BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM KHOA NGỮ VĂN 

NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ

TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU

DƯỚI GÓC NHÌN TƯƠNG TÁC

THỂ LOẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH - 2016

MỤC LỤC

A. DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2

3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 5

4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 5

5. Cấu trúc luận văn ................................................................................................ 6

B. NỘI DUNG

Chương 1: Cơ sở lí luận và giới thiệu về Truyện Kiều ............................................ 8

1.1 Cơ sở lí luận ........................................................................................................ 8

1.1.1 Khái niệm thể và loại ......................................................................... 8

1.1.2 Hiện tượng tương tác thể loại trong văn học ...................................... 9

1.2 Giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều ......................................................... 12

1.2.1 Nguyễn Du và Truyện Kiều ................................................................ 12

1.2.2 Đối sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của

Thanh Tâm Tài Nhân.......................................................................................... 15

Chương 2: Sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều ........................................................... 26

2.1 Chất trữ tình trong truyện Kiều .......................................................................... 26

2.1.1 Đặc trưng chất trữ tình ......................................................................... 26

2.1.2 Chất trữ tình trong Truyện Kiều ........................................................... 27

2.1.2.1 Thể thơ........................................................................................... 27

2.1.2.2 Giọng điệu trữ tình ........................................................................ 31

2.1.2.3 Trữ tình thiên nhiên ....................................................................... 36

2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều ........................................................................................ 42

2.2.1 Đặc trưng chất tự sự ............................................................................. 42

2.2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều ............................................................... 43

2.2.2.1 Cốt truyện ...................................................................................... 43

2.2.2.2 Nhân vật ........................................................................................ 49

2.2.2.3 Ngôn ngữ tự sự .............................................................................. 58

2.3 Chất kịch trong Truyện Kiều ......................................................................................... 69

2.3.1 Đặc trưng chất kịch ............................................................................... 69

2.3.2 Chất kịch trong Truyện Kiều ................................................................ 71

2.3.2.1 Xung đột kịch ................................................................................ 71

2.3.2.2 Ngôn ngữ đối thoại ........................................................................ 76

2.3.2.3 Ngôn ngữ độc thoại ....................................................................... 80

Chương 3: Ý nghĩa sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều đối với người đời sau .......... 88

C. KẾT LUẬN ............................................................................................................. 97

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 100

LỜI CẢM ƠN



Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS Lê Thu Yến, giảng viên khoa

Ngữ Văn, ĐH Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, người đã tận tình hướng dẫn, quan tâm và thương

mến trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Những lời hướng dẫn, góp ý và động viên

của cô là kinh nghiệm cũng như động lực giúp tôi hoàn thành khóa luận.

Tôi xin chân thành cảm ơn các các bộ của Thư viện trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ

Chí Minh và Thư viện Khoa học tổng hợp Tp,Hồ Chí Minh đã hỗ trợ tận tình trong việc tìm

kiếm tư liệu nghiên cứu để hoàn thành luận văn.

Bên cạnh đó, tôi chân thành cảm ơn cô Phạm Thị Thanh Nga, giáo viên hướng dẫn

thực tập trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, cô đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi

để hoàn thành luận văn đúng thời hạn và hoàn thiện nhất.

Tôi cũng vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là

nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này.

Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn đến toàn bộ quý thầy cô khoa Ngữ Văn trường

Đại học Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh, những người có vai trò to lớn trong suốt quá trình tôi

theo học tại trường.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

A. DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài

Nói tới văn học trung đại Việt Nam, ta không thể không nhắc đến đại thi hào

Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ khiêm

nhường coi đó là những “…lời quê góp nhặt dông dài”. Nhưng thực tế đã cho thấy,

bất chấp qui luật và sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian, Truyện Kiều đã khẳng định

sức sống bất tử của một tác phẩm bất hủ. Được viết trong “chồng chất những khối

lỗi ở trong lòng” và được viết bằng tâm huyết “như có máu chảy ở đầu ngọn bút”,

“như có nước mắt thấm ở trên tờ giấy”. Tác phẩm là sự thể hiện “nỗi đau nhân tình”

của Nguyễn Du tập trung, xúc động và thành công nhất.

Truyện Kiều đã sống trong đời sống của văn học Việt Nam, con người Việt

Nam biết bao năm nay. Người ta đọc Kiều, thuộc Kiều, lẫy Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều,

… Truyện Kiều khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà phê

bình. Truyện Kiều được dịch ra nhiều thứ tiếng là sự minh chứng cho khả năng giao

lưu, hòa nhập của văn học Việt Nam, góp phần làm giàu đẹp và lớn mạnh và phong

phú thêm kho tàng văn hóa chung của nhân loại

Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam. Tác phẩm đã đặt ra nhiều vấn

đề sâu sắc, ám ảnh về thân phận của con người trong xã hội phong kiến. Bằng tài năng

bậc thầy và sự sáng tạo độc đáo, Nguyễn Du đã biến Kim Vân Kiều Truyện của Thanh

Tâm Tài Nhân – một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc xa lạ thành một câu chuyện dễ hiểu

và gần gũi với nhân dân Việt Nam. Từ khi ra đời cho đến nay, trải qua một thời gian

dài với bao biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc, Truyện Kiều vẫn sống mãi và luôn

được đón nhận nồng nhiệt

Đã có nhiều nghiên cứu về Truyện Kiều trên nhiều phương diện khác nhau. Nhìn

chung, ở phương diện nào nhà nghiên cứu cũng phát hiện được những điểm sâu sắc và

độc đáo của tác phẩm. Đã từng có nhận xét cho rằng: “Truyện Kiều là một cuốn tiểu

1

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

thuyết bằng thơ”, trong Truyện Kiều có sự kết hợp giữa thi – ca – nhạc – họa, tác

phẩm vừa kể chuyện đời, vừa kể chuyện lòng. Truyện Kiều đã là nguồn cảm hứng cho

vô số công trình nghiên cứu, tác phẩm được nhìn nhận dưới cái nhìn Phật giáo, được

phân tích về ngôn ngữ, giọng điệu kể chuyện, bút pháp trữ tình,… Góp phần tạo nên

sự thành công của Truyện Kiều còn có sự tương tác về thể loại. Tuy nhiên, vấn đề này

còn ít được đề cập đến, hầu như chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào.

Truyện Kiều là một tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông. Vấn

đề luận văn nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn cho việc giảng dạy sau này. Truyện Kiều

của Nguyễn Du là một truyện thơ. Bằng một tình cảm nồng cháy, nhà thơ đã kể lại một

câu truyện trọn vẹn, có cốt truyện, có nhân vật, các nhân vật có quá trình phát triển.

Chính vì thế, đặc điểm của chủ thể kể chuyện ở truyện thơ sẽ có những điểm khác biệt

so với chủ thể kể chuyện trong tác phẩm văn xuôi tự sự. Khảo sát Truyện Kiều, chúng

ta thấy Nguyễn Du xuất hiện trong tác phẩm với hai tư cách: chủ thể kể chuyện vô

hình và tư cách chủ thể trữ tình. Nguyễn Du không phải là người đầu tiên phân thân

thành chủ thể tự sự và chủ thể trữ tình trong tác phẩm nhưng ông là người thể hiện sự

phân thân này hoàn chỉnh nhất. Với đề tài “Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn

tương tác thể loại”, người viết muốn đóng góp một cách nghiên cứu mới mẻ về một

tác phẩm đã quá quen thuộc và được nhiều người nghiên cứu. Thông qua đó có thể

hiểu thêm về con người, cũng như cái nhìn đối với con người và cuộc đời của vị đại thi

hào dân tộc Nguyễn Du.

2. Lịch sử vấn đề

Đã có nhiều ý kiến, nhận định và công trình nghiên cứu về chất tự sự cũng như

chất trữ tình trong Truyện Kiều. Tuy nhiên về chất kịch, cũng như sự tương tác thể loại

của tác phẩm hầu như chưa có nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề.

Đỗ Minh Tuấn trong chuyên luận “Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong

2

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Truyện Kiều” (14) đã nhận xét về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Du:

“Nếu như có thể tách ra một cách tương đối tính chất tiểu thuyết và tính chất

thơ ca thì có thể quan niệm rằng trong tác phẩm của Nguyễn Du các nhân vật được

xây dựng từ hai lối thể hiện khác nhau:

1. Con người được vẽ ra trong những diện mạo, những hành động và những quan

hệ xã hội của nó. Lối thể hiện này thuộc phạm vi bút pháp tự sự

2. Con người (kể cả người kể chuyện) được vẽ lên trong tâm trạng cá biệt của

mình. Lối thể hiện này thuộc phạm vi bút pháp trữ tình.” [tr.6,14]

Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ

XIX, (tập II), đã có ý kiến về cốt truyện trong Truyện Kiều:

“Nguyễn Du viết Truyện Kiều đã dựa khá sát vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài

Nhân, có nghĩa là Nguyễn Du đã giữ lại của tác phẩm này những tình tiết chính,

những biến cố quan trọng, chứ không phải mọi tình tiết của tác phẩm đều được giữ

lại. Thực tế thì nhà thơ đã bỏ đi khoảng một phần ba những chi tiết trong tác phẩm

của Thanh Tâm Tài Nhân, và thêm một khối lượng cũng khá lớn” [tr.65, 23]

Trong Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm [24], tại chương III: Nghệ thuật xây

dựng nhân vật Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê đã nhận định về nghệ thuật kể chuyện của

Nguyễn Du: “Là tác phẩm tự sự, Truyện Kiều đã tập trung vào vận mệnh nhân vật

trung tâm” [tr.262,24]

“Trên cái nền chung tự sự, … có thể nói Truyện Kiều là một bước phát triển hoàn

chỉnh, thành công của thể loại tiểu thuyết cổ điển Việt Nam” [tr.250, 24]

“Nguyễn Du chú trọng miêu tả nội tâm con người ở những chặng đường có ý

nghĩa bước ngoặt đổi mới vận mệnh nhân vật, ở những trường hợp kịch tính cao của

tình huống, của sự bộc lộ tính cách. Ở những đỉnh điểm ấy của tình tiết sự kiện,

Nguyễn Du có phác họa một vài dòng miêu tả nội tâm thông qua ngôn ngữ tự sự của

3

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

tác giả nhưng thường nhà thơ để nhân vật tự bộc lộ là chính” [tr.83,24]

“Truyện Kiều phảng phất mà rất đậm đà đằm thắm một “bản sắc trữ tình”. Thấp

thoáng trên những trang Kiều ra thấy bóng dáng của ca dao, của Chinh phụ ngâm,

của thơ Đường,…” [tr.248,24]

Phan Ngọc trong cuốn “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” [25],

có một chương bàn về phương pháp tự sự của Nguyễn Du. Phan Ngọc đã khẳng định:

“Truyện Kiều là tiểu thuyết phân tích tâm lý” [tr.120,25], “Truyện Kiều đã được bố

cục như một vở bi kịch lớn” [tr.184, 25]. Ngoài ra, ông đã nhận định bước đầu về

Truyện Kiều với tính chất tương tác nhiều thể loại: “Truyện Kiều là tác phẩm tổng hợp

được các thành tựu nghệ thuật của nhiều thể loại của thời đại. Ở đây có những thành

tựu của thể truyện Nôm, của thể ngâm khúc, thể kịch” [tr.197,25]

Trong các thao tác của Nguyễn Du, Phan Ngọc có bàn đến thao tác “đặt sự việc

vào thế đối lập” và khẳng định “tự thân Nguyễn Du không thể nghĩ ra thao tác này,

bởi vì đó là thao tác của kịch. Ông học tập nó ở kịch Trung Quốc và nhất là ở tuồng”

[tr.84,25]

Bàn về nhiều vấn đề liên quan đến nghệ thuật tự sự của Truyện Kiều, trong bài Tư

tưởng nhân vật và cách kể chuyện của Nguyễn Du, Trần Đình Sử có viết: “Người kể

chuyện Truyện Kiều là một người được cá tính hóa, hơn thế được kịch tính hóa”

[tr.349, 26]

“Đặc biệt người kể chuyện Truyện Kiều đồng thời là một nhà thơ trữ tình (…)

Nguyễn Du đã sử dụng chủ yếu không phải là kinh nghiệm tự sự Trung Hoa mà là

truyền thống trữ tình lâu đời. Nguyễn Du huy động tối đa các thủ pháp trữ tình để

miêu tả tình cảm nhân vật” [tr.349 và 350, 26]. Cuối bài, Trần Đình Sử viết: “Nguyễn

Du đã sáng tạo lại Truyện Kiều (…) đưa vào người kể chuyện mới, tổng hợp các

truyền thống văn học Việt Nam và Trung Quốc, truyền thống tự sự và nhất là trữ tình,

để tạo ra kiệt tác vô song trong văn học Việt Nam và văn học thế giới”

4

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

[tr.351, 26]

Nói tóm lại, nhiều nhà nghiên cứu trong những ý kiến và công trình của mình đã

khẳng định Nguyễn Du rất xuất sắc, là bậc thầy trong nghệ thuật tự sự và nghệ thuật

trữ tình. Tuy nhiên, nghệ thuật kịch trong Truyện Kiều vẫn được nhắc đến khá ít ỏi,

nhất là nhìn tác phẩm dưới góc nhìn tương tác thể loại, hầu như vẫn chưa có công trình

nào đi sâu vào vấn đề này

3. Phương pháp nghiên cứu

Đọc tác phẩm Truyện Kiều và các bài nghiên cứu về Nguyễn Du để có một cái a)

nhìn toàn diện, thống nhất.

Phương pháp thống kê: Thống kê các đoạn thơ câu thơ trong tác phẩm tính b)

tương tác thể loại để làm dẫn chứng cho các luận điểm trong bài tiểu luận

Phương pháp phân tích: để làm rõ những luận điểm được nêu trong tiểu luận c)

Phương pháp chứng minh: để khẳng định vấn đề được nêu trong tiểu luận là d)

đúng đắn và có cơ sở thuyết phục.

Phương pháp so sánh: so sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều e)

Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân

Phương pháp tổng hợp: rút ra những nét chung mang tính khái quát, tiêu biểu f)

về tác dụng của sự tương tác thể loại đối với tác phẩm

4. Phạm vi nghiên cứu

Truyện Kiều là một tác phẩm vĩ đại của Nguyễn Du. Xoay quanh Truyện Kiều

là vô vàn khía cạnh để người đọc khám phá và khai thác: những câu chuyện tình yêu

trong Truyện Kiều, giọt nước mắt nàng Kiều, tiếng đàn nàng Kiều, tính nhạc trong

Truyện Kiều, cách sử dụng điển cố điển tích trong Truyện Kiều, … Phạm vi nghiên

cứu của đề tài “Truyện Kiều dưới góc nhìn tương tác thể loại” chỉ tập trung chủ yếu

vào vấn đề tương tác thể loại trong tác phẩm với ba đặc trưng thể loại chủ yếu: tự sự -

trữ tình – kịch , qua đó thể hiện tài năng sáng tạo cũng quan niệm của Nguyễn Du về

5

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

cuộc đời, về số phận con người.

5. Cấu trúc luận văn

A. DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài

2. Lịch sử vấn đề

3. Phương pháp nghiên cứu

4. Phạm vi nghiên cứu

5. Cấu trúc luận văn

B. NỘI DUNG

Chương 1: Cơ sở lí luận và giới thiệu Truyện Kiều

1.1 Cơ sở lí luận

1.1.1 Khái niệm thể loại

1.1.2 Hiện tượng tương tác thể loại trong văn học

1.2 Giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều

1.2.1 Nguyễn Du và Truyện Kiều

1.2.2 Đối sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của

Thanh Tâm Tài Nhân

Chương 2: Sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều

2.1 Chất trữ tình trong Truyện Kiều

2.1.1 Đặc trưng chất trữ tình

2.1.2 Chất trữ tình trong Truyện Kiều

2.1.2.1 Thể thơ

2.1.2.2 Giọng điệu trữ tình

2.1.2.3 Trữ tình thiên nhiên

2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều

2.2.1 Đặc trưng chất tự sự

2.2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều

6

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

2.2.2.1 Cốt truyện

2.2.2.2 Nhân vật

2.2.2.3 Ngôn ngữ tự sự

2.3 Chất kịch trong Truyện Kiều

2.3.1 Đặc trưng chất kịch

2.3.2 Chất kịch trong Truyện Kiều

2.3.2.1 Xung đột kịch

2.3.2.2 Ngôn ngữ đối thoại

2.3.2.3 Ngôn ngữ độc thoại

Chương 3: Ý nghĩa sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều đối với người đời sau

C. KẾT LUẬN

7

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

B. NỘI DUNG

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ GIỚI THIỆU VỀ TRUYỆN KIỀU

1.1.1 Khái niệm thể loại

Mọi tác phẩm văn học đều tồn tại trong các hình thức thể loại nhất định: một cuốn

tiểu thuyết, một truyện ngắn, một bài thơ, một vở kịch, một kí sự...Không có tác phẩm

văn học nào được xây dựng ngoài những hình thức quen thuộc đó. Vì vậy, bên cạnh

nhan đề tác phẩm, tác giả thường ghi tên thể loại: Những người khốn khổ- tiểu thuyết;

Dấu chân người lính - Tiểu thuyết; truyện ngắn của Guy de Maupassant; Từ ấy - thơ;

Bài thơ Màu tím hoa sim; Lão hà tiện- kịch... Nhiều khi tên thể loại gắn liền với nhan

đề tác phẩm: Hoàng lê nhất thống chí, Bình Ngô đại cáo, Tam quốc chí diễn nghĩa,

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,…

Ðiều gì đã tạo nên sự giống nhau về hình thức tồn tại của tác phẩm văn học

trong khi nội dung nhiều khi rất khác nhau đó ? Chính là qui luật loại hình tác phẩm,

tức là sự tổng hợp các phương thức tổ chức, phương thức tái hiện đời sống của những

đặc trưng cơ bản gần gũi với nhau.

Mỗi thể loại đều có các phương thức tổ chức gần gũi với nhau và chính điều đó

cũng qui định sự tiếp nhận văn học. Nhà văn cũng như người đọc đều hiểu mình sáng

tác hay tiếp nhận loại tác phẩm này chứ không phải loại tác phẩm khác. Lí luận văn

học đã khái quát các tác phẩm khác nhau thành một số loại thể nhất định dựa theo

những qui luật loại hình. Những qui luật này chi phối, qui định các yếu tố khác nhau

của tác phẩm văn học. Mỗi loại thể khác nhau có các loại nhân vật, kết cấu, lời văn

khác nhau. Chẳng hạn khi nói đến loại tác phẩm trữ tình, ta có thể nhắc đến nhân vật

trữ tình, kết cấu trong thơ trữ tình, lời thơ, câu thơ, đoạn thơ, luật thơ.. Nói đến tác

phẩm tự sự, có thể nói đến nhân vật tự sự, kết cấu trong tác phẩm tự sự, lời văn tự sự.

Qua tác phẩm kịch, có thể nói đến nhân vật kịch, kết cấu kịch, lời đối thoại, hành động

8

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

kịch...

Tuy nhiên cũng cần chú ý bên cạnh qui luật loại hình, thực tiễn văn học bao giờ

cũng phong phú và đa dạng hơn nhiều. Nhà văn sáng tác tác phẩm là nhằm diễn đạt

một cách đúng đắn và đầy đủ nhất những vấn đề đời sống mà họ quan tâm, những rung

động thẩm mĩ độc đáo. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về loại thể, cần nắm vững tính

lặp lại của qui luật nhưng đồng thời cũng phải nhận ra sự độc đáo trong sự vận dụng

và sáng tạo của tác giả.

Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất toàn vẹn giữa các yếu tố tạo thành,

trong đó thể loại quy định loại hình của tác phẩm. Tùy thuộc vào đặc trưng, mỗi thể

loại sẽ có quy luật, cách tổ chức và phản ánh hiện thực riêng. Thể là khái niệm nhỏ

hơn loại, nằm trong loại hay còn gọi là thể loại. Thể loại văn học là một hình thức tổ

chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể hiện cảm xúc, tư tưởng của con

người trước các hiện tượng đời sống. Thể loại giữ vai trò quan trọng trong văn học.

Bakhtin đã từng khẳng định: “Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của

tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và

ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trước hết là các thể loại, còn trào lưu,

trường phái chỉ là những nhân vật hạng nhì hoặc hạng ba”.

Vị trí của thể loại trong văn học quan trọng đến mức nhiều khi tên tác phẩm văn

học trung đại gắn liền với tên thể loại: Thiên đô chiếu, Hịch tướng sĩ, Bạch Đằng

giang phú, Bình Ngô đại cáo,… Hiện tượng này đã cho thấy tên thể loại đã xác định

tính quy phạm về chức năng và hình thức thể loại của tác phẩm. Đây là định hướng

cho việc phân tích tác phẩm từ góc nhìn thể loại.

Trong quá trình phát triển lâu dài của văn học, loại thể là một yếu tố mà bên cạnh

mặt biến động đổi thay lại có những yếu tố tương đối ổn định. Có rất nhiều tiêu chí

phân loại thể loại: phân loại về ngôn ngữ, về phương thức cấu tạo hình tượng, về dung

lượng dài ngắn. Các tiêu chí làm cho việc phân loại mang tính chất tương đối.

Cho đến nay phổ biến vẫn tồn tại cách chia ba có từ thời cổ đại. Từ cổ xưa, ở

9

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

phương Tây người ta đã có ý thức phân loại văn học. Aristote là người đề xuất phân

loại văn học thành ba loại hay còn gọi là ba phương thức “mô phỏng” thực tại. Trong

“Nghệ thuật thi ca” ông từng viết: “Hoặc có thể như Hôme kể về sự kiện như một cái

gì ở ngoài mình hoặc người mô phỏng vẫn là bản thân anh ta, hoặc là trình bày mọi

vật được miêu tả như những người hành động và hoạt động”. Theo Aristole, văn học

được chia làm ba loại theo phương thức, phương tiện biểu đạt của chúng: tự sự, trữ

tình và kịch. Vào thế kỉ XIX, nhà phê bình văn học người Nga V.g Belinski (1811-

1848), nhà cải cách vĩ đại của văn học Nga trên cơ sở ghi nhận cách phân loại của

những người đi trước đã phân tích chi tiết các loại một cách cụ thể, thuyết phục hơn.

Theo ông, loại tự sự bao gồm: tiểu thuyết, ngụ ngôn,., loại trữ tình bao gồm: thơ trữ

tình và văn xuôi trữ tình, loại kịch bao gồm: bi kịch, hài kịch, chính kịch.

Vào thế kỉ XIX, nhà lí luận văn học Nga là Belinski cũng chia tác phẩm văn học

thành ba loại: tự sự, trữ tình, kịch. Ông cho rằng, “chia thơ ca (văn học) làm ba loại:

tự sự, trữ tình, kịch là xuất phát từ ý nghĩa của việc nhận thức chân lí, cũng tức là trên

tinh thần nhận thức - xuất phát từ mối quan hệ qua lại giữa chủ thể với đối tượng -

khách thể nhận thức. Thơ trữ tình biểu hiện phương diện chủ quan của một con người,

đem con người bên trong phơi bày ra trước mắt chúng ta, do đó toàn bộ là cảm xúc,

tình cảm, âm nhạc. Thơ tự sự là miêu tả khách quan một sự kiện đã hoàn thành, là nhà

nghệ sĩ đã chọn cho chúng ta một điểm thích hợp nhất để bày tỏ tất cả mọi phương

diện, làm thành một bức tranh cho chúng ta xem. Thơ kịch là sự điều hòa hai phương

diện trên, chủ quan, trữ tình và khách quan, tự sự. Trình bày ra trước mắt chúng ta,

không phải là sự kiện đã hoàn thành, mà là đang thực hiện; không phải nhà thơ đang

thông báo sự việc cho ta, mà là từng nhân vật xuất hiện nói với chúng ta”.

Nhìn chung, có các tiêu chí cơ bản để phân chia thể loại như sau:

- Hình thức lời văn: dùng để phân biệt thơ văn vần, truyện văn xuôi hay truyện

thơ, kịch thơ hay kịch nói,…

- Dung lượng tác phẩm: là căn cứ quan trọng để phân biệt thơ với trường ca, khúc

10

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

ngâm, phân biệt truyện vừa, truyện dài, truyện ngắn,..

- Cảm hứng, cảm xúc: là một trong những cơ sở để phân biệt bi kịch, hài kịch,

chính kịch, ngụ ngôn và truyện cười….

- Nội dung thể loại: tiêu chí này được các nhà nghiên cứu Xô Viết như Pospelov,

Sernhext đề xuất nhằm phân loại văn học dựa tên đặc trưng loại hình lặp lại có hệ

thống của đề tài, theo đó có 3 nhóm nội dung thể tài chủ yếu là thể tài lịch sử, thể tài

đời tư, thể tài thế sự.

Có thể nói không một tiêu chí phân loại văn học nào có thể loại trừ được các tiêu

chí khác. Các thể loại và các loại văn học không ngừng xâm nhập vào nhau, tạo thành

các loại trung gian. Chính vì vậy, các tiêu chí này cũng chỉ hợp lý ở một mức độ nhất

định.

Như vậy, ta có thể nghiên cứu đề tài này theo hướng phân chia tác phẩm văn học

thành ba loại lớn:

Loại trữ tình: lấy suy nghĩ, tình cảm, tâm trạng con người làm đối tượng chủ yếu.

Loại tự sự: dùng lời kể, lời tả để miêu tả, xây dựng cốt truyện, khắc họa tính cách

nhân vật.

Loại kịch: dùng mâu thuẫn, xung đột kịch, ngôn ngữ kịch để phản ánh cuộc sống.

1.1.2 Hiện tượng tương tác thể loại văn học

Theo từ điển từ và ngữ Tiếng Việt thì tương tác là sự tác động qua lại, có ảnh

hưởng lẫn nhau giữa các đối tượng người hoặc vật.

Tương tác thể loại là sự xâm nhập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hay

nhiều thể loại của một hoặc nhiều hệ thống thể loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận

động và phát triển của cấu trúc thể loại văn học. Tương tác thể loại là sự thể hiện tập

trung nỗ lực sáng tạo và đổi mới của văn học. Do vậy, tương tác thể loại là hiện

tượng hết sức sinh động đa chiều. Xét về cấp độ, sự tương tác thể loại thể hiện trên

11

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

nhiều cấp độ: loại/loại, thể/loại, thể/thể, yếu tố/yếu tố,… Xét về hình thức tương tác

bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhìn chung, vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể, sâu sắc

nào về hiện tượng tương tác thể loại. Ta có thể hiểu rằng, hiện tượng tương tác thể

loại là sự tương tác giữa các thể loại với nhau trong một tác phẩm. Sự tương tác này

giúp các thể loại trong tác phẩm bổ sung, hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới đích đến

là tư tưởng của tác giả, giá trị của tác phẩm.

Trong công trình “Lí luận văn học”, chương “Thể loại của tác phẩm văn học”,

do Trần Đình Sử phụ trách đã đưa đến người đọc những khái niệm ban đầu về sự

tương tác thể loại văn học. Trần Đình Sử đã đề cập đến khái niệm thể loại văn học và

phân chia loại thể văn học. Ông cũng nhận định về “đặc trưng kép” của thể loại văn

học: “Thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại vừa có các yếu tố vận

động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng tạo của nhà văn”. Chính

nhờ sự “vận động” của văn học đã tạo nên sự tương tác thể loại.

1.2 Giới thiệu về Truyện Kiều

1.2.1 Nguyễn Du và Truyện Kiều

Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tính ra dương lịch là ngày 3 tháng

1 năm 1766) tại kinh đô Thăng Long và lớn lên ở đấy. Ông mất ngày 16 tháng 9 năm

1820 tại Huế. Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, trí

thức, tài hoa và có danh vọng vào bậc nhất đương thời. Không những thế, gia đình này

còn có một truyền thống về văn học. Hoàn cảnh gia đình đã có những tác động rõ rệt

đối với sự hình thành thiên tài văn học ở Nguyễn Du. Gia đình Nguyễn Du có nhiều

người đậu đạt cao và làm quan lớn trong triều đình: Thân sinh của Nguyễn Du đậu

tiến sĩ, từng làm tể tướng trong triều đình. Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với

Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức lớn dưới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông

.Nguyễn Huệ, bác ruột Nguyễn Du, đậu tiến sĩ. Theo Phạm Ðình Hổ thì dòng họ này

có mười hau tiến sĩ và năm quận công. Dòng họ này còn có truyền thống văn học, thân

sinh của ông là Nguyễn Nghiễm là một sử gia cũng là một nhà thơ. Nguyễn Khản giỏi

thơ Nôm, tương truyền có dịch Chinh phụ ngâm. Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện (cháu

12

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

gọi Nguyễn Du bằng chú) đều là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đương thời.

Xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc có danh vọng vào loại bậc

nhất đương thời nhưng Nguyễn Du sống trong cuộc sống nhung lụa không được bao

lâu. Bởi vì nhà thơ lớn lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh chóng theo đà sụp đổ

của tập đoàn phong kiến thống trị Lê - Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đương đầu với

những biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Có lúc nhà thơ cũng bị hất ra giữa cuộc

đời, đã từng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng 16 năm sống

lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Những năm tháng bất hạnh này có ảnh

hưởng trực tiếp quyết định đến sự hình thành con người nghệ sĩ vĩ đại ở ông.

Hoàn cảnh gia đình đã để lại những dấu ấn vàng son trong tâm hồn nhà thơ và

cũng chắc chắn rằng qua thực tiễn của gia đình, ông cũng đã nhận thức được nhiều

điều về giới quan lại đương thời.

Thời đại

Thời đại Nguyễn Du là thời đại khổ đau, bế tắc và đầy những biến động dữ dội.

Xã hội phong kiến Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX khủng hoảng

trầm trọng. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, điêu đứng. Phong trào nông dân khởi

nghĩa nổ ra liên tục mà lớn nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Là người có hiểu biết sâu

rộng, có vốn sống phong phú, Nguyễn Du đã sống nhiều năm lưu lạc tiếp xúc với

nhiều cảnh đời và thân phận con người trong thời đại loạn lạc, dâu bể. Khi làm quan

bất đắc dĩ dưới triều Nguyễn, ông đã từng đi sứ sang Trung Quốc, qua nhiều vùng đất

rộng lớn, tiếp xúc với nền văn hóa rực rỡ ở Trung Hoa. Tất cả những điều đó đã ảnh

hưởng lớn đến sáng tác của Nguyễn Du. Là người có một trái tim giàu tình yêu

thương, chính ông đã từng viết trong Truyện Kiều : “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ

tài”. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du rất phong phú và đồ sộ, ba tập thơ chữ Hán

với 243 bài, sáng tác chữ Nôm xuất sắc nhất là “Truyện Kiều”.

Nhà thơ sống vào giai đoạn lịch sử xã hội Việt Nam có nhiều biến động dữ dội,

nhất là khoảng ba mươi năm đầu của cuộc đời nhà thơ. Nguyễn Du đã có dịp chứng

13

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

kiến những biến cố lịch sử trọng đại nhất: Sự sụp đổ thảm hại của tập đoàn phong kiến

thống trị Lê - Trịnh, vận mệnh ngắn ngủi nhưng rạng rỡ của phong trào Tây Sơn và

triều đại Quang Trung, công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn. Thời đại là một cơ sở

sâu xa tạo nên sự xuất hiện gương mặt thiên tài văn học Nguyễn Du. Ông đã sống

trong một thời đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc được kết tinh một

cách rực rỡ. Những biến cố xã hội, truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc của thời

đại đã để lại những âm hưởng, những màu sắc trong nhân cách cũng như sáng tác của

nhà thơ.

Sự nghiệp văn chương

Xét về văn học, sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt.

Nhưng ông không màng để tâm đến công danh. Trái tim ông đau xót, buồn thương,

phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp dân đen

và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào văn chương,

thi ca. Thơ ông là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu sắc của ông đối

với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng của ông đối với các số

phận con người. Xuất thân trong gia đình quý tộc, sống trong không khí văn chương

bác học, nhưng ông có cách nói riêng, bình dân, giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân

ca xứ Nghệ

 Thơ chữ Hán: Nhà thơ đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Hán và

chữ Nôm. Ông có ba tập thơ:

- Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) 1786-1804.

- Nam trung tạp ngâm: 1805-1812.

- Bắc hành tạp lục: 1813-1814.

Cả ba tập thơ đã được tập hợp lại thành tập Thơ chữ Hán của Nguyễn Du do nhóm

Lê Thước và Trương Chính giới thiệu, xuất bản năm 1965 gồm 243 bài thơ. Nguyễn

Du có nhiều tác phẩm. Thơ chữ Hán như Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm,

Bắc hành tạp lục. Cả ba tập này, nay mới góp được 250 bài nhờ công sức sưu tầm của

14

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

nhiều người. Lời thơ điêu luyện, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội,

biểu lộ tình thương xót đối với các nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và

phản diện trong lịch sử Trung Quốc, một cách sắc sảo..

 Thơ chữ Nôm

- Ðoạn trường tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm).

- Văn chiêu hồn (còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh).

- Sinh tế Trường Lưu nhị nữ.

- Thác lời trai phường nón.

Tác phẩm tiêu biểu cho thơ chữ Nôm của thiên tài Nguyễn Du là “Đoạn trường

tân thanh” và “Văn tế thập loại chúng sinh”, đều viết bằng quốc âm. “Đoạn trường

tân thanh” được gọi phổ biến là “Truyện Kiều”, là một truyện thơ lục bát. Cả hai tác

phẩm đều xuất sắc, tràn trề tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, phản ánh sinh động xã hội

bất công, cuộc đời dâu bể. Tác phẩm cũng cho thấy một trình độ nghệ thuật bậc thầy.

“Truyện Kiều” đã là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc

bút chiến. Ngay khi “Truyện Kiều” được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều trường học

của các nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật của tác

phẩm.

1.2.2 Đối sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện

của Thanh Tâm tài nhân

Thanh Tâm Tài Nhân tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, ông còn có một số bút

danh khác là Thiện Tri, Thanh Đằng, Điền Thủy Nguyệt, là một nhà văn Trung Quốc

đời nhà Thanh (khoảng thế kỷ XVII). Ông học giỏi, hiểu biết rộng nhưng lận đận chốn

quan trường, bèn làm mặc khách của Hồ Tôn Hiến. Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài

Nhân thảo tờ biểu “Dâng hươu trắng” cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài Kim

15

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Vân Kiều truyện, ông còn viết bộ kịch Tứ thanh viên gồm bốn vở.

Kim Vân Kiều truyện là một trong vô vàn tiểu thuyết tài tử giai nhân cuối Minh

đầu Thanh. Kim Vân Kiều truyện là một bộ tiểu thuyết chương hồi có lối kết cấu

truyền thống theo kiểu văn xuôi cổ điển Trung Quốc kể lại cuộc đời của một cô gái đời

Minh nổi danh về tài sắc mà chẳng may bị lưu lạc khổ sở. Sách gồm 20 hồi, trước mỗi

hồi đều có phần giới thiệu, tóm lược nội dung, lời bình phẩm. Kết cấu của tác phẩm

được miêu tả theo tuyến tính thời gian, trình tự diễn biến của sự kiện và quá trình hoạt

động của nhân vật chính. Chủ đề của Kim Vân Kiều truyện là tình và khổ.

Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có

mối quan hệ mật thiết với nhau. Nói cho đúng hơn thì Truyện Kiều có nguồn gốc từ

Kim Vân Kiều truyện đời Thanh. Thế nhưng hai tác phẩm này lại có hai số phận hoàn

toàn khác nhau. Truyện Kiều của Nguyễn Du được nhiều người ưa chuộng và được

dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau (khoảng 30 bản dịch ra 20 tiếng nước ngoài). Ngoài

ra đã có những công trình nghiên cứu so sánh Truyện Kiều với một số tác phẩm của

một số nền văn học dân tộc khác như văn học Nga, văn học Đức, văn học Hàn Quốc,

...). Kim Vân Kiều truyện lại phải bị vùi lấp hàng mấy thế kỉ trong văn học sử Trung

Quốc. Nó thất truyền và gần như không tồn tại trong lịch sử văn học Trung Quốc.

Không có Thanh Tâm Tài Nhân thì ắt hẳn không thể có Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Thế nhưng, Truyện Kiều nổi tiếng và sống mãi trong lòng người đọc chính nhờ công

lao to lớn của Nguyễn Du,

Hai tác phẩm có cùng một cốt truyện, cùng một hệ thống nhân vật và cả kết cấu tự

sự. Thế nhưng Nguyễn Du đã dùng tài năng của mình để thay đổi số phận của tác

phẩm. Truyện Kiều có những cái mới mà Kim Vân Kiều truyện không có được. Hai tác

phẩm với hai thể loại khác nhau mang đến những cảm nhận khác nhau cho người đọc.

Truyện thơ đã giúp tác giả thể hiện cảm xúc một cách chân thật nhất, đồng thời nó

cũng dễ chạm vào trái tim bạn đọc hơn là ngôn ngữ của một cuốn tiểu thuyết. Không

chỉ khác biệt về thể loại, điểm đặc biệt trong Truyện Kiều là Nguyễn Du đã đem thiên

nhiên vào trong tác phẩm của mình – một thiên nhiên thực nhưng cũng có khi là thiên

16

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

nhiên của cảm xúc. Trong khi đó Kim Vân Kiều truyện hoàn toàn vắng bóng thiên

nhiên. Nhân vật của Kim Vân Kiều truyện đã được Nguyễn Du xây dựng theo một

cách riêng, không rập khuôn nguyên tác.

“Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều trên cơ sở vay mượn cốt truyện của Kim Vân

Kiều truyện, Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương, Truyện Kiều là một công trình

sáng tạo văn hóa” [tr12, 6]

Kim Vân Kiều truyện ra đời vào thời Khang Hy nhà Thanh. Đây là thời kì tiểu

thuyết Trung Quốc phát triển rực rỡ. Không thể không nhắc đến “Tứ đại kì thư”:

“Tam quốc diễn nghĩa” (La Quán Trung), “Hồng Lâu Mộng” (Tào Tuyết Cần), “Thủy

Hử” (Thi Nại Am), và “Tây Du Kí” (Ngô Thừa Ân). Sau này, không thể không nhắc

đến “Đông Chu Liệt Quốc” (Phùng Mộng Long), “Kim Bình Mai”, hay “Liêu trai chí

dị” (Bồ Tùng Linh). Ta có thể thấy được có rất nhiều tác phẩm được nhắc đến, nổi

tiếng và sống mãi với thời gian, tuy nhiên, trong đó không thấy cái tên Kim Vân Kiều

truyện. Điều đó cho ta thấy rằng Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân cũng

chỉ là một tác phẩm “thường thường bậc trung”, dường như bị lãng quên ngay trên

chính quê hương của nó.

Trần Đình Sử khi nghiên cứu Thi pháp Truyện Kiều đã nhận xét: “Thanh Tâm Tài

Nhân quả là làm phong phú thêm rất nhiều cho Kim Vân Kiều truyện…, là một truyện

mới, vượt hẳn lên nội dung lịch sử cụ thể để nói một cái gì đó bất hủ muôn đời theo

quan niệm tác giả. Nhưng tác giả trọng lý hơn tình, nhân vật của ông cũng sống hợp lý

hơn tình, nên ít sống động, thuyết phục đáng nhớ,…” [75, 7]

Các học giả Trung Quốc trong công trình “So sánh văn học Trung Quốc và văn

học nước ngoài” đã viết “Truyện Kiều tuy vay mượn đề tài của tiểu thuyết Kim Vân

Kiều truyện, nhưng quyết không phải là một tác phẩm dịch, cũng không phải là tác

phẩm mô phỏng máy móc giản đơn, mà là một thành quả lớn của việc cấu tứ lại một

17

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

cách tinh vi, và tái tạo lại trên cơ sở di thực” [tr317, 5]

Giống nhau

Nguyễn Du đã dựa vào cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện sáng tạo nên Truyện

Kiều. Ông đã lấy lại hầu hết các nhân vật và tình tiết, từ thằng bán tơ, Đạm Tiên, Thúy

Vân, Thúy Kiều, Vương Quan, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, Tú Bà, Bạc Bà, Bạch Hạnh, Mã

Giám Sinh, Sở Khanh, …

Khác nhau

Nếu chỉ nhắc đến cốt truyện thì ta vẫn chưa thấy được nét sáng tạo của Nguyễn Du

với Truyện Kiều. Trên cơ sở cốt truyện ấy, Nguyễn Du đã sáng tạo và tinh tế biến nó

thành Truyện Kiều vừa phù hợp với không gian, thời gian, thể loại truyện thơ, chất

Việt Nam và quan niệm của tác giả.

Một bên là văn xuôi kể chuyện theo lối cổ của Kim Vân Kiều truyện, một bên là

truyện thơ của Truyện Kiều. Hay nói rõ hơn về ngôn ngữ một bên là ngôn ngữ văn

xuôi, một bên là ngôn ngữ thơ. Nói đến ngôn ngữ văn xuôi kể chuyện theo lối cổ như

Kim Vân Kiều truyện là nói đến cái ngữ nghĩa thông báo đơn nhất mà ngôn từ chứa

đựng, cụ thể ở đây là nội dung của câu chuyện được kể lại. Còn nói đến ngôn ngữ thơ

như Truyện Kiều thì ngoài ngữ nghĩa ra từ ngôn bản, còn phải nói đến tiết tấu, vần và

nhịp điệu, nói đến khả năng ảnh hưởng của tất cả những thứ ấy. Trong lúc trữ tình, nhà

thơ đã gửi gắm vào đó cả thể nghiệm cuộc đời của mình, nên những đoạn đó chân thực

tha thiết, làm cảm động lòng người.

Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm tiểu thuyết chương hồi

thuộc thể tài văn xuôi, kết cấu theo thời gian, theo trình tự diễn biến của các sự kiện,

theo quá trình hành động của các nhân vật. Nó thiên về mô tả sự kiện, đi sâu miêu tả

thực tại, khắc họa chân dung nhân vật một cách cụ thể. Cũng như các tiểu thuyết

chương hồi khác, tác phẩm gần như không đề cập đến diễn biến tâm lý nhân vật mà

chỉ có các biến cố, hành động của nhân vật. Tác phẩm lại đặc biệt coi trọng mâu thuẫn

xung đột, tập trung mô tả nhiều chi tiết để tô đậm một tính cách nào đấy của nhân vật.

18

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Diện mạo nhân vật gần như chỉ là những nét chấm phá chứ không miêu tả cụ thể.

Trong tác phẩm, tác giả cũng đã đưa vào những đoạn thơ, bài phú miêu tả thiên nhiên,

nhưng thiên nhiên ấy lại bị tách rời khỏi cốt truyện và đôi khi lại không gắn bó gì với

tâm trạng của nhân vật.

Trong khi đó, Truyện Kiều lại là một cuốn truyện thơ, một tác phẩm văn học vừa

cổ điển vừa hiện đại, có sự hài hòa giữa hình thức và nội dung. Các nhân vật trong tác

phẩm, các vấn đề xã hội không đợi tác giả tự thuật lại nhiều mà tự nó có thể tự hiện

diện, tự bộc lộ một cách tinh tế nhất.

Thanh Tâm Tài Nhân đã sáng tạo nên một hệ thống nhân vật mới: Kim Trọng,

Thúy Vân, Hoạn Thư, Thúc Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Giác Duyên, Tam

Hợp đạo cô. Đến Truyện Kiều, Nguyễn Du đã giữ lại hệ thống nhân vật này. Tuy

nhiên, các nhân vật của Truyện Kiều không thể là các nhân vật cũ như trong Kim Vân

Kiều truyện. Nhân vật đã được sống một cách khác, nghĩ một lối nghĩ khác bởi sự khác

biệt giữa văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, và hơn cả là sự khác biệt trong quan điểm

giữa Thanh Tâm Tài Nhân và Nguyễn Du. Tác phẩm của Nguyễn Du ăm ắp nỗi đau

đời, thương con người, tiếc cho cái đẹp thường mong manh bất trắc. Nguyễn Du nhìn

con người với bản chất của chính nó, ông muốn khám phá con người ở chiều sâu tâm

lý, ở số phận, kiếp người,… “Con người trong con mắt Nguyễn Du là con người bình

đẳng trước tạo hóa, con người của đời thường nhìn ở nhiều góc độ, là con người nhân

tính phổ biến với tất cả những mong manh may rủi dễ hư nát, hạnh phúc và bất

hạnh,..” [tr.36, 6]

Nhân vật của Nguyễn Du sống một cuộc đời thường, rất gần gũi. Hoài Thanh từng

viết: “Thúy Kiều như một con người có thật, con người ấy từ lâu sống trong lòng hàng

triệu người và được quí trọng, được âu yếm, nâng niu, được yêu mến say mê…”

Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân được giới thiệu rõ ràng lai lịch, gốc gác: “Trước

cũng theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy khóa, sau mới xoay qua thương mại, tiền có

của thừa, lại thích kết giao với giang hồ hiệp khách”, Nguyễn Du lại để Từ Hải xuất

19

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

hiện như một vị anh hùng

Trong một bài biên khảo đăng trong tuyển tập Nguyễn Du, Tác Giả và Tác Phẩm

do Nhà Xuất bản Giáo Dục ấn hành năm 1999 tại Việt Nam, các tác giả Nguyễn Thạch

Giang, Triệu Ngọc Lan, và Lô Úy Thu đã nghiên cứu những phần trong Kim Vân Kiều

truyện mà Nguyễn Du đã lược bỏ. Khi so sánh hai tác phẩm, các tác giả nhận thấy

Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang trên tổng số 214 trang, tức khoảng hai phần ba tác

phẩm, giữ lại 72 trang và dùng các chi tiết trong số trang này để viết thành 1313 câu

thơ trong tổng số 3254 câu của Đoạn Trường Tân Thanh.

Nguyễn Du đã lược bỏ những bài thơ xướng họa, những bài ghi lời thề thốt trong

Kim Vân Kiều truyện. Nguyễn Du đã khéo léo dẫn dắt độc giả vào một lối đi khác

Thanh Tâm Tài Nhân, đó chính là đi vào đường tài và đường tình của các nhân vật một

cách tự nhiên, không màu mè. Thể hiện điều này rõ nhất ở nhân vật Thúy Kiều,

Nguyễn Du đã làm cho độc giả phải bất bình với những cái xấu, cái ác đã chà đạp lên

cái “tài” và cái “tình” của nhân vật.

Ở đoạn ba chị em Thúy Kiều đi hội đạp thanh, lúc đi ngang mộ Đạm Tiên, nếu

Kiều trong Truyện Kiều chỉ:

Lầm rầm khấn vái nhỏ to

Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.

Thì Kiều trong Kim Vân Kiều truyện lại vừa khấn vái, vừa lạy, lại vừa đề thơ:

Sắc hương đâu đó tá?

Thăm viếng não lòng thay!

Chăn gấm, trăng soi lạnh,

Đài gương, bụi phủ nhòa.

Đất tuy vùi ngọc ấy,

20

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Tuyết chưa lấp danh này.

Rượu nhiều như sông đó,

Nào ai tưới chôn đây?

Hay như sau khi gặp Kim Trọng về, ở Kim Vân Kiều truyện, Kiều nhớ nhung, suy

nghĩ miên man về Kim rồi làm thơ:

Trời quang mây lặng không vương bụi,

Khác gì bình ngọc chứa lòng băng.

Nếu bạn đa tình săn sóc hỏi,

Tấm thân đau đớn biết cho chăng?

Thì hành động này ta không bắt gặp lại trong Truyện Kiều.

Nguyễn Du cũng đã lược bỏ những lời đối đáp rườm rà. Ở hồi một và hồi hai,

những lời đối thoại qua lại của ba chị em Thúy Kiều lúc thấy mộ Đạm Tiên và khi gặp

Kim Trọng đều được Nguyễn Du rút lại một cách ngắn gọn.

Cũng nhờ đó, bố cục của cốt truyện trong Đoạn Trường Tân Thanh rất chặt chẽ,

phát triển rất tự nhiên và cân đối, không hề luộm thuộm, rườm rà. Có thể thấy rằng

Nguyễn Du chỉ giữ lại những chi tiết nào gọi là đặc trưng, điển hình, ảnh hưởng đến

tâm lý, tính cách nhân vật.

Ngoài ra, những gì gây hại đến tính cách, nhân phẩm của các nhân vật như Thúy

Kiều, Kim Trọng, Từ Hải; bao gồm cả những lời lẽ dụ hàng của các thuyết khách của

Hồ Tôn Hiến (quan đốc phủ phái Hoa Nhân, trung quân họ La), lời Từ Hải đáp lại tên

Lợi Sinh, … cũng được Nguyễn Du lược bỏ.

Cuộc xử oán dông dài và man rợ trong Kim Vân Kiều truyện được cụ Nguyễn Du

tóm tắt qua 42 câu thơ. So sánh hai đoạn trích Kiều báo oán trong Kim Vân Kiều

21

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

truyện và Đoạn Trường Tân Thanh, ta nhận thấy những điểm nổi bật sau:

Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều tha tội hoàn toàn cho Hoạn Thư.

Trong Kim Vân Kiều truyện, Kiều tha tội chết nhưng ra lệnh đánh Hoạn Thư một cách

dã man. Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Thúy Kiều không sai quân sĩ bắt mẹ Hoạn

Thư đem về trị tội như trong Kim Vân Kiều Truyện.

Nguyễn Du chỉ tả cảnh xử tội Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh, Bạc

Bà, và Ưng, Khuyển một cách vắn tắt chứ không chi tiết và tàn nhẫn như trong Kim

Vân Kiều Truyện. Qua ngòi bút của cụ Nguyễn Du, chúng ta cảm thấy đồng tình với

Kiều khi nàng tha bổng Hoạn Thư nên không phê phán nàng nặng nề khi nàng trả thù

những nhân vật khác. Trái lại, khi đọc Kim Vân Kiều Truyện, có lẽ người đọc phải

chau mày và có ý niệm chán ghét Kiều trước cách trừng trị dã man, tàn bạo, thiếu nhân

tính nàng áp dụng đối với kẻ thù.

Nàng Kiều trong Truyện Kiều đối với Thúc Sinh và Từ Hải vẫn nặng tình như đối

với Kim Trọng, mà lẽ ra theo đúng nguyên tác Kim Vân Kiều truyện “Thúy Kiều chỉ

thực sự yêu có một mình Kim Trọng, còn đối với Thúc Sinh và Từ Hải thì chủ yếu chỉ

cảm cái ơn họ chuộc mình ra khỏi lầu xanh. Nguyễn Du cũng không hề buộc chặt

nhân vật Thúy Kiều vào một thứ “phẩm tiết kiên trinh” như Thanh Tâm Tài Nhân.

Được Hoài Thanh coi là người “đi guốc trong ruột nhân vật”, Nguyễn Du hiểu hơn ai

hết mối tình với Kim Trọng dẫu sao cũng chỉ là mối tình đầu của Kiều. Với thời gian

xa cách chừng ấy năm, lại trải biết bao nhiêu bầm dập, trong tâm lý Kiều ví thử vẫn cứ

còn giữ nguyên vẹn tình cảm với Kim Trọng như thuở nào để suốt ngày mình dằn vặt

mình thì thật ít ai hiểu nổi. Nguyễn Du đúng là một ngòi bút hiện thực tâm lý, khi ông

cho nàng Kiều nhớ đến Kim Trọng như nhớ đến một kỷ niệm cũ, không còn thắm nữa

nhưng vẫn chưa phai: “Xót thay chút nghĩa cũ càng/Dầu lìa ngó ỷ còn vương tơ lòng”.

Nguyễn Du cũng không thể buộc Thúy Kiều hờ hững với Thúc Sinh vì trong hoàn

cảnh đang sống dưới địa ngục trần gian của nhà mụ Tú Bà, Thúc Sinh không chỉ là

người phò nguy cứu nạn, mà còn là con người hết sức đa tình, đã hiến dâng cho nàng

cả tâm hồn và của cải, cả tình yêu “đá vàng” lẫn tình yêu xác thịt: “Miệt mài trong

22

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

cuộc truy hoan/Càng quen thuộc nết càng dan díu tình”. Kiều giờ đây không còn ở cái

tuổi cài trâm e lệ như thuở mới yêu Kim Trọng. Nàng đã thất thân với Mã Giám Sinh

rồi với Sở Khanh, lại đã lăn lóc chốn lầu xanh, mùi đời đã trải. Bắt nàng cứ thờ ơ lạnh

nhạt trước một mối tình chứa chan hạnh phúc như của chàng Thúc e chỉ là giả dối nếu

không là ngốc nghếch về tâm lý. Thế nhưng mối tình của Thúy Kiều đối với Thúc

Sinh, cũng như sau này đối với Từ Hải, vẫn khác mối tình đầu giữa nàng với Kim

Trọng. Một bên e ấp, trong sáng, thuần túy tình yêu, một bên dạn dĩ, tỉnh táo, vừa là ơn

nghĩa, vừa biết tính toán thiệt hơn, nên tuy có nhớ nhung: “Cầm tay dài ngắn thở

than/Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời’ vẫn đinh ninh những chuyện rất thực tế:

“Đôi ta chút nghĩa đèo bòng”. Cũng vậy, với Từ Hải, người đã cứu mình khỏi chốn

bùn nhơ lần thứ hai, lại giúp mình đền ơn trả oán phân minh, cho mình được sống

những ngày hả hê nhất, mà nói Kiều lấy Từ không phải vì tình thì dễ chỉ có Thanh

Tâm Tài Nhân mới nghĩ ra được. Kiều của Nguyễn Du phát triển theo xu thế tâm lý

cuộc đời thực đã không thể làm như vậy. Nàng yêu Từ Hải với tấm lòng của người tri

kỉ: “Khen cho con mắt tinh đời/Anh hùng đoản giữa trần ai mới già”, cũng là với cái

nghĩa của người chịu ơn sâu nặng: “Thưa rằng lượng cả bao dung/Tấn Dương được

thấy mây rồng có phen”. Vì thế nàng vẫn dành cho từ Hải một góc trong trái tim

thương nhớ sau khi đã hồi tưởng hết cha mẹ, các em, đến người tình cũ: “Cánh hồng

bay bổng tuyệt vời/ Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”. Không thể nói với những

mối tình gắn bó sau này, Kiều đã tự đánh mất mình. Chính Kim Trọng là người hiểu

rất rõ tâm hồn của nàng trước sau vẫn toàn vẹn: “Chữ trinh kia cũng có ba bảy

đường”.

Điều này cho ta thấy sự khác biệt rõ ràng giữa tư tưởng của Nguyễn Du với tư

tưởng của Thanh Tâm Tài Nhân. Từ đó mà chủ đề của hai tác phẩm ngỡ là giống nhau

nhưng thật ra lại khác nhau hoàn toàn. Nếu Thanh Tâm Tài Nhân viết chỉ vì cảm

thông với thân phận chìm nổi bấp bênh, trăm đau ngàn khổ của nhân vật chính Thúy

Kiều - một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị bao “nỗi khổ nhục phũ phàng

23

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

hắt hủi” và cốt chỉ để chứng minh “Tạo hóa ghét sự hoàn toàn, hơn điều nọ tất phải

kém điều kia, sinh được một phần hồng nhan thì phải chịu mười phần đày đọa, có

được một chút tài tình lại phải gánh thêm mười phần nghiệp chướng”.

Thì ở Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du dường như sâu sắc hơn nhiều. Ông

đau cho cái kiếp số bèo bọt của nhân vật hay cũng chính là đau cho cái cuộc đời thực

của ông? “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Câu thơ

nghe như xé lòng người đọc tan tác, ta nghe đâu đó cả tiếng cười gằn mỉa mai của tác

giả. Rõ ràng, cái cảm của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là cái cảm của người ngoài, làm

sao đau, sao xót bằng cái cảm của Nguyễn Du - người trong cuộc! Nguyễn Du đã xây

dựng một Thúy Kiều làm ta đau đớn hơn hẳn ngàn lần Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân.

Khi viết Đoạn Trường Tân Thanh, ngoài việc lược bỏ những đoạn hoặc rườm rà

hoặc không cần thiết trong Kim Vân Kiều truyện, cụ Nguyễn Du đã chứng tỏ biệt tài

trong việc sử dụng ngôn ngữ qua những đoạn tả cảnh, tả tình, tả tình trong cảnh, tả

cảnh trong tình; cũng như đã thành công trong việc miêu tả nhân vật và tô đậm cá tính

nhân vật với chỉ vài câu thơ. Thêm nữa, cụ cũng đã trang bị cho các nhân vật một đời

sống nội tâm phong phú với những suy tư, những khao khát, những rung động phù hợp

với con người của họ theo từng hoàn cảnh của câu chuyện. Đây là những điều Thanh

Tâm Tài Nhân đã thiếu sót khi sáng tác Kim Vân Kiều Truyện.

Chính tài năng của Nguyễn Du đã cắt nghĩa được tại sao hai tác phẩm kể cùng một

câu chuyện lại có hai số phận khác nhau. Một bên nhanh chóng chìm vào quên lãng

ngay chính trên quê hương của nhân vật trong truyện, một đằng vừa xuất hiện đã được

quần chúng mở rộng vòng tay đón nhận và trở thành tác phẩm bất hủ của dân tộc và cả

thế giới. Từ sự thực đó nói lên một cách rõ ràng: Truyện Kiều không phải là một tác

phẩm dịch. Dịch và viết bao giờ cũng là hai chuyện khác nhau. Điều đó có lý do của

nó. Bởi vì ngôn ngữ chỉ là công cụ của nhà văn, nhà thơ dùng để diễn đạt một nội dung

nào đấy qua một số hình tượng nào đấy trong một tác phẩm văn học. Cái vĩ đại, cái

chủ yếu của một tác phẩm văn học chính là nội dung cùng với cả hệ thống hình tượng

24

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

của nó được diễn tả, được xây dựng nên bằng một ngôn ngữ tương ứng. Không có cái

nội dung được diễn tả qua hệ thống hình tượng ấy thì ngôn ngữ - hay nói một cách

25

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

nôm na, thì văn có bóng bẩy đến đâu cũng không sao gọi là hay được.

Chương 2: SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG TRUYỆN KIỀU

2.1 Đặc trưng chất trữ tình trong Truyện Kiều

Đặc trưng chất trữ tình 2.1.1

Theo nghĩa Hán tự, trữ là rút ra, kéo ra; tình là tình cảm, cảm xúc. Như vậy, theo

nguyên nghĩa của nó “trữ tình” biểu hiện một hành động, một động tác, thể hiện, bộc

lộ cảm xúc. “Bút pháp trữ tình là một lối thể hiện cuộc sống đặc biệt – thể hiện cuộc

sống thông qua sự bộc lộ tình cảm, cảm xúc của chủ thể sáng tạo” [tr.8,14]

Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ. Tác phẩm thơ luôn thiên về diễn tả

những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời. Những rung động ấy

xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng đời sống vào

tâm hồn nhà thơ. Khi phân tích tác phẩm mang đậm chất trữ tình, ta không phải đi sâu

vào mổ xẻ, cắt nghĩa, lí giải về các chi tiết, sự kiện, sự việc được nhà thơ đề cập, mà

điều cốt lõi là thấy và nói được những cảm xúc, tâm trạng, thái độ và suy tư của nhà

thơ về các vấn đề trên.

Tác phẩm trữ tình là tác phẩm được xây dựng bằng bút pháp trữ tình, ở đó cuộc

sống hiện ra như là một sản phẩm của sự chủ quan hóa. Nội dung của tác phẩm trữ

tình là nội dung cảm nghĩ mà cuộc sống đã gợi lên trong chủ thể sáng tạo, vì vậy,

những mảng hiện thực khách quan đều in đậm màu sắc chủ quan với tất cả những nét

cá biệt của nó do bàn thân mỗi chủ thể sáng tạo có những kinh nghiệm riêng, vốn sống

riêng. Mặt khác, mỗi một con người lại có những góc độ cảm nhận cuộc sống riêng và

những phương thức biểu hiện riêng tùy theo cá tính và bản lĩnh. Vì vậy, “nếu con

người được giới thiệu qua một trạng thái tâm hồn, qua một tâm trạng cá biệt nhất định

không có cốt truyện, thì trước mắt chúng ta là loại trữ tình,… Trong tác phẩm trữ tình,

bất cứ thuộc thời gian nào, chúng ta đều thấy có một lối thể hiện con người, thể hiện

tính cách hoàn toàn khác, ở đây con người được vẽ lên trong một tâm trạng cá biệt

26

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

của mình” - L.JTimofiep

Trong truyện thơ, hình tượng trữ tình tồn tại theo những phương thức có phần

khác biệt. Truyện thơ được xây dựng không chỉ bằng bút pháp trữ tình mà còn bằng

bút pháp tự sự, bút pháp trào phúng. Trong khi xây dựng truyện thơ, tác giả đã kết hợp

các bút pháp khác nhau để thể hiện những nội dung khác nhau, những nhân vật khác

nhau. Bút pháp tự sự để miêu tả diện mạo, hành động và biểu hiện bên ngoài của nhân

vật. Bút pháp trữ tình thể hiện đời sống nội tâm của nhân vật, thái độ, tâm tư tình cảm

của tác giả. Hai bút pháp này có liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung và chuyển hóa lẫn

nhau.

Thơ là sự bộc bạch nội tâm của tác giả. Thơ là một thể loại có mặt sớm trong nền

văn học dân tộc. “Thơ là sự chắt lọc, kết tinh chiều sâu và tiếng nói tâm hồn con

người” [tr13;9]. Đọc thơ, ta dễ thấy cái “tôi” cá nhân của người cầm bút. Thơ thường

có hai loại cơ bản là thơ trữ tình và thơ tự sự. Thơ trữ tình chủ yếu như một bản tự

thuật tâm trạng. Nhà thơ thường trực tiếp bày tỏ tâm trạng của mình thông qua nhân

vật trữ tình. Ở thơ tự sự, nhà thơ thường thể hiện tình cảm, thái độ trực tiếp thông qua

các sự kiện. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã bày tỏ tâm tư, tình cảm qua nội tâm

nhân vật, ý kiến trước thực trạng xã hội thối nát. Có thể thấy rằng, Truyện Kiều là thể

thơ “hỗn hợp trữ tình – tự sự” [tr15;9] “

2.1.2 Chất trữ tình trong Truyện Kiều

2.1.2.1 Thể thơ

Truyện Kiều được viết bằng thể thơ lục bát. Thơ lục bát là thơ của Việt Nam,

giống như thơ Đường luật của Trung Quốc, thơ Hai Ku của Nhật Bản và nhiều thể thơ

khác của các dân tộc trên thế giới. Thơ lục bát thân thiết với tất cả mọi tầng lớp người

Việt, sâu lắng và tinh tế trong biểu đạt mọi trạng thái tư tưởng, tình cảm. Thơ lục bát

nảy nở rực rỡ trong tục ngữ, ca dao, hò vè, các làn điệu dân ca nối dài từ đời này qua

đời khác để rồi tồn tại mãi mãi. Thơ lục bát dễ làm, dễ thuộc và ai cũng có thể làm

được cho dù là người biết chữ hay không biết chữ. Một bài thơ lục bát có thể dài đến

27

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

vô cùng nhưng lại có thể ngắn đến chỉ là một cặp câu với mười bốn chữ nhưng vẫn hội

tụ đủ nội dung và nghệ thuật của một bài thơ. Thời gian định hình của thể lục bát đến

nay vẫn chưa xác định chắc chắn. Có người cho rằng: “Thời gian định hình của thể lục

bát từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ XV. Trong thời gian này, giới trí thức chỉ lo làm các thể

thơ gốc Trung Hoa. Các bài thơ thường viết bằng chữ Hán. Giới bình dân thường

truyền miệng nhau những câu thành ngữ quen thuộc, những câu tục ngữ có giá trị đạo

lý, lúc đầu chưa có điệu, chưa có vần nhưng dần dần được hoàn chỉnh để trở thành ca

dao với vần điệu và âm vận rõ ràng” [tr.105,17]

Thơ lục bát được hình thành trước hết là bởi các nhóm với sáu từ làm thành câu

lục và tám từ làm thành câu bát. Các nhóm từ này được ghép lại với nhau theo một

quy tắc gọi là luật của thơ lục bát. Luật thơ lục bát bao gồm toàn bộ các quy định về

hiệp vần và sắp xếp từ ngữ, âm thanh trong các câu thơ. Luật thơ lục bát được tóm tắt

về sự sắp xếp từ ngữ trong câu lục theo thứ tự: bằng, bằng, trắc trắc, bằng, bằng. Đối

với câu bát các từ được xếp theo thứ tự: bằng bằng, trắc trắc, bằng bằng, trắc bằng.

Cho dù luật là vậy, song trong thực tế có thể thay đổi ở một vài vị trí để linh hoạt trong

sáng tác. Sự thay đổi này cũng có nguyên tắc giống với thơ Đường luật, đó là cụm từ:

“Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”. Nghĩa là những từ ở các vị trí 1,3,5 có

thể bỏ qua quy định về bằng trắc, còn các từ ở vị trí 2,4,6 phải đúng quy định. Dù vậy,

ngay cả các vị trí nằm trong quy định cũng vẫn bị việc thay đổi như thường. Đấy là các

trường hợp “nhị” vốn là bằng lại được thay là trắc và “tứ” là trắc lại thay là bằng.

Không những thế vị trí vần giữa câu 6 và câu 8 cũng có những thay đổi để ta có dạng

thơ lục bát biến thể như lâu nay ta vẫn từng đọc từng nghe.

Có thể thấy, lục bát là thể thơ có khởi nguồn từ ca dao. Chính đặc điểm về cấu tạo

thể thơ đã tạo nên một giọng thơ ngọt ngào, đậm tính dân tộc. “Cấu trúc câu sáu, câu

tám, lúc dài lúc ngắn nối tiếp nhau miên man không biết điểm dừng được ví như

những “con sóng” của tâm trạng. Vì thế, thể thơ này rất phù hợp để diễn tả tâm tình

28

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

của con người. Đặc biệt là tâm sự buồn thương, chua xót của người phụ nữ.” [tr.77,3].

Trong bài viết “Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ” (NXB Giáo dục, 1999), GS

Nguyễn Văn Hạnh cũng đã có những nhận xét rất xác đáng về giá trị của thể loại này

trong nền văn học Việt Nam: “Trải qua bao biến thiên, đảo lộn về xã hội, tư tưởng,

tâm lý suốt mấy trăm năm, người Việt vẫn coi lục bát như một thể thơ đặc trưng nhất

của dân tộc, và có khả năm tuyệt vời để diễn tả những rung động sâu xa, tinh tế nhất

của tâm hồn Việt Nam” [tr77]

Khi nhắc đến thể thơ lục bát, ngoài việc nghĩ đến những câu ca dao truyền thống

thì ta cũng không thể nhắc tới Truyện Kiều. Có thể nói, Truyện Kiều được xem là đỉnh

cao của văn học trung đại Việt Nam không chỉ vì nội dung mà còn ở phương diện nghệ

thuật. Với việc lựa chọn thể thơ lục bát, thể thơ của dân tộc mang đậm chất trữ tình,

Nguyễn Du đã đưa tác phẩm nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung đạt đến

một tầm cao mới. Thể thơ đã góp phần tạo nên giọng thơ tâm tình, thủ thỉ, ngọt ngào

nhưng cũng đậm tính triết lý sâu sắc. Đó chính là tiếng lòng của những cảm xúc tinh

tế, sâu sắc của con người.

Gieo vần trong ca dao và Truyện Kiều đều là gieo vần chân và vần lưng. Sự gắn

kết giữa tiếng cuối câu lục và tiếng sáu của câu bát, tiếng cuối câu bát và tiếng cuối

câu lục tiếp theo góp phần tạo nên tiếng thơ dài miên man như tâm trạng con người:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

29

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

“Giọng thơ trong Truyện Kiều là giọng tâm tình thủ thỉ. Đó không phải chỉ là suy

nghĩ, tình cảm mà nó còn là tất cả những rung động sâu xa, tinh tế nhất của cảm xúc

của con người” [tr.81,3]. Chất trữ tình trong tác phẩm còn được thể hiện qua những

cách nói quen thuộc của ca dao. Nguyễn Du đã nhiều lần mượn ca dao để viết lên

những vần thơ đặc sắc:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường

(Truyện Kiều)

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?

(Ca dao)

Chính nhờ việc “mượn ý tứ” của ca dao để diễn tả thế giới nội tâm của nhân vật đã

góp phần rất lớn vào việc tạo nên chất trữ tình trong tác phẩm. Âm hưởng ngọt ngào từ

ca dao đã tạo ra chất trữ tình mượt mà. “Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡ chàng?” –

“Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”. Kiều không chỉ trông ngóng, mong đợi mà

còn trách thầm định mệnh. Chính cách “mượn ý” từ ca dao này cho thấy tình yêu mà

Kiều dành cho Thúc Sinh một cách thật nhẹ nhàng, lãng mạn.

Diễn tả tư thế hùng dũng, đội trời đạp đất của Từ Hải, Nguyễn Du dùng rất nhiều

từ có phụ âm đầu là “đ” mà sắc thái tu từ của nó khi đọc lên gây ấn tượng chắc chắn,

vững chãi:

Đường đường một đấng anh hào

30

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài

Đội trời đạp đất ở đời

Họ Từ tên Hải vốn người Việt đông

Thể thơ lục bát có khả năng tu từ to lớn, đặc biệt ở sự kết hợp những từ thanh bằng

và thanh trắc, cách gieo vần, cách đối và ngắt nhịp. Dưới ngòi bút Nguyễn Du, thể thơ

lục bát được sử dụng linh hoạt, “thiên biến vạn hóa”

Về cách gieo vần, luật bằng trắc, thể lục bát qui định trong câu sáu, chữ 2, 4, 6

phải theo luật bằng – trắc – bằng. Trong câu tám, chữ 2, 4, 6, 8 theo luật bằng – trắc –

bằng – bằng. Trong một cặp lục bát 14 chữ, có 7 chữ bắt buộc theo luật bằng trắc, 7

chữ còn lại được sử dụng linh hoạt. Nguyễn Du đã vận dụng qui tắc ấy một cách tinh

tế nhất. Khi tả cảnh mùa xuân, Nguyễn Du đã sử dụng câu thơ gồm rất nhiều từ thanh

bằng: Lơ thơ tơ liễu buông mành

2.1.2.2 Giọng điệu trữ tình

Theo “Từ điển Tiếng Việt”: “Giọng điệu là giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ

nhất định. Ví dụ: Giọng láo xược. Giọng điệu có ý nghĩa như ngữ điệu”. Nhà văn sử

dụng giọng điệu để biểu thị thái độ, tình cảm của con người. Giọng điệu là âm hưởng

chung toát lên từ tác phẩm, nó biểu hiện ở nhịp điệu, hình ảnh, tính nhạc, ở cách tác

giả gieo vần, sử dụng từ ngữ.

Giọng điệu là yếu tố quan trọng chi phối toàn bộ tác phẩm, giúp ta phân biệt được

tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khác. “Văn thâm hậu thì con người của nó trầm

mà tĩnh; văn ôn nhu thì con người của nó khiêm và hòa; văn cao khiết thì con người

của nó đam mà giản; văn hùng hồn thì con người của nó cương mà nhanh; văn uyên

sau thì con người của nó thuần túy và đứng đắn” [tr189; 10]. Để đạt được những điều

đó, nhà văn phải tự tìm cho mình một giọng điệu riêng nếu không muốn rơi vào sự lặp

lại của kẻ khác. Một tác phẩm không có giọng điệu riêng sẽ gây cho người đọc sự

nhàm chán, “đọc xong rồi quên ngay” (Nam Cao). Giọng điệu là âm hưởng chung toát

31

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

lên từ tác phẩm nghệ thuật. Nó bộc lộ rõ nét nhất toàn bộ cách cảm, cách nhìn, cách

nghĩ của người viết. Mỗi nhà văn thường tìm cho mình một hình thức thể hiện đứa con

tinh thần riêng, một chỗ đứng riêng trong lòng độc giả. Ví dụ văn Nam Cao thường

mang tính suy lý, triết lí về cuộc sống. Nguyễn Công Hoan dù cùng thời đại nhưng lại

dùng lời nói bình dị như thành ngữ, tục ngữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày.

Trong tác phẩm trữ tình, nhà thơ trực tiếp bày tỏ tình cảm, tư tưởng của mình đối

với cuộc sống. Không tác phẩm trữ tình nào là không có giọng điệu. Mỗi giọng điệu có

một kiểu thể hiện riêng, giọng tâm tình, giọng âu lo chiêm nghiệm, giọng mỉa mai

châm biếm, … nhưng tất cả đều hướng tới mục đích chính là thể hiện tình cảm của tác

giả. Thể loại thơ tự sự được tác giả viết ra với một tình cảm nồng nhiệt, yêu, ghét,

châm biếm mỉa mai hay yêu thương trân trọng được bày tỏ một cách rõ ràng. Yếu tố

giọng điệu chiếm vị trí quan trọng. Khi đọc Truyện Kiều, không ít người đã bất ngờ

với giọng điệu thơ đôi lúc táo bạo và đầy cảm xúc:

Chém cha cái số hoa đào

Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi

Trong văn học trung đại từ trước cho tới Nguyễn Du chưa có tác giả nào bày tỏ

thái độ một cách rõ ràng như thế. Nguyễn Du đã lựa chọn từ ngữ một cách tinh tế,

chuẩn xác để thể hiện tâm tư, tình cảm một cách rõ nét. Bằng giọng thơ yêu thương,

đầy ai oán, ông đã trực tiếp bộc lộ thái độ phẫn uất đối với định mệnh khắc nghiệt

đang bao vây lấy Kiều. Ta thấy được rằng, Nguyễn Du đã tìm cho mình một giọng

điệu riêng, đậm chất Nguyễn Du.

Giọng kể đa dạng, thấm đẫm cảm xúc là một đặc điểm lớn của giọng kể trong

Truyện Kiều. Mỗi chủ thể có một giọng kể riêng, kể cả giọng của chủ thể kể chuyện vô

hình, giọng của các nhân vật tham gia kể chuyện và giọng của nhân vật tự kể chuyện

mình. Các giọng này “song song tồn tại, giọng lồng trong giọng” [tr.139, 1], cũng

chính nó góp phần tạo ra tính đa thanh, đối thoại trong Truyện Kiều mà các truyện

32

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Nôm trước Truyện Kiều chưa có. Người kể chuyện vô hình kể lại câu chuyện đời Kiều

với giọng kể đầy yêu thương nhưng chất chứa nỗi đau. Thúc Sinh kể về Kiều trong sự

khâm phục và yêu thương. Kiều tự kể chuyện mình trong sự xót xa và đau đớn.

Chính việc lựa chọn giọng kể trữ tình cho nhân vật đã góp phần đưa nghệ thuật trữ

tình của tác phẩm lên đỉnh cao. Nỗi đau của Kiều là nỗi đau của người tự ý thức về

mình với những nỗi đau, những mất mát của cuộc đời. Nỗi đau của người kể chuyện

vô hình là nỗi đau của người chứng kiến “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” .

Khi kể chuyện, tác giả đóng vai trò là người dẫn chuyện và mỗi lúc câu chuyện đến

hồi kịch tính thì Nguyễn Du lại cất lên giọng điệu cảm thông của mình. Đó là tiếng

kêu, tiếng gào thét thương cảm cho số phận cho con người tài hoa bạc mệnh, Nguyễn

Du không chỉ thấu hiểu mà còn muốn kêu gọi sự cảm thông nơi người đọc. Tố Hữu đã

có những câu thơ rất hay về sự cảm thông của ông với Nguyễn Du qua Truyện Kiều:

Trải qua một cuộc bể dâu

Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình

Nổi chìm kiếp sống lênh đênh

Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều

(Tố Hữu – Kính gửi cụ Nguyễn Du)

Người đọc cảm thương cho Kiều, cho nỗi đoạn trường đời Kiều chính nhờ tâm

huyết mà Nguyễn Du gửi gắm trong tác phẩm. Từng câu thơ “như có máu chảy đầu

ngọn bút” . Nguyễn Du nhập thân vào câu chuyện bằng nhiều cách và ở mỗi cách ông

đều tạo ra nét riêng. Ở những câu thơ chuyển đoạn, hoặc kết thúc đoạn đều thấy thẫm

đẫm cảm xúc người viết. Có thể nói ông đã kết hợp một cách hài hòa bút pháp tự sự và

bút pháp trữ tình. Đôi lúc, người đọc thấy Nguyễn Du có mặt trong tác phẩm như một

nhân vật, từ đó ông thốt lên tiếng nói lòng mình:

Thương ôi! Tài sắc bậc này

33

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Một dao oan nghiệt đứt giây phong trần!

Nguyễn Du đã nhiều lần lên tiếng bênh vực cho Kiều. Ông hiểu được nỗi đau của

con người trong xã hội phong kiến, nỗi đau của cả một kiếp người. Đó không chỉ là

nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau về tinh thần:

Thịt da ai cũng là người

Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau

Ông xót xa cho cảnh Kiều bị Hoạn Bà đánh đập:

Trúc côn ra sức đập vào

Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh

Xót thay! Đào lý một cành

Một phen mưa gió tan tành một phen

Nỗi đau về thể xác có thể qua đi nhưng nỗi đau tinh thần luôn dai dẳng trong tâm

trí con người:

Thương thay thân phận lạc loài

Dẫu sao cũng ở tay người biết sao

Nguyễn Du viết Truyện Kiều theo cảm hứng chủ đạo là phản ánh cuộc sống hiện

thực và lòng yêu thương con người. Chính từ cảm hứng nhân đạo, những hình ảnh đầy

đau thương “hoa trôi bèo dạt”. “chiếc lá lìa cành”, “trâm gãy gương tan”, “thịt đổ

máu sa” giọng điệu trữ tình xuất hiện một cách tự nhiên, tinh tế. Bao trùm cả tác phẩm

là tiếng lòng của tác giả đối với cuộc đời Kiều. Cả đời Kiều bị xô đẩy bởi sự lừa lọc,

dối lừa của đầy rẫy kẻ xấu. Kiều tài hoa nhưng bạc mệnh, dễ tin người, từ Mã Giám

Sinh, Sở Khanh đến Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hồ Tôn Hiến đều có thể lừa dối nàng.

Kiều đại diện cho kiếp người nhỏ bé mong manh trong xã hội đầy cạm bẫy ấy. Nguyễn

34

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Du thấy thương cho Kiều làm sao:

Thương ôi, không hợp mà tan

Cả nhà vinh hiển riêng oan một nàng

Nàng chịu thiệt thòi đủ đường. Trong khi ai cũng “vinh hiển”, tìm được hạnh phúc

riêng thì riêng nàng phải trải qua mười lăm năm lưu lạc chân trời góc bể. Cũng là kiếp

người nhưng người ta vinh hiển, nàng thì đầy rẫy khổ đau:

Thoắt mua về thoắt bán đi

Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần

Do vậy, mới mở đầu tác phẩm, Nguyễn Du đã cất lời than:

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Cả tác phẩm là một tiếng kêu cho số phận người phụ nữ:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Khi Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã miêu tả nội tâm nàng bằng sự cảm thông sâu

sắc:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa

Bị đẩy vào chốn bùn nhơ, phải đem tấm thân của mình để mua vui cho những kẻ

lắm tiền háo sắc, Kiều đau đớn, xót thương cho cái phận “sống làm vợ khắp người ta”

của mình, nỗi nhục nhã ấy cứ nghĩ đến là đau lòng. Lầu xanh là chốn ăn chơi trụy lạc,

và chính cái “giật mình” của Kiều trong chốn lầu xanh làm cho người đọc xúc động.

35

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Đó là cái giật mình của người không tin vào sự thật mình đã bị đẩy vào chốn bùn nhơ,

xô bồ, bẩn thỉu. Đằng sau tâm trạng ấy của Kiều mà một Nguyễn Du – một con người

hiểu nỗi đau nhân tình thế thái, yêu thương nhân vật hết mình. Ở cái chốn lầu xanh

nhơ nhớp ấy lại có một cô gái biết coi trọng phẩm giá của mình đến thế đủ thấy

Nguyễn Du thương cho nhân vật của mình thế nào.

Nguyễn Du thường sử dụng câu cảm thán trong tác phẩm như một tiếng kêu ai oán

xé lòng. Từ vai trò người kể chuyện, người đọc nhận ra rằng ông đã có những tiếng nói

đồng cảm yêu thương thông qua giọng điệu. “Nếu không có con mắt nhìn xuyên sáu

cõi, có tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời thì làm sao có được bút lực ấy”. Giọng điệu trữ

tình thấm đẫm trong cả tác phẩm, rõ ràng nếu Nguyễn Du không có tấm lòng nhân đạo

sâu sắc, sự cảm thông hết mực thì không thể có một giọng điệu cảm thông ngân vang

trong lòng người đọc đến như vậy. Giọng điệu trữ tình trong tác phẩm góp phần tạo

nên sự thành công đặc săc của Truyện Kiều và phong cách sáng tác độc đáo riêng biệt

của Nguyễn Du. Truyện Kiều không phải chỉ là một truyện thơ theo nghĩa một truyện

được viết bằng văn vần đơn thuần mà nó quả là một truyện thơ thực sự với lời kể vừa

có chất truyện, vừa có chất thơ. Lời kể trong Truyện Kiều thấm đẫm chất thơ. Giọng

kể thấm đẫm cảm xúc, trong đó có giọng buồn đau, suy tư chiêm nghiệm bao trùm

toàn bộ tác phẩm là nhân tố cơ bản tạo ra chất thơ của lời kể chuyện.

2.1.1.3 Trữ tình thiên nhiên

Trong văn học cổ, hình tượng thiên nhiên thường gắn với cảm xúc và là một hình

thái ngôn ngữ nghệ thuật. Chính vì thế, Truyện Kiều phản ánh cuộc sống xã hội thông

qua con người cảm nghĩ với những xúc động, suy tư sâu kín bên cạnh thiên nhiên,

nhân vật không lời. Ngôn ngữ thiên nhiên xuất hiện khi Nguyễn Du vẽ cảnh bằng chất

liệu ngôn ngữ mang đậm tính gợi hình, gợi cảm, làm cho nhân vật hoạt động và bộc lộ

tính cách.

Một trong những biểu hiện giàu chất thơ của ngôn ngữ Truyện Kiều là có một mối

liên hệ gắn bó giữa tâm tình, cảm xúc của nhân vật với những rung động của thiên

36

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

nhiên. “Thiên nhiên trong Truyện Kiều là những không gian nghệ thuật có chức năng

làm nền cho việc khắc họa các dòng tâm tư, tình cảm của con người cũng như giúp

cho việc hoàn thiện vận mệnh và tính cách của nhân vật” [tr.124,4 ]. Thiên nhiên

trong Truyện Kiều trở thành một hình thái ngôn ngữ nghệ thuật để miêu tả tâm hồn con

người. Thiên nhiên đã giúp Nguyễn Du diễn tả tâm trạng nhân vật một cách chân thật

nhất.

Bằng bút pháp nhân hóa, Nguyễn Du đã lắng nghe trái tim con người thông qua

thiên nhiên. Cảnh vật không chỉ mang sức sống trực tiếp của bản thân nó mà còn mang

sức sống của một thiên nhiên vô hình nhưng sống động. Nhận xét về thiên nhiên trong

Truyện Kiều, ông Đỗ Minh Tuấn có viết về thiên nhiên trong Truyện Kiều lung linh kì

ảo vì nó vừa tồn tại trong không gian vũ trụ, vừa tồn tại trong không gian của tâm hồn

tác giả. Thiên nhiên hiện ra như một thứ thước đo trạng thái của cuộc đời nhân vật,

một thứ ký hiệu trữ tình đánh dấu, tổng kết một giai đoạn nhất định của cuộc đời nhân

vật. Thiên nhiên ở đây không phải là một khách thể đi bên cạnh cuộc đời mà nó là tâm

hồn con người hay như có người nói “thiên nhiên là bình chứa các tâm trạng”.

Thiên nhiên luôn gắn với những biến cố trong cuộc đời nhân vật, nhất là Thúy

Kiều. Thiên nhiên luôn đi theo bước chân nàng, mỗi lúc một vẻ. Thiên nhiên trong tác

phẩm nhiều khi là bức tranh thủy mặc, khi là một mảnh trời, một cửa bể nhưng cũng

có khi chỉ là một cành liễu rũ, một dòng nước. Nhưng dù là hình ảnh gì, màu sắc nào

thì thiên nhiên vẫn luôn mang đậm nỗi niềm tâm sự. Cảnh luôn mang cảm xúc của

người đối cảnh khiến cho cảnh vật cũng có tâm hồn. Nguyễn Du đã tạo nên một sự

giao hòa tuyệt đối giữa cảnh vật và tấm lòng con người. Không phải ngẫu nhiên mà

Nguyễn Du viết: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét: “Có thể nói, thiên nhiên trong Truyện

Kiều cũng là một nhân vật thường vẫn kín đáo lặng lẽ nhưng không mấy khi có mặt và

luôn thấm đượm tình người”. Trong mỗi cảnh vật trong Truyện Kiều, dù là một ngọn

cỏ hay một vầng trăng, một không gian mênh mông hay hiu quạnh, tất cả đều mang

37

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

dấu ấn của con người. Đó là khi một tình yêu chớm nở:

Dưới cầu nước chảy trong veo

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha

Một nỗi sợ cô độc, lạnh lẽo:

Mịt mù dặm cát đồi cây

Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giày cầu sương

“Thiên nhiên đóng vai trò là một phương thức biểu hiện, một phương diện trữ tình

của tác giả nên nó có một chiều sâu thăm thẳm của tình người”[tr.130,14]. Thiên

nhiên trong Truyện Kiều biết “trút lá”, biết “thoi thóp về rừng”, biết “xao xác” trước

khổ đau và tuyệt vọng của con người.

Trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tâm trạng buồn tủi của Kiều đã thể hiện rõ

nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng nhưng đều diễn tả một khía

cạnh trong tâm trạng của Kiều. Cánh buồm trên biển giữa mênh mông trời chiều hoàng

hôn thật cô độc, lẻ loi:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Khung mở ra vào thời điểm chiều hôm, thời điểm của những lưu luyến khó tả.

“Cửa bể chiều hôm” gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản

chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ

nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha

thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Các từ ngữ “thấp thoáng”, “xa xa” gợi

sự lẻ loi, đơn độc như chính niềm hi vọng mỏng manh, leo lét của Kiều. Một mình bơ

vơ ở nơi đó, Kiều chỉ mòn mỏi nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, chờ mong một con

thuyền đến cứu, thế nhưng những chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở xa rồi mất hút về

38

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

phía chân trời. “Thuyền ai” lênh đênh rồi mất hút về phía chân trời xa như cuộc đời

Kiều, chẳng biết đến bao giờ có thể về được quê nhà, báo hiếu cho cha mẹ. Ánh nhìn

của Kiều vẫn ở mặt nước nhưng đã gần hơn:

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cánh hoa mỏng manh, dập dìu trong dòng nước, bé nhỏ, chẳng thể nào chống chọi

được sức của “ngọn nước mới sa” như chính thân phận nàng Kiều nhỏ bé trong dòng

đời đẩy đưa. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi, tả tơi trôi theo dòng đời vô định

“biết là về đâu” như chính bông hoa kia. Nhìn cánh hoa bị vùi dập tả tơi ấy, nàng

Kiều lại càng nhớ thương Kim Trọng, càng buồn tủi, xót xa vì số phận bèo dạt mây

trôi, chẳng biết sẽ đi về nơi nao của mình. Không chỉ có mặt nước mênh mang chất

chứa bao nỗi buồn mà cả cỏ cây cũng sầu thảm:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Ngược với cái tên xanh biếc hi vọng của “Ngưng Bích” sắc xanh nối tiếp của trời

đất qua đôi mắt buồn tủi của Kiều trở nên thật sầu thảm. Từ láy “rầu rầu” gợi nên hình

ảnh của một bãi cỏ tàn úa, xơ xác đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất tàn úa,

héo hon, vô vị, tẻ nhạt như chính số phận bị giam lỏng trên lầu cao của Kiều. Tuổi

thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài sắc vẹn toàn của nàng rồi sẽ phai tàn, vô vị như màu

xanh héo úa kia. Màu xanh vốn là màu của hi vọng nay đã tàn úa như chính niềm hi

vọng đang cạn dần và nỗi xót xa, dằn vặt ngày càng dâng cao trong lòng Kiều. Quang

cảnh đang im lặng, bỗng dậy sóng:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Âm thanh của tiếng sóng “ầm ầm” trong cảnh “gió cuốn mặt duềnh” như chính là

39

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

những bão tố phong ba đang chờ Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào

tai họa sẽ ập đến như tiếng sóng dồn dập ngoài xa. Tiếng sóng ầm ì như chính tiếng

của tai họa sắp ập tới, những cạm bẫy của cuộc đời ập đến “kêu quanh ghế ngồi” khiến

cho nàng Kiều sợ hãi. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm

nhân vật kết hợp bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện. Qua bức tranh trên, ta thấy

được sự vận động trong nỗi buồn của Kiều, từ buồn mênh mang, sang buồn tàn tạ,

mênh mông, hiu quạnh sang đến buồn thảng thốt, dữ dội. Thiên nhiên cũng thay đổi,

vận động theo đó.

Đỗ Minh Tuấn trong Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã cho

rằng: Thiên nhiên trong Truyện Kiều được nhuốm một màu cảm xúc đặc biệt của nhân

vật, một cảm xúc đã được trái tim nhà thơ nhận thức lại, đánh gía lại tâm trạng tâm

trạng của nhân vật truyện trước khi nghiễm nhiên vào thiên nhiên để trở thàn trạng

thái của cảnh vật được nhà thơ đồng cảm và bình luận [tr.160, 14]

Người đọc có thể nhận thấy một thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng khi chàng Kim

trở lại vườn thúy sau những ngày tháng về Liêu Dương hộ tang chú:

Từ ngày muôn dặm phù tang,

Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà.

Vội sang vườn Thúy dò la,

Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.

Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,

Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.

Trước sau nào thấy bóng người,

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

40

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Xập xè én liệng lầu không,

Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.

Cuối tường gai góc mọc đầy,

Đi về này những lối này năm xưa.

“Kim Trọng trở lại vườn Thúy” là bức tranh tâm trạng đầy những ngỡ ngàng của

chàng Kim. Đất Liêu Dương đã xa nay lại càng xa hơn với một không gian rộng lớn

mênh mông “muôn dặm phù tang”. Thời gian Kim Trọng xa Kiều cũng chỉ nửa năm,

nhưng với chàng thì nó dài dằng dặc “từ ngày muôn dặm”. Rõ ràng không chỉ thiên

nhiên mà cả không gian, thời gian cũng nhuốm màu tâm trạng. Đỉnh cao của sự đớn

đau mà Kim Trọng phải đón nhận là nghịch cảnh bày ra trước mắt, cảnh vẫn đó nhưng

người không còn ở đó, tình vẫn sâu đậm nhưng người không còn nữa. Cảnh vật hiện

lên hoang tàn, đổ nát. Nơi đây khi xưa đầm ấm nay chỉ còn lại đống hoang tàn, đổ nát

– “Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa”. Giờ đây, chàng Kim đứng trước một vườn

xuân, cũng có cánh én, cũng có gió xuân, có cả hoa đào mùa xuân nhưng khu vườn

thật ảm đạm. Cánh én giờ đây khác hẳn “cánh én đưa thoi” ngày nào. Vườn tược

hoang phế, nhà cửa cũng tiêu điều làm sao. Những song cửa không có người đóng để

mặc cho ánh trăng quạnh quẽ chiếu vào. Dù ảm đạm, tiêu điều nhưng mỗi ngọn cỏ lá

cây đều đánh thức ở chàng Kim những kỉ niệm khó quên. Kỉ niệm hiện lên trong tâm

trí của chàng trai trẻ, lớp bụi thời gian không làm mờ đi hình ảnh Thúy Kiều – “Đi về

này những lối này năm xưa”. Chữ “này” trong khẩu ngữ hàng ngày được lặp lại hai

lần trong câu thơ tám chữ khắc họa thêm trạng trạng đau xót của chàng trai

“Có thể hình dung cuộc đời Thúy Kiều là một bài thơ trữ tình, là những khái quát

của nỗi đoạn trường, trầm luân mà tác giả là người chứng kiến và cùng chung một

chuyến đò số phận đầu oan trái” [tr144, 13]. Dường như ngôn ngữ tác giả dành cho

Kiều là những lời tâm huyết mà ngay cả trong các tác phẩm Hán văn cũng chưa bao

giờ nhắc đến. Qua hình tượng thiên nhiên, Truyện Kiều hiện lên đầy tâm trạng bởi nó

nói lên nỗi đau, nỗi uất hận muôn đời mà người phụ nữ nói riêng và những người tài

41

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

hoa nói chung phải gánh chịu.

2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều

2.2.1 Đặc trưng chất tự sự

Trong một số công trình Tự sự học (Narratology), thuật ngữ “tự sự” được dịch là

“trần thuật”. Theo đó nhiều người đã gọi “tác phẩm tự sự” là “tác phẩm trần thuật”.

Cả hai thuật ngữ này đều chỉ cùng một nội dung: tác phẩm có cốt truyện, có người kể

chuyện. Chúng ta cần xác định rõ hơn về vấn đề này. Cụ thể, “tự sự” là phương thức

tái hiện đời sống bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch, được dùng làm cơ

sở để phân loại tác phẩm văn học; còn “trần thuật” là hành động diễn ngôn tự sự được

thực hiện bởi một (hoặc nhiều) người kể chuyện giữ vai trò trung gian giữa người sáng

tác với những chuyện được kể trong tác phẩm.

Theo G.Genette: “Tự sự là trình bày một sự kiện hay một chuỗi sự kiện có thực

hay hư cấu, bằng phương tiện ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ tự sự.”[1] Như thế, văn

bản tự sự có ba đặc điểm. Một là có người kể, hai là có hành động tự sự và ba là có sự

kiện được kể ra.

Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về nó thì

tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự

sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian và thời

gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Phương thức phản ánh

hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người làm cho tác phẩm tự sự trở

thành một câu chuyện về ai đó hay về một sự kiện nào đó. Cho nên, tác phẩm tự sự

thường có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là hệ thống nhân vật được khắc họa đầy

đặn hơn hẳn nhân vật trong tác phẩm trữ tình và kịch.

Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thông qua các sự

kiện, hệ thống sự kiện mà sự kiện là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với con

người, con người và môi trường xung quanh. Do đó, tác phẩm tự sự mở ra một phạm

vi hết sức rộng lớn trong việc miêu tả hiện thực khách quan, được thể hiện trong nhiều

42

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

mối quan hệ.

Các nhà lí luận từ Aristote đến Lessing, Hegel, Bielinxki đều cho rằng tác phẩm

tự sự đưa ra một bức tranh khách quan về thế giới. Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote

cho rằng thế giới của tác phẩm tự sự là thế giới tồn tại bên ngoài người trần thuật,

không phụ thuộc vào ý muốn và tình cảm của họ. Ở đây, nhà văn dường như đứng bên

ngoài để kể lại. Tất cả những sự việc của đời sống được nhà văn kể lại như một đối

tượng khách quan ở bên ngoài mình. Chính vì vậy, tác phẩm tự sự mang tính khách

quan.

Ðể có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống qua các sự

kiện, hệ thống sự kiện. Vì vậy, nhiều nhà lí luận khẳng định tính sự kiện có một ý

nghĩa đặc biệt quan trọng và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm tự sự. Các biến cố, sự

kiện này có thể là những biến cố, sự kiện bên ngoài, tức là phần tồn tại vật chất với các

việc làm, hành động cụ thể có thể thấy được, cũng có thể là những biến cố, sự kiện bên

trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ, ... nhưng những biến cố, sự kiện này không

được biểu hiện trực tiếp mà được xem như một đối tượng để đem ra phân tích, nhận

biết.

Như vậy, tác phẩm tự sự tái hiện toàn bộ thế giới bao gồm những sự kiện bên

ngoài và bên trong của con người nhưng đều xem chúng như là những sự kiện khác

nhau về đời sống con người, xã hội.

2.2.2 Chất tự sự trong Truyện Kiều

2.2.2.1 Cốt truyện

Cốt truyện là cái khung sự kiện, hành động để nhân vật tồn tại phát triển. Cốt

truyện và nhân vật chỉ có hình thức tồn tại phù hợp nhất và duy nhất trong ngôn ngữ

kể của người kể chuyện.

Cơ sở khách quan của cốt truyện là xung đột xã hội. Trong quá trình xây dựng tác

phẩm, người viết bao giờ cũng thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp những xung đột xã hội

của thời đại vào tác phẩm của mình. Vì vậy, cốt truyện mang tính lịch sử cụ thể, được

43

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

qui định bởi những điều kiện của thời đại. Chính thời đại khác nhau đã tạo nên các cốt

truyện khác. Dostoiepxki nhấn mạnh vai trò của cuộc sống trong việc xây dựng cốt

truyện: “Anh hãy nhớ lấy lời tôi: đừng bao giờ bịa ra các cốt truyện. Anh hãy lấy

những cái do bản thân cuộc sống cung cấp. Không một trí tưởng tượng nào nghĩ ra

được những điều mà đôi khi cuộc sống bình thường quên thuộc nhất đưa lại. Hãy tôn

trọng cuộc sống.”

Cơ sở chủ quan của cốt truyện là tâm tư, tình cảm và sự đánh giá chủ quan của

người viết đối với cuộc sống. Vì vậy, cùng sống một thời đại, cùng xuất phát từ một

xung đột xã hội giống nhau, những nhà văn khác nhau lại xây dựng những cốt truyện

khác nhau nhằm thể hiện quan điểm, thái độ, ý đồ tư tưởng, phong cách nghệ thuật, cá

tính sáng tạo của nhà văn đối với cuộc sống. Có thể đưa ra ví dụ cụ thể về vấn đề này,

cùng xuất phát từ những xung đột xã hội giữa nông dân, địa chủ, quan lại, … nhưng

với mỗi nhà văn là mỗi cách nhìn cuộc sống khác nhau, cách phản ánh xung đột xã hội

khác nhau

Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động. Vì vậy, quá trình phát

triển của một cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của xung đột, bao gồm các

bước hình thành, phát triển và kết thúc. Trong bài viết “Bàn về thuật ngữ cốt truyện”,

Trần Đình Sử nhận định: “cốt truyện năm thành phần, gồm phần một: khai đoạn, phần

hai: thắt nút, phần ba: phát triển, phần bốn: cao trào hay đỉnh điểm, phần năm: mở

nút (kết thúc)” [28]. Nhìn chung, một cốt truyện thường có các thành phần chính sau:

Phần trình bày: Phần này giới thiệu khái quát về bối cảnh xã hội, các điều kiện,

nguyên nhân làm náy sinh xung đột và tình hình buổi ban đầu của nhân vật. Trong

Truyện Kiều, phần trình bày là phần giới thiệu tài sắc của chị em Thúy Kiều và gia

cảnh của họ:

Có nhà viên ngoại họ Vương,

Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung.

44

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Một trai con thứ rốt lòng,

Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.

Mai cốt cách tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Phần thắt nút: Phần này xuất hiện những biến cố đánh dấu sự kiện mà từ đó phát

sinh mâu thuẫn, xung đột. Ðây chính là biến cố đầu tiên của cả hệ thống biến cố tạo

thành xung đột của cốt truyện. Nhiệm vụ của phần thắt nút là trực tiếp bộc lộ những

mâu thuẫn. Các nhân vật sẽ đứng trước những thử thách, đòi hỏi phải bày tỏ những

thái độ, chọn lựa cách xử sự, hành động, phản ứng, từ đó nhân vật bộc lộ tính cách.

Phần thắt nút của Truyện Kiều chính là cảnh gia biến và việc Kiều phải bán mình

chuộc cha.

Đồ tế nhuyễn của riêng tây

Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.

Điều đây bay buộc ai làm,

Này ai đan giậm giệt giàm bỗng dưng?

Hỏi ra sau mới biết rằng:

Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.

Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,

Tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây.

Gia đình Kiều gặp cơn gia biến, bị “thằng bán tơ” vu oan, sai nha ập đến, bắt trói

45

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

cha con Vương Ông – Vương Quan và tra khảo. Kiều giữa cái tình và cái nghĩa, đã

chọn cái nghĩa, chữ Hiếu bán mình chuộc cha. Chính từ sự kiện này, tính cách nhân

vật Thúy Kiều dần bộc lộ là một người sống có tình có nghĩa, một người con có hiếu.

Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?

Để lời thệ hải minh sơn,

Làm con trước phải đền ơn sinh thành.

Quyết tình nàng mới hạ tình:

Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha !

Phần phát triển: Trong các thành phần của cốt truyện, đây là phần quan trọng và

dài nhất bao gồm nhiều cảnh ngộ, sự kiện và biến cố khác nhau. tính cách nhân vật chủ

yếu được xác định trong phần này. Phần phát triển của Truyện Kiều là cuộc đời 15

năm lưu lạc, từ “chữ trinh đáng gíá nghìn vàng” đến “tấm lòng trinh bạch từ nay xin

chừa” là chuỗi dài bi kịch “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, là sự tiếp xúc với đủ

các hạng người trong xã hội, là nỗi đau khổ này đến nỗi đau khổ khác của Kiều.

Phần điểm đỉnh: Còn được gọi là cao trào, là phần bộc lộ cao nhất của xung đột.

Lúc này, xung đột đã phát triển đến độ gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết

theo một chiều hướng nhất định. Ðiểm đỉnh thường là một khoảnh khắc, một thời điểm

ngắn nhưng có tác dụng quyết định đối với nhân vật trung tâm. Ðiểm đỉnh của Truyện

Kiều là khoảnh khắc đau xót nhất của đời Kiều: Từ Hải chết, Kiều phải đánh đàn cho

Hồ Tôn Hiến, bị ép gã cho thổ quan và cuối cùng nhảy xuống sông Tiền Ðường tự

vẫn.

Phần kết thúc (Mở nút): Ðây là phần giải quyết xung đột của tác phẩm. Ở đây, tác

giả trình bày những kết quả của toàn bộ xung đột của cốt truyện. Một cốt truyện tốt,

bao giờ phần kết thúc cũng được giải quyết một cách tự nhiên, phù hợp với qui luật

46

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

của cuộc sống. Tuy nhiên trong văn học cổ thường có phần kết thúc phù hợp với ước

muốn chủ quan của con người. Phần kết thúc của Truyện Kiều là sư đoàn viên của

Kiều với Kim Trọng và gia đình sau mười lăm năm lưu lạc.

“Cốt truyện của Truyện Kiều được vay mượn từ tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện

và do đó chịu ảnh hưởng trực tiếp của nghệ thuật dựng truyện tiểu thuyết cổ điển

Trung Quốc” (Trần Đình Sử). Truyện Kiều được cấu tạo như một tiểu thuyết chương

hồi nói chung, mặc dù đã bỏ hết sự phân hồi và hồi mục, bằng một chuỗi chuyện lớn

nhỏ và trong mỗi chuyện gần như có đầy đủ các thành phần của cốt truyện, có giới

thiệu, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút, kết thúc. Trần Đình Sử trong bài “Từ mô

hình cốt truyện và thể loại của Truyện Kiều đến khuynh hướng cảm thương chủ

nghĩa” [tr.1209, 10] đã liệt kê chuỗi các chuyện trong Truyện Kiều:

1. Chuyện du xuân, gặp Đạm Tiên, Kim Trọng, tối về bâng khuâng

2. Chuyện Kiều – Kiều gặp nhau và thề hẹn chung tình

3. Chuyện Kiều bán mình cứu cha và em

4. Chuyện Kiều bị ép gả tiếp khách

5. Chuyện Thúc Sinh dan díu thành gia thất

6. Chuyện Hoạn Thư cho người bắt Kiều về làm đầy tớ

7. Chuyện Hoạn Thư đánh ghen

8. Chuyện Kiều chạy trốn và bị Bạc Hạnh lừa

9. Chuyện Kiều Lấy Từ Hải, báo ân báo oán và chết theo Từ Hải

10. Chuyện Giác Duyên trực vớt cứu Kiều

11. Chuyện Kim Trọng trở về và lấy Thúy Vân

12. Chuyện tìm Kiều và đón nàng về

13. Chuyện Kim – Kiều tái hợp

Sáng tạo Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dựa trên cốt truyện tiểu thuyết chương hồi

của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Hệ thống tình tiết cốt truyện giữa

Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện có thể tóm tắt như sau: Hoàn cảnh gia đình

Vương viên ngoại, chị em Kiều đi chơi xuân gặp mộ Đạm Tiên và Kim Trọng, tối về

47

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Kiều được Đạm Tiên báo mộng số kiếp đoạn trường, Vương bà an ủi; Kim Trọng đến

trọ gần nhà Thúy Kiều, khi Kiều đánh rơi thoa, Kim Trọng nhặt được, đôi lứa trao kỉ

vật cho nhau rồi gặp nhau thề nguyền; Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú; bị

thằng bán tơ vu oan, bọn sai nha đến tra tấn cha con Vương viên ngoại; Kiều phải bán

mình chuộc cha, viên lại họ Chung thu xếp đút lót giải cứu cha và em Kiều; Kiều trao

duyên cho em, thất thân với Mã Giám Sinh, định tự tử nhưng sợ liên lụy đến gia đình;

Mã Giám Sinh đưa Kiều về nhà chứa của Tú Bà, Kiều tự tử nhưng không chết, mắc

mưu Sở Khanh, phải chịu “tiếp khách”; Thúc Sinh chuộc Kiều ra đưa về sống ở Lâm

Tri nhưng bị vợ Thúc là Hoạn Thư bày trò đánh ghen, cho Kiều ra chép kinh ở gác

Quan Âm, sau Kiều tìm cách trốn khỏi nhà họ Hoạn, đến am Giác Duyên náu, sau

Giác Duyên gửi Kiều cho Bạc má má, Kiều trở lại kiếp sống lầu xanh lần 2. Kiều gặp

được Từ Hải, nhờ Từ Hải báo ân báo oán, Hồ Tôn Hiến cho người đến dụ hàng, Từ

Hải nghe lời Kiều đầu hàng bị bày binh đánh úp, thất trận chết đứng, Hồ Tôn Hiến mở

tiệc mừng, bắt Kiều hầu rượu, sau gả nàng cho thổ quan, Kiều gieo mình xuống sông

Tiền Đường tuy nhiên được Giác Duyên cứu, Kim Trọng sau khi hộ tang trở lại, chàng

được tác hợp với Thúy Vân tuy nhiên vẫn thương nhớ khôn nguôi, sau có tin Kiều đã

qua đời, cuối cùng Vương Ông và Kim Trọng tìm thấy nàng ở am Giác Duyên, gia

đình đoàn tụ, gia đình cũng như Kim Trọng muốn nối lại tình xưa Kim – Kiều nhưng

nàng vì nghĩ đến quá khứ không trong sạch đã từ chối, hai người chấp nhận trở thành

bạn.

“Truyện Kiều là một tác phẩm có cốt truyện đa chủ đề, có cấu trúc mạch tự sự đa

dạng.” [tr.150,14] Nguyễn Du đã viết tác phẩm bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc. Mạch

kể chuyện đi theo mạch song hành của hai thế giới mơ và thực, hiện hữu và vô hình,

ánh sáng và bóng tối. Cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều – Đạm Tiên, một cuộc gặp gỡ giữa

thực và hư, thực tại và mộng mị. Dù có cùng một cốt truyện nhưng phải đến Truyện

Kiều của Nguyễn Du thì cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện mới được đưa lên một

tầm cao mới. Viện sĩ B.L Riptin, nhà nghiên cứu văn học phương Đông, người Nga

thì: “Truyện Kim Vân Kiều vào thế kỷ thứ XVIII đã được dịch ra tiếng Mãn Châu,

khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đồng thời đều được nhà tiểu thuyết Nhật Bản

48

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Bakin và nhà thơ Nguyễn Du chú ý. Khi Bakin dựa vào cốt truyện để sáng tác ra tiểu

thuyết đạo đức Con cá vàng thì Nguyễn Du sáng tác ra cả một truyện thơ. Và thoạt

nhìn thì thật lạ lùng, tác phẩm được gia nhập vào văn học thế giới không phải tiểu

thuyết Trung Quốc, bản phỏng tác Nhật Bản, mà lại là Truyện Kiều của Nguyễn Du,

mà cho đến nay, nó lại được dịch ra cả tiếng Trung và tiếng Nhật. và nhờ có nó mà

cuốn tiểu thuyết Trung Quốc được nói tới trong văn học sử” [tr.309, 26]

Nhân vật 2.2.2.2

Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm văn học.

Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét,

xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều,

ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Nhân vật văn học có thể là con

người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là

những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là

một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu

thuyết hiện đại, như mình - ta trong ca dao...). Nhân vật văn học có chức năng khái

quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc

đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà

văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên

cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện

thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến

một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền

với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong xã

hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn

liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do, công lí... Trong Chí

Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ

phận nông dân trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Ðằng sau nhiều nhân vật trong

truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những

49

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

ước mơ tốt đẹp của con người .Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách,

hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá

trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là

cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy,

không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Betong Brecht

cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản

dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý

đồ tư tưởng của tác giả”.

Nhân vật tự sự khái quát tính cách của con người, khái quát hóa cuộc sống, dường

như qua số phận của một nhân vật có thể thấy được cả một lớp người, một thời đại,

một xã hội. Nhân vật tự sự còn có vai trò hết sức quan trọng trong việc truyền tải tư

tưởng của tác giả. Qua nhân vật, tác giả gửi gắm những tư tưởng, những thông điệp

thẩm mỹ tới người đọc. Đặc biệt, nhân vật tự sự phải tạo nên tính thuyết phục cho tác

phẩm, khiến người đọc có cảm giác tin cậy vào những điều tác giả viết. Điều quan

trọng của một tác phẩm đối với người đọc là tính chân thực, mà xét đến cùng, tính

chân thực của tác phẩm phụ thuộc vào tính chân thực của nhân vật. Vì vậy, có thể nói,

nhân vật tự sự tạo nên tính thuyết phục cho tác phẩm.

Như vậy, trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật tự sự chính

là nơi tập trung mang chở nội dung phản ánh, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, là tác giả

thể hiện quan niệm về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật. Một nhân vật văn học

lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường

điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí cho cả một thời đại. Bởi thế,

khi nghiên cứu về tính tự sự trong Truyện Kiều, phân tích hệ thống nhân vật trở thành

việc không thể thiếu để xác định giá trị của tác phẩm cũng như phong cách nghệ thuật

của Nguyễn Du.

Nhân vật trong Truyện Kiều là nhân vật tự sự của truyện thơ, nhưng có lúc Nguyễn

Du thể hiện họ như những nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình. Nhân vật trữ tình

50

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm.

Nguyễn Du, người kể chuyện đã nhập thân vào nhân vật để thể hiện đời sống nội tâm

phong phú. Nguyễn Du đã xây dựng một hệ thống đông đảo nhân vật. Trong đó, đã có

những nhân vật trở thành nhân vật điển hình. Mỗi nhân vật đại diện cho một tầng lớp,

góp một tiếng nói, một tính cách để phản ánh hiện thực cuộc sống. Tất cả nhân vật

trong Truyện Kiều góp phần tạo nên một thế giới đa dạng.

Chịu ảnh hưởng của thi pháp trung đại, khi miêu tả những nhân vật, Nguyễn Du

thường sử dụng bút pháp truyền thống chia nhân vật làm hai tuyến lớn – nhân vật

chính diện và nhân vật phản diện. Đối với nhân vật chính diện, ông viết bằng nét bút

trang trọng, giàu tính ước lệ. Nguyễn Du thường “vẽ bằng màu sắc hài hòa, tươi tắn,

đường nét lúc thì mềm mại uyển chuyển lúc thì phóng bút nhiều chiều kích, nét vẽ đậm

và kỹ hơn so với nhân vật phản diện” [tr.75, 20]. Những hình ảnh ước lệ tượng trưng

dùng để miêu tả là những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp trong sáng, bền vững như

phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn thủy. Đây là bút pháp cực tả, tuyệt đối hóa, lý tưởng

hóa nhân vật. Đối với nhân vật phản diện, ông chỉ chấm phá bằng vài ba nét nhưng

vẫn gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.

Khi miêu tả nhân vật Từ Hải, từng tâm tư, suy nghĩ của Từ không chỉ thể hiện thái

độ yêu thương tri kỉ với Kiều mà còn thể hiện khát vọng về một người anh hùng. Trong

cuộc đời Kiều,ngoài Kim Trọng ra thì cần phải nhắc đến Từ Hải – một người anh hùng

chí lớn ở bốn phương. Người đã giúp Kiều trả ân báo oán, cho Kiều có những khoảng

thời gian tuy ngắn ngủi nhưng lại chứa đầy niềm hạnh phúc Ở Truyện Kiều, rất nhiều

lần Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là “anh hào”, “đại vương”, “anh hùng” và “đấng anh

hùng”. Và chính khi xây dựng nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du cũng tô đậm tính cách anh

hùng lý tưởng. Có thể nói Nguyễn Du đã gửi vào Từ Hải một quan niệm về người anh

hùng lý tưởng

Vẻ đẹp bên ngoài của Từ Hải được nhà thơ xây dựng giống như những hình tượng

người anh hùng trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là người anh hùng với dáng hình “ Vai

51

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

năm thước rộng, thân mười thước cao”:

Râu hùm, hàm én, mày ngài,

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Không chỉ chuẩn mực anh hùng qua vẻ bề ngoài, Từ Hải còn hiện lên với chí khí

anh hùng:

Nửa năm hương lửa đương nồng

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Tình yêu rất cần với một người anh hùng thế nhưng nó không la vật cản để giới

hạn ý chí của người anh hùng. Lòng của người anh hùng Từ Hải là ở bốn phương kia

chứ không phải là ở ngôi nhà nơi có người vợ xinh đẹp. Không phải chàng không

thương không yêu, không muốn ở bên nàng Kiều mà là chí khí của một người anh

hùng đã thúc giục chàng lên đường. Ngay cả khi Thúy Kiều bịn rịn thì Từ Hải vẫn

“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”.

Kể cả lúc nguy biến, lúc sa cơ, lúc chết, chàng vẫn thể hiện khí chất của một anh

hùng:

Tử sinh liều ở trận tiền

Dạn dày cho biết gan lì tướng quân

...Khí thiêng khi đã về thần

Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng

Trơ như đá, vững như đồng

Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời

Từ Hải chết nhưng không phải chết nằm, chết quỳ mà là chết đứng - chết như một

anh hùng. Chết mà vinh hơn kẻ thành công mà nhục. Từ Hải chết đứng “là một pho

52

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

tượng hào hùng tiết ra một luồng sáng vụt ngang mày kẻ phản trắc”. Cái chết của

người anh hùng chiến đấu đến phút cuối cùng, cái chết yên lặng không một tiếng kêu,

không một giọt lệ, không tiếng thở dài. Cái chết đứng của Từ Hải là một lời lên án,

khinh thường cũng như thức tỉnh những kẻ sống bằng lừa lọc, bằng mưu mô xảo trá.

Thông qua những lời nói của Từ Hải lúc Hồ Tôn Hiến cho người đến dụ hàng,

Nguyễn Du đã bộc lộ lòng mình:

Bó thân về với triều đình

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu

Áo xiêm trói buộc lấy nhau

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?

Nguyễn Du thông qua lời của Từ Hải thể hiện thái độ khinh bỉ bọn nho sĩ, không

liêm sỉ. Nguyễn Du bằng lòng để Từ Hải chết để thỏa mãn được ước vọng thầm kín,

muốn chết như Từ Hải để trọn danh tiết một kẻ tưởng như thất thế nhưng thật ra lại

mang khí chất của một vị anh hùng.

Truyện Kiều có một hệ thống nhân vật phong phú, khi nhắc đến nhân vật trong tác

phẩm ta không thể không nhắc tới các nhân vật phụ. Ông đã dành ra mười hai câu

Kiều viết về người khách viễn phương, đây dường như là nhân vật đầu tiên được

Nguyễn Du gửi gắm tình cảm nhân đạo. Người khách viễn phương ấy không hề biết

họ biết tên, xuất hiện gián tiếp thoáng qua thông qua lời kể của Vương Quan nhưng

vẫn gây ấn tượng mạnh. Người khách viễn phương này chỉ vì trọng một trang tài tử

giai nhân mà tìm đến Đạm Tiên, rồi khi nghe tin nàng đã qua đời thì đau xót mà rơi lệ:

Khóc than khôn xiết sự tình

Khéo vô duyên bấy là mình với ta.

Và chưa dừng lại ở đó, người khách viễn phương còn bỏ tiền ra mua quan tài bằng

53

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

gỗ tử, thuê xe tang có rèm hạt châu để chôn cất Đạm Tiên một cách chu đáo. Hãy để ý

hai chi tiết, tưởng chừng phụ mà lại không hề phụ, rất quan trọng khi nhắc đến nhân

vật khách viễn phương. Người khách viễn phương mua quan tài nhưng phải là quan tài

bằng gỗ tử, xe tang nhưng phải là xe tang có rèm châu, như vậy mới xứng với người

tài tử giai nhân, mới đẹp lòng người đã khuất và yên lòng cả người đang sống.

Nhân vật vô danh này không chỉ có chữ Tình mà còn có cả chữ Tâm. Từ Hải hào

hùng dũng mãnh ngang tàng, rộng lượng, Kim Trọng hào hoa phong nhã, thuỷ chung

còn người khách viễn phương rất cao thượng. Người khách viễn phương chưa gặp

Đạm Tiên lần nào đã đẩy những giá trị biểu tượng của nhân vật này cao thêm nhiều

bậc. Tấm lòng xót thương nâng niu người tài sắc của khách viễn phương thậm chí còn

đi trước cả nhân vật chính Thúy Kiều, Kiều chỉ là người thứ hai khóc thương Đạm

Tiên. Khi viết về nhân vật khách viễn phương, Nguyễn Du không đi sâu vào diện mạo

mà chú trọng đến cử chỉ, hành động để làm tóat lên nét đẹp tâm hồn. Chỉ một vài biểu

hiện thể hiện sự khẩn trương chu đáo “xa nghe, tìm đến”, “Sắm sanh nếp tử, xe

châu”, thể hiện sự đau đớn xót xa “khóc than“, Nguyễn Du đã phần nào thể hiện quan

điểm của mình về thuyết Thiên định và thuyết Nhân duyên. Người khách viễn phương

khi “khóc than khôn xiết sự tình”, chắc hẳn cũng tự nhủ rằng do số kiếp mà mình và

Đạm Tiên không gặp được nhau, do nhân duyên chưa bao giờ đến và không bao giờ

đến mà hai ta sớm âm dương cách biệt. Chàng thừa nhận ngay đó là sự vô duyên:

Khéo vô duyên bấy là mình với ta.

Qua nhân vật này, ta thấy tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du xuất hiện. Nếu như

mệnh trời đã cướp mất “duyên trước” thì giờ phút này, ta sẽ tự cấu tạo nên một “duyên

sau”. Dù cuộc đời trên cõi tạm của nàng đã kết thúc thì ta vẫn làm tất cả những gì có

thể, và đó chính là kỷ niệm duy nhất và đẹp nhất với nàng trong lòng ta. Muốn tạo ra

duyên sau để vượt qua duyên trước, đó chính là mầm mống của tư tưởng nhân định

thắng thiên sẽ còn tiếp tục được thể hiện qua lời Kim Trọng trong đoạn sau của tác

phẩm:

54

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Sinh rằng giải cấu là duyên

Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.

Với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du không miêu tả tỉ mỉ trang trọng, chỉ

cần vài ba nét phác hoạ ông đã để lại những ấn tượng sâu sắc. Mã Giám Sinh xuất hiện

với lối nói năng cộc lốc, ăn mặc kệch cỡm, hợm hĩnh, ... Chỉ qua vài nét bút của

Nguyễn Du người đọc đã có cái nhìn về con người của. Cái tên chung chung, không

rõ ràng. Giám Sinh không phải là tên, đó là một từ để chỉ người học trò học Nho giáo

thời xưa. Trong một vài thời đại nhất định, đây là một chức danh có thể mua được

bằng tiền. Qua cái tên, ta không biết gì nhiều về nhân vật. Quê quán mập mờ, khuất

tất. Nguyễn Du đã khéo léo vạch trần sự giả dối của Mã Giám Sinh, ông giới thiệu hắn

là “viễn khách”:

Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

Nhưng lại để cho hắn tự nhận:

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Có sự mâu thuẫn trong lời nói của Mã Giám Sinh và lời giới thiệu của mụ

mối, “viễn khách” mà sao “cũng gần”? Sự thật là Mã Giám Sinh đã dối trá về quê

quán của mình: Quê Lâm Tri mà lại nói thành Lâm Thanh. Tiếp đó, Nguyễn Du còn

miêu tả ngoại hình kệch cỡm của hắn:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Cách đi đứng, thái độ hợm hĩnh:

Trước thầy sau tớ lao xao

55

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,

Nguyễn Du còn tiếp tục lột trần bản chất xấu xa của Mã Giám Sinh. Trước “nét

buồn như cúc, điệu gầy như mai” của Kiều, y chẳng một chút động lòng trắc ẩn.

Ngược lại y còn bắt Kiều làm thơ, gảy đàn để “cân sắc cân tài”. Sau đó y mặc cả. Y

xem Kiều chi là món hàng không hơn không kém. Đầu tiên y còn làm bộ là người có

chữ:

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?

Sau đó y lộ nguyên hình là một tên “buôn thịt bán người” sành sỏi:

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Từ “đáng giá nghìn vàng”, Mã Giám Sinh “cò kè" thêm, bớt chỉ còn “bốn trăm”

Điều đó chứng tỏ y rất thủ đoạn trong việc mua bán. Khi màn kịch khép lại cũng là lúc

chiếc mặt nạ bị lột trần. Mã Giám Sinh chẳng cần trá hình là một sinh viên trường

Quốc Tử Giám nữa. Y đã hoàn thành vai diễn cùa mình:

Định ngày nạp thái vu quy,

Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!

Tính cách con buôn lừa đảo, giả dối, xảo trá, kệch cỡm của Mã Giám Sinh đã được

Nguyễn Du khắc họa cụ thể và sinh động. Thông qua nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn

Du vừa lột trần được bản chất xấu xa của tên buôn thịt bán người vừa bộc lộ thái độ

châm biếm khinh ghét của mình đối với hạng người bịp bợm, hợm hĩnh, sống bằng

đồng tiền “buôn thịt bán người” đáng ghê tởm . Hơn hết, nhà thơ đã lên tiếng tố cáo

“phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội phong kiến thối nát. Tài sắc của

56

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ!

“Tiền lưng đã sẩn, việc gì chẳng xong!” là một lời kết án đanh thép những kẻ bất

lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.

Sở Khanh cũng là một kẻ sống bám vào “phường bán thịt”. Bị bán vào lầu xanh

của Tú Bà, Thuý Kiều bị ép tiếp khách. Nàng không chịu nên bị Tú Bà chửi mắng,

toan đánh đập; nàng rút dao giấu trong tay áo tự vẫn, song mọi người cứu được. Tú Bà

đã hứa sẽ gả nàng vào nơi tử tế. Ở lầu Ngưng Bích nàng, tủi phận, nhớ nhà, nhớ quê.

Bỗng có một chàng trai trẻ, dáng vẻ thư sinh, tên là Sở Khanh, nhìn nàng ra vẻ xót xa:

Than ôi sắc nước hương trời,

Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?

Sở Khanh than thở cho người đẹp, vờ ra vẻ anh hùng muốn cứu nàng ra khỏi chốn

lầm than:

Sốt gan riêng giận trời già,

Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng?

Thuyền quyên ví biết anh hùng

Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!

Qúa đau khổ, Kiều đã tin Sở Khanh sẽ đưa mình đi trốn. Ðúng giờ hẹn, Sở Khanh

đến.

Cũng liều nhắm mắt đưa chân

Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.

Nàng bước xuống lầu và lên ngựa theo Sở Khanh trốn đi. Rừng khuya, trăng lạnh,

sương sa, nàng xót thương tấm thân lưu lạc. Tiếng gà gáy, tiếng người lao xao. Nhà

trước, nhà sau, nàng không thấy bóng Sở Khanh đâu. Y “đã rẽ dây cương lối nào”:

57

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Tiếng gà xao xác gáy mau,

Tiếng người đâu đã mé sau dậy dàng

Nàng càng thổn thức gan vàng,

Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào

Nàng đang hoảng sợ thì Tú Bà dẫn một đoàn người ập đến bắt và lôi về nhà, rồi

không nói không rằng, mụ đánh đập nàng tơi bời. Từ ngày ấy, Kiều bước vào quãng

đời kỹ nữ.

Tú Bà tốc thẳng đến nơi,

Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.

Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,

Ðang tay vùi liễu dập hoa tơi bời!

Nguyễn Du không miêu tả nhân vật Sở Khanh tỉ mỉ về quần áo, cử chỉ, ngoại hình.

Sở Khanh hiện lên là một kẻ bỉ ổi, lừa lọc thông qua từng lời nói, điệu bộ và hành

động của hắn. Sở Khanh đã trở thành một nhân vật điển hình cho những kẻ phản bội,

đứa lọc lừa: “thằng Sở Khanh”, “bọn Sở Khanh”. Thông qua nhân vật Sở Khanh,

Nguyễn Du không chỉ lên án kẻ bạc tình, phản bội người con gái ngây thơ, mà còn

mang nghĩa rộng: đó là kẻ phản bội bạn bè.

Ngôn ngữ tự sự 2.2.2.3

Ngôn ngữ tự sự (hay còn gọi là ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ kể chuyện) là ngôn

ngữ của tác giả, góp phần bổ sung những quan điểm của mình đối với những hiện

tượng được miêu tả. Sự có mặt của ngôn ngữ trữ tình là cho tác phẩm trở thành một

chỉnh thể trọn vẹn, chặt chẽ. “Trong truyện thơ Nôm nói chung, Truyện Kiều nói tiêng,

hệ thống này không chỉ đóng vai trò then chốt trong vấn đề mô tả diễn biến cốt truyện,

58

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

thể hiện tài năng và sự sáng tạo của tác giả mà còn biểu lộ vẻ đẹp, chiều sâu thẩm mỹ

của một ý thức văn hóa trong quá trình phản ánh đời sống văn hóa của cả một thời

đại” [tr.147,14]

“Ngòi bút của Nguyễn Du – mặc dù đã bị hạn chế trong khuôn khổ văn vần – luôn

luôn đủ tiếng, đủ lời, tiếng và lời thực chính xác để lột tả được tinh thần, diện mạo của

từng trường hợp một, không hề lúc nào bị lúng túng, khó khăn cả” [tr153,5]. Có thể

nói, ngôn ngữ trong Truyện Kiều là thứ ngôn ngữ hàm súc, nhiều ý tại ngôn ngoại, có

sức khái quát cao. Nguyễn Du kể bằng văn vần như đang kể bằng văn xuôi, giống như

kể bằng lời nói bình thường. Lời thơ của ông vừa bảo đảm được sự trau chuốt, uyển

chuyển, chuẩn mực của thơ lục bát vừa mang tính chính xác của ngôn ngữ đời thường.

Đó chính là chất “văn xuôi” trong ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Du. Đây là đặc

điểm nổi bật của thơ Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng

Qua ngôn ngữ tự sự, tác giả thể hiện cái nhìn, giọng điệu, phong cách riêng trước

những vấn đề cuộc sống. Ngôn ngữ tự sự của tác giả giúp cho nhân vật, không gian,

thời gian có những nét riêng, qua đó tác giả bộc lộ cách nhìn riêng biệt về cuộc đời,

nhân tình thế thái. “Ngôn ngữ tự sự, nếu xét từ phương diện kể, được hiểu là những lời

kể của tác giả nhằm nêu lên một vấn đề nào đấy” [tr.148,14]. Mở đầu tác phẩm,

Nguyễn Du viết:

Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh

Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng

Có nhà viên ngoại họ Vương

Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung

Nguyễn Du đã mở ra một không – thời gian triều đại, gia cảnh, một nét đặc trưng

của những tác phẩm trung đại. Nhà thơ đã cung cấp cho người đọc những thông tin sơ

lược mở đầu câu chuyện. Căn cứ vào nguyên tác Kim Vân Kiều truyện, Nguyễn Du

giới thiệu câu chuyện diễn ra vào niên hiện Gia Tĩnh của Minh Thế Tông ở Trung

59

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Hoa. Qua hai từ láy “phẳng lặng”, “vững vàng”, người đọc có thể hình dung đây là

thời kì thịnh trị. Sau khi giới thiệu thời đại, tác giả tiếp tục giới thiệu gia cảnh của nhân

vật chính - “Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung”. Nguyễn Du không chỉ đơn

thuần là thông báo những nội dung cần thiết mà còn bộc lộ những điểm nhìn của mình

về sự vật, hiện tượng, qua đó đánh giá những yếu tố cần miêu tả. Lời giới thiệu tưởng

như có vẻ khuôn cách, đơn giản nhưng cũng đủ giúp người đọc hiểu phần nào về gia

thế và thời đại của Kiều.

Tiếp đến, Nguyễn Du đã miêu tả khung cảnh trong buổi Thanh minh:

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi..

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Một bức tranh thiên nhiên đẹp đã được khắc họa chỉ qua vài câu thơ. Đầu tháng

ba, bầu trời quang đãng khí trời mát mẻ vương chút hơi lạnh của cái rét Nàng Bân

khiến cỏ cây, hoa lá tốt tươi. “Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài

bông hoa”, Nguyễn Du đã thể hiện được thần thái của mùa xuân. Thảm cỏ non trải

rộng tới chân trời là màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh xuân. Trên cái nền xanh

bát ngát ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng như tuyết. Sự hài hòa tuyệt diệu của

màu sắc gợi lên vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, căng đầy sức sống của mùa xuân. Theo

phong tục có từ lâu đời, trong tiết Thanh minh, người ta đi tảo mộ, tức là di thăm viếng

60

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

và sửa sang lại phần mộ của người thân để bày tỏ tưởng nhớ và lòng biết ơn. Không

khí lễ hội rộn ràng, đông vui. Những ẩn dụ so sánh: nô nức yến anh, ngựa xe như

nước, áo quần như nêm gợi lên hình ảnh từng đoàn người đi chơi xuân như chim én,

chim oanh bay ríu rít. Lễ hội mùa xuân tấp nập, nhộn nhịp bởi nam thanh, nữ tú, tài tử,

giai nhân từ mọi nơi không ngớt kéo về. Vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng hơn nhờ có hình

ảnh con người và hình ảnh con người trở nên sinh động hơn nhờ có thiên nhiên.

Quan điểm của Nguyễn Du về thân phận của những con người tài hoa đã được

phát biểu:

Kiều rằng: “Những đấng tài hoa

Thác là thể phách, còn là tinh anh

Khi bàn về thân phận người phụ nữ, nhà thơ đã đau đớn thốt lên:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Chúng ta thấy rằng, Nguyễn Du đã nhận định về thân phận của người tài hoa, cảm

thương cho số phận người phụ nữ thông qua hệ thống ngôn ngữ tự sự linh hoạt. Đó là

những từ ngữ khi có tính trang trọng: “tài hoa”, “thể phách”, “tinh anh”, khi thì bình

dân, thuần Việt, gần gũi, dễ khơi gợi cảm xúc ở người đọc: “đàn bà”, “lời rằng”,

“cũng là”, … Điều đặc biệt ở ngôn ngữ tự sự, nhà thơ đã đan xen ngôn ngữ tác giả và

ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện một cách khéo léo, tinh tế, khiến cho người

đọc cảm thấy sự chân thành, trăn trở của tác giả đối với con người rất chân thực,

không gượng ép, sáo rỗng.

“Ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Du còn thể hiện một khả năng đối chiếu và tương

phản đặc biệt. Để có được những chân dung nhân vật sắc nét, hai tuyến nhân vật

tương phản nhau trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng tối đa những ngữ liệu

văn hóa trong ngôn ngữ tự sự, thuật truyện, tái hiện các khuôn hình khác nhau của

61

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

một không gian văn hóa trung đại”[tr.152,14]. Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng

tất cả những gì gần gũi nhất để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ.

Nguyễn Du đã dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và

sáng tạo ra một thi phẩm lớn với một nội dung, một hệ thống hình tượng riêng của

mình. Nhờ sử dụng phương tiện này mà chúng ta thấy được thái độ của Nguyễn Du

đối với nhân vật.

Do xuất phát từ điểm nhìn về con người, thể hiện thái độ của mình với cuộc sống

theo nhiều chiều khác nhau nên ngôn ngữ trong Truyện Kiều cũng có sự khác nhau.

Nhà thơ dành những ngôn từ thương yêu, trang trọng như “đấng”, “bậc” cho người tài

hoa, phong nhã, có chí khí như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải. Khi xây dựng nhân

vật chính diện, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ giàu tính biểu đạt, tượng trưng và

mang sắc thái thẩm mỹ cao độ. Nếu đem tài sắc mà so, thì sắc đẹp của Thuý Kiều

được so sánh với “làn thu thuỷ, nét xuân sơn”, với hoa với liễu, tài năng của nàng

được giới thiệu là “cầm kỳ thi hoạ”. Cái hào hoa của Kim Trọng được miêu tả là

“Tuyết in sắc ngựa câu dòn’, “cỏ pha màu áo nhuộm non da trời” và “hài văn lần

bước dặm xanh”. Còn hình ảnh người anh hùng lý tưởng là Từ Hải, thì được ghi nhận

với cái dáng bề ngoài “râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước

cao”, với cái phong độ “gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”, và được ghi nhận

cả trong ký ức Thuý Kiều “cánh hồng bay bổng tuyệt vời…”. Những nhân vật chính

diện hầu hết được miêu tả với những từ ngữ có tính chất ước lệ.

Đối với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du sử dụng hàng loạt những từ ngữ

thuần Việt. Ông không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ “sỗ sàng” khi nói về những Tú

bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh. Miêu tả lũ sai nha bắt người, Nguyễn Du viết:

“Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”

Cách miêu tả của ông đã lột trần bản chất của Mã Giám Sinh:

Rằng: Mua ngọc đến Lam kiều

62

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường

Tưởng rằng hắn là kẻ biết người, biết của - “ngọc đến Lam kiều”, coi đây là việc

cưới xin hợp lễ, và thái độ nhã nhặn “xin dạy…cho tường”. Mã Giám Sinh dù khoác

lên mình bộ mã trí thức, hào hoa nhưng bản chất vẫn là một kẻ buôn người:

“Đắn đo cân sắc cân tài”, “Cò kè bớt một thêm hai”, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”

“Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã kể lại một câu chuyện theo lối viết, bằng một

lời lể giàu chất văn học, giàu chất truyện, giàu chất thơ” [tr151, 5]. Lời kể trong

Truyện Kiều là lời kể của truyện nên nó có những đặc điểm chung của ngôn ngữ

truyện. Ngôn ngữ truyện là một ngôn ngữ đa dạng: ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn

ngữ nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại, … Lời kể trong Truyện Kiều

còn có đặc điểm của ngôn ngữ thơ, đó là ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, có tính

hàm súc cao. Nguyễn Du đã rất tài năng khi kết hợp hài hòa đặc điểm của ngôn ngữ

truyện và ngôn ngữ thơ, thay vì viết thơ Nôm đơn thuần thì ông đã viết thành truyện.

Ngôn ngữ mà Nguyễn Du miêu tả cảnh Tú Bà dạy Kiều kinh nghiệm quyến rũ

khách làng chơi, dù đã được “mã hóa” nhưng vẫn còn đó cái thô thiển, dung tục của

chốn lầu xanh:

Chơi cho liễu chán hoa chê.

Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời.

Khi khóe hạnh khi nét ngài.

Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa

Nhân vật Sở Khanh dù khoác bên ngoài vẻ hào hoa nhưng lời ăn tiếng nói đã tố

cáo hắn là kẻ sống bằng nghề lừa gạt những phụ nữ nhẹ dạ, cả tin. Nguyễn Du đã dồn

hết cho hắn những từ ngữ như: “mặt mo”, “rêu rao”, “quát mắng đùng đùng”:

Phụ tình án đã rõ ràng

63

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui

Mụ quan bà, mẹ Hoạn Thư mang danh “mệnh phụ phu nhân” nhưng lời lẽ thì ghê

gớm, phũ phàng:

Con này chẳng phải thiện nhân

Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.

Ra tuồng mèo mả gà đồng,

Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào

Đọc Truyện Kiều ít khi tìm thấy những chi tiết thừa. Do tính chất văn xuôi trong

thơ lục bát, phải chịu sự qui định về luật bằng trắc, nhịp, số chữ trong dòng, … nên

Nguyễn Du đã rất tinh tế rút gọn sự kiện, hành động, nhân vật. Lời kể của ông rất gọn

gàng, dễ hiểu. Chỉ với vài dòng thơ, các nhân vật hiện lên một cách rõ ràng, đầy ấn

tượng:

Đàn bà thế ấy thấy âu một người!

Ấy mới gan ấy mới tài!

Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời

Đó là một nàng Hoạn Thư thông minh nhưng ghen đáo để, ghen sâu sắc, âm thầm

mà độc địa khiến Kiều dù là nạn nhân nhưng vẫn khen, vẫn nể.

Đó là một Sở Khanh với nhiệm vụ quyến rũ lừa gạt những cô gái trong trắng nên

phải trai lơ đỏm dáng đặc biệt là phải trẻ hơn vì hắn không có tiền lại mang dáng vẻ

nho sinh:

Một chàng vừa trạc thanh xuân,

Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.

64

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,

Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh

Tác giả đã dùng chữ “hình dong” chứ không phải “hình dung”, “dung” còn là từ

gốc Hán vẫn có cái nghĩa trang trọng nhưng “dong” đã trở thành từ thuần Việt nôm na

nên Nguyễn Du đã rất khéo léo sử dụng từ “hình dong chải chuốt” mang ý mỉa mai

khinh ghét (Trong ca dao có câu: Trông mặt mà bắt hình dong - Con lợn có béo thì

lòng mới ngon). Cụm từ “Hình dong chải chuốt” ấy lại kết hợp với những ý nghĩ từ

điểm nhìn của Thúy Kiều: “Nghĩ rằng... Hỏi ra mới biết...” ở sau đã thể hiện rõ sự

nghi ngờ, thiếu tin tưởng ở con người Sở Khanh càng tố cáo cái vẻ đội lốt văn nhân

của hắn. Lời kể cùng với những từ ngữ được sử dụng đã lột tả được thần sắc, bản chất

của nhân vật một cách ngắn gọn, rõ ràng.

Tú Bà là một nhân vật không thể không nhắc tới trong suốt mười lăm năm đoạn

trường của nàng Kiều. Lần đầu tiên xuất hiện, Tú Bà đã hiện ra không tạo được mấy

thiện cảm trong lòng người đọc thông qua giọng điệu của tác giả:

Lầu xanh có mụ Tú Bà,

Làng chơi đã trở về già hết duyên.

Tình cờ chẳng hẹn mà nên,

Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường…

Kể từ lần xuất hiện đầu tiên ấy, mãi một tháng sau khi đến Lâm Tri, Kiều mới

được gặp Tú Bà:

Xe châu dừng bánh cửa ngoài,

Rèm trong đã thấy một người bước ra.

Thoạt trông nhờn nhợt màu da,

65

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?

Trước xe lơi lả han chào

Cái thân hình ngoại cỡ của mụ gây cho Thúy Kiều ngay từ cái nhìn đầu tiên một

ấn tượng mạnh mẽ, một cảm giác kinh tởm, ngạc nhiên đầy lạ lẫm. Từ láy “nhờn

nhợt” được đặt trước danh từ “màu da” theo lối đảo ngữ lại được đặt ở vị trí gần cuối

câu lục vừa có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm ngoại hình đáng sợ của mụ vừa nêu bật

được cảm giác ghê sợ nơi Kiều. Tiếp theo đó là một câu hỏi với giọng điệu đầy mỉa

mai “Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?”. Nguyễn Du đã “quay cận cảnh” từ màu da cho

tới “quay lướt” về thân hình để làm rõ chân dung mụ chủ lầu xanh chỉ bằng hai câu thơ

ngắn gọn. Cái nước da “nhờn nhợt” và thân hình cao lớn “đẫy đà” đã tố cáo cuộc đời

chơi bời trụy lạc vô độ của mụ. Chỉ có đoạn đời dài trác táng chuyên hoạt động về

đêm, lấy đêm làm ngày mới cho mụ một làn da có sắc màu nhờn nhợt - một màu da tái

mét nhợt nhạt trông thật tởm. Điệu bộ thì “lơi lả” thật đáng khinh thường.

Thân hình thì “nhờn nhợt”, “đẫy đà” đáng sợ như thế, trong khi nàng Kiều hì hục

lạy trước bàn thờ thì Tú Bà lầm rầm khấn vái cho việc làm ăn “buôn da bán thịt” của

mình:

Cửa hàng buôn bán cho may,

Ðêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu

Muôn nghìn người thấy cũng yêu

Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai

Tin nhạn vẫn lá thơ bài

Ðưa người cửa trước rước người cửa sau.

Và khi đã khấn vái làm lễ xong rồi thì:

Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay,

66

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Dạy rằng: Con lậy mẹ đây,

Lậy rồi sang lậy cậu mày bên kia.

Thấy Mã Giám Sinh mua được Kiều về, mụ mừng cuống lên, mừng rỡ đến mức lố

bịch, hợm hĩnh. Mừng đến mức giọng điệu lắp bắp khấn thần để kinh doanh Kiều có

lãi. Liền sau đó, mụ biết Kiều thất than với Mã Giám Sinh thì than ôi, giọng điệu thay

đổi hoàn toàn:

Con kia đã bán cho ta,

Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.

Lão kia có giở bài bây,

Chẳng văng vào mặt sao mày lại nghe.

Cớ sao chịu tốt một bề,

Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!

Phải làm cho biết phép tao!

Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay.

Nguyễn Du không chỉ châm biếm, mỉa mai mà còn hết sức khinh bỉ. Tú Bà sợ mất

vốn nên:

Nàng thì bằn bặt giấc tiên

Mụ thì bằn bặt nhìn hồn say

Chỉ bằng quan hệ từ “thì” dùng liên tiếp ám chỉ một hậu quả tất yêu sẽ xảy ra.

Thúy Kiều không còn thiết sống trước sự thật quá phũ phàng này, còn Tú Bà chỉ sợ

Kiều chết vì “vốn liếng đi đời nhà ma”. Nguyễn Du cảm thấy đớn đau, chua xót trước

cảnh mạng người không hề đoái hoài mà chỉ nghĩ tới đồng tiền. Đến đây, ta nhớ đến

lời nhận định của Lục Du: “Thơ văn là sự phản ánh phẩm chất, tiết tháo của người

67

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

cầm bút” quả là không sai. Chỉ qua vài câu thơ miêu tả ngoại hình, hành động cho đến

thái độ, cử chỉ ngắn gọn, Nguyễn Du đã lột tả chân thực nhất chân dung kể chủ chứa

lầu xanh, đứng đầu bọn buôn thịt đồng loại. Không phải ai cũng có màu da “nhờn

nhợt” đến rợn gáy, thân hình “đẫy đà”, kiểu ngồi “vắt nóc lên giường”, lời lẽ sỗ sàng,

thô tục “gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao”, từng cử chỉ, hành động đều bị ám ảnh mùi

tiền như Tú Bà.

Cách sử dụng ngôn ngữ hiện thực của Nguyễn Du đối với những nhân vật phản

diện đã góp phần phản ánh hiện thực xã hội phong kiến. Có thể nói, từ trước đến nay

chưa có ai sử dụng ngôn ngữ dung tục tài tình như Nguyễn Du. Điều đó không phải

chỉ đối với nhân vật đáng khinh mà còn với những nhân vật ông hết lòng yêu thương :

“Chém cha cái số hoa đào”. Từ ngữ bình dân, thông tục nhưng ý nghĩa sâu xa. Cách

sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du đã lột tả cái thế giới sinh động với đầy đủ hạng

người với muôn vàn sắc thái, không thể vật chất hóa được, không thể phô diễn được

nếu không có ngôn ngữ thích hợp. Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Du là sự kết tinh của

tất cả cái đẹp: “Cái chân chất của ca dao dân gian, cái tao nhã của khúc ngâm, cái

hàm súc của văn chương bác học cổ điển,…” Tất cả các yếu tố này hòa quyện với

nhau, tạo thành nét đặc sắc về ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ ca Nguyễn Du, làm cho

nó khác biệt với ngôn ngữ đã được sử dụng trong các truyện Nôm bình dân khác

Sáng tạo của Nguyễn Du trong ngôn ngữ tự sự thể hiện ở chỗ từ những ngữ liệu có

nguồn gốc Trung Hoa, cốt truyện Trung Hoa, điển tích điển cố Trung Hoa, ông đã thổi

hồn Việt, văn hóa Việt vào lối diễn đạt của mình. Sự xuất hiện của các từ ngữ bình

dân, ca dao, thành ngữ, khẩu ngữ thuần Việt đã nâng ngôn ngữ Việt lên một tầm cao

mới. Trong lịch sử phát triển tiếng Việt, chỉ đến Truyện Kiều thì ngôn từ, nhất là lớp từ

ngữ mang phong cách khẩu ngữ mới thực sự được xem là lớp ngôn từ nghệ thuật đặc

sắc và có sức sống tràn trề, mãnh liệt. Không ở đâu mà tiếng Việt trở nên trong sáng,

68

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

linh hoạt, tinh tế và xác thực như trong Truyện Kiều.

2.3 Chất kịch trong truyện Kiều

2.3.1 Đặc trưng của kịch

Kịch là một trong ba loại hình văn học bên cạnh tự sự và trữ tình. Kịch được coi là

một loại hình nghệ thuật tổng hợp vừa thuộc về sân khấu vừa thuộc về văn học.

Ngôn ngữ nhân vật kịch dù đối thoại hay độc thoại trước hết đó là ngôn ngữ khắc

họa tính cách. Từ những lời ăn tiếng nói của mình, nhân vật kịch phải biểu hiện ở mức

chính xác tối đa một cái gì đó điển hình. Đồng thời, ngôn ngữ kịch là một hệ thống

ngôn ngữ mang tính hành động, có nhiệm vụ mô tả chân dung bằng một loạt các thao

tác hành động, đảm bảo cho sự phát triển đầy kịch tính của cốt truyện và những phản

ứng hành động theo kiểu dây chuyền của các nhân vật. Tính hành động là đặc điểm nổi

bật của ngôn ngữ kịch, là cơ sở giúp cho đạo diễn, diễn viên xử lý kịp thời hành động

của nhân vật trên sân khấu.

Ngôn ngữ kịch cũng là một hình thái ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời sống ngắn

gọn, súc tích, dễ hiểu và ít nhiều mang tính chất khẩu ngữ. Khác với hình thức ngôn

ngữ giàu tính ước lệ, cách điệu trong sân khấu truyền thống như tuồng, chèo hoặc cải

lương, sân khấu kịch nói không sử dụng thứ ngôn ngữ xa lạ với đời sống. Các nhân vật

kịch đối đáp với nhau một cách tự nhiên giản dị theo cách đối thoại trong đời sống

hằng ngày. Là một hình thái ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ của một tác phẩm kịch

phải đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện. Mặc dầu rất gần gũi với ngôn ngữ đối

thoại hằng ngày, những tác phẩm kịch loại bỏ hoàn toàn những lời lẽ thô thiển, khô

cứng cũng như những cách nói năng tự nhiên

Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ. Trong kịch

không có nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người kể chuyện. Vở kịch

được diễn trên sân khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể nói đến 3 dạng ngôn ngữ

nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng thoại. Những nhà viết kịch lớn xưa

nay đều coi trọng việc trau chuốt lời kịch. Gorki từng nói rằng: “Khuyết điểm chung và

69

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

đáng buồn của kịch bản chúng ta trước hết là ở chỗ ngôn ngữ quá nghèo nàn, khô

khan, không có cá tính và thiếu nhựa sống. Mọi nhân vật đều ăn nói giống nhau, hành

văn như nhau, đơn điệu, dài dòng, khác với ngôn ngữ sinh động trong cuộc sống hàng

ngày” [tr.134,16]. Cái khó của ngôn ngữ kịch là làm sao cho người đọc cảm nhận đó

là lời nói thật chứ không phải văn viết, mà vẫn phải mang tính văn học chứ không

được là lời nói bình thường trong cuộc đời. Nghiên cứu ngôn ngữ kịch trong Truyện

Kiều, chúng tôi tạm phân chia ngôn ngữ kịch trong tác phẩm ra làm hai loại, đó là

ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại để tiện phân tích, đánh giá.

Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Ðây là dạng

ngôn ngữ chủ yếu trong kịch. Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo, sinh động và

có tác dung hỗ tương với nhau nhằm thể hiện kịch tính.

Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó bộc lộ những dằn vặt nội tâm và

những ý nghĩa thầm kín. Ðây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu hiện nội tâm

nhân vật nhưng không phải là biện pháp duy nhất. Ðể biểu hiện nội tâm, bên cạnh độc

thoại, người ta có thể thay thế bằng những phút yên lặng, những tiếng vọng, tiếng đế...

Xung đột kịch là giai đoạn cao của sự phát triển mâu thuẫn. Bất cứ mâu thuẫn nào

phát triển cũng dẫn tới xung đột và giải quyết. Quá trình phát triển của mâu thuẫn

thường tịnh tiến, âm ỉ và đến lúc nào đó thì nổ thành xung đột. Kịch là nghệ thuật tạo

hình năng động, mâu thuẫn trong kịch mang tính chất tập trung cao độ, tính căng thẳng

mãnh liệt. Và chỉ cần phản ánh giai đoạn dó, kịch có thể cho ta thấy toàn bộ quá trình

phát triển của mâu thuẫn, cả nhân trước lẫn quả sau vì thế người viết thường chọn lọc

mâu thuẫn gay gắt, không thể điều hòa được và tự nó sẽ thành cuộc đấu tranh để đi tới

quan hệ mới, ở mức độ cao hơn. Đó là xung đột kịch. Xung đột là đặc điểm cơ bản của

kịch. Hêghen nói: “Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch”

70

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

[tr.245, 15]

2.3.2 Chất kịch trong Truyện Kiều

2.3.2.1 Xung đột kịch

Trong Truyện Kiều, không phải lúc nào cũng có những xung đột gay cấn và căng

thẳng nhưng nếu có thì xung đột ấy thật sâu sắc và mang nhiều ý nghĩa. Ở mỗi xung

đột đều là khái quát và điển hình hóa những mâu thuẫn trong xã hội một cách có nghệ

thuật. Có thể nói xung đột giữ có tác dụng tạo ra sự vận động của các tính cách, đồng

thời người đọc có thể dựa vào đó để nhận ra chất kịch đặc biệt trong truyện thơ –

Truyện Kiều.

Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và thời đại,

nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. Ở những thời đại khác nhau có những

xung đột khác nhau. Đối với các vở kịch lớn và có giá trị thì những xung đột tư tưởng,

xã hội thường nhằm vào lĩnh vực đạo đức, phê phán những việc làm trái với luân

thường đạo lý. Chính vì thế, một tác phẩm kịch muốn đi vào lòng người phải đứng trên

lập trường của đạo đức. Nguyễn Du qua xung đột trong tác phẩm đã đứng về phía kẻ

cô thế, và bênh vực cho lẽ phải bằng cái tâm và tấm lòng nhân đạo của mình, không có

gì lớn hơn nỗi đau của con người trong cảnh bất công, ngang trái mà phải cam lòng

cấp nhận. Xung đột trong Truyện Kiều tuy thâm trầm nhưng rất dữ dội, bộc lộ được

tính cách từng nhân vật và tư tưởng, tình cảm Nguyễn Du gửi gắm vào.

Xung đột mạnh mẽ nhất trong Truyện Kiều có thể kể đến đoạn Hoạn Thư đánh

ghen. Hoạn Thư, con người “ở ăn thì nết cũng hay, nói điều ràng buộc thì tay cũng

già”. Điều khiến người đọc nhớ nhất về nhân vật này là sự đánh ghen, cái ghen sâu

sắc, âm thầm mà độc địa, tàn khốc.

Từ nghe vườn mới thêm hoa,

Miệng người đã lắm, tin nhà thì không.

71

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Lửa tâm càng dập càng nồng,

Giận người đen bạc ra lòng trăng hoa.

Khi biết tin chồng đi lấy vợ lẽ, Hoạn Thư giận lắm nhưng không hề để lộ cho ai

biết, thậm chí còn trị tội bọn gia nhân khi chúng định mách bảo để tâng công. Khi

Thúc Sinh về đến nhà, Hoạn Thư sai bày rượu tiếp đón vui vẻ như không có gì xảy ra.

Thấy thế Thúc mừng lắm, yên trí là vợ chưa biết, Hoạn Thư như “đi guốc trong bụng”

chồng, đúng lúc Thúc Sinh đang nôn nao nhớ Kiều thì Hoạn Thư gợi ý là Thúc nên

quay lại Lâm Truy. Được lời như cởi tấm lòng, Thúc vội vàng lên ngựa ra đi. Chỉ chờ

có vậy Hoạn Thư cũng vội lên xe về Tích Giang thăm cha mẹ đẻ và một cuộc đánh

ghen bắt đầu.

Hoạn Thư thuê bọn côn đồ Ưng Khuyển đi đường tắt sang Lâm Truy bắt cóc Kiều.

Đầu tiên họ Hoạn cho Kiều một trận đòn phủ đầu, sau đó cho về làm con hầu nhà

Hoạn Thư với tên mới là Hoa Nô. Nói về chàng Thúc, sau khi tưởng Kiều đã chết, tỏ

ra đau đớn lắm nhưng rồi nỗi đau cũng nguôi dần. Rồi một hôm chàng lại đánh đường

về thăm vợ cũ quê xưa. Thật trớ trêu là cái bẫy của Hoạn Thư đã giăng sẵn chờ chàng.

Khi Thúc vừa về đến nhà lập tức Hoạn Thư cho gọi Kiều ra hầu hạ. Thúc Sinh và Kiều

gặp nhau mà như trong cơn ác mộng, lòng dạ cứ rối bời, không hiểu là thật hay là do

ma quỷ! Thật là một cách đánh ghen kỳ lạ, “giết người không dao” vậy. Chưa hết

Hoạn Thư còn bắt Kiều phục dịch hầu hạ hai vợ chồng mình nữa. “Bắt khoan bắt nhặt

đến lời. Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay”. Còn nữa, Hoạn Thư còn bắt Kiều đánh đàn

hầu rượu. Tiếng đàn “như khóc như than” của Kiều làm cho Thúc Sinh tan nát lòng

bao nhiêu thì Hoạn Thư càng hởi lòng hởi dạ bấy nhiêu. Sau đó, nể lời đề nghị của

chồng, Hoạn Thư cho Kiều ra Quan âm các để tụng kinh niệm phật với cái tên mới

Trạc Tuyền. Đã là tình cầm sắt mà phải giả bộ làm ngơ, dù gần nhau gang tấc, chàng

Thúc đau khổ lắm. Một hôm nhân khi Hoạn Thư về thăm mẹ đẻ Thúc lẻn ra tình tự với

Kiều. Hai bên đang kể lể nỗi lòng, thở than sùi sụt thì Hoạn Thư đã trở về và nghe hết

mọi chuyện. Sau đó Hoạn Thư vào Quan âm các đàng hoàng vui vẻ chào hỏi hai

người, khen tài hoa Thúy Kiều rồi khoác tay chồng cùng về nhà như không hề biết

72

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

chuyện gì. Cách xử sự của Hoạn Thư làm Kiều kinh ngạc đến run sợ, và ngay đêm đó

Kiều đã quyết định trốn khỏi nhà Hoạn Thư để bắt đầu một chặng đời lưu lạc mới của

mình. Điều đặc biệt là trong suốt quá trình đánh ghen Hoạn Thư không hề hỏi đến và

làm như tuyệt nhiên không biết gì về quan hệ giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều, cứ coi

như hai người không quen biết nhau vậy!

“Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen” đến nỗi Thúc Sinh và Kiều đều kinh sợ. Xung

đột trong tác phẩm thể hiện rõ nhất trong đoạn Hoạn Thư đánh ghen Kiều, đó không

chỉ là cơn tức giận thoáng qua, mâu thuẫn Hoạn – Kiều đã được đẩy lên đỉnh điểm.

Qua đó ta nhận ra được bản chất sắc sảo của Hoạn Thư, cũng nhờ đó truyện được đẩy

lên tới đỉnh điểm, người đọc cảm thấy lo lắng cho số phận của Kiều, không biết Kiều

sẽ hứng chịu cơn ghen của Hoạn Thư ra sao, tháng ngày tiếp đến của nàng sẽ như thế

nào. Mâu thuẫn, xung đột này đã đẩy Kiều đến bước ngoặt tiếp theo của cuộc đời: rơi

vào lầu xanh lần hai.

“Trao duyên” là một trong những đoạn thơ mở đầu cho công cuộc lưu lạc của

Thúy Kiều, nó còn là đoạn thơ đánh dấu sự xuất hiện của xung đột, mâu thuẫn trong

tâm trạng của nhân vật. Khi Vương Quan và Vương Ông bị bắt vì bị vu oan, Thúy

Kiều phải bán mình làm vợ cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha và em. Đêm cuối

cùng trước ngày đi theo Mã Giám Sinh, Kiều cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim

Trọng:

Trong đoạn thơ, ta dễ dàng nhận ra rằng, xung đột trong nội tâm làm nền cho sự

diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều (tình yêu mãnh liệt và sự chia biệt vĩnh viễn) vẫn

không thể giải quyết:

Duyên hội ngộ, đức cù lao,

Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?

Để lời thệ hải minh sơn,

73

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Làm con trước phải đền ơn sinh thành.

Mâu thuẫn của đoạn trích được thể hiện qua ngôn ngữ “thông báo” của nhân vật

chính: Kiều nhắc lại những biến cố, sự kiện đời náng, hệ thống cốt truyện này tạo nên

mâu thuẫn:

Khi gặp chàng Kim / Sóng gió bất kì

Quạt ước chén thề / Đứt gánh tương tư

Tai biến của gia đình đưa Thúy Kiều đến chỗ phải dứt bỏ tình yêu, giã từ Kim

Trọng mà ra đi:

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Kết thúc “Trao duyên”, bi kịch càng được đẩy lên cao. Mâu thuẫn này nối tiếp

mâu thuẫn khác. Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về

với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt. Dù có quay về

quá khứ hay hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại

của mình :

Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vài ái ân !

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

74

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !

Phận sao phận bạc như vôi !

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Hàng lọat những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao bi kịch người con gái. Đó

là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu

sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ

ngữ có tính chất vô hạn định như “muôn vàn, trăm nghìn” thể hiện sâu sắc khát vọng

về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện

thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh. Nàng gọi Kim Trọng là

tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi

mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa

cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải

chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì

đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu

có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Kiều mặc dù đã giãi bày hết nỗi

khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những

đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang

nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên

đau đớn:

Ôi Kim lang hỡi Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Đề tài tình yêu dang dở, đôi lứa chia lìa là một đề tài quen thuộc không phải chỉ

đến Truyện Kiều mới xuất hiện. Đoạn trích “Trao duyên” dưới ngòi bút của Nguyễn

Du thấm đẫm chất nhân đạo tạo nên sự đồng cảm sâu sắc cho người đọc. Dù có nhan

sắc nghiên nước nghiêng thành, tài đàn tuyệt diệu và tài thơ phú nhưng rút cuộc cũng

chỉ để “đem bán vào thuyền lái buôn”. Sự chà đạp lên tài hoa, nhan sắc con người là

một tội ác của chế độ phong kiến, nó cũng tạo nên mối xung đột lớn nhất trong tác

75

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

phẩm: xung đột tài – mệnh. Có thể nói, xung đột trong tâm trạng của Kiều khi đứng

trước mọi đổ vỡ của hạnh phúc đã làm rung động biết bao trái tim người đọc. Đoạn

trích “Trao duyên” đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, thông

qua cách giải quyết xung đột trong nội tâm của mình, Kiều càng hiện lên đẹp đẽ,

sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy

nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu,

còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao!

2.3.2.2 Ngôn ngữ đối thoại

Trong một tác phẩm kịch, không thể có quá nhiều đoạn độc thoại vì như thế sẽ làm

cho vở kịch loãng đi, người đọc, người xem sẽ mất hào hứng khi theo dõi. Những đoạn

đối thoại trong Truyện Kiều, người ta nhận thấy một vốn ngôn ngữ thật phong phú, tạo

nên chất kịch rất riêng của Nguyễn Du.

Đối thoại là một hình thức tồn tại của nhân vật và của tác phẩm. Đối thoại có

nhiều dạng thức tồn tại khác nhau: đối thoại công khai bằng hình thức hỏi đáp, có lời

hỏi và lời đáp. Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Ðây

là dạng ngôn ngữ chủ yếu trong kịch. Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo, sinh

động và có tác dung hỗ tương với nhau nhằm thể hiện kịch tính.

Bêlinxki nói: “Tính kịch không phải do nói qua nói lại mà tạo nên được, nó phải

do hành động giao lưu sinh động giữa hai người mà tạo thành. Nếu cả hai bên tranh

luận đều muốn đè bẹp đối phương, đều muốn cải biến một phương diện nào đó trong

hành động của đối phương, hoặc tấn công vào nhược điểm nào đó trong tâm tư của

đối phương, nếu thông qua cuộc tranh luận đó đưa hai người tới quan hệ mới, thì lúc

đó mới là kịch” [tr.258,15]. Hay nói cách khác, những lời đối thoại trong kịch phải

mang nội dung tấn công – phản công, thăm dò – lãng tránh, chất vấn – chối cãi, thuyết

phục – phủ nhận

Trong các tác phẩm thuộc thể loại tự sự truyền thống chỉ tồn tại ba yếu tố nhân

vật, cốt truyện và lời kể. Ở Truyện Kiều, Nguyễn Du thông qua số phận các nhân vật

76

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

đã nêu lên vấn đề về quyền sống của con người. Kể để bộc lộ nổi lòng của nghệ sĩ, kể

để tâm sự giãi bày là điều rất mới, ít thấy trong truyện Nôm Việt Nam trước Truyện

Kiều.

Hỏi là một biểu hiện của nhu cầu đối thoại. “Nhân vật của Nguyễn Du có nhu cầu

đối thoại cao. Nhân vật của Truyện Kiều hay hỏi trời, hỏi người và tự hỏi

mình”[tr.127, 5]. Câu nói đầu tiên của Kiều là một câu hỏi, hỏi về ngôi mộ quạnh quẽ

trong tiết thanh minh:

Rằng sao trong tiết thanh minh

Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?

Đây là một câu hỏi cần có câu trả lời. Vương Quan đã trả lời bằng cách kể lại cuộc

đời Đạm Tiên và kết thúc lời đáp cũng bằng một câu nói mang sắc thái nghi vấm:

Trải bao thỏ lặn ác tà

Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm

Kiều băn khoăn cho tương lai số mệnh cũng bằng một câu hỏi:

Nỗi niềm tưởng thế màu đau

Thấy người nằm đó biết sau thế nào?

Chỉ một đoạn thơ ngắn kể về việc chị em Kiều gặp mộ Đạm Tiên đã xuất hiện rất

nhiều câu hỏi. Từ câu hỏi về số mệnh của Kiều đã kéo các nhân vật khác cũng như

người đọc cùng suy nghĩ, đi tìm câu trả lời.

Trong màn hội ngộ tay ba: Hoạn Thư – Thúc Sinh – Thúy Kiều, Kiều đã gãy khúc

đàn bạc mệnh hầu rượu, tiếng đàn khiến người trên tiệc cũng “tan nát lòng”, Thúc

Sinh “giọt chân lã chã khôn cầm”. Chính điều đó làm cho Hoạn Thư tức giận vô cùng:

Tiểu thư lại thét lấy nàng:

77

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi!

Sao chẳng biết ý tứ gì?

Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi

“Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi” vưà là một câu hỏi, vừa là một câu có nội

dung cảm thán.

Kể chuyện bằng văn vần đặc biệt khó cho sự thể hiện ngôn ngữ đối thoại. “Trong

thực tiễn của lời nói đàm thoại, các lời phát ngôn riêng biệt nhanh chóng luân phiên

nhau thường không có tính trọn vẹn” [tr.103,27]. Cách thức thể hiện ngôn ngữ đối

thoại bởi từ “rằng” là cách thứ phổ biến nhất trong Truyện Kiều: “Vân rằng:”, “Quan

rằng:”, “Kiều rằng:”, “Thưa rằng:”, “Dạy rằng:”, “Rằng:” ,…

- Rằng: “Nàng chút phận hồng nhan,

Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương(…)

- Vân rằng: Chị cũng nực cười,

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.

Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ?(…)

Quan rằng: Chị nói hay sao,

Một lời là một vận vào khó nghe

- Kiều rằng: những đấng tài hoa

Thác là thể phách, còn là tinh anh (…)

- Thưa rằng: Thanh khí xưa nay,

78

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.

Ngoài ra, Nguyễn Du còn thể hiện ngôn ngữ đối thoại bằng một số cách

thức khác, chủ yếu là miêu tả sự xuất hiện của lời nói. Ví dụ:

- Sinh đà có ý đợi chờ,

Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:

“Thoa này bắt được hư không,

Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về ?”

Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:

“Ơn lòng quân tử sá gì của rơi,

Chiếc thoa nào của mấy mươi

- Khen: “Tài nhả ngọc phun châu” (…)

- Hỏi ông ông mắc tụng đình,

Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.

Hỏi nhà nhà đã dời xa,

. Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.

Đều là sa sút khó khăn,

May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.

Ngôn ngữ đối thoại trong Truyện Kiều ngắn gọn, dễ hiểu, có sự luân phiên. Cách

thức thể hiện ngôn ngữ đối thoại nói trên đã thể hiện tài năng của Nguyễn Du trong

việc thể hiện ngôn ngữ đối đáp của các nhân vật, dù việc đưa ngôn ngữ đối thoại vào

truyện thơ là việc không hề dễ dàng. Ngôn ngữ đối thoại cũng là một trong những đặc

79

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

điểm lớn thể hiện chất kịch của tác phẩm vĩ đại này.

2.3.2.3 Ngôn ngữ độc thoại

Độc thoại là nói với chính mình nhằm giải tỏa nỗi xúc động mãnh liệt trong lòng

mà chưa thể hoặc không thể nói với ai. Trong kịch, độc thoại dùng để bộc lộ nội tâm

nhân vật. Độc thoại là một sự tự bộc lộ, chân thành và khách quan với chính lòng

mình. Trong trường hợp nội tâm phức tạp thì độc thoại chính là cuộc đối thoại giữa

con tim và lí trí của nhân vật. Nếu đối thoại là hình thức giao tiếp sử dụng hình thức

nói năng giữa người này với người khác thì độc thoại là dạng giao tiếp đặc biệt của

ngôn ngữ nhân vật, là hình thức nói với chính mình. Độc thoại giữ vai trò quan trọng

trong kịch, qua độc thoại, người đọc có thể biết được những suy nghĩ thật trong lòng

nhân vật, từ đó hiểu được câu chuyện một cách rõ ràng hơn.

Cần phân biệt độc thoại và độc thoại nội tâm. Độc thoại là lời nói một mình, trước

và sau không có lời nào của ai khác nhưng người thứ ba đó đang nghe, nghe mà không

trả lời. Còn độc thoại nội tâm là lời độc thoại nói với chính mình, dùng vào việc miêu

tả quá trình ý nghĩ trong nội tâm, viết ra để đọc chứ không nhằm nói ra thành tiếng.

Nguyễn Du cũng đã tận dụng phương pháp độc thoại và độc thoại nội tâm để góp phần

làm rõ tâm tư tình cảm của nhân vật. Khi tìm hiểu về ngôn ngữ kịch trong Truyện

Kiều, chúng ta không thể bỏ qua ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng những hình tượng nhân vật có cá

tính, những con người bản ngã. Tính cách của nhân vật được thể hiện ở hành động bên

ngoài và hành động bên trong, tức nội tâm của nhân vật. Chính đời sống nội tâm

phong phú, phức tạp đã thể hiện tính cách của nhân vật. Kiều là một nhân vật có đời

sống nội tâm phức tạp. Không ai hiểu Kiều bằng Kiều. Kiều càng độc thoại bao nhiêu,

người ta càng thấy Kiều đau đớn bấy nhiêu. Kiều đã kể cho Từ Hải nghe về cuộc đời

đau khổ của mình để thực thi ý định báo ân, báo oán:

Trong quân có lúc vui vầy,

80

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:

Khi Vô Tích, khi Lâm Tri,

Nơi thì lừa đảo, nời thì xót thương.

Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,

Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.

Từ Công nghe nói thủy chung,

Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.

Ở đây không có sự giới thiệu người kể, ai kể về ai như kiểu “Kiều rằng:”, nhưng

người nghe, người đọc vẫn có thể hiểu. Đó là lí do vì sao Từ Hải “bất binh nổi trận

đùng đùng sấm vang”

Khi gặp lại người thân sau 15 năm lưu lạc, Kiều đã kể rằng:

Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi:

Từ con lưu lạc quê người,

Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm!

Tính rằng sông nước cát lầm,

Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!

Kiều tự kể quãng đời của mình trong suốt 15 năm lưu lạc có đầu có đuôi nhưng lời

kể chỉ khái quát trong một vài hình ảnh tượng trưng,

Ngoài hình thức độc thoại, Nguyễn Du còn sử dụng phương pháp độc thoại nội

tâm. Trong Truyện Kiều, không chỉ riêng Thúy Kiều có những đoạn độc thoại nội tâm

81

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

với chính mình mà còn có Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Từ Hải,…

Thúy Kiều là nhân vật có nội tâm phức tạp, chính vì thế đã có không ít lần độc

thoại với chính mình, đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ nét bút pháp độc

thoại nội tâm của Nguyễn Du:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng trước, đó là một nét bút đặc sắc, độc

đáo và phù hợp với tâm lí, thể hiện tấm lòng chung thủy của Kiều. Các từ ngữ

“tưởng”, “trông”, “chờ” trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm bật lên nỗi

nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng. Kiều càng nhớ về lời thề đôi lứa, lời hẹn ước

trăm năm ở vườn Thúy lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề như còn đây

mà nay mỗi người như mỗi ngả khiến nàng ân hận, xót xa như kẻ phụ tình. Nàng

tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình, “rày trông mai chờ” uổng công vô ích

khiến nàng càng thêm xót xa, càng thấp thỏm lo âu. Dù cho mỗi người một phương

nhưng tình cản, tấm lòng son của nàng dành cho Kim Trọng là mãi mãi, không thể

phai mờ. Càng nghĩ Kiều càng lo lắng, khiến nàng bật lên câu hỏi tu từ không biết trên

bước đường trôi dạt nơi “bên trời góc bể” , bao giờ nàng mới có thể gột rửa sạch

những hoen ố của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng

dành cho nàng. Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng không nguôi nhớ thương, lo lắng cho cha

mẹ của mình:

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

82

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Với ngôn ngữ độc thoại, kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng ngổn ngang của Kiều

hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa” chỉ nỗi nhớ mong

cha mẹ dài theo năm tháng của nàng. Kiều xót thương cha mẹ mình ngày đêm lo lắng,

“tựa cửa hôm mai” mong ngóng tin nàng, sợ cha mẹ già yếu ở nhà, không ai chăm

sóc, phụng dưỡng. Nàng lo sợ ở nơi quê hương, mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại

ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng

dưỡng cha mẹ của người con. Từ đó tấm lòng vị tha và hiếu thảo của Kiều đã hiện lên

thật rõ nét. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích, lưu lạc nơi chân trời góc

bể, Kiều là người đáng thương nhất. Thế nhưng với tâm hồn cao đẹp của mình, nàng

luôn hi sinh bản thân, quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo lắng, nghĩ về Kim Trọng,

nghĩ về cha mẹ của mình. Nỗi nhớ của Kiều rất thực và có chiều sâu, từ đó cho thấy

Kiều là một đứa con hiếu thảo, một người tình thủy chung và là một con người giàu

lòng vị tha. Chính nhờ biện pháp độc thoại nội tâm, ta thấy được tấm lòng Kiều, môt

người tình chung thủy, một đứa con hiếu thảo và lòng một con người giàu lòng vị tha.

Không chỉ Kiều độc thoại với chính mình, Mã Giám Sinh khi mua được Kiều dưới

danh nghĩa về làm thiếp trong thâm tâm đã tính tới ý đồ xấu xa:

Mừng thầm: Cờ đã đến tay !

Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng.

Đã nên quốc sắc thiên hương,

Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa .

Về đây nước trước bẻ hoa,

Vương tôn quý khách ắt là đua nhau

Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời,

83

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Miếng ngon kề dến tận nơi,

Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.

đào tiên đã bén tay phàm,

Thì vin cành quít cho cam sự đời !

Đoạn thơ này là một đoạn độc thoại nội tâm. Mã Giám Sinh “mừng thầm” bộc lộ

niềm sung sướng khi đã vớ được món hời. Y còn tính toán để che giấu sự bỉ ổi của

mình, đánh lừa người khác:

Nước vỏ lựu máu mào gà,

Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.

Mập mờ đánh lận con đen,

Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi ?

Bản chất ghê tởm của hắn còn hiện lên qua những dòng suy nghĩ khi lỡ có bị lộ, bị

Tú Bà phát hiện:

Mụ già hoặc có điều gì,

Liều công mất một buổi quỳ mà thôi .

Cuối cùng, dòng suy nghĩ mua Kiều về làm vợ của hắn đã có quyết định dứt khoát:

Vả đây đường xá xa xôi,

Mà ta bất động nữa người sinh nghi .

Đây là cái lí đê hèn, bỉ ổi nhất vì hắn biết đây thật ra cũng chỉ là cái cớ. Tú Bà và

Mã Giám Sinh đã lấy cớ mua Kiều về làm thiếp để bắt họ làm gái lầu xanh. Biện pháp

độc thoại nội tâm, để nhân vật tự nói với chính mình đã giúp Nguyễn Du phơi bày

84

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

được sự thật xấu xa này.

Ngoài Thúy Kiều, Hoạn Thư cũng là một nhân vật có cá tính. Hoạn Thư với

những dòng suy ngẫm, tính toán kế hoạch báo thù đã hiện ra rõ nét là một nhân vật sắc

sảo:

Lửa tâm càng dập càng nồng,

Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:

Ví bằng thú thật cùng ta,

Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.

Hoạn Thư đang kể chuyện mình, không chỉ kể, Hoạn Thư còn bộc lộ suy nghĩ tâm

trạng hiện tại của mình và sắp đặt kế hoạch cho tương lai:

Làm cho nhìn chẳng được nhau,

Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!

Làm cho trông thấy nhãn tiền,

Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.

Hoạn Thư bí mật tới mức:

Nỗi lòng kín chẳng ai hay,

Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.

Giọng điệu đay nghiến của Hoạn Thư thể hiện quyết tâm cao độ của Hoạn trong

kế hoạch báo thù. Tuy nhiên, Hoạn Thư khi nói chuyện với Thúc Sinh đã cố tình khỏa

lấp rằng mình đã biết về những điều thị phi về quan hệ vợ chồng họ, về việc chàng

Thúc sắp thú tội với những lời “mật ngọt chết người”:

Rằng trong ngọc đá vàng thau,

85

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Mười phần ta đã tin nhau cả mười.

Khen cho những miệng dông dài,

bướm ong lại đặt những lời nọ kia.

Thiếp đà vụng chẳng hay suy,

Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!

Thấy vợ như vậy, chàng Thúc tưởng bở càng thêm yên tâm. Thế nhưng thật ra

Hoạn Thư nghĩ một đằng, nghĩ một nẻo. Biện pháp để cho nhân vật tự kể, tự bộc lộ,

một mình mình biết, một mình mình hay này đã giúp người đọc thấy được sự sâu sắc

trong suy nghĩ của Hoạn Thư. Hoạn Thư đã thành công trong kế hoạch báo thù, Kiều

cũng đã đánh giá Hoạn Thư một sự đánh giá rất ngầm, rất thực:

Đàn bà thế ấy thấy âu một người!

Ấy mới gan ấy mới tài,

Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!

Hoạn Thư là người viết kịch bản, đạo diễn, cũng là diễn viên xuất sắc của vở kịch

đánh ghen. Nếu không có biện pháp độc thoại, người đọc không thể hiểu kĩ và sâu về

nhân vật Hoạn Thư đến thế.

Biện pháp độc thoại nội tâm còn được Nguyễn Du sử dụng khi nói về tâm trạng

băn khoăn hàng hay không hàng của Từ Hải. Từ nghĩ đến tự do mà mình đã có:

Một tay gây dựng cơ đồ

Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành

Từ Hải còn nghĩ đến việc mất tự do, mất giá trị lúc đầu hàng:

Bó thân về với triều đình,

86

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?

áo xiêm ràng buộc lấy nhau,

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?

Thông qua ngôn ngữ độc thoại, người đọc đã thấy được tài năng của Nguyễn Du

trong việc thể hiện con người ở chiều sâu tâm hồn. Chính nhờ điều đó, người đọc có

thể hiểu thêm tính phức tạp của con người và cuộc đời. Qua Truyện Kiều người đọc

thấy được bức chân dung tự hoạ của Nguyễn Du. Đó là một con người đau khổ, nhiều

lúc bế tắc tột cùng trước những bi kịch của kiếp người, đặc biệt là những người tài hoa

bạc mệnh và hình như là chính bản thân Nguyễn Du. Chính mục đích này đã quyết

định cách kể rất mới, cách kể “nhằm bộc lộ thế giới nội tâm của nghệ sĩ, để tâm sự

giải bày, để mở cho sự đánh giá nhiều chiều nơi người đọc”. Biện pháp độc thoại

Nguyễn Du không chỉ áp dụng cho riêng nhân vật chính là Vương Thúy Kiều mà còn

áp dụng cho các nhân vật khác. Các nhân vật phụ tuy đóng vai trò làm nổi bật nhân vật

chính nhưng vẫn thể hiện được cá tính của mình. Một số nhân vật phụ dù xuất hiện rất

ít trong tác phẩm nhưng vẫn là nhân vật có cá tính sắc sảo. Đó là nét mới của các nhân

87

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

vật phụ trong Truyện Kiều

Chương 3: Ý NGHĨA SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG

TRUYỆN KIỀU

Truyện Kiều chỉ có 3254 câu thơ nhưng là quyển bách khoa toàn thư của hàng vạn

con người Việt Nam và thế giới. Tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du, cuộc đời đau khổ

của nàng Kiều đã làm thổn thức bao tấm lòng. Cho đến hôm nay, Nguyễn Du và

Truyện Kiều vẫn là nguồn cảm hứng, là đề tài hấp dẫn cho thế hệ trẻ. Chính nhờ sự

tương tác về thể loại, Truyện Kiều được sáng tạo thành nhiều hình thức nghệ thuật

khác nhau như kịch, chèo, cải lương, bói Kiều, vịnh Kiều, … Trong giới hạn của luận

văn, chúng tôi xin được đề cập đến một số hình thức nghệ thuật được sáng tạo nhờ sự

tương tác thể loại trong Truyện Kiều.

Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học là viết về số phận con người với tất

cả niềm vui và nỗi đau trong đời sống cá nhân và xã hội. Nguyễn Du cũng rất thấm

thía nỗi đau bất hạnh của con người. Truyện Kiều chủ yếu là câu chuyện kể về những

khổ đau bất hạnh của cuộc đời Kiều. Truyện Kiều là “một sáng tạo đột xuất trên cơ sở

tổng hợp truyền thống tự sự và trữ tình của dân tộc như các khúc ngâm, thơ trữ tình và

truyền thống thi ca trữ tình Trung Quốc như thơ luật Đường, thơ tự sự như Trường

hận ca…” [tr.198,199, 7]. Sự tương tác thể loại của tác phẩm mục đích chính là truyền

tải giá trị hiện thực và nhân đạo cho tác phẩm. Các sự kiện liên tiếp diễn ra, sự kiện

này nối tiếp sự việc khác. Qua các sự kiện, nhân vật hiện lên với đầy đủ tính cách.

Chất tự sự là cái nền cho tác phẩm được ra đời, từng nhân vật được hiện lên với đầy đủ

dáng vóc, hành động. Ở đó có cô Kiều hiếu thảo, tài hoa nhưng bạc mệnh, nội tâm

luôn đấu tranh giành xé, có bậc nam nhi Từ Hải sống có chí khí, là một anh hùng với

khí chất hiên ngang, có cả Tú Bà xảo quyệt, tàn ác, Mã Giám Sinh ham tiền, Sở Khanh

đểu giả, và Hoạn Thư ghen tuông. Câu chuyện diễn ra không chỉ qua lời kể khô khan

mà còn qua tình cảm nhân vật và tác giả, qua những câu cảm thán, lời thơ trữ tình.

Nhờ chất trữ tình, tác phẩm dễ đi vào lòng người đọc. Không chỉ nhờ thể thơ lục bát

88

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

dân gian dễ thuộc dễ nhớ, mà vì “thơ là tiếng lòng”, người đọc dễ dàng thấu hiểu tấm

lòng tác giả và cảm thương cho số phận nhân vật. Thông qua những câu cảm thán, ta

thấy được tiếng kêu xé lòng của tác giả, cái đau, cái căm phẫn của Nguyễn Du đối với

một xã hội xem trọng đồng tiền hơn thảy, con người trở nên quá rẻ rúng, nhỏ bé trước

thế lực của đồng tiền. Để đưa cái xấu, cái ác lên tới đỉnh điểm, để cho cái xấu và cái ác

đấu tranh với nhau, chất kịch đã phát huy trọn vẹn khả năng của nó. Nhờ có chất kịch,

thông qua những mâu thuẫn, xung đột kịch và cách mà nhân vật giải quyết những xung

đột đó, tính cách nhân vật được bộc lộ. Và đứng sau mỗi nhân vật là tấm lòng nhân

đạo cao cả của Nguyễn Du, ông để cho nhân vật đối thoại với nhau, độc thoại với

chính mình, để cho nhân vật tự giải quyết vấn đề. Ông không tô vẽ một cuộc sống màu

hồng như truyện cổ tích, không để Bà Tiên, Ông Bụt hiện lên giúp đỡ nhân vật. Ở tác

phẩm của Nguyễn Du, không phải lúc nào người tốt cũng hạnh phúc, kẻ xấu bị trừng

trị, tàn sát. Chính vì thế, Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm giàu tính nhân đạo

mà còn mang đậm tính hiện thực, một bức tranh không thể nào thực hơn về xã hội

phong kiến thối nát

Với quyển “Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm” (1979), Đặng Thanh Lê là tác

giả đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu Truyện Kiều dưới góc nhìn thể loại khá toàn diện.

Tác giả đã đối chiếu Truyện Kiều với những đặc điểm cơ bản của truyện Nôm, tác giả

đã làm sáng tỏ nét độc đáo, cách tân của Truyện Kiều, bên cạnh những nét tương đối

và yếu tố kế thừa của tác phẩm. Hết sức đồng cảm với nhân vật chính, Đặng Thanh Lê

xem Kiều là biểu hiện của lý tưởng đạo đức thẩm mỹ, đồng thời là hiện thân của một

vận mệnh có tính chất bi kịch. Ánh sáng và bóng tối giằng xé qua hình tượng Thúy

Kiều. Qua nhân vật, có thể thấy bóng tối của một xã hội phong kiến và cả cái ngọt

ngào nhưng cay đắng của tình yêu, ánh sáng của tài hoa,… Khi nghiên cứu chủ đề, nội

dung tư tưởng Truyện Kiều, ta thấy rằng truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của văn học

Việt Nam đã được biểu hiện một cách đẹp đẽ, sâu xa qua tác phẩm. Nguyễn Du không

chỉ sử dụng phương thức phản ánh cuộc sống tự sự mà còn trữ tình, kịch để xây dưng

89

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

những nhân vật vừa sinh động, vừa có chiều sâu nội tâm.

Phan Ngọc trong “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” [25]đã

nhận định phương pháp tự sự của Truyện Kiều là chưa có trong văn học Việt Nam.

Nguyễn Du đã chống lại lối tự sự khách quan của tiểu thuyết cũ. Tác giả đã đặt các sự

kiện trong những hoàn cảnh đối lập và dùng ngôn ngữ để nêu cao sự đối lập ấy. Bên

cạnh đó, Nguyễn Du đã tạo ra những con người cô độc tự tách mình làm hai trong

dòng thời gian nội tâm. Phương thức hoàn toàn mới mẻ, chỉ cho đến khi Nguyễn Du

sáng tác Truyện Kiều mới xuất hiện rõ nét trong văn học Việt Nam. So với Kim Vân

Kiều Truyện, Nguyễn Du đã chuyển chủ đề từ tình và khổ sang tài và mệnh, nâng nó

lên một tầm cao mới bằng cách “xây dựng Thúy Kiều thành con người tập trung tất cả

những đau khổ của người đàn bà thời trước” [tr.117,25]. Nguyễn Du đã nhìn con

người rất gần gũi, “nhìn nhân vật theo cái nhìn nhiều chiều, nhìn theo nhu cầu sống

còn của bất cứ một ai cá thể muốn tồn tại trên cõi đời này” [tr.349, 26]. Chủ đề cơ bản

của tác phẩm là “thân mệnh tương đối”, nó phản ánh tình trạng khổ nạn sâu nặng, phổ

biến của kiếp người mà Nguyễn Du trông thấy và thể nghiệm. Cảm hứng nhân đạo và

nhân bản đã đưa Truyện Kiều đi sâu vào lòng người đọc.

Bên cạnh đó, ngôn ngữ trong Truyện Kiều là một đề tài đã tốn không ít giấy mực.

Ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ tự sự, ngôn ngữ trữ tình, ngôn ngữ

kịch, ngôn ngữ thiên nhiên, … Chỉ với một tác phẩm nhưng đã có rất nhiều loại ngôn

ngữ. Với mỗi một loại ngôn ngữ, Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn đặc trưng của nó và

khiến nó phát huy tác dụng của mình trong tác phẩm. Thông qua ngôn ngữ, tác giả

không chỉ đơn thuần kể câu chuyện về cuộc đời Thúy Kiều, mà qua ngôn ngữ từng

nhân vật hiện lên với đầy đủ diện mạo, tính cách, hành động. Và sau mỗi sự việc, sự

kiện diễn ra, ta thấy tồn tại tiếng lòng của tác giả luôn bên cạnh, dõi theo từng nhân

vật. Có những lúc ta nhận ra rằng Nguyễn Du đang trầm ngâm, suy tư, đau với cái đau

của kiếp người nhờ ngôn ngữ trữ tình. Có những lúc cái đau đời cất lên đầy đau đớn,

dằn xé với ngôn ngữ kịch. Sự tương tác về ngôn ngữ nói riêng, tương tác thể loại nói

chung góp phần biến Truyện Kiều trở thành tác phẩm đặc sắc nhất giữa thời đại và

90

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

trong lòng người đọc.

Sức lan tỏa của Truyện Kiều trong nhân dân ta được thể hiện bằng nhiều hình thức,

vô số lối diễn xướng dân gian, không những sân khấu trò Kiều, chèo Kiều mà còn đi

vào các sinh hoạt văn hóa cộng đồng như tập Kiều, vịnh Kiều, ngâm Kiều, ru Kiều, đố

Kiều, hát giao duyên, thậm chí người ta còn dùng Kiều để bói toán gia sự, tình duyên.

Ngày 10/11/201, Bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch đã phê duyệt nội dung “Đề án

tuyên truyền, quảng bá tác phẩm Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du. Đề án gồm

3 nội dung chính. Đặt hàng đối với Nhà hát Chèo Việt Nam, Nhà hát Chèo Hà Nội

chuyển soạn, đặt lời mười bài hát dựa trên tác phẩm Truyện Kiều thành các làn điệu

Chèo. Đặt hàng đối với Nhà hát Cải lương Việt Nam, Nhà hát Cải lương Trần Hữu

Trang, mỗi đơn vị chuyển soạn mười bài hát dựa trên những làn điệu bài bản cố định,

phù hợp với tâm trạng, tính cách từng nhân vật trong “Truyện Kiều”

Chèo

Trong văn hóa xứ Nghệ theo các nhà sưu tầm, nghiên cứu tuồng , chèo cổ thì trò

Kiều xuất hiện đầu tiên ở vùng nam Thanh Hóa, bắc Nghệ An. Theo các nhà nghiên

cứu kịch bản diễn ca ở Kỳ Anh gọi là chèo Kiều. Người Diễn Châu nói kịch bản là

tuồng pha chèo nên gọi là trò Kiều. Cùng chuyển thể từ nguyên tác truyện Kiều của cụ

Nguyễn Du nhưng làn điệu giữa chèo Kiều và trò Kiều khác nhau. Vũ điệu của chèo

mềm mại, uyển chuyển, còn trò lại có vũ điệu giống với tuồng.

Truyện Kiều được viết theo thể thơ lục bát, câu chữ dễ nhớ, dễ thuộc. Trước đây

nhiều người dân chữ nhất bẻ đôi cũng không biết chữ gì, vậy mà lạ thay có nhiều

người thuộc lòng Truyện Kiều. Người ta thuộc Kiều bằng cách thông qua đi xem nhà

trò diễn tích Kim Vân Kiều diễn ca, nghe ru con bằng Kiều, lẫy Kiều, ví Kiều, nhại

Kiều …“mưa dầm ngấm lâu” đến mức thuộc lòng. Tôi nghe ngày xưa ở chợ Đình có

bà cụ bán cá mê Kiều đến mức bán cá cho khách, hễ đếm mỗi con thì lẩy một câu

Kiều:

“Ngày xuân con én đua thoi

91

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh dợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Từ tờ mờ sáng cho đến khi vãn buổi chợ có ngày bà cụ lẩy hàng trăm câu Kiều để

bán cá nướng. Đấy là một hình thức lan tỏa truyện Kiều trong sinh hoạt dân gian.

Trong đời sống thường nhật, người chồng xuất thân từ học trò mê Kiều, thường khi

ngâm vịnh hoặc ví von đôi ba câu Kiều để thư giản đã giúp cô vợ thuộc lòng nhiều

đoạn truyện Kiều. Đến khi ru con ngủ, người mẹ cất tiếng “ à…ơ” ru Kiều:

“À ơ…Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa ánh trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng khi tỉnh khi mê

Nửa tình nửa cảnh như chia tấc lòng”

Có lẽ chỉ có Truyện Kiều là trường hợp duy nhất mà độc giả đã dùng tác phẩm để

bói cho số phận của mình. Và bản thân tác phẩm đã được quần chúng sử dụng để trở

thành một sinh hoạt văn hóa rất đa dạng. Ta có thể kể đến: bói Kiều, tập Kiều, lẩy

Kiều, đố Kiều, nhại Kiều, vịnh Kiều…hoặc dùng các thể loại phú, văn tế, văn sách,

biểu, từ khúc, ngâm khúc… để viết về Kiều và các nhân vật trong Truyện Kiều. Ngoài

ra, Truyện Kiều còn được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh, chèo, cải lương… và

cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho các họa sĩ vẽ nhân vật, cảnh vật trong tác phẩm

này…Không thể không bàn tới tục bói Kiều, theo những người xem bói cho biết rất

linh nghiệm. Câu khấn nôm trước khi bói đến nay nhiều người thuộc. Muốn bói thì

người bói cầm quyển Kiều để trong lòng hai bàn tay chấp lại, mặt ngước lên trời hoặc

hướng về nơi có hương đèn trầu nước rồi khấn: “Lạy quan Từ Hải, lạy vãi Giác

92

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, tôi là ( xưng tên tuổi, nơi cư trú) xin xem quẻ (về gia sự,

hay khoa cử hoặc tình duyên, hay là mất gì, đi đâu…vv) sau đó giở Kiều nam trái nữ

phải lấy ngón tay chỉ vào 1 dòng nào đó rồi đưa cho người giải đoán. Người đoán

không những phải thuộc truyện Kiều mà phải biết nhiều điển tích thì đoán mới hấp dẫn

có sức thuyết phục người xem bói.

Lẩy Kiều là dùng câu 6 ghép vào câu 8 – lấy bất kỳ câu nào trong 3254 câu trong

Truyện Kiều miễn là cùng vần để tạo ra một văn bản hàm nghĩa khác; dài ngắn như thế

nào là tùy vào nội dung mà người lẩy Kiều muốn diễn đạt. Còn “tập Kiều” người ta

cũng ghép như trên, nhưng bên cạnh những chữ nguyên vẹn từ Truyện Kiều thì còn có

những câu, những chữ do người đặt làm ra. Với lối chơi tao nhã như thế này, cả hàng

ngàn bài thơ mang nhiều nội dung, chủ đề khác nhau đã ra đời:

Thênh thang đường cái thanh vân

Một xe trong cõi hồng trần như bay.

Nhại Kiều là phỏng theo một số câu quen thuộc trong Truyện Kiều để viết ra

những câu tương tự, thường là để châm biếm, giễu cợt. Chẳng hạn, với hai câu: “Có

tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần” thì có người “nhại Kiều” là:

Có tiền mà cậy chi tiền

Có tiền như Mỹ cũng phiền lắm thay.

Kịch

Bên cạnh việc khẳng định rằng ngôn ngữ Truyện Kiều đã đạt tới trình độ điêu

luyện và tinh vi, sâu sắc, có một số ý kiến cho rằng ở Truyện Kiều, Nguyễn Du còn bị

hạn chế bởi lối miêu tả bằng một thứ bút pháp ước lệ, tượng trưng trong văn học cổ

điển Việt Nam, nặng về khái quát, dùng những mỹ từ pháp tượng trưng và cách điệu

trau chuốt, không đi vào cụ thể (1)… Tuy nhiên, lối miêu tả hiện thực bằng thứ ngôn

ngữ ước lệ, tượng trưng lại rất phù hợp với nghệ thuật sân khấu kịch hát phương Đông

93

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

nói chung và kịch hát Việt Nam nói riêng. Sân khấu tuồng, chèo của ta vốn thiên về tả

ý, chứ không phải là tả thực. Nghệ thuật biểu diễn của diễn viên sân khấu kịch hát

cũng là nghệ thuật mang tính ước lệ, cách điệu và tượng trưng cao.

Truyện Kiều là truyện thơ, được viết bằng thơ. Nhân dân ta đã vịnh Kiều, lẩy Kiều,

ngâm Kiều và cả diễn Kiều. Trong các kịch bản chèo, cải lương về Kiều, các tác giả có

nhiều đoạn đã trích nguyên văn những đoạn thơ dài trong Truyện Kiều, hoặc cũng là

dựa trên các vần thơ của Nguyễn Du mà sáng tác lời cho các nhân vật. Làm được điều

đó là vì ngôn ngữ trong sân khấu kịch hát cũng là ngôn ngữ văn vần, được viết bằng

thơ. Chính nghệ thuật ngôn từ tinh tế và chất thơ của tác phẩm đã tạo nên chất trữ tình

cho tác phẩm khi bước lên sân khấu.

Đào Duy Anh đã nhận xét: “Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam,

nếu Nguyễn Trãi với Quốc Âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học

dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học

hiện đại của nước ta… Nguyễn Du đã phát triển, hoàn chỉnh và thống nhất hai thành

phần quan trọng của ngôn ngữ văn học Việt Nam, yếu tố văn học dân gian và yếu tố

văn học chữ Hán, để tạo nên một ngôn ngữ văn học mới, dồi dào, uyển chuyển”[tr.7,

20]. Có thể thấy rằng, ngôn ngữ vừa bác học vừa giàu chất dân gian, của Truyện Kiều

rất gần gũi với thứ ngôn ngữ bình dân của sân khấu kịch hát.

Nói đến loại hình sân khấu được tiếp nhận từ Truyện Kiều, không thể không nhắc

tới ca vũ nhạc kịch của Đan Phú. Nhạc sĩ Lê Thương đã từng nhận định: “Đây là một

tác phẩm viết rất công phu dầy nhiệt huyết của nhạc sĩ Đan Phú – ông đã phải bỏ ra

gần năm năm trời mới soạn xong vở Thi ca vũ nhạc kịch Kim Vân Kiều của đại thi hào

Nguyễn Du” [tr7, 18]. Đan Phú đã phổ 3254 câu thơ Kiều chuyển thành ca- vũ – nhạc

– kịch. Do có sự tương tác thể loại trong tác phẩm nên nhạc sĩ đã có thể tổng hòa các

loại hình nhạc, múa, kịch với nhau, đem lại cho người xem những chấn động mạnh mẽ

về thị giác, thính giác và cả xúc giác. Cô Kiều, chàng Kim, Từ Hải, … đều được tái

94

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

hiện thành những nhân vật sống

Tác giả Lê Duy Hạnh đã dàn dựng vở “Kiều – Từ Hải” do Lê Tử (Từ Hải) và

Thiên Trang (Thúy Kiều) đóng vai chính. Vở diễn đã rất thành công và được trình diễn

nhiều lần ở sân khấu kịch 5B Võ Văn Tần, Thành phố Hồ Chí Minh

Nhạc sĩ Trần Quảng Nam trong bài phỏng vấn “Trần Quảng Nam: nhạc kịch

Truyện Kiều” đăng trên trang http://www.rfa.org, ngày 05 tháng 09 năm 2014 đã phát

biểu rằng: “Từ nhỏ đến lớn, tôi vẫn thích Truyện Kiều, không phải bởi vì tôi được học

ở trường mà bởi vì mẹ của tôi một người không được học nhiều nhưng lại thuộc hết

Truyện Kiều, rồi về sau, tôi đọc nguyên bản thì mình lại càng thích hơn nữa”. Chính

nhờ tình yêu đối với Kiều, với tác phẩm ngàn đời của dân tộc đã thôi thúc ông ành hơn

20 năm để nuôi dưỡng, ấp ủ, tìm tòi và tạo dựng để chuyển thể Truyện Kiều của đại thi

hào Nguyễn Du sang nhạc kịch. Tính cho đến thời điểm này, mặc dù nhạc kịch Truyện

Kiều mới công diễn được ba buổi vì còn nhiều khó khăn về mặt kinh phí nhưng chắc

chắn trong tương lai, người yêu âm nhạc Việt Nam sẽ còn có cơ hội được thưởng thức

nhiều hơn sự kết hợp độc đáo giữa chất liệu nhạc kịch phương Tây hiện đại với chất cổ

đại thi ca trong tác phẩm bất hủ Truyện Kiều. Ba vở diễn đã được trình diễn ở San

Jose, miền Nam bang California và Washington DC, Mỹ.

Đặc biệt hơn nữa, Truyện Kiều còn được đưa lên sân khấu dưới hình thức opera.

Lâu nay, người ta vẫn thường quen thưởng thức Truyện Kiều qua các hình thức biểu

diễn nghệ thuật truyền thống như ngâm thơ, chèo, cải lương, tuồng... Và lần này,

người xem được thưởng thức tác phẩm vĩ đại này qua một hình thức thể hiện mới, đó

là opera nhưng theo cách biểu diễn của người Việt Nam. Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo

đã hợp tác với Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam dàn dựng nên vở Opera “Định mệnh

bất chợt” dài 11 chương với một phong cách trình diễn hoàn toàn mới lạ và độc đáo.

Ông là người rất nổi tiếng trong việc viết giao hưởng cho dàn nhạc dân tộc Việt Nam,

cũng như kết hợp biểu diễn giữa âm nhạc truyền thống với âm nhạc hiện đại phương

Tây. Và lần này, ông đã dàn dựng nên vở opera “Định mệnh bất chợt”. Theo nhạc sĩ

Nguyễn Thiện Đạo, vở opera có hai vai dành cho Thúy Kiều với hai phong cách biểu

95

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

diễn khác nhau, đó là vai Thúy Kiều ngâm thơ và vai Thúy Kiều hát opera. Ngoài ra,

các nhân vật Nguyễn Du, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, mỗi người một vai. Vở nhạc kịch

gồm 11 chương kể những câu chuyện đáng nhớ về cuộc đời nàng Kiều tài hoa bạc

mệnh. Mỗi chương đều được mở đầu bằng một khúc ngâm thơ. Xuyên suốt vở opera

Kiều, người xem được thưởng thức những phong cách trình diễn khá mới lạ và độc

đáo. Ở đó có sự thể hiện của nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau như hát opera, sự

trình diễn phối hợp giữa dàn nhạc giao hưởng phối hợp và đàn tì bà, ngâm thơ, kịch,

nhạc rock... Chính nhờ sự tương tác thể loại trong tác phẩm, những người nghệ sĩ đã

có thể đem lại những cảm xúc khá mới mẻ và độc đáo về cách cảm thụ Truyện Kiều

đối với người xem.

Ngoài ra, Truyện Kiều còn là nguồn cảm hứng cho những người trẻ, một số sinh

viên trường Cao đẳng sân khấu điện ảnh đã dàn dựng trích đoạn “Kiều đánh đàn hầu

rượu vợ chồng Hoạn Thư” để tham gia kì thi kỹ thuật biểu diễn do trường tổ chức.

Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh cũng tổ chức định kì

những đêm thơ nhạc kịch, sân khấu hóa Truyện Kiều.

Năm 2016, theo thông tin từ Nhà hát kịch Việt Nam trong năm nay, Nhà hát sẽ

đầu tư dàn dựng một tác phẩm lớn, kịch bản “Kiều” chuyển thể từ truyện Kiều của đại

thi hào Nguyễn Du. Vở diễn sẽ được đạo diễn, NSND Anh Tú dàn dựng theo thể loại

nhạc kịch.

Từ xưa đến nay, nền văn học Việt Nam dường như chưa có tác phẩm nào có đời

sống mạnh mẽ và là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận, có sức ảnh hưởng sâu rộng như

Truyện Kiều của Nguyễn Du. Chỉ với 3254 câu Kiều đã có rất nhiều cách thể hiện

cũng như tiếp nhận khác nhau với những bản nhạc, chèo, cải lương, kịch, ca múa kịch.

Chính sự phong phú về âm điệu, lời ca, nghệ thuật biểu diễn,… những người làm nghệ

thuật đã giúp chúng ta hiểu và cảm sâu hơn về tác phẩm. Để họ làm được điều đó, phải

96

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

kể đến một đặc trưng của truyện thơ Truyện Kiều, đó chính là sự tương tác thể loại.

C. KẾT LUẬN

Nguyễn Du là vị đại thi hào dân tộc. Con người Nguyễn Du cũng như những sáng

tác của ông, đặc biệt là Truyện Kiều dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, song người

viết vẫn muốn đóng góp một cách tìm hiểu tác phẩm ở phương diện và góc độ khác.

Sự tương tác thể loại trong văn học là vấn đề còn khá mới mẻ trong lí luận văn học

và nghiên cứu tác phẩm văn học nói chung. Các đề tài nghiên cứu về vấn đề này chủ

yếu nghiên cứu về sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết và truyện ngắn, chủ yếu

nghiên cứu tương tác thể loại trong văn xuôi. Có thể nói, sự tương tác thể loại trong

truyện thơ trung đại như Truyện Kiều là vấn đề hoàn toàn mới. Tìm hiểu Truyện Kiều

dưới góc nhìn tương tác thể loại giúp người đọc có cái nhìn mới mẻ về sự sáng tạo

cũng như tấm lòng của Nguyễn Du đối với tác phẩm.

Qua đề tài “Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại”, người

viết đã cố gắng làm rõ chất tự sự, trữ tình và chất kịch trong tác phẩm. Về chất trữ

tình, trữ tình là yếu tố quan trọng quyết định tạo nên chất thơ. Tác phẩm thơ luôn thiên

về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời. Người

viết tập trung khảo sát chất thơ qua các phương diện: thể thơ, giọng điệu trữ tình và trữ

tình thiên nhiên. Đặc điểm quan trọng để phân loại Truyện Kiều là truyện thơ chính là

thể thơ lục bát. Truyện Kiều không được viết bằng văn xuôi. Thể lục bát là thể thơ

quen thuộc với người Việt Nam. Với việc lựa chọn thể thơ lục bát, thể thơ của dân tộc

mang đậm chất trữ tình, Nguyễn Du đã đưa tác phẩm nói riêng và nền văn học Việt

Nam nói chung đạt đến một tầm cao mới. Thể thơ đã góp phần tạo nên giọng thơ tâm

tình, thủ thỉ, ngọt ngào nhưng cũng đậm tính triết lý sâu sắc. Tác phẩm thuộc thể loại

trữ tình mang nặng tâm tư, tình cảm của tác giả. Chính vì thế mà giọng điệu trong

Truyện Kiều cũng mang đậm chất trữ tình. Giọng kể đa dạng, thấm đẫm cảm xúc là

một đặc điểm lớn của giọng kể trong Truyện Kiều. Bằng giọng thơ yêu thương, đầy ai

oán, ông đã trực tiếp bộc lộ thái độ phẫn uất đối với định mệnh khắc nghiệt đang bao

97

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

vây lấy Kiều. Ta thấy được rằng, Nguyễn Du đã tìm cho mình một giọng điệu riêng,

đậm chất Nguyễn Du. Và một đặc điểm làm nên chất trữ tình cho tác phẩm không thể

không kể đến chính là thiên nhiên. Trong Truyện Kiều, thiên nhiên được xem như một

nhân vật, thiên nhiên cũng biết vui, biết buồn – “Người buồn cảnh có vui đâu bao

giờ”. Thiên nhiên luôn gắn với những biến cố trong cuộc đời Kiều, mang nặng nỗi

lòng của nhân vật và tác giả. Thiên nhiên ở đây không phải là một khách thể đi bên

cạnh cuộc đời mà nó là tâm hồn con người hay như có người nói “thiên nhiên là bình

chứa các tâm trạng”. Thể thơ, giọng điệu và thiên nhiên là những yếu tố quan trọng tạo

nên chất trữ tình sâu sắc cho tác phẩm lớn của đại thi hào Nguyễn Du – Truyện Kiều.

Chất tự sự trong Truyện Kiều thể hiện qua các yếu tố quan trọng: cốt truyện, hệ

thống nhân vật và ngôn ngữ tự sự. Cốt truyện Truyện Kiều được vay mượn từ Kim

Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên, khi viết tác phẩm, Nguyễn Du

đã có những sáng tạo riêng, loại bỏ những chi tiết không cần thiết. Truyện Kiều được

cấu tạo như một tiểu thuyết chương hồi nói chung. Cốt truyện Truyện Kiều là một hệ

thống những câu chuyện và trong mỗi chuyện gần như có đầy đủ các thành phần của

cốt truyện: giới thiệu, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút, kết thúc. Nhân vật là yếu tố

quan trọng không thể thiếu để tạo nên cốt truyện cho tác phẩm. Nguyễn Du đã xây

dựng một hệ thống nhân vật phong phú. Trong đó, đã có những nhân vật trở thành

nhân vật điển hình. Mỗi nhân vật đại diện cho một tầng lớp, góp một tiếng nói, một

tính cách để phản ánh hiện thực cuộc sống. Tất cả nhân vật trong Truyện Kiều tạo nên

một xã hội đảo điên, góp phần phản ánh một cách chân thực một xã hội phong kiến

thối nát. Ngôn ngữ trong tác phẩm không chỉ mang chấb trữ tình mà còn có chất tự sự.

Qua ngôn ngữ tự sự, tác giả thể hiện cái nhìn, suy nghĩ về cuộc đời. Ngôn ngữ trong

Truyện Kiều là thứ ngôn ngữ hàm súc có sức khái quát cao. Nguyễn Du kể bằng văn

vần như đang kể bằng văn xuôi, giống như kể bằng lời nói bình thường. Ngôn ngữ

trong Truyện Kiều đậm chất ca dao với lối nói quen thuộc. Lời thơ của ông vừa bảo

đảm được sự trau chuốt của thơ lục bát vừa có những khẩu ngữ của ngôn ngữ đời

98

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

thường. Đó chính là chất “văn xuôi” trong tác phẩm của Nguyễn Du.

Chất kịch trong Truyện Kiều là yếu tố ít được nhắc tới. Nhờ có chất kịch với

những mâu thuẫn, xung đột kịch mà câu chuyện được kể có cao trào, không nhàm

chán. Qua mỗi lần xung đột, tính cách nhân vật được thể hiện một cách rõ nét thông

qua cách nhìn nhận cũng như cách giải quyết mâu thuẫn. Trong Truyện Kiều, có hai

xung đột kịch lớn chính là xung đột hữu hình giữa các nhân vật với nhau và xung đột

vô hình: tài – mệnh. Xung đột trong Truyện Kiều tuy thâm trầm nhưng rất dữ dội, bộc

lộ được tính cách từng nhân vật và tư tưởng, tình cảm Nguyễn Du gửi gắm vào. Và

điều làm nên chất kịch trong tác phẩm không thể kể đến ngôn ngữ đối thoại và ngôn

ngữ độc thoại. Ngôn ngữ đối thoại trong Truyện Kiều ngắn gọn, dễ hiểu, có sự luân

phiên. Ngôn ngữ độc thoại góp phần giúp Nguyễn Du thể hiện con người ở chiều sâu

tâm hồn. Điều đặc biệt, ngôn ngữ độc thoại không chỉ xuất hiện ở riêng nhân vật chính

Thúy Kiều mà các nhân vật khác cũng có những lần độc thoại với chính mình. Có thể

thấy, Nguyễn Du đã quan tâm, theo sát từng nhân vật, cũng như cách ông quan tâm, lo

lắng cho con người.

Về hướng phát triển của đề tài, vì trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp, người

viết chỉ nghiên cứu sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều. Nếu có điều kiện, người

viết có tham vọng nghiên cứu đối sánh sự tương tác thể loại trong Truyện Kiều với các

truyện thơ Nôm khác cũng như các tác phẩm nước ngoài khác. Đề tài khóa luận này sẽ

là định hướng, hướng nghiên cứu còn mở ra những khả năng để nghiên cứu tiếp tục

99

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

cho những người đi sau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đoàn Trọng Thiều, Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Luận

án Thạc sỹ Ngữ Văn, PGS Lê Ngọc Trà, ĐHSPTPHCM, 1994

2. Trần Thị Phương Phương, Nghiên cứu so sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với

Evgeny Onegin của A.S Pushkin về mặt phương pháp sáng tác, Luận án Tiến sĩ Ngữ

Văn, GS Lê Đình Kỵ, ĐH KHXH và NV, 2000

3. Trần Thị Ngọc Ly, Luận án Thạc sỹ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, PGS.TS Lê

Thu Yến, ĐH Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh, 2015

Phạm Đan Quế, Thế giới nghệ thuật Truyện Kiều, NXB Thanh Niên, 2013 4.

5. Đoàn Trọng Thiều, Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du: truyền thống và cách

tân, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, GS TSKH Lê Ngọc Trà, ĐH Sư Phạm TP.Hồ Chí

Minh

6. Đặng Văn Kim, Truyện Kiều và truyền thống văn hóa người Việt trong sự đối sánh

với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐH

Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh, 2003, PGS.TS Lê Thu Yến

7. Trần Đình Sử, Thi pháp Truyện Kiều, NXB GD, 2002

8. Chu Vi Chi (Chủ biên, 1993), So sánh văn học Trung Quốc và văn học nước ngoài,

NXB Đại học Nam Khai

9. Hồ Thị Tường Thụ, Giọng điệu nghệ thuật trong Truyện Kiều, Luận văn tốt nghiệp,

ĐH Sư Phạm TP.HCM, 1999

10. Nhiều tác giả, Từ trong di sản, NXB tác phẩm mới. 1978

11. Triệu Thùy Dương, Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ của người đời

sau (từ năm 1930 đến nay), Luận văn tốt nghiệp, PGS.TS Lê Thu Yến, 2000, ĐH

Sư Phạm TP.HCM

12. Võ Minh Hải, Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, Luận án Tiến

sĩ Ngữ văn, PGS.TS Lê Thu Yến, 2015, ĐH Sư Phạm TP.HCM

13. Đỗ Minh Tuấn, Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Văn

100

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

hóa thông tin, 1995

14. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo

dục, 1987

15. Nguyễn Nam, Tìm hiểu nghệ thuật viết kịch, Vụ văn hóa quần chúng xuất bản, Hà

Nội, 1969

16. Lê Hữu Mục – Pham Thị Nhung – Đặng Quốc Cơ, Truyện Kiều và tuổi trẻ , NXB

Pari, 1998

17. Đan Phú, Ca vũ nhạc kịch về Kiều

18. Lê Thị Hoài Phương, Truyện Kiều với nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam,

19. Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974

20. Trần Đình Khiêm, Tiếp nhận Truyện Kiều dưới góc nhìn nhạc họa, Luận văn thạc

sỹ Ngữ Văn, PGS.TS Lê Thu Yến, , ĐH Sư Phạm TP.HCM, 2003

21. Đoàn Trọng Thiều, Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Du: truyền thống và cách

tân, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, GS. TSKH Lê Ngọc Trà, ĐH Sư Phạm TP.HCM,

2003

22. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX), tập 2,

NXB ĐH và THCN, Hà Nội

23. Đặng Thanh Lê, Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm, Nhà xuất bản KHXH, Hà

Nội, 1979

24. Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB KHXH, Hà

Nội, 1985

25. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995

26. G.N.Popeslov (Chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập I, NXB Giáo dục,

1985

27. Phạm Đan Quế, Bình Kiều, Vịnh Kiều, Bói Kiều, NXB Hà Nội, 1991

28. Phạm Đan Quế, Nguyễn Du, Truyện Kiều và các nhà Nho thế kỉ XIX, NXB Văn

nghệ TP.HCM, 1994

29. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, NXB GD, 1999

101

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

30. Phương Lựu, Suy nghĩ về lí luận văn học Mác Lênin, báo Văn nghệ, 2003

31. Nguyễn Thạch Giang – Trương Chính, Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm, NXB

VHTT

32. Nguyễn Trung Hiếu, Truyện Kiều trong yêu cầu đổi mới của khoa nghiên cứu văn

học hiện nay, Tạp chí văn học, trang 128 – 134, 1978

33. Nguyễn Quảng Tuân, Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, NXB KHXH, 2000

34. Mai Quốc Liên, Dòng bác học và dòng bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều, Tạp

chí văn học, 1966

35. Lê Ngọc Trà, Lý luận văn học, NXB Trẻ TP.HCM, 1992

36. Lê Thu Yến, Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, NXB GD, 2002

37. Lê Thu Yến, Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời sau, NXB

GD, 2002

38. Lê Thu Yến, Nhà văn trong nhà trường, Nguyễn Du, NXB GD, 2002

39. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB GD,

1992

40. Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện ( Nguyễn Khắc Hanh – Nguyễn Đức

Vân dịch), NXB Hải Phòng, 1994

41. Vũ Hạnh, Đọc lại Truyện Kiều, NXB Nghĩa Bình tái bản, 1987

42. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Du tác gia và tác phẩm, NXB GD, 2001

43. Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương, Lí luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB

GD, 2001

44. Nguyễn Văn Hoàn, Bước đầu kiểm điểm kết quả thảo luận Truyện Kiều, Tập san

nghiên cứu khoa học, 1960

45. Nguyễn Tiến Chung, Tính chất tạo hình của thơ Nguyễn Du trong sách kỉ niệm 200

năm sinh Nguyễn Du, NXB KHXH, 1971

46. Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Văn nghệ TP.HCM,

2001

47. Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, NXB KHXH, 1993

102

Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới góc nhìn tương tác thể loại

48. Đặng Thanh Lê, Nguyễn Du với nhân vật Từ Hải, Tạp chí văn học, 1965