Dứt trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương;
Dừng hết tham sân mới láu lòng màu viên giác41
Thơ Trần Nhân Tông, lúc chưa an tâm tĩnh trí, mỗi lần xuân về trăm hoa đua
nở, tâm coi con người bị lôi cuốn, tác động bởi cảnh đẹp mà bâng khuâng, mơ
mộng. Nhưng khi biết được đường vào cửa Thiền, đã cởi bỏ mọi danh sắc của thế
gian, thấu hiểu được vũ trụ, thật tướng của thế giới, thì cái tự an nhàn không còn bị
sắc hương lôi cuốn.
Tập trung suy nghĩ chỉ có được khi cá nhân con người đã trải qua những biến
đổi đạo đức nhất định theo chiều hướng thiện. Sự tu luyện tâm và tính không phải
cốt được quả báo, cũng như giữ giới hạnh, chống lại cái vô thường không phải cốt
40 Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần quyển thượng, tr506, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
41 Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, tr. 505, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
50
để mua danh bán lợi.
Trần Nhân Tông đã thực hiện đúng con người mà Phật tổ trước kia đã làm là
xuất gia tu hành Đầu đà – là loại bỏ trụi trần phiền não để tìm cầu Phật đạo. Thực
chất của tu hạnh đàu đà là thực hiện khổ hạnh, tẩy rửa mọi dục vọng đời thường để
thân thể thanh tịnh. đây cũng là bước đi đầu tiên của Phật tổ thích ca trên con đường
cầu tìm chân lý. Trong tu hạnh Đầu đà, có 12 phạm hạnh dùng để đối trị thân tâm,
đoạn trừ các phiền não cấu uế: ở nơi alannha (thanh vắng); thường đi khất thực;
khất thực tuần tự, không phân biệt giàu nghèo ; mỗi ngày chỉ ăn một bữa; ăn uống
điều độ; sau bữa ăn trưa không dùng các chất bỏ dưỡng; mặc y chắp vá; chỉ dùng có
ba y; ở những nơi nghĩa trang; nghỉ ngơi bên gốc cây; ngồi chỗ khoảng đất trống;
chỉ ngồi chứ không nằm.
Điều quan trọng nhất ở đây là phải có ý chí, quyết tâm lớn. nếu như Phật tổ
Thích ca bất chấp mọi lời can ngăn của Vua cha, dấn thân vào núi Tuyết Sơn với
một quyết tâm rắn chắc như kim cương thì Trần Nhân Tông từ bỏ địa vị cao sang,
phú quý tột cùng, chấp nhận cuộc sống tu hành, khắc khổ chốn Yên Tử linh thiêng
với ý chí không gì lay chuyển nổi. Đây cũng là điểm khác nhau giữa Trần Nhân
Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Theo ông, tu hạnh Đầu đà không định đến sự đắc
đạo, nhưng nó là điều kiện, bước chuẩn bị cho một hành giả bước vào thiền. trong
bài Cư trần lạc đạo ông viết:
Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác.
Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay;
Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc.
Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quý nửa thiên cung;
Dầu năng miễn thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác.42
Trong bài “Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường”, ông viết
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
42 Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần quyển thượng, tr. 505, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
51
Bạch lộ song song phi há điền.
Dịch nghĩa:
Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như khói,
Bóng chiều tà nửa không, nửa có.
Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết,
Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng.
Không những vậy, ông đã khuyên mọi người trong cuộc sống không nên coi
trọng công danh, không màng phú quý để xây dựng nếp sống đạo đức. trong bài
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, ông viết :
Công danh chẳng trọng,
Phú quý chẳng màng 43
Tư tưởng Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến Trần Nhân Tông, nên ông đã
sống một cuộc đời thanh tịnh, lặng lẽ, không oán giận, không chấp, sống theo nếp
sống thiện của nhà Phật. yên bề với cảnh sống đạm bạc, tìm chỗ an dưỡng thân
mình, vào chôc núi cao non khuất,náu mình trong hoang dã, làm bạn cùng vượn,
quét đài hoa, thờ Bụt, tụng niệm trời Phật, cầu thánh hiền mà lòng hỷ xả, vô sự,
thanh nhàn.
“Yên bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân;
Khuất tịch non cao,
Náu mình sơn dã.
Vượn mừng hủ hỷ,
Làm bạn cùng ta;
Vắng vẻ ngàn kia,
Thân lòng hỷ xả.
Thanh nhàn vô sự,
Quét tước đài hoa;
43 Nt. Tr.532
52
Thờ phụng bụt trời,
Đêm ngày hương hoả.
Tụng kinh niệm bụt,
Chúc thánh khẩn cầu”44
Khi con người đã tu tập, rèn luyện đạo đức và trí tuệ ( rèn một tấm lòng) để trở
về với chân tâm, bản tính của mình, làm điều thiện, tránh được điều ác, thị khi đó
the Trần Nhân Tông con người ta sẽ không còn phân biệt cái này cái kia, không còn
tranh nhân chấp ngã và thị phi chẳng hề nữa :
Chẳng còn bỉ thử.
Tranh nhân chấp ngã.
Trần duyên rũ hết,
Thị phi chẳng hề.
Rèn một tấm lòng,
Đêm ngày đon đả.
Ngồi cong trần thế,
Chẳng quản sự thay.
Văng vẳng ngàn kia,
Dầu lòng dong thả.45
Trải qua thời chiến, Trần Nhân Tông đã tìm thấy trong đạo Phật có nhiều yếu
tố tích cực có thể tăng cường sự đoàn kết toàn dân và đặc biệt là củng cố gây dựng,
rèn luyện đạo đức xã họi, đó là cơ sở không thể thiếu được của sự phồn thịnh, lành
mạnh.
Mong muốn này của ông không chỉ có ý nghĩa tôn giáo, mà còn mạng ý nghĩa
chính trị sâu xa, nhằm khắc phục những hạn chế của Phật giáo thời Lý và đầu thời
Trần, đồng thời nhằm thiết lập hệ tư tưởng độc lập, thống nhất cho xã hội Đại Việt.
đây cũng chính là lý do vì sao Trần Nhân Tông sau khi xuất gia đã đi khắp nơi trong
44 Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần quyển thượng, tr. 533, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
45 Nt, tr. 534.
53
nước giảng giả về mười điều thiện, giáo hóa nhân dân trở nên hiếu hòa và đạo đức.
Tư tưởng nhân văn cao cả của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, không chỉ
cứu dân ta ra khỏi cảnh nô lệ mất nước mà còn muốn cứu dân thoát khỏi nỗi khổ
thường nhật ở con người. đó cũng chính là mục đích, lý tưởng thiền và giải thoát
54
của Trần Nhân Tông.
Tiểu kết chương 2
Trần Nhân Tông ngoài là một vị vua anh minh, còn là một nhà tư tưởng lớn.
Những tư tưởng triết học của ông cho tới thời hiện tại vẫn còn có giá trị nhân văn
sâu sắc. Triết học Phật giáo có tính bản thể luận, những tư tưởng nhân sinh quan,
những tư tưởng để tu tập và đạt đạo. Trong đó, nghiên cứu sâu về cuộc đời và vai
trò của con người trong cuộc sống, hay quan niệm vấn đề rèn luyện tinh thần đạo
đức trí tuệ giải thoát là nổi bật. Theo Trần Nhân Tông, sinh lão bệnh tử là một lẽ tự
nhiên, tất thảy đều lấy “thiện” làm trung tâm, tùy duyên mà hành đạo. Cũng theo
ông, vấn đề tu luyện về mặt đạo đức và trí tuệ để đạt tới giác ngộ và giải thoát cũng
là một trong những vấn đề trọng yếu. Ông cho rằng, tâm là nơi xuất phát, là nơi ẩn
chứa của Phật tính. Tâm lại không ở đâu xa, mà ở trong chính bản thân ta. Chính vì
lẽ ấy mà tu đạo gắn liền với rèn tính sáng, mỗi một cá nhân trong xã hội ai ai cũng
55
biết điều đó, đoàn kết lại sẽ tạo nên một xã hội phồn thịnh và lành mạnh.
KẾT LUẬN
Cuộc đời và tư tưởng của Trần Nhân Tông có thể được nghiên cứu và tiếp
nhận trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở mỗi một phương diện, dù là nhà vua, nhà
thơ, nhà tư tưởng Trần Nhân Tông cũng đều khiến chúng ta bất ngờ về tầm am hiểu.
Tư tưởng của ông về Phật, Phật tính, niết bàn, hay bàn về nhân sinh quan và con
đường tu tập giải thoát... không những không cao siêu, khó hiểu mà nó còn hết sức
giản dị, đời thường. Ắt hẳn vì vậy mà những tư tưởng của ông đã lan tỏa vào trong
xã hội, len lỏi vào từng đối tượng con người.
Với quan niệm tuân thủ theo các quy luật vận động của xã hội, lối sinh hoạt tự
nhiên của con người, ông đưa ra một phương châm tu tập được gói gọn trong “Cư
Trần Lạc Đạo”. Ông cho rằng: đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì ngủ. Nhưng ăn ở
đây không phải là phải ăn ngon, mặc không phải mặc cho đẹp, và ngủ không phải
để say. Vì nếu làm như vậy sẽ khiến cho lục tặc trong con người chúng ta trỗi dậy.
Mà theo Trần Nhân Tông, ăn, uống và ngủ chỉ để đáp ứng đủ nhu cầu tự nhiên tối
thiểu của con người, tránh sa đà hay tự nhấn chìm mình vào cõi tham. Mục đích của
cuộc sống không chỉ để tồn tại, mà là để giác ngộ chính bản thân mình, tự mình
giúp mình khỏi những khổ đau của cuộc đời.
Chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết lý Phật giáo, Trần Nhân Tông đã tô điểm
cho nhân thế một hệ tư tưởng nhân văn sâu sắc, tô nét cho văn hóa thời kỳ nhà Trần
trở nên rực rỡ và trở thành một triều đại hưng thịnh Phật giáo trở nên hưng thịnh.
Những lời thơ, hệ tư tưởng của ông mãi trường tồn với thời gian. Lướt qua
dòng chảy của lịch sử, cho tới tận thời điểm bây giờ người ta vẫn dễ dàng nhìn thấy
các thiền viện được xây dựng như: Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên ở Vĩnh Phúc;
Thiền Viện Sùng Phúc ở Hà Nội; hay ở Quảng Ninh có Thiền Viện Trúc Lâm Yên
Tử, Thiền Viện Trúc Lâm Giác Tâm; Thừa Thiên Huế có Thiền viện Trúc Lâm
Bạch Mã; Đà Lạt – Lâm Đồng với Thiền viện Trúc Lâm, và Thiền viện Trúc Lâm
Vạn Hạnh,... Điều đó chứng tỏ, dòng thiền của Thiền Phái Trúc Lâm cũng như
những hệ tư tưởng của Trần Nhân Tông không hề mất, mà nó vẫn được các đệ tử
56
đời sau truyền bá, lưu thông dòng chảy cho tới tận bây giờ và mãi về sau.
Trần Nhân Tông vừa là một vị vua anh hùng có bản lĩnh vững vàng của người
lãnh đạo vừa là một vị đại sư khai sáng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử có nhiều tư
tưởng Phật học uyên thâm. Là một nhà tư tưởng lớn của nhân thế, nên mặc dù đã có
rất nhiều nghiên cứu về ông như các bài báo, luận văn, luận án... nhưng vẫn là chưa
đủ để chúng ta hiểu đúng, hiểu đầy đủ, hiểu sâu về ông. Và khóa luận “Một số vấn
đề cơ bản trong triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông” này cũng mới chỉ là bước
57
đầu của tôi trên con đường tìm hiểu về tư tưởng của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đoàn Trung Còn (1995), Phật học từ điển tập 1, Nxb TP. Hồ Chí Minh. 1.
Đoàn Trung Còn (2009), Pháp Bảo Đàn Kinh, Nxb Tôn giáo Hà Nội. 2.
Bùi Huy Du (2011), Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông, Luận án Tiến sĩ 3.
Triết học (Mã số: 6222.08.01), Trường Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh
- Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn.
Thích Quang Đạo (2016), Đại cương triết học Phật giáo, Nxb Hồng Đức. 4.
Cư sĩ Nguyên Giác (3/016), Trần Nhân Tông – Đức Vua sáng tổ một dòng 5.
thiền, Nxb Hội Nhà Văn.
6. Nguyễn Hùng Hậu (1995), Tìm hiểu tư tưởng triết học Thiền của Trần Nhân
Tông, Tạp chí Triết học (số 3).
7. PGS. Nguyễn Duy Hinh (2006), Triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb VHTT
và Viện Văn Hóa.
8. Ni sư Ayya Khema, Diệu Linh – Lý Thu Linh dịch (2017), Vô ngã vô ưu
(Thiền quán về Phật đạo), Nxb Lao Động.
9. Nguyễn Hiển Lê (1/2018), Khổng Tử, Nxb Văn hóa Văn Nghệ.
10. Thích Thông Phương (2003), Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
11. Thích Thông Phương (2006), Trần Nhân Tông và thiền phái Trúc Lâm, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
12. Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập trần Nhân Tông, Nxb Tp Hồ Chí Minh.
13. Lê Mạnh Thát (2000) , Tổng tập văn học Phật Giáo Việt Nam, , Nxb
TPHCM.
14. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 2,Từ Lý Nam Đế
58
(544) đến Lý Thái Tông (1054), Nxb Tp Hồ CHí Minh.
15. Lê Mạnh Thát (2005), Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 3( Từ Lý Thái Tông
đến Trần Thánh Tông) , Nxb Tp Hồ CHí Minh.
16. Hoàng Thị Thơ (2005), Thiền Phật giáo: Nguyên lý và một số phạm trù cơ
bản, Tạp chí Triết học (số 10).
17. Nguyễn Thị Toan (2010), Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của
Trần Nhân Tông, Luận văn Thạc sĩ Triết học (Mã số: 602280), Trường Đại học
Quốc Gia Hà Nội- Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn.
18. Trần Thái Tông (Nguyễn Đăng Thục dịch) 1972, Khóa Hư Lục, bản PDF
19. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân Văn Quốc Gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam tập 1, Nxb KHXH.
20. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân Văn Quốc Gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam tập 2, Nxb KHXH.
21. Tuệ Sĩ và Đức Thắng dịch, (Người đọc: Thy Mai, Huy Hồ, Tuấn Anh,…),
Kinh Trung A Hàm, Nxb Phương Đông, Loại đĩa CD
22. Ủy ban Khoa hộc xã hội viện Văn học (1978), Thơ Văn Lý – Trần tập 1, Nxb
Khoa học – Hà Nội.
23. Ủy ban Khoa hộc xã hội viện Văn học (1978), Thơ Văn Lý – Trần tập 2, Nxb
Khoa học – Hà Nội.
24. Ủy ban Khoa hộc xã hội viện Văn học (1978), Thơ Văn Lý – Trần tập 3, Nxb
Khoa học – Hà Nội.
25. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, Nxb
KHXH, Hà Nội.
26. https://www.thivien.net/, 20/4
59
27. https://thuvienhoasen.org/author/post/489/1/le-manh-that?o=2, 5/4