BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ
TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
DƯỚI GÓC NHÌN TƯƠNG TÁC
THỂ LOẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TP. HỒ CHÍ MINH - 2016
MỤC LỤC
A. DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 5
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 5
5. Cấu trúc luận văn ................................................................................................ 6
B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận và giới thiệu về Truyện Kiều ............................................ 8
1.1 Cơ sở lí luận ........................................................................................................ 8
1.1.1 Khái niệm thể và loại ......................................................................... 8
1.1.2 Hiện tượng tương tác thể loại trong văn học ...................................... 9
1.2 Giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều ......................................................... 12
1.2.1 Nguyễn Du và Truyện Kiều ................................................................ 12
1.2.2 Đối sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân.......................................................................................... 15
Chương 2: Sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều ........................................................... 26
2.1 Chất trữ tình trong truyện Kiều .......................................................................... 26
2.1.1 Đặc trưng chất trữ tình ......................................................................... 26
2.1.2 Chất trữ tình trong Truyện Kiều ........................................................... 27
2.1.2.1 Thể thơ........................................................................................... 27
2.1.2.2 Giọng điệu trữ tình ........................................................................ 31
2.1.2.3 Trữ tình thiên nhiên ....................................................................... 36
2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều ........................................................................................ 42
2.2.1 Đặc trưng chất tự sự ............................................................................. 42
2.2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều ............................................................... 43
2.2.2.1 Cốt truyện ...................................................................................... 43
2.2.2.2 Nhân vật ........................................................................................ 49
2.2.2.3 Ngôn ngữ tự sự .............................................................................. 58
2.3 Chất kịch trong Truyện Kiều ......................................................................................... 69
2.3.1 Đặc trưng chất kịch ............................................................................... 69
2.3.2 Chất kịch trong Truyện Kiều ................................................................ 71
2.3.2.1 Xung đột kịch ................................................................................ 71
2.3.2.2 Ngôn ngữ đối thoại ........................................................................ 76
2.3.2.3 Ngôn ngữ độc thoại ....................................................................... 80
Chương 3: Ý nghĩa sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều đối với người đời sau .......... 88
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................. 97
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 100
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS Lê Thu Yến, giảng viên khoa
Ngữ Văn, ĐH Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, người đã tận tình hướng dẫn, quan tâm và thương
mến trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Những lời hướng dẫn, góp ý và động viên
của cô là kinh nghiệm cũng như động lực giúp tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các các bộ của Thư viện trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ
Chí Minh và Thư viện Khoa học tổng hợp Tp,Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tận tình trong việc tìm
kiếm tư liệu nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Bên cạnh đó, tôi chân thành cảm ơn cô Phạm Thị Thanh Nga, giáo viên hướng dẫn
thực tập trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, cô đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi
để hoàn thành luận văn đúng thời hạn và hoàn thiện nhất.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn đến toàn bộ quý thầy cô khoa Ngữ Văn trường
Đại học Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh, những người có vai trò to lớn trong suốt quá trình tôi
theo học tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
A. DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Nói tới văn học trung đại Việt Nam, ta không thể không nhắc đến đại thi hào
Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ khiêm
nhường coi đó là những “…lời quê góp nhặt dông dài”. Nhưng thực tế đã cho thấy,
bất chấp qui luật và sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian, Truyện Kiều đã khẳng định
sức sống bất tử của một tác phẩm bất hủ. Được viết trong “chồng chất những khối
lỗi ở trong lòng” và được viết bằng tâm huyết “như có máu chảy ở đầu ngọn bút”,
“như có nước mắt thấm ở trên tờ giấy”. Tác phẩm là sự thể hiện “nỗi đau nhân tình”
của Nguyễn Du tập trung, xúc động và thành công nhất.
Truyện Kiều đã sống trong đời sống của văn học Việt Nam, con người Việt
Nam biết bao năm nay. Người ta đọc Kiều, thuộc Kiều, lẫy Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều,
… Truyện Kiều khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà phê
bình. Truyện Kiều được dịch ra nhiều thứ tiếng là sự minh chứng cho khả năng giao
lưu, hòa nhập của văn học Việt Nam, góp phần làm giàu đẹp và lớn mạnh và phong
phú thêm kho tàng văn hóa chung của nhân loại
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam. Tác phẩm đã đặt ra nhiều vấn
đề sâu sắc, ám ảnh về thân phận của con người trong xã hội phong kiến. Bằng tài năng
bậc thầy và sự sáng tạo độc đáo, Nguyễn Du đã biến Kim Vân Kiều Truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân – một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc xa lạ thành một câu chuyện dễ hiểu
và gần gũi với nhân dân Việt Nam. Từ khi ra đời cho đến nay, trải qua một thời gian
dài với bao biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc, Truyện Kiều vẫn sống mãi và luôn
được đón nhận nồng nhiệt
Đã có nhiều nghiên cứu về Truyện Kiều trên nhiều phương diện khác nhau. Nhìn
chung, ở phương diện nào nhà nghiên cứu cũng phát hiện được những điểm sâu sắc và
độc đáo của tác phẩm. Đã từng có nhận xét cho rằng: “Truyện Kiều là một cuốn tiểu
1
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
thuyết bằng thơ”, trong Truyện Kiều có sự kết hợp giữa thi – ca – nhạc – họa, tác
phẩm vừa kể chuyện đời, vừa kể chuyện lòng. Truyện Kiều đã là nguồn cảm hứng cho
vô số công trình nghiên cứu, tác phẩm được nhìn nhận dưới cái nhìn Phật giáo, được
phân tích về ngôn ngữ, giọng điệu kể chuyện, bút pháp trữ tình,… Góp phần tạo nên
sự thành công của Truyện Kiều còn có sự tương tác về thể loại. Tuy nhiên, vấn đề này
còn ít được đề cập đến, hầu như chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào.
Truyện Kiều là một tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông. Vấn
đề luận văn nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn cho việc giảng dạy sau này. Truyện Kiều
của Nguyễn Du là một truyện thơ. Bằng một tình cảm nồng cháy, nhà thơ đã kể lại một
câu truyện trọn vẹn, có cốt truyện, có nhân vật, các nhân vật có quá trình phát triển.
Chính vì thế, đặc điểm của chủ thể kể chuyện ở truyện thơ sẽ có những điểm khác biệt
so với chủ thể kể chuyện trong tác phẩm văn xuôi tự sự. Khảo sát Truyện Kiều, chúng
ta thấy Nguyễn Du xuất hiện trong tác phẩm với hai tư cách: chủ thể kể chuyện vô
hình và tư cách chủ thể trữ tình. Nguyễn Du không phải là người đầu tiên phân thân
thành chủ thể tự sự và chủ thể trữ tình trong tác phẩm nhưng ông là người thể hiện sự
phân thân này hoàn chỉnh nhất. Với đề tài “Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn
tương tác thể loại”, người viết muốn đóng góp một cách nghiên cứu mới mẻ về một
tác phẩm đã quá quen thuộc và được nhiều người nghiên cứu. Thông qua đó có thể
hiểu thêm về con người, cũng như cái nhìn đối với con người và cuộc đời của vị đại thi
hào dân tộc Nguyễn Du.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có nhiều ý kiến, nhận định và công trình nghiên cứu về chất tự sự cũng như
chất trữ tình trong Truyện Kiều. Tuy nhiên về chất kịch, cũng như sự tương tác thể loại
của tác phẩm hầu như chưa có nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề.
Đỗ Minh Tuấn trong chuyên luận “Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong
2
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Truyện Kiều” (14) đã nhận xét về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Du:
“Nếu như có thể tách ra một cách tương đối tính chất tiểu thuyết và tính chất
thơ ca thì có thể quan niệm rằng trong tác phẩm của Nguyễn Du các nhân vật được
xây dựng từ hai lối thể hiện khác nhau:
1. Con người được vẽ ra trong những diện mạo, những hành động và những quan
hệ xã hội của nó. Lối thể hiện này thuộc phạm vi bút pháp tự sự
2. Con người (kể cả người kể chuyện) được vẽ lên trong tâm trạng cá biệt của
mình. Lối thể hiện này thuộc phạm vi bút pháp trữ tình.” [tr.6,14]
Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ
XIX, (tập II), đã có ý kiến về cốt truyện trong Truyện Kiều:
“Nguyễn Du viết Truyện Kiều đã dựa khá sát vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân, có nghĩa là Nguyễn Du đã giữ lại của tác phẩm này những tình tiết chính,
những biến cố quan trọng, chứ không phải mọi tình tiết của tác phẩm đều được giữ
lại. Thực tế thì nhà thơ đã bỏ đi khoảng một phần ba những chi tiết trong tác phẩm
của Thanh Tâm Tài Nhân, và thêm một khối lượng cũng khá lớn” [tr.65, 23]
Trong Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm [24], tại chương III: Nghệ thuật xây
dựng nhân vật Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê đã nhận định về nghệ thuật kể chuyện của
Nguyễn Du: “Là tác phẩm tự sự, Truyện Kiều đã tập trung vào vận mệnh nhân vật
trung tâm” [tr.262,24]
“Trên cái nền chung tự sự, … có thể nói Truyện Kiều là một bước phát triển hoàn
chỉnh, thành công của thể loại tiểu thuyết cổ điển Việt Nam” [tr.250, 24]
“Nguyễn Du chú trọng miêu tả nội tâm con người ở những chặng đường có ý
nghĩa bước ngoặt đổi mới vận mệnh nhân vật, ở những trường hợp kịch tính cao của
tình huống, của sự bộc lộ tính cách. Ở những đỉnh điểm ấy của tình tiết sự kiện,
Nguyễn Du có phác họa một vài dòng miêu tả nội tâm thông qua ngôn ngữ tự sự của
3
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
tác giả nhưng thường nhà thơ để nhân vật tự bộc lộ là chính” [tr.83,24]
“Truyện Kiều phảng phất mà rất đậm đà đằm thắm một “bản sắc trữ tình”. Thấp
thoáng trên những trang Kiều ra thấy bóng dáng của ca dao, của Chinh phụ ngâm,
của thơ Đường,…” [tr.248,24]
Phan Ngọc trong cuốn “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” [25],
có một chương bàn về phương pháp tự sự của Nguyễn Du. Phan Ngọc đã khẳng định:
“Truyện Kiều là tiểu thuyết phân tích tâm lý” [tr.120,25], “Truyện Kiều đã được bố
cục như một vở bi kịch lớn” [tr.184, 25]. Ngoài ra, ông đã nhận định bước đầu về
Truyện Kiều với tính chất tương tác nhiều thể loại: “Truyện Kiều là tác phẩm tổng hợp
được các thành tựu nghệ thuật của nhiều thể loại của thời đại. Ở đây có những thành
tựu của thể truyện Nôm, của thể ngâm khúc, thể kịch” [tr.197,25]
Trong các thao tác của Nguyễn Du, Phan Ngọc có bàn đến thao tác “đặt sự việc
vào thế đối lập” và khẳng định “tự thân Nguyễn Du không thể nghĩ ra thao tác này,
bởi vì đó là thao tác của kịch. Ông học tập nó ở kịch Trung Quốc và nhất là ở tuồng”
[tr.84,25]
Bàn về nhiều vấn đề liên quan đến nghệ thuật tự sự của Truyện Kiều, trong bài Tư
tưởng nhân vật và cách kể chuyện của Nguyễn Du, Trần Đình Sử có viết: “Người kể
chuyện Truyện Kiều là một người được cá tính hóa, hơn thế được kịch tính hóa”
[tr.349, 26]
“Đặc biệt người kể chuyện Truyện Kiều đồng thời là một nhà thơ trữ tình (…)
Nguyễn Du đã sử dụng chủ yếu không phải là kinh nghiệm tự sự Trung Hoa mà là
truyền thống trữ tình lâu đời. Nguyễn Du huy động tối đa các thủ pháp trữ tình để
miêu tả tình cảm nhân vật” [tr.349 và 350, 26]. Cuối bài, Trần Đình Sử viết: “Nguyễn
Du đã sáng tạo lại Truyện Kiều (…) đưa vào người kể chuyện mới, tổng hợp các
truyền thống văn học Việt Nam và Trung Quốc, truyền thống tự sự và nhất là trữ tình,
để tạo ra kiệt tác vô song trong văn học Việt Nam và văn học thế giới”
4
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
[tr.351, 26]
Nói tóm lại, nhiều nhà nghiên cứu trong những ý kiến và công trình của mình đã
khẳng định Nguyễn Du rất xuất sắc, là bậc thầy trong nghệ thuật tự sự và nghệ thuật
trữ tình. Tuy nhiên, nghệ thuật kịch trong Truyện Kiều vẫn được nhắc đến khá ít ỏi,
nhất là nhìn tác phẩm dưới góc nhìn tương tác thể loại, hầu như vẫn chưa có công trình
nào đi sâu vào vấn đề này
3. Phương pháp nghiên cứu
Đọc tác phẩm Truyện Kiều và các bài nghiên cứu về Nguyễn Du để có một cái a)
nhìn toàn diện, thống nhất.
Phương pháp thống kê: Thống kê các đoạn thơ câu thơ trong tác phẩm tính b)
tương tác thể loại để làm dẫn chứng cho các luận điểm trong bài tiểu luận
Phương pháp phân tích: để làm rõ những luận điểm được nêu trong tiểu luận c)
Phương pháp chứng minh: để khẳng định vấn đề được nêu trong tiểu luận là d)
đúng đắn và có cơ sở thuyết phục.
Phương pháp so sánh: so sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều e)
Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân
Phương pháp tổng hợp: rút ra những nét chung mang tính khái quát, tiêu biểu f)
về tác dụng của sự tương tác thể loại đối với tác phẩm
4. Phạm vi nghiên cứu
Truyện Kiều là một tác phẩm vĩ đại của Nguyễn Du. Xoay quanh Truyện Kiều
là vô vàn khía cạnh để người đọc khám phá và khai thác: những câu chuyện tình yêu
trong Truyện Kiều, giọt nước mắt nàng Kiều, tiếng đàn nàng Kiều, tính nhạc trong
Truyện Kiều, cách sử dụng điển cố điển tích trong Truyện Kiều, … Phạm vi nghiên
cứu của đề tài “Truyện Kiều dưới góc nhìn tương tác thể loại” chỉ tập trung chủ yếu
vào vấn đề tương tác thể loại trong tác phẩm với ba đặc trưng thể loại chủ yếu: tự sự -
trữ tình – kịch , qua đó thể hiện tài năng sáng tạo cũng quan niệm của Nguyễn Du về
5
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
cuộc đời, về số phận con người.
5. Cấu trúc luận văn
A. DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Cấu trúc luận văn
B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận và giới thiệu Truyện Kiều
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1 Khái niệm thể loại
1.1.2 Hiện tượng tương tác thể loại trong văn học
1.2 Giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều
1.2.1 Nguyễn Du và Truyện Kiều
1.2.2 Đối sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân
Chương 2: Sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều
2.1 Chất trữ tình trong Truyện Kiều
2.1.1 Đặc trưng chất trữ tình
2.1.2 Chất trữ tình trong Truyện Kiều
2.1.2.1 Thể thơ
2.1.2.2 Giọng điệu trữ tình
2.1.2.3 Trữ tình thiên nhiên
2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều
2.2.1 Đặc trưng chất tự sự
2.2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều
6
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
2.2.2.1 Cốt truyện
2.2.2.2 Nhân vật
2.2.2.3 Ngôn ngữ tự sự
2.3 Chất kịch trong Truyện Kiều
2.3.1 Đặc trưng chất kịch
2.3.2 Chất kịch trong Truyện Kiều
2.3.2.1 Xung đột kịch
2.3.2.2 Ngôn ngữ đối thoại
2.3.2.3 Ngôn ngữ độc thoại
Chương 3: Ý nghĩa sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều đối với người đời sau
C. KẾT LUẬN
7
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ GIỚI THIỆU VỀ TRUYỆN KIỀU
1.1.1 Khái niệm thể loại
Mọi tác phẩm văn học đều tồn tại trong các hình thức thể loại nhất định: một cuốn
tiểu thuyết, một truyện ngắn, một bài thơ, một vở kịch, một kí sự...Không có tác phẩm
văn học nào được xây dựng ngoài những hình thức quen thuộc đó. Vì vậy, bên cạnh
nhan đề tác phẩm, tác giả thường ghi tên thể loại: Những người khốn khổ- tiểu thuyết;
Dấu chân người lính - Tiểu thuyết; truyện ngắn của Guy de Maupassant; Từ ấy - thơ;
Bài thơ Màu tím hoa sim; Lão hà tiện- kịch... Nhiều khi tên thể loại gắn liền với nhan
đề tác phẩm: Hoàng lê nhất thống chí, Bình Ngô đại cáo, Tam quốc chí diễn nghĩa,
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,…
Ðiều gì đã tạo nên sự giống nhau về hình thức tồn tại của tác phẩm văn học
trong khi nội dung nhiều khi rất khác nhau đó ? Chính là qui luật loại hình tác phẩm,
tức là sự tổng hợp các phương thức tổ chức, phương thức tái hiện đời sống của những
đặc trưng cơ bản gần gũi với nhau.
Mỗi thể loại đều có các phương thức tổ chức gần gũi với nhau và chính điều đó
cũng qui định sự tiếp nhận văn học. Nhà văn cũng như người đọc đều hiểu mình sáng
tác hay tiếp nhận loại tác phẩm này chứ không phải loại tác phẩm khác. Lí luận văn
học đã khái quát các tác phẩm khác nhau thành một số loại thể nhất định dựa theo
những qui luật loại hình. Những qui luật này chi phối, qui định các yếu tố khác nhau
của tác phẩm văn học. Mỗi loại thể khác nhau có các loại nhân vật, kết cấu, lời văn
khác nhau. Chẳng hạn khi nói đến loại tác phẩm trữ tình, ta có thể nhắc đến nhân vật
trữ tình, kết cấu trong thơ trữ tình, lời thơ, câu thơ, đoạn thơ, luật thơ.. Nói đến tác
phẩm tự sự, có thể nói đến nhân vật tự sự, kết cấu trong tác phẩm tự sự, lời văn tự sự.
Qua tác phẩm kịch, có thể nói đến nhân vật kịch, kết cấu kịch, lời đối thoại, hành động
8
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
kịch...
Tuy nhiên cũng cần chú ý bên cạnh qui luật loại hình, thực tiễn văn học bao giờ
cũng phong phú và đa dạng hơn nhiều. Nhà văn sáng tác tác phẩm là nhằm diễn đạt
một cách đúng đắn và đầy đủ nhất những vấn đề đời sống mà họ quan tâm, những rung
động thẩm mĩ độc đáo. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về loại thể, cần nắm vững tính
lặp lại của qui luật nhưng đồng thời cũng phải nhận ra sự độc đáo trong sự vận dụng
và sáng tạo của tác giả.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất toàn vẹn giữa các yếu tố tạo thành,
trong đó thể loại quy định loại hình của tác phẩm. Tùy thuộc vào đặc trưng, mỗi thể
loại sẽ có quy luật, cách tổ chức và phản ánh hiện thực riêng. Thể là khái niệm nhỏ
hơn loại, nằm trong loại hay còn gọi là thể loại. Thể loại văn học là một hình thức tổ
chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể hiện cảm xúc, tư tưởng của con
người trước các hiện tượng đời sống. Thể loại giữ vai trò quan trọng trong văn học.
Bakhtin đã từng khẳng định: “Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của
tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và
ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trước hết là các thể loại, còn trào lưu,
trường phái chỉ là những nhân vật hạng nhì hoặc hạng ba”.
Vị trí của thể loại trong văn học quan trọng đến mức nhiều khi tên tác phẩm văn
học trung đại gắn liền với tên thể loại: Thiên đô chiếu, Hịch tướng sĩ, Bạch Đằng
giang phú, Bình Ngô đại cáo,… Hiện tượng này đã cho thấy tên thể loại đã xác định
tính quy phạm về chức năng và hình thức thể loại của tác phẩm. Đây là định hướng
cho việc phân tích tác phẩm từ góc nhìn thể loại.
Trong quá trình phát triển lâu dài của văn học, loại thể là một yếu tố mà bên cạnh
mặt biến động đổi thay lại có những yếu tố tương đối ổn định. Có rất nhiều tiêu chí
phân loại thể loại: phân loại về ngôn ngữ, về phương thức cấu tạo hình tượng, về dung
lượng dài ngắn. Các tiêu chí làm cho việc phân loại mang tính chất tương đối.
Cho đến nay phổ biến vẫn tồn tại cách chia ba có từ thời cổ đại. Từ cổ xưa, ở
9
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
phương Tây người ta đã có ý thức phân loại văn học. Aristote là người đề xuất phân
loại văn học thành ba loại hay còn gọi là ba phương thức “mô phỏng” thực tại. Trong
“Nghệ thuật thi ca” ông từng viết: “Hoặc có thể như Hôme kể về sự kiện như một cái
gì ở ngoài mình hoặc người mô phỏng vẫn là bản thân anh ta, hoặc là trình bày mọi
vật được miêu tả như những người hành động và hoạt động”. Theo Aristole, văn học
được chia làm ba loại theo phương thức, phương tiện biểu đạt của chúng: tự sự, trữ
tình và kịch. Vào thế kỉ XIX, nhà phê bình văn học người Nga V.g Belinski (1811-
1848), nhà cải cách vĩ đại của văn học Nga trên cơ sở ghi nhận cách phân loại của
những người đi trước đã phân tích chi tiết các loại một cách cụ thể, thuyết phục hơn.
Theo ông, loại tự sự bao gồm: tiểu thuyết, ngụ ngôn,., loại trữ tình bao gồm: thơ trữ
tình và văn xuôi trữ tình, loại kịch bao gồm: bi kịch, hài kịch, chính kịch.
Vào thế kỉ XIX, nhà lí luận văn học Nga là Belinski cũng chia tác phẩm văn học
thành ba loại: tự sự, trữ tình, kịch. Ông cho rằng, “chia thơ ca (văn học) làm ba loại:
tự sự, trữ tình, kịch là xuất phát từ ý nghĩa của việc nhận thức chân lí, cũng tức là trên
tinh thần nhận thức - xuất phát từ mối quan hệ qua lại giữa chủ thể với đối tượng -
khách thể nhận thức. Thơ trữ tình biểu hiện phương diện chủ quan của một con người,
đem con người bên trong phơi bày ra trước mắt chúng ta, do đó toàn bộ là cảm xúc,
tình cảm, âm nhạc. Thơ tự sự là miêu tả khách quan một sự kiện đã hoàn thành, là nhà
nghệ sĩ đã chọn cho chúng ta một điểm thích hợp nhất để bày tỏ tất cả mọi phương
diện, làm thành một bức tranh cho chúng ta xem. Thơ kịch là sự điều hòa hai phương
diện trên, chủ quan, trữ tình và khách quan, tự sự. Trình bày ra trước mắt chúng ta,
không phải là sự kiện đã hoàn thành, mà là đang thực hiện; không phải nhà thơ đang
thông báo sự việc cho ta, mà là từng nhân vật xuất hiện nói với chúng ta”.
Nhìn chung, có các tiêu chí cơ bản để phân chia thể loại như sau:
- Hình thức lời văn: dùng để phân biệt thơ văn vần, truyện văn xuôi hay truyện
thơ, kịch thơ hay kịch nói,…
- Dung lượng tác phẩm: là căn cứ quan trọng để phân biệt thơ với trường ca, khúc
10
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
ngâm, phân biệt truyện vừa, truyện dài, truyện ngắn,..
- Cảm hứng, cảm xúc: là một trong những cơ sở để phân biệt bi kịch, hài kịch,
chính kịch, ngụ ngôn và truyện cười….
- Nội dung thể loại: tiêu chí này được các nhà nghiên cứu Xô Viết như Pospelov,
Sernhext đề xuất nhằm phân loại văn học dựa tên đặc trưng loại hình lặp lại có hệ
thống của đề tài, theo đó có 3 nhóm nội dung thể tài chủ yếu là thể tài lịch sử, thể tài
đời tư, thể tài thế sự.
Có thể nói không một tiêu chí phân loại văn học nào có thể loại trừ được các tiêu
chí khác. Các thể loại và các loại văn học không ngừng xâm nhập vào nhau, tạo thành
các loại trung gian. Chính vì vậy, các tiêu chí này cũng chỉ hợp lý ở một mức độ nhất
định.
Như vậy, ta có thể nghiên cứu đề tài này theo hướng phân chia tác phẩm văn học
thành ba loại lớn:
Loại trữ tình: lấy suy nghĩ, tình cảm, tâm trạng con người làm đối tượng chủ yếu.
Loại tự sự: dùng lời kể, lời tả để miêu tả, xây dựng cốt truyện, khắc họa tính cách
nhân vật.
Loại kịch: dùng mâu thuẫn, xung đột kịch, ngôn ngữ kịch để phản ánh cuộc sống.
1.1.2 Hiện tượng tương tác thể loại văn học
Theo từ điển từ và ngữ Tiếng Việt thì tương tác là sự tác động qua lại, có ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các đối tượng người hoặc vật.
Tương tác thể loại là sự xâm nhập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hay
nhiều thể loại của một hoặc nhiều hệ thống thể loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận
động và phát triển của cấu trúc thể loại văn học. Tương tác thể loại là sự thể hiện tập
trung nỗ lực sáng tạo và đổi mới của văn học. Do vậy, tương tác thể loại là hiện
tượng hết sức sinh động đa chiều. Xét về cấp độ, sự tương tác thể loại thể hiện trên
11
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
nhiều cấp độ: loại/loại, thể/loại, thể/thể, yếu tố/yếu tố,… Xét về hình thức tương tác
bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhìn chung, vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể, sâu sắc
nào về hiện tượng tương tác thể loại. Ta có thể hiểu rằng, hiện tượng tương tác thể
loại là sự tương tác giữa các thể loại với nhau trong một tác phẩm. Sự tương tác này
giúp các thể loại trong tác phẩm bổ sung, hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới đích đến
là tư tưởng của tác giả, giá trị của tác phẩm.
Trong công trình “Lí luận văn học”, chương “Thể loại của tác phẩm văn học”,
do Trần Đình Sử phụ trách đã đưa đến người đọc những khái niệm ban đầu về sự
tương tác thể loại văn học. Trần Đình Sử đã đề cập đến khái niệm thể loại văn học và
phân chia loại thể văn học. Ông cũng nhận định về “đặc trưng kép” của thể loại văn
học: “Thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại vừa có các yếu tố vận
động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng tạo của nhà văn”. Chính
nhờ sự “vận động” của văn học đã tạo nên sự tương tác thể loại.
1.2 Giới thiệu về Truyện Kiều
1.2.1 Nguyễn Du và Truyện Kiều
Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tính ra dương lịch là ngày 3 tháng
1 năm 1766) tại kinh đô Thăng Long và lớn lên ở đấy. Ông mất ngày 16 tháng 9 năm
1820 tại Huế. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, trí
thức, tài hoa và có danh vọng vào bậc nhất đương thời. Không những thế, gia đình này
còn có một truyền thống về văn học. Hoàn cảnh gia đình đã có những tác động rõ rệt
đối với sự hình thành thiên tài văn học ở Nguyễn Du. Gia đình Nguyễn Du có nhiều
người đậu đạt cao và làm quan lớn trong triều đình: Thân sinh của Nguyễn Du đậu
tiến sĩ, từng làm tể tướng trong triều đình. Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với
Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức lớn dưới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông
.Nguyễn Huệ, bác ruột Nguyễn Du, đậu tiến sĩ. Theo Phạm Ðình Hổ thì dòng họ này
có mười hau tiến sĩ và năm quận công. Dòng họ này còn có truyền thống văn học, thân
sinh của ông là Nguyễn Nghiễm là một sử gia cũng là một nhà thơ. Nguyễn Khản giỏi
thơ Nôm, tương truyền có dịch Chinh phụ ngâm. Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện (cháu
12
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
gọi Nguyễn Du bằng chú) đều là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đương thời.
Xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc có danh vọng vào loại bậc
nhất đương thời nhưng Nguyễn Du sống trong cuộc sống nhung lụa không được bao
lâu. Bởi vì nhà thơ lớn lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh chóng theo đà sụp đổ
của tập đoàn phong kiến thống trị Lê - Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đương đầu với
những biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Có lúc nhà thơ cũng bị hất ra giữa cuộc
đời, đã từng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng 16 năm sống
lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Những năm tháng bất hạnh này có ảnh
hưởng trực tiếp quyết định đến sự hình thành con người nghệ sĩ vĩ đại ở ông.
Hoàn cảnh gia đình đã để lại những dấu ấn vàng son trong tâm hồn nhà thơ và
cũng chắc chắn rằng qua thực tiễn của gia đình, ông cũng đã nhận thức được nhiều
điều về giới quan lại đương thời.
Thời đại
Thời đại Nguyễn Du là thời đại khổ đau, bế tắc và đầy những biến động dữ dội.
Xã hội phong kiến Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX khủng hoảng
trầm trọng. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, điêu đứng. Phong trào nông dân khởi
nghĩa nổ ra liên tục mà lớn nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Là người có hiểu biết sâu
rộng, có vốn sống phong phú, Nguyễn Du đã sống nhiều năm lưu lạc tiếp xúc với
nhiều cảnh đời và thân phận con người trong thời đại loạn lạc, dâu bể. Khi làm quan
bất đắc dĩ dưới triều Nguyễn, ông đã từng đi sứ sang Trung Quốc, qua nhiều vùng đất
rộng lớn, tiếp xúc với nền văn hóa rực rỡ ở Trung Hoa. Tất cả những điều đó đã ảnh
hưởng lớn đến sáng tác của Nguyễn Du. Là người có một trái tim giàu tình yêu
thương, chính ông đã từng viết trong Truyện Kiều : “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài”. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du rất phong phú và đồ sộ, ba tập thơ chữ Hán
với 243 bài, sáng tác chữ Nôm xuất sắc nhất là “Truyện Kiều”.
Nhà thơ sống vào giai đoạn lịch sử xã hội Việt Nam có nhiều biến động dữ dội,
nhất là khoảng ba mươi năm đầu của cuộc đời nhà thơ. Nguyễn Du đã có dịp chứng
13
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
kiến những biến cố lịch sử trọng đại nhất: Sự sụp đổ thảm hại của tập đoàn phong kiến
thống trị Lê - Trịnh, vận mệnh ngắn ngủi nhưng rạng rỡ của phong trào Tây Sơn và
triều đại Quang Trung, công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn. Thời đại là một cơ sở
sâu xa tạo nên sự xuất hiện gương mặt thiên tài văn học Nguyễn Du. Ông đã sống
trong một thời đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc được kết tinh một
cách rực rỡ. Những biến cố xã hội, truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc của thời
đại đã để lại những âm hưởng, những màu sắc trong nhân cách cũng như sáng tác của
nhà thơ.
Sự nghiệp văn chương
Xét về văn học, sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt.
Nhưng ông không màng để tâm đến công danh. Trái tim ông đau xót, buồn thương,
phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp dân đen
và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào văn chương,
thi ca. Thơ ông là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu sắc của ông đối
với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng của ông đối với các số
phận con người. Xuất thân trong gia đình quý tộc, sống trong không khí văn chương
bác học, nhưng ông có cách nói riêng, bình dân, giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân
ca xứ Nghệ
Thơ chữ Hán: Nhà thơ đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Hán và
chữ Nôm. Ông có ba tập thơ:
- Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) 1786-1804.
- Nam trung tạp ngâm: 1805-1812.
- Bắc hành tạp lục: 1813-1814.
Cả ba tập thơ đã được tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du do nhóm
Lê Thước và Trương Chính giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243 bài thơ. Nguyễn
Du có nhiều tác phẩm. Thơ chữ Hán như Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm,
Bắc hành tạp lục. Cả ba tập này, nay mới góp được 250 bài nhờ công sức sưu tầm của
14
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
nhiều người. Lời thơ điêu luyện, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội,
biểu lộ tình thương xót đối với các nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và
phản diện trong lịch sử Trung Quốc, một cách sắc sảo..
Thơ chữ Nôm
- Ðoạn trường tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm).
- Văn chiêu hồn (còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh).
- Sinh tế Trường Lưu nhị nữ.
- Thác lời trai phường nón.
Tác phẩm tiêu biểu cho thơ chữ Nôm của thiên tài Nguyễn Du là “Đoạn trường
tân thanh” và “Văn tế thập loại chúng sinh”, đều viết bằng quốc âm. “Đoạn trường
tân thanh” được gọi phổ biến là “Truyện Kiều”, là một truyện thơ lục bát. Cả hai tác
phẩm đều xuất sắc, tràn trề tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, phản ánh sinh động xã hội
bất công, cuộc đời dâu bể. Tác phẩm cũng cho thấy một trình độ nghệ thuật bậc thầy.
“Truyện Kiều” đã là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc
bút chiến. Ngay khi “Truyện Kiều” được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều trường học
của các nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm.
1.2.2 Đối sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm tài nhân
Thanh Tâm Tài Nhân tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, ông còn có một số bút
danh khác là Thiện Tri, Thanh Đằng, Điền Thủy Nguyệt, là một nhà văn Trung Quốc
đời nhà Thanh (khoảng thế kỷ XVII). Ông học giỏi, hiểu biết rộng nhưng lận đận chốn
quan trường, bèn làm mặc khách của Hồ Tôn Hiến. Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài
Nhân thảo tờ biểu “Dâng hươu trắng” cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài Kim
15
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Vân Kiều truyện, ông còn viết bộ kịch Tứ thanh viên gồm bốn vở.
Kim Vân Kiều truyện là một trong vô vàn tiểu thuyết tài tử giai nhân cuối Minh
đầu Thanh. Kim Vân Kiều truyện là một bộ tiểu thuyết chương hồi có lối kết cấu
truyền thống theo kiểu văn xuôi cổ điển Trung Quốc kể lại cuộc đời của một cô gái đời
Minh nổi danh về tài sắc mà chẳng may bị lưu lạc khổ sở. Sách gồm 20 hồi, trước mỗi
hồi đều có phần giới thiệu, tóm lược nội dung, lời bình phẩm. Kết cấu của tác phẩm
được miêu tả theo tuyến tính thời gian, trình tự diễn biến của sự kiện và quá trình hoạt
động của nhân vật chính. Chủ đề của Kim Vân Kiều truyện là tình và khổ.
Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Nói cho đúng hơn thì Truyện Kiều có nguồn gốc từ
Kim Vân Kiều truyện đời Thanh. Thế nhưng hai tác phẩm này lại có hai số phận hoàn
toàn khác nhau. Truyện Kiều của Nguyễn Du được nhiều người ưa chuộng và được
dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau (khoảng 30 bản dịch ra 20 tiếng nước ngoài). Ngoài
ra đã có những công trình nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với một số tác phẩm của
một số nền văn học dân tộc khác như văn học Nga, văn học Đức, văn học Hàn Quốc,
...). Kim Vân Kiều truyện lại phải bị vùi lấp hàng mấy thế kỉ trong văn học sử Trung
Quốc. Nó thất truyền và gần như không tồn tại trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Không có Thanh Tâm Tài Nhân thì ắt hẳn không thể có Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Thế nhưng, Truyện Kiều nổi tiếng và sống mãi trong lòng người đọc chính nhờ công
lao to lớn của Nguyễn Du,
Hai tác phẩm có cùng một cốt truyện, cùng một hệ thống nhân vật và cả kết cấu tự
sự. Thế nhưng Nguyễn Du đã dùng tài năng của mình để thay đổi số phận của tác
phẩm. Truyện Kiều có những cái mới mà Kim Vân Kiều truyện không có được. Hai tác
phẩm với hai thể loại khác nhau mang đến những cảm nhận khác nhau cho người đọc.
Truyện thơ đã giúp tác giả thể hiện cảm xúc một cách chân thật nhất, đồng thời nó
cũng dễ chạm vào trái tim bạn đọc hơn là ngôn ngữ của một cuốn tiểu thuyết. Không
chỉ khác biệt về thể loại, điểm đặc biệt trong Truyện Kiều là Nguyễn Du đã đem thiên
nhiên vào trong tác phẩm của mình – một thiên nhiên thực nhưng cũng có khi là thiên
16
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
nhiên của cảm xúc. Trong khi đó Kim Vân Kiều truyện hoàn toàn vắng bóng thiên
nhiên. Nhân vật của Kim Vân Kiều truyện đã được Nguyễn Du xây dựng theo một
cách riêng, không rập khuôn nguyên tác.
“Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều trên cơ sở vay mượn cốt truyện của Kim Vân
Kiều truyện, Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương, Truyện Kiều là một công trình
sáng tạo văn hóa” [tr12, 6]
Kim Vân Kiều truyện ra đời vào thời Khang Hy nhà Thanh. Đây là thời kì tiểu
thuyết Trung Quốc phát triển rực rỡ. Không thể không nhắc đến “Tứ đại kì thư”:
“Tam quốc diễn nghĩa” (La Quán Trung), “Hồng Lâu Mộng” (Tào Tuyết Cần), “Thủy
Hử” (Thi Nại Am), và “Tây Du Kí” (Ngô Thừa Ân). Sau này, không thể không nhắc
đến “Đông Chu Liệt Quốc” (Phùng Mộng Long), “Kim Bình Mai”, hay “Liêu trai chí
dị” (Bồ Tùng Linh). Ta có thể thấy được có rất nhiều tác phẩm được nhắc đến, nổi
tiếng và sống mãi với thời gian, tuy nhiên, trong đó không thấy cái tên Kim Vân Kiều
truyện. Điều đó cho ta thấy rằng Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân cũng
chỉ là một tác phẩm “thường thường bậc trung”, dường như bị lãng quên ngay trên
chính quê hương của nó.
Trần Đình Sử khi nghiên cứu Thi pháp Truyện Kiều đã nhận xét: “Thanh Tâm Tài
Nhân quả là làm phong phú thêm rất nhiều cho Kim Vân Kiều truyện…, là một truyện
mới, vượt hẳn lên nội dung lịch sử cụ thể để nói một cái gì đó bất hủ muôn đời theo
quan niệm tác giả. Nhưng tác giả trọng lý hơn tình, nhân vật của ông cũng sống hợp lý
hơn tình, nên ít sống động, thuyết phục đáng nhớ,…” [75, 7]
Các học giả Trung Quốc trong công trình “So sánh văn học Trung Quốc và văn
học nước ngoài” đã viết “Truyện Kiều tuy vay mượn đề tài của tiểu thuyết Kim Vân
Kiều truyện, nhưng quyết không phải là một tác phẩm dịch, cũng không phải là tác
phẩm mô phỏng máy móc giản đơn, mà là một thành quả lớn của việc cấu tứ lại một
17
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
cách tinh vi, và tái tạo lại trên cơ sở di thực” [tr317, 5]
Giống nhau
Nguyễn Du đã dựa vào cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện sáng tạo nên Truyện
Kiều. Ông đã lấy lại hầu hết các nhân vật và tình tiết, từ thằng bán tơ, Đạm Tiên, Thúy
Vân, Thúy Kiều, Vương Quan, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, Tú Bà, Bạc Bà, Bạch Hạnh, Mã
Giám Sinh, Sở Khanh, …
Khác nhau
Nếu chỉ nhắc đến cốt truyện thì ta vẫn chưa thấy được nét sáng tạo của Nguyễn Du
với Truyện Kiều. Trên cơ sở cốt truyện ấy, Nguyễn Du đã sáng tạo và tinh tế biến nó
thành Truyện Kiều vừa phù hợp với không gian, thời gian, thể loại truyện thơ, chất
Việt Nam và quan niệm của tác giả.
Một bên là văn xuôi kể chuyện theo lối cổ của Kim Vân Kiều truyện, một bên là
truyện thơ của Truyện Kiều. Hay nói rõ hơn về ngôn ngữ một bên là ngôn ngữ văn
xuôi, một bên là ngôn ngữ thơ. Nói đến ngôn ngữ văn xuôi kể chuyện theo lối cổ như
Kim Vân Kiều truyện là nói đến cái ngữ nghĩa thông báo đơn nhất mà ngôn từ chứa
đựng, cụ thể ở đây là nội dung của câu chuyện được kể lại. Còn nói đến ngôn ngữ thơ
như Truyện Kiều thì ngoài ngữ nghĩa ra từ ngôn bản, còn phải nói đến tiết tấu, vần và
nhịp điệu, nói đến khả năng ảnh hưởng của tất cả những thứ ấy. Trong lúc trữ tình, nhà
thơ đã gửi gắm vào đó cả thể nghiệm cuộc đời của mình, nên những đoạn đó chân thực
tha thiết, làm cảm động lòng người.
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm tiểu thuyết chương hồi
thuộc thể tài văn xuôi, kết cấu theo thời gian, theo trình tự diễn biến của các sự kiện,
theo quá trình hành động của các nhân vật. Nó thiên về mô tả sự kiện, đi sâu miêu tả
thực tại, khắc họa chân dung nhân vật một cách cụ thể. Cũng như các tiểu thuyết
chương hồi khác, tác phẩm gần như không đề cập đến diễn biến tâm lý nhân vật mà
chỉ có các biến cố, hành động của nhân vật. Tác phẩm lại đặc biệt coi trọng mâu thuẫn
xung đột, tập trung mô tả nhiều chi tiết để tô đậm một tính cách nào đấy của nhân vật.
18
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Diện mạo nhân vật gần như chỉ là những nét chấm phá chứ không miêu tả cụ thể.
Trong tác phẩm, tác giả cũng đã đưa vào những đoạn thơ, bài phú miêu tả thiên nhiên,
nhưng thiên nhiên ấy lại bị tách rời khỏi cốt truyện và đôi khi lại không gắn bó gì với
tâm trạng của nhân vật.
Trong khi đó, Truyện Kiều lại là một cuốn truyện thơ, một tác phẩm văn học vừa
cổ điển vừa hiện đại, có sự hài hòa giữa hình thức và nội dung. Các nhân vật trong tác
phẩm, các vấn đề xã hội không đợi tác giả tự thuật lại nhiều mà tự nó có thể tự hiện
diện, tự bộc lộ một cách tinh tế nhất.
Thanh Tâm Tài Nhân đã sáng tạo nên một hệ thống nhân vật mới: Kim Trọng,
Thúy Vân, Hoạn Thư, Thúc Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Giác Duyên, Tam
Hợp đạo cô. Đến Truyện Kiều, Nguyễn Du đã giữ lại hệ thống nhân vật này. Tuy
nhiên, các nhân vật của Truyện Kiều không thể là các nhân vật cũ như trong Kim Vân
Kiều truyện. Nhân vật đã được sống một cách khác, nghĩ một lối nghĩ khác bởi sự khác
biệt giữa văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, và hơn cả là sự khác biệt trong quan điểm
giữa Thanh Tâm Tài Nhân và Nguyễn Du. Tác phẩm của Nguyễn Du ăm ắp nỗi đau
đời, thương con người, tiếc cho cái đẹp thường mong manh bất trắc. Nguyễn Du nhìn
con người với bản chất của chính nó, ông muốn khám phá con người ở chiều sâu tâm
lý, ở số phận, kiếp người,… “Con người trong con mắt Nguyễn Du là con người bình
đẳng trước tạo hóa, con người của đời thường nhìn ở nhiều góc độ, là con người nhân
tính phổ biến với tất cả những mong manh may rủi dễ hư nát, hạnh phúc và bất
hạnh,..” [tr.36, 6]
Nhân vật của Nguyễn Du sống một cuộc đời thường, rất gần gũi. Hoài Thanh từng
viết: “Thúy Kiều như một con người có thật, con người ấy từ lâu sống trong lòng hàng
triệu người và được quí trọng, được âu yếm, nâng niu, được yêu mến say mê…”
Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân được giới thiệu rõ ràng lai lịch, gốc gác: “Trước
cũng theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khóa, sau mới xoay qua thương mại, tiền có
của thừa, lại thích kết giao với giang hồ hiệp khách”, Nguyễn Du lại để Từ Hải xuất
19
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
hiện như một vị anh hùng
Trong một bài biên khảo đăng trong tuyển tập Nguyễn Du, Tác Giả và Tác Phẩm
do Nhà Xuất bản Giáo Dục ấn hành năm 1999 tại Việt Nam, các tác giả Nguyễn Thạch
Giang, Triệu Ngọc Lan, và Lô Úy Thu đã nghiên cứu những phần trong Kim Vân Kiều
truyện mà Nguyễn Du đã lược bỏ. Khi so sánh hai tác phẩm, các tác giả nhận thấy
Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang trên tổng số 214 trang, tức khoảng hai phần ba tác
phẩm, giữ lại 72 trang và dùng các chi tiết trong số trang này để viết thành 1313 câu
thơ trong tổng số 3254 câu của Đoạn Trường Tân Thanh.
Nguyễn Du đã lược bỏ những bài thơ xướng họa, những bài ghi lời thề thốt trong
Kim Vân Kiều truyện. Nguyễn Du đã khéo léo dẫn dắt độc giả vào một lối đi khác
Thanh Tâm Tài Nhân, đó chính là đi vào đường tài và đường tình của các nhân vật một
cách tự nhiên, không màu mè. Thể hiện điều này rõ nhất ở nhân vật Thúy Kiều,
Nguyễn Du đã làm cho độc giả phải bất bình với những cái xấu, cái ác đã chà đạp lên
cái “tài” và cái “tình” của nhân vật.
Ở đoạn ba chị em Thúy Kiều đi hội đạp thanh, lúc đi ngang mộ Đạm Tiên, nếu
Kiều trong Truyện Kiều chỉ:
Lầm rầm khấn vái nhỏ to
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.
Thì Kiều trong Kim Vân Kiều truyện lại vừa khấn vái, vừa lạy, lại vừa đề thơ:
Sắc hương đâu đó tá?
Thăm viếng não lòng thay!
Chăn gấm, trăng soi lạnh,
Đài gương, bụi phủ nhòa.
Đất tuy vùi ngọc ấy,
20
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Tuyết chưa lấp danh này.
Rượu nhiều như sông đó,
Nào ai tưới chôn đây?
Hay như sau khi gặp Kim Trọng về, ở Kim Vân Kiều truyện, Kiều nhớ nhung, suy
nghĩ miên man về Kim rồi làm thơ:
Trời quang mây lặng không vương bụi,
Khác gì bình ngọc chứa lòng băng.
Nếu bạn đa tình săn sóc hỏi,
Tấm thân đau đớn biết cho chăng?
Thì hành động này ta không bắt gặp lại trong Truyện Kiều.
Nguyễn Du cũng đã lược bỏ những lời đối đáp rườm rà. Ở hồi một và hồi hai,
những lời đối thoại qua lại của ba chị em Thúy Kiều lúc thấy mộ Đạm Tiên và khi gặp
Kim Trọng đều được Nguyễn Du rút lại một cách ngắn gọn.
Cũng nhờ đó, bố cục của cốt truyện trong Đoạn Trường Tân Thanh rất chặt chẽ,
phát triển rất tự nhiên và cân đối, không hề luộm thuộm, rườm rà. Có thể thấy rằng
Nguyễn Du chỉ giữ lại những chi tiết nào gọi là đặc trưng, điển hình, ảnh hưởng đến
tâm lý, tính cách nhân vật.
Ngoài ra, những gì gây hại đến tính cách, nhân phẩm của các nhân vật như Thúy
Kiều, Kim Trọng, Từ Hải; bao gồm cả những lời lẽ dụ hàng của các thuyết khách của
Hồ Tôn Hiến (quan đốc phủ phái Hoa Nhân, trung quân họ La), lời Từ Hải đáp lại tên
Lợi Sinh, … cũng được Nguyễn Du lược bỏ.
Cuộc xử oán dông dài và man rợ trong Kim Vân Kiều truyện được cụ Nguyễn Du
tóm tắt qua 42 câu thơ. So sánh hai đoạn trích Kiều báo oán trong Kim Vân Kiều
21
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
truyện và Đoạn Trường Tân Thanh, ta nhận thấy những điểm nổi bật sau:
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều tha tội hoàn toàn cho Hoạn Thư.
Trong Kim Vân Kiều truyện, Kiều tha tội chết nhưng ra lệnh đánh Hoạn Thư một cách
dã man. Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều không sai quân sĩ bắt mẹ Hoạn
Thư đem về trị tội như trong Kim Vân Kiều Truyện.
Nguyễn Du chỉ tả cảnh xử tội Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh, Bạc
Bà, và Ưng, Khuyển một cách vắn tắt chứ không chi tiết và tàn nhẫn như trong Kim
Vân Kiều Truyện. Qua ngòi bút của cụ Nguyễn Du, chúng ta cảm thấy đồng tình với
Kiều khi nàng tha bổng Hoạn Thư nên không phê phán nàng nặng nề khi nàng trả thù
những nhân vật khác. Trái lại, khi đọc Kim Vân Kiều Truyện, có lẽ người đọc phải
chau mày và có ý niệm chán ghét Kiều trước cách trừng trị dã man, tàn bạo, thiếu nhân
tính nàng áp dụng đối với kẻ thù.
Nàng Kiều trong Truyện Kiều đối với Thúc Sinh và Từ Hải vẫn nặng tình như đối
với Kim Trọng, mà lẽ ra theo đúng nguyên tác Kim Vân Kiều truyện “Thúy Kiều chỉ
thực sự yêu có một mình Kim Trọng, còn đối với Thúc Sinh và Từ Hải thì chủ yếu chỉ
cảm cái ơn họ chuộc mình ra khỏi lầu xanh. Nguyễn Du cũng không hề buộc chặt
nhân vật Thúy Kiều vào một thứ “phẩm tiết kiên trinh” như Thanh Tâm Tài Nhân.
Được Hoài Thanh coi là người “đi guốc trong ruột nhân vật”, Nguyễn Du hiểu hơn ai
hết mối tình với Kim Trọng dẫu sao cũng chỉ là mối tình đầu của Kiều. Với thời gian
xa cách chừng ấy năm, lại trải biết bao nhiêu bầm dập, trong tâm lý Kiều ví thử vẫn cứ
còn giữ nguyên vẹn tình cảm với Kim Trọng như thuở nào để suốt ngày mình dằn vặt
mình thì thật ít ai hiểu nổi. Nguyễn Du đúng là một ngòi bút hiện thực tâm lý, khi ông
cho nàng Kiều nhớ đến Kim Trọng như nhớ đến một kỷ niệm cũ, không còn thắm nữa
nhưng vẫn chưa phai: “Xót thay chút nghĩa cũ càng/Dầu lìa ngó ỷ còn vương tơ lòng”.
Nguyễn Du cũng không thể buộc Thúy Kiều hờ hững với Thúc Sinh vì trong hoàn
cảnh đang sống dưới địa ngục trần gian của nhà mụ Tú Bà, Thúc Sinh không chỉ là
người phò nguy cứu nạn, mà còn là con người hết sức đa tình, đã hiến dâng cho nàng
cả tâm hồn và của cải, cả tình yêu “đá vàng” lẫn tình yêu xác thịt: “Miệt mài trong
22
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
cuộc truy hoan/Càng quen thuộc nết càng dan díu tình”. Kiều giờ đây không còn ở cái
tuổi cài trâm e lệ như thuở mới yêu Kim Trọng. Nàng đã thất thân với Mã Giám Sinh
rồi với Sở Khanh, lại đã lăn lóc chốn lầu xanh, mùi đời đã trải. Bắt nàng cứ thờ ơ lạnh
nhạt trước một mối tình chứa chan hạnh phúc như của chàng Thúc e chỉ là giả dối nếu
không là ngốc nghếch về tâm lý. Thế nhưng mối tình của Thúy Kiều đối với Thúc
Sinh, cũng như sau này đối với Từ Hải, vẫn khác mối tình đầu giữa nàng với Kim
Trọng. Một bên e ấp, trong sáng, thuần túy tình yêu, một bên dạn dĩ, tỉnh táo, vừa là ơn
nghĩa, vừa biết tính toán thiệt hơn, nên tuy có nhớ nhung: “Cầm tay dài ngắn thở
than/Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời’ vẫn đinh ninh những chuyện rất thực tế:
“Đôi ta chút nghĩa đèo bòng”. Cũng vậy, với Từ Hải, người đã cứu mình khỏi chốn
bùn nhơ lần thứ hai, lại giúp mình đền ơn trả oán phân minh, cho mình được sống
những ngày hả hê nhất, mà nói Kiều lấy Từ không phải vì tình thì dễ chỉ có Thanh
Tâm Tài Nhân mới nghĩ ra được. Kiều của Nguyễn Du phát triển theo xu thế tâm lý
cuộc đời thực đã không thể làm như vậy. Nàng yêu Từ Hải với tấm lòng của người tri
kỉ: “Khen cho con mắt tinh đời/Anh hùng đoản giữa trần ai mới già”, cũng là với cái
nghĩa của người chịu ơn sâu nặng: “Thưa rằng lượng cả bao dung/Tấn Dương được
thấy mây rồng có phen”. Vì thế nàng vẫn dành cho từ Hải một góc trong trái tim
thương nhớ sau khi đã hồi tưởng hết cha mẹ, các em, đến người tình cũ: “Cánh hồng
bay bổng tuyệt vời/ Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”. Không thể nói với những
mối tình gắn bó sau này, Kiều đã tự đánh mất mình. Chính Kim Trọng là người hiểu
rất rõ tâm hồn của nàng trước sau vẫn toàn vẹn: “Chữ trinh kia cũng có ba bảy
đường”.
Điều này cho ta thấy sự khác biệt rõ ràng giữa tư tưởng của Nguyễn Du với tư
tưởng của Thanh Tâm Tài Nhân. Từ đó mà chủ đề của hai tác phẩm ngỡ là giống nhau
nhưng thật ra lại khác nhau hoàn toàn. Nếu Thanh Tâm Tài Nhân viết chỉ vì cảm
thông với thân phận chìm nổi bấp bênh, trăm đau ngàn khổ của nhân vật chính Thúy
Kiều - một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị bao “nỗi khổ nhục phũ phàng
23
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
hắt hủi” và cốt chỉ để chứng minh “Tạo hóa ghét sự hoàn toàn, hơn điều nọ tất phải
kém điều kia, sinh được một phần hồng nhan thì phải chịu mười phần đày đọa, có
được một chút tài tình lại phải gánh thêm mười phần nghiệp chướng”.
Thì ở Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du dường như sâu sắc hơn nhiều. Ông
đau cho cái kiếp số bèo bọt của nhân vật hay cũng chính là đau cho cái cuộc đời thực
của ông? “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Câu thơ
nghe như xé lòng người đọc tan tác, ta nghe đâu đó cả tiếng cười gằn mỉa mai của tác
giả. Rõ ràng, cái cảm của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là cái cảm của người ngoài, làm
sao đau, sao xót bằng cái cảm của Nguyễn Du - người trong cuộc! Nguyễn Du đã xây
dựng một Thúy Kiều làm ta đau đớn hơn hẳn ngàn lần Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân.
Khi viết Đoạn Trường Tân Thanh, ngoài việc lược bỏ những đoạn hoặc rườm rà
hoặc không cần thiết trong Kim Vân Kiều truyện, cụ Nguyễn Du đã chứng tỏ biệt tài
trong việc sử dụng ngôn ngữ qua những đoạn tả cảnh, tả tình, tả tình trong cảnh, tả
cảnh trong tình; cũng như đã thành công trong việc miêu tả nhân vật và tô đậm cá tính
nhân vật với chỉ vài câu thơ. Thêm nữa, cụ cũng đã trang bị cho các nhân vật một đời
sống nội tâm phong phú với những suy tư, những khao khát, những rung động phù hợp
với con người của họ theo từng hoàn cảnh của câu chuyện. Đây là những điều Thanh
Tâm Tài Nhân đã thiếu sót khi sáng tác Kim Vân Kiều Truyện.
Chính tài năng của Nguyễn Du đã cắt nghĩa được tại sao hai tác phẩm kể cùng một
câu chuyện lại có hai số phận khác nhau. Một bên nhanh chóng chìm vào quên lãng
ngay chính trên quê hương của nhân vật trong truyện, một đằng vừa xuất hiện đã được
quần chúng mở rộng vòng tay đón nhận và trở thành tác phẩm bất hủ của dân tộc và cả
thế giới. Từ sự thực đó nói lên một cách rõ ràng: Truyện Kiều không phải là một tác
phẩm dịch. Dịch và viết bao giờ cũng là hai chuyện khác nhau. Điều đó có lý do của
nó. Bởi vì ngôn ngữ chỉ là công cụ của nhà văn, nhà thơ dùng để diễn đạt một nội dung
nào đấy qua một số hình tượng nào đấy trong một tác phẩm văn học. Cái vĩ đại, cái
chủ yếu của một tác phẩm văn học chính là nội dung cùng với cả hệ thống hình tượng
24
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
của nó được diễn tả, được xây dựng nên bằng một ngôn ngữ tương ứng. Không có cái
nội dung được diễn tả qua hệ thống hình tượng ấy thì ngôn ngữ - hay nói một cách
25
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
nôm na, thì văn có bóng bẩy đến đâu cũng không sao gọi là hay được.
Chương 2: SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG TRUYỆN KIỀU
2.1 Đặc trưng chất trữ tình trong Truyện Kiều
Đặc trưng chất trữ tình 2.1.1
Theo nghĩa Hán tự, trữ là rút ra, kéo ra; tình là tình cảm, cảm xúc. Như vậy, theo
nguyên nghĩa của nó “trữ tình” biểu hiện một hành động, một động tác, thể hiện, bộc
lộ cảm xúc. “Bút pháp trữ tình là một lối thể hiện cuộc sống đặc biệt – thể hiện cuộc
sống thông qua sự bộc lộ tình cảm, cảm xúc của chủ thể sáng tạo” [tr.8,14]
Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ. Tác phẩm thơ luôn thiên về diễn tả
những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời. Những rung động ấy
xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng đời sống vào
tâm hồn nhà thơ. Khi phân tích tác phẩm mang đậm chất trữ tình, ta không phải đi sâu
vào mổ xẻ, cắt nghĩa, lí giải về các chi tiết, sự kiện, sự việc được nhà thơ đề cập, mà
điều cốt lõi là thấy và nói được những cảm xúc, tâm trạng, thái độ và suy tư của nhà
thơ về các vấn đề trên.
Tác phẩm trữ tình là tác phẩm được xây dựng bằng bút pháp trữ tình, ở đó cuộc
sống hiện ra như là một sản phẩm của sự chủ quan hóa. Nội dung của tác phẩm trữ
tình là nội dung cảm nghĩ mà cuộc sống đã gợi lên trong chủ thể sáng tạo, vì vậy,
những mảng hiện thực khách quan đều in đậm màu sắc chủ quan với tất cả những nét
cá biệt của nó do bàn thân mỗi chủ thể sáng tạo có những kinh nghiệm riêng, vốn sống
riêng. Mặt khác, mỗi một con người lại có những góc độ cảm nhận cuộc sống riêng và
những phương thức biểu hiện riêng tùy theo cá tính và bản lĩnh. Vì vậy, “nếu con
người được giới thiệu qua một trạng thái tâm hồn, qua một tâm trạng cá biệt nhất định
không có cốt truyện, thì trước mắt chúng ta là loại trữ tình,… Trong tác phẩm trữ tình,
bất cứ thuộc thời gian nào, chúng ta đều thấy có một lối thể hiện con người, thể hiện
tính cách hoàn toàn khác, ở đây con người được vẽ lên trong một tâm trạng cá biệt
26
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
của mình” - L.JTimofiep
Trong truyện thơ, hình tượng trữ tình tồn tại theo những phương thức có phần
khác biệt. Truyện thơ được xây dựng không chỉ bằng bút pháp trữ tình mà còn bằng
bút pháp tự sự, bút pháp trào phúng. Trong khi xây dựng truyện thơ, tác giả đã kết hợp
các bút pháp khác nhau để thể hiện những nội dung khác nhau, những nhân vật khác
nhau. Bút pháp tự sự để miêu tả diện mạo, hành động và biểu hiện bên ngoài của nhân
vật. Bút pháp trữ tình thể hiện đời sống nội tâm của nhân vật, thái độ, tâm tư tình cảm
của tác giả. Hai bút pháp này có liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung và chuyển hóa lẫn
nhau.
Thơ là sự bộc bạch nội tâm của tác giả. Thơ là một thể loại có mặt sớm trong nền
văn học dân tộc. “Thơ là sự chắt lọc, kết tinh chiều sâu và tiếng nói tâm hồn con
người” [tr13;9]. Đọc thơ, ta dễ thấy cái “tôi” cá nhân của người cầm bút. Thơ thường
có hai loại cơ bản là thơ trữ tình và thơ tự sự. Thơ trữ tình chủ yếu như một bản tự
thuật tâm trạng. Nhà thơ thường trực tiếp bày tỏ tâm trạng của mình thông qua nhân
vật trữ tình. Ở thơ tự sự, nhà thơ thường thể hiện tình cảm, thái độ trực tiếp thông qua
các sự kiện. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã bày tỏ tâm tư, tình cảm qua nội tâm
nhân vật, ý kiến trước thực trạng xã hội thối nát. Có thể thấy rằng, Truyện Kiều là thể
thơ “hỗn hợp trữ tình – tự sự” [tr15;9] “
2.1.2 Chất trữ tình trong Truyện Kiều
2.1.2.1 Thể thơ
Truyện Kiều được viết bằng thể thơ lục bát. Thơ lục bát là thơ của Việt Nam,
giống như thơ Đường luật của Trung Quốc, thơ Hai Ku của Nhật Bản và nhiều thể thơ
khác của các dân tộc trên thế giới. Thơ lục bát thân thiết với tất cả mọi tầng lớp người
Việt, sâu lắng và tinh tế trong biểu đạt mọi trạng thái tư tưởng, tình cảm. Thơ lục bát
nảy nở rực rỡ trong tục ngữ, ca dao, hò vè, các làn điệu dân ca nối dài từ đời này qua
đời khác để rồi tồn tại mãi mãi. Thơ lục bát dễ làm, dễ thuộc và ai cũng có thể làm
được cho dù là người biết chữ hay không biết chữ. Một bài thơ lục bát có thể dài đến
27
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
vô cùng nhưng lại có thể ngắn đến chỉ là một cặp câu với mười bốn chữ nhưng vẫn hội
tụ đủ nội dung và nghệ thuật của một bài thơ. Thời gian định hình của thể lục bát đến
nay vẫn chưa xác định chắc chắn. Có người cho rằng: “Thời gian định hình của thể lục
bát từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ XV. Trong thời gian này, giới trí thức chỉ lo làm các thể
thơ gốc Trung Hoa. Các bài thơ thường viết bằng chữ Hán. Giới bình dân thường
truyền miệng nhau những câu thành ngữ quen thuộc, những câu tục ngữ có giá trị đạo
lý, lúc đầu chưa có điệu, chưa có vần nhưng dần dần được hoàn chỉnh để trở thành ca
dao với vần điệu và âm vận rõ ràng” [tr.105,17]
Thơ lục bát được hình thành trước hết là bởi các nhóm với sáu từ làm thành câu
lục và tám từ làm thành câu bát. Các nhóm từ này được ghép lại với nhau theo một
quy tắc gọi là luật của thơ lục bát. Luật thơ lục bát bao gồm toàn bộ các quy định về
hiệp vần và sắp xếp từ ngữ, âm thanh trong các câu thơ. Luật thơ lục bát được tóm tắt
về sự sắp xếp từ ngữ trong câu lục theo thứ tự: bằng, bằng, trắc trắc, bằng, bằng. Đối
với câu bát các từ được xếp theo thứ tự: bằng bằng, trắc trắc, bằng bằng, trắc bằng.
Cho dù luật là vậy, song trong thực tế có thể thay đổi ở một vài vị trí để linh hoạt trong
sáng tác. Sự thay đổi này cũng có nguyên tắc giống với thơ Đường luật, đó là cụm từ:
“Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”. Nghĩa là những từ ở các vị trí 1,3,5 có
thể bỏ qua quy định về bằng trắc, còn các từ ở vị trí 2,4,6 phải đúng quy định. Dù vậy,
ngay cả các vị trí nằm trong quy định cũng vẫn bị việc thay đổi như thường. Đấy là các
trường hợp “nhị” vốn là bằng lại được thay là trắc và “tứ” là trắc lại thay là bằng.
Không những thế vị trí vần giữa câu 6 và câu 8 cũng có những thay đổi để ta có dạng
thơ lục bát biến thể như lâu nay ta vẫn từng đọc từng nghe.
Có thể thấy, lục bát là thể thơ có khởi nguồn từ ca dao. Chính đặc điểm về cấu tạo
thể thơ đã tạo nên một giọng thơ ngọt ngào, đậm tính dân tộc. “Cấu trúc câu sáu, câu
tám, lúc dài lúc ngắn nối tiếp nhau miên man không biết điểm dừng được ví như
những “con sóng” của tâm trạng. Vì thế, thể thơ này rất phù hợp để diễn tả tâm tình
28
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
của con người. Đặc biệt là tâm sự buồn thương, chua xót của người phụ nữ.” [tr.77,3].
Trong bài viết “Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ” (NXB Giáo dục, 1999), GS
Nguyễn Văn Hạnh cũng đã có những nhận xét rất xác đáng về giá trị của thể loại này
trong nền văn học Việt Nam: “Trải qua bao biến thiên, đảo lộn về xã hội, tư tưởng,
tâm lý suốt mấy trăm năm, người Việt vẫn coi lục bát như một thể thơ đặc trưng nhất
của dân tộc, và có khả năm tuyệt vời để diễn tả những rung động sâu xa, tinh tế nhất
của tâm hồn Việt Nam” [tr77]
Khi nhắc đến thể thơ lục bát, ngoài việc nghĩ đến những câu ca dao truyền thống
thì ta cũng không thể nhắc tới Truyện Kiều. Có thể nói, Truyện Kiều được xem là đỉnh
cao của văn học trung đại Việt Nam không chỉ vì nội dung mà còn ở phương diện nghệ
thuật. Với việc lựa chọn thể thơ lục bát, thể thơ của dân tộc mang đậm chất trữ tình,
Nguyễn Du đã đưa tác phẩm nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung đạt đến
một tầm cao mới. Thể thơ đã góp phần tạo nên giọng thơ tâm tình, thủ thỉ, ngọt ngào
nhưng cũng đậm tính triết lý sâu sắc. Đó chính là tiếng lòng của những cảm xúc tinh
tế, sâu sắc của con người.
Gieo vần trong ca dao và Truyện Kiều đều là gieo vần chân và vần lưng. Sự gắn
kết giữa tiếng cuối câu lục và tiếng sáu của câu bát, tiếng cuối câu bát và tiếng cuối
câu lục tiếp theo góp phần tạo nên tiếng thơ dài miên man như tâm trạng con người:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
29
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
“Giọng thơ trong Truyện Kiều là giọng tâm tình thủ thỉ. Đó không phải chỉ là suy
nghĩ, tình cảm mà nó còn là tất cả những rung động sâu xa, tinh tế nhất của cảm xúc
của con người” [tr.81,3]. Chất trữ tình trong tác phẩm còn được thể hiện qua những
cách nói quen thuộc của ca dao. Nguyễn Du đã nhiều lần mượn ca dao để viết lên
những vần thơ đặc sắc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
(Truyện Kiều)
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?
(Ca dao)
Chính nhờ việc “mượn ý tứ” của ca dao để diễn tả thế giới nội tâm của nhân vật đã
góp phần rất lớn vào việc tạo nên chất trữ tình trong tác phẩm. Âm hưởng ngọt ngào từ
ca dao đã tạo ra chất trữ tình mượt mà. “Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡ chàng?” –
“Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”. Kiều không chỉ trông ngóng, mong đợi mà
còn trách thầm định mệnh. Chính cách “mượn ý” từ ca dao này cho thấy tình yêu mà
Kiều dành cho Thúc Sinh một cách thật nhẹ nhàng, lãng mạn.
Diễn tả tư thế hùng dũng, đội trời đạp đất của Từ Hải, Nguyễn Du dùng rất nhiều
từ có phụ âm đầu là “đ” mà sắc thái tu từ của nó khi đọc lên gây ấn tượng chắc chắn,
vững chãi:
Đường đường một đấng anh hào
30
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ tên Hải vốn người Việt đông
Thể thơ lục bát có khả năng tu từ to lớn, đặc biệt ở sự kết hợp những từ thanh bằng
và thanh trắc, cách gieo vần, cách đối và ngắt nhịp. Dưới ngòi bút Nguyễn Du, thể thơ
lục bát được sử dụng linh hoạt, “thiên biến vạn hóa”
Về cách gieo vần, luật bằng trắc, thể lục bát qui định trong câu sáu, chữ 2, 4, 6
phải theo luật bằng – trắc – bằng. Trong câu tám, chữ 2, 4, 6, 8 theo luật bằng – trắc –
bằng – bằng. Trong một cặp lục bát 14 chữ, có 7 chữ bắt buộc theo luật bằng trắc, 7
chữ còn lại được sử dụng linh hoạt. Nguyễn Du đã vận dụng qui tắc ấy một cách tinh
tế nhất. Khi tả cảnh mùa xuân, Nguyễn Du đã sử dụng câu thơ gồm rất nhiều từ thanh
bằng: Lơ thơ tơ liễu buông mành
2.1.2.2 Giọng điệu trữ tình
Theo “Từ điển Tiếng Việt”: “Giọng điệu là giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ
nhất định. Ví dụ: Giọng láo xược. Giọng điệu có ý nghĩa như ngữ điệu”. Nhà văn sử
dụng giọng điệu để biểu thị thái độ, tình cảm của con người. Giọng điệu là âm hưởng
chung toát lên từ tác phẩm, nó biểu hiện ở nhịp điệu, hình ảnh, tính nhạc, ở cách tác
giả gieo vần, sử dụng từ ngữ.
Giọng điệu là yếu tố quan trọng chi phối toàn bộ tác phẩm, giúp ta phân biệt được
tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khác. “Văn thâm hậu thì con người của nó trầm
mà tĩnh; văn ôn nhu thì con người của nó khiêm và hòa; văn cao khiết thì con người
của nó đam mà giản; văn hùng hồn thì con người của nó cương mà nhanh; văn uyên
sau thì con người của nó thuần túy và đứng đắn” [tr189; 10]. Để đạt được những điều
đó, nhà văn phải tự tìm cho mình một giọng điệu riêng nếu không muốn rơi vào sự lặp
lại của kẻ khác. Một tác phẩm không có giọng điệu riêng sẽ gây cho người đọc sự
nhàm chán, “đọc xong rồi quên ngay” (Nam Cao). Giọng điệu là âm hưởng chung toát
31
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
lên từ tác phẩm nghệ thuật. Nó bộc lộ rõ nét nhất toàn bộ cách cảm, cách nhìn, cách
nghĩ của người viết. Mỗi nhà văn thường tìm cho mình một hình thức thể hiện đứa con
tinh thần riêng, một chỗ đứng riêng trong lòng độc giả. Ví dụ văn Nam Cao thường
mang tính suy lý, triết lí về cuộc sống. Nguyễn Công Hoan dù cùng thời đại nhưng lại
dùng lời nói bình dị như thành ngữ, tục ngữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Trong tác phẩm trữ tình, nhà thơ trực tiếp bày tỏ tình cảm, tư tưởng của mình đối
với cuộc sống. Không tác phẩm trữ tình nào là không có giọng điệu. Mỗi giọng điệu có
một kiểu thể hiện riêng, giọng tâm tình, giọng âu lo chiêm nghiệm, giọng mỉa mai
châm biếm, … nhưng tất cả đều hướng tới mục đích chính là thể hiện tình cảm của tác
giả. Thể loại thơ tự sự được tác giả viết ra với một tình cảm nồng nhiệt, yêu, ghét,
châm biếm mỉa mai hay yêu thương trân trọng được bày tỏ một cách rõ ràng. Yếu tố
giọng điệu chiếm vị trí quan trọng. Khi đọc Truyện Kiều, không ít người đã bất ngờ
với giọng điệu thơ đôi lúc táo bạo và đầy cảm xúc:
Chém cha cái số hoa đào
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi
Trong văn học trung đại từ trước cho tới Nguyễn Du chưa có tác giả nào bày tỏ
thái độ một cách rõ ràng như thế. Nguyễn Du đã lựa chọn từ ngữ một cách tinh tế,
chuẩn xác để thể hiện tâm tư, tình cảm một cách rõ nét. Bằng giọng thơ yêu thương,
đầy ai oán, ông đã trực tiếp bộc lộ thái độ phẫn uất đối với định mệnh khắc nghiệt
đang bao vây lấy Kiều. Ta thấy được rằng, Nguyễn Du đã tìm cho mình một giọng
điệu riêng, đậm chất Nguyễn Du.
Giọng kể đa dạng, thấm đẫm cảm xúc là một đặc điểm lớn của giọng kể trong
Truyện Kiều. Mỗi chủ thể có một giọng kể riêng, kể cả giọng của chủ thể kể chuyện vô
hình, giọng của các nhân vật tham gia kể chuyện và giọng của nhân vật tự kể chuyện
mình. Các giọng này “song song tồn tại, giọng lồng trong giọng” [tr.139, 1], cũng
chính nó góp phần tạo ra tính đa thanh, đối thoại trong Truyện Kiều mà các truyện
32
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Nôm trước Truyện Kiều chưa có. Người kể chuyện vô hình kể lại câu chuyện đời Kiều
với giọng kể đầy yêu thương nhưng chất chứa nỗi đau. Thúc Sinh kể về Kiều trong sự
khâm phục và yêu thương. Kiều tự kể chuyện mình trong sự xót xa và đau đớn.
Chính việc lựa chọn giọng kể trữ tình cho nhân vật đã góp phần đưa nghệ thuật trữ
tình của tác phẩm lên đỉnh cao. Nỗi đau của Kiều là nỗi đau của người tự ý thức về
mình với những nỗi đau, những mất mát của cuộc đời. Nỗi đau của người kể chuyện
vô hình là nỗi đau của người chứng kiến “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” .
Khi kể chuyện, tác giả đóng vai trò là người dẫn chuyện và mỗi lúc câu chuyện đến
hồi kịch tính thì Nguyễn Du lại cất lên giọng điệu cảm thông của mình. Đó là tiếng
kêu, tiếng gào thét thương cảm cho số phận cho con người tài hoa bạc mệnh, Nguyễn
Du không chỉ thấu hiểu mà còn muốn kêu gọi sự cảm thông nơi người đọc. Tố Hữu đã
có những câu thơ rất hay về sự cảm thông của ông với Nguyễn Du qua Truyện Kiều:
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều
(Tố Hữu – Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Người đọc cảm thương cho Kiều, cho nỗi đoạn trường đời Kiều chính nhờ tâm
huyết mà Nguyễn Du gửi gắm trong tác phẩm. Từng câu thơ “như có máu chảy đầu
ngọn bút” . Nguyễn Du nhập thân vào câu chuyện bằng nhiều cách và ở mỗi cách ông
đều tạo ra nét riêng. Ở những câu thơ chuyển đoạn, hoặc kết thúc đoạn đều thấy thẫm
đẫm cảm xúc người viết. Có thể nói ông đã kết hợp một cách hài hòa bút pháp tự sự và
bút pháp trữ tình. Đôi lúc, người đọc thấy Nguyễn Du có mặt trong tác phẩm như một
nhân vật, từ đó ông thốt lên tiếng nói lòng mình:
Thương ôi! Tài sắc bậc này
33
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Một dao oan nghiệt đứt giây phong trần!
Nguyễn Du đã nhiều lần lên tiếng bênh vực cho Kiều. Ông hiểu được nỗi đau của
con người trong xã hội phong kiến, nỗi đau của cả một kiếp người. Đó không chỉ là
nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau về tinh thần:
Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau
Ông xót xa cho cảnh Kiều bị Hoạn Bà đánh đập:
Trúc côn ra sức đập vào
Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh
Xót thay! Đào lý một cành
Một phen mưa gió tan tành một phen
Nỗi đau về thể xác có thể qua đi nhưng nỗi đau tinh thần luôn dai dẳng trong tâm
trí con người:
Thương thay thân phận lạc loài
Dẫu sao cũng ở tay người biết sao
Nguyễn Du viết Truyện Kiều theo cảm hứng chủ đạo là phản ánh cuộc sống hiện
thực và lòng yêu thương con người. Chính từ cảm hứng nhân đạo, những hình ảnh đầy
đau thương “hoa trôi bèo dạt”. “chiếc lá lìa cành”, “trâm gãy gương tan”, “thịt đổ
máu sa” giọng điệu trữ tình xuất hiện một cách tự nhiên, tinh tế. Bao trùm cả tác phẩm
là tiếng lòng của tác giả đối với cuộc đời Kiều. Cả đời Kiều bị xô đẩy bởi sự lừa lọc,
dối lừa của đầy rẫy kẻ xấu. Kiều tài hoa nhưng bạc mệnh, dễ tin người, từ Mã Giám
Sinh, Sở Khanh đến Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hồ Tôn Hiến đều có thể lừa dối nàng.
Kiều đại diện cho kiếp người nhỏ bé mong manh trong xã hội đầy cạm bẫy ấy. Nguyễn
34
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Du thấy thương cho Kiều làm sao:
Thương ôi, không hợp mà tan
Cả nhà vinh hiển riêng oan một nàng
Nàng chịu thiệt thòi đủ đường. Trong khi ai cũng “vinh hiển”, tìm được hạnh phúc
riêng thì riêng nàng phải trải qua mười lăm năm lưu lạc chân trời góc bể. Cũng là kiếp
người nhưng người ta vinh hiển, nàng thì đầy rẫy khổ đau:
Thoắt mua về thoắt bán đi
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần
Do vậy, mới mở đầu tác phẩm, Nguyễn Du đã cất lời than:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Cả tác phẩm là một tiếng kêu cho số phận người phụ nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Khi Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã miêu tả nội tâm nàng bằng sự cảm thông sâu
sắc:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Bị đẩy vào chốn bùn nhơ, phải đem tấm thân của mình để mua vui cho những kẻ
lắm tiền háo sắc, Kiều đau đớn, xót thương cho cái phận “sống làm vợ khắp người ta”
của mình, nỗi nhục nhã ấy cứ nghĩ đến là đau lòng. Lầu xanh là chốn ăn chơi trụy lạc,
và chính cái “giật mình” của Kiều trong chốn lầu xanh làm cho người đọc xúc động.
35
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Đó là cái giật mình của người không tin vào sự thật mình đã bị đẩy vào chốn bùn nhơ,
xô bồ, bẩn thỉu. Đằng sau tâm trạng ấy của Kiều mà một Nguyễn Du – một con người
hiểu nỗi đau nhân tình thế thái, yêu thương nhân vật hết mình. Ở cái chốn lầu xanh
nhơ nhớp ấy lại có một cô gái biết coi trọng phẩm giá của mình đến thế đủ thấy
Nguyễn Du thương cho nhân vật của mình thế nào.
Nguyễn Du thường sử dụng câu cảm thán trong tác phẩm như một tiếng kêu ai oán
xé lòng. Từ vai trò người kể chuyện, người đọc nhận ra rằng ông đã có những tiếng nói
đồng cảm yêu thương thông qua giọng điệu. “Nếu không có con mắt nhìn xuyên sáu
cõi, có tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời thì làm sao có được bút lực ấy”. Giọng điệu trữ
tình thấm đẫm trong cả tác phẩm, rõ ràng nếu Nguyễn Du không có tấm lòng nhân đạo
sâu sắc, sự cảm thông hết mực thì không thể có một giọng điệu cảm thông ngân vang
trong lòng người đọc đến như vậy. Giọng điệu trữ tình trong tác phẩm góp phần tạo
nên sự thành công đặc săc của Truyện Kiều và phong cách sáng tác độc đáo riêng biệt
của Nguyễn Du. Truyện Kiều không phải chỉ là một truyện thơ theo nghĩa một truyện
được viết bằng văn vần đơn thuần mà nó quả là một truyện thơ thực sự với lời kể vừa
có chất truyện, vừa có chất thơ. Lời kể trong Truyện Kiều thấm đẫm chất thơ. Giọng
kể thấm đẫm cảm xúc, trong đó có giọng buồn đau, suy tư chiêm nghiệm bao trùm
toàn bộ tác phẩm là nhân tố cơ bản tạo ra chất thơ của lời kể chuyện.
2.1.1.3 Trữ tình thiên nhiên
Trong văn học cổ, hình tượng thiên nhiên thường gắn với cảm xúc và là một hình
thái ngôn ngữ nghệ thuật. Chính vì thế, Truyện Kiều phản ánh cuộc sống xã hội thông
qua con người cảm nghĩ với những xúc động, suy tư sâu kín bên cạnh thiên nhiên,
nhân vật không lời. Ngôn ngữ thiên nhiên xuất hiện khi Nguyễn Du vẽ cảnh bằng chất
liệu ngôn ngữ mang đậm tính gợi hình, gợi cảm, làm cho nhân vật hoạt động và bộc lộ
tính cách.
Một trong những biểu hiện giàu chất thơ của ngôn ngữ Truyện Kiều là có một mối
liên hệ gắn bó giữa tâm tình, cảm xúc của nhân vật với những rung động của thiên
36
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
nhiên. “Thiên nhiên trong Truyện Kiều là những không gian nghệ thuật có chức năng
làm nền cho việc khắc họa các dòng tâm tư, tình cảm của con người cũng như giúp
cho việc hoàn thiện vận mệnh và tính cách của nhân vật” [tr.124,4 ]. Thiên nhiên
trong Truyện Kiều trở thành một hình thái ngôn ngữ nghệ thuật để miêu tả tâm hồn con
người. Thiên nhiên đã giúp Nguyễn Du diễn tả tâm trạng nhân vật một cách chân thật
nhất.
Bằng bút pháp nhân hóa, Nguyễn Du đã lắng nghe trái tim con người thông qua
thiên nhiên. Cảnh vật không chỉ mang sức sống trực tiếp của bản thân nó mà còn mang
sức sống của một thiên nhiên vô hình nhưng sống động. Nhận xét về thiên nhiên trong
Truyện Kiều, ông Đỗ Minh Tuấn có viết về thiên nhiên trong Truyện Kiều lung linh kì
ảo vì nó vừa tồn tại trong không gian vũ trụ, vừa tồn tại trong không gian của tâm hồn
tác giả. Thiên nhiên hiện ra như một thứ thước đo trạng thái của cuộc đời nhân vật,
một thứ ký hiệu trữ tình đánh dấu, tổng kết một giai đoạn nhất định của cuộc đời nhân
vật. Thiên nhiên ở đây không phải là một khách thể đi bên cạnh cuộc đời mà nó là tâm
hồn con người hay như có người nói “thiên nhiên là bình chứa các tâm trạng”.
Thiên nhiên luôn gắn với những biến cố trong cuộc đời nhân vật, nhất là Thúy
Kiều. Thiên nhiên luôn đi theo bước chân nàng, mỗi lúc một vẻ. Thiên nhiên trong tác
phẩm nhiều khi là bức tranh thủy mặc, khi là một mảnh trời, một cửa bể nhưng cũng
có khi chỉ là một cành liễu rũ, một dòng nước. Nhưng dù là hình ảnh gì, màu sắc nào
thì thiên nhiên vẫn luôn mang đậm nỗi niềm tâm sự. Cảnh luôn mang cảm xúc của
người đối cảnh khiến cho cảnh vật cũng có tâm hồn. Nguyễn Du đã tạo nên một sự
giao hòa tuyệt đối giữa cảnh vật và tấm lòng con người. Không phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Du viết: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét: “Có thể nói, thiên nhiên trong Truyện
Kiều cũng là một nhân vật thường vẫn kín đáo lặng lẽ nhưng không mấy khi có mặt và
luôn thấm đượm tình người”. Trong mỗi cảnh vật trong Truyện Kiều, dù là một ngọn
cỏ hay một vầng trăng, một không gian mênh mông hay hiu quạnh, tất cả đều mang
37
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
dấu ấn của con người. Đó là khi một tình yêu chớm nở:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Một nỗi sợ cô độc, lạnh lẽo:
Mịt mù dặm cát đồi cây
Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giày cầu sương
“Thiên nhiên đóng vai trò là một phương thức biểu hiện, một phương diện trữ tình
của tác giả nên nó có một chiều sâu thăm thẳm của tình người”[tr.130,14]. Thiên
nhiên trong Truyện Kiều biết “trút lá”, biết “thoi thóp về rừng”, biết “xao xác” trước
khổ đau và tuyệt vọng của con người.
Trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tâm trạng buồn tủi của Kiều đã thể hiện rõ
nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng nhưng đều diễn tả một khía
cạnh trong tâm trạng của Kiều. Cánh buồm trên biển giữa mênh mông trời chiều hoàng
hôn thật cô độc, lẻ loi:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Khung mở ra vào thời điểm chiều hôm, thời điểm của những lưu luyến khó tả.
“Cửa bể chiều hôm” gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản
chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ
nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha
thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Các từ ngữ “thấp thoáng”, “xa xa” gợi
sự lẻ loi, đơn độc như chính niềm hi vọng mỏng manh, leo lét của Kiều. Một mình bơ
vơ ở nơi đó, Kiều chỉ mòn mỏi nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, chờ mong một con
thuyền đến cứu, thế nhưng những chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở xa rồi mất hút về
38
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
phía chân trời. “Thuyền ai” lênh đênh rồi mất hút về phía chân trời xa như cuộc đời
Kiều, chẳng biết đến bao giờ có thể về được quê nhà, báo hiếu cho cha mẹ. Ánh nhìn
của Kiều vẫn ở mặt nước nhưng đã gần hơn:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Cánh hoa mỏng manh, dập dìu trong dòng nước, bé nhỏ, chẳng thể nào chống chọi
được sức của “ngọn nước mới sa” như chính thân phận nàng Kiều nhỏ bé trong dòng
đời đẩy đưa. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi, tả tơi trôi theo dòng đời vô định
“biết là về đâu” như chính bông hoa kia. Nhìn cánh hoa bị vùi dập tả tơi ấy, nàng
Kiều lại càng nhớ thương Kim Trọng, càng buồn tủi, xót xa vì số phận bèo dạt mây
trôi, chẳng biết sẽ đi về nơi nao của mình. Không chỉ có mặt nước mênh mang chất
chứa bao nỗi buồn mà cả cỏ cây cũng sầu thảm:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Ngược với cái tên xanh biếc hi vọng của “Ngưng Bích” sắc xanh nối tiếp của trời
đất qua đôi mắt buồn tủi của Kiều trở nên thật sầu thảm. Từ láy “rầu rầu” gợi nên hình
ảnh của một bãi cỏ tàn úa, xơ xác đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất tàn úa,
héo hon, vô vị, tẻ nhạt như chính số phận bị giam lỏng trên lầu cao của Kiều. Tuổi
thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài sắc vẹn toàn của nàng rồi sẽ phai tàn, vô vị như màu
xanh héo úa kia. Màu xanh vốn là màu của hi vọng nay đã tàn úa như chính niềm hi
vọng đang cạn dần và nỗi xót xa, dằn vặt ngày càng dâng cao trong lòng Kiều. Quang
cảnh đang im lặng, bỗng dậy sóng:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Âm thanh của tiếng sóng “ầm ầm” trong cảnh “gió cuốn mặt duềnh” như chính là
39
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
những bão tố phong ba đang chờ Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào
tai họa sẽ ập đến như tiếng sóng dồn dập ngoài xa. Tiếng sóng ầm ì như chính tiếng
của tai họa sắp ập tới, những cạm bẫy của cuộc đời ập đến “kêu quanh ghế ngồi” khiến
cho nàng Kiều sợ hãi. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm
nhân vật kết hợp bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện. Qua bức tranh trên, ta thấy
được sự vận động trong nỗi buồn của Kiều, từ buồn mênh mang, sang buồn tàn tạ,
mênh mông, hiu quạnh sang đến buồn thảng thốt, dữ dội. Thiên nhiên cũng thay đổi,
vận động theo đó.
Đỗ Minh Tuấn trong Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã cho
rằng: Thiên nhiên trong Truyện Kiều được nhuốm một màu cảm xúc đặc biệt của nhân
vật, một cảm xúc đã được trái tim nhà thơ nhận thức lại, đánh gía lại tâm trạng tâm
trạng của nhân vật truyện trước khi nghiễm nhiên vào thiên nhiên để trở thàn trạng
thái của cảnh vật được nhà thơ đồng cảm và bình luận [tr.160, 14]
Người đọc có thể nhận thấy một thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng khi chàng Kim
trở lại vườn thúy sau những ngày tháng về Liêu Dương hộ tang chú:
Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà.
Vội sang vườn Thúy dò la,
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
40
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Xập xè én liệng lầu không,
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
“Kim Trọng trở lại vườn Thúy” là bức tranh tâm trạng đầy những ngỡ ngàng của
chàng Kim. Đất Liêu Dương đã xa nay lại càng xa hơn với một không gian rộng lớn
mênh mông “muôn dặm phù tang”. Thời gian Kim Trọng xa Kiều cũng chỉ nửa năm,
nhưng với chàng thì nó dài dằng dặc “từ ngày muôn dặm”. Rõ ràng không chỉ thiên
nhiên mà cả không gian, thời gian cũng nhuốm màu tâm trạng. Đỉnh cao của sự đớn
đau mà Kim Trọng phải đón nhận là nghịch cảnh bày ra trước mắt, cảnh vẫn đó nhưng
người không còn ở đó, tình vẫn sâu đậm nhưng người không còn nữa. Cảnh vật hiện
lên hoang tàn, đổ nát. Nơi đây khi xưa đầm ấm nay chỉ còn lại đống hoang tàn, đổ nát
– “Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa”. Giờ đây, chàng Kim đứng trước một vườn
xuân, cũng có cánh én, cũng có gió xuân, có cả hoa đào mùa xuân nhưng khu vườn
thật ảm đạm. Cánh én giờ đây khác hẳn “cánh én đưa thoi” ngày nào. Vườn tược
hoang phế, nhà cửa cũng tiêu điều làm sao. Những song cửa không có người đóng để
mặc cho ánh trăng quạnh quẽ chiếu vào. Dù ảm đạm, tiêu điều nhưng mỗi ngọn cỏ lá
cây đều đánh thức ở chàng Kim những kỉ niệm khó quên. Kỉ niệm hiện lên trong tâm
trí của chàng trai trẻ, lớp bụi thời gian không làm mờ đi hình ảnh Thúy Kiều – “Đi về
này những lối này năm xưa”. Chữ “này” trong khẩu ngữ hàng ngày được lặp lại hai
lần trong câu thơ tám chữ khắc họa thêm trạng trạng đau xót của chàng trai
“Có thể hình dung cuộc đời Thúy Kiều là một bài thơ trữ tình, là những khái quát
của nỗi đoạn trường, trầm luân mà tác giả là người chứng kiến và cùng chung một
chuyến đò số phận đầu oan trái” [tr144, 13]. Dường như ngôn ngữ tác giả dành cho
Kiều là những lời tâm huyết mà ngay cả trong các tác phẩm Hán văn cũng chưa bao
giờ nhắc đến. Qua hình tượng thiên nhiên, Truyện Kiều hiện lên đầy tâm trạng bởi nó
nói lên nỗi đau, nỗi uất hận muôn đời mà người phụ nữ nói riêng và những người tài
41
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
hoa nói chung phải gánh chịu.
2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều
2.2.1 Đặc trưng chất tự sự
Trong một số công trình Tự sự học (Narratology), thuật ngữ “tự sự” được dịch là
“trần thuật”. Theo đó nhiều người đã gọi “tác phẩm tự sự” là “tác phẩm trần thuật”.
Cả hai thuật ngữ này đều chỉ cùng một nội dung: tác phẩm có cốt truyện, có người kể
chuyện. Chúng ta cần xác định rõ hơn về vấn đề này. Cụ thể, “tự sự” là phương thức
tái hiện đời sống bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch, được dùng làm cơ
sở để phân loại tác phẩm văn học; còn “trần thuật” là hành động diễn ngôn tự sự được
thực hiện bởi một (hoặc nhiều) người kể chuyện giữ vai trò trung gian giữa người sáng
tác với những chuyện được kể trong tác phẩm.
Theo G.Genette: “Tự sự là trình bày một sự kiện hay một chuỗi sự kiện có thực
hay hư cấu, bằng phương tiện ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ tự sự.”[1] Như thế, văn
bản tự sự có ba đặc điểm. Một là có người kể, hai là có hành động tự sự và ba là có sự
kiện được kể ra.
Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về nó thì
tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự
sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian và thời
gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Phương thức phản ánh
hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người làm cho tác phẩm tự sự trở
thành một câu chuyện về ai đó hay về một sự kiện nào đó. Cho nên, tác phẩm tự sự
thường có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là hệ thống nhân vật được khắc họa đầy
đặn hơn hẳn nhân vật trong tác phẩm trữ tình và kịch.
Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thông qua các sự
kiện, hệ thống sự kiện mà sự kiện là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với con
người, con người và môi trường xung quanh. Do đó, tác phẩm tự sự mở ra một phạm
vi hết sức rộng lớn trong việc miêu tả hiện thực khách quan, được thể hiện trong nhiều
42
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
mối quan hệ.
Các nhà lí luận từ Aristote đến Lessing, Hegel, Bielinxki đều cho rằng tác phẩm
tự sự đưa ra một bức tranh khách quan về thế giới. Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote
cho rằng thế giới của tác phẩm tự sự là thế giới tồn tại bên ngoài người trần thuật,
không phụ thuộc vào ý muốn và tình cảm của họ. Ở đây, nhà văn dường như đứng bên
ngoài để kể lại. Tất cả những sự việc của đời sống được nhà văn kể lại như một đối
tượng khách quan ở bên ngoài mình. Chính vì vậy, tác phẩm tự sự mang tính khách
quan.
Ðể có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống qua các sự
kiện, hệ thống sự kiện. Vì vậy, nhiều nhà lí luận khẳng định tính sự kiện có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm tự sự. Các biến cố, sự
kiện này có thể là những biến cố, sự kiện bên ngoài, tức là phần tồn tại vật chất với các
việc làm, hành động cụ thể có thể thấy được, cũng có thể là những biến cố, sự kiện bên
trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ, ... nhưng những biến cố, sự kiện này không
được biểu hiện trực tiếp mà được xem như một đối tượng để đem ra phân tích, nhận
biết.
Như vậy, tác phẩm tự sự tái hiện toàn bộ thế giới bao gồm những sự kiện bên
ngoài và bên trong của con người nhưng đều xem chúng như là những sự kiện khác
nhau về đời sống con người, xã hội.
2.2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều
2.2.2.1 Cốt truyện
Cốt truyện là cái khung sự kiện, hành động để nhân vật tồn tại phát triển. Cốt
truyện và nhân vật chỉ có hình thức tồn tại phù hợp nhất và duy nhất trong ngôn ngữ
kể của người kể chuyện.
Cơ sở khách quan của cốt truyện là xung đột xã hội. Trong quá trình xây dựng tác
phẩm, người viết bao giờ cũng thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp những xung đột xã hội
của thời đại vào tác phẩm của mình. Vì vậy, cốt truyện mang tính lịch sử cụ thể, được
43
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
qui định bởi những điều kiện của thời đại. Chính thời đại khác nhau đã tạo nên các cốt
truyện khác. Dostoiepxki nhấn mạnh vai trò của cuộc sống trong việc xây dựng cốt
truyện: “Anh hãy nhớ lấy lời tôi: đừng bao giờ bịa ra các cốt truyện. Anh hãy lấy
những cái do bản thân cuộc sống cung cấp. Không một trí tưởng tượng nào nghĩ ra
được những điều mà đôi khi cuộc sống bình thường quên thuộc nhất đưa lại. Hãy tôn
trọng cuộc sống.”
Cơ sở chủ quan của cốt truyện là tâm tư, tình cảm và sự đánh giá chủ quan của
người viết đối với cuộc sống. Vì vậy, cùng sống một thời đại, cùng xuất phát từ một
xung đột xã hội giống nhau, những nhà văn khác nhau lại xây dựng những cốt truyện
khác nhau nhằm thể hiện quan điểm, thái độ, ý đồ tư tưởng, phong cách nghệ thuật, cá
tính sáng tạo của nhà văn đối với cuộc sống. Có thể đưa ra ví dụ cụ thể về vấn đề này,
cùng xuất phát từ những xung đột xã hội giữa nông dân, địa chủ, quan lại, … nhưng
với mỗi nhà văn là mỗi cách nhìn cuộc sống khác nhau, cách phản ánh xung đột xã hội
khác nhau
Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động. Vì vậy, quá trình phát
triển của một cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của xung đột, bao gồm các
bước hình thành, phát triển và kết thúc. Trong bài viết “Bàn về thuật ngữ cốt truyện”,
Trần Đình Sử nhận định: “cốt truyện năm thành phần, gồm phần một: khai đoạn, phần
hai: thắt nút, phần ba: phát triển, phần bốn: cao trào hay đỉnh điểm, phần năm: mở
nút (kết thúc)” [28]. Nhìn chung, một cốt truyện thường có các thành phần chính sau:
Phần trình bày: Phần này giới thiệu khái quát về bối cảnh xã hội, các điều kiện,
nguyên nhân làm náy sinh xung đột và tình hình buổi ban đầu của nhân vật. Trong
Truyện Kiều, phần trình bày là phần giới thiệu tài sắc của chị em Thúy Kiều và gia
cảnh của họ:
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung.
44
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Phần thắt nút: Phần này xuất hiện những biến cố đánh dấu sự kiện mà từ đó phát
sinh mâu thuẫn, xung đột. Ðây chính là biến cố đầu tiên của cả hệ thống biến cố tạo
thành xung đột của cốt truyện. Nhiệm vụ của phần thắt nút là trực tiếp bộc lộ những
mâu thuẫn. Các nhân vật sẽ đứng trước những thử thách, đòi hỏi phải bày tỏ những
thái độ, chọn lựa cách xử sự, hành động, phản ứng, từ đó nhân vật bộc lộ tính cách.
Phần thắt nút của Truyện Kiều chính là cảnh gia biến và việc Kiều phải bán mình
chuộc cha.
Đồ tế nhuyễn của riêng tây
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
Điều đây bay buộc ai làm,
Này ai đan giậm giệt giàm bỗng dưng?
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
Tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây.
Gia đình Kiều gặp cơn gia biến, bị “thằng bán tơ” vu oan, sai nha ập đến, bắt trói
45
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
cha con Vương Ông – Vương Quan và tra khảo. Kiều giữa cái tình và cái nghĩa, đã
chọn cái nghĩa, chữ Hiếu bán mình chuộc cha. Chính từ sự kiện này, tính cách nhân
vật Thúy Kiều dần bộc lộ là một người sống có tình có nghĩa, một người con có hiếu.
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha !
Phần phát triển: Trong các thành phần của cốt truyện, đây là phần quan trọng và
dài nhất bao gồm nhiều cảnh ngộ, sự kiện và biến cố khác nhau. tính cách nhân vật chủ
yếu được xác định trong phần này. Phần phát triển của Truyện Kiều là cuộc đời 15
năm lưu lạc, từ “chữ trinh đáng gíá nghìn vàng” đến “tấm lòng trinh bạch từ nay xin
chừa” là chuỗi dài bi kịch “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, là sự tiếp xúc với đủ
các hạng người trong xã hội, là nỗi đau khổ này đến nỗi đau khổ khác của Kiều.
Phần điểm đỉnh: Còn được gọi là cao trào, là phần bộc lộ cao nhất của xung đột.
Lúc này, xung đột đã phát triển đến độ gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết
theo một chiều hướng nhất định. Ðiểm đỉnh thường là một khoảnh khắc, một thời điểm
ngắn nhưng có tác dụng quyết định đối với nhân vật trung tâm. Ðiểm đỉnh của Truyện
Kiều là khoảnh khắc đau xót nhất của đời Kiều: Từ Hải chết, Kiều phải đánh đàn cho
Hồ Tôn Hiến, bị ép gã cho thổ quan và cuối cùng nhảy xuống sông Tiền Ðường tự
vẫn.
Phần kết thúc (Mở nút): Ðây là phần giải quyết xung đột của tác phẩm. Ở đây, tác
giả trình bày những kết quả của toàn bộ xung đột của cốt truyện. Một cốt truyện tốt,
bao giờ phần kết thúc cũng được giải quyết một cách tự nhiên, phù hợp với qui luật
46
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
của cuộc sống. Tuy nhiên trong văn học cổ thường có phần kết thúc phù hợp với ước
muốn chủ quan của con người. Phần kết thúc của Truyện Kiều là sư đoàn viên của
Kiều với Kim Trọng và gia đình sau mười lăm năm lưu lạc.
“Cốt truyện của Truyện Kiều được vay mượn từ tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện
và do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp của nghệ thuật dựng truyện tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc” (Trần Đình Sử). Truyện Kiều được cấu tạo như một tiểu thuyết chương
hồi nói chung, mặc dù đã bỏ hết sự phân hồi và hồi mục, bằng một chuỗi chuyện lớn
nhỏ và trong mỗi chuyện gần như có đầy đủ các thành phần của cốt truyện, có giới
thiệu, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút, kết thúc. Trần Đình Sử trong bài “Từ mô
hình cốt truyện và thể loại của Truyện Kiều đến khuynh hướng cảm thương chủ
nghĩa” [tr.1209, 10] đã liệt kê chuỗi các chuyện trong Truyện Kiều:
1. Chuyện du xuân, gặp Đạm Tiên, Kim Trọng, tối về bâng khuâng
2. Chuyện Kiều – Kiều gặp nhau và thề hẹn chung tình
3. Chuyện Kiều bán mình cứu cha và em
4. Chuyện Kiều bị ép gả tiếp khách
5. Chuyện Thúc Sinh dan díu thành gia thất
6. Chuyện Hoạn Thư cho người bắt Kiều về làm đầy tớ
7. Chuyện Hoạn Thư đánh ghen
8. Chuyện Kiều chạy trốn và bị Bạc Hạnh lừa
9. Chuyện Kiều Lấy Từ Hải, báo ân báo oán và chết theo Từ Hải
10. Chuyện Giác Duyên trực vớt cứu Kiều
11. Chuyện Kim Trọng trở về và lấy Thúy Vân
12. Chuyện tìm Kiều và đón nàng về
13. Chuyện Kim – Kiều tái hợp
Sáng tạo Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dựa trên cốt truyện tiểu thuyết chương hồi
của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Hệ thống tình tiết cốt truyện giữa
Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện có thể tóm tắt như sau: Hoàn cảnh gia đình
Vương viên ngoại, chị em Kiều đi chơi xuân gặp mộ Đạm Tiên và Kim Trọng, tối về
47
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Kiều được Đạm Tiên báo mộng số kiếp đoạn trường, Vương bà an ủi; Kim Trọng đến
trọ gần nhà Thúy Kiều, khi Kiều đánh rơi thoa, Kim Trọng nhặt được, đôi lứa trao kỉ
vật cho nhau rồi gặp nhau thề nguyền; Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú; bị
thằng bán tơ vu oan, bọn sai nha đến tra tấn cha con Vương viên ngoại; Kiều phải bán
mình chuộc cha, viên lại họ Chung thu xếp đút lót giải cứu cha và em Kiều; Kiều trao
duyên cho em, thất thân với Mã Giám Sinh, định tự tử nhưng sợ liên lụy đến gia đình;
Mã Giám Sinh đưa Kiều về nhà chứa của Tú Bà, Kiều tự tử nhưng không chết, mắc
mưu Sở Khanh, phải chịu “tiếp khách”; Thúc Sinh chuộc Kiều ra đưa về sống ở Lâm
Tri nhưng bị vợ Thúc là Hoạn Thư bày trò đánh ghen, cho Kiều ra chép kinh ở gác
Quan Âm, sau Kiều tìm cách trốn khỏi nhà họ Hoạn, đến am Giác Duyên náu, sau
Giác Duyên gửi Kiều cho Bạc má má, Kiều trở lại kiếp sống lầu xanh lần 2. Kiều gặp
được Từ Hải, nhờ Từ Hải báo ân báo oán, Hồ Tôn Hiến cho người đến dụ hàng, Từ
Hải nghe lời Kiều đầu hàng bị bày binh đánh úp, thất trận chết đứng, Hồ Tôn Hiến mở
tiệc mừng, bắt Kiều hầu rượu, sau gả nàng cho thổ quan, Kiều gieo mình xuống sông
Tiền Đường tuy nhiên được Giác Duyên cứu, Kim Trọng sau khi hộ tang trở lại, chàng
được tác hợp với Thúy Vân tuy nhiên vẫn thương nhớ khôn nguôi, sau có tin Kiều đã
qua đời, cuối cùng Vương Ông và Kim Trọng tìm thấy nàng ở am Giác Duyên, gia
đình đoàn tụ, gia đình cũng như Kim Trọng muốn nối lại tình xưa Kim – Kiều nhưng
nàng vì nghĩ đến quá khứ không trong sạch đã từ chối, hai người chấp nhận trở thành
bạn.
“Truyện Kiều là một tác phẩm có cốt truyện đa chủ đề, có cấu trúc mạch tự sự đa
dạng.” [tr.150,14] Nguyễn Du đã viết tác phẩm bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc. Mạch
kể chuyện đi theo mạch song hành của hai thế giới mơ và thực, hiện hữu và vô hình,
ánh sáng và bóng tối. Cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều – Đạm Tiên, một cuộc gặp gỡ giữa
thực và hư, thực tại và mộng mị. Dù có cùng một cốt truyện nhưng phải đến Truyện
Kiều của Nguyễn Du thì cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện mới được đưa lên một
tầm cao mới. Viện sĩ B.L Riptin, nhà nghiên cứu văn học phương Đông, người Nga
thì: “Truyện Kim Vân Kiều vào thế kỷ thứ XVIII đã được dịch ra tiếng Mãn Châu,
khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đồng thời đều được nhà tiểu thuyết Nhật Bản
48
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Bakin và nhà thơ Nguyễn Du chú ý. Khi Bakin dựa vào cốt truyện để sáng tác ra tiểu
thuyết đạo đức Con cá vàng thì Nguyễn Du sáng tác ra cả một truyện thơ. Và thoạt
nhìn thì thật lạ lùng, tác phẩm được gia nhập vào văn học thế giới không phải tiểu
thuyết Trung Quốc, bản phỏng tác Nhật Bản, mà lại là Truyện Kiều của Nguyễn Du,
mà cho đến nay, nó lại được dịch ra cả tiếng Trung và tiếng Nhật. và nhờ có nó mà
cuốn tiểu thuyết Trung Quốc được nói tới trong văn học sử” [tr.309, 26]
Nhân vật 2.2.2.2
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm văn học.
Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét,
xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều,
ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Nhân vật văn học có thể là con
người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là
những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là
một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu
thuyết hiện đại, như mình - ta trong ca dao...). Nhân vật văn học có chức năng khái
quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc
đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà
văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên
cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện
thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến
một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền
với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong xã
hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn
liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do, công lí... Trong Chí
Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ
phận nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Ðằng sau nhiều nhân vật trong
truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những
49
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
ước mơ tốt đẹp của con người .Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách,
hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá
trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là
cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy,
không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Betong Brecht
cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản
dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý
đồ tư tưởng của tác giả”.
Nhân vật tự sự khái quát tính cách của con người, khái quát hóa cuộc sống, dường
như qua số phận của một nhân vật có thể thấy được cả một lớp người, một thời đại,
một xã hội. Nhân vật tự sự còn có vai trò hết sức quan trọng trong việc truyền tải tư
tưởng của tác giả. Qua nhân vật, tác giả gửi gắm những tư tưởng, những thông điệp
thẩm mỹ tới người đọc. Đặc biệt, nhân vật tự sự phải tạo nên tính thuyết phục cho tác
phẩm, khiến người đọc có cảm giác tin cậy vào những điều tác giả viết. Điều quan
trọng của một tác phẩm đối với người đọc là tính chân thực, mà xét đến cùng, tính
chân thực của tác phẩm phụ thuộc vào tính chân thực của nhân vật. Vì vậy, có thể nói,
nhân vật tự sự tạo nên tính thuyết phục cho tác phẩm.
Như vậy, trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật tự sự chính
là nơi tập trung mang chở nội dung phản ánh, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, là tác giả
thể hiện quan niệm về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật. Một nhân vật văn học
lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường
điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí cho cả một thời đại. Bởi thế,
khi nghiên cứu về tính tự sự trong Truyện Kiều, phân tích hệ thống nhân vật trở thành
việc không thể thiếu để xác định giá trị của tác phẩm cũng như phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Du.
Nhân vật trong Truyện Kiều là nhân vật tự sự của truyện thơ, nhưng có lúc Nguyễn
Du thể hiện họ như những nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình. Nhân vật trữ tình
50
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm.
Nguyễn Du, người kể chuyện đã nhập thân vào nhân vật để thể hiện đời sống nội tâm
phong phú. Nguyễn Du đã xây dựng một hệ thống đông đảo nhân vật. Trong đó, đã có
những nhân vật trở thành nhân vật điển hình. Mỗi nhân vật đại diện cho một tầng lớp,
góp một tiếng nói, một tính cách để phản ánh hiện thực cuộc sống. Tất cả nhân vật
trong Truyện Kiều góp phần tạo nên một thế giới đa dạng.
Chịu ảnh hưởng của thi pháp trung đại, khi miêu tả những nhân vật, Nguyễn Du
thường sử dụng bút pháp truyền thống chia nhân vật làm hai tuyến lớn – nhân vật
chính diện và nhân vật phản diện. Đối với nhân vật chính diện, ông viết bằng nét bút
trang trọng, giàu tính ước lệ. Nguyễn Du thường “vẽ bằng màu sắc hài hòa, tươi tắn,
đường nét lúc thì mềm mại uyển chuyển lúc thì phóng bút nhiều chiều kích, nét vẽ đậm
và kỹ hơn so với nhân vật phản diện” [tr.75, 20]. Những hình ảnh ước lệ tượng trưng
dùng để miêu tả là những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp trong sáng, bền vững như
phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn thủy. Đây là bút pháp cực tả, tuyệt đối hóa, lý tưởng
hóa nhân vật. Đối với nhân vật phản diện, ông chỉ chấm phá bằng vài ba nét nhưng
vẫn gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
Khi miêu tả nhân vật Từ Hải, từng tâm tư, suy nghĩ của Từ không chỉ thể hiện thái
độ yêu thương tri kỉ với Kiều mà còn thể hiện khát vọng về một người anh hùng. Trong
cuộc đời Kiều,ngoài Kim Trọng ra thì cần phải nhắc đến Từ Hải – một người anh hùng
chí lớn ở bốn phương. Người đã giúp Kiều trả ân báo oán, cho Kiều có những khoảng
thời gian tuy ngắn ngủi nhưng lại chứa đầy niềm hạnh phúc Ở Truyện Kiều, rất nhiều
lần Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là “anh hào”, “đại vương”, “anh hùng” và “đấng anh
hùng”. Và chính khi xây dựng nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du cũng tô đậm tính cách anh
hùng lý tưởng. Có thể nói Nguyễn Du đã gửi vào Từ Hải một quan niệm về người anh
hùng lý tưởng
Vẻ đẹp bên ngoài của Từ Hải được nhà thơ xây dựng giống như những hình tượng
người anh hùng trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là người anh hùng với dáng hình “ Vai
51
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
năm thước rộng, thân mười thước cao”:
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Không chỉ chuẩn mực anh hùng qua vẻ bề ngoài, Từ Hải còn hiện lên với chí khí
anh hùng:
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Tình yêu rất cần với một người anh hùng thế nhưng nó không la vật cản để giới
hạn ý chí của người anh hùng. Lòng của người anh hùng Từ Hải là ở bốn phương kia
chứ không phải là ở ngôi nhà nơi có người vợ xinh đẹp. Không phải chàng không
thương không yêu, không muốn ở bên nàng Kiều mà là chí khí của một người anh
hùng đã thúc giục chàng lên đường. Ngay cả khi Thúy Kiều bịn rịn thì Từ Hải vẫn
“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”.
Kể cả lúc nguy biến, lúc sa cơ, lúc chết, chàng vẫn thể hiện khí chất của một anh
hùng:
Tử sinh liều ở trận tiền
Dạn dày cho biết gan lì tướng quân
...Khí thiêng khi đã về thần
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng
Trơ như đá, vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời
Từ Hải chết nhưng không phải chết nằm, chết quỳ mà là chết đứng - chết như một
anh hùng. Chết mà vinh hơn kẻ thành công mà nhục. Từ Hải chết đứng “là một pho
52
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
tượng hào hùng tiết ra một luồng sáng vụt ngang mày kẻ phản trắc”. Cái chết của
người anh hùng chiến đấu đến phút cuối cùng, cái chết yên lặng không một tiếng kêu,
không một giọt lệ, không tiếng thở dài. Cái chết đứng của Từ Hải là một lời lên án,
khinh thường cũng như thức tỉnh những kẻ sống bằng lừa lọc, bằng mưu mô xảo trá.
Thông qua những lời nói của Từ Hải lúc Hồ Tôn Hiến cho người đến dụ hàng,
Nguyễn Du đã bộc lộ lòng mình:
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu
Áo xiêm trói buộc lấy nhau
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Nguyễn Du thông qua lời của Từ Hải thể hiện thái độ khinh bỉ bọn nho sĩ, không
liêm sỉ. Nguyễn Du bằng lòng để Từ Hải chết để thỏa mãn được ước vọng thầm kín,
muốn chết như Từ Hải để trọn danh tiết một kẻ tưởng như thất thế nhưng thật ra lại
mang khí chất của một vị anh hùng.
Truyện Kiều có một hệ thống nhân vật phong phú, khi nhắc đến nhân vật trong tác
phẩm ta không thể không nhắc tới các nhân vật phụ. Ông đã dành ra mười hai câu
Kiều viết về người khách viễn phương, đây dường như là nhân vật đầu tiên được
Nguyễn Du gửi gắm tình cảm nhân đạo. Người khách viễn phương ấy không hề biết
họ biết tên, xuất hiện gián tiếp thoáng qua thông qua lời kể của Vương Quan nhưng
vẫn gây ấn tượng mạnh. Người khách viễn phương này chỉ vì trọng một trang tài tử
giai nhân mà tìm đến Đạm Tiên, rồi khi nghe tin nàng đã qua đời thì đau xót mà rơi lệ:
Khóc than khôn xiết sự tình
Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
Và chưa dừng lại ở đó, người khách viễn phương còn bỏ tiền ra mua quan tài bằng
53
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
gỗ tử, thuê xe tang có rèm hạt châu để chôn cất Đạm Tiên một cách chu đáo. Hãy để ý
hai chi tiết, tưởng chừng phụ mà lại không hề phụ, rất quan trọng khi nhắc đến nhân
vật khách viễn phương. Người khách viễn phương mua quan tài nhưng phải là quan tài
bằng gỗ tử, xe tang nhưng phải là xe tang có rèm châu, như vậy mới xứng với người
tài tử giai nhân, mới đẹp lòng người đã khuất và yên lòng cả người đang sống.
Nhân vật vô danh này không chỉ có chữ Tình mà còn có cả chữ Tâm. Từ Hải hào
hùng dũng mãnh ngang tàng, rộng lượng, Kim Trọng hào hoa phong nhã, thuỷ chung
còn người khách viễn phương rất cao thượng. Người khách viễn phương chưa gặp
Đạm Tiên lần nào đã đẩy những giá trị biểu tượng của nhân vật này cao thêm nhiều
bậc. Tấm lòng xót thương nâng niu người tài sắc của khách viễn phương thậm chí còn
đi trước cả nhân vật chính Thúy Kiều, Kiều chỉ là người thứ hai khóc thương Đạm
Tiên. Khi viết về nhân vật khách viễn phương, Nguyễn Du không đi sâu vào diện mạo
mà chú trọng đến cử chỉ, hành động để làm tóat lên nét đẹp tâm hồn. Chỉ một vài biểu
hiện thể hiện sự khẩn trương chu đáo “xa nghe, tìm đến”, “Sắm sanh nếp tử, xe
châu”, thể hiện sự đau đớn xót xa “khóc than“, Nguyễn Du đã phần nào thể hiện quan
điểm của mình về thuyết Thiên định và thuyết Nhân duyên. Người khách viễn phương
khi “khóc than khôn xiết sự tình”, chắc hẳn cũng tự nhủ rằng do số kiếp mà mình và
Đạm Tiên không gặp được nhau, do nhân duyên chưa bao giờ đến và không bao giờ
đến mà hai ta sớm âm dương cách biệt. Chàng thừa nhận ngay đó là sự vô duyên:
Khéo vô duyên bấy là mình với ta.
Qua nhân vật này, ta thấy tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du xuất hiện. Nếu như
mệnh trời đã cướp mất “duyên trước” thì giờ phút này, ta sẽ tự cấu tạo nên một “duyên
sau”. Dù cuộc đời trên cõi tạm của nàng đã kết thúc thì ta vẫn làm tất cả những gì có
thể, và đó chính là kỷ niệm duy nhất và đẹp nhất với nàng trong lòng ta. Muốn tạo ra
duyên sau để vượt qua duyên trước, đó chính là mầm mống của tư tưởng nhân định
thắng thiên sẽ còn tiếp tục được thể hiện qua lời Kim Trọng trong đoạn sau của tác
phẩm:
54
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Sinh rằng giải cấu là duyên
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.
Với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du không miêu tả tỉ mỉ trang trọng, chỉ
cần vài ba nét phác hoạ ông đã để lại những ấn tượng sâu sắc. Mã Giám Sinh xuất hiện
với lối nói năng cộc lốc, ăn mặc kệch cỡm, hợm hĩnh, ... Chỉ qua vài nét bút của
Nguyễn Du người đọc đã có cái nhìn về con người của. Cái tên chung chung, không
rõ ràng. Giám Sinh không phải là tên, đó là một từ để chỉ người học trò học Nho giáo
thời xưa. Trong một vài thời đại nhất định, đây là một chức danh có thể mua được
bằng tiền. Qua cái tên, ta không biết gì nhiều về nhân vật. Quê quán mập mờ, khuất
tất. Nguyễn Du đã khéo léo vạch trần sự giả dối của Mã Giám Sinh, ông giới thiệu hắn
là “viễn khách”:
Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Nhưng lại để cho hắn tự nhận:
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Có sự mâu thuẫn trong lời nói của Mã Giám Sinh và lời giới thiệu của mụ
mối, “viễn khách” mà sao “cũng gần”? Sự thật là Mã Giám Sinh đã dối trá về quê
quán của mình: Quê Lâm Tri mà lại nói thành Lâm Thanh. Tiếp đó, Nguyễn Du còn
miêu tả ngoại hình kệch cỡm của hắn:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Cách đi đứng, thái độ hợm hĩnh:
Trước thầy sau tớ lao xao
55
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Nguyễn Du còn tiếp tục lột trần bản chất xấu xa của Mã Giám Sinh. Trước “nét
buồn như cúc, điệu gầy như mai” của Kiều, y chẳng một chút động lòng trắc ẩn.
Ngược lại y còn bắt Kiều làm thơ, gảy đàn để “cân sắc cân tài”. Sau đó y mặc cả. Y
xem Kiều chi là món hàng không hơn không kém. Đầu tiên y còn làm bộ là người có
chữ:
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?
Sau đó y lộ nguyên hình là một tên “buôn thịt bán người” sành sỏi:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Từ “đáng giá nghìn vàng”, Mã Giám Sinh “cò kè" thêm, bớt chỉ còn “bốn trăm”
Điều đó chứng tỏ y rất thủ đoạn trong việc mua bán. Khi màn kịch khép lại cũng là lúc
chiếc mặt nạ bị lột trần. Mã Giám Sinh chẳng cần trá hình là một sinh viên trường
Quốc Tử Giám nữa. Y đã hoàn thành vai diễn cùa mình:
Định ngày nạp thái vu quy,
Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!
Tính cách con buôn lừa đảo, giả dối, xảo trá, kệch cỡm của Mã Giám Sinh đã được
Nguyễn Du khắc họa cụ thể và sinh động. Thông qua nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn
Du vừa lột trần được bản chất xấu xa của tên buôn thịt bán người vừa bộc lộ thái độ
châm biếm khinh ghét của mình đối với hạng người bịp bợm, hợm hĩnh, sống bằng
đồng tiền “buôn thịt bán người” đáng ghê tởm . Hơn hết, nhà thơ đã lên tiếng tố cáo
“phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội phong kiến thối nát. Tài sắc của
56
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ!
“Tiền lưng đã sẩn, việc gì chẳng xong!” là một lời kết án đanh thép những kẻ bất
lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.
Sở Khanh cũng là một kẻ sống bám vào “phường bán thịt”. Bị bán vào lầu xanh
của Tú Bà, Thuý Kiều bị ép tiếp khách. Nàng không chịu nên bị Tú Bà chửi mắng,
toan đánh đập; nàng rút dao giấu trong tay áo tự vẫn, song mọi người cứu được. Tú Bà
đã hứa sẽ gả nàng vào nơi tử tế. Ở lầu Ngưng Bích nàng, tủi phận, nhớ nhà, nhớ quê.
Bỗng có một chàng trai trẻ, dáng vẻ thư sinh, tên là Sở Khanh, nhìn nàng ra vẻ xót xa:
Than ôi sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
Sở Khanh than thở cho người đẹp, vờ ra vẻ anh hùng muốn cứu nàng ra khỏi chốn
lầm than:
Sốt gan riêng giận trời già,
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết anh hùng
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!
Qúa đau khổ, Kiều đã tin Sở Khanh sẽ đưa mình đi trốn. Ðúng giờ hẹn, Sở Khanh
đến.
Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.
Nàng bước xuống lầu và lên ngựa theo Sở Khanh trốn đi. Rừng khuya, trăng lạnh,
sương sa, nàng xót thương tấm thân lưu lạc. Tiếng gà gáy, tiếng người lao xao. Nhà
trước, nhà sau, nàng không thấy bóng Sở Khanh đâu. Y “đã rẽ dây cương lối nào”:
57
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Tiếng gà xao xác gáy mau,
Tiếng người đâu đã mé sau dậy dàng
Nàng càng thổn thức gan vàng,
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào
Nàng đang hoảng sợ thì Tú Bà dẫn một đoàn người ập đến bắt và lôi về nhà, rồi
không nói không rằng, mụ đánh đập nàng tơi bời. Từ ngày ấy, Kiều bước vào quãng
đời kỹ nữ.
Tú Bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
Ðang tay vùi liễu dập hoa tơi bời!
Nguyễn Du không miêu tả nhân vật Sở Khanh tỉ mỉ về quần áo, cử chỉ, ngoại hình.
Sở Khanh hiện lên là một kẻ bỉ ổi, lừa lọc thông qua từng lời nói, điệu bộ và hành
động của hắn. Sở Khanh đã trở thành một nhân vật điển hình cho những kẻ phản bội,
đứa lọc lừa: “thằng Sở Khanh”, “bọn Sở Khanh”. Thông qua nhân vật Sở Khanh,
Nguyễn Du không chỉ lên án kẻ bạc tình, phản bội người con gái ngây thơ, mà còn
mang nghĩa rộng: đó là kẻ phản bội bạn bè.
Ngôn ngữ tự sự 2.2.2.3
Ngôn ngữ tự sự (hay còn gọi là ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ kể chuyện) là ngôn
ngữ của tác giả, góp phần bổ sung những quan điểm của mình đối với những hiện
tượng được miêu tả. Sự có mặt của ngôn ngữ trữ tình là cho tác phẩm trở thành một
chỉnh thể trọn vẹn, chặt chẽ. “Trong truyện thơ Nôm nói chung, Truyện Kiều nói tiêng,
hệ thống này không chỉ đóng vai trò then chốt trong vấn đề mô tả diễn biến cốt truyện,
58
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
thể hiện tài năng và sự sáng tạo của tác giả mà còn biểu lộ vẻ đẹp, chiều sâu thẩm mỹ
của một ý thức văn hóa trong quá trình phản ánh đời sống văn hóa của cả một thời
đại” [tr.147,14]
“Ngòi bút của Nguyễn Du – mặc dù đã bị hạn chế trong khuôn khổ văn vần – luôn
luôn đủ tiếng, đủ lời, tiếng và lời thực chính xác để lột tả được tinh thần, diện mạo của
từng trường hợp một, không hề lúc nào bị lúng túng, khó khăn cả” [tr153,5]. Có thể
nói, ngôn ngữ trong Truyện Kiều là thứ ngôn ngữ hàm súc, nhiều ý tại ngôn ngoại, có
sức khái quát cao. Nguyễn Du kể bằng văn vần như đang kể bằng văn xuôi, giống như
kể bằng lời nói bình thường. Lời thơ của ông vừa bảo đảm được sự trau chuốt, uyển
chuyển, chuẩn mực của thơ lục bát vừa mang tính chính xác của ngôn ngữ đời thường.
Đó chính là chất “văn xuôi” trong ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Du. Đây là đặc
điểm nổi bật của thơ Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng
Qua ngôn ngữ tự sự, tác giả thể hiện cái nhìn, giọng điệu, phong cách riêng trước
những vấn đề cuộc sống. Ngôn ngữ tự sự của tác giả giúp cho nhân vật, không gian,
thời gian có những nét riêng, qua đó tác giả bộc lộ cách nhìn riêng biệt về cuộc đời,
nhân tình thế thái. “Ngôn ngữ tự sự, nếu xét từ phương diện kể, được hiểu là những lời
kể của tác giả nhằm nêu lên một vấn đề nào đấy” [tr.148,14]. Mở đầu tác phẩm,
Nguyễn Du viết:
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng
Có nhà viên ngoại họ Vương
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung
Nguyễn Du đã mở ra một không – thời gian triều đại, gia cảnh, một nét đặc trưng
của những tác phẩm trung đại. Nhà thơ đã cung cấp cho người đọc những thông tin sơ
lược mở đầu câu chuyện. Căn cứ vào nguyên tác Kim Vân Kiều truyện, Nguyễn Du
giới thiệu câu chuyện diễn ra vào niên hiện Gia Tĩnh của Minh Thế Tông ở Trung
59
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Hoa. Qua hai từ láy “phẳng lặng”, “vững vàng”, người đọc có thể hình dung đây là
thời kì thịnh trị. Sau khi giới thiệu thời đại, tác giả tiếp tục giới thiệu gia cảnh của nhân
vật chính - “Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung”. Nguyễn Du không chỉ đơn
thuần là thông báo những nội dung cần thiết mà còn bộc lộ những điểm nhìn của mình
về sự vật, hiện tượng, qua đó đánh giá những yếu tố cần miêu tả. Lời giới thiệu tưởng
như có vẻ khuôn cách, đơn giản nhưng cũng đủ giúp người đọc hiểu phần nào về gia
thế và thời đại của Kiều.
Tiếp đến, Nguyễn Du đã miêu tả khung cảnh trong buổi Thanh minh:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi..
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Một bức tranh thiên nhiên đẹp đã được khắc họa chỉ qua vài câu thơ. Đầu tháng
ba, bầu trời quang đãng khí trời mát mẻ vương chút hơi lạnh của cái rét Nàng Bân
khiến cỏ cây, hoa lá tốt tươi. “Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài
bông hoa”, Nguyễn Du đã thể hiện được thần thái của mùa xuân. Thảm cỏ non trải
rộng tới chân trời là màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh xuân. Trên cái nền xanh
bát ngát ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng như tuyết. Sự hài hòa tuyệt diệu của
màu sắc gợi lên vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, căng đầy sức sống của mùa xuân. Theo
phong tục có từ lâu đời, trong tiết Thanh minh, người ta đi tảo mộ, tức là di thăm viếng
60
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
và sửa sang lại phần mộ của người thân để bày tỏ tưởng nhớ và lòng biết ơn. Không
khí lễ hội rộn ràng, đông vui. Những ẩn dụ so sánh: nô nức yến anh, ngựa xe như
nước, áo quần như nêm gợi lên hình ảnh từng đoàn người đi chơi xuân như chim én,
chim oanh bay ríu rít. Lễ hội mùa xuân tấp nập, nhộn nhịp bởi nam thanh, nữ tú, tài tử,
giai nhân từ mọi nơi không ngớt kéo về. Vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng hơn nhờ có hình
ảnh con người và hình ảnh con người trở nên sinh động hơn nhờ có thiên nhiên.
Quan điểm của Nguyễn Du về thân phận của những con người tài hoa đã được
phát biểu:
Kiều rằng: “Những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh
Khi bàn về thân phận người phụ nữ, nhà thơ đã đau đớn thốt lên:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Chúng ta thấy rằng, Nguyễn Du đã nhận định về thân phận của người tài hoa, cảm
thương cho số phận người phụ nữ thông qua hệ thống ngôn ngữ tự sự linh hoạt. Đó là
những từ ngữ khi có tính trang trọng: “tài hoa”, “thể phách”, “tinh anh”, khi thì bình
dân, thuần Việt, gần gũi, dễ khơi gợi cảm xúc ở người đọc: “đàn bà”, “lời rằng”,
“cũng là”, … Điều đặc biệt ở ngôn ngữ tự sự, nhà thơ đã đan xen ngôn ngữ tác giả và
ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện một cách khéo léo, tinh tế, khiến cho người
đọc cảm thấy sự chân thành, trăn trở của tác giả đối với con người rất chân thực,
không gượng ép, sáo rỗng.
“Ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Du còn thể hiện một khả năng đối chiếu và tương
phản đặc biệt. Để có được những chân dung nhân vật sắc nét, hai tuyến nhân vật
tương phản nhau trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng tối đa những ngữ liệu
văn hóa trong ngôn ngữ tự sự, thuật truyện, tái hiện các khuôn hình khác nhau của
61
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
một không gian văn hóa trung đại”[tr.152,14]. Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng
tất cả những gì gần gũi nhất để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ.
Nguyễn Du đã dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và
sáng tạo ra một thi phẩm lớn với một nội dung, một hệ thống hình tượng riêng của
mình. Nhờ sử dụng phương tiện này mà chúng ta thấy được thái độ của Nguyễn Du
đối với nhân vật.
Do xuất phát từ điểm nhìn về con người, thể hiện thái độ của mình với cuộc sống
theo nhiều chiều khác nhau nên ngôn ngữ trong Truyện Kiều cũng có sự khác nhau.
Nhà thơ dành những ngôn từ thương yêu, trang trọng như “đấng”, “bậc” cho người tài
hoa, phong nhã, có chí khí như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải. Khi xây dựng nhân
vật chính diện, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ giàu tính biểu đạt, tượng trưng và
mang sắc thái thẩm mỹ cao độ. Nếu đem tài sắc mà so, thì sắc đẹp của Thuý Kiều
được so sánh với “làn thu thuỷ, nét xuân sơn”, với hoa với liễu, tài năng của nàng
được giới thiệu là “cầm kỳ thi hoạ”. Cái hào hoa của Kim Trọng được miêu tả là
“Tuyết in sắc ngựa câu dòn’, “cỏ pha màu áo nhuộm non da trời” và “hài văn lần
bước dặm xanh”. Còn hình ảnh người anh hùng lý tưởng là Từ Hải, thì được ghi nhận
với cái dáng bề ngoài “râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước
cao”, với cái phong độ “gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”, và được ghi nhận
cả trong ký ức Thuý Kiều “cánh hồng bay bổng tuyệt vời…”. Những nhân vật chính
diện hầu hết được miêu tả với những từ ngữ có tính chất ước lệ.
Đối với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du sử dụng hàng loạt những từ ngữ
thuần Việt. Ông không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ “sỗ sàng” khi nói về những Tú
bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh. Miêu tả lũ sai nha bắt người, Nguyễn Du viết:
“Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”
Cách miêu tả của ông đã lột trần bản chất của Mã Giám Sinh:
Rằng: Mua ngọc đến Lam kiều
62
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường
Tưởng rằng hắn là kẻ biết người, biết của - “ngọc đến Lam kiều”, coi đây là việc
cưới xin hợp lễ, và thái độ nhã nhặn “xin dạy…cho tường”. Mã Giám Sinh dù khoác
lên mình bộ mã trí thức, hào hoa nhưng bản chất vẫn là một kẻ buôn người:
“Đắn đo cân sắc cân tài”, “Cò kè bớt một thêm hai”, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
“Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã kể lại một câu chuyện theo lối viết, bằng một
lời lể giàu chất văn học, giàu chất truyện, giàu chất thơ” [tr151, 5]. Lời kể trong
Truyện Kiều là lời kể của truyện nên nó có những đặc điểm chung của ngôn ngữ
truyện. Ngôn ngữ truyện là một ngôn ngữ đa dạng: ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn
ngữ nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại, … Lời kể trong Truyện Kiều
còn có đặc điểm của ngôn ngữ thơ, đó là ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, có tính
hàm súc cao. Nguyễn Du đã rất tài năng khi kết hợp hài hòa đặc điểm của ngôn ngữ
truyện và ngôn ngữ thơ, thay vì viết thơ Nôm đơn thuần thì ông đã viết thành truyện.
Ngôn ngữ mà Nguyễn Du miêu tả cảnh Tú Bà dạy Kiều kinh nghiệm quyến rũ
khách làng chơi, dù đã được “mã hóa” nhưng vẫn còn đó cái thô thiển, dung tục của
chốn lầu xanh:
Chơi cho liễu chán hoa chê.
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.
Khi khóe hạnh khi nét ngài.
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Nhân vật Sở Khanh dù khoác bên ngoài vẻ hào hoa nhưng lời ăn tiếng nói đã tố
cáo hắn là kẻ sống bằng nghề lừa gạt những phụ nữ nhẹ dạ, cả tin. Nguyễn Du đã dồn
hết cho hắn những từ ngữ như: “mặt mo”, “rêu rao”, “quát mắng đùng đùng”:
Phụ tình án đã rõ ràng
63
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui
Mụ quan bà, mẹ Hoạn Thư mang danh “mệnh phụ phu nhân” nhưng lời lẽ thì ghê
gớm, phũ phàng:
Con này chẳng phải thiện nhân
Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
Đọc Truyện Kiều ít khi tìm thấy những chi tiết thừa. Do tính chất văn xuôi trong
thơ lục bát, phải chịu sự qui định về luật bằng trắc, nhịp, số chữ trong dòng, … nên
Nguyễn Du đã rất tinh tế rút gọn sự kiện, hành động, nhân vật. Lời kể của ông rất gọn
gàng, dễ hiểu. Chỉ với vài dòng thơ, các nhân vật hiện lên một cách rõ ràng, đầy ấn
tượng:
Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
Ấy mới gan ấy mới tài!
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời
Đó là một nàng Hoạn Thư thông minh nhưng ghen đáo để, ghen sâu sắc, âm thầm
mà độc địa khiến Kiều dù là nạn nhân nhưng vẫn khen, vẫn nể.
Đó là một Sở Khanh với nhiệm vụ quyến rũ lừa gạt những cô gái trong trắng nên
phải trai lơ đỏm dáng đặc biệt là phải trẻ hơn vì hắn không có tiền lại mang dáng vẻ
nho sinh:
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
64
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh
Tác giả đã dùng chữ “hình dong” chứ không phải “hình dung”, “dung” còn là từ
gốc Hán vẫn có cái nghĩa trang trọng nhưng “dong” đã trở thành từ thuần Việt nôm na
nên Nguyễn Du đã rất khéo léo sử dụng từ “hình dong chải chuốt” mang ý mỉa mai
khinh ghét (Trong ca dao có câu: Trông mặt mà bắt hình dong - Con lợn có béo thì
lòng mới ngon). Cụm từ “Hình dong chải chuốt” ấy lại kết hợp với những ý nghĩ từ
điểm nhìn của Thúy Kiều: “Nghĩ rằng... Hỏi ra mới biết...” ở sau đã thể hiện rõ sự
nghi ngờ, thiếu tin tưởng ở con người Sở Khanh càng tố cáo cái vẻ đội lốt văn nhân
của hắn. Lời kể cùng với những từ ngữ được sử dụng đã lột tả được thần sắc, bản chất
của nhân vật một cách ngắn gọn, rõ ràng.
Tú Bà là một nhân vật không thể không nhắc tới trong suốt mười lăm năm đoạn
trường của nàng Kiều. Lần đầu tiên xuất hiện, Tú Bà đã hiện ra không tạo được mấy
thiện cảm trong lòng người đọc thông qua giọng điệu của tác giả:
Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi đã trở về già hết duyên.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường…
Kể từ lần xuất hiện đầu tiên ấy, mãi một tháng sau khi đến Lâm Tri, Kiều mới
được gặp Tú Bà:
Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
Thoạt trông nhờn nhợt màu da,
65
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?
Trước xe lơi lả han chào
Cái thân hình ngoại cỡ của mụ gây cho Thúy Kiều ngay từ cái nhìn đầu tiên một
ấn tượng mạnh mẽ, một cảm giác kinh tởm, ngạc nhiên đầy lạ lẫm. Từ láy “nhờn
nhợt” được đặt trước danh từ “màu da” theo lối đảo ngữ lại được đặt ở vị trí gần cuối
câu lục vừa có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm ngoại hình đáng sợ của mụ vừa nêu bật
được cảm giác ghê sợ nơi Kiều. Tiếp theo đó là một câu hỏi với giọng điệu đầy mỉa
mai “Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?”. Nguyễn Du đã “quay cận cảnh” từ màu da cho
tới “quay lướt” về thân hình để làm rõ chân dung mụ chủ lầu xanh chỉ bằng hai câu thơ
ngắn gọn. Cái nước da “nhờn nhợt” và thân hình cao lớn “đẫy đà” đã tố cáo cuộc đời
chơi bời trụy lạc vô độ của mụ. Chỉ có đoạn đời dài trác táng chuyên hoạt động về
đêm, lấy đêm làm ngày mới cho mụ một làn da có sắc màu nhờn nhợt - một màu da tái
mét nhợt nhạt trông thật tởm. Điệu bộ thì “lơi lả” thật đáng khinh thường.
Thân hình thì “nhờn nhợt”, “đẫy đà” đáng sợ như thế, trong khi nàng Kiều hì hục
lạy trước bàn thờ thì Tú Bà lầm rầm khấn vái cho việc làm ăn “buôn da bán thịt” của
mình:
Cửa hàng buôn bán cho may,
Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu
Muôn nghìn người thấy cũng yêu
Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai
Tin nhạn vẫn lá thơ bài
Ðưa người cửa trước rước người cửa sau.
Và khi đã khấn vái làm lễ xong rồi thì:
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay,
66
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Dạy rằng: Con lậy mẹ đây,
Lậy rồi sang lậy cậu mày bên kia.
Thấy Mã Giám Sinh mua được Kiều về, mụ mừng cuống lên, mừng rỡ đến mức lố
bịch, hợm hĩnh. Mừng đến mức giọng điệu lắp bắp khấn thần để kinh doanh Kiều có
lãi. Liền sau đó, mụ biết Kiều thất than với Mã Giám Sinh thì than ôi, giọng điệu thay
đổi hoàn toàn:
Con kia đã bán cho ta,
Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt sao mày lại nghe.
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
Phải làm cho biết phép tao!
Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay.
Nguyễn Du không chỉ châm biếm, mỉa mai mà còn hết sức khinh bỉ. Tú Bà sợ mất
vốn nên:
Nàng thì bằn bặt giấc tiên
Mụ thì bằn bặt nhìn hồn say
Chỉ bằng quan hệ từ “thì” dùng liên tiếp ám chỉ một hậu quả tất yêu sẽ xảy ra.
Thúy Kiều không còn thiết sống trước sự thật quá phũ phàng này, còn Tú Bà chỉ sợ
Kiều chết vì “vốn liếng đi đời nhà ma”. Nguyễn Du cảm thấy đớn đau, chua xót trước
cảnh mạng người không hề đoái hoài mà chỉ nghĩ tới đồng tiền. Đến đây, ta nhớ đến
lời nhận định của Lục Du: “Thơ văn là sự phản ánh phẩm chất, tiết tháo của người
67
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
cầm bút” quả là không sai. Chỉ qua vài câu thơ miêu tả ngoại hình, hành động cho đến
thái độ, cử chỉ ngắn gọn, Nguyễn Du đã lột tả chân thực nhất chân dung kể chủ chứa
lầu xanh, đứng đầu bọn buôn thịt đồng loại. Không phải ai cũng có màu da “nhờn
nhợt” đến rợn gáy, thân hình “đẫy đà”, kiểu ngồi “vắt nóc lên giường”, lời lẽ sỗ sàng,
thô tục “gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao”, từng cử chỉ, hành động đều bị ám ảnh mùi
tiền như Tú Bà.
Cách sử dụng ngôn ngữ hiện thực của Nguyễn Du đối với những nhân vật phản
diện đã góp phần phản ánh hiện thực xã hội phong kiến. Có thể nói, từ trước đến nay
chưa có ai sử dụng ngôn ngữ dung tục tài tình như Nguyễn Du. Điều đó không phải
chỉ đối với nhân vật đáng khinh mà còn với những nhân vật ông hết lòng yêu thương :
“Chém cha cái số hoa đào”. Từ ngữ bình dân, thông tục nhưng ý nghĩa sâu xa. Cách
sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du đã lột tả cái thế giới sinh động với đầy đủ hạng
người với muôn vàn sắc thái, không thể vật chất hóa được, không thể phô diễn được
nếu không có ngôn ngữ thích hợp. Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Du là sự kết tinh của
tất cả cái đẹp: “Cái chân chất của ca dao dân gian, cái tao nhã của khúc ngâm, cái
hàm súc của văn chương bác học cổ điển,…” Tất cả các yếu tố này hòa quyện với
nhau, tạo thành nét đặc sắc về ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ ca Nguyễn Du, làm cho
nó khác biệt với ngôn ngữ đã được sử dụng trong các truyện Nôm bình dân khác
Sáng tạo của Nguyễn Du trong ngôn ngữ tự sự thể hiện ở chỗ từ những ngữ liệu có
nguồn gốc Trung Hoa, cốt truyện Trung Hoa, điển tích điển cố Trung Hoa, ông đã thổi
hồn Việt, văn hóa Việt vào lối diễn đạt của mình. Sự xuất hiện của các từ ngữ bình
dân, ca dao, thành ngữ, khẩu ngữ thuần Việt đã nâng ngôn ngữ Việt lên một tầm cao
mới. Trong lịch sử phát triển tiếng Việt, chỉ đến Truyện Kiều thì ngôn từ, nhất là lớp từ
ngữ mang phong cách khẩu ngữ mới thực sự được xem là lớp ngôn từ nghệ thuật đặc
sắc và có sức sống tràn trề, mãnh liệt. Không ở đâu mà tiếng Việt trở nên trong sáng,
68
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
linh hoạt, tinh tế và xác thực như trong Truyện Kiều.
2.3 Chất kịch trong truyện Kiều
2.3.1 Đặc trưng của kịch
Kịch là một trong ba loại hình văn học bên cạnh tự sự và trữ tình. Kịch được coi là
một loại hình nghệ thuật tổng hợp vừa thuộc về sân khấu vừa thuộc về văn học.
Ngôn ngữ nhân vật kịch dù đối thoại hay độc thoại trước hết đó là ngôn ngữ khắc
họa tính cách. Từ những lời ăn tiếng nói của mình, nhân vật kịch phải biểu hiện ở mức
chính xác tối đa một cái gì đó điển hình. Đồng thời, ngôn ngữ kịch là một hệ thống
ngôn ngữ mang tính hành động, có nhiệm vụ mô tả chân dung bằng một loạt các thao
tác hành động, đảm bảo cho sự phát triển đầy kịch tính của cốt truyện và những phản
ứng hành động theo kiểu dây chuyền của các nhân vật. Tính hành động là đặc điểm nổi
bật của ngôn ngữ kịch, là cơ sở giúp cho đạo diễn, diễn viên xử lý kịp thời hành động
của nhân vật trên sân khấu.
Ngôn ngữ kịch cũng là một hình thái ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời sống ngắn
gọn, súc tích, dễ hiểu và ít nhiều mang tính chất khẩu ngữ. Khác với hình thức ngôn
ngữ giàu tính ước lệ, cách điệu trong sân khấu truyền thống như tuồng, chèo hoặc cải
lương, sân khấu kịch nói không sử dụng thứ ngôn ngữ xa lạ với đời sống. Các nhân vật
kịch đối đáp với nhau một cách tự nhiên giản dị theo cách đối thoại trong đời sống
hằng ngày. Là một hình thái ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ của một tác phẩm kịch
phải đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện. Mặc dầu rất gần gũi với ngôn ngữ đối
thoại hằng ngày, những tác phẩm kịch loại bỏ hoàn toàn những lời lẽ thô thiển, khô
cứng cũng như những cách nói năng tự nhiên
Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ. Trong kịch
không có nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người kể chuyện. Vở kịch
được diễn trên sân khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể nói đến 3 dạng ngôn ngữ
nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng thoại. Những nhà viết kịch lớn xưa
nay đều coi trọng việc trau chuốt lời kịch. Gorki từng nói rằng: “Khuyết điểm chung và
69
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
đáng buồn của kịch bản chúng ta trước hết là ở chỗ ngôn ngữ quá nghèo nàn, khô
khan, không có cá tính và thiếu nhựa sống. Mọi nhân vật đều ăn nói giống nhau, hành
văn như nhau, đơn điệu, dài dòng, khác với ngôn ngữ sinh động trong cuộc sống hàng
ngày” [tr.134,16]. Cái khó của ngôn ngữ kịch là làm sao cho người đọc cảm nhận đó
là lời nói thật chứ không phải văn viết, mà vẫn phải mang tính văn học chứ không
được là lời nói bình thường trong cuộc đời. Nghiên cứu ngôn ngữ kịch trong Truyện
Kiều, chúng tôi tạm phân chia ngôn ngữ kịch trong tác phẩm ra làm hai loại, đó là
ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại để tiện phân tích, đánh giá.
Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Ðây là dạng
ngôn ngữ chủ yếu trong kịch. Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo, sinh động và
có tác dung hỗ tương với nhau nhằm thể hiện kịch tính.
Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó bộc lộ những dằn vặt nội tâm và
những ý nghĩa thầm kín. Ðây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu hiện nội tâm
nhân vật nhưng không phải là biện pháp duy nhất. Ðể biểu hiện nội tâm, bên cạnh độc
thoại, người ta có thể thay thế bằng những phút yên lặng, những tiếng vọng, tiếng đế...
Xung đột kịch là giai đoạn cao của sự phát triển mâu thuẫn. Bất cứ mâu thuẫn nào
phát triển cũng dẫn tới xung đột và giải quyết. Quá trình phát triển của mâu thuẫn
thường tịnh tiến, âm ỉ và đến lúc nào đó thì nổ thành xung đột. Kịch là nghệ thuật tạo
hình năng động, mâu thuẫn trong kịch mang tính chất tập trung cao độ, tính căng thẳng
mãnh liệt. Và chỉ cần phản ánh giai đoạn dó, kịch có thể cho ta thấy toàn bộ quá trình
phát triển của mâu thuẫn, cả nhân trước lẫn quả sau vì thế người viết thường chọn lọc
mâu thuẫn gay gắt, không thể điều hòa được và tự nó sẽ thành cuộc đấu tranh để đi tới
quan hệ mới, ở mức độ cao hơn. Đó là xung đột kịch. Xung đột là đặc điểm cơ bản của
kịch. Hêghen nói: “Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch”
70
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
[tr.245, 15]
2.3.2 Chất kịch trong Truyện Kiều
2.3.2.1 Xung đột kịch
Trong Truyện Kiều, không phải lúc nào cũng có những xung đột gay cấn và căng
thẳng nhưng nếu có thì xung đột ấy thật sâu sắc và mang nhiều ý nghĩa. Ở mỗi xung
đột đều là khái quát và điển hình hóa những mâu thuẫn trong xã hội một cách có nghệ
thuật. Có thể nói xung đột giữ có tác dụng tạo ra sự vận động của các tính cách, đồng
thời người đọc có thể dựa vào đó để nhận ra chất kịch đặc biệt trong truyện thơ –
Truyện Kiều.
Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và thời đại,
nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. Ở những thời đại khác nhau có những
xung đột khác nhau. Đối với các vở kịch lớn và có giá trị thì những xung đột tư tưởng,
xã hội thường nhằm vào lĩnh vực đạo đức, phê phán những việc làm trái với luân
thường đạo lý. Chính vì thế, một tác phẩm kịch muốn đi vào lòng người phải đứng trên
lập trường của đạo đức. Nguyễn Du qua xung đột trong tác phẩm đã đứng về phía kẻ
cô thế, và bênh vực cho lẽ phải bằng cái tâm và tấm lòng nhân đạo của mình, không có
gì lớn hơn nỗi đau của con người trong cảnh bất công, ngang trái mà phải cam lòng
cấp nhận. Xung đột trong Truyện Kiều tuy thâm trầm nhưng rất dữ dội, bộc lộ được
tính cách từng nhân vật và tư tưởng, tình cảm Nguyễn Du gửi gắm vào.
Xung đột mạnh mẽ nhất trong Truyện Kiều có thể kể đến đoạn Hoạn Thư đánh
ghen. Hoạn Thư, con người “ở ăn thì nết cũng hay, nói điều ràng buộc thì tay cũng
già”. Điều khiến người đọc nhớ nhất về nhân vật này là sự đánh ghen, cái ghen sâu
sắc, âm thầm mà độc địa, tàn khốc.
Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm, tin nhà thì không.
71
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Giận người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Khi biết tin chồng đi lấy vợ lẽ, Hoạn Thư giận lắm nhưng không hề để lộ cho ai
biết, thậm chí còn trị tội bọn gia nhân khi chúng định mách bảo để tâng công. Khi
Thúc Sinh về đến nhà, Hoạn Thư sai bày rượu tiếp đón vui vẻ như không có gì xảy ra.
Thấy thế Thúc mừng lắm, yên trí là vợ chưa biết, Hoạn Thư như “đi guốc trong bụng”
chồng, đúng lúc Thúc Sinh đang nôn nao nhớ Kiều thì Hoạn Thư gợi ý là Thúc nên
quay lại Lâm Truy. Được lời như cởi tấm lòng, Thúc vội vàng lên ngựa ra đi. Chỉ chờ
có vậy Hoạn Thư cũng vội lên xe về Tích Giang thăm cha mẹ đẻ và một cuộc đánh
ghen bắt đầu.
Hoạn Thư thuê bọn côn đồ Ưng Khuyển đi đường tắt sang Lâm Truy bắt cóc Kiều.
Đầu tiên họ Hoạn cho Kiều một trận đòn phủ đầu, sau đó cho về làm con hầu nhà
Hoạn Thư với tên mới là Hoa Nô. Nói về chàng Thúc, sau khi tưởng Kiều đã chết, tỏ
ra đau đớn lắm nhưng rồi nỗi đau cũng nguôi dần. Rồi một hôm chàng lại đánh đường
về thăm vợ cũ quê xưa. Thật trớ trêu là cái bẫy của Hoạn Thư đã giăng sẵn chờ chàng.
Khi Thúc vừa về đến nhà lập tức Hoạn Thư cho gọi Kiều ra hầu hạ. Thúc Sinh và Kiều
gặp nhau mà như trong cơn ác mộng, lòng dạ cứ rối bời, không hiểu là thật hay là do
ma quỷ! Thật là một cách đánh ghen kỳ lạ, “giết người không dao” vậy. Chưa hết
Hoạn Thư còn bắt Kiều phục dịch hầu hạ hai vợ chồng mình nữa. “Bắt khoan bắt nhặt
đến lời. Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay”. Còn nữa, Hoạn Thư còn bắt Kiều đánh đàn
hầu rượu. Tiếng đàn “như khóc như than” của Kiều làm cho Thúc Sinh tan nát lòng
bao nhiêu thì Hoạn Thư càng hởi lòng hởi dạ bấy nhiêu. Sau đó, nể lời đề nghị của
chồng, Hoạn Thư cho Kiều ra Quan âm các để tụng kinh niệm phật với cái tên mới
Trạc Tuyền. Đã là tình cầm sắt mà phải giả bộ làm ngơ, dù gần nhau gang tấc, chàng
Thúc đau khổ lắm. Một hôm nhân khi Hoạn Thư về thăm mẹ đẻ Thúc lẻn ra tình tự với
Kiều. Hai bên đang kể lể nỗi lòng, thở than sùi sụt thì Hoạn Thư đã trở về và nghe hết
mọi chuyện. Sau đó Hoạn Thư vào Quan âm các đàng hoàng vui vẻ chào hỏi hai
người, khen tài hoa Thúy Kiều rồi khoác tay chồng cùng về nhà như không hề biết
72
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
chuyện gì. Cách xử sự của Hoạn Thư làm Kiều kinh ngạc đến run sợ, và ngay đêm đó
Kiều đã quyết định trốn khỏi nhà Hoạn Thư để bắt đầu một chặng đời lưu lạc mới của
mình. Điều đặc biệt là trong suốt quá trình đánh ghen Hoạn Thư không hề hỏi đến và
làm như tuyệt nhiên không biết gì về quan hệ giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều, cứ coi
như hai người không quen biết nhau vậy!
“Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen” đến nỗi Thúc Sinh và Kiều đều kinh sợ. Xung
đột trong tác phẩm thể hiện rõ nhất trong đoạn Hoạn Thư đánh ghen Kiều, đó không
chỉ là cơn tức giận thoáng qua, mâu thuẫn Hoạn – Kiều đã được đẩy lên đỉnh điểm.
Qua đó ta nhận ra được bản chất sắc sảo của Hoạn Thư, cũng nhờ đó truyện được đẩy
lên tới đỉnh điểm, người đọc cảm thấy lo lắng cho số phận của Kiều, không biết Kiều
sẽ hứng chịu cơn ghen của Hoạn Thư ra sao, tháng ngày tiếp đến của nàng sẽ như thế
nào. Mâu thuẫn, xung đột này đã đẩy Kiều đến bước ngoặt tiếp theo của cuộc đời: rơi
vào lầu xanh lần hai.
“Trao duyên” là một trong những đoạn thơ mở đầu cho công cuộc lưu lạc của
Thúy Kiều, nó còn là đoạn thơ đánh dấu sự xuất hiện của xung đột, mâu thuẫn trong
tâm trạng của nhân vật. Khi Vương Quan và Vương Ông bị bắt vì bị vu oan, Thúy
Kiều phải bán mình làm vợ cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha và em. Đêm cuối
cùng trước ngày đi theo Mã Giám Sinh, Kiều cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim
Trọng:
Trong đoạn thơ, ta dễ dàng nhận ra rằng, xung đột trong nội tâm làm nền cho sự
diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều (tình yêu mãnh liệt và sự chia biệt vĩnh viễn) vẫn
không thể giải quyết:
Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
73
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Mâu thuẫn của đoạn trích được thể hiện qua ngôn ngữ “thông báo” của nhân vật
chính: Kiều nhắc lại những biến cố, sự kiện đời náng, hệ thống cốt truyện này tạo nên
mâu thuẫn:
Khi gặp chàng Kim / Sóng gió bất kì
Quạt ước chén thề / Đứt gánh tương tư
Tai biến của gia đình đưa Thúy Kiều đến chỗ phải dứt bỏ tình yêu, giã từ Kim
Trọng mà ra đi:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Kết thúc “Trao duyên”, bi kịch càng được đẩy lên cao. Mâu thuẫn này nối tiếp
mâu thuẫn khác. Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về
với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt. Dù có quay về
quá khứ hay hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại
của mình :
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vài ái ân !
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
74
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Phận sao phận bạc như vôi !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Hàng lọat những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao bi kịch người con gái. Đó
là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu
sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ
ngữ có tính chất vô hạn định như “muôn vàn, trăm nghìn” thể hiện sâu sắc khát vọng
về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện
thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh. Nàng gọi Kim Trọng là
tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi
mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa
cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải
chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì
đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu
có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Kiều mặc dù đã giãi bày hết nỗi
khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những
đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang
nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên
đau đớn:
Ôi Kim lang hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Đề tài tình yêu dang dở, đôi lứa chia lìa là một đề tài quen thuộc không phải chỉ
đến Truyện Kiều mới xuất hiện. Đoạn trích “Trao duyên” dưới ngòi bút của Nguyễn
Du thấm đẫm chất nhân đạo tạo nên sự đồng cảm sâu sắc cho người đọc. Dù có nhan
sắc nghiên nước nghiêng thành, tài đàn tuyệt diệu và tài thơ phú nhưng rút cuộc cũng
chỉ để “đem bán vào thuyền lái buôn”. Sự chà đạp lên tài hoa, nhan sắc con người là
một tội ác của chế độ phong kiến, nó cũng tạo nên mối xung đột lớn nhất trong tác
75
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
phẩm: xung đột tài – mệnh. Có thể nói, xung đột trong tâm trạng của Kiều khi đứng
trước mọi đổ vỡ của hạnh phúc đã làm rung động biết bao trái tim người đọc. Đoạn
trích “Trao duyên” đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, thông
qua cách giải quyết xung đột trong nội tâm của mình, Kiều càng hiện lên đẹp đẽ,
sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy
nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu,
còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao!
2.3.2.2 Ngôn ngữ đối thoại
Trong một tác phẩm kịch, không thể có quá nhiều đoạn độc thoại vì như thế sẽ làm
cho vở kịch loãng đi, người đọc, người xem sẽ mất hào hứng khi theo dõi. Những đoạn
đối thoại trong Truyện Kiều, người ta nhận thấy một vốn ngôn ngữ thật phong phú, tạo
nên chất kịch rất riêng của Nguyễn Du.
Đối thoại là một hình thức tồn tại của nhân vật và của tác phẩm. Đối thoại có
nhiều dạng thức tồn tại khác nhau: đối thoại công khai bằng hình thức hỏi đáp, có lời
hỏi và lời đáp. Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Ðây
là dạng ngôn ngữ chủ yếu trong kịch. Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo, sinh
động và có tác dung hỗ tương với nhau nhằm thể hiện kịch tính.
Bêlinxki nói: “Tính kịch không phải do nói qua nói lại mà tạo nên được, nó phải
do hành động giao lưu sinh động giữa hai người mà tạo thành. Nếu cả hai bên tranh
luận đều muốn đè bẹp đối phương, đều muốn cải biến một phương diện nào đó trong
hành động của đối phương, hoặc tấn công vào nhược điểm nào đó trong tâm tư của
đối phương, nếu thông qua cuộc tranh luận đó đưa hai người tới quan hệ mới, thì lúc
đó mới là kịch” [tr.258,15]. Hay nói cách khác, những lời đối thoại trong kịch phải
mang nội dung tấn công – phản công, thăm dò – lãng tránh, chất vấn – chối cãi, thuyết
phục – phủ nhận
Trong các tác phẩm thuộc thể loại tự sự truyền thống chỉ tồn tại ba yếu tố nhân
vật, cốt truyện và lời kể. Ở Truyện Kiều, Nguyễn Du thông qua số phận các nhân vật
76
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
đã nêu lên vấn đề về quyền sống của con người. Kể để bộc lộ nổi lòng của nghệ sĩ, kể
để tâm sự giãi bày là điều rất mới, ít thấy trong truyện Nôm Việt Nam trước Truyện
Kiều.
Hỏi là một biểu hiện của nhu cầu đối thoại. “Nhân vật của Nguyễn Du có nhu cầu
đối thoại cao. Nhân vật của Truyện Kiều hay hỏi trời, hỏi người và tự hỏi
mình”[tr.127, 5]. Câu nói đầu tiên của Kiều là một câu hỏi, hỏi về ngôi mộ quạnh quẽ
trong tiết thanh minh:
Rằng sao trong tiết thanh minh
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Đây là một câu hỏi cần có câu trả lời. Vương Quan đã trả lời bằng cách kể lại cuộc
đời Đạm Tiên và kết thúc lời đáp cũng bằng một câu nói mang sắc thái nghi vấm:
Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm
Kiều băn khoăn cho tương lai số mệnh cũng bằng một câu hỏi:
Nỗi niềm tưởng thế màu đau
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
Chỉ một đoạn thơ ngắn kể về việc chị em Kiều gặp mộ Đạm Tiên đã xuất hiện rất
nhiều câu hỏi. Từ câu hỏi về số mệnh của Kiều đã kéo các nhân vật khác cũng như
người đọc cùng suy nghĩ, đi tìm câu trả lời.
Trong màn hội ngộ tay ba: Hoạn Thư – Thúc Sinh – Thúy Kiều, Kiều đã gãy khúc
đàn bạc mệnh hầu rượu, tiếng đàn khiến người trên tiệc cũng “tan nát lòng”, Thúc
Sinh “giọt chân lã chã khôn cầm”. Chính điều đó làm cho Hoạn Thư tức giận vô cùng:
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
77
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi!
Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi
“Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi” vưà là một câu hỏi, vừa là một câu có nội
dung cảm thán.
Kể chuyện bằng văn vần đặc biệt khó cho sự thể hiện ngôn ngữ đối thoại. “Trong
thực tiễn của lời nói đàm thoại, các lời phát ngôn riêng biệt nhanh chóng luân phiên
nhau thường không có tính trọn vẹn” [tr.103,27]. Cách thức thể hiện ngôn ngữ đối
thoại bởi từ “rằng” là cách thứ phổ biến nhất trong Truyện Kiều: “Vân rằng:”, “Quan
rằng:”, “Kiều rằng:”, “Thưa rằng:”, “Dạy rằng:”, “Rằng:” ,…
- Rằng: “Nàng chút phận hồng nhan,
Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương(…)
- Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ?(…)
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Một lời là một vận vào khó nghe
- Kiều rằng: những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh (…)
- Thưa rằng: Thanh khí xưa nay,
78
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
Ngoài ra, Nguyễn Du còn thể hiện ngôn ngữ đối thoại bằng một số cách
thức khác, chủ yếu là miêu tả sự xuất hiện của lời nói. Ví dụ:
- Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
“Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về ?”
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
“Ơn lòng quân tử sá gì của rơi,
Chiếc thoa nào của mấy mươi
- Khen: “Tài nhả ngọc phun châu” (…)
- Hỏi ông ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà nhà đã dời xa,
. Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
Đều là sa sút khó khăn,
May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
Ngôn ngữ đối thoại trong Truyện Kiều ngắn gọn, dễ hiểu, có sự luân phiên. Cách
thức thể hiện ngôn ngữ đối thoại nói trên đã thể hiện tài năng của Nguyễn Du trong
việc thể hiện ngôn ngữ đối đáp của các nhân vật, dù việc đưa ngôn ngữ đối thoại vào
truyện thơ là việc không hề dễ dàng. Ngôn ngữ đối thoại cũng là một trong những đặc
79
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
điểm lớn thể hiện chất kịch của tác phẩm vĩ đại này.
2.3.2.3 Ngôn ngữ độc thoại
Độc thoại là nói với chính mình nhằm giải tỏa nỗi xúc động mãnh liệt trong lòng
mà chưa thể hoặc không thể nói với ai. Trong kịch, độc thoại dùng để bộc lộ nội tâm
nhân vật. Độc thoại là một sự tự bộc lộ, chân thành và khách quan với chính lòng
mình. Trong trường hợp nội tâm phức tạp thì độc thoại chính là cuộc đối thoại giữa
con tim và lí trí của nhân vật. Nếu đối thoại là hình thức giao tiếp sử dụng hình thức
nói năng giữa người này với người khác thì độc thoại là dạng giao tiếp đặc biệt của
ngôn ngữ nhân vật, là hình thức nói với chính mình. Độc thoại giữ vai trò quan trọng
trong kịch, qua độc thoại, người đọc có thể biết được những suy nghĩ thật trong lòng
nhân vật, từ đó hiểu được câu chuyện một cách rõ ràng hơn.
Cần phân biệt độc thoại và độc thoại nội tâm. Độc thoại là lời nói một mình, trước
và sau không có lời nào của ai khác nhưng người thứ ba đó đang nghe, nghe mà không
trả lời. Còn độc thoại nội tâm là lời độc thoại nói với chính mình, dùng vào việc miêu
tả quá trình ý nghĩ trong nội tâm, viết ra để đọc chứ không nhằm nói ra thành tiếng.
Nguyễn Du cũng đã tận dụng phương pháp độc thoại và độc thoại nội tâm để góp phần
làm rõ tâm tư tình cảm của nhân vật. Khi tìm hiểu về ngôn ngữ kịch trong Truyện
Kiều, chúng ta không thể bỏ qua ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng những hình tượng nhân vật có cá
tính, những con người bản ngã. Tính cách của nhân vật được thể hiện ở hành động bên
ngoài và hành động bên trong, tức nội tâm của nhân vật. Chính đời sống nội tâm
phong phú, phức tạp đã thể hiện tính cách của nhân vật. Kiều là một nhân vật có đời
sống nội tâm phức tạp. Không ai hiểu Kiều bằng Kiều. Kiều càng độc thoại bao nhiêu,
người ta càng thấy Kiều đau đớn bấy nhiêu. Kiều đã kể cho Từ Hải nghe về cuộc đời
đau khổ của mình để thực thi ý định báo ân, báo oán:
Trong quân có lúc vui vầy,
80
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
Khi Vô Tích, khi Lâm Tri,
Nơi thì lừa đảo, nời thì xót thương.
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.
Từ Công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Ở đây không có sự giới thiệu người kể, ai kể về ai như kiểu “Kiều rằng:”, nhưng
người nghe, người đọc vẫn có thể hiểu. Đó là lí do vì sao Từ Hải “bất binh nổi trận
đùng đùng sấm vang”
Khi gặp lại người thân sau 15 năm lưu lạc, Kiều đã kể rằng:
Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi:
Từ con lưu lạc quê người,
Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm!
Tính rằng sông nước cát lầm,
Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!
Kiều tự kể quãng đời của mình trong suốt 15 năm lưu lạc có đầu có đuôi nhưng lời
kể chỉ khái quát trong một vài hình ảnh tượng trưng,
Ngoài hình thức độc thoại, Nguyễn Du còn sử dụng phương pháp độc thoại nội
tâm. Trong Truyện Kiều, không chỉ riêng Thúy Kiều có những đoạn độc thoại nội tâm
81
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
với chính mình mà còn có Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Từ Hải,…
Thúy Kiều là nhân vật có nội tâm phức tạp, chính vì thế đã có không ít lần độc
thoại với chính mình, đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ nét bút pháp độc
thoại nội tâm của Nguyễn Du:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng trước, đó là một nét bút đặc sắc, độc
đáo và phù hợp với tâm lí, thể hiện tấm lòng chung thủy của Kiều. Các từ ngữ
“tưởng”, “trông”, “chờ” trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm bật lên nỗi
nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng. Kiều càng nhớ về lời thề đôi lứa, lời hẹn ước
trăm năm ở vườn Thúy lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề như còn đây
mà nay mỗi người như mỗi ngả khiến nàng ân hận, xót xa như kẻ phụ tình. Nàng
tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình, “rày trông mai chờ” uổng công vô ích
khiến nàng càng thêm xót xa, càng thấp thỏm lo âu. Dù cho mỗi người một phương
nhưng tình cản, tấm lòng son của nàng dành cho Kim Trọng là mãi mãi, không thể
phai mờ. Càng nghĩ Kiều càng lo lắng, khiến nàng bật lên câu hỏi tu từ không biết trên
bước đường trôi dạt nơi “bên trời góc bể” , bao giờ nàng mới có thể gột rửa sạch
những hoen ố của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng
dành cho nàng. Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng không nguôi nhớ thương, lo lắng cho cha
mẹ của mình:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
82
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Với ngôn ngữ độc thoại, kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng ngổn ngang của Kiều
hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa” chỉ nỗi nhớ mong
cha mẹ dài theo năm tháng của nàng. Kiều xót thương cha mẹ mình ngày đêm lo lắng,
“tựa cửa hôm mai” mong ngóng tin nàng, sợ cha mẹ già yếu ở nhà, không ai chăm
sóc, phụng dưỡng. Nàng lo sợ ở nơi quê hương, mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại
ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng
dưỡng cha mẹ của người con. Từ đó tấm lòng vị tha và hiếu thảo của Kiều đã hiện lên
thật rõ nét. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích, lưu lạc nơi chân trời góc
bể, Kiều là người đáng thương nhất. Thế nhưng với tâm hồn cao đẹp của mình, nàng
luôn hi sinh bản thân, quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo lắng, nghĩ về Kim Trọng,
nghĩ về cha mẹ của mình. Nỗi nhớ của Kiều rất thực và có chiều sâu, từ đó cho thấy
Kiều là một đứa con hiếu thảo, một người tình thủy chung và là một con người giàu
lòng vị tha. Chính nhờ biện pháp độc thoại nội tâm, ta thấy được tấm lòng Kiều, môt
người tình chung thủy, một đứa con hiếu thảo và lòng một con người giàu lòng vị tha.
Không chỉ Kiều độc thoại với chính mình, Mã Giám Sinh khi mua được Kiều dưới
danh nghĩa về làm thiếp trong thâm tâm đã tính tới ý đồ xấu xa:
Mừng thầm: Cờ đã đến tay !
Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng.
Đã nên quốc sắc thiên hương,
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa .
Về đây nước trước bẻ hoa,
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau
Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời,
83
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Miếng ngon kề dến tận nơi,
Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.
đào tiên đã bén tay phàm,
Thì vin cành quít cho cam sự đời !
Đoạn thơ này là một đoạn độc thoại nội tâm. Mã Giám Sinh “mừng thầm” bộc lộ
niềm sung sướng khi đã vớ được món hời. Y còn tính toán để che giấu sự bỉ ổi của
mình, đánh lừa người khác:
Nước vỏ lựu máu mào gà,
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.
Mập mờ đánh lận con đen,
Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi ?
Bản chất ghê tởm của hắn còn hiện lên qua những dòng suy nghĩ khi lỡ có bị lộ, bị
Tú Bà phát hiện:
Mụ già hoặc có điều gì,
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi .
Cuối cùng, dòng suy nghĩ mua Kiều về làm vợ của hắn đã có quyết định dứt khoát:
Vả đây đường xá xa xôi,
Mà ta bất động nữa người sinh nghi .
Đây là cái lí đê hèn, bỉ ổi nhất vì hắn biết đây thật ra cũng chỉ là cái cớ. Tú Bà và
Mã Giám Sinh đã lấy cớ mua Kiều về làm thiếp để bắt họ làm gái lầu xanh. Biện pháp
độc thoại nội tâm, để nhân vật tự nói với chính mình đã giúp Nguyễn Du phơi bày
84
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
được sự thật xấu xa này.
Ngoài Thúy Kiều, Hoạn Thư cũng là một nhân vật có cá tính. Hoạn Thư với
những dòng suy ngẫm, tính toán kế hoạch báo thù đã hiện ra rõ nét là một nhân vật sắc
sảo:
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
Hoạn Thư đang kể chuyện mình, không chỉ kể, Hoạn Thư còn bộc lộ suy nghĩ tâm
trạng hiện tại của mình và sắp đặt kế hoạch cho tương lai:
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.
Hoạn Thư bí mật tới mức:
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
Giọng điệu đay nghiến của Hoạn Thư thể hiện quyết tâm cao độ của Hoạn trong
kế hoạch báo thù. Tuy nhiên, Hoạn Thư khi nói chuyện với Thúc Sinh đã cố tình khỏa
lấp rằng mình đã biết về những điều thị phi về quan hệ vợ chồng họ, về việc chàng
Thúc sắp thú tội với những lời “mật ngọt chết người”:
Rằng trong ngọc đá vàng thau,
85
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
Khen cho những miệng dông dài,
bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
Thiếp đà vụng chẳng hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!
Thấy vợ như vậy, chàng Thúc tưởng bở càng thêm yên tâm. Thế nhưng thật ra
Hoạn Thư nghĩ một đằng, nghĩ một nẻo. Biện pháp để cho nhân vật tự kể, tự bộc lộ,
một mình mình biết, một mình mình hay này đã giúp người đọc thấy được sự sâu sắc
trong suy nghĩ của Hoạn Thư. Hoạn Thư đã thành công trong kế hoạch báo thù, Kiều
cũng đã đánh giá Hoạn Thư một sự đánh giá rất ngầm, rất thực:
Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
Ấy mới gan ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
Hoạn Thư là người viết kịch bản, đạo diễn, cũng là diễn viên xuất sắc của vở kịch
đánh ghen. Nếu không có biện pháp độc thoại, người đọc không thể hiểu kĩ và sâu về
nhân vật Hoạn Thư đến thế.
Biện pháp độc thoại nội tâm còn được Nguyễn Du sử dụng khi nói về tâm trạng
băn khoăn hàng hay không hàng của Từ Hải. Từ nghĩ đến tự do mà mình đã có:
Một tay gây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành
Từ Hải còn nghĩ đến việc mất tự do, mất giá trị lúc đầu hàng:
Bó thân về với triều đình,
86
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Thông qua ngôn ngữ độc thoại, người đọc đã thấy được tài năng của Nguyễn Du
trong việc thể hiện con người ở chiều sâu tâm hồn. Chính nhờ điều đó, người đọc có
thể hiểu thêm tính phức tạp của con người và cuộc đời. Qua Truyện Kiều người đọc
thấy được bức chân dung tự hoạ của Nguyễn Du. Đó là một con người đau khổ, nhiều
lúc bế tắc tột cùng trước những bi kịch của kiếp người, đặc biệt là những người tài hoa
bạc mệnh và hình như là chính bản thân Nguyễn Du. Chính mục đích này đã quyết
định cách kể rất mới, cách kể “nhằm bộc lộ thế giới nội tâm của nghệ sĩ, để tâm sự
giải bày, để mở cho sự đánh giá nhiều chiều nơi người đọc”. Biện pháp độc thoại
Nguyễn Du không chỉ áp dụng cho riêng nhân vật chính là Vương Thúy Kiều mà còn
áp dụng cho các nhân vật khác. Các nhân vật phụ tuy đóng vai trò làm nổi bật nhân vật
chính nhưng vẫn thể hiện được cá tính của mình. Một số nhân vật phụ dù xuất hiện rất
ít trong tác phẩm nhưng vẫn là nhân vật có cá tính sắc sảo. Đó là nét mới của các nhân
87
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
vật phụ trong Truyện Kiều
Chương 3: Ý NGHĨA SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG
TRUYỆN KIỀU
Truyện Kiều chỉ có 3254 câu thơ nhưng là quyển bách khoa toàn thư của hàng vạn
con người Việt Nam và thế giới. Tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du, cuộc đời đau khổ
của nàng Kiều đã làm thổn thức bao tấm lòng. Cho đến hôm nay, Nguyễn Du và
Truyện Kiều vẫn là nguồn cảm hứng, là đề tài hấp dẫn cho thế hệ trẻ. Chính nhờ sự
tương tác về thể loại, Truyện Kiều được sáng tạo thành nhiều hình thức nghệ thuật
khác nhau như kịch, chèo, cải lương, bói Kiều, vịnh Kiều, … Trong giới hạn của luận
văn, chúng tôi xin được đề cập đến một số hình thức nghệ thuật được sáng tạo nhờ sự
tương tác thể loại trong Truyện Kiều.
Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học là viết về số phận con người với tất
cả niềm vui và nỗi đau trong đời sống cá nhân và xã hội. Nguyễn Du cũng rất thấm
thía nỗi đau bất hạnh của con người. Truyện Kiều chủ yếu là câu chuyện kể về những
khổ đau bất hạnh của cuộc đời Kiều. Truyện Kiều là “một sáng tạo đột xuất trên cơ sở
tổng hợp truyền thống tự sự và trữ tình của dân tộc như các khúc ngâm, thơ trữ tình và
truyền thống thi ca trữ tình Trung Quốc như thơ luật Đường, thơ tự sự như Trường
hận ca…” [tr.198,199, 7]. Sự tương tác thể loại của tác phẩm mục đích chính là truyền
tải giá trị hiện thực và nhân đạo cho tác phẩm. Các sự kiện liên tiếp diễn ra, sự kiện
này nối tiếp sự việc khác. Qua các sự kiện, nhân vật hiện lên với đầy đủ tính cách.
Chất tự sự là cái nền cho tác phẩm được ra đời, từng nhân vật được hiện lên với đầy đủ
dáng vóc, hành động. Ở đó có cô Kiều hiếu thảo, tài hoa nhưng bạc mệnh, nội tâm
luôn đấu tranh giành xé, có bậc nam nhi Từ Hải sống có chí khí, là một anh hùng với
khí chất hiên ngang, có cả Tú Bà xảo quyệt, tàn ác, Mã Giám Sinh ham tiền, Sở Khanh
đểu giả, và Hoạn Thư ghen tuông. Câu chuyện diễn ra không chỉ qua lời kể khô khan
mà còn qua tình cảm nhân vật và tác giả, qua những câu cảm thán, lời thơ trữ tình.
Nhờ chất trữ tình, tác phẩm dễ đi vào lòng người đọc. Không chỉ nhờ thể thơ lục bát
88
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
dân gian dễ thuộc dễ nhớ, mà vì “thơ là tiếng lòng”, người đọc dễ dàng thấu hiểu tấm
lòng tác giả và cảm thương cho số phận nhân vật. Thông qua những câu cảm thán, ta
thấy được tiếng kêu xé lòng của tác giả, cái đau, cái căm phẫn của Nguyễn Du đối với
một xã hội xem trọng đồng tiền hơn thảy, con người trở nên quá rẻ rúng, nhỏ bé trước
thế lực của đồng tiền. Để đưa cái xấu, cái ác lên tới đỉnh điểm, để cho cái xấu và cái ác
đấu tranh với nhau, chất kịch đã phát huy trọn vẹn khả năng của nó. Nhờ có chất kịch,
thông qua những mâu thuẫn, xung đột kịch và cách mà nhân vật giải quyết những xung
đột đó, tính cách nhân vật được bộc lộ. Và đứng sau mỗi nhân vật là tấm lòng nhân
đạo cao cả của Nguyễn Du, ông để cho nhân vật đối thoại với nhau, độc thoại với
chính mình, để cho nhân vật tự giải quyết vấn đề. Ông không tô vẽ một cuộc sống màu
hồng như truyện cổ tích, không để Bà Tiên, Ông Bụt hiện lên giúp đỡ nhân vật. Ở tác
phẩm của Nguyễn Du, không phải lúc nào người tốt cũng hạnh phúc, kẻ xấu bị trừng
trị, tàn sát. Chính vì thế, Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm giàu tính nhân đạo
mà còn mang đậm tính hiện thực, một bức tranh không thể nào thực hơn về xã hội
phong kiến thối nát
Với quyển “Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm” (1979), Đặng Thanh Lê là tác
giả đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu Truyện Kiều dưới góc nhìn thể loại khá toàn diện.
Tác giả đã đối chiếu Truyện Kiều với những đặc điểm cơ bản của truyện Nôm, tác giả
đã làm sáng tỏ nét độc đáo, cách tân của Truyện Kiều, bên cạnh những nét tương đối
và yếu tố kế thừa của tác phẩm. Hết sức đồng cảm với nhân vật chính, Đặng Thanh Lê
xem Kiều là biểu hiện của lý tưởng đạo đức thẩm mỹ, đồng thời là hiện thân của một
vận mệnh có tính chất bi kịch. Ánh sáng và bóng tối giằng xé qua hình tượng Thúy
Kiều. Qua nhân vật, có thể thấy bóng tối của một xã hội phong kiến và cả cái ngọt
ngào nhưng cay đắng của tình yêu, ánh sáng của tài hoa,… Khi nghiên cứu chủ đề, nội
dung tư tưởng Truyện Kiều, ta thấy rằng truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của văn học
Việt Nam đã được biểu hiện một cách đẹp đẽ, sâu xa qua tác phẩm. Nguyễn Du không
chỉ sử dụng phương thức phản ánh cuộc sống tự sự mà còn trữ tình, kịch để xây dưng
89
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
những nhân vật vừa sinh động, vừa có chiều sâu nội tâm.
Phan Ngọc trong “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” [25]đã
nhận định phương pháp tự sự của Truyện Kiều là chưa có trong văn học Việt Nam.
Nguyễn Du đã chống lại lối tự sự khách quan của tiểu thuyết cũ. Tác giả đã đặt các sự
kiện trong những hoàn cảnh đối lập và dùng ngôn ngữ để nêu cao sự đối lập ấy. Bên
cạnh đó, Nguyễn Du đã tạo ra những con người cô độc tự tách mình làm hai trong
dòng thời gian nội tâm. Phương thức hoàn toàn mới mẻ, chỉ cho đến khi Nguyễn Du
sáng tác Truyện Kiều mới xuất hiện rõ nét trong văn học Việt Nam. So với Kim Vân
Kiều Truyện, Nguyễn Du đã chuyển chủ đề từ tình và khổ sang tài và mệnh, nâng nó
lên một tầm cao mới bằng cách “xây dựng Thúy Kiều thành con người tập trung tất cả
những đau khổ của người đàn bà thời trước” [tr.117,25]. Nguyễn Du đã nhìn con
người rất gần gũi, “nhìn nhân vật theo cái nhìn nhiều chiều, nhìn theo nhu cầu sống
còn của bất cứ một ai cá thể muốn tồn tại trên cõi đời này” [tr.349, 26]. Chủ đề cơ bản
của tác phẩm là “thân mệnh tương đối”, nó phản ánh tình trạng khổ nạn sâu nặng, phổ
biến của kiếp người mà Nguyễn Du trông thấy và thể nghiệm. Cảm hứng nhân đạo và
nhân bản đã đưa Truyện Kiều đi sâu vào lòng người đọc.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ trong Truyện Kiều là một đề tài đã tốn không ít giấy mực.
Ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ tự sự, ngôn ngữ trữ tình, ngôn ngữ
kịch, ngôn ngữ thiên nhiên, … Chỉ với một tác phẩm nhưng đã có rất nhiều loại ngôn
ngữ. Với mỗi một loại ngôn ngữ, Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn đặc trưng của nó và
khiến nó phát huy tác dụng của mình trong tác phẩm. Thông qua ngôn ngữ, tác giả
không chỉ đơn thuần kể câu chuyện về cuộc đời Thúy Kiều, mà qua ngôn ngữ từng
nhân vật hiện lên với đầy đủ diện mạo, tính cách, hành động. Và sau mỗi sự việc, sự
kiện diễn ra, ta thấy tồn tại tiếng lòng của tác giả luôn bên cạnh, dõi theo từng nhân
vật. Có những lúc ta nhận ra rằng Nguyễn Du đang trầm ngâm, suy tư, đau với cái đau
của kiếp người nhờ ngôn ngữ trữ tình. Có những lúc cái đau đời cất lên đầy đau đớn,
dằn xé với ngôn ngữ kịch. Sự tương tác về ngôn ngữ nói riêng, tương tác thể loại nói
chung góp phần biến Truyện Kiều trở thành tác phẩm đặc sắc nhất giữa thời đại và
90
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
trong lòng người đọc.
Sức lan tỏa của Truyện Kiều trong nhân dân ta được thể hiện bằng nhiều hình thức,
vô số lối diễn xướng dân gian, không những sân khấu trò Kiều, chèo Kiều mà còn đi
vào các sinh hoạt văn hóa cộng đồng như tập Kiều, vịnh Kiều, ngâm Kiều, ru Kiều, đố
Kiều, hát giao duyên, thậm chí người ta còn dùng Kiều để bói toán gia sự, tình duyên.
Ngày 10/11/201, Bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch đã phê duyệt nội dung “Đề án
tuyên truyền, quảng bá tác phẩm Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du. Đề án gồm
3 nội dung chính. Đặt hàng đối với Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Chèo Hà Nội
chuyển soạn, đặt lời mười bài hát dựa trên tác phẩm Truyện Kiều thành các làn điệu
Chèo. Đặt hàng đối với Nhà hát Cải lương Việt Nam, Nhà hát Cải lương Trần Hữu
Trang, mỗi đơn vị chuyển soạn mười bài hát dựa trên những làn điệu bài bản cố định,
phù hợp với tâm trạng, tính cách từng nhân vật trong “Truyện Kiều”
Chèo
Trong văn hóa xứ Nghệ theo các nhà sưu tầm, nghiên cứu tuồng , chèo cổ thì trò
Kiều xuất hiện đầu tiên ở vùng nam Thanh Hóa, bắc Nghệ An. Theo các nhà nghiên
cứu kịch bản diễn ca ở Kỳ Anh gọi là chèo Kiều. Người Diễn Châu nói kịch bản là
tuồng pha chèo nên gọi là trò Kiều. Cùng chuyển thể từ nguyên tác truyện Kiều của cụ
Nguyễn Du nhưng làn điệu giữa chèo Kiều và trò Kiều khác nhau. Vũ điệu của chèo
mềm mại, uyển chuyển, còn trò lại có vũ điệu giống với tuồng.
Truyện Kiều được viết theo thể thơ lục bát, câu chữ dễ nhớ, dễ thuộc. Trước đây
nhiều người dân chữ nhất bẻ đôi cũng không biết chữ gì, vậy mà lạ thay có nhiều
người thuộc lòng Truyện Kiều. Người ta thuộc Kiều bằng cách thông qua đi xem nhà
trò diễn tích Kim Vân Kiều diễn ca, nghe ru con bằng Kiều, lẫy Kiều, ví Kiều, nhại
Kiều …“mưa dầm ngấm lâu” đến mức thuộc lòng. Tôi nghe ngày xưa ở chợ Đình có
bà cụ bán cá mê Kiều đến mức bán cá cho khách, hễ đếm mỗi con thì lẩy một câu
Kiều:
“Ngày xuân con én đua thoi
91
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh dợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Từ tờ mờ sáng cho đến khi vãn buổi chợ có ngày bà cụ lẩy hàng trăm câu Kiều để
bán cá nướng. Đấy là một hình thức lan tỏa truyện Kiều trong sinh hoạt dân gian.
Trong đời sống thường nhật, người chồng xuất thân từ học trò mê Kiều, thường khi
ngâm vịnh hoặc ví von đôi ba câu Kiều để thư giản đã giúp cô vợ thuộc lòng nhiều
đoạn truyện Kiều. Đến khi ru con ngủ, người mẹ cất tiếng “ à…ơ” ru Kiều:
“À ơ…Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa ánh trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng khi tỉnh khi mê
Nửa tình nửa cảnh như chia tấc lòng”
Có lẽ chỉ có Truyện Kiều là trường hợp duy nhất mà độc giả đã dùng tác phẩm để
bói cho số phận của mình. Và bản thân tác phẩm đã được quần chúng sử dụng để trở
thành một sinh hoạt văn hóa rất đa dạng. Ta có thể kể đến: bói Kiều, tập Kiều, lẩy
Kiều, đố Kiều, nhại Kiều, vịnh Kiều…hoặc dùng các thể loại phú, văn tế, văn sách,
biểu, từ khúc, ngâm khúc… để viết về Kiều và các nhân vật trong Truyện Kiều. Ngoài
ra, Truyện Kiều còn được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh, chèo, cải lương… và
cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho các họa sĩ vẽ nhân vật, cảnh vật trong tác phẩm
này…Không thể không bàn tới tục bói Kiều, theo những người xem bói cho biết rất
linh nghiệm. Câu khấn nôm trước khi bói đến nay nhiều người thuộc. Muốn bói thì
người bói cầm quyển Kiều để trong lòng hai bàn tay chấp lại, mặt ngước lên trời hoặc
hướng về nơi có hương đèn trầu nước rồi khấn: “Lạy quan Từ Hải, lạy vãi Giác
92
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, tôi là ( xưng tên tuổi, nơi cư trú) xin xem quẻ (về gia sự,
hay khoa cử hoặc tình duyên, hay là mất gì, đi đâu…vv) sau đó giở Kiều nam trái nữ
phải lấy ngón tay chỉ vào 1 dòng nào đó rồi đưa cho người giải đoán. Người đoán
không những phải thuộc truyện Kiều mà phải biết nhiều điển tích thì đoán mới hấp dẫn
có sức thuyết phục người xem bói.
Lẩy Kiều là dùng câu 6 ghép vào câu 8 – lấy bất kỳ câu nào trong 3254 câu trong
Truyện Kiều miễn là cùng vần để tạo ra một văn bản hàm nghĩa khác; dài ngắn như thế
nào là tùy vào nội dung mà người lẩy Kiều muốn diễn đạt. Còn “tập Kiều” người ta
cũng ghép như trên, nhưng bên cạnh những chữ nguyên vẹn từ Truyện Kiều thì còn có
những câu, những chữ do người đặt làm ra. Với lối chơi tao nhã như thế này, cả hàng
ngàn bài thơ mang nhiều nội dung, chủ đề khác nhau đã ra đời:
Thênh thang đường cái thanh vân
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Nhại Kiều là phỏng theo một số câu quen thuộc trong Truyện Kiều để viết ra
những câu tương tự, thường là để châm biếm, giễu cợt. Chẳng hạn, với hai câu: “Có
tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần” thì có người “nhại Kiều” là:
Có tiền mà cậy chi tiền
Có tiền như Mỹ cũng phiền lắm thay.
Kịch
Bên cạnh việc khẳng định rằng ngôn ngữ Truyện Kiều đã đạt tới trình độ điêu
luyện và tinh vi, sâu sắc, có một số ý kiến cho rằng ở Truyện Kiều, Nguyễn Du còn bị
hạn chế bởi lối miêu tả bằng một thứ bút pháp ước lệ, tượng trưng trong văn học cổ
điển Việt Nam, nặng về khái quát, dùng những mỹ từ pháp tượng trưng và cách điệu
trau chuốt, không đi vào cụ thể (1)… Tuy nhiên, lối miêu tả hiện thực bằng thứ ngôn
ngữ ước lệ, tượng trưng lại rất phù hợp với nghệ thuật sân khấu kịch hát phương Đông
93
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
nói chung và kịch hát Việt Nam nói riêng. Sân khấu tuồng, chèo của ta vốn thiên về tả
ý, chứ không phải là tả thực. Nghệ thuật biểu diễn của diễn viên sân khấu kịch hát
cũng là nghệ thuật mang tính ước lệ, cách điệu và tượng trưng cao.
Truyện Kiều là truyện thơ, được viết bằng thơ. Nhân dân ta đã vịnh Kiều, lẩy Kiều,
ngâm Kiều và cả diễn Kiều. Trong các kịch bản chèo, cải lương về Kiều, các tác giả có
nhiều đoạn đã trích nguyên văn những đoạn thơ dài trong Truyện Kiều, hoặc cũng là
dựa trên các vần thơ của Nguyễn Du mà sáng tác lời cho các nhân vật. Làm được điều
đó là vì ngôn ngữ trong sân khấu kịch hát cũng là ngôn ngữ văn vần, được viết bằng
thơ. Chính nghệ thuật ngôn từ tinh tế và chất thơ của tác phẩm đã tạo nên chất trữ tình
cho tác phẩm khi bước lên sân khấu.
Đào Duy Anh đã nhận xét: “Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam,
nếu Nguyễn Trãi với Quốc Âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học
dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học
hiện đại của nước ta… Nguyễn Du đã phát triển, hoàn chỉnh và thống nhất hai thành
phần quan trọng của ngôn ngữ văn học Việt Nam, yếu tố văn học dân gian và yếu tố
văn học chữ Hán, để tạo nên một ngôn ngữ văn học mới, dồi dào, uyển chuyển”[tr.7,
20]. Có thể thấy rằng, ngôn ngữ vừa bác học vừa giàu chất dân gian, của Truyện Kiều
rất gần gũi với thứ ngôn ngữ bình dân của sân khấu kịch hát.
Nói đến loại hình sân khấu được tiếp nhận từ Truyện Kiều, không thể không nhắc
tới ca vũ nhạc kịch của Đan Phú. Nhạc sĩ Lê Thương đã từng nhận định: “Đây là một
tác phẩm viết rất công phu dầy nhiệt huyết của nhạc sĩ Đan Phú – ông đã phải bỏ ra
gần năm năm trời mới soạn xong vở Thi ca vũ nhạc kịch Kim Vân Kiều của đại thi hào
Nguyễn Du” [tr7, 18]. Đan Phú đã phổ 3254 câu thơ Kiều chuyển thành ca- vũ – nhạc
– kịch. Do có sự tương tác thể loại trong tác phẩm nên nhạc sĩ đã có thể tổng hòa các
loại hình nhạc, múa, kịch với nhau, đem lại cho người xem những chấn động mạnh mẽ
về thị giác, thính giác và cả xúc giác. Cô Kiều, chàng Kim, Từ Hải, … đều được tái
94
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
hiện thành những nhân vật sống
Tác giả Lê Duy Hạnh đã dàn dựng vở “Kiều – Từ Hải” do Lê Tử (Từ Hải) và
Thiên Trang (Thúy Kiều) đóng vai chính. Vở diễn đã rất thành công và được trình diễn
nhiều lần ở sân khấu kịch 5B Võ Văn Tần, Thành phố Hồ Chí Minh
Nhạc sĩ Trần Quảng Nam trong bài phỏng vấn “Trần Quảng Nam: nhạc kịch
Truyện Kiều” đăng trên trang http://www.rfa.org, ngày 05 tháng 09 năm 2014 đã phát
biểu rằng: “Từ nhỏ đến lớn, tôi vẫn thích Truyện Kiều, không phải bởi vì tôi được học
ở trường mà bởi vì mẹ của tôi một người không được học nhiều nhưng lại thuộc hết
Truyện Kiều, rồi về sau, tôi đọc nguyên bản thì mình lại càng thích hơn nữa”. Chính
nhờ tình yêu đối với Kiều, với tác phẩm ngàn đời của dân tộc đã thôi thúc ông ành hơn
20 năm để nuôi dưỡng, ấp ủ, tìm tòi và tạo dựng để chuyển thể Truyện Kiều của đại thi
hào Nguyễn Du sang nhạc kịch. Tính cho đến thời điểm này, mặc dù nhạc kịch Truyện
Kiều mới công diễn được ba buổi vì còn nhiều khó khăn về mặt kinh phí nhưng chắc
chắn trong tương lai, người yêu âm nhạc Việt Nam sẽ còn có cơ hội được thưởng thức
nhiều hơn sự kết hợp độc đáo giữa chất liệu nhạc kịch phương Tây hiện đại với chất cổ
đại thi ca trong tác phẩm bất hủ Truyện Kiều. Ba vở diễn đã được trình diễn ở San
Jose, miền Nam bang California và Washington DC, Mỹ.
Đặc biệt hơn nữa, Truyện Kiều còn được đưa lên sân khấu dưới hình thức opera.
Lâu nay, người ta vẫn thường quen thưởng thức Truyện Kiều qua các hình thức biểu
diễn nghệ thuật truyền thống như ngâm thơ, chèo, cải lương, tuồng... Và lần này,
người xem được thưởng thức tác phẩm vĩ đại này qua một hình thức thể hiện mới, đó
là opera nhưng theo cách biểu diễn của người Việt Nam. Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo
đã hợp tác với Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam dàn dựng nên vở Opera “Định mệnh
bất chợt” dài 11 chương với một phong cách trình diễn hoàn toàn mới lạ và độc đáo.
Ông là người rất nổi tiếng trong việc viết giao hưởng cho dàn nhạc dân tộc Việt Nam,
cũng như kết hợp biểu diễn giữa âm nhạc truyền thống với âm nhạc hiện đại phương
Tây. Và lần này, ông đã dàn dựng nên vở opera “Định mệnh bất chợt”. Theo nhạc sĩ
Nguyễn Thiện Đạo, vở opera có hai vai dành cho Thúy Kiều với hai phong cách biểu
95
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
diễn khác nhau, đó là vai Thúy Kiều ngâm thơ và vai Thúy Kiều hát opera. Ngoài ra,
các nhân vật Nguyễn Du, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, mỗi người một vai. Vở nhạc kịch
gồm 11 chương kể những câu chuyện đáng nhớ về cuộc đời nàng Kiều tài hoa bạc
mệnh. Mỗi chương đều được mở đầu bằng một khúc ngâm thơ. Xuyên suốt vở opera
Kiều, người xem được thưởng thức những phong cách trình diễn khá mới lạ và độc
đáo. Ở đó có sự thể hiện của nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau như hát opera, sự
trình diễn phối hợp giữa dàn nhạc giao hưởng phối hợp và đàn tì bà, ngâm thơ, kịch,
nhạc rock... Chính nhờ sự tương tác thể loại trong tác phẩm, những người nghệ sĩ đã
có thể đem lại những cảm xúc khá mới mẻ và độc đáo về cách cảm thụ Truyện Kiều
đối với người xem.
Ngoài ra, Truyện Kiều còn là nguồn cảm hứng cho những người trẻ, một số sinh
viên trường Cao đẳng sân khấu điện ảnh đã dàn dựng trích đoạn “Kiều đánh đàn hầu
rượu vợ chồng Hoạn Thư” để tham gia kì thi kỹ thuật biểu diễn do trường tổ chức.
Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh cũng tổ chức định kì
những đêm thơ nhạc kịch, sân khấu hóa Truyện Kiều.
Năm 2016, theo thông tin từ Nhà hát kịch Việt Nam trong năm nay, Nhà hát sẽ
đầu tư dàn dựng một tác phẩm lớn, kịch bản “Kiều” chuyển thể từ truyện Kiều của đại
thi hào Nguyễn Du. Vở diễn sẽ được đạo diễn, NSND Anh Tú dàn dựng theo thể loại
nhạc kịch.
Từ xưa đến nay, nền văn học Việt Nam dường như chưa có tác phẩm nào có đời
sống mạnh mẽ và là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận, có sức ảnh hưởng sâu rộng như
Truyện Kiều của Nguyễn Du. Chỉ với 3254 câu Kiều đã có rất nhiều cách thể hiện
cũng như tiếp nhận khác nhau với những bản nhạc, chèo, cải lương, kịch, ca múa kịch.
Chính sự phong phú về âm điệu, lời ca, nghệ thuật biểu diễn,… những người làm nghệ
thuật đã giúp chúng ta hiểu và cảm sâu hơn về tác phẩm. Để họ làm được điều đó, phải
96
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
kể đến một đặc trưng của truyện thơ Truyện Kiều, đó chính là sự tương tác thể loại.
C. KẾT LUẬN
Nguyễn Du là vị đại thi hào dân tộc. Con người Nguyễn Du cũng như những sáng
tác của ông, đặc biệt là Truyện Kiều dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, song người
viết vẫn muốn đóng góp một cách tìm hiểu tác phẩm ở phương diện và góc độ khác.
Sự tương tác thể loại trong văn học là vấn đề còn khá mới mẻ trong lí luận văn học
và nghiên cứu tác phẩm văn học nói chung. Các đề tài nghiên cứu về vấn đề này chủ
yếu nghiên cứu về sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và truyện ngắn, chủ yếu
nghiên cứu tương tác thể loại trong văn xuôi. Có thể nói, sự tương tác thể loại trong
truyện thơ trung đại như Truyện Kiều là vấn đề hoàn toàn mới. Tìm hiểu Truyện Kiều
dưới góc nhìn tương tác thể loại giúp người đọc có cái nhìn mới mẻ về sự sáng tạo
cũng như tấm lòng của Nguyễn Du đối với tác phẩm.
Qua đề tài “Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại”, người
viết đã cố gắng làm rõ chất tự sự, trữ tình và chất kịch trong tác phẩm. Về chất trữ
tình, trữ tình là yếu tố quan trọng quyết định tạo nên chất thơ. Tác phẩm thơ luôn thiên
về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời. Người
viết tập trung khảo sát chất thơ qua các phương diện: thể thơ, giọng điệu trữ tình và trữ
tình thiên nhiên. Đặc điểm quan trọng để phân loại Truyện Kiều là truyện thơ chính là
thể thơ lục bát. Truyện Kiều không được viết bằng văn xuôi. Thể lục bát là thể thơ
quen thuộc với người Việt Nam. Với việc lựa chọn thể thơ lục bát, thể thơ của dân tộc
mang đậm chất trữ tình, Nguyễn Du đã đưa tác phẩm nói riêng và nền văn học Việt
Nam nói chung đạt đến một tầm cao mới. Thể thơ đã góp phần tạo nên giọng thơ tâm
tình, thủ thỉ, ngọt ngào nhưng cũng đậm tính triết lý sâu sắc. Tác phẩm thuộc thể loại
trữ tình mang nặng tâm tư, tình cảm của tác giả. Chính vì thế mà giọng điệu trong
Truyện Kiều cũng mang đậm chất trữ tình. Giọng kể đa dạng, thấm đẫm cảm xúc là
một đặc điểm lớn của giọng kể trong Truyện Kiều. Bằng giọng thơ yêu thương, đầy ai
oán, ông đã trực tiếp bộc lộ thái độ phẫn uất đối với định mệnh khắc nghiệt đang bao
97
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
vây lấy Kiều. Ta thấy được rằng, Nguyễn Du đã tìm cho mình một giọng điệu riêng,
đậm chất Nguyễn Du. Và một đặc điểm làm nên chất trữ tình cho tác phẩm không thể
không kể đến chính là thiên nhiên. Trong Truyện Kiều, thiên nhiên được xem như một
nhân vật, thiên nhiên cũng biết vui, biết buồn – “Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ”. Thiên nhiên luôn gắn với những biến cố trong cuộc đời Kiều, mang nặng nỗi
lòng của nhân vật và tác giả. Thiên nhiên ở đây không phải là một khách thể đi bên
cạnh cuộc đời mà nó là tâm hồn con người hay như có người nói “thiên nhiên là bình
chứa các tâm trạng”. Thể thơ, giọng điệu và thiên nhiên là những yếu tố quan trọng tạo
nên chất trữ tình sâu sắc cho tác phẩm lớn của đại thi hào Nguyễn Du – Truyện Kiều.
Chất tự sự trong Truyện Kiều thể hiện qua các yếu tố quan trọng: cốt truyện, hệ
thống nhân vật và ngôn ngữ tự sự. Cốt truyện Truyện Kiều được vay mượn từ Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên, khi viết tác phẩm, Nguyễn Du
đã có những sáng tạo riêng, loại bỏ những chi tiết không cần thiết. Truyện Kiều được
cấu tạo như một tiểu thuyết chương hồi nói chung. Cốt truyện Truyện Kiều là một hệ
thống những câu chuyện và trong mỗi chuyện gần như có đầy đủ các thành phần của
cốt truyện: giới thiệu, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút, kết thúc. Nhân vật là yếu tố
quan trọng không thể thiếu để tạo nên cốt truyện cho tác phẩm. Nguyễn Du đã xây
dựng một hệ thống nhân vật phong phú. Trong đó, đã có những nhân vật trở thành
nhân vật điển hình. Mỗi nhân vật đại diện cho một tầng lớp, góp một tiếng nói, một
tính cách để phản ánh hiện thực cuộc sống. Tất cả nhân vật trong Truyện Kiều tạo nên
một xã hội đảo điên, góp phần phản ánh một cách chân thực một xã hội phong kiến
thối nát. Ngôn ngữ trong tác phẩm không chỉ mang chấb trữ tình mà còn có chất tự sự.
Qua ngôn ngữ tự sự, tác giả thể hiện cái nhìn, suy nghĩ về cuộc đời. Ngôn ngữ trong
Truyện Kiều là thứ ngôn ngữ hàm súc có sức khái quát cao. Nguyễn Du kể bằng văn
vần như đang kể bằng văn xuôi, giống như kể bằng lời nói bình thường. Ngôn ngữ
trong Truyện Kiều đậm chất ca dao với lối nói quen thuộc. Lời thơ của ông vừa bảo
đảm được sự trau chuốt của thơ lục bát vừa có những khẩu ngữ của ngôn ngữ đời
98
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
thường. Đó chính là chất “văn xuôi” trong tác phẩm của Nguyễn Du.
Chất kịch trong Truyện Kiều là yếu tố ít được nhắc tới. Nhờ có chất kịch với
những mâu thuẫn, xung đột kịch mà câu chuyện được kể có cao trào, không nhàm
chán. Qua mỗi lần xung đột, tính cách nhân vật được thể hiện một cách rõ nét thông
qua cách nhìn nhận cũng như cách giải quyết mâu thuẫn. Trong Truyện Kiều, có hai
xung đột kịch lớn chính là xung đột hữu hình giữa các nhân vật với nhau và xung đột
vô hình: tài – mệnh. Xung đột trong Truyện Kiều tuy thâm trầm nhưng rất dữ dội, bộc
lộ được tính cách từng nhân vật và tư tưởng, tình cảm Nguyễn Du gửi gắm vào. Và
điều làm nên chất kịch trong tác phẩm không thể kể đến ngôn ngữ đối thoại và ngôn
ngữ độc thoại. Ngôn ngữ đối thoại trong Truyện Kiều ngắn gọn, dễ hiểu, có sự luân
phiên. Ngôn ngữ độc thoại góp phần giúp Nguyễn Du thể hiện con người ở chiều sâu
tâm hồn. Điều đặc biệt, ngôn ngữ độc thoại không chỉ xuất hiện ở riêng nhân vật chính
Thúy Kiều mà các nhân vật khác cũng có những lần độc thoại với chính mình. Có thể
thấy, Nguyễn Du đã quan tâm, theo sát từng nhân vật, cũng như cách ông quan tâm, lo
lắng cho con người.
Về hướng phát triển của đề tài, vì trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp, người
viết chỉ nghiên cứu sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều. Nếu có điều kiện, người
viết có tham vọng nghiên cứu đối sánh sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều với các
truyện thơ Nôm khác cũng như các tác phẩm nước ngoài khác. Đề tài khóa luận này sẽ
là định hướng, hướng nghiên cứu còn mở ra những khả năng để nghiên cứu tiếp tục
99
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
cho những người đi sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Trọng Thiều, Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Luận
án Thạc sỹ Ngữ Văn, PGS Lê Ngọc Trà, ĐHSPTPHCM, 1994
2. Trần Thị Phương Phương, Nghiên cứu so sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với
Evgeny Onegin của A.S Pushkin về mặt phương pháp sáng tác, Luận án Tiến sĩ Ngữ
Văn, GS Lê Đình Kỵ, ĐH KHXH và NV, 2000
3. Trần Thị Ngọc Ly, Luận án Thạc sỹ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, PGS.TS Lê
Thu Yến, ĐH Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh, 2015
Phạm Đan Quế, Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều, NXB Thanh Niên, 2013 4.
5. Đoàn Trọng Thiều, Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du: truyền thống và cách
tân, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, GS TSKH Lê Ngọc Trà, ĐH Sư Phạm TP.Hồ Chí
Minh
6. Đặng Văn Kim, Truyện Kiều và truyền thống văn hóa người Việt trong sự đối sánh
với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐH
Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh, 2003, PGS.TS Lê Thu Yến
7. Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, NXB GD, 2002
8. Chu Vi Chi (Chủ biên, 1993), So sánh văn học Trung Quốc và văn học nước ngoài,
NXB Đại học Nam Khai
9. Hồ Thị Tường Thụ, Giọng điệu nghệ thuật trong Truyện Kiều, Luận văn tốt nghiệp,
ĐH Sư Phạm TP.HCM, 1999
10. Nhiều tác giả, Từ trong di sản, NXB tác phẩm mới. 1978
11. Triệu Thùy Dương, Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ của người đời
sau (từ năm 1930 đến nay), Luận văn tốt nghiệp, PGS.TS Lê Thu Yến, 2000, ĐH
Sư Phạm TP.HCM
12. Võ Minh Hải, Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, Luận án Tiến
sĩ Ngữ văn, PGS.TS Lê Thu Yến, 2015, ĐH Sư Phạm TP.HCM
13. Đỗ Minh Tuấn, Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Văn
100
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
hóa thông tin, 1995
14. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo
dục, 1987
15. Nguyễn Nam, Tìm hiểu nghệ thuật viết kịch, Vụ văn hóa quần chúng xuất bản, Hà
Nội, 1969
16. Lê Hữu Mục – Pham Thị Nhung – Đặng Quốc Cơ, Truyện Kiều và tuổi trẻ , NXB
Pari, 1998
17. Đan Phú, Ca vũ nhạc kịch về Kiều
18. Lê Thị Hoài Phương, Truyện Kiều với nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam,
19. Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974
20. Trần Đình Khiêm, Tiếp nhận Truyện Kiều dưới góc nhìn nhạc họa, Luận văn thạc
sỹ Ngữ Văn, PGS.TS Lê Thu Yến, , ĐH Sư Phạm TP.HCM, 2003
21. Đoàn Trọng Thiều, Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du: truyền thống và cách
tân, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, GS. TSKH Lê Ngọc Trà, ĐH Sư Phạm TP.HCM,
2003
22. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX), tập 2,
NXB ĐH và THCN, Hà Nội
23. Đặng Thanh Lê, Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm, Nhà xuất bản KHXH, Hà
Nội, 1979
24. Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB KHXH, Hà
Nội, 1985
25. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995
26. G.N.Popeslov (Chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập I, NXB Giáo dục,
1985
27. Phạm Đan Quế, Bình Kiều, Vịnh Kiều, Bói Kiều, NXB Hà Nội, 1991
28. Phạm Đan Quế, Nguyễn Du, Truyện Kiều và các nhà Nho thế kỉ XIX, NXB Văn
nghệ TP.HCM, 1994
29. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, NXB GD, 1999
101
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
30. Phương Lựu, Suy nghĩ về lí luận văn học Mác Lênin, báo Văn nghệ, 2003
31. Nguyễn Thạch Giang – Trương Chính, Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm, NXB
VHTT
32. Nguyễn Trung Hiếu, Truyện Kiều trong yêu cầu đổi mới của khoa nghiên cứu văn
học hiện nay, Tạp chí văn học, trang 128 – 134, 1978
33. Nguyễn Quảng Tuân, Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, NXB KHXH, 2000
34. Mai Quốc Liên, Dòng bác học và dòng bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều, Tạp
chí văn học, 1966
35. Lê Ngọc Trà, Lý luận văn học, NXB Trẻ TP.HCM, 1992
36. Lê Thu Yến, Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, NXB GD, 2002
37. Lê Thu Yến, Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời sau, NXB
GD, 2002
38. Lê Thu Yến, Nhà văn trong nhà trường, Nguyễn Du, NXB GD, 2002
39. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB GD,
1992
40. Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện ( Nguyễn Khắc Hanh – Nguyễn Đức
Vân dịch), NXB Hải Phòng, 1994
41. Vũ Hạnh, Đọc lại Truyện Kiều, NXB Nghĩa Bình tái bản, 1987
42. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Du tác gia và tác phẩm, NXB GD, 2001
43. Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương, Lí luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB
GD, 2001
44. Nguyễn Văn Hoàn, Bước đầu kiểm điểm kết quả thảo luận Truyện Kiều, Tập san
nghiên cứu khoa học, 1960
45. Nguyễn Tiến Chung, Tính chất tạo hình của thơ Nguyễn Du trong sách kỉ niệm 200
năm sinh Nguyễn Du, NXB KHXH, 1971
46. Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Văn nghệ TP.HCM,
2001
47. Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, NXB KHXH, 1993
102
Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại
48. Đặng Thanh Lê, Nguyễn Du với nhân vật Từ Hải, Tạp chí văn học, 1965