ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
------------
PHẠM THỊ HOA
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG
PHÂN TÂM HỌC CỦA SIGMUND FREUD
Khóa luận tốt nghiệp hệ đại học chính quy
Ngành: Triết học
(Chương trình đào tạo: chuẩn)
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
------------
PHẠM THỊ HOA
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG
PHÂN TÂM HỌC CỦA SIGMUND FREUD
Khóa luận tốt nghiệp hệ đại học chính quy
Ngành: Triết học
(Chương trình đào tạo: chuẩn)
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn
Hà Nội – 2019
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ
nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập tại khoa,
tại trường.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn đã
giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn thiện khóa
luận tốt nghiệp này.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn
chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy,
các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2019
Sinh viên
Phạm Thị Hoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG PHÂN TÂM HỌC CỦA SIGMUND
FREUD ............................................................................................................. 6
1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tinh thần châu Âu cuối thế kỷ
XIX - đầu thế kỷ XX của sự hình thành tư tưởng đạo đức học Freud .. 6
1.2. Những tiền đề khoa học của sự hình thành và phát triển tư tưởng
đạo đức học trong Phân tâm học của Freud .............................................. 8
1.2.1. Những tiền đề khoa học tự nhiên, y học và tâm lý học cuối thế kỷ
XIX -đầu thế kỷ XX .................................................................................... 8
1.2.2. Những tiền đề triết học của tư tưởng Freud về đạo đức học ........ 10
1.3. Cuộc đời, sự nghiệp và những tác phẩm chủ yếu của S.Freud ..... 16
1.3.1. Đôi nét về cuộc đời Sigmund Freud .............................................. 16
1.3.2. Nguồn gốc của phân tâm học Sigmund Freud .............................. 21
1.3.3. Những nền tảng triết học phân tâm học ........................................ 23
TIỂU KẾT CHƯƠNG I .................................................................................. 34
CHƯƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO
ĐỨC HỌC S.FREUD .................................................................................... 36
2.1. Quan niệm về thiện ác, lương tâm, nghĩa vụ, tự do, trách nhiệm và
bản chất của tư tưởng đạo đức học trong phân tâm học của Freud .... 37
2.2. Một số đánh giá về tư tưởng đạo đức học của Freud .................... 57
2.2.1. Nhận xét chung về tư tưởng đạo đức học của Freud ................... 57
2.2.2. Những điểm tích cực trong tư tưởng đạo đức học của Freud ...... 61
2.2.3. Hạn chế của tư tưởng đạo đức học Freud .................................... 63
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................. 688
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………….80
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong một xã hội hiện đại vô cùng phức tạp, con người
vẫn luôn phải đối mặt với vô vàn những vấn đề tâm - sinh lý nan giải. Việc tìm ra
định hướng sống phù hợp với bản chất văn hóa, nhân văn của mình là một nhiệm vụ
thực sự cấp bách của con người hiện nay. Lịch sử văn minh nhân loại cho chúng ta
thấy, phần lớn những thành tựu mà con người đã đạt được cho tới nay đều dựa trên
khoa học, tư duy lý tính vốn chủ yếu được hình thành vào thời cận đại ở Tây Âu.
Tuy nhiên, định hướng tư duy và lối sống duy khoa học - kỹ thuật, kỹ trị và việc đề
cao thái quá những giá trị vật chất do văn minh công nghệ mang lại đã đưa loài
người đến những thảm họa của thời hiện đại, mà biểu hiện rõ nhất là hai cuộc thế
chiến ở thế kỷ XX. Nguy hiểm hơn, cách tiếp cận duy lý cực đoan tới con người,
bản tính người đã đơn giản hóa nhiều vấn đề của tồn tại người, làm lu mờ nhiều đặc
điểm quan trọng của con người, khiến cho nó bị đẩy vào tình trạng bế tắc dù cố
gắng vùng vẫy để thoát ra khỏi những tình huống sinh hoạt gay cấn. Hoàn cảnh sinh
tồn của người phương Tây hiện đại đã làm cho họ lâm vào khủng hoảng tinh thần
sâu sắc, buộc người ta phải tìm hiểu kỹ lưỡng và toàn diện hơn “thế giới nội tâm”,
bản tính người của mình như con đường, tiền đề lý luận để có được định hướng giá
trị đáng tin cậy. Phân tâm học gắn liền với tên tuổi Sigmud Freud đã ra đời trong
điều kiện đó và nhằm đáp ứng nhu cầu đó của con người phương Tây từ cuối thế kỷ
XIX. Sigmund Freud (1856 - 1939) là một trong những nhà khoa học được liệt kê
trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Đứng trên vai những người khổng lồ) của
Melvyn Bragg, bên cạnh những tên tuổi vĩ đại khác như Archimedes, Galileo
Galilei, Isaac Newton, Henri Poincaré, Albert Einstein. Công lao chủ yếu của Freud
là khám phá ra vô thức (unconsciousness) như tầng tư duy nền tảng định hướng mọi
hành vi của con người. Khám phá này được coi như một cuộc cách mạng trong
nhận thức về bản chất của hành vi, bởi trước đó nền văn minh có xu hướng đề cao ý
thức như phần tư duy chủ yếu của con người.
Cho đến nay, các quan điểm phân tâm học cơ bản của Freud không những vẫn
bảo toàn giá trị mà còn được các thế hệ kế tiếp ông làm phong phú, sâu sắc và phát
1
triển toàn diện hơn. Tư tưởng của Freud hiện nay không chỉ được nghiên cứu đơn
thuần như một lý thuyết y học hay tâm lý học, mà còn được nghiên cứu ở các khía
cạnh triết học, văn hóa học, nghệ thuật, tôn giáo, nhân học, xã hội học… nhằm tạo
dựng giá trị, lối sống và hơn nữa là giúp con người hiểu một cách sâu sắc và toàn
diện hơn về chính bản thân mình. Tất cả những lĩnh vực nghiên cứu đó và ứng dụng
của chúng cho thấy ảnh hưởng của phân tâm học đã tạo ra một sự quan tâm đặc biệt,
sâu sắc, có ý nghĩa to lớn, không chỉ đối với triết học mà đối với xã hội tri thức nói
chung. Tuy nhiên, việc nghiên cứu phân tâm học trên phương diện triết học chưa
được thực hiện nhiều, nhất là ở Việt Nam. Tôi cũng ý thức được rằng, khía cạnh
triết học trong phân tâm học không tồn tại một cách cụ thể, nhưng cũng không quá
chung chung. Có thể nhận thấy rằng, vốn là học thuyết tâm lý học được Freud sử
dụng vào nghiên cứu con người và các vấn đề của đời sống xã hội khác nhau, nên
phân tâm học cũng đòi hỏi sự lý giải của triết học. Thực sự, Freud đã có những phát
hiện mới cho quan niệm về con người so với triết học truyền thống. Những điểm
mới đó bao hàm một sự hiểu biết triết học sâu sắc về tồn tại người trong thế giới
hiện đại.
Ở Việt Nam, phân tâm học thực ra không xa lạ bởi nó đã được giới thiệu từ
những năm 30 - 40 của thế kỷ trước. Khi ấy, nội dung chủ yếu được quan tâm của
phân tâm học là sự ứng dụng những lý thuyết của Freud để lý giải hoạt động sáng
tác và phê bình văn học nghệ thuật. Điều đó cho thấy việc tiếp nhận tư tưởng của
Freud thời kỳ đầu và sau này còn mang tính chọn lọc, một chiều. Trong bối cảnh
tiếp biến văn hóa toàn cầu và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta không thể tránh
đối diện với những vấn đề của con người sống trong xã hội hiện đại. Những áp lực
và đòi hỏi của cuộc sống hiện đại đã khiến cho con người rơi vào trạng thái trầm
cảm, căng thẳng, mệt mỏi, thậm chí còn làm gia tăng số ca mắc bệnh tâm thần. Một
bộ phận không nhỏ thanh, thiếu niên hiện nay ở nước ta đang hiểu lầm, hiểu sai về
lối sống và văn hóa phương Tây, đặc biệt là về cuộc cách mạng tình dục dường như
được khởi xướng từ lý thuyết Freud, nên đã có những hành vi lệch chuẩn so với đạo
đức truyền thống và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Lối sống gấp và ích kỷ, thói
đạo đức giả đang trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội đang là những vấn đề
báo động cho cả gia đình lẫn xã hội và đặt ra những thách thức cho nền giáo dục
2
Việt Nam. Mặt khác, trong quá trình đổi mới, Đảng và nhà nước ta đang có chủ
trương coi con người là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất để xây dựng và phát
triển đất nước thì việc xem xét một cách nghiêm túc các quan niệm về con người
cũng như tư tưởng triết học của Freud để có một cái nhìn khách quan, biện chứng về
nó nhằm góp thêm một hướng đi mới trong nghiên cứu con người Việt Nam hiện
đại là một việc làm vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Vì
những lý do trên, Tôi quyết định chọn vấn đề Tư tưởng đạo đức học trong Phân tâm
học của S. Freud làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình với hy vọng làm rõ
tư tưởng đạo đức học trong phân tâm học của S. Freud đồng thời gợi ý một cách
tiếp cận mới, tìm hướng đi mới cho nghiên cứu con người Việt Nam trong xã hội
hiện đại.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tác giả Nguyễn Vũ Hảo (2013) trong Một số quan niệm đạo đức học
phương Tây hiện đại và ảnh hưởng của chúng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay [10], cũng đã bàn đến những nội dung đạo đức cơ bản của Freud.
Theo tác giả: “Ngay từ đầu Freud đã coi luân lý đạo đức là lĩnh vực liên quan đến
sự ép, sự cưỡng bức và sự đánh mất tự do” [10, 115]. Tác giả đánh giá về quan
niệm đạo đức của Freud rằng, đạo đức học trong phân tâm học dựa trên nền tảng
triết học nhân bản phi duy lý với cách tiếp cận rất mới và độc đáo đối với các vấn đề
con người, cơ cấu tâm lý cá nhân, đặc biệt là vô thức với tính cách là khởi nguồn,
nguyên nhân và yếu tố tác động cơ bản đến các hành vi đạo đức của con người
trong xã hội.
Vấn đề đạo đức học và triết học văn hóa cũng được bản đến trong cuốn Nhân
học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương Tây hiện
đại. Các tác giả cho rằng, Freud xem xét quan niệm đạo đức để trả lời cho hai vấn
đề: thứ nhất, phải chăng những hiện tượng tâm thần xấu xa bộc lộ ra trong giấc mơ
thực sự khẳng định ý kiến của một số nhà triết học về bản tính ác của con người?
Thứ hai, vì chú giải giấc mơ cho thấy những thiên hướng và ham muốn xấu xa của
con người, nên chúng là gì và bản chất của chúng là gì? [12, 274]. Do vậy, các tác
giả cho rằng thực chất quan niệm đạo đức của Freud là đi tìm nguồn gốc của đạo
đức và những yêu cầu của đạo đức trong xã hội hiện đại. Về quan niệm văn hóa, các
3
tác giả đã xác định tiền đề để Freud triển khai triết học văn hóa là xem xét tồn tại
người trên phương diện xã hội tính, quan hệ xã hội, nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa
trong con người... [12, 319-322].
Trong một số bài viết như của Nguyễn Vũ Hảo (2013) Đạo đức học phương
Tây đương đại: Tổng quan các trào lưu và vấn đề chủ yếu, Tạp chí Thông tin Khoa
học xã hội [9] và của Châu Khê (2011), Luận bàn về tính thiện ác - Học thuyết của
Sigmund Freud [15]... cũng ít nhiều đề cập đến quan niệm của Freud về tôn giáo,
đạo đức.
Như vậy, có thể nói, các vấn đề tôn giáo, đạo đức và văn hóa trong quan niệm
của Freud đã được nhiều tác giả quan tâm. Tuy nhiên, điều chủ yếu mà họ chú ý
thuộc về những nội dung cơ bản của tư tưởng, họ chưa bàn nhiều về khía cạnh triết
học của đạo đức học Freud. Trên cơ sở những nghiên cứu ấy, khóa luận sẽ tiếp tục
phát triển và đặc biệt là làm rõ khía cạnh triết học của những nội dung trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu chuyên sâu và trình bày có hệ thống nội dung tư tưởng
đạo đức học chủ yếu trong Phân tâm học của Freud và những đánh giá về ông với tư
cách là một nhà triết học phương Tây hiện đại.
Nhiệm vụ:
- Trình bày những điều kiện và tiền đề cho sự hình thành và phát triển tư
tưởng đạo đức học trong Phân tâm học của Freud.
- Phân tích những nội dung chủ yếu của đạo đức học trong phân tâm học
Freud trên các phương diện để thấy được những đóng góp mới của ông trong quan
niệm về đạo đức học.
- Trình bày một số đánh giá về tư tưởng đạo đức học của S.Freud, những mặt
tích cực và tiêu cực bổ sung vào hệ thống tri thức về đạo đức học hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là nội dung cơ bản của đạo
đức học trong Phân tâm học của Freud.
Phạm vi: Khóa luận tập trung khảo cứu, làm rõ những nội dung cơ bản về quan
niệm thiện ác, lương tâm, nghĩa vụ, tự do, trách nhiệm, bản chất và nguồn gốc của đạo
đức trong Phân tâm học của Freud. Có thể nói, sự lý giải của Freud về cái vô thức là lý
4
thuyết nền tảng và là đóng góp lớn nhất của ông ở phương diện triết học. Do vậy, có
thể sử dụng kết quả của sự lý giải này để hiểu toàn bộ các quan niệm khác như về con
người, đạo đức học và triết học văn hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện dựa trên quan điểm triết học Mác –
Lênin về mối quan hệ giữa ý thức xã hội với tồn tại xã hội, về sự thống nhất lý luận
và thực tiễn trong nghiên cứu tư tưởng đạo đức học.
Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu biện
chứng như: thống nhất lịch sử - logic; phân tích và tổng hợp; đối chiếu so sánh tài liệu;
phương pháp hệ thống - cấu trúc…
6. Đóng góp mới của khóa luận
- Khóa luận khẳng định, ở Freud có tư tưởng đạo đức học với những tiền đề từ
chính triết học và những nội dung phong phú, sâu sắc đáp ứng khuôn mẫu của một
học thuyết triết học kinh điển.
- Khóa luận không chỉ khảo cứu, phân tích và trình bày có hệ thống để làm rõ
những nội dung đạo đức học chủ yếu trong Phân tâm học của Freud nhằm xác định
vị trí của ông trong dòng chảy triết học phương Tây hiện đại mà còn chỉ ra những
giá trị và hạn chế thông qua sự đánh giá tư tưởng đạo đức học của ông từ các trào
lưu triết học khác.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Ý nghĩa lý luận: Khóa luận góp phần nghiên cứu có hệ thống những nội dung
đạo đức học cơ bản trong Phân tâm học của Freud - một lĩnh vực vẫn chưa được
nghiên cứu chuyên sâu ở Việt Nam - để làm rõ những đóng góp về đạo đức học trong
phân tâm học Freud trong việc mở ra một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu con
người Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho mọi người
quan tâm tìm hiểu tư tưởng đạo đức học trong Phân tâm học của Freud và cho các
nhà nghiên cứu có mong muốn vận dụng lý thuyết này trong nghiên cứu con người
hiện nay ở Việt Nam.
8. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2
5
chương, 5 tiết.
CHƯƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG PHÂN TÂM HỌC CỦA SIGMUND
FREUD
1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tinh thần châu Âu cuối thế kỷ XIX
-đầu thế kỷ XX của sự hình thành tư tưởng đạo đức học Freud
Từ giữa thế kỷ XIX là thời kỳ lịch sử châu Âu có nhiều biến đổi lớn và ở nước
Áo - quê hương Freud chịu nhiều tác động bởi những biến đổi . Năm 1848, cuộc
cách mạng Áo nổ ra nhằm thực hiện mục tiêu lật đổ chế độ phong kiến, giải phóng
nhân dân thoát khỏi sự thống trị của giai cấp địa chủ quý tộc. Nhưng cuộc cách
mạng đó bị thất bại, chế độ phong kiến của vương triều Habsbourg lại được khôi
phục dẫn đến sự áp bức ngày càng nặng nề, mâu thuẫn trong xã hội ngày càng gay
gắt. Đồng thời lúc này, phương thức sản xuất TBCN ở Tây Âu về cơ bản đã được
xác lập và phát triển mạnh mẽ đang từng bước chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa Đế
quốc. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ được tính ưu việt của mình so với
các phương thức sản xuất trước đó. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế thì
trong đời sống tinh thần cũng xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt thuộc nhiều lĩnh
vực như tư tưởng, chính trị, triết học, tôn giáo… khiến cho đời sống xã hội trở nên
mong manh, nhạy cảm, căng thẳng và phức tạp hơn [17, 9].
Freud sống ở Viên - thủ đô nước Áo, một trong những thành lũy của chủ nghĩa
tư bản Tây Âu lúc bấy giờ. Nhìn bề ngoài thành Viên hoa lệ, hoành tráng nhưng lại
che giấu bên trong nó một lò lửa sục sôi đầy rẫy những mâu thuẫn kinh tế, xã hội và
tư tưởng. Bạo loạn, chiến tranh, chết chóc xảy ra thường xuyên. Freud đã chứng kiến
thực tế ấy và ngay chính gia đình, những người thân của ông cũng phải đối mặt với
hiện thực xã hội ấy. Hai người anh trai của ông bị buộc phải tham gia cuộc chiến
tranh giữa Ý, Pháp, Phổ và Áo, gia đình ông phải chạy loạn đến Laizic để lánh nạn.
Đồng thời, lúc này sự biến đổi về kinh tế của toàn bộ đế quốc Áo - Hung, công việc
làm ăn khó khăn khiến gia đình của Freud phải ly tán. Vào độ tuổi trưởng thành, bản
thân Freud đã tận mắt chứng kiến hoặc tham gia các cuộc chiến tranh: Mỹ - Tây Ban
Nha, Nhật - Nga và Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Những cuộc chiến tranh này
không chỉ làm hao tổn sức người, sức của mà còn gây ra vết thương tinh thần to lớn.
6
Sự xáo trộn trong đời sống kinh tế, chính trị và sự dồn nén, ức chế của xã hội dẫn đến
số bệnh nhân tâm thần tăng vọt. Việc là nhân chứng và trực tiếp tham gia vào những
diễn biến số phận của con người và xã hội như vậy đã có ảnh hưởng đến sự hình
thành và phát triển tư tưởng của Freud [17, 8-9].
Thái độ của xã hội đối với vấn đề tình dục, bầu không khí ở Viên, nơi Freud
sống và làm việc vào cuối thế kỷ XIX cũng là một thể hiện của “tinh thần thời đại”
có ảnh hưởng không nhỏ đến quan điểm của Freud. Trong xã hội xuất hiện đầy rẫy
mâu thuẫn và căng thẳng, với thói đạo đức giả tràn lan. Dưới triều đại nữ hoàng Áo
Victoria, chủ nghĩa bài Do thái của Công giáo bành trướng khắp Tây Âu… đã làm
đạo đức và pháp luật truyền thống mất hiệu lực trong việc hướng dẫn và kiểm soát
đời sống tinh thần con người; sự phát triển vượt bậc của khoa học thời đó đã biến
phương Tây thành xã hội duy lý, lấy “cái tôi” làm trung tâm, từ đó thói đạo đức giả
trở thành mốt của thời đại. Tính dục cũng như các nhu cầu sinh lý cơ bản khác và
khuynh hướng vô chính phủ trong các hành vi của con người, một mặt, không được
kiểm soát, hướng dẫn và ngăn chặn bởi đạo đức và pháp luật, nên đã phát triển tràn
lan; mặt khác, chúng cũng không được công khai thừa nhận chính thức trong ngôn
luận và trong các hành vi ứng xử xã hội. Trên thực tế, ở phương Tây thế kỷ XIX có
hai xã hội, xã hội của đời sống tình dục rất sục sôi diễn ra bên trong có “sự bật đèn
xanh” của các thành viên và “xã hội bề ngoài” với sự lên mặt của “cái tôi thanh cao,
kiêu hãnh”. Điều này giải thích vì sao, những vấn đề quan trọng của đời sống tinh
thần suốt cả cuộc đời mỗi con người như tính dục và các nhu cầu sinh lý khác lại
được cả xã hội công khai hay ngấm ngầm để ý với các thái độ khác nhau [18, 220].
Tóm lại, trong xã hội phương Tây lúc này đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới,
đặc biệt là những mâu thuẫn trong đời sống tinh thần: giữa một bên là những quan
niệm truyền thống với các tập tục thành kiến của xã hội quan phương Thanh giáo bảo
thủ tồn tại hàng trăm năm, và bên kia là một xã hội mới sôi động với những quan
điểm và “chuẩn mực” mới. Trong bối cảnh ấy, việc nảy sinh thói đạo đức giả do sự
ức chế trong hoạt động tinh thần - nhất là sự ức chế về mặt tính dục là không thể
tránh khỏi. Điều này khiến những con người không kịp thời thích ứng với điều kiện
xã hội mới, thích ứng với những mối quan hệ xã hội mới… sẽ trở nên căng thẳng,
thiếu tự tin trong cuộc sống, trong nếp nghĩ và sẽ rơi vào tình trạng bị “tự kỷ ám thị”
7
với cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ ngay trong suy nghĩ của bản thân mình. Từ
đó những căn bệnh mới về tinh thần cũng có nguy cơ phát triển theo. Triết học đã,
đang và mãi mãi có một mục đích nhân văn duy nhất của mình là thúc đẩy giải phóng
con người, đem lại tự do cho con người, bằng cách chỉ ra bản chất đích thực của sự
tha hóa của con người và con đường khắc phục sự tha hóa ấy. Những bi kịch và
khủng hoảng tinh thần của nền văn minh khoa học hiện đại vô tình đã đưa Freud tới
kết luận rằng, cần phải nhận thấy một cái thô thiển và thấp hèn ở đằng sau mọi khát
vọng cao thượng. Học thuyết Freud ra đời thực chất là lời cảnh báo về những mối
nguy hiểm nằm trong bề sâu tâm thần của con người. Quan điểm nhân học của Freud
là một bước ngoặt trong quan niệm triết học về con người. Người ta bắt đầu thừa
nhận cần phải xem xét con người một cách chăm chú và sâu sắc hơn so với trước đây.
Con người không những là một thực thể duy lý. Nó thực ra là "giao điểm của hai thế
giới" - thế giới tinh thần, cao thượng và thế giới tự nhiên, thấp hèn. Và, đó chính là
đặc thù của con người như một dạng hiện tồn đặc biệt. Từ những suy ngẫm sâu sắc
như vậy, Freud đã quan tâm đến đạo đức học như một phương tiện hữu hiệu nhất để
đem lại tự do tinh thần cho con người, buộc người ta bắt đầu thừa nhận cần phải xem
xét con người một cách chăm chú và sâu sắc hơn so với trước đây.
1.2. Những tiền đề khoa học của sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo
đức học trong Phân tâm học của Freud
1.2.1. Những tiền đề khoa học tự nhiên, y học và tâm lý học cuối thế kỷ XIX -
đầu thế kỷ XX
Trong quá trình học tập ở trường đại học Viên và sau này thông qua các
nghiên cứu thực tiễn chữa trị bệnh tâm thần, Freud đã gặp gỡ, tiếp xúc, học hỏi ở
khá nhiều các nhà khoa học bậc thầy đi trước về tâm lý học, triết học, y học, sinh
học, sinh lý thần kinh, trực tiếp nhất là về các phương pháp chữa trị bệnh tâm thần.
Các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc học hỏi này đã bổ sung và củng cố các cơ sở triết học, y
sinh học, tâm sinh lý học tâm thần cho các tư tưởng triết học của ông.
Thế kỷ XIX là thời kỳ tư tưởng khoa học kỹ thuật có sự phát triển mạnh mẽ.
Những phát minh có tính bước ngoặt như Thuyết tiến hoá của Charles Drawin, Định
luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng và Tâm lý học biến thể, đã có ảnh hưởng
rất lớn đến sự ra đời của phân tâm học Freud. Ông đã chủ định lựa chọn tìm hiểu
8
các tri thức khoa học đỉnh cao đương thời để làm giàu thêm hiểu biết của mình và
chúng có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tư tưởng triết học cũng như toàn bộ
nội dung của phân tâm học Freud.
Những nghiên cứu về phương pháp chữa bệnh tâm thần
Trước khi là nhà Phân tâm học, hoạt động chuyên môn trực tiếp của Freud là
nghiên cứu nguồn gốc và trị liệu các rối nhiễu tâm lý. Chính trong lĩnh vực này ông
đã học tập được nhiều ở các bậc tiền bối.
Đầu thế kỷ XIX, xã hội có thái độ nhân đạo và sáng suốt hơn đối với các rối
nhiễu tâm lý. Một trong số những người chủ xướng quan điểm mới này là bác sĩ
người Pháp Philip Binzl (1745 - 1826). Ông khẳng định, những rối nhiễu tinh thần
là một hiện tượng tự nhiên, vì thế để chữa trị chúng cần có những phương pháp
khoa học tự nhiên. Ông đã giải phóng bệnh nhân khỏi xiềng xích và đối xử với họ
một cách nhân đạo. Chính ông là người đầu tiên đã ghi lại tiền sử bệnh, chú ý đến
tính chất và quy trình trị liệu. Do ảnh hưởng của tấm gương này, người ta dần tháo
bỏ xích cho bệnh nhân cả ở châu Âu và Mỹ. Bệnh nhân tâm lý đã trở thành đối
tượng của các nghiên cứu khoa học. Freud thường trích dẫn và phân tích các luận
điểm của Binzl trong việc lý giải vô thức và mặc cảm Ơdip trong nghiên cứu tôn
giáo.
Trong quá trình trị bệnh tâm thần, Freud đã nghiên cứu và kế thừa các phương
pháp chữa trị của các bậc tiền bối, nhưng ông nhận thấy rằng nó còn “thiếu cái khoa
học có tính cách triết học phụ thuộc có thể dùng vào những mục tiêu do những hoạt
động y khoa đặt ra” điều đó đã thôi thúc Freud tìm tòi một phương pháp mới để vô
thức trở về với ý thức.
Cuộc khủng hoảng phương pháp luận trong tâm lý học
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tâm lý học thế giới bước vào khủng hoảng về
phương pháp luận vì đã chỉ chủ yếu lấy ý thức làm đối tượng nghiên cứu và đó là
mảnh đất cho sự xuất hiện các trường phái tâm lý học khách quan. Freud đã bắt đầu
xây dựng phân tâm học với mục tiêu thiết lập một quan hệ chủ - khách thể mới
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vô thức và ý thức để khắc phục những hạn
chế của tâm lý học duy tâm, chủ quan.
Như vậy, những bế tắc và khủng hoảng trong y học và tâm lý học cuối thế kỷ
9
XIX đầu thế kỷ XX đã tạo điều kiện cho phân tâm học ra đời với tư cách là một hệ
thống các quan niệm triết học. Sự xuất hiện của phân tâm học một cách khách quan
đã làm cho cả y học và tâm lý học phát triển. Mặc dù các thành tựu khoa học tự
nhiên và tâm lý học có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tư tưởng Freud, nhưng
có thể nói bên cạnh những tiền đề ấy tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng
đến việc hình thành các quan điểm phân tâm học khác nhau [4; 11], như chính ông
đã từng thừa nhận trong Phân tâm học nhập môn.
1.2.2. Những tiền đề triết học của tư tưởng Freud về đạo đức học
Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây khẳng định rằng, học thuyết phân tâm của
Freud dựa trên quan sát lâm sàng. Cơ sở của phân tâm học là các quan điểm tâm
thần học và sinh lý học cuối thế kỷ XIX. Còn các tư tưởng triết học hầu như không
ảnh hưởng gì đến Freud, vì ông không những có thái độ đề phòng đối với những suy
luận trừu tượng của các nhà triết học mà còn chưa bao giờ quan tâm đến các tác
phẩm triết học. Thực tế cho thấy, Freud chịu ảnh hưởng rất đậm nét các quan điểm
triết học trong lịch sử từ thời cổ đại cho đến thời cận đại.
Trong quan niệm về vô thức, Freud chịu ảnh hưởng từ các nhà triết học Đức
như G.W. Leibniz (1646 - 1716) trong Thuyết đơn tử, của Fridric Herbart (1776 -
1841) với thuyết ngưỡng ý thức về sự loại suy đơn tử từ vô thức đến ý thức. Trong
các suy tư về bản năng tính dục và giấc mơ ông chịu ảnh hưởng của Platon, Aristot,
Descartes, Scherner, Fisher… Ông kế thừa quan niệm đạo đức và văn hoá từ
Spinoza, Kant, Voltaire... Nhưng người thực sự có công khai sáng và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến S.Freud là Schopenhauer và Nietzsche. Các nhà tư tưởng này đã đặt
nhiệm vụ cho triết học phải thoát khỏi sự cám dỗ của thế giới hư ảo bên ngoài để
quay trở về thế giới nội tâm của mình, từ đó tìm tòi bản tính nội tại thực sự của con
người và thế giới. S. Freud đã nhiệt tình tiếp thu quan điểm chủ yếu của các nhà
triết học này trong quá trình hình thành tư tưởng.
Trong quan niệm về đạo đức, Freud thừa nhận, phạm trù cấm đoán xã hội ông
chịu ảnh hưởng từ mệnh lệnh tuyệt đối của Kant. Trong tác phẩm Nguồn gốc của
tôn giáo và văn hóa, Freud cho rằng, nghiên cứu về Tôtem giáo nhằm làm sáng tỏ,
nó có thể đem lại cách nhìn phân tâm học để giải thích các vấn đề về cấm kỵ hiện
nay. Do đó, dù nó có bị nhìn nhận một cách tiêu cực và có thể gán cho nó những nội
10
dung khác thì xét về bản chất tâm thần, nó chính là mệnh lệnh tuyệt đối của Kant [3,
40]. Do vậy, quan niệm đạo đức của ông được rút ra từ việc nghiên cứu sự xuất hiện
các cấm kỵ, vì “việc luận giải cấm kỵ có thể làm sáng tỏ cội nguồn của mệnh lệnh
tuyệt đối” [3, 130]. Ngoài ra, trong quan niệm về đạo đức, ông còn nghiên cứu rất
kỹ các tác phẩm của Voltaire bàn về tôn giáo, chiến tranh và trách nhiệm xã hội [5,
28-29].
Khi đề cập đến lịch sử phát triển của phân tâm học, ông dứt khoát tuyên bố:
“Trong việc xây dựng khái niệm về sự lấn át, tôi tuyệt đối độc lập, tôi không chịu
một ảnh hưởng nào đưa tôi đến khám phá ấy. Và tôi coi tư tưởng ấy là độc đáo suốt
một thời gian dài, cho tới khi O. Rank nói cho tôi biết một chỗ trong Thế giới như là
ý chí và biểu tượng của Schopenhauer, tại đó ông cố gắng lý giải sự điên rồ. Như
vậy, chỉ vì không đọc mà tôi có khả năng đưa ra một khám phá độc đáo” [8, 50].
Mặc dù phủ nhận ảnh hưởng bởi các tư tưởng triết học nhưng trong các tác phẩm
khác, Freud thường viện ngay vào Schopenhauer. Bàn về vấn đề tình dục, ông nhấn
mạnh rằng, Schopenhauer từ lâu đã chỉ ra hành vi và suy nghĩ của con người “được
định trước bởi khát vọng tình dục đến mức độ nào” [8, 50] và thừa nhận “vai trò to
lớn của đời sống tình dục” [8, 50]. Khi bàn về cái chết, ông cho rằng, đây vốn là đề
tài truyền thống của triết học. Luận chứng quan niệm về “bản năng chết”, Freud viết
rằng, ông vô vọng bị sa vào “đầm lầy của triết học Schopenhauer”. Ông nói:
“Nhưng có một điều mà chúng ta không thể bỏ qua được: chúng ta không ngờ đi
vào ngõ ngách triết lý của Schopenhauer, theo triết lý ấy thì cái chết là kết quả
chính thức của mục đích mà đời sống theo đuổi, còn như bản năng dục tình là biểu
hiện của mong muốn sinh sống” [2, 82]. Như vậy, một điều nổi bật là ngay trong
giai đoạn hoạt động ban đầu, khi quan điểm “bản năng chết” chưa được luận chứng
về mặt phân tâm học, Freud cũng dựa vào Schopenhauer: “Theo Schopenhauer, vấn
đề cái chết luôn đứng ở cửa ngõ của mọi triết thuyết, chúng ta đã từng nghe nói rằng
ngay cả việc tạo dựng những linh hồn và niềm tin nghiên cứu vào ma quỷ đặc trưng
cho thuyết linh hồn cũng đưa đến ấn tượng mà cái chết áp đặt lên con người” [3,
156]. Mặc dù vậy Freud vẫn khẳng định rằng ông chỉ bắt đầu “đọc Schopenhauer
vào giai đoạn cuối đời”! Ngoài ra, Freud còn thừa nhận mình chịu ảnh hưởng của
11
Rousseau trong quan niệm về cái chết.
Freud cũng có thái độ tương tự đối với Nietzsche. Một mặt, ông thường viện
dẫn tư tưởng của Nietzsche trong các tác phẩm của mình. Cụ thể, khi khảo cứu vấn
đề vai trò của người cha trong xã hội nguyên thủy, Freud nhận xét rằng, ở buổi đầu
lịch sử của loài người, người cha là “siêu nhân mà Nietzsche chỉ chờ đợi trong
tương lai” [8, 51]. Sử dụng khái niệm “phi Ngã”, Freud nhấn mạnh, Nietzsche
thường sử dụng thuật ngữ này để biểu thị “cái vô cá tính, tự nhiên - tất yếu ở trong
con người” [8, 51]. Mặt khác, vào năm 1908, khi trình bày và thảo luận cuốn sách
Gia phả luận đạo đức của Nietzsche tại phiên họp của Hội Phân tâm học, Freud
nhấn mạnh rằng, ông chưa từng biết đến tác phẩm này và các tư tưởng của
Nietzsche không có ảnh hưởng đến việc hình thành phân tâm học. Mặc dù phủ nhận
như vậy nhưng cuối cùng bản thân Freud thừa nhận rằng, ông chịu ảnh hưởng từ
triết học đời sống của Nietzsche. Freud đã khảo sát các mặt sâu thẳm ý thức của
Nietzsche không chỉ từ các lập trường phân tích triết học, mà còn như một bác sĩ
chữa bệnh thần kinh.
Tất cả những điều nêu trên chứng tỏ Freud, ở một chừng mực nhất định, đã
viện dẫn các tư tưởng triết học của Schopenhauer và của Nietzsche. Song, một vấn
đề còn bỏ ngỏ là sự ảnh hưởng ấy đến Freud diễn ra trong giai đoạn hoạt động nào
của ông. Có những bằng chứng cho thấy Freud đã làm quen với các tác phẩm của
hai nhà triết học nêu trên từ thời sinh viên và đã có hiểu biết nhất định về tư tưởng
triết học của hai ông. Tất nhiên là không có sự đồng nhất hoàn toàn quan điểm của
Freud với hai nhà tư tưởng này. Ngược lại, họ còn có những bất đồng nhất định
trong quan niệm vô thức. Vô thức ở Schopenhauer ngay từ đầu mang tính bản thể,
là “ý chí của thế giới”, là nguyên nhân đầu tiên của vạn vật; Nietzsche lại tập trung
xem xét hoạt động của vô thức ở trong miền sâu của con người, còn Freud lại xem
xét vô thức là hoạt động chủ yếu của tâm thần con người.
Trong tác phẩm cơ bản Phân tích các giấc mơ xuất bản năm 1899 và, về thực
chất, là tác phẩm đánh dấu “sự khám phá” ra phân tâm học đối với độc giả, Freud
viện ra nhiều nhà triết học, nhắc đến và bình chú luận điểm của họ về bản chất của
giấc mơ, cũng như về các quá trình diễn ra trong miền sâu tâm thần con người. Khi
Freud còn sống, tác phẩm này được tái bản tám lần. Vì ở những lần tái bản sau,
12
Freud đều bổ sung và chỉnh lý nhiều, nên khó xác định được ông đã dựa vào các tác
phẩm nào khi viết công trình của mình. Nhưng, trong lần xuất bản thứ ba vào năm
1911, trong danh mục tài liệu tham khảo có tên Platon, Arixtot, Lucrexius, Hegel,
Kant, Fichte, Schubert, Fisher, Scherner, Schleiermecher, Herbart, Hartman, Lipps,
Bundt, Bredli, Schopenhauer,... Chỉ riêng điều này đã cho phép rút ra kết luận rằng,
Freud là một người quan tâm đến triết học sâu sắc.
Như vậy, ảnh hưởng của triết học đến tư tưởng của Freud là khá rõ. Nhưng tại
sao ông lại kiên trì phủ nhận sự thực này và thường xuyên quảng bá tính độc đáo
của những tư tưởng phân tâm học do ông đưa ra, nhấn mạnh rằng không một thế
giới quan triết học nào có ảnh hưởng đến việc hình thành thuyết phân tâm học? Ông
chỉ nói đến nguồn gốc triết học trong trường hợp tối cần thiết. Ông viết: “Trái với
mọi lời khẳng định trước kia và sau này của tôi, có thể chỉ ra các nhà triết học nổi
tiếng như các bậc tiền bối, trước hết là nhà tư tưởng vĩ đại Schopenhauer, mà “ý
chí” vô thức có thể được đồng nhất với dục vọng tâm thần trong phân tâm học” [19,
148]. Có thể lý giải “sự lãng quên” của Freud về các nguồn gốc triết học trong tư
tưởng của mình là vì ông muốn thể hiện dưới mắt mọi người như một nhà khoa học
chân chính, xây dựng học thuyết của mình không phải dựa trên những tư biện trừu
tượng đáng hoài nghi như nhiều nhà triết học vẫn làm, mà dựa trên dữ kiện kinh
nghiệm được rút ra từ thực tiễn lâm sàng, từ cuộc sống hiện thực. Do vậy, ông kiên
trì và nỗ lực công khai khước từ triết học, cố gắng đặt lên hàng đầu tư liệu lâm sàng
hay kết quả tự phân tích trong các tác phẩm của mình.
Chính thái độ của ông kiên trì phủ định triết học buộc chúng ta phải thận trọng
trong vấn đề này. Vả lại bản thân Freud cũng khẳng định rằng, con người không
những thường không trung thực trong những vấn đề bắt buộc họ phải thừa nhận một
điều gì đó họ không mong muốn, mà còn chống lại việc những hồi tưởng từng bị
bác bỏ không bùng phát trên bề mặt của ý thức. Sử dụng hệ thuật ngữ của Freud, có
thể nói rằng, ý nghĩa của các cội nguồn triết học đối với sự xuất hiện các tư tưởng
phân tâm học đã bị gạt ra khỏi ý thức của Freud do ông lo ngại rằng học thuyết của
ông bị đồng nhất với một hệ thống triết học đã có, khiến ông bị nghi ngờ nghiêng về
tư duy siêu hình học. Đó là một trong những lý do có thể cho phép lý giải việc
13
Freud tránh nhắc tới các bậc tiền bối triết học trong những tác phẩm của mình.
Trên phương diện triết học, lý thuyết về cái vô thức và việc ứng dụng nó để lý
giải tồn tại người của Freud đã góp phần định hướng phát triển cho nhiều trào lưu
triết học phương Tây hiện đại. Thực tế cho thấy, các trào lưu triết học thế kỷ XX ở
phương Tây như triết học hiện sinh, hiện tượng học, nhân học triết học... đều ít
nhiều, trực tiếp hay gián tiếp quan tâm, xem xét các quan niệm triết học của Freud.
Những khám phá về cái vô thức của Freud đã mở ra một chân trời mới cho nền triết
học hiện đại. Lý thuyết vô thức của được ông áp dụng vào lý giải bản tính người
đóng vai trò quan trọng trong việc phê phán quan niệm duy lý phiến diện về con
người. Chủ nghĩa duy lý trước sau đều coi lý tính và niềm tin khoa học là chìa khoá
vạn năng để giải quyết tất cả những vấn đề liên quan đến sự tồn tại của con người
trong thế giới. Từ đó nó coi bản chất bên trong của con người là cái không đáng tin
và tước bỏ bản tính người, khía cạnh xã hội trong con người. Do đó theo chủ nghĩa
duy lý, khi đứng trên đỉnh cao khoa học, với lý tính có sẵn con người có thể làm chủ
cuộc sống của mình một cách sáng suốt. Trong khi đó, vô thức mà Freud đưa ra
không phải chỉ là bản năng, mà gần như là tất cả đời sống tinh thần. Khám phá đó
đã đề cao cái vô thức. Câu chuyện lý trí và bản năng, linh hồn và thể xác không thể
đem ra nói bằng ngôn ngữ của triết học truyền thống, không thể coi là những sự
kiện ngăn cách, mà phải đặt ra hướng tiếp cận mới cho triết học hiện đại, đặc biệt là
trong quan niệm về con người.
Sở dĩ, phân tâm học Freud và Hiện tượng học Husserl có mối quan hệ với
nhau bởi cả hai ông đều là học trò xuất sắc của Brentano trong việc kế thừa và phát
triển quan điểm về tính ý hướng. “Song mỗi ông đều lĩnh hội nó theo cách riêng của
mình. Freud đặt trọng tâm vào tính ý hướng “cảm xúc”, Husserl phát triển quan
niệm về tính ý hướng “giác tính” [14, 461]. Cả hai ông cố gắng đặt vấn đề tri thức
một cách rộng lớn, bao quát và sâu xa, thoả mãn được mọi đòi hỏi của mọi ngành
học vấn. Cái “tâm” con người coi như trung tâm của sự hiểu biết; người ta nhận
thấy cần phải đặt lại vấn đề tâm thức và luôn thể cả vấn đề vô thức. Hiện tượng học
đã có cái may mắn khởi xướng quan niệm tương quan giữa cá nhân với ngoại giới,
con người mật thiết với người khác và cảnh vật quanh mình, họ lập những tương
quan qua lại trong một thế liên lập và hỗ tương ảnh hưởng, hay hỗ tương trong biện
14
chứng. Do đó mà có vấn đề người khác trong ta, vấn đề liên chủ quan tính, vấn đề
hữu thể-tại thế. Tâm lý xã hội cũng không thể quan niệm ở ngoài khái niệm chủ
quan và khách quan tương hệ mật thiết. Ta có cảm tưởng như một trào lưu suy
tưởng rộng lớn đang cố gắng hoà giải cá nhân với cộng đồng, quân bình thiên nhiên
với yêu cầu thực tế.
Có một vấn đề yếu tính (essence) của Siêu hình học mà Hiện tượng học phải
chấp nhận nền móng khi áp dụng phương pháp Hiện tượng học để tìm hiểu về tồn
tại người. Yếu tính của lý học không phải yếu tính của tâm thần, bởi vì những vấn
đề tâm trạng của ta không thể so với hiện tượng lý học và đem ra nghiên cứu như
vậy. Chấp nhận như thế thì ta thấy xuất hiện những khó khăn nan giải của cái vô
thức theo kiểu Phân tâm học của Freud. Bởi vì yếu tính của lương tâm (tâm thức) là
sống động, là tự nó bộc lộ cho nó biết nó. Tâm thức không hiểu được vô thức, vậy
thì sao có thể nói vô thức cùng yếu tính với tâm thức được? Vì sự tôn trọng nguyên
lý chỉ đạo, hiện tượng học không chấp nhận vô thức, tuy không hề phủ nhận những
hiện tượng thuộc loại vô thức. Người ta tìm một cách dung hoà là xếp những hiện
tượng ấy vào khái niệm tâm thức tiềm ẩn (hay ý thức tiềm ẩn). Sở dĩ có sự khác biệt
như vậy là vì, sự quy giản của Husserl cuối cùng là để đạt tới là ý thức về một cái gì
đó, còn vô thức của Freud là vô thức định hướng vào một cái gì hay ai đó [14, 462].
Tuy bất đồng ý kiến trong quan niệm vô thức nhưng phân tâm học và hiện tượng
học hoạt động song song và bổ sung cho nhau. Kết quả đạt được của ngành nọ xác
định sự đích xác của ý kiến ngành kia. Phân tâm học tìm ý nghĩa kín đáo của những
phát hiện của dòng sống; người ta “sống” biết bao hiện tượng mà không “suy tư”
được nó, không thể diễn tả nó ra thành ngôn từ. Freud làm công việc ấy, phải chăng
đã “làm” một cách tự nhiên, trước khi có tư trào Hiện tượng học thực sự? Vì hiện
tượng học cũng theo đuổi mục đích tìm hiểu ý nghĩa những đường lối ứng xử của
con người. Hiện nay, các nhà Phân tâm học muốn có một quan niệm về vô thức gần
với quan niệm ý thức tiềm ẩn của Hiện tượng học. Đối với Lacan, một nhà Phân
tâm học uy tín ngày nay, thì quy luật của Ngôn ngữ học và Ý nghĩa học đều đồng
tính chất với quy luật của vô thức [16, 67].
Heidegger cũng tỏ thái độ phê phán đối với các quan niệm phi duy lý về con
người trong đó có Freud. Ông cho rằng, Freud đã quá nhấn mạnh đến đam mê vô
15
thức để dẫn đến việc coi nó như nhân tố định trước bản tính người. Nếu Freud cố
gắng xem xét các bộ phận cấu thành cấu trúc của tâm thần thông qua vô thức, thì
Heidegger lại hướng vào các cấu trúc bản thể của tồn tại người từ góc độ quan niệm
tiền phản tư, tức vô thức về chúng. Freud nhận thấy cội nguồn đau khổ của con
người ở các xung đột đam mê vô thức bẩm sinh với các giá trị của văn hóa, văn
minh; Heidegger xuất phát từ những bất an hiện sinh, thực chất là từ những mâu
thuẫn nội tại của tồn tại trong thế giới, nơi mà hiện sinh người đông thời là “tính cởi
mở” và “tính khép kín”, siêu việt và hiện hữu [12, 489-490].
Bên cạnh đó, Freud còn chịu những ảnh hưởng triết học F.Brentano từ việc
trao đổi thư từ với Brentano. Freud thừa nhận “tôi quyết định phấn đấu có được
bằng tiến sĩ về triết học do ảnh hưởng của Brentano”. Theo chỉ dẫn của Brentano
mà Freud đã dịch tập 12 của J.Mill sang tiếng Đức, trong đó có đề cập tới học
thuyết Platon về hồi tưởng. Như vậy, có thể khẳng định, việc say mê triết học đã để
lại dấu ấn sâu đậm ở tư duy của Freud.
Freud còn chịu ảnh hưởng bởi quan niệm của T.Lips, người được ông coi là
“trí tuệ lớn nhất trong số các nhà triết học hiện đại” về quá trình tâm thần vô thức
qua tác phẩm Những vấn đề cơ bản của đời sống tâm thần (1883). Trong tác phẩm
của mình, Lips bảo vệ tư tưởng cho rằng, những quá trình vô thức là cơ sở của mọi
quá trình hữu thức. Freud tách biệt luận điểm này và nhận xét: “những sự kiện của
đời sống tâm thần không phải là những quá trình cấu thành nội dung của ý thức, mà
là những quá trình vô thức tự thân của chúng” [2,75].
Như vậy, cần lưu ý rằng quá trình hình thành phân tâm học của Freud thực sự
cũng phụ thuộc vào các tiền đề triết học xét trên nhiều phương diện. Freud không
muốn công khai thừa nhận chúng, nhưng không thể coi ý định của ông muốn quay
lưng lại với triết học là bằng chứng và hơn nữa là sự khẳng định rằng, phân tâm học
là khoa học không có điểm nào chung với tri thức triết học. Có nhiều khi điều người
ta muốn che đậy hay chối bỏ lại là điều cố hữu ở người đó.
1.3. Cuộc đời, sự nghiệp và những tác phẩm chủ yếu của S.Freud
1.3.1. Đôi nét về cuộc đời Sigmund Freud
Sigmund Freud tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud (1856 – 1939) sinh
ngày 6 tháng 5 năm 1856 tại Freiberg ở Moravia, một thành phố nhỏ ở Tiệp Khắc
16
hiện nay. Cha mẹ ông là người Do Thái và bản thân ông cũng luôn là người Do
Thái. Ông được đưa tới thành Vienna thủ đô nước Áo vào năm lên bốn tuổi và đã
sống gần suốt tuổi trưởng thành tại đây. Theo Ernest Jone, người viết tiểu sử chính
của Freud thì ông đã được thừa hưởng của cha ông là một nhà buôn len tính hoài
nghi sâu sắc về những tai biến bất thường của cuộc đời, thói quen dùng giai thoại
Do Thái để châm biếm các quan điểm đạo đức, không tín ngưỡng những vấn đề tôn
giáo. Mẹ Freud sống tới 59 tuổi, bản tính năng động và nhanh nhẹn. Sigmund Freud
là đứa con cưng đầu lòng của bà. Sau này chính Freud đã viết “một người từng là
con yêu đặc biệt của một bà mẹ thì suốt đời người ấy có cảm giác là một kẻ chính
phục và chính cái lòng tin chiến thắng ấy luôn đem lại thành công thực sự”. Cuộc
đời của Freud gắn liền với nước Áo. Ngoại trừ việc trải qua thời thơ ấu ở Moravia
Leibzig và những năm tháng cuối đời sống lưu vong, Freud sống trọn đời ở Viên.
Năm 1873, Freud đỗ vào ngành y học trường đại học tổng hợp Viên. Năm 1881,
Freud nhận được học vị tiến sĩ y học và thực hành với tư cách nhà thần kinh lâm
sàng. Năm 1882 - 1885, Freud làm việc tại Viện đa khoa Viên, đi sâu về bệnh lý
học thần kinh và đã tích cực sử dụng phương pháp thôi miên và thanh trừ. Năm
1900, ông xuất bản cuốn Lý giải những giấc mơ, một tác phẩm chính đã đánh dấu
sự thành công của ông. Giai đoạn 1990 - 1910 vị thế chuyên môn của Freud được
củng cố một cách nhanh chóng. 1902, ông cùng A. Adler thành lập Hội các nhà
phân tâm học. Đời tư và thời thơ ấu cũng như hoạt động khoa học của S. Freud có
nhiều sự kiện để lại dấu ấn không phai mờ và chúng đã trực tiếp góp phần vào việc
hình thành phân tâm học và tư tưởng đạo đức học của ông sau này.
Vào những năm đầu của cuộc đời, Freud rất tin vào thuyết Darwin vì ông thấy
rằng “Những thuyết ấy làm cho người ta có thể hy vọng vào những bước tiến phi
thường trong việc tìm hiểu thế giới”. Dự định sẽ trở thành thầy thuốc, ông đã theo
học trường Đại học Y khoa thành Viên và ông đã đỗ bác sỹ năm 1881. Là một thầy
thuốc trẻ tuổi của bệnh viện đa khoa, chữa trị đủ mọi loại bệnh, ông tiếp tục nghiên
cứu môn thần kinh bệnh học và giải phẩu thần kinh. Ít năm sau, số mệnh xoay chiều
và bất thần làm tên tuổi ông nổi tiếng khắp thế giới. Một bạn đồng nghiêp của ông
đã đi sang Paris và ông bèn đi theo sang thành phố này. Tại đây, ông cùng làm việc
với Jean Charcot, lúc ấy đã là một nhà bệnh lý học và thần kinh học người Pháp nổi
17
tiếng. Ở đây, lần đầu tiên ông được tiếp xúc với công trình của Charcot về bệnh
loạn thần kinh và cách dùng phương pháp thôi miên để điều trị bệnh này. Freud đã
thỏa mãn khi thấy Charcot chứng minh “bệnh loạn thần kinh thật và loạn thần kinh
giả do dùng thôi miên tạo ra”.
Nhận thấy sự hạn chế của việc áp dụng thuật thôi miên cho mục đích nội khoa,
tuy nhiên, sau khi trở lại thành Viên, Freud không làm thế nào để thuyết phục được
các bác sỹ đồng nghiệp: họ không tin là phương pháp chữa bệnh loạn thần kinh
bằng thôi miên lại có cơ sở khoa học. Con người ta rất dễ bị cầm tù bởi những quan
niệm, những hiểu biết cũ kĩ đã được thấy trong sách, đã được học trong nhà trường.
Nếu thấy ở đâu đó có điều gì không phù hợp với những điều đã học, đã đọc là bác
bỏ ngay không cần đắn do gì. Và người ta còn trừng phạt những ý nghĩ quá táo bạo
của ông bằng cách đuổi ông ra khỏi phòng thí nghiệm giải phẫu thần kinh. Từ đấy
Freud tách khỏi môi trường đại học và không còn còn tiếp tục tham gia những buổi
họp của giới trí thức ở Viên nữa. Trong lúc hành nghề bác sỹ tư, ông tiếp tục dùng
phương pháp thôi miên để thí nghiệm trong nhiều năm nữa, nhưng dần dần ông đã
bỏ phương pháp điều trị này chỉ vì ít người hợp với lối chữa bằng thôi miên và cũng
vì đôi khi thôi miên có những hiệu quả không hay với nhân cách người bệnh. Thay
vào đó, Freud bắt đầu phát triển một phương pháp mới, ông đặt tên là “tự do liên
tưởng”. Ông không còn còn ý định quy các quá trình tâm lý về các quá trình sinh lý,
mặc dù vẫn tiếp tục sử dụng các mô hình cơ học và năng lượng để lý giải chúng. Về
sau kỹ thuật này đã trở thành một tiêu chuẩn thực hành của khoa học phân tâm học.
Freud đã từng khẳng định như sau: “Môn Phân tâm học chỉ ra đời khi người ta bỏ
không dùng thôi miên nữa”.
Trong cuối những năm 90 của thế kỷ XIX, đã diễn ra quá trình hình thành các
khái niệm cơ bản trong học thuyết của ông mà sau này người ta gọi là thuyết Freud.
Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng sau này, cho tới tận ngày nay, thuật ngữ “thuyết
Freud” vẫn được sử dụng lúc thì như đồng nghĩa với thuật ngữ “phân tâm học”, thể
hiện các quan điểm của bản thân Freud và các môn đệ chính thống của ông. Khái
niệm “phân tâm học” thường được sử dụng với nghĩa rộng hợn: nó bao gồm các
trường phái, các học thuyết và thực tiễn rất khác nhau, bắt nguồn từ học thuyết
Freud, nhưng lại có khá nhiều luận điểm khác nhau về thuyết Freud. Ngoài ra thuyết
18
Freud trước hết có liên hệ đến các luận điểm cơ bản của một học thuyết, trong khi
đó phân tâm học, ngoài siêu hình tâm lý học (tức những luận điểm, giả thuyết triết
học, tâm lý học, tâm thần học), còn bao hàm hàng loạt lý luận chữa bệnh chuyên
sâu, phương pháp và quy trình chữa bệnh, các nghiên cứu ứng dụng khác nhau,...
Tâm phân học hiện nay được nhiều nhà khoa học cũng như đại chúng coi như một
lý thuyết (theorie) hoàn chỉnh. Thậm chí còn được nâng lên thành một chủ nghĩa
(doctrine, isme). Đó là chủ nghĩa Freud.
Phương pháp Phân tâm học là một phương pháp điều trị mới mẻ mà vào thời
kì đó người thầy thuốc chưa bao giờ được học trong nhà trường. Đây là phương
pháp chữa bệnh chỉ bằng sự trò chuyện giữa người thầy thuốc và người bệnh. Freud
đã khẳng định: “Khi điều trị một bệnh trong môn này, người thầy thuốc chẳng làm
gì khác hơn là trò chuyện với người bệnh”.
Người thầy thuốc Phân tâm học đối với người bệnh không phải như một vị
hoàng đế đối với thần dân của người. Đối với người bệnh người thầy thuộc lại
không có bất cứ một quyền lực nào dù cho là nhỏ bé nhất. Cho nên người thầy
thuốc Tâm phân học lại phải trông chờ ở chính người bệnh và chỉ có con đường trò
chuyện dể xây dựng mối quan hệ thân thiện với họ. “Phương pháp Phân tâm học đòi
hỏi phải trò chuyện với người bệnh trong khi họ thức chứ không phải trong giấc ngủ
nhân tạo bằng thôi miên”.
Kỹ thuật do Freud phát minh ra để giải tỏa với mọi “dồn nén” và loại bỏ mọi
đối kháng là phương pháp “gợi tự do liên tưởng”: Những lời nói thao thao bất tuyệt
có ý thức của người bệnh khi nằm trên cái giường của nhà phân tâm học trong cảnh
đèn sáng mờ mờ, nhà phân tâm học kích thích, khêu gợi để người bệnh không nghĩ
một cách có ý thức về bất cứ chiều hướng nào, Freud cho rằng phương pháp “kích
thích tự do liên tưởng” là phương pháp duy nhất hữu hiệu để chữa bệnh tâm thần.
Ông cũng chủ trương là phương pháp ấy “hoàn thành được điều mà người ta trông
đợi, nghĩa là đưa những mong muốn bị sức đối kháng dồn nén từ xưa ta lĩnh vực ý
thức”. Cộng sự của Freud đã mô tả cách Freud chữa bệnh như sau: “Ông thuyết
phục con bệnh gạt mọi suy nghĩ có ý thức, tự buông thả mình vào một trạng thái tập
trung bình thản, tự phó mặc theo những cảm xúc và suy nghĩ nảy sinh, rồi thuật lại
tất cả những điều đó cho ông biết. Nhờ phương pháp ấy, ông đưa dần bệnh nhân tới
19
trạng thái “tự do liên tưởng”; và nhờ nghe người bệnh tự do liên tưởng, mà thầy
thuốc có thể tìm ra được nguồn gốc sâu xa của các triệu chứng”. Sự việc đã quên rồi
nay lại được người bệnh kéo ra khỏi cõi vô thức, có khi phải sau hàng tháng trời
điều trị bằng phương pháp phân tâm. Nguồn gốc thường là một sự việc nào đó đau
đớn, khó chịu, đang sợ hay nói cách khác đáng ghét, từ trong quá khứ của bệnh
nhân. Đó chính là những “kỷ niệm” mà người bệnh hoàn toàn không muốn nhớ lại
một cách có ý thức. Trong quá trình tự do liên tưởng, những hồi tưởng lông bông ấy
không tránh khỏi tạo ra một mớ lộn xộn, rối rắm những sự kiện lờ mờ không rõ, và
tưởng như vô ích. Vì vậy, người thầy thuốc như nhiều nhà phê bình cho biết, gần
như có vô vàn cách giải thích những dữ kiện ấy. Vì thế nhà phân tâm học phải hết
sức sáng suốt và có tài khéo léo.
Với Freud, người sáng lập ra môn Tâm phân học, thì trước hết nó vẫn là một
phương pháp thiết thực để điều trị những chứng bệnh tâm thần và ngăn ngừa những
người khỏe mạnh rơi vào bệnh hoạn bằng cách làm chủ bản thân và đừng bao giờ
trở thành nô lệ của những ham muốn thấp hèn, tự biến mình thành những con người
sa đọa về cả thể chất lần tinh thần. Nhiều lắm thì Freud cũng chỉ gọi Phân tâm học
là một môn tâm lý học về cái vô thức, về những miền sâu thẳm trong tâm hồn con
người.
Vào năm 1900, tác phẩm chính đầu tay Lý giải giấc mơ của Freud đã được
công bố, đến tận bây giờ nó vẫn dược coi là “Kinh Thánh” đối với các môn đệ của
ông. Sau đó Freud đã công bố các cuốn sách và các bài viết về những vấn đề khác
nhau của tâm lý học, y học và tâm lý học đại cương, phân tâm học ứng dụng (dân
tộc học, nghệ thuật, tôn giáo học,...): Ba lược khảo về lý thuyết tình dục” (1906),
Totem và tabu (1913), Đứng ở phía bên kia nguyên tắc thỏa mãn (1919), Tôi và nó
(1923), Tương lai của một ảo tưởng (1927), Bất mãn với văn hóa (1930),... Một
nhóm học trò đã tập hợp xung quanh Freud, lúc đầu họ hình thành Hội phân tâm
học Viên, sau đó là Hội phân tâm học quốc tế. Bất chấp những sự chia rẽ, sự ra đi
của các học trò độc đáo như A.Adler và C.Jung, phong trào phân tâm học vẫn có
ảnh hưởng ngày một lớn hơn ở châu Âu, đặc biệt ở Mỹ từ những năm 30. Nhiều nhà
phân tâm học đã tới đây từ Đức và Áo. Đến tận lúc mất, Freud vẫn thường xuyên
lãnh đạo đội ngũ những người cùng tư tưởng và những môn đệ ngày một tăng. Còn
20
các tác phẩm của ông cho tới nay vẫn được sử dụng làm cơ sở lý luận cho đa số các
nhà phân tâm học. Vào năm 1938, sau khi nước Aó đầu hàng Đức phát-xít, Freud đã
dang sống lưu vong tại Anh và mất tại đây vào ngày 23 tháng 9 năm 1939.
1.3.2. Nguồn gốc của phân tâm học Sigmund Freud
Một số nhà nghiên cứu phương Tây khẳng định rằng, học thuyết phân tâm học
của Freud căn cứ trên quan sát lâm sàng. Trước hết, thần kinh học và phân tâm học
không phải hai từ đồng nghĩa. Phân tâm học có thể được coi như một ngành của
thần kinh học và chỉ áp dụng cho những trường hợp khó khăn nhất là rối loạn nhân
cách. Cho nên, phân tâm học có thể được định nghĩa như một phương pháp dùng để
trị những bệnh rối loạn tâm lý và thần kinh. Cơ sở của phân tâm học là các quan
điểm tâm thần học và sinh lý học cuối thế kỷ XIX. Còn đối với các tư tưởng triết
học theo các nhà nghiên cứu phương Tây thì chúng hoàn toàn không có ảnh hưởng
tới Freud, vì ông không những có thái độ đề phòng đối với những suy luận trừu
tượng của các nhà triết học, mà còn tỏ ra ít quan tâm đến các tác phẩm triết học.
Chẳng hạn, J.Brown khẳng định “Freud không có một quan điểm triết học nào”.
Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, một số tư tưởng triết học hoàn toàn có thể
ảnh hưởng đến việc hình thành các quan điểm phân tâm học khác nhau. Trong các
công trình nghiên cứu gần đây, phần lớn các nhà nghiên cứu dều cho rằng không
nên chỉ bàn về các tiền đề thuần túy khoa hoc tự nhiên của phân tâm học, rằng phân
tâm học cũng có nguồn gốc triết học của mình. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa triết
học và phân tâm học vẫn là một vấn đề ít được các nghiên cứu đề cập tới.
Những tài liệu công bố gần đây chứng tỏ Freud đã quay lại quan tâm đến triết
học chính vào thời điểm mang tính bước ngoặt trong sự nghiệp của mình, khi những
tư tưởng phân tâm học tản mạn không những bắt đầu được phác họa rõ, mà còn
được hợp nhất thành một hệ thống những tiền đề đóng vai trò cơ sở cho học thuyết
phân tâm học. Có thể nói, giống như các tiền đề khoa học tự nhiên, các nguồn gốc
triết học của phân tâm học đã bộc lộ hoàn toàn rõ ràng. Không ai có thể bác bỏ được
ảnh hưởng của các nguồn gốc triết học đến quá trình hình thành học thuyết phân
tâm học của Freud.
Trong tác phẩm cơ bản “Lý giải giấc mơ” xuất bản năm 1899, tác phẩm về
thực chất đánh dấu “khám phá” ra phân tâm học đối với với độc giả, Freud viện dẫn
21
vào nhiều nhà triết học, nhắc đến và bình chú luận điểm của họ về bản chất của giấc
mơ, cũng như về các quá trình diễn ra trong miền sâu tâm thần con người. Khi
Freud còn sống, tác phẩm này đã được tái bản 8 lần. Trong những lần tái bản sau,
Freud bổ sung và chỉnh lý nhiều, nên khó xác định được ông đã dựa vào các tư liệu
nào cho tác phẩm của mình. Nhưng trong lần xuất bản thứ ba vào năm 1911, trong
danh mục tài liệu tham khảo có tên Platon, Aristotle, Lucretius, Hegel, Kant, Fichte,
Schubert, Fehner, Schleiermacher, Herbart, Hartmann, Lipps, Bundt, Schopenhauer
Chỉ riêng thực tế này đã cho phép rút ra kết luận rằng, Freud là một người có học
vấn triết học sâu sắc.
Thái độ “lãng quên” của Freud đối với các nguồn gốc triết học của mình, được
lý giải là vì ông muốn thể hiện dưới mắt mọi người với tư cách là một nhà khoa học
chân chính, xây dựng học thuyết của mình không phải dựa trên những sự tư biện
trừu tượng đang hoài nghi mà nhiều nhà triết học vẫn thường vấp phải, mà dựa trên
tư liệu kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn lâm sàng, từ cuộc sống hiện thực. Do
vậy, ông kiên trì và nỗ lực công khai khước từ triết học, cố gắng đặt lên hàng đầu tư
liệu lâm sàng hay kết quả tự phân tích trong các tác phẩm của mình.
Cần lưu ý rằng quá tình hình thành học thuyết phân tâm học của Freud thực sự
được chế định bởi các nguồn gốc triết học xét trên nhiều phương diện. Freud không
mong muốn công khai thừa nhận các nguồn gốc này, mong muốn phân định với
triết học, không thể được lĩnh hội như là bằng chứng và hơn nữa là sự khẳng định
rằng, phân tâm học là khoa học không có điểm nào chung với tri thức triết học.
Ngược lại, được Freud tán thành và được các nhà phân tâm học ủng hộ, định hướng
như vậy tất yếu cần phải dẫn đến câu hỏi: Phải chăng thực sự có triết học phân tâm
học – mà Freud không muốn nói tới do những nguyên nhân nêu trên – nhưng lại cơ
cấu thành hạt nhân, bản chất của học thuyết phân tâm học?
Việc trả lời câu hỏi này đòi hỏi chúng ta phải trực tiếp chú ý đến phương diện
triết học trong học thuyết phân tâm học của Freud. Việc làm sáng tỏ mối liên hệ
giữa triết học và phân tâm học chưa trở thành căn cứ đầy đủ để xem xét học thuyết
này với tư cách là một hệ thống triết học. Trên thực tế ông nhấn mạnh tính khoa học
của phân tâm học, không đồng ý với các tự biện siêu hình về con người, lên tiếng
chống lại đồng nhất phân tâm học với triết học. Nhưng tư tưởng của ông lại có
22
những luận điểm đối lập như: ông chỉ ra vị trí trung gian giữa y học và triết học hay
quan điểm về cái tâm thần vô thức: “Nếu ai không có đầy đủ tri thức triết học hay
không có thiên hướng về hệ thống triết học thì sẽ bác bỏ khả năng của cái tâm thần
vô thức”. Tuy nhiên, có thể khẳng định, phân tâm học đã phát triển từ thực tiễn
chữa bệnh tâm thần và các giả thuyết riêng của tâm lý học y học tới tâm lý học phổ
quát và học thuyết triết học xã hội. Freud gọi tổng thể các định đề chung của phân
tâm học là siêu tâm lý học. Nó được ông sử dụng cả làm phương pháp luận nghiên
cứu các quá trình tâm lý vô thức, lần làm cơ sở cho phân tâm học ứng dụng, tức là
áp dụng các phương pháp phân tâm học vào xã hội học, dân tộc học, nghiên cứu văn
học, thẩm mỹ học, tôn giáo và các môn khoa học khác.
1.3.3. Những nền tảng triết học phân tâm học
Những nền tảng triết học – phân tâm học cho đạo đức học của Freud thể hiện
nội dung nhân học triết học của Freud và phát triển trên một số phương diện cơ bản
sau đây:
a. Nguyên tắc thỏa mãn và nguyên tắc thực tại
Sau nhiều năm tìm tòi vào thập kỷ cuối của thế kỷ XIX, Freud đã đưa ra quan
niệm về cái tâm lý vô thức. Quan điểm này khác căn bản so với các lý thuyết trước
đó. Freud không phải là người đã phát hiện ra cái vô thức, vì các nhà triết học và
các nhà y học đã nói tới nó trước ông. Điểm mới trong học thuyết của ông là ở chỗ,
ông đưa ra quan điểm động thái về tâm lý, trong đó ông lý giải được một cách logic
không những một số lượng lớn bệnh rối loạn tâm thần mà cả mối liên hệ qua lại
giữa các quá trình vô thức và ý thức. Thêm vào đó là các quá trình vô thức được
nhất quán và đồng nhất với những kích thích mang tính bản năng, trước hết là dục
vọng. Con người thể hiện ra đối với Freud là homo natura (một thực thể tự nhiên),
khác với các động vật khác ở một khối lượng trí nhớ lớn hơn và ở chỗ ý thức của
con người bắt đầu trung gian hóa quan hệ với môi trường bao quanh trong quá trình
tiến hóa. “Mọi động vật đều tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn, tức chúng cố gắng
đáp ứng nhu cầu của mình và né tránh đau khổ. Con người khác với con vật ở chỗ,
nó hoãn việc đáp ứng dục vọng hay thậm chí đè nén chúng, nếu việc trực tiếp đáp
ứng chúng đe dọa sự sống còn. Qua đó, con người thay thế nguyên tắc thỏa mãn
23
bằng nguyên tắc thực tại”. [11;106 ]
Theo Freud, mọi động vật đều tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn, tức chúng cố
gắng đáp ứng nhu cầu của mình và né tránh đau khổ. Con người khác với con vật ở
chỗ, nó hoãn việc đáp ứng dục vọng hay thậm chí đè nèn chúng, nếu việc trực tiếp
đáp ứng chúng đe dọa sự sống còn. Qua đó, con người thay thế nguyên tắc thỏa mãn
bằng nguyên tắc thực tại. Vào thời thơ ấu, đứa trẻ mới thoát ra từ bụng mẹ không
biết đến những hạn chế và không có trí tuệ phát triển, do vậy nó chỉ tồn tại theo
nguyên tắc thỏa mãn bằng nguyên tắc thực tại. Những dục vọng của giai đoạn này
vẫn được giữ lại trong tâm lý con người sau này, nhưng chúng bị đè nén và bị đẩy
xuống lĩnh vực cái vô thức, chúng được bộc lộ ra trong các giấc mơ hay triệu chứng
mắc bệnh tâm thần. Dục vọng xung đột với các chuẩn tắc xã hội và các quy định
đạo đức. Sự sinh tồn của con người luôn là trận chiến giữa những khát vọng mang
tính bản năng và những yêu cầu của văn hóa có định hướng khác nhau. Như vậy,
việc làm sáng tỏ bản chất của cái vô thức, vị thế của nó trong chỉnh thể tâm thần
người là xây dựng quan niệm triết học về bản tính người.
So sánh tâm linh con người với một tảng băng, mà tới tám chín phần mười
tảng băng này chìm dưới nước biển, Freud cho rằng phần chính tâm lý con người
cũng được ẩn giấu trong cõi vô thức. Bên dưới lớp vỏ ngoài, vì những lý do nào đó,
những cảm giác và những mục đích mà một cá nhân đã không những giấu kín người
khác mà còn tự giấu ngay chính bản thân mình nữa. Trong tâm lý học Freud, cõi vô
thức là tối thượng và mọi hoạt động ý thức chỉ có một vị trí phụ thuộc. Nếu hiểu
được cái thầm kín bí mật sâu xa của vô thức ắt chúng ta hiểu được bản chất nội tâm
của con người.
b. Thứ hai là hai mô hình về bản tính người
Freud phân biệt khái niệm mô tả và khái niệm hệ thống về cái vô thức. Thuật
ngữ “cái vô thức” có quan hệ với các biểu tượng tâm lý được suy xét. Freud đưa ra
mô hình tâm lý thứ nhất của ông trong các tác phẩm ở đầu thế kỷ XX. Ông phân
biệt ba thang bậc; ý thức, tiềm thức và vô thức.
Khái niệm mô tả về cái vô thức của Freud không khác gì nhiều các quan điểm
trước đó (cái tiềm thức của nhà tâm lý học người Pháp, P.Janer) và quan điểm của
một số “tà giáo”. Tất cả những người ủng hộ tâm lý học nội quan đều nhất trí rằng,
24
ngoài các quá trình tâm lý được chúng ta ý thức, thì còn các quá trình không được ý
thức. Có một cái gì đó từ bề sâu tâm lý từ bề sâu tâm lý vượt lên trên khoảng trung
gian giữa những tư tưởng rõ ràng và rành mạch của chúng ta, hơn nữa là ý định nắm
bắt những biểu tượng này thường xuyên vấp phải sự phản kháng – một cái gì đó cản
trở chúng ta đi vào ý thức. Trong tác phẩm Bệnh lý học sinh hoạt hàng ngày, Freud
chỉ ra rằng chúng ta có quan hệ với sự can thiệp của cái vô thức trong các tình
huống sinh hoạt hàng ngày bình thường nhất. Mỗi người chúng ta đều gặp phải một
thực tế là: chúng ta có lúc không thể nhớ nổi tên người quen, quên nghĩa của từ
tiếng nước ngoài đã biết rõ, để ở đâu đó cuốn sách cần tìm, những câu nói lỡ lời,...
Đó là tất cả những hành vi xảy ra một cách bất thần, dường như vô nghĩa, vô tội vạ
mà mỗi người chúng ta đều đã không ít lần phạm phải nhưng đều bỏ qua vì chúng
chẳng có gì đáng quan tâm. Những sự việc như vậy không phải là ngẫu nhiên,
chúng được quy định bởi các động cơ vô thức. Giống như trong giấc mơ, sự cố
gắng đi vào ý thức và những biểu tượng bị loại ra, bị cấm đoán. Xuất hiện tình trạng
xuyên tạc trí nhớ của chúng ta hay tạo ra thế giới của những giấc mơ kỳ lạ. Ảo giác
của những người bị bệnh tâm thần, ảo ảnh của các nhà thần bí hay của các nhà thơ,
giâc mơ của mỗi người đều có nguồn gốc từ hoạt động của cái vô thức.
Người ta thường hiểu tiềm thức là một hiện tượng tinh thần không còn thuộc ý
thức nữa nhưng cũng chưa hoàn toàn vô thức. Còn tiền ý thức, theo Freud là một
hiện tượng tinh thần được xét theo chiều ngược lại, nó không còn là vô thức nữa
nhưng nó cũng chưa trở thành ý thức. Nó là một hình thức tinh thần trung gian
trong quá trình chuyển biến cái vô thức thành cái hữu thức, thành ý thức. Để nói
thay cách diễn giải của Phân tâm học về cái vô thức và sự chuyển dịch của nó qua
tiềm thức, để trở thành ý thức trở thành hữu thức, Freud đưa ra mô hình tâm lý thứ
nhất, ông phân biệt ba thang bậc: ý thức, tiềm thức và vô thức. Freud đã lấy ví dụ
sau đây: ông hình dung có hai căn phòng liền nhau và có một cái cửa thông giữa hai
phòng đó. Ngồi ở cửa thông này là một người gác cửa. Trong phòng thứ nhất chứa
đầy cái vô thức. Một số cái vô thức tìm cách lọt qua mắt người gác để sang phòng
thứ hai trong đó dành cho cái hữu thức. Một số cái vô thức đã qua được sự kiểm
soát của người gác nhưng chưa vào được hẳn phòng thứ hai là nơi cư trú của cái
hữu thức. Vì vậy, những cái vô thức này chưa trở thành hữu thức những cũng không
25
là vô thức nữa và được gọi là tiềm thức.
Nếu so sánh cái Tôi của chúng ta với ánh sáng, thí dụ như ngọn nến ở trong
một căn phòng nào đó, thì lĩnh vực ý thức bao gồm những cái đang được chiếu sáng
vào thời điểm đó. Nếu chúng ta ở trong một căn phòng lớn, thì ngọn nến chiếu sáng
một khoảng không gian không lớn, cũng giống như ở mỗi thời điểm chúng ta ý thức
được một số lượng không lớn đối tượng bên ngoài, hình ảnh trong ký ức của chúng
ta. Số lượng những cái có thể ý thức được thực ra là rộng hơn nhiều: chúng ta có vô
số hồi tưởng, chúng ta có thể chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác. Đó
chính là lĩnh vực tiềm thức, tức cái không được ý thức một cách thực tại nhưng lại
có thể đạt tới đối với ý thức. Cũng trong phòng tối đó, chúng ta chuyển từ một bức
tranh này sang bức tranh khác, phát hiện ra cửa dẫn tới các gian phòng khác mà
chúng ta có thể đi sang đó. Chẳng hạn, tôi không thể nhớ cách tính tích phân như
thế nào, nhưng nếu giờ tôi xem lại các công thức đó, tôi có thể giải được.
Cho đến hôm nay mọi người đều thừa nhận rằng vô thức là cái mang tính sinh
lý tự nhiên, là cái mang tính bản năng di truyền bẩm sinh từ đời nọ sang đời kia.
Freud đồng ý như vậy. Nhưng cái vô thức không phải chỉ có như vậy. Ông thừa
nhận những đặc tính đó trong Phân tâm học, chúng ta có thể gặp không ít lần những
từ như bẩm sinh, bản năng, di tuyền... để nói về cái vô thức. Nhưng điều quan trọng
với ông là cái vô thức không chỉ có thế, nên ông đã bổ sung một điều qua trọng là
cái vô thức ngoài nguồn gốc có tính sinh lý bẩm sinh do cơ quan sinh lý phát động
còn có sự tác động từ bên ngoài xã hội. Ông thường quả quyết rằng nếu không có sự
tác động bên ngoài từ xã hội thì làm sao hình thành được cái vô thức. Như vậy, theo
Phân tâm học ngoài mặt sinh lý bẩm sinh, bản năng, cái vô thức còn có mặt khác,
đó là hoàn cảnh sống của mỗi người trong xã hội. Chính sự tác động từ bên ngoài
này quyết định sự hình thành cái vô thức và nội dung của nó chẳng có gì ngoài cái
người đời đã từng gặp phải trong cuộc sống của mình. Nội dung của cái vô thức bao
gồm tất cả những biến cố, những kỷ niệm mà con người đã trải qua trong quá trình
sống trước đấy, những tình cảm đó có được sau những biến cố, những kỷ niệm đó
và cuối cùng là tất cả những ước muốn chưa được thực hiện do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó nguyên nhân xã hội giữu vai trò to lớn và thường giữa vai trò
quyết định. Vô thức - mảng lớn nhất - nằm bên trong tâm thức con người. Cái vô
26
thức mà Phân tâm học quan tâm nhiều hơn cả là cái trước đây đã từng là cái hữu
thức nhưng bị dồn vào vô thức nên đã trở thành cái vô thức mà đương sự cũng
không hề hay biết.
Cái đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm thần của chúng ta, theo Freud,
là hầm ngầm, là bóng tối bên trong mà chúng ta đã bỏ một cái gì đó rất quan trọng
vào đó – di sản thời thơ ấu của chúng ta. Tất cả chúng ta đều trở thành bản thân
mình ở những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, nhưng lại không nhớ gì về nó. Có
một cái gì đó giống như sự kiểm duyệt cản trở trên con đường hồi tưởng.
Trên cơ sở các ý tưởng trên, vào những năm 20 của thế kỷ XX, Freud đã xem
xét và đưa ra một mô hình cấu trúc tâm lý khác: Freud phân loại mọi hoạt động tinh
thần của mỗi nhân con người được thể hiện thành ba cấp độ được ông gọi là Bản
ngã, (Id. Soi hay bản năng, cái nó); Tự Ngã (ego moi hay còn gọi là cái tôi) và Siêu
Ngã (superego Surmoi hay còn gọi là cái siêu tôi). Quan trọng số một là cái Id,
Freud bảo: Phạm vi của bản năng là phần nhân cách tối tăm và không thể đi đến
được của chúng ta. Bản thân ta chỉ biết chút ít về cái bản năng qua nghiên cứu các
giấc mộng và qua sự biểu hiện các triệu chứng bên ngoài của bệnh tâm thần, bản
năng là nơi trú ngụ các bản năng nguyên thuỷ và các xúc cảm đi ngược lên tới cái
quá khứ xa xưa khi mà con người còn là một con thú, bản năng có tính chất thú vật
và bản chất của nó là thuộc về dục tính (sexual in nature), nó vốn vô thức.
Cái Bản ngã được hiểu một cách đơn giản và ngắn gọn là những con người
chưa thực sự thành nhân hay những phần trong nhân cách biểu thị một lối sống tự
nhiên, bản năng tự phát. Một con người sống theo “chiều gió” chưa có khả năng
làm chủ cuộc sống người của mình. Điều đó nói lên một nhân cách với lối sống mà
định hướng chưa được xác định rõ ràng. Họ chưa có ý thức gì về cuộc sống nói
chung cũng như mọi hoạt động của chính mình. Vận dụng nội dung ý tưởng thứ
nhất nói trên thì đây là những con người mà ước vọng chưa được hình thành một
cách chủ động. Mục đích của cuộc sống nói chung và mục đích của mỗi hành vi nói
riêng không rõ rệt hoặc chưa được hoạch định trước. Họ tìm kiếm những khoái cảm
theo kiểu được đến đâu hay đến đó, không có chủ đích nhất định. Với ý tưởng thứ
hai thì loại người Bản ngã lại tìm kiếm những khoái cảm bất chấp nguyên tắc thực
tế, bất chấp lợi ích hơn thiệt, nghĩa là không mang nội dung kinh tế vì họ không cần
27
biết và cũng không quan tâm đến những hao phí sức lực nhiều hay ít trong việc thỏa
mãn tình dục, tìm kiếm khoái lạc. Ở họ không có một tính toán gì cả trong việc trả
giá cho những khoái cảm. Tất cả những ý nghĩ cũng như hành động của họ cũng
như không thuộc về họ với tư cách là một chủ thể đang sống, suy nghĩ và hành
động. Họ sống như vay mượn ở nơi khác, xa lạ với chính bản thân mình. Vận dụng
ý tưởng thứ ba ở những người Bản ngã hay cái phần bản ngã trong một con người,
chúng ta thấy chủ thể không phân biệt được đâu là ý tưởng ý thức, đâu là ý tưởng
vô thức. Đương nhiên cũng không phân biệt được những định luật tác động nơi ý
thức cũng như nơi những vô thức để từ đó làm chủ những tác động mang tính quy
luật này. Cấp độ Bản ngã có thể tương ứng với sự hoạt động và chi phối một cách
mù quáng của cái vô thức thuần túy. Cái Bản ngã này là cái Tự ngã chưa có ý thức
gì về mình và cuộc sống cũng như hành vi của ình. Một cuộc sống đến đâu biết đến
đó. Tất cả trông chờ vào sự may rủi. Những kích động nơi cái Bản ngã này được
xem như những kích động sơ khởi của chính chủ thể. Nhiều hành vi ở cấp độ này
chỉ là sự tự phát vô tổ chức ví như phá hoại chứ không nghĩ gì tới những quy phạm
về pháp luật hay đạo đức xã hội và cũng không biết sợ những hậu quả do việc làm
đó gây ra. Mọi hành vi đều mang tính bộc phát. Sự lệ thuộc của nó vào nguyên tắc
khoái cảm thực là rõ nét và chỉ nhằm có mục đích đó.
Cái Tự ngã hay cái Tôi chủ động và có khả năng kiểm soát mọi ý tưởng, mọi
cảm nghĩ và nói chung là mọi hoạt động tinh thần như cái người ta thường gọi là sự
tự ý thức. Đây là cái Tôi biểu hiện của mọi khuynh hướng xã hội, sống và làm việc
với những quy định của xã hội một cách nghiêm túc. Đó là cái Tôi đã thành nhân có
khả năng định hướng được cuộc sống của mình. Dù cho những khích động như thế
nào từ bên trong cũng như từ bên ngoài mang lại, cái Tôi xã hội này luôn hướng
những khát vọng của mình vào việc tìm kiếm những thỏa mãn hợp với nền luân lý
xã hội dù cho nó có hợp lý hay không; đồng thời kiểm soát nghiêm ngặt những ước
vọng mà xã hội cấm kỵ dù cho nó có chính đáng đến đâu. Cái Tôi này sống và làm
việc theo đúng nguyên tắc thực tế, theo nguyên tắc lợi ích để tự bảo tồn cá nhân
ngay cả khi không thể bảo tồn dược trong thực tế. Tình hình đó cũng xảy ra tương
tự khi nó tự bảo tồn giống nòi. Sự hưởng thụ khoái cảm, sự dễ chịu, sự sung sướng
cũng luôn được tính đến ý nghĩa kinh tế của sự hưởng thụ sao cho sự tiêu phí sức
28
lực ít nhất, vào lúc đó lợi nhất mà cũng không ảnh hưởng gì đến những hoạt động
khác mà trước mắt là tránh rơi vào bệnh hoạn. Cái Tôi này thành cái Tôi đại diện
cho cái hữu thức, cho ý thức và luôn đối lập với cái vô thức. Cái Tôi này luôn hành
động theo ý chí và chỉ do lý trí mà thôi. Nó không biết gì đến cái vô thức và dung
nạp được cái vô thức trong cuộc sống của mình. Nó là đại diện cho một thành phần
của cơ cấu toàn diện về nhân cách như là một cái Tôi có tổ chức. Nó là khuynh
hướng gây ức chế và mọi cấm đoán đối với những gì mà xã hội không chấp nhận.
Nó còn là đại diện cho xã hội để tiến hành trừng phạt khi cần thiết. Đây là cái Tôi
nghiêm khắc và nghiêm nghị trong mọi trường hợp. Nó sống bằng lý chứ không
bằng tình. Nó thực sự là đại diện cho một con người “mực thước”. Freud cho rằng
đó chính là con người kiểm duyệt của cái Tôi: ý thức con người. Chính ý thức này
kiểm duyệt các giấc mơ, đó chính là nơi xuất phát của những sự dồn ép các ham
muốn không thể chấp nhận được. Chịu ảnh hưởng của thói quen hay quan sát ý thức
bị tan rã và cho ta biết nguồn gốc của nó; đó là những ảnh hưởng của cha mẹ,
những nhà giáo dục, bầu không khí xã hội xung quanh, đồng hóa với một vài người
mà người ta chịu ảnh hưởng.
Tâm lý học cổ điển, chỉ biết đến vai trò của ý thức thì đúng là một mẫu người
xã hội mà mọi người “đoan chính” cần noi theo. Nó rất phù hợp với những đòi hỏi
của xã hội dù cho những đòi hỏi đó có chính đáng hay không, có phù hợp với con
người vừa là sản phẩm của giống nòi (di truyền) có nhiệm vụ bảo tồn dòng giống lại
vừa là con người xã hội sống với những quy định xã hội do con người đặt ra và tôn
sùng.
Chúng ta có thể hiểu đây là một mẫu người nêu chúng ta muốn gọi thì đó
chính là những con người một chiều, chỉ biết có cái hữu thức.
Tâm phân học rất coi trọng vai trò của ý thức, của cái hữu thức, của đời sống
xã hội với những đòi hỏi thực tế, nhưng Tâm phân học không muốn nhân cách con
người chỉ hoàn thiện ở cấp độ như vậy. Vì thế Phân tâm học còn chú ý đến một cấp
dộ nhân cách toàn diện mà người ta gọi là cái siêu Tôi.
Nếu mà cái cái Nó chỉ biết đến cái vô thức, chỉ sống và hành động theo sự
hướng dẫn mù quáng của cái vô thức, cái Tôi ý thức lại chỉ biết đến suy nghĩ và
hành động theo sự hướng dẫn của cái hữu thức với tư cách là một thực thể xã hội,
29
thì cái Siêu Tôi lại suy nghĩ và hành động trên cơ sở hiểu biết đúng đắn cả cái ý
thức và cái vô thức bao gồm cả những quy luật hoạt động của chúng. Nó được hiểu
theo tâm lý học về cơ cấu nhân cách toàn diện như là lý tưởng sống của những con
người có nhân cách phát triển dù chưa đủ chín chắn để vừa ý thức được những đòi
hỏi hợp tình hợp lý của cuộc sống lại vừa kiềm chế được những ham muốm riêng tư
tầm thường trước mắt, đồng thời hướng nó vào những mục tiêu cao cả có ích cho
đời cũng như cho bản thân. Đây là những con người có tố chất đặc biệt trong con
người họ khiến họ không bao giờ dám phạm phải những lỗi lầm mới nảy sinh trong
suy nghĩ. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ có một cái gì đó luôn là quan tòa dể phán
xét ngay cả những ý tưởng xấu xa. Họ không phải là loại người không làm những
sai trái là do phải giữ những quy phạm về đạo đức xã hội, về luật pháp của nhà nước
mà là do sự phán xét lương tâm của họ. Suy nghĩ và hành động của cái Siêu Tôi là
cái được sự hướng dẫn của sự kết hợp hài hòa giữa cái hữu thức và cái vô thức.
Trong cái Siêu Tôi, cái hữu thức và cái vô thức đã được thuần dưỡng, đã được nhận
thức, đã được hướng vào những mục tiêu có ý thức gần hay xa, trực tiếp hay gián
tiếp tương đối rõ rệt. Như việc hướng những uốn nắn tình dục ngay cả theo nghĩa
hẹp vào những mục tiêu cao cả mà sự sung sướng, những khoái cảm mang lại
không kém gì những khoái cảm khi khát dục được thỏa mãn, không chỉ cho riêng
họ mà còn cho cả nhân loại, cho đời. Những ý tưởng ngông cuồng vô thức đã trở
thành mục tiêu thực hiện trong một phạm vi nào đó mà họ đã phấn đấu một cách có
ý thức đầy đủ. Ngay cả những cuồng vọng vô thức, những đam mê vô thức cũng có
thể trở thành những động lực có sức mạnh to lớn để hoàn thành những công việc to
lớn có ích cho đời.
Trong cái Siêu thức, cái Siêu Tôi, cái hữu thức đã trở nên mềm mỏng hơn, biết
điều hơn, biết đối xử gượng nhẹ hơn đối với cái vô thức. Nó không là cái hữu thức
vô đoán, quá khắt khe và thô bạo như trước. Cái Siêu Tôi được hướng dẫn của sức
mạnh nội tâm lành mạnh, tạo ra một lương tâm trong sáng, cái mà người đời từ xưa
đến nay luôn đề cao và có vai trò có ý nghĩa hàng đầu trong mọi suy nghĩ và hành
động của con người. Cái mà chúng ta gọi là lương tâm đó như là một cái gì hư ảo
nhưng thực ra nó lại có một sức mạnh rất cụ thể nhiều khi còn mạnh hơn cả những
quy phạm về đạo đức, những thể chế, những luật lệ xã hội gấp nhiều lần. Sự phán
30
xét của lương tâm chính lại là sự phán xét công minh, nghiêm khắc và có hiệu quả
hơn bất kỳ một tòa án nào trên đời. Và người đời đã từ lâu rất coi trọng cái tòa án
lương tâm này. Thiếu nó thì chẳng có một có một tòa án nào ngoài đời có thể làm
được cái gì đáng kể và lâu bền.
c. Số phận của dục vọng
Trong Phân tâm học, vấn đề tình dục có một vị trí vô cùng quan trọng vì như
trên đã nói, cái vô thức có liên quan chặt chẽ với nội dung tình dục mà vấn đề tình
dục lại có liên quan đến việc tìm hiểu các chứng bệnh tâm thần và cuối cùng để
chữa trị các chứng bệnh này sao cho có hiệu quả nhất. Tâm phân học là môn học về
các hoạt động tinh thần, đương nhiên nó nghiên cứu những vấn dề trên cũng theo
hướng tìm ra ý nghĩa tinh thần của vấn đề đó. Nếu Phân tâm học có đề cập đến mặt
sinh lý của vấn đề thì cũng không phải để tìm ra cơ chế hoạt động của những cơ
quan sinh lý mà là tìm ra ảnh hưởng của nó về mặt tâm lý, về mặt tinh thần và đi
sâu mổ xẻ cơ chế, tổ chức hoạt động của những hoạt động tinh thần này. Cách đây
một trăm năm cũng như hiện nay, trước mắt mọi người, vấn đề tình dục vẫn thường
là cái gì khó nói. Những thành kiến lệch lạc đối với tình dục hiện nay tuy có một vài
điều tiến bộ nhưng nói chung cách nhìn nhận sự việc vẫn còn mang nhiều ảnh
hưởng của thời xa xưa mà hai khuynh hướng chủ yếu vẫn là: đề cao quá đáng hay
xem thường, thiêng liêng hóa vấn đề lại coi là chuyện tục tĩu. Việc cần thiết lúc này
là hãy nhìn thẳng, không kiêng kị và đối xử với nó bằng một thái độ trong sáng,
lành mạnh giữa những con người, một thái độ thấu tình đạt lý. Đó là toàn bộ vấn đề
chứ không phải là tránh né nó, cứ để cho nó tự do tác động một cách mù quáng dẫn
con người đến tình trạng đau khổ, dẫn đến bao bi kịch nhiều khi làm thương tổn đến
nền tảng đạo đức xã hội, đến luân thường đạo lý mà chính xã hội đã vô tình gây ra
mà cứ cho nó là do những lực lượng nào đó phá phách.
Đặc tính chung nhất, đồng thời cũng chỉ mục đích của mọi hành vi tình dục đó
là những khoái cảm, sự dễ chịu, là phút giây sung sướng trong sự thỏa mãn. Sự sung
sướng trong vấn đề thỏa mãn tình dục này được Phân tâm học gọi là sự khoái cảm
bao gồm những cảm xúc mạnh đạt trình độ cao trong mọi cảm xúc. Cũng chính vì
vậy trong phần khái luận chúng ta đã nói rằng tình dục phải được hiểu theo nghĩa
rất rộng bao gồm mọi tình yêu. Chúng ta còn nói thêm rằng tình yêu này phải có
31
khả năng khi được thực hiện, được thỏa mãn thì nó sẽ mang lại cho con người
những cảm xúc đặc biệt, những khoái cảm đặc biệt và như vậy có thể gọi tình dục là
loại tình yêu đặc biệt theo cách nói trên, chứ không phải bất cứ loại tình yêu nào mà
chỉ mang lại những cảm xúc thông thường. Đây là loại tình yêu có sức mạnh to lớn.
Ở đâu có loại tình yêu này là có khả năng tạo ra cho con người một trạng thái tinh
thần, một trạng thái tâm lý hưng phấn cao làm động lực cho sự sáng tạo có ý nghĩa,
những phút xuất thần và nói chung là một sự thăng hoa nơi nhân cách, một bước
nhảy vọt về tâm hồn... đều thuộc phạm trù tình dục theo quan niệm của Phân tâm
học. Một thứ tính dục lành mạnh có ích cho đời cũng như cho chính bản thân mỗi
người. Còn những hành vi tình dục khác như tình dục sa đọa cũng có thể mang lại
những cảm xúc mạnh, những khoái cảm mãnh liệt nên cũng được xem là những
hoạt động tình dục nhưng hậu quả của nó lại làm cho nhân cách bị sa sút nhiều khi
còn rơi vào vòng tội lỗi. Trong trường hợp này người ta không thấy một sự thăng
hoa nào. Bản thân tình dục sa đọa chỉ làm cho con người sa sút cả về mặt thể xác và
tâm hồn. Bởi vậy, Phân tâm học có nhiệm vụ nghiên cứu những phương cách khác
nhau trong việc thỏa mãn tình dục nhằm phân biệt đâu là tình dục bình thường, lành
mạnh là động lực cho những sáng tạo và sự thăng hoa của nhân cách; đâu là loại
tình dục sa đọa, không bình thường, tục tĩu chỉ có tác dụng phá hoại tâm hồn và thể
xác con người để tìm ra cách giải quyết có lợi cho xã hội cũng như một cá nhân.
Phân tâm học yêu cầu chúng ta hãy xem xét những hành vi tình dục bất bình thường
xem nó có liên quan gì đến những hành vi tình dục bình thường.
Khâu trung tâm và gây nhiều tranh cãi nhất trong phân tâm học là lý luận về
bản năng hay dục vọng do Freud đưa ra. Vào cuối thế kỷ XIX chưa có khoa học về
hành vi của động vật, như tập tính học, các lý thuyết rất phổ biến khi đó là các lý
thuyết tìm kiếm bản năng cho mỗi loại hình hành vi bẩm sinh. Freud quy định mọi
hành vi đa dạng ấy về hai hành vi cơ bản: kế tục loài và tự vệ; phù hợp với chúng ta
là tình dục và cái gọi là các bản năng của cái Tôi. Sau một thời gian, ông quy định
loại thứ hai về loại thứ nhất. Rốt cuộc, mọi quá trình tâm lý là những biểu hiện của
năng lượng tâm lý cơ bản – libido (năng lượng tình dục).
Mặc dù bản thân Freud không phân biệt rành mạch giữa dục vọng và bản
năng, song không phải ngẫu nhiên mà ông lại thường sử dụng thuật ngữ “dục
32
vọng”, vì khác với cơ chế sinh lý thuần túy của bản năng, dục vọng là một thực tại
tâm lý nào đó. Chúng ta thể nghiệm một dục vọng nào đó mà không biết chính xác
các nguyên nhân của nó; chúng ta biết tới cơ chế của bản năng nhờ sự nhận thức
khách quan. Nói cách khác, dục vọng là sự tái hiện quá trình sinh học trong tâm lý,
nó nằm giữa các quá trình sinh lý ở ngoài ý thức và nguyện vọng được ý thức hay
hành vi có ý chí. Cái vô thức thể hiện là căn cứ được chế định về mặt sinh học của ý
thức, nhưng khác với quá trình thuần túy tự nhiên: nó có nghĩa và có thể được lý
giải, trong khi quá trình tự nhiên không những đòi hỏi lý giải mà còn cả giải thích
về mặt nhân quả.
Freud không phải là người đầu tiên phát hiện ra cái vô thức. Nhưng chính
quan điểm toàn vẹn về tâm lý như sự thống nhất của các quá trình vô thức và ý thức
đã đi vào khoa học tâm lý cùng với các tác phẩm của ông. Đối với Freud thì quan hệ
giữa chúng thể hiện trước hết như là xung đột của những dục vọng do bản tính con
người quy định với các chuẩn tắc xã hội và các giá trị văn hóa. Chính việc đè nén
dục vọng tự nhiên đã dẫn tới đa số bệnh tâm thần. Bất kỳ văn hóa nào cũng được
xây dựng dựa vào việc khước từ, dáp ứng những dục vọng, vào những cấm đoán đối
với việc trực tiếp thực hiện các nhu cầu sinh học. Mọi người sinh ra đều có xung đột
tính dục hay bản năng tính dục. Lịch sử tính dục của con người bắt đầu từ mới sinh,
đứa trẻ đó tìm khoái lạc tính dục ở bất kì bộ phận nào trên cơ thể nó. Việc tìm kiếm
mục đích và đối tượng cụ thể để thỏa mãn ham muốn tính dục đòi hỏi phải có kinh
nghiệm, đó là quá trình học hỏi phức tạp có thể dẫn đến sai lạc. Tòa nhà văn hóa
càng được nâng cao bao nhiêu thì áp lực của nó đối với bản tính con người càng
mạnh hơn bấy nhiêu.
Tuy nhiên, khác với một số môn đệ của mình, Freud không phải là người ủng
hộ cho việc giải phóng tình cảm. Việc đè nén dục vọng là một tất yếu nghiệt ngã.
Một mặt, không tuân thủ nguyên tắc thực tại thì nói chung không thể có sự tồn tại
của con người. Mặt khác, việc đáp ứng các dục vọng bẩm sinh đe dọa không những
một thứ văn hóa đàn áp nào đó, mà còn đe dọa sự kế tục của nòi giống người. Ngoài
tình dục (eros) hay bản năng sống, còn có dục vọng khác – bản năng chết, dục vọng
hiếu chiến hay dục vọng phá hủy (tanatos). Freud đã điều chỉnh siêu tâm lý học của
33
mình để giải thích không những một số loại bệnh tâm thần mà còn cả nhiều hiện
tượng xã hội. Không ngẫu nhiên ông suy ngẫm về dục vọng vào thời kỳ chiến tranh
thế giới thứ nhất.
Đối với Freud, quy luật nhiệt động lực học thứ hai cũng là quy luật của đời
sống tâm lý giống như ở mọi vật chất có tổ chức cao: hướng đến sự đơn giản hóa
entropy (một kiểu chết nhiệt). Mọi cái hữu sinh đều cố quay trở về trang thái vô
sinh, bất kỳ tâm lý nào cũng bao hàm trong mình ý muốn quay trở lại trạng thái tiền
tâm lý. Chúng ta cảm thấy thỏa mãn khi giải tỏa được sự căng thẳng tâm lý, cũng
như mọi sự sống, vì toàn bộ ý thức của chúng ta thực chất là sự căng thẳng, nên sự
tự phá hủy của nó thể hiện là cái đem lại một sự thỏa mãn đặc biệt. Mọi cái hữu
sinh đều cố hướng tới cái chết, tới sự phá hủy có định hướng vào bên trong hay ra
bên ngoài, thể hiện qua hành vi đàn áp.
Về dục vọng hiếu chiến và phá hủy: mới đầu ông ủng hộ liên minh Áo - Đức
vì có con ông đang chiến đấu, nhưng sau đó ông không ủng hộ nữa: “nền văn minh
của chúng ta bị biến dạng vì một sự đạo đức giả khổng lồ, liệu có bao giờ ta lại có
thể nói mình đã được văn minh hóa hay chăng”, điều đó lý giải cho việc toàn bộ ý
thức của chúng ta thực chất là sự căng thẳng lên sự tự phá hủy nó thể hiện là cái
đem lại một sự thỏa mãn đặc biệt. Năm 1917, tại nơi ông sống cuộc sống rất khó
khan (thiếu thức ăn, nhiên liệu, thuốc lá, …), sự tang tóc và u sầu khiến con người
cảm thấy muốn tự sát, điều đó lý giải cái hữu sinh.
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Bối cảnh kinh tế xã hội và văn hóa tinh thần cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
đã tác động và có những ảnh hưởng nhất định đến việc hình thành tư tưởng triết học
của Freud. Mặt khác, ông còn chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các khuynh hướng đa
dạng phong phú của triết học, khoa học tự nhiên và thực tiễn chữa trị bệnh tâm thần.
Ông sống trong thời đại khoa học và tư duy duy lý cho nên mục đích theo đuổi của
ông là dựa trên những thành tựu khoa học đương thời để chứng minh tính hợp lý
trong tư tưởng của mình. Bản thân ông cũng luôn mong muốn theo đuổi chân lý
khoa học. Như vậy, việc xem xét lịch sử xuất hiện tư tưởng triết học của Freud cho
thấy, các luận điểm cơ bản của phân tâm học nói chung, cũng như triết học nói
riêng, đã được các nhà tư tưởng bàn luận từ trước đó, nhưng nó còn rời rạc và chưa
34
có hệ thống. Công lao lớn nhất của Freud là ông đã biết liên kết các ý tưởng rời rạc
thành một hệ thống lý luận hoàn chỉnh đồng thời ông cũng chỉ ra được khái niệm
nền tảng trong toàn bộ học thuyết của ông chính là cái vô thức. Khi phân tích thế
giới nội tâm của con người, Freud đã không hạ thấp hình ảnh con người vốn được
đề cao và trân trọng. Freud đã lý giải, phân tích để thấy rõ được những nguyên nhân
tác động đến đời sống cá nhân và xã hội. Đồng thời, ông cũng bộc lộ mong muốn
con người có khả năng tiến bộ, khả năng làm xuất hiện những hình ảnh dự phóng từ
cuộc hành trình tinh thần của chúng ta khi con người có ý thức và trách nhiệm với
bản thân. Từ những lý luận nhân cách, Freud đã giới thiệu cho chúng ta một trình tự
phát triển hợp logic, vạch ra con đường nhận thức cái vô thức để từ đó từng bước
hiểu được bí mật của tồn tại người. Và từ đó, Freud đã mở rộng quan niệm của
mình để phân tích và giải thích các hiện tượng xã hội và văn hóa. Chính điều đó đã
thêm cho quan niệm của ông sắc thái triết học. Đóng góp của Freud là kể từ đây,
người ta bắt đầu ý thức được cần xem xét con người một cách chăm chú và sâu sắc
hơn so với trước. Con người không những là một sinh thể duy lý; nó thực ra là
“giao điểm giữa hai thế giới” - thế giới tâm linh cao cả và thế giới tự nhiên thấp
hèn. Đó chính là nét đặc thù của con người như là loại hiện tồn đặc biệt. Đây cũng
chính là giá trị phương pháp luận quan trọng đối với vấn đề nhận thức về đạo đức
và nhân cách con người, sử dụng con người như là một tài sản vô giá và mục đích
35
tối cao của sự phát triển xã hội.
CHƯƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỌC S.FREUD
Phân tâm học là một học thuyết triết học mang đậm sắc thái đạo đức học
được khởi thảo bởi Sigmund Freud, một bác sĩ người Áo. Đạo đức học phân tâm
học thuộc một trào lưu chủ yếu của xu hướng đạo đức nhân bản phi duy lý. Việc
xem xét tồn tại người trong thế giới, như mục đích chủ yếu của triết học phân tâm
học, đòi hỏi phải quan tâm đến phương diện đạo đức, vì việc làm rõ bản tính người
có liên hệ mật thiết với nhận thức các vấn đề về thiện và ác, các động cơ của hoạt
động và các cấm đoán đạo đức, tự do ý chí và số phận, lương tâm và tội lỗi. Do vậy,
điều dễ hiểu là Freud phải giải quyết hệ vấn đề bản thể luận và nhận thức luận nhằm
mục đích đưa ra quan điểm riêng của mình về các cơ sở đạo đức của con người.
Mặc dù Freud không có tác phẩm dành cho xây dựng học thuyết đạo đức, song ông
thường xuyên đề cập đến những vấn đề đạo đức trong các tác phẩm khác nhau của
mình.
Triết học phân tâm hướng tới vạch ra các cơ sở đạo đức của tồn tại người. Sự
giải mã ngôn ngữ biểu tượng cái vô thức, lý giải giấc mơ, kiến giải các triệu chứng
phân ly bệnh tật của thế giới nội tâm của cá nhân - tất cả đã dẫn đến thừa nhận khởi
điểm “ác độc”, “xấu xa” trong con người. Một khía cạnh khác là ở chỗ, sự triển khai
cái tâm thần vô thức diễn ra không chỉ bằng sự trượt xuống khởi điểm những ham
muốn bản năng thấp nhất của tồn tại người, mà còn bằng cả hoạt động kiến tạo các
giá trị tinh thần cao nhất của cuộc sống, dù đó là dạng sáng tạo nghệ thuật, khoa học
hay là các dạng sáng tạo nào đi nữa. Trong đạo đức học phân tâm có dấu vết tư
tưởng của Kant về “mệnh lệnh tuyệt đối” được xét với tư cách một cơ chế tâm lý
đặc thù hoàn toàn xác định từ trước thường điều chỉnh hoạt động của con người.
Mệnh lệnh đó chính là lương tâm có tác dụng gạt bỏ hay đè nén các dục vọng tự
nhiên của con người. Như vậy, triết học Freud ghi nhận tính hai mặt của tồn tại
người trong thế giới gắn với tính bị quyết định tự nhiên và đạo đức của hoạt động
36
sống con người.
2.1. Quan niệm về thiện ác, lương tâm, nghĩa vụ, tự do, trách nhiệm và
bản chất của tư tưởng đạo đức học trong phân tâm học của Freud
Quan tâm đến phương diện đạo đức để làm rõ bản tính người, Freud đã nghiên
cứu đạo đức từ lập trường cái vô thức do mình khởi xướng để làm rõ vấn đề thiện
ác, các động cơ của hoạt động trong tương quan với cấm đoán đạo đức, lương tâm
và tội lỗi. Do là nhà nghiên cứu tâm lý tinh thần nên quan điểm đạo đức của ông có
nhiều điểm khác so với các quan niệm truyền thống.
Sigmund Freud: “Con người đạo đức hơn ta nghĩ, nhưng cũng rất vô đạo đức
hơn ta tưởng”.
Freud nhìn thấu bản chất ấy và nhận ra hai xu hướng bản năng đối lập mà ông
gọi là Eros và Thanatos: Eros và Thanatos là hai nhân vật đối lập trong thần thoại
Hy Lạp: Eros là thần của sắc đẹp, tình yêu nhục dục và sự sinh sản; Thanatos là
thần chết.
Eros là một từ gốc Hy Lạp, Ἔρως, được Freud sử dụng để biểu thị cái “libido”
hoặc bản năng sống hướng tới thoả mãn các ham muốn dục vọng và sự sống còn.
Ham ăn, ham uống, ham sắc dục, ham của cải vật chất, ham tiền bạc, ham danh
lợi,… là những thứ ham muốn nằm trong cái Eros nói chung. Những ham muốn này
là tự nhiên, xuất phát từ bản năng sinh tồn. Đối lập với bản năng sinh tồn là bản
năng Thanatos.
Thanatos cũng là một từ gốc Hy Lạp, Θάνατος, dịch ra tiếng Anh là “death
wish”. Freud sử dụng thuật ngữ này để chỉ trạng thái “muốn huỷ hoại” – một trạng
thái tâm lý tiêu cực như muốn đập phá, huỷ hoại mọi thứ bất chấp cái chết để giải
quyết những bế tắc, căng thẳng trong cuộc sống. Biểu lộ thấp nhất của cái Thanatos
là thói tự ái, nóng giận, nổi khùng mà ai cũng có thể có. Rất nhiều đổ vỡ trong hôn
nhân hay trong quan hệ giữa người với người nói chung xuất phát từ những cơn tự
ái bất chấp. Đó là lúc bản năng Thanatos trỗi dậy, không thể kiểm soát. Sự ghen tức,
đố kị dẫn tới hãm hại lẫn nhau là biểu hiện cao hơn của Thanatos. Thù oán, giận dữ
đến mức giết hại đồng loại là biểu hiện tột cùng của Thanatos.
Hoạt động của con người bị quy định bởi sự tương tác và nhân nhượng của hai
loại bản năng đó, tương ứng với hai loại ý chí đối nghịch với nhau hoạt động một
37
cách vô thức: ý chí hướng đến cuộc sống và ý chí hướng đến cái chết. Những lực
lượng vô thức của tâm lý này dường như điều khiển hoạt động của con người cá
nhân. Theo Freud, trình độ khởi đầu của đời sống tâm lý này quy định nội dung ý
thức và tất cả các hình thức của hoạt động văn hóa trong đó có đạo đức và tôn giáo.
Cả hai bản năng nói trên không chỉ tồn tại trong từng cá thể, mà có thể tồn tại
ngay cả trong một cộng đồng xã hội, tạo nên một xu thế sống trong cộng đồng đó.
Những vụ tự tử tập thể là một bằng chứng. Chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, bề ngoài
được che đậy bởi mục tiêu tôn giáo, nhưng thực chất cũng là một biểu hiện của cái
Thanatos lên tới cực điểm. Có thể chỉ ra hàng đống ví dụ khác để thấy vai trò của
Thanatos tác động tiêu cực đến xã hội loài người như thế nào.
Tất nhiên bản năng vô thức bị kiềm chế bởi lý trí – ý thức làm cho con người
hơn hẳn con vật. Nhưng khả năng kiềm chế của lý trí lớn đến đâu? Lý trí có thể
chiến thắng bản năng Eros và Thanatos hay không? Đây chính là câu hỏi khó nhất
và cũng là quan trọng nhất khi nhận định về tương lai của nền văn minh. Nếu lý trí
thắng, nền văn minh sẽ tiến lên. Nếu bản năng thắng, nền văn minh sẽ sụp đổ.
Thực tế cho thấy tuỳ theo từng trường hợp, từng hoàn cảnh cụ thể, từng cá
nhân mỗi con người hoặc từng xã hội, khả năng và mức độ kiểm soát của lý trí đối
với bản năng Eros và Thanatos là khác nhau.
Những cá nhân như Nguyễn Đức Nghĩa và Lê Văn Luyện có lẽ thuộc loại
thuần tuý bản năng. Trước khi thực hiện hành vi man rợ, chúng tính toán kế hoạch
rất tỉ mỉ. Những kế hoạch này càng quỷ quái ranh ma bao nhiêu càng chứng tỏ cái
bản năng Eros và Thanatos lớn bấy nhiêu.
Có những xã hội cũng hành động điên rồ như những cá nhân tội phạm. Chủ
nghĩa quốc xã Đức là cái gì nếu không phải là một tập thể hành động theo cái Eros
(tranh giành quyền lợi) và Thanatos (tiêu diệt người Do Thái, lập nên những trại tập
trung, lò thiêu người,…). Những mồ chôn tập thể của Khơ Me đỏ những năm 1970
hay của Gaddafi mới được phát hiện vào tháng 9/2011 là cái gì nếu không phải là
kết quả của một nền chính trị bị chi phối bởi những con quỷ Eros và Thanatos?
Đôi khi những con quỷ ấy bị nguyền rủa như một thứ “bản năng dã thú” hay
“bản năng súc vật”. Sự nguyền rủa này có phần oan uổng cho loài vật, vì thú dữ chỉ
dữ khi chúng đói hoặc bị tấn công. Khi chúng được ăn no, chúng trở nên hiền lành
38
đến mức có thể sai bảo. Đó là bí quyết của các môn xiếc động vật. Nói cách khác,
bản năng của động vật là có giới hạn, và giới hạn này do Tự Nhiên quy định, đó
chính là luật cân bằng sinh thái.
Chỉ có con người mới phá vỡ luật cân bằng sinh thái, đơn giản vì cái Eros và
Thanatos ở con người không có giới hạn, đúng như ngạn ngữ Việt Nam đã nói:
“Lòng tham không đáy!”. Thật vậy, cái Eros của con người vượt xa con vật. Đã có 1
tỷ đô-la lại muốn có 10 tỷ, bỏ ngoài tai lời tâm sự của Warren Buffet: “Khi tôi đã có
1 tỷ, mọi đồng tiền kiếm thêm đều vô nghĩa”. Trong hơn 7 tỷ người trên trái đất, có
bao nhiêu người thấm thía ý kiến của Honoré de Balzac trong “Tấn trò đời”: “Đằng
sau những tài sản kếch xù đều là máu và nước mắt”? Bao nhiêu người lắng nghe
Lão tử: “Hoạ mạc đại ư bất tri túc; cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường
túc hĩ” (Không cái hoạ nào lớn hơn là không biết tri túc; không sai lầm nào lớn hơn
là tham lam. Cho nên kẻ biết cái đủ là đủ thì không bị nhục và bao giờ cũng thấy
đủ)?
Vì thế không ngạc nhiên khi thấy Sigmund Freud, ngay từ năm 1930, trong tác
phẩm “Civilization and Its Discontents” (Nền văn minh và sự bất mãn của nó), đã
sớm có một cái nhìn đầy bi quan về mối quan hệ xung đột giữa nền văn minh với
chính chủ thể sáng tạo ra nền văn minh đó: Nền văn minh muốn tiến lên để đem lại
hạnh phúc cho con người, nhưng luôn luôn bị chệch hướng và thậm chí bị huỷ hoại
bởi cái Eros và Thanatos.
Freud đáng được thông cảm, bởi ông đã chứng kiến cuộc Thế chiến I. Ở một
mức nào đó, cảm nhận của ông về tương lai của nền văn minh nhuốm vẻ tiên tri –
chưa bao giờ xã hội loài người lâm vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng như
hiện nay: mất cân bằng sinh thái; chiến tranh khu vực; khủng bố; suy đồi đạo đức;
khủng hoảng tội ác; đám mây hạt nhân treo lơ lửng trên bầu trời; bất công xã hội lên
đến mức vô đạo (90% của cải vật chất tập trung vào 5% dân số thế giới, bất chấp
ngót 1,5 tỷ người đang sống nghèo đói và bệnh tật);...
Bình luận về vấn đề này, học giả David Peat nêu ra ý kiến rằng: lý trí, cái vốn
được coi là nền tảng chắc chắn của một xã hội, thực ra chỉ là bề nổi của một đại
dương vô thức mênh mông – một tầng tâm lý nằm sâu bên dưới, ẩn giấu những khát
vọng điên cuồng và những cơn bốc đồng thôi thúc. Sức mạnh của cái vô thức này
39
thường xuyên đe doạ nổ tung trong cuộc sống tỉnh thức của chúng ta … Theo
Freud, tình trạng căng thẳng này là không thể giải quyết được, do đó không bao giờ
có thể có một xã hội thật sự lý tưởng, cũng như không bao giờ có một hạnh phúc và
sự hài hoà thuần khiết của con người. Có lẽ đây là lý do căn bản để sự cùng khốn,
bất công xã hội, và sự bất bình đẳng chính trị châm ngòi cho sự bùng nổ bạo lực và
những căng thẳng xã hội. Tuy nhiên nguồn gốc sâu xa của những căng thẳng đó
chính là cái Thanatos – trạng thái muốn huỷ hoại được phóng chiếu lên các quốc
gia, các nhóm sắc tộc, và các cá nhân. Vì cái Eros và Thanatos không thể hoà giải
được với nhau nên tội lỗi của con người và sự thiếu vắng của một hạnh phúc trọn
vẹn là điều khó tránh. Tất cả mọi hình thái của nền văn minh, từ nền tảng cốt lõi của
chúng, đã là một sự đối kháng đối với xu thế bản năng và khát vọng căn bản nhất
của chúng ta.
Đáng tiếc là Freud có một số quan điểm thái quá khi bàn đến bản năng dục
vọng cách nhìn bi quan của ông về con người và tương lai của nền văn minh cũng
khiến một số người kết tội ông là hạ thấp gía trị của con người, thiên về cái xấu của
con người thay vì đề cao giá trị của ý thức.
Tuy nhiên, sẽ có ý nghĩa tích cực nếu ta coi ý kiến của Freud như những lời
cảnh tỉnh. Chẳng hạn, ông nói: “Cái tôi không phải là ông chủ trong căn nhà của
chính nó” (The ego is not master in its own house), đại ý ông muốn nói: thay vì làm
chủ được chính mình, con người chỉ là những tên nô lệ của bản năng mà thôi. Nhận
định này có thể đúng với người này, sai với người khác. Nhưng người nào càng tự
phụ cho rằng ý thức của mình mạnh hơn bản năng, người ấy càng có nguy cơ rơi
vào cạm bẫy của bản năng nhiều hơn. Chúng ta phải hiểu rõ vấn đề này để tránh sa
vào các cạm bẫy cám rỗ không thể ngờ tới.
Trong tác phẩm Tâm lí học đám đông và phân tích cái tôi con người, Freud
còn đưa hai phát hiện cơ bản lớn của ông vào phân tích mối quan hệ giữa con người
với con người. Sự phân tích đó đã chỉ ra cho thấy "mối liên hệ của tình yêu" được
xây dựng trên cơ sở bản năng, là sự ràng buộc các cá nhân trong tập thể, là sức
mạnh trung tâm trong quan hệ giữa người với người. Freud nói: trong quan hệ
người với người, đã có thể thấy quan hệ tự yêu, tự thương để bảo tồn cá nhân. Điều
này có ý nghĩa vì nó tạo nên sự khoan dung lẫn nhau trong tập thể làm cho con
40
người chuyển từ "con người vị kỉ sang con người vị tha" [7, 369]. Một ứng dụng
nữa trong phân tâm học là Freud đã ứng dụng phân tâm học vào nghiên cứu nguồn
gốc của đạo đức và tôn giáo, ông coi "mặc cảm Ơdip" là căn nguyên cuối cùng của
đạo đức và tôn giáo. Vấn đề này được Freud trình bày trong Nguồn gốc của văn hóa
và tôn giáo.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Freud xác định cấu trúc tâm lý con người
gồm 3 yếu tố: “cái Nó” (cái vô thức); “cái Tôi” (ý thức) và “cái Siêu Tôi” (yếu tố
văn hóa – đạo đức – xã hội), trong đó “cái Siêu Tôi” là yếu tố quan trọng nhất, mà
biểu hiện khách quan của nó là môi trường văn hóa xã hội gắn liền với các cơ chế
quy định về xã hội đối với hành vi con người như các tập quán, truyền thống, các
điều cấm kỵ, các yêu cầu của tôn giáo, tín ngưỡng, đặc biệt là các chuẩn mực đạo
đức tác động đến con người từ thời thơ ấu. Từ quan điểm của Freud, “cái Siêu Tôi”
với tính cách là yếu tố văn hóa – đạo đức xã hội đóng vai trò trung gian giữa “cái
Nó” và “cái Tôi”. Theo Freud, giữa “cái Tôi” và “cái Nó”, tức là giữa cái vô thức và
ý thức, thường xuyên diễn ra cuộc đấu tranh trong đó “cái Tôi”, ý thức không thể
luôn luôn kiềm chế một cách thành công những bản năng vô thức.
Ngoài ra, Freud còn sử dụng các khái niệm cái Nó, cái siêu Tôi và cái Tôi để
trình bày mối quan hệ giữa lý tính và dục vọng, dùng lý tính xã hội đè bẹp, điều
khiển bản năng động vật trong hình thức tâm lý văn hoá của con người. Điều tiết
hoạt động này là do “nguyên tắc thực tại”; nó làm cho con người trở thành thành
viên sống và tồn tại trong xã hội nhưng dục vọng của bản năng động vật bị đè bẹp,
điều khiển. Song những ham muốn ấy vẫn không thể mất, mà thường thể hiện trong
giấc mơ, trong nghệ thuật và trong những hành động vượt ngoài khuôn khổ. Kết
tinh lý tính hoàn toàn không thể thay thế và khống chế tất cả. Giá trị sự sinh tồn,
cuộc sống, sinh mệnh của con người và ý nghĩa của đời người cũng không hoàn
toàn đồng nhất với đạo đức luân lý và trật tự lý tính. Thế nên, một mặt, như nhiều
nhà sinh vật học hiện nay cho rằng động vật sống bầy đàn cũng có đạo đức luân lý,
không khác gì con người, hoàn toàn không xem thường hoặc chê bai cơ cấu tâm lý
văn hoá chỉ có ở con người - ý chí tự do thuộc kết tinh lý tính, là phiến diện. Mặt
khác, như Kant coi tự giác đạo đức thuộc kết tinh lý tính này chính là mục đích cuối
41
cùng và kẻ kiểm duyệt tối cao của con người, coi đó là bản thể, xem thường và chê
bai sự chính đáng và quan trọng của tình dục cảm tính động vật của con người, cũng
là phiến diện.
Thừa nhận hoạt động chủ yếu của trạng thái tâm thần người là do những ham
muốn bản năng chi phối, Freud cho rằng, con người có thiên hướng “đeo mặt nạ” để
hóa trang, che đậy những dục vọng bẩm sinh. Trong quá trình nhận thức cái vô thức
trên cơ sở giải mã những hành vi sai lạc và giấc mơ, Freud cho rằng cần phải nhận
thấy trong con người đằng sau cái cao cả là những dục vọng thấp hèn. Vì thế, Freud
thừa nhận ác là bản tính đầu tiên trong con người và cũng bởi con người luôn có
mong muốn theo đuổi những đam mê và hiếu chiến. Trong khi đó, đạo đức chính là
những cấm đoán xã hội (Kategorischer Imperativ trong đạo đức học của Kant), là
những quy tắc, chuẩn mực có tính cưỡng chế và bắt buộc mọi người phải tuân thủ,
nên đôi khi gây hậu quả khôn lường. Bởi vì, dù chịu sự chế tài của xã hội nhưng cá
thể vẫn có những hoạt động riêng. Vì thế, sẽ dễ nảy sinh những mâu thuẫn giữa
những đòi hỏi chân chính của con người và các lực lượng cưỡng chế của xã hội.
Con người sẽ không còn thực sự là chính mình nữa mà sẽ chỉ hành động bởi được
xã hội tán đồng mà thôi.
Từ lập trường ấy, Freud không đồng ý với quan điểm cho rằng Phân tâm học
không đề cập đến đạo đức mà chỉ nói đến những điều bẩn thỉu, tục tĩu vốn bị văn
hóa Thanh giáo cố tránh, không chấp nhận. Văn hóa Thanh giáo nhấn mạnh đến nhu
cầu tự xét mình, nghiêm khắc tự kiểm điểm mọi hành vi và kiềm chế những cảm
xúc, ham muốn trong đời sống hằng ngày. Đối với các tín đồ Thanh giáo, người có
đạo đức là người biết tiết chế và làm trong sạch lối sống, suy nghĩ của mình trong
quan hệ với Chúa và với nhau trong xã hội. Với ông, việc thực hiện những quy tắc
đó là căn nguyên dẫn đến lối sống đạo đức giả - một lối sống phổ biến ở thành Viên
lúc bấy giờ. Freud coi đây là một căn bệnh của thời hiện đại, và cho rằng nhiệm vụ
của đạo đức học phân tâm là phải đi sâu phân tích mổ sẻ căn bệnh tâm thần để giải
tỏa tâm lý, đưa con người trở về với phẩm chất của con người thực vừa có phần bản
năng sinh học vừa có phần Người.
Như vậy, ông cho rằng, việc chỉ trích “Phân tâm học không lưu ý đến cái cao
nhã, đạo đức, siêu việt trong con người” [2, 255] là nhận xét chủ quan. Ông chứng
42
minh: “Về phương diện lịch sử, Phân tâm học đã gán cho khuynh hướng đạo đức và
thẩm mỹ một vai trò quan trọng trong sự dồn nén ngay từ đầu”. Ông phê phán: “Về
phương diện phương pháp làm việc, người chỉ trích không muốn hiểu rằng sự tìm
hiểu Phân tâm học không có cái gì chung với một hệ thống triết lý có sẵn, một học
thuyết toàn vẹn và thành tựu; Phân tâm học bắt buộc phải tìm hiểu và tiến hành từng
bước để hiểu những điểm khúc mắc của động tác tinh thần qua sự phân tích những
hiện tượng tinh thần bình thường và bất thường” [2, 255-256]. Với cách hiểu của
Freud như vậy, khi nghiên cứu quan niệm đạo đức của ông, không thể coi đạo đức
là hệ thống các quan niệm và phạm trù có sẵn được liên kết lôgic chặt chẽ. Vì thế tư
tưởng đạo đức của ông cần được chắt lọc ra qua một quá trình nghiên cứu, sử dụng
phương pháp Phân tâm học vào mổ xẻ các vấn đề xã hội trong quan hệ giữa cái Tôi
và siêu Tôi, tôn giáo và văn minh.
Trước hết, để trả lời câu hỏi “bản tính người là gì?” Freud đã đi sâu phân tích
cái Tôi để phê phán quan điểm cho rằng đạo đức học của ông không bàn đến bản
tính thiện trong con người. Ông nói: “Tôi có thể trả lời cho những người có thắc
mắc với vấn đề đạo đức và chủ trương ý thức đạo đức phải có yếu tính cao cả, tôi sẽ
trả lời rằng: hẳn là phải có, yếu tính cao cả ấy không phải là cái gì khác cái Tôi lý
tưởng, cái siêu Tôi thâu tóm đạo làm con đối với cha mẹ” [2, 256]. Freud cho rằng,
siêu Tôi là cái tối cao về mặt đạo đức, với tư cách là lương tâm, nó cố gắng thực
hiện sự giám sát đối cái Tôi và cái Nó, do vậy, đối với tất cả các nguyên tắc hoạt
động sống quan trọng nhất của con người: nguyên tắc thực tại, nguyên tắc thỏa mãn
và bản năng chết gắn liền với chúng. Trong học thuyết đạo đức của mình, Freud gán
ghép vai trò quyết định không phải cho bản nguyên đạo đức tối cao trong con
người, mà cho nguyên tắc thỏa mãn và cái Nó: bản tính con người cho thấy nó bao
giờ cũng hướng tới sự thỏa mãn lớn nhất. Dù con người được xem xét từ bất kỳ lập
trường nào, kể cả lập trường đạo đức, thì nguyên tắc thỏa mãn và bản năng chết vẫn
luôn mang tính quyết định.
Theo Freud, thông qua giáo dục, xã hội văn minh cung cấp cho con người tri
thức khoa học để có khát vọng chinh phục, cải tạo tự nhiên và vô hình trung lại tạo
thành siêu Tôi vô thức trong con người. Vì thế, vô thức thì hay đòi hỏi quá đáng cho
nên nhiều khi siêu Tôi không kiểm soát được những ham muốn, và con người
43
không thể tự giác hiểu và chấp nhận những mong muốn mà xã hội đòi hỏi nên
thường có xu hướng xâm phạm các cấm đoán xã hội. Người có đạo đức thì sẽ biết
phân biệt được Thiện và Ác. Nhưng khi phân biệt được như vậy, lại dẫn đến xung
đột nội tâm giữa mong muốn được đáp ứng nhu cầu và vi phạm mệnh lệnh tuyệt
đối. Quá trình này tất yếu dẫn đến hình thành mặc cảm chuộc lỗi của tôn giáo và
một cách tự phát, nó phóng lên bình diện của cái siêu việt (transcendant), bác bỏ
những khả năng phi xã hội và khuyến khích những hoạt động của con người phù
hợp với quy phạm xã hội.
Freud phản đối phương pháp giáo dục đạo đức khuyến khích con người tuân
theo các quy phạm xã hội bằng cách thiết lập những cơ chế thưởng, phạt. Theo ông,
cần phải giải thích cho người ta hiểu và tuân theo; không nên coi quy tắc đạo đức là
những cấm đoán xã hội và bắt buộc, cưỡng bức thực hiện. Lẽ ra cần chứng minh
rằng hạnh phúc nằm ở chỗ chế ngự chính mình, niềm vui là ở sự hi sinh và rộng
lượng, thì nó lại tìm cách đạt tới những hành động thích hợp, bằng cách gắn những
hoạt động này với phần thưởng hay sự trừng phạt từ bên ngoài. Freud cho rằng, nếu
mâu thuẫn giữa cái Tôi và siêu Tôi dẫn đến mặc cảm tội lỗi, thì đó đã là sự trừng
phạt đối với con người.
Để hiểu rõ hơn, tôi đã tìm hiểu quá trình xuất hiện mặc cảm tội lỗi theo quan
điểm của Freud. Trước tiên, ông đặt vấn đề: làm thế nào mà mặc cảm tội lỗi xuất
hiện ở mỗi người cụ thể? Câu trả lời: ta cảm thấy tội lỗi khi ta làm điều gì mà ta
nhận thấy là “xấu” [6, 78], và rồi mặc cảm tội lỗi còn xuất hiện cả khi người ta chưa
làm điều xấu, mới chỉ có ý định. Đó đã là mang tội và khi đó ý định được xếp ngang
với hành động rồi. Đã là cái xấu thì không được thực hiện và cần phải loại bỏ mặc
dù cái xấu ấy có thể không nguy hại cho cái Tôi.
Ở trạng thái “lương tâm bất ổn”, ý thức tội lỗi thể hiện là sự hãi hùng trước sự
mất mát của tình yêu, sự hãi hùng “có tính xã hội” đã làm cho những đứa trẻ, thậm
chí cả ở người trưởng thành thường xuyên tự cho phép mình làm điều trái với mệnh
lệnh tuyệt đối và điều này sẽ mang đến cho họ sự thích thú và họ tin chắc rằng
những người có quyền sẽ không biết hoặc không làm gì được họ, và họ chỉ có một
mối lo sợ là bị phát hiện. Đây là trạng thái mà xã hội hiện đại phải tính đến. Do đó,
44
việc đưa ra quan điểm này đã có sự thay đổi lớn khi quyền lực của thế giới nội tâm
được dựng lên bởi cái Tôi. Và như thế, ý thức đạo đức lúc này đã có sự thống nhất
với mặc cảm tội lỗi.
Ở cấp độ thứ hai, khi trong thế giới nội tâm xuất hiện cái siêu Tôi, theo Freud,
đạo đức lúc này được nâng lên trình độ mới và được phân chia thành mặc cảm tội
lỗi và ý thức đạo đức. Do có sự kiểm soát của cái siêu Tôi nên lương tâm con người
đã biết phân biệt mặc cảm tội lỗi khi vô tình hay cố ý làm điều xấu. Con người đã ý
thức được cái gì mình được và không được phép làm. Siêu Tôi rất nghiêm ngặt
trong việc luôn rình rập để trừng phạt khi cái Tôi mắc phải sai lầm. Đối với con
người càng đức hạnh thì siêu Tôi càng nghiêm ngặt và khi mắc phải sai lầm, họ sẽ
luôn tự vấn lương tâm, dằn vặt, đau khổ và sợ hãi. Bởi vì, theo Freud, mặc cảm tội
lỗi giống như một vị thẩm phán. Trong quan hệ với cái tôi nó có uy quyền rất lớn,
vừa nghiêm khắc vừa nhẫn tâm.
Do vậy, ở Freud, chính “cái siêu Tôi” được hình thành với tính cách là ý thức
cá nhân nhờ sự tương tác năng lượng của cái vô thức với hiện thực của cuộc sống
xã hội, nhờ khát vọng đè nén và kiềm chế tiềm năng phá hoại của cái vô thức trong
con người và hướng tiềm năng đó vào các mục đích văn hóa. “Cái Siêu Tôi” được
xem là kết quả thăng hoa của cái vô thức và được tạo nhờ cuộc đấu tranh của ý thức
với những ham muốn vô thức và nhờ sự chuyển hóa năng lượng của những ham
muốn vô thức và nhờ cuộc đấu tranh của ý thức với những ham muốn vô thức và
nhờ sự chuyển hóa năng lượng của những ham muốn vô thức đó vào các dạng hoạt
động văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng: “Cái Siêu Tôi” ràng buộc và khiến con
người ngày càng lệ thuộc: nó gắn kết con người với các tín điều quyền uy của tôn
giáo và các chuẩn mực đạo đức, tình cảm trách nhiệm và lương tâm, đồng thời
khống chế con người bằng các điều cam kết luân lý đạo đức và tước đi sự thỏa mãn
cơ bản và hạnh phúc. Nói khác đi, trong cấu trúc tâm lý cá nhân, “cái Siêu Tôi”
đóng vai trò của kẻ kiểm duyệt từ bên trong, của lương tâm của nhân cách từ lập
trường của đạo đức xã hội, chèn ép những ham muốn vô thức.
Từ bao đời nay con người luôn nói đến lương tâm. Trong xã hội hình như có
một lúc nào đó hoặc ở một nơi nào đó, phạm trù lương tâm bị quên lãng hoặc là coi
nhẹ. Luật pháp là cái không thể thiếu được trong việc duy trì kỷ cương xã hội nhưng
45
xin đừng nghĩ rằng luật pháp là tất cả những gì chúng ta cần cho việc xây dựng một
nhà nước pháp quyền. Luật pháp không lấy lương tâm trong sáng làm cơ sở thì
chính luật pháp lại được dùng làm phương tiện để biện hộ cho tội ác, cho những cái
thất nhân tâm, nhất là vào lúc sự lừa bịp đã trở thành một công nghệ như một trò ảo
thuật, một kỹ xảo tinh vi và nguy hiểm nhất cho xã hội, cho con người. Nhưng cuối
cùng người ta lại phải nói đến lương tâm vì sức mạnh của nó là vô địch không gì có
thể thay thế được trong cuộc sống muôn thủa. Thực tế cuộc sống đã giúp cho những
con người quá tin vào những thể chế và luật pháp và thể chế xã hội tách khỏi lương
tâm thì chỉ trở thành một trò ảo thuật không hơn không kém. Chính nhờ có lương
tâm mà luật pháp xã hội trở nên nghiêm minh và có hiệu lực. Lương tâm thực chất
là cái tình, cái bẩm sinh di truyền, là cái vô thức, sau khi đã loại bỏ những mặt hạn
chế của nó.
Sống theo sức mạnh nội tâm, theo lương tâm, theo tình của những con người
chân chính thực ra vừa rất là khó những cũng lại là dễ, vừa cao cả nhưng cũng lại
rất đời thường. Nhờ có lương tâm mà nhân loại có thể tạo dựng cho mình một cuộc
sống bền vững tốt đẹp hơn bất cứ một thể chế xã hội nào. Chỉ khi nào con người
thực hiện được sự phán xét nội tâm theo lương tâm chân chính, sống và hành động
không phải chỉ vì luật pháp hoặc vì thói đời, biết sám hối thì một xã hội tốt đẹp phải
là một xã hội mà ở đó không còn sự dối trá, sự lừa lọc, sự bịp dời và nói chung là
không còn thấy những gương mặt đạo đức giả. Và chỉ khi đó con người mới thực sự
được sống một kiếp người đúng nghĩa của nó. Chúng ta cần nhớ rằng cái Nó, cái
Tôi và cái Siêu Tôi chỉ là ba con người trong một con người hiện thực bằng xương
bằng thịt có suy tư và luôn sống động. Cũng từ đó mà Freud gọi là cơ cấu toàn diện
nhân cách. Ba phạm vi, ba cấp độ, ba mặt đó được coi như là những yếu tố cấp
thành nhân cách và ba bộ phận này được xem như là ba vùng khác nhau nhưng lại
đan xen vào nhau trong một suy nghĩ, cũng như trong mọi hành động của toàn bộ
cuộc sống của mỗi người. Một nhân cách toàn diện không bao giờ chỉ có cái Nó.
Tuy nhiên, trong một lúc nào đó, cái Nó này lại trội lên như một cái gì đó chi phối
toàn bộ tâm tư và hành động của một người. Có khi chỉ trong từng việc hay từng lúc
cụ thể nào đó. Cũng như vậy, cái Tôi xã hội, cái Tôi ý thức có thể chi phối hầu hết
những suy nghĩ và hoạt động của những con người “mực thước” trong xã hội nhưng
46
cũng không thể nói rằng ở họ không còn cái gì của cái Nó. Cái Nó này có khả năng
tàng hình rất giỏi, thậm chí chủ thể cũng không hay biết chính mình cũng không
phải là mình nữa. Cũng như nhiều trào lưu triết học và xã hội học khác. Phân tâm
học cho rằng con người sống như một cái Tôi xã hội đầy đủ nhất lại là một cuộc
sống sễ nhất, đơn giản nhất vì họ chẳng cần suy nghĩ gì nhiều, mọi cái xã hội đã
nghĩ hộ họ rồi. Mọi cái đã được quy định thật là rõ ràng trong các quy phạm đạo
đức, trong những thể chế xã hội, trong hệ thống luật pháp. Cái con người mực thước
của xã hội, cái Tôi xã hội chỉ việc theo cái mẫu đó mà suy nghĩ, mà hành động là
yên tâm nhấy, là có lợi cao nhất cho những con người mực thước, cho cái Tôi xã
hội. Chỉ cần như thế là đủ trở thành những con người mẫu mực của xã hội và chắc
chắn sẽ được cả xã hội hoan nghênh và noi theo. Nhưng thực ra thì đó là một mẫu
người buồn tẻ nhất, sống phẳng lặng nhất và cũng đơn điệu nhất. Sống đơn thuần
theo những quy phạm của xã hội một cách máy móc nhiều khi hoặc là vô tình hay
cố ý bao che cho cái sai, cho tội lỗi và không ít người đã làm điều đó một cách có ý
đồ hẳn hoi. Họ không thấy rằng những quy phạm xã hội vẫn chỉ là những quy ước
chưa hoàn chỉnh và rất cần được bổ sung thưởng xuyên một cái gì đó thuộc lương
tâm con người. Người chỉ sống bằng những quy phạm xã hội đơn thuần là những
con người sống như một cỗ máy được vận hành đúng theo thiết kế cho phép mà
thôi. Rất may là con người, cái Tôi với tư cách như là một cơ cấu nhân cách toàn
diện lại không phải là một cái máy, một đồ vật, một phương tiện, một đồ dùng theo
nghĩa tầm thường nhất mà nếu như chúng ta muốn dùng từ máy để gọi thì đây là
một cỗ máy có tâm tưởng, có ước vọng, có phân biệt rạch ròi phải trái, thiện ác, tốt
xấu... một cái máy có đời sống tình cảm, đời sống người đích thực với cuộc sống
đống chứ không phải là sống nhưng thực ra đã chết, là sống nhưng lại không sống
cuộc sống người.
Như vậy, ngay từ đầu, Freud coi luân lý đạo đức là lĩnh vực liên quan đến sức
ép, sự cưỡng bức và đánh mất tự do. Theo Freud, con người sống giữa hai khả năng
lựa chọn: thứ nhất cố gắng là người hạnh phúc, sau khi vượt qua mọi ranh giới và tự
do hiện thực hóa các mong muốn của mình; thứ hai, sử dụng các thành tựu của nền
văn minh và văn hóa, thường xuyên vấp phải các hạn chế và cấm kỵ, luôn cảm thấy
47
mình là kẻ bị chèn ép, kẻ không tự do, kẻ bất hạnh.
Mặc dù có lúc ủng hộ việc từ bỏ các lợi ích của văn hóa nhằm thỏa mãn khát
vọng tự nhiên hướng đến hạnh phúc, Freud nhấn mạnh khả năng cân bằng tối ưu
giữa cái vô thức và những đòi hỏi của ý thức và nền văn hóa. Tuy vậy, ý tưởng của
ông đã từng bị sử dụng cho việc tấn công vào lĩnh vực văn hóa. Luân lý đạo đức về
bổn phận và trách nhiệm, về các quyền và nghĩa vụ, tình cảm lương tâm và xấu hổ
đã bị tuyên bố là những thiên kiến dối trá, gây trở ngại cho cuộc sống. Việc từ bỏ
các thiên kiến đó dường như có thể giúp giải thoát cho con người, làm cho con
người có hạnh phúc, tự do và được kình trọng.
Vậy việc giải quyết mâu thuẫn xung đột trong thế giới nội tâm con người diễn
ra như thế nào? Freud cho rằng, “sự hình thành ý thức đạo đức là cơ sở để xác định
con người có đạo đức, và nếu các bậc thánh tự cho mình là kẻ phạm tội, họ cũng
không nhầm lẫn, khi phải tính đến những cám dỗ để thỏa mãn xung năng mà họ
phải đối phó ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng. Vì như đã biết, cám dỗ thường chỉ
tăng lên sau một đợt ta từ bỏ liên tục, trong khi chúng có thể dịu đi, ít ra là tạm thời,
khi thỉnh thoảng được thỏa mãn” [6, 80]. Freud cũng cho rằng, nếu mọi cái diễn ra
tốt đẹp cho con người, ý thức đạo đức cũng sẽ ôn hòa và sẽ bỏ qua cho cái Tôi mọi
thứ; khi gặp tai họa thì con người lại quay về với chính mình, để nhận biết trạng thái
phạm tội của mình và lúc này đạo đức lại tăng cường kiểm duyệt. Do đó, con người
lúc này cần phải đúng mực, tiết dục và tự trừng phạt mình bằng cách tự sám hối.
Xem xét cảm giác tội lỗi như một nội dung cơ bản, như một vấn đề quan trọng
bậc nhất của đạo đức, Freud đã cố gắng chứng minh rằng, do có sự gia tăng của tội
lỗi trong quá trình phát triển của xã hội loài người, nên tiến bộ văn hóa luôn đi liền
với việc hạn chế nguyên tắc khoái lạc, và do vậy lại làm phương hại đến hạnh phúc
của con người. Cảm giác tội lỗi càng tăng, thì con người càng cảm thấy ít hạnh phúc
hơn.
Khi đề cập đến nguyên nhân dẫn đến sự hình thành mặc cảm tội lỗi. Freud cho
rằng, có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, mặc cảm tội lỗi được hình thành ở mỗi
cá nhân, nó xuất hiện đầu tiên là do con người buộc phải từ bỏ những ham muốn
bản năng nếu không sẽ càng cảm thấy lo sợ bị cái siêu Tôi phát hiện và trừng phạt.
Sự đòi hỏi của cái siêu Tôi cũng chính là sự đòi hỏi của ý thức đạo đức. Tuy nhiên,
48
Freud cho rằng sự từ bỏ ham muốn bản năng không phải là một phương pháp đầy
đủ vì ham muốn vẫn còn và không thể che dấu được cái siêu Tôi. Do vậy, việc từ bỏ
ấy không những không được khen thưởng bằng sự đảm bảo được yêu quý và tôn
trọng mà còn thay thế bằng nỗi bất hạnh bên ngoài “có tính đe dọa”; đó là mất đi
tình yêu và sự trừng phạt quyền lực từ bên ngoài dẫn đến sự căng thẳng nội tâm do
sự giằng xé của ý thức tội lỗi. Thứ hai, đó là trong trường hợp xuất hiện đồng thời
hành vi xấu và ý định xấu từ đó nẩy sinh ý thức tội lỗi và nhu cầu bị trừng phạt.
Freud cho rằng, khi giải thích hai đặc điểm của ý thức đạo đức bản thân ông cũng
còn cảm thấy nhiều khúc mắc, chưa sâu sắc triệt để và vẫn còn cái gì đó chưa chạm
tới [6, 81].
Như vậy, chúng ta thấy chính cách lý giải của Phân tâm học khác và xa lạ với
cách suy nghĩ thông thường. Thực chất của vấn đề là: lúc ban đầu, ý thức đạo đức
(đúng hơn, sự sợ hãi sau này trở thành ý thức đạo đức) chắc chắn là nguyên nhân
của sự từ bỏ ham muốn bản năng, nhưng về sau nó có mối liên quan đảo ngược từ
bỏ những ham muốn bản năng lại là nguồn gốc của ý thức đạo đức và chính ý thức
đạo đức ấy lại đòi hỏi phải có sự từ bỏ ham muốn bản năng tiếp theo. Theo ông, đây
là một giả thuyết mang tính tạm thời. Ông nói: “Như vậy, tác động của từ bỏ xung
năng trên ý thức đạo đức diễn ra theo cách cái siêu Tôi thu về toàn bộ tính hung
hăng mà chúng ta kìm nén không thể thỏa mãn, khiến cho tính hung hăng của cái
siêu tôi tăng cường (chống lại cái Tôi)” [6, 82]. Và như vậy, ý thức đạo đức lúc đầu
xuất hiện là do ham muốn bản năng bị kiềm chế và sau này nó sẽ được củng cố
bằng các kiềm chế mới tương tự. Trên cơ sở lý giải nguồn gốc của mặc cảm tội lỗi
như là nền tảng đạo đức của xã hội, ông cho rằng cần đặt nó lên trước như là một
vấn đề quan trọng nhất của sự phát triển văn hóa. Cái siêu Tôi là một thể chế và ý
thức đạo đức có chức năng giám sát và phán xét các hành động và ý đồ của cái Tôi,
thực hiện hoạt động kiểm duyệt. Cảm giác tội lỗi và sự khắt khe của cái siêu Tôi,
như vậy cũng giống như sự nghiêm ngặt của ý thức đạo đức, nó chính là nhận thức
về sự giám sát của cái Tôi mà chính cái Tôi cũng phải tuân thủ. Nói cách khác siêu
Tôi đã kiểm soát cả cái Tôi.
Từ sự nghiên cứu trên, Freud cho rằng cảm giác tội lỗi xuất hiện là cơ sở để
hình thành ý thức đạo đức. Khi cá nhân chuyển dịch sang quá trình phát sinh mang
49
tính lịch sử xã hội thì xuất hiện mặc cảm tội lỗi nhân loại và nó bắt nguồn từ mặc
cảm Ơdip. Đó chính là sự “hối hận” của những đứa con sau khi giết cha của mình.
Sự hối hận này là kết quả của tính hai mặt trong tình cảm vừa yêu vừa ghét bố; sự
ghét bỏ hận thù được thỏa mãn bởi sự chém giết. Tình yêu được thể hiện thông qua
việc dựng lên cái siêu tôi để trao trả quyền lực cho cha và làm giới hạn ngăn cản
hành động lặp lại. Và như vậy, theo Freud: “Chúng ta cuối cùng phải nắm bắt được
hai điều rất rõ ràng, vai trò của tình yêu trong sự xuất hiện của ý thức đạo đức và
tính định mệnh không tránh được của ý thức đạo đức” [6, 85]. Chính điều này đã
thể hiện sự xung đột có tính hai mặt, mang tính vĩnh cửu trong thế giới nội tâm của
con người. Đó là cuộc chiến vĩnh cửu giữa Bản năng sống (Eros) và Bản năng chết
(Thanatos). Xung đột giữa hai bản năng này xuất hiện khi con người muốn tồn tại
phải sống trong cộng đồng, mà đầu tiên chính là gia đình đã đòi hỏi ở họ những tác
phong mang tính xã hội, phải có thái độ phù hợp bề ngoài với các quy luật xã hội,
mà không cần biết tới những thái độ vô thức bên trong. Dưới lớp vỏ của những
cưỡng chế xã hội, cá nhân trở thành miếng mồi ngon cho những khuynh hướng thô
bạo của bản năng chết. Chiến tranh sẽ giải phóng những khuynh hướng này với
những thô bạo xưa cũ của chúng. Nhưng, việc thiết lập trong mỗi người một cơ chế
nhị nguyên, một bên là những lực lượng cưỡng chế của xã hội, một bên là những
động lực chân chính ở trong bản thân mỗi người, sẽ khiến cho hành vi của con
người trùng khớp với quy tắc của xã hội. Freud cho rằng để đạt điều đó, cần phải
thay thế những khuynh hướng đàn áp, gò ép của xã hội đương thời bằng sự giáo dục
chân chính để lương tâm thức tỉnh và tự giác tuân thủ những quy tắc đạo đức ấy.
Như vậy, Freud đưa ra quan niệm về một nền đạo đức xã hội mà ở đó con
người chỉ có thể theo đuổi những chân lý cao đẹp nhất, khi nào con người không
còn đặt uy quyền lên trên nền tảng sức mạnh, mà ngược lại đặt uy quyền của lương
tâm lên trên sự hiểu biết để từ đó biến cấm đoán xã hội thành nhân tính của mỗi
người. Quan niệm đạo đức ấy phải làm cho mỗi người hiểu được rằng nỗi thống khổ
và mong manh đạo đức của họ là do hậu quả của sự dồn ép, trong lúc ý thức đạo
đức phải được xây dựng trên sự tự chủ, sự sáng suốt làm chủ những mong muốn trẻ
con của mình. Hạnh phúc không thể được tìm thấy ở thái độ trốn tránh trách nhiệm
hay những trở ngại do xã hội tạo ra. Hạnh phúc là do sự Thăng hoa, hướng nguồn
50
năng lực của bản năng tình dục vô thức vào những công việc tinh thần, những công
việc khảo cứu, sáng tạo và xây dựng. Cứu cánh của giáo dục đạo đức là phải lấy
những mục tiêu đó thay thế cho đối tượng nguyên thủy như những ham muốn trẻ
con, những ham muốn ích kỷ. Vả lại, Freud nhìn nhận rằng một sự thay thế như
vậy, một sự di chuyển những khuynh hướng như vậy chỉ thực hiện được ở số ít
những người xuất chúng mà thôi. Đó là những người vốn có những thú vui cao
thượng xuất phát từ nghề nghiệp của họ là sáng tạo nghệ thuật, khoa học... Và như
vậy, khi chủ trương di chuyển những thú vui tiêu thụ tàn bạo gắn với bản năng chết
đến với những thú vui trở nên cao thượng của sự chiêm ngưỡng hay sáng tạo là một
dự định không tưởng nếu như trước đó người ta không trải qua những biến đổi sâu
xa, những thay đổi này giúp con người thoát ra khỏi những việc phi nhân và sự
vong thân (alienation) kinh tế và văn hóa của mình và nhờ vậy con người mới có
thể dồn mọi khả năng tìm hiểu chính mình, và sau đó mới có hiểu biết khoa học và
nghệ thuật.
Trong tác phẩm Bất mãn với văn hóa (1930), Freud đã phát triển tư tưởng đạo
đức của mình gắn liền với các vấn đề về văn hóa. Theo ông, nếu đạo đức gắn liền
với những yếu tố văn hóa xã hội bắt buộc mọi người phải tuân thủ, thì đôi khi hậu
quả sẽ rất khó lường, bởi vì dưới guồng máy cưỡng chế của xã hội, cá thể vẫn có
những hoạt động riêng. Vì thế, những mâu thuẫn có thể giữa những động lực chính
đáng của con người và các lực lượng cưỡng chế của xã hội có thể đưa đến chỗ con
người sẽ không còn thực sự là chính mình, mà sẽ chỉ hành động theo những gì được
xã hội tán đồng mà thôi.
Cái Tôi với tư cách là người cầm lái con thuyền nhân cách không thể điều hòa
được mâu thuẫn giữa hai lực lượng này (bản năng và văn hóa). Như vậy, con người
không thể “cảm hóa” được bản năng tiến triển theo con đường “tự nhận thức” được
hành động của mình, để điều chỉnh cho phù hợp. Vì thế, cái Tôi phải cúi đầu cam
chịu chấp nhận sự thắng thế của các thiết chế văn hóa một cách vô thức, bị động,
thậm chí cả sợ hãi nữa. Vì thế, những tác động của các thiết chế văn hóa chính là
một tiến trình đàn áp, áp đặt và xung khắc với cái Tôi. Siêu Tôi hình thành không
bình thường như thế nên nó luôn luôn chất chứa những mặc cảm tội lỗi. Để hiểu rõ
51
hơn về vấn đề này, cần phải làm sáng tỏ nội dung triết học văn hóa của Freud.
Văn hóa hiểu ở nghĩa hẹp của từ, theo Freud, là sự phát sinh cùng với sự sụp
đổ của tính tập thể “cứng nhắc”, “có tính bầy đàn” và sự xuất hiện của cá tính, “cá
tính cá nhân” với bước chuyển từ sự điều chỉnh các quan hệ theo phấn khích bản
năng sang điều chỉnh các chuẩn mực duy lý; là kết quả của sự lấn át dục vọng vô
thức. Cách điều chỉnh duy lý theo chuẩn mực đã là cái mang tính chất giá trị, bởi vì
động cơ của hành động ở đây bắt đầu từ sự thống nhất đầy mâu thuẫn, một mặt của
các xung lực tự nhiên, bản năng động vật, và mặt khác là đòi hỏi do điều kiện lao
động và môi trường xã hội quy định. Thay cho những điều cấm kỵ là các Totem, cái
điều chỉnh hành vi giờ đây là “thế giới bên trong”, đức tin, tôn giáo, đạo đức. Con
người bắt đầu chịu trách nhiệm về bản thân mình.
Theo Freud, sự chống đối lại văn hóa này có hai lý do. Thứ nhất, sự thắng lợi
của Cơ đốc giáo trước các tôn giáo đa thần đã làm xuất hiện yếu tố chống đối lại
văn hóa. Sự áp đặt các chuẩn mực đạo đức mà xã hội áp đặt để phục vụ các lý tưởng
văn hóa đã xóa bỏ hoặc ngăn cản thực hiện các nhu cầu mong muốn đạt được hạnh
phúc. Thứ hai, Ông cho rằng trong suốt các thế hệ vừa qua, con người đã đạt được
những tiến bộ đặc biệt trong các khoa học tự nhiên và kỹ thuật ứng dụng, điều đó đã
giúp con người củng cố và chế ngự tự nhiên mà trước đây họ không dám nghĩ tới do
sức của mình còn yếu. Con người tự hào về những thành công đó của mình là hoàn
toàn đúng. Tuy nhiên, theo Freud, ta nên bằng lòng rút ra kết luận từ niềm tự hào đó
là sự chế ngự thiên nhiên không phải là con đường duy nhất dẫn con người tới hạnh
phúc, cũng không phải là mục đích duy nhất của các xu hướng văn hóa. Nhưng
cũng không vì thế mà ta phủ nhận giá trị của các tiến bộ kỹ thuật đối với đời sống
và hạnh phúc của con người. Như vậy, so với chủ nghĩa hiện sinh thì Freud có thái
độ tích cực hơn đối với những giá trị của nền văn minh công nghiệp. Từ đó, Freud
đi đến kết luận, việc chế ngự tự nhiên, làm chủ nó không phải là điều kiện duy nhất
để con người đạt tới hạnh phúc. Những tiến bộ của nền văn minh vật chất không tự
thân dẫn đến những tiến bộ về mặt tinh thần, thậm chí còn đẩy họ vào tình huống bế
tắc, khủng hoảng và đau khổ hơn. Cho nên, ông chủ trương không nên đồng nhất
khái niệm văn hóa và văn minh.
Từ sự nghi ngờ giá trị tiến bộ của nền văn hóa (theo nghĩa civilisaition) đương
52
thời và cho rằng, nền văn hóa ấy không bảo vệ được hạnh phúc của con người để họ
sống tốt hơn, ông đã phân biệt sự khác nhau giữa văn hóa và văn minh: “Văn hóa”
bao gồm tổng số sự thực hiện và sắp xếp mà trên cơ sở đó đời sống chúng ta đã tiến
xa hơn đời sống các động vật tổ tiên của chúng ta và nó phục vụ cho hai mục đích:
sự che chở cho con người chống lại thiên nhiên và điều hòa các mối quan hệ giữa
con người với nhau” [6, 46].
Freud cho rằng, văn minh và văn hóa khác nhau về cơ bản. Văn minh là sự sắp
xếp hay là những khuôn mẫu định sẵn buộc mọi người sống trong cộng đồng phải
tuân theo, và như thế nó có tính hai mặt vừa lợi lại vừa hại. Lợi ích của văn minh là
tính kỷ luật trong lao động đã giúp xã hội loài người đạt được những tiến bộ trong
khoa học tự nhiên và ứng dụng những kỹ thuật vào trong hoạt động sản xuất vật
chất. Nhưng, cũng chính tính kỷ luật ấy lại là sức mạnh đàn áp và tước đoạt tự do
của con người. Trong khi đó, văn hóa lại từng bước giúp con người không chỉ chinh
phục, làm chủ tự nhiên mà còn hoàn thiện chính bản thân mình.
Theo Freud, mục đích chính của nền văn minh không phải là để sắp đặt, thiết
kế khung cảnh thiên nhiên hay đưa ra những quy định cho đời sống xã hội. Nền văn
minh phải thực hiện nhiệm vụ cao cả hơn phù hợp với nó là hòa giải bản chất tự
nhiên của chúng ta với nền văn hóa mà chúng ta đang sống. Có như vậy, xã hội văn
minh mới đảm bảo cho mỗi con người đạt tới hạnh phúc, nhưng nền văn minh
đương thời chưa đạt được mục đích ấy. Bởi vì, ngay từ đầu, nó đã lấn át những ham
muốn bản năng của con người, ngược lại để bù trừ nó phải bảo đảm sự chuyển dịch
nguồn năng lượng bản năng này hướng về những hoạt động có ích để đem lại sự
đền bù thỏa mãn.
Thực tế, Freud đã nhận thấy nền văn minh đương thời đã đặt con người trong
sự cưỡng chế của những cấm kỵ xã hội bắt họ tuân theo mà không mang đến cho họ
sự thích nghi với những từ bỏ, chắt lọc ham muốn bản năng bằng sự thăng hoa. Đại
đa số con người đang phải sống trong xã hội văn minh mà không được hưởng lợi gì
từ những thành tựu văn hóa mà xã hội ấy mang lại. Do đó, nhìn bề ngoài tưởng rằng
họ có một cuộc sống yên lành, ổn định nhưng thực tế họ bị những cưỡng chế, áp lực
xã hội buộc phải sống như vậy. Và, áp lực này nhẹ bớt đi thì áp lực khác lại xuất
hiện. Văn minh chỉ là cái vỏ bề ngoài che dấu các bản năng bị những cấm đoán xã
53
hội dồn nén mà thôi.
Khi coi quan hệ xã hội giữa con người với con người cũng là một hiện tượng
văn hóa, Freud còn cho rằng, văn hóa bao gồm cả quan điểm triết học, tôn giáo, các
lý tưởng của con người, quan niệm về sự hoàn thiện có thể có ở mỗi cá nhân, của
dân tộc và của cả loài người. Do vậy, theo ông, việc hợp nhất con người thành các
nhóm, các cộng đồng xã hội cũng như việc thay thế quyền lực của một người riêng
biệt bằng quyền lực của tập thể là một bước tiến lớn trên con đường sáng tạo văn
hóa của nhân loại. Thực chất của bước tiến này là ở chỗ, các thành viên trong cộng
đồng có khả năng hạn chế dục vọng của mình, tạo ra các chuẩn mực pháp lý, những
nguyên tắc đạo đức chung. Đến lượt mình, các chuẩn mực và nguyên tắc này lại đặt
ra yêu cầu mới cho sự phát triển văn hóa. Nhu cầu mới này luôn trong trạng thái
xung đột với tự do cá nhân. Do vậy, mọi người bắt buộc phải phát triển văn hóa để
hạn chế tự do cá nhân.
Ghi nhận sự xung đột vĩnh hằng, không thể dung hòa được giữa tự do cá nhân
và những mong muốn, khát vọng của họ đối với những đòi hỏi của văn hóa, Freud
đã áp dụng những đặc điểm tâm lý của con người riêng biệt vào lĩnh vực quan hệ xã
hội và phát triển văn hóa. Khi chuyển những đặc điểm tâm lý này áp vào lĩnh vực
giao tiếp giữa người với người, ông đã xác lập sự tương đồng giữa tiến trình văn
hóa với phát triển libido của một con người riêng biệt. Từ đó, ông coi sự thăng hoa
của những dục vọng phát sinh và bản năng con người là đặc trưng nổi bật trong sự
phát triển văn hóa nhân loại. Ở đây, cần phải nhận thấy rằng, khái niệm “thăng hoa”
đóng vai trò quan trọng trong quan niệm triết học văn hóa của Freud. Bởi vì, theo
Freud, khi bị đẩy xuống lĩnh vực vô thức, bản năng sinh học lại biểu hiện dưới dạng
“thăng hoa” ở trong mọi lĩnh vực hoạt động văn hóa, từ chính trị cho đến khoa học,
nghệ thuật, văn học… Thăng hoa có cơ sở ở sự từ chối dục vọng, từ bỏ lối sống
khắc kỷ (chuyển nguồn năng lượng tình dục cho mục đích văn hóa). Do vậy, nó làm
cho hình thức tối cao của hoạt động tâm lý (khoa học, nghệ thuật, tư tưởng) có một
vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa của con người. Cách đặt vấn đề
như vậy đã cho phép Freud đưa ra một định hướng văn hóa nhất định cho dục vọng
bẩm sinh - tình yêu và sự hiếu chiến (sống và chết).
Lý giải mối quan hệ giữa quá trình phát triển văn hóa của nhân loại và sự hình
54
thành văn hóa của cá nhân, Freud cho rằng, xét về bản chất đó là hai quá trình giống
nhau cho dù nó khác nhau về đối tượng, và quá trình văn hóa của loài người đương
nhiên là quá trình trừu tượng hơn sự phát triển của cá nhân. Nhưng, quá trình ấy có
chung mục đích: cá nhân hòa nhập vào cộng đồng và cộng đồng được tạo thành bởi
mối quan hệ giữa các cá nhân, sự hình thành văn hóa của cá nhân là kết quả phát
triển đan xen của hai khuynh hướng: khát vọng hạnh phúc mà ta thường cho là “ích
kỷ”, và khát vọng hòa nhập với những người khác trong cộng đồng mà ta gọi là “vị
tha”. Từ sự phân tích như vậy, Freud cho rằng “sự tương đồng giữa quá trình văn
hóa và con đường phát triển của cá nhân có thể được mở rộng đáng kể. Đúng thế, ta
có quyền khẳng định rằng chính cộng đồng cũng tạo ra một cái siêu tôi có ảnh
hưởng đến sự phát triển văn hóa” [6, 93]. Để làm rõ hơn vấn đề này, Freud đã mở
rộng nghiên cứu mối quan hệ này trong một trường hợp điển hình và ông cho rằng
nhân vật Chúa Jesu là một biểu tượng người Cha hoàn hảo thay thế cho người cha
trong gia đình.
Như vậy, cái siêu Tôi - văn hóa đã tự sản sinh ra các lý tưởng và đặt ra những
yêu cầu phù hợp với nó. Và như thế, mối quan hệ giữa người với người được sắp
xếp trên cơ sở đạo lý và đạo lý có thể coi như một thử nghiệm, một sự cố gắng
thông qua mệnh lệnh của cái siêu Ngã để đạt được cái mà đến nay không thể đạt
được bằng bất cứ lĩnh vực văn hóa nào khác. Và, để rồi giới luật “hãy yêu người
đồng loại như yêu chính mình” đã hạn chế khi không quan tâm đến hạnh phúc của
cái tôi. Kìm nén dục vọng vô thức của con người khiến họ bị nhiễu tâm mà chưa
bao giờ đặt câu hỏi liệu con người có khả năng tuân theo được giới luật ấy. Chỉ ra
những hạn chế của giới luật Thiên chúa giáo, Freud cho rằng nếu coi sự phát triển
của văn hóa giống như sự phát triển của cá nhân thì phần lớn các nền văn hóa, hoặc
các thời đại văn hóa, thậm chí là toàn bộ nhân loại đã trở nên “nhiễu tâm” dưới ảnh
hưởng của chính các xu thế văn hóa. Và nếu sử dụng Phân tâm học để mổ xẻ chứng
nhiễu tâm này có thể đưa ra những toa thuốc trị liệu có khả năng đạt đến lợi ích thực
tiễn lớn lao.
Về quan niệm hạnh phúc, Freud cho rằng, khát vọng hạnh phúc là mục đích
sống và lẽ sống của con người. Ông đã xuất phát từ tư tưởng của chủ nghĩa hoan
lạc, khi coi hoan lạc là cái thiện tối cao và là tiêu chí về lối ứng xử giữa con người
55
với con người. Ông đã quan niệm hạnh phúc là sự thiếu vắng những nỗi đau và
không bất mãn về những trải nghiệm cảm giác hoan lạc mạnh mẽ. Với quan niệm
này, hạnh phúc, mục đích sống của con người được ông coi là “nguyên tắc hoan
lạc” của chủ nghĩa hoan lạc. Mặc dù nguyên tắc này, theo Freud, luôn giữ vị trí
hàng đầu trong cuộc sống của con người, song việc thực hiện nó, ngay từ đầu đã đặt
con người vào quan hệ thù địch với thế giới bên ngoài, với xã hội và với văn hóa.
Với tư cách là khát vọng hoan lạc, theo Freud, hạnh phúc thực chất là một hiện
tượng ngẫu nhiên, không thể kéo dài, vì nó bao giờ cũng đối đầu với “nguyên tắc
thực tại” - cái chỉ đem lại cho con người sự bất hạnh và đau khổ. Freud cho rằng
đau khổ đe dọa chúng ta từ ba phía: thân xác chúng ta, cái rất dễ bị suy yếu và phân
hủy mà những nỗi đau và sự sợ hãi không thể ngăn chặn được, thế giới bên ngoài có
thể thức tỉnh trong chúng ta những lực lượng hùng mạnh và không thể nắm bắt
được, cuối cùng, quan hệ của chúng ta với tha nhân [8, 104]. Do con người luôn
muốn tránh nỗi bất hạnh và sự đau khổ, nên họ thường tạo ra ảo tưởng để ngăn chặn
chúng và cho phép chúng tác động trực tiếp đến thân xác mình. Song, điều đó là
chưa đủ. Cấu tạo phức tạp của trạng thái tâm lý con người, theo Freud, bắt buộc họ
phải sử dụng nhiều phương thức tác động khác, như thủ tiêu các dục vọng tâm lý
bẩm sinh, làm cho chúng thăng hoa để sáng tạo nghệ thuật, khoa học. Với quan
niệm này, ông coi lối sống ẩn dật như là phương thức để loại bỏ những đau khổ thế
tục, không tưởng và viễn tưởng, như định tạo ra một thế giới tưởng tượng, có thể
thủ tiêu được những cái không thể chịu đựng được trong thế giới hiện thực. Song,
tất cả những phương thức này, theo ông, không thể giúp con người tránh được đau
khổ và do vậy khi sử dụng chúng, con người không đạt được gì, hiện thực vẫn là
những cái không thể chịu đựng nổi đối với họ; cũng do vậy, con người đã trở thành
kẻ bị “rối loạn thần kinh chức năng” khi cố gắng cải biến thế giới. Tuy nhiên, cuối
cùng Freud chủ trương rằng, hoạt động tinh thần, trí tuệ, thẩm mỹ... không thể bù
trừ hoàn toàn nỗi thất vọng và những đau khổ của con người. Và mục tiêu của đạo
đức xã hội chân chính, theo ông, là thiết lập được những cảm giác ngày càng thân
mật, nồng ấm, cảm thông để tạo dựng sự đoàn kết, thống nhất và sự yêu thương
giữa con người với con người.
Có thể thấy, quan niệm đạo đức của Freud là khuôn mẫu về việc các kết cấu
56
đạo đức không đạt tới được đối với triết học được xây dựng dường như nhân danh
khoa học. Quan điểm của Freud không thể trụ vững trước sự phê phán của khoa
học. Khước từ hệ vấn đề giá trị, ông buộc phải sử dụng quan niệm về các nguyên
tắc duy nghiệm: nguyên tắc thực tại (cân bằng), nguyên tắc thỏa mãn, bản năng
chết, bản năng sống... Không một nguyên tắc nào trong số đó có thể được xác lập
bằng con đường kinh nghiệm. Con người sớm hay muộn cũng sẽ chết, điều này diễn
ra do những nguyên nhân sinh học, chứ hoàn toàn không phải là do bản năng chết.
“Bản năng chết” là một sự tư biện rất tối tăm, là việc nâng tính không đảo ngược
được về mặt sinh học lên thành nguyên tắc sự sống phi sinh học của con người
nhưng ông lại coi đó mới là nguyên tắc đạo đức cơ bản chứ không phải là bản năng
sống. Thực tế cho thấy, cái chết không phải là mục đích của sự sống con người. Con
người tự đặt ra cho mình những mục đích đa dạng, điều này đã được các thí nghiệm
tâm lý học xác nhận.
2.2. Một số đánh giá về tư tưởng đạo đức học của Freud
2.2.1. Nhận xét chung về tư tưởng đạo đức học của Freud
Tổng quát nhất, đạo đức học trong phân tâm học dựa trên nền tảng triết học
nhân bản phi duy lý với các cách tiếp cận rất mới và độc đáo về vấn đề con người,
về cơ cấu tâm lý cá nhân, đặc biệt về cái vô thức với tính cách là khởi nguồn,
nguyên nhân và yếu tố tác động cơ bản đến của các hành vi đạo đức của con người
trong xã hội. Quan điểm này có thể coi là một trong những cách thức phản biện đối
với chủ nghĩa duy lý cực đoan quá đề cao vai trò của ý thức trong đời sống xã hội.
Đặt vấn đề chủ khách thể trong vấn đề nhận thức tồn tại người, quan niệm
của Freud được triết học hiện sinh mời ngồi vào chỗ thượng khách và người ta thấy
nó hiện ra ở trung tâm mọi vấn đề then chốt của họ. Các nhà triết học có kỳ vọng
xây dựng học thuyết triết học mới thường có thái độ phê phán với các bậc tiền bối
của mình. Triết học hiện sinh không phải là ngoại lệ. Họ cũng có thái độ phê phán
đối với Freud, mặc dù họ không hề luận chiến công khai trong các tác phẩm của
mình. Về cơ bản, các nhà hiện sinh đánh giá cao những đóng góp của Freud đã đưa
ra một cách nhìn mới về con người cũng như phương pháp thấu hiểu mà ông vận
dụng nghiên cứu trong việc xây dựng lý thuyết về quá trình tâm lý tự thân.
Họ cũng nhận thấy rằng, quan niệm con người của Freud còn có những
57
khiếm khuyết hiển nhiên thậm chí là khó chấp nhận. C. Jaspers (1883 - 1969) là nhà
triết học hiện sinh đầu tiên quan tâm đến tư tưởng của Freud. Ông cho rằng Freud
đã quá nhấn mạnh đến sự lý giải bí ẩn vô thức trên cơ sở khám phá các biểu tượng
tình dục trong việc lý giải bí ẩn của tồn tại, đó là điều rất khó chấp nhận, vì nó
không góp phần làm rõ các cơ sở của tồn tại người. Theo ông, triết học cần có định
hướng tìm tòi các biểu tượng của tồn tại, luận giải hiện sinh về các bộ mã bao chứa
thông tin về thế giới và tồn tại người. Cùng xuất phát điểm giống như Freud,
Jaspers quan tâm đến thế giới thần thoại và cho rằng nội dung của nó cho phép tìm
ra chìa khóa để giải mã tồn tại người trong quá trình họ quan tâm tới bản thân, tới
sự kiện hiện sinh khởi thủy. Nhưng, Jaspers không chấp nhận các giải thích mang
tính tự nhiên chủ nghĩa của Freud như sự cấu thành của tâm lý học vô thức và phủ
định ý nghĩa của việc chuyển dịch các nội dung vô thức vào ý thức đối với việc
nhận thức các biểu hiện của tồn tại [12, 279]. Song, quan điểm hiện sinh của ông ở
một chừng mực nhất định là tương đồng và thậm chí là vượt qua Freud trong cách
lý giải về tồn tại người trong thế giới.
J.P. Sartre quan tâm tỷ mỉ đến việc xét lại có phê phán quan quan niệm con
người của Freud trong tác phẩm Tồn tại và hư vô (1943). Ông tán thành thử nghiệm
làm rõ cấu trúc tồn tại người, thấu hiểu mục đích của hiện sinh người theo con
đường giải mã các nghĩa ẩn náu đi liền với “cảnh lưu đầy”, với “hư vô” và các “hiện
sinh thể đau khổ” khác của Heidegger. Nhưng, quan niệm con người của Freud lại
cho phép soi rọi các giai tầng miền sâu của tâm thần bị che khuất đằng sau hoạt
động biểu tượng hóa. Và, Sartre tán thành thử nghiệm của Freud để thâm nhập vào
giai tầng miền sâu của tâm thần con người hơn tâm lý học truyền thống. Từ đó, ông
thừa nhận đóng góp của Freud trong việc xem xét “quyết định luận theo chiều dọc”
cho phép hiểu rõ hơn bộ phận cấu thành miền sâu của tâm thần con người nhưng
cũng vẫn chê trách Freud đã quy giản việc xem xét lịch sử phát triển của con người
về những cảm xúc cá nhân bắt nguồn từ thời thơ ấu, từ quá khứ thơ ấu và khước từ
việc xem xét tương lai như nhân tố có tác động không kém đến động cơ ứng xử của
con người [16, 109].
Heidegger cũng tỏ thái độ phê phán đối với các quan niệm phi duy lý về con
người trong đó có Freud. Ông cho rằng, Freud đã quá nhấn mạnh đến đam mê vô
58
thức để dẫn đến việc coi nó như nhân tố định trước bản tính người. Nếu Freud cố
gắng xem xét các bộ phận cấu thành cấu trúc của tâm thần thông qua vô thức, thì
Heidegger lại hướng vào các cấu trúc bản thể của tồn tại người từ góc độ quan niệm
tiền phản tư, tức vô thức về chúng. Freud nhận thấy cội nguồn đau khổ của con
người ở các xung đột đam mê vô thức bẩm sinh với các giá trị của văn hóa, văn
minh; Heidegger xuất phát từ những bất an hiện sinh, thực chất là từ những mâu
thuẫn nội tại của tồn tại trong thế giới, nơi mà hiện sinh người đông thời là “tính cởi
mở” và “tính khép kín”, siêu việt và hiện hữu [12, 489-490].
Alfred W. Adler (1870 – 1937) là bác sĩ, nhà tâm thần học người Áo thừa
nhận có một thế giới vô thức tiềm phục trong con người và có ảnh hưởng đến tâm
tính, nhân cách của chúng ta như Freud nêu ra, nhưng ông cũng không đồng ý với
Freud khi coi năng lực libido là lực lượng duy nhất, sống động nhất thúc đẩy sự
sống và quá trình hình thành nhân cách con người, mà còn có những lực lượng
khác, những yếu tố quan trọng khác. Theo Alder, Freud đã bị rơi vào vòng luẩn
quẩn khi cho rằng vô thức bắt nguồn từ dồn nén, dồn nén bắt nguồn từ xung đột
giữa ý thức cá nhân và chuẩn mực văn hoá, và văn hoá lại bắt nguồn từ dồn nén. Từ
đó, Adler đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa của việc thực hiện ý chí đối với con người.
Ông cho rằng, mọi động cơ của con người, bất kể tốt hay xấu, đều hướng về một
mục đích là theo đuổi sự ưu việt, theo đuổi và chinh phục mục tiêu, tiếp tục phấn
đấu và mãi mãi không dừng lại. Ông nói: “Sự nghiên cứu thấu triệt đã làm cho
chúng ta hiểu được, chỉ cần tiền đề chung nhất của chúng ta, tức là tinh thần, coi
mục tiêu ưu việt là mục tiêu có thể đạt được thì chúng ta có thể lý giải một cách tốt
nhất sự vận động đa dạng và biến hóa khôn lường của tinh thần” [12, 39]. Phê phán
Freud trong việc nhấn mạnh vai trò của tính dục, Adler chỉ ra khát vọng và sự theo
đuổi của con người hướng tới cái cao cả có khởi nguồn từ mặc cảm tự ti được hình
thành từ thời thơ ấu. Tình cảm này cũng bị dồn nén. Để bù trừ, điều chỉnh lại, một
mặc cảm khác xuất hiện để cân bằng đó là mặc cảm tự tôn. Muốn khắc phục tính tự
ti, theo ông, cần phái có sự “bù trừ” bằng ý chí hùng bá (ông mượn của Nietzsche)
khắc phục thiếu sót để đạt tới tính ưu việt. Lý giải mối quan hệ giữa tính tự ti và ưu
việt, Adler đã đưa ra khái niệm “phương thức sống” trong quá trình hình thành nhân
59
cách. Chỉ ra hạn chế của Freud là đã quá nhấn mạnh nhân tố sinh học bản năng,
Adler nhấn mạnh vai trò của hoàn cảnh xã hội, đặc biệt là gia đình đã quyết định
việc hình thành nhân cách của con người như một sự khắc phục thiếu sót của Freud.
Như vậy, có thể nhận thấy, những ý kiến đánh giá, nhận xét về Freud là rất
khác nhau. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận được những đóng góp to lớn của
Freud ở mọi khía cạnh, đặc biệt là đã có cách tiếp cận mới về con người góp phần
định dạng tư tưởng văn hóa loài người trong xã hội hiện đại. Thomas Mann đã nói:
Tôi hoàn toàn tin chắc rằng sẽ có một ngày người ta phải thừa nhận trong sự nghiệp
mà Freud cống hiến cả cuộc đời mình có một trong những viên đá tảng quan trong
để xây dựng một nền nhân loại học mới. Bằng nhiều cách khác nhau và với nền
tảng của tương lai, nền nhận loại học mới đó hôm nay đang được tạo dựng vì một
sự vững bền của loài người khôn ngoan hơn, tự do hơn
Từ nghiên cứu con người tâm lí (mà chủ yếu là tâm lí của con người bệnh tật),
trong quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng, Freud đã mở rộng sang nghiên
cứu con người xã hội và ứng dụng nó vào nghiên cứu một số lĩnh vực trong đời
sống tinh thần của con người. Việc đó đã làm cho phân tâm học ẩn chứa một thứ
triết học văn hoá, triết học xã hội độc đáo. Từ đó phân tâm học còn được coi là cơ
sở lí luận để nghiên cứu những ngành khoa học xã hội nhân văn khác nhau. Tuy
nhiên, phân tâm học cũng còn có một số hạn chế mà sau này các học trò của ông đã
chỉnh sửa, cải tạo, phê phán, để phát triển thành chủ nghĩa Freud mới. Sự chuyển
dịch từ "cổ điển" sang "hiện đại" của phân tâm học làm cho nó ngày càng có ý
nghĩa đối với triết học phương Tây hiện đại. Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng
triết học của Freud, tôi cũng ý thức được rằng, khía cạnh triết học trong phân tâm
học không tồn tại một cách cụ thể, nhưng cũng không quá chung chung. Có thể
nhận thấy rằng, vốn là học thuyết tâm lý học được Freud sử dụng vào nghiên cứu
con người và các vấn đề của đời sống xã hội khác nhau, nên phân tâm học cũng đòi
hỏi sự lý giải của triết học. Thực sự, Freud đã có những phát hiện mới cho quan
niệm về con người so với triết học truyền thống. Những điểm mới đó bao hàm một
sự hiểu biết triết học sâu sắc về tồn tại người trong thế giới hiện đại.
Quan niệm của ông về vai trò quyết định của bản năng và dục vọng vô thức,
về cuộc đấu tranh giữa bản năng sống và bản năng chết đã làm cho các luận điểm lý
60
luận của ông trở nên gần gũi với chủ nghĩa phi duy lý triết học. Mặc dù chưa nhìn
nhận văn hóa dưới góc độ lịch sử (và đây cũng chính là hạn chế của ông), nhưng
Freud đã đưa ra một quan điểm mang tính chất cách mạng là muốn đạt tới văn hóa
con người phải chấp nhận từ bỏ bản năng để hướng tới tình yêu và sự tôn trọng lẫn
nhau và đó chính là cơ sở để đảm bảo cho mỗi người có thể đạt tới hạnh phúc.
Như vậy, các nhà triết học hiện sinh đã xem xét cách tiếp cận tồn tại người
trong quan niệm của Freud với mục đích xây dựng một phương pháp mới nhằm đạt
tới mục đích của hiện sinh người và vạch rõ quan hệ đích thực giữa tồn tại và ý
thức. Do đó, những hạn chế và bế tắc của Freud trong việc lý giải tồn tại người đã
được triết học hiện sinh khắc phục và xem ra họ lý giải có vẻ thuyết phục hơn.
2.2.2. Những điểm tích cực trong tư tưởng đạo đức học của Freud
Đóng góp của đạo đức học trong phân tâm học có thể được tóm lược ở một số
điểm chính như sau:
Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, phân tâm học đã đưa ra
được một học thuyết mang tính bước ngoặt về nhân cách dựa trên mô hình nhân
cách con người như là một sự thống nhất không tách rời giữa cái Nó (vô thức), cái
Tôi (ý thức) và cái Siêu Tôi, trong đó cái Nó với khát vọng vô thức đấu tranh và
xung đột thường xuyên với cái Tôi ý thức và với cái Siêu Tôi với tư cách là những
quy tắc chuẩn mực điều tiết hành vi của con người, những điều cấm kỵ xã hội. Học
thuyết về nhân cách trong phân tâm học đã làm thay đổi khá nhiều nhận thức của
nhân loại về một loạt vấn đề như bản chất, động lực của các hành vi đạo đức, giáo
dục đạo đức, giáo dục giới tính, giáo dục nhân cách, đánh giá và lựa chọn nhân
sự,...
Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử khoa học, phân tâm học đã mở ra một
hướng nghiên cứu mới có giá trị khoa học và có khả năng ứng dụng cao trong đời
sống xã hội về lĩnh vực liên quan đến khát vọng tình dục, bản năng tính dục, mối
quan hệ giới gần gũi – một lĩnh vực đề tài vốn được coi là cấm kỵ đối với đạo đức
truyền thống, phong tục tập quán và yêu cầu của văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng
không chỉ ở các nước phương Tây, mà đặc biệt ở các nước phương Đông với mức
độ khắt khe lớn hơn nhiều.
Thứ ba, đạo đức học phân tâm học lần đầu tiên đã mang lại một nhận thức có
61
tính bước ngoặt so với trước đây rằng, con người không hoàn toàn là chủ nhân thậm
chí cả ở trong “ngôi nhà của riêng mình”, trong tâm hồn của mình, trong ý thức,
trong cái Tôi của mình. Cái Tôi của chúng ta chỉ là một trong các thang bậc tâm lý,
phát triển trong hoàn cảnh “trên đe dưới búa” một mặt bị kiểm duyệt bởi cái Siêu
Tôi hay Siêu Ngã như là những điều cấm kỵ, các chuẩn tắc xã hội và các giá trị văn
hóa, trong đó có các giá trị đạo đức, một mặt chịu tác động của các dục vọng vô
thức mang tính bản năng, trong đó có khát vọng tính dục. Khi đó “cái Tôi”, ý thức
không phải luôn luôn kiềm chế một cách thành công những bản năng vô thức. Nói
cách khác, phân tâm học đã khám phá ra vai trò của cái vô thức, cơ chế vận hành và
xung đột của quá trình vô thức trong sự thống nhất với quá trình ý thức. Phân tâm
học đã khám phá ra động cơ hoàn toàn khác – cơ chế bản năng vô thức cho các
hành vi con người, trong đó có các hành vi đạo đức ở đằng sau những quyết định có
ý thức của con người. Theo Freud và các môn đệ của ông, hành vi ở con người được
xác định không chỉ bởi ý thức, mà còn bởi cái vô thức của chính mình. Phân tâm
học đã có cách đặt vấn đề khá hợp lý về vai trò của yếu tố vô thức và về những
xung đột nội tâm trong đời sống và hành vi đạo đức của con người.
Thứ tư, đạo đức học phân tâm học một mặt đã có lý khi thừa nhận rằng bản
năng và khát vọng tính dục là hoàn toàn tự nhiên theo nguyên tắc thỏa mãn, rằng
chính việc đè nén các dục vọng tự nhiên dựa trên những cấm đoán đối với việc trực
tiếp thực hiện các nhu cầu sinh học định trước đã dẫn tới đa số bệnh tâm thần. Mặt
khác, đạo đức học phân tâm học cũng có lý khi đưa ra nguyên tắc thực tại, không
ủng hộ việc giải phóng tình cảm, giải phóng tình dục như vẫn thường bị quy kết.
Hơn nữa, phân tâm học đề xuất khả năng “điều chỉnh” lại nguồn năng lượng tính
dục cho phù hợp.
Một trong những điểm thú vị của phân tâm học là ở chỗ nó đề cập đến cơ chế
thăng hoa như là sự hiện thực hóa năng lượng vô thức tính dục được tích tụ ở “cái
nó”, sự biến đổi và định hướng lại năng lượng đó vào các khách thể ngoài tính dục,
đặc biệt vào sáng tạo nghệ thuật, khoa học và các hoạt động văn hóa, trong đó có
luân lý.
Thứ năm, phân tâm học đưa ra quan niệm rất thú vị và có lý về vai trò của cái
Siêu Tôi như là sự ràng buộc con người với các tín điều quyền uy của tôn giáo và
62
các chuẩn mực đạo đức, tình cảm trách nhiệm và lương tâm, hay với tư cách là
lương tâm của nhân cách, kẻ kiểm duyệt từ bên trong từ lập trường của đạo đức xã
hội nhằm chèn ép những ham muốn vô thức.
Thứ sáu, đạo đức học phân tâm học bênh vực chủ nghĩa nhân văn, thuyết hạnh
phúc, trong đó có sự thỏa mãn khát vọng tính dục chống lại các ràng buộc và cấm
kỵ của văn hóa và nền văn minh khiến con người bị chèn ép, bị đánh mất tự do và
trở thành kẻ bất hạnh. Coi hạnh phúc là mục đích sống của con người, đạo đức học
phân tâm học chủ trương tuân thủ “nguyên tắc hoan lạc” hay “nguyên tắc khoái
cảm”. Đó là những tư tưởng nhân bản trần thế chống lại chủ nghĩa khắc kỷ và quan
niệm tôn giáo về hạnh phúc hư ảo trong một thiên đường ở thế giới bên kia.
Thứ bảy, chống lại đạo đức học chuyên chế dựa trên sự sợ hãi và uy quyền
của kẻ chuyên chế, đạo đức học phân tâm học đặc biệt của chủ nghĩa Freud mới đề
cao đạo đức học nhân văn, coi cái thiện là sự thúc đẩy các lực lượng bản chất của
con người, còn cái ác chính là sự cản trở việc phát triển các khả năng con người.
Quan niệm này hoàn toàn phù hợp với các xu hướng nhân văn, dân chủ và tiến bộ
xã hội trong lịch sử nhân loại.
Thứ tám, phát triển quan niệm của Freud, đạo đức học phân tâm học chủ nghĩa
Freud mới đã đưa ra được quan niệm có giá trị về vai trò của vô thức cá nhân và vô
thức tập thể, về tình yêu nhân bản là cách thức tìm ra sự hài hòa mới giữa con người
và thiên nhiên, về tồn tại đích thực của con người trong mối quan hệ với cộng đồng.
2.2.3. Hạn chế của tư tưởng đạo đức học Freud
Tuy nhiên, đạo đức học trong Phân tâm học Freud cũng có một số hạn chế sau:
Thứ nhất, phân tâm học đã đề cao quá mức và tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố
vô thức trong đời sống và hành vi đạo đức của con người, mặc dù cách đặt vấn đề
khá là hợp lý và có giá trị khoa học và thực tiễn. Phân tâm học đã sai lầm ở chỗ coi
vô thức mang tính bản năng, đặc biệt là khát vọng tính dục là yếu tốc cơ bản chi
phối và quyết định các hành vi, trong đó có hành vi đạo đức của con người, và đã
không đánh giá đúng mức vai trò quyết dịnh của chủ thể và ý thức của con người
đối với các hành vi đạo đức. Hơn nữa, quan niệm này đã chưa chú ý đúng mức đến
tính lịch sử, tính văn hóa và tính xã hội của cái vô thức.
Thứ hai, đạo đức học phân tâm học có xu hướng của chủ nghĩa tự nhiện khi
63
lấy các luận điểm của sinh học, của tâm thần học từ giác ngộ của khoa học tự nhiên
làm xuất phát điểm và cơ sở cho suy tư triết học ít nhiều mang tính tư biện để tìm
hiểu tâm trí và bản tính con người, trong khi ít chú ý đúng mức đến ảnh hưởng của
các nền văn hóa và các yếu tố xã hội đến sự phát triển nhân cách và lối sống đạo
đức của cá nhân.
Thứ ba, việc đề cao quá mức chủ nghĩa hạnh phúc, chủ nghĩa khoái lạc và
nguyên tắc khoái cảm trong đạo đức học phân tâm học cũng như tính đã nghĩa của
các khái niệm được đưa ra dễ dẫn đến sự hiểu lầm và xu hướng của các lý thuyết
hiện đại chủ trương giải phóng tình dục và thực hiện các phong trào cách mạng tình
dục trong những năm 60 của thế kỷ XX.
Thứ tư, Freud coi toàn bộ văn hoá là sản phẩm của cưỡng bức thông qua sự
thăng hoa, giải toả những bức xúc, dồn nén. Cái nhìn về văn hoá của ông khá tiêu
cực. Nói chung ông coi văn hoá như là phương tiện nô dịch, tước đoạt tự do của con
người. Đây là cách nhìn rất sai lầm và thiển cận. Thực ra hoạt động sáng tạo của
con người là cội nguồn, là nền tảng trong đời sống tinh thần của con người. Chính
trong tiến trình này mà “cái tự nhiên” đã được nhân hoá và “cái văn hoá” đã được
sinh thành. Freud nghiên cứu con người ở tầm thấp với tư cách là một cá thể không
tính đến xã hội tính, tính người trong con người. Fromm đã khắc phục hạn chế này.
Ở phương diện đạo đức, Freud cũng xuất phát từ khía cạnh tính dục để luận
bàn. Ông cho rằng, từ “mặc cảm Ơdip” trong bản năng vô thức vươn lên đến cái
siêu thức trong tâm lý con người văn minh là do cấm kị của cha mẹ, phong tục tập
quán, quy phạm đạo đức, giới luật tôn giáo… Ông cho rằng, “Siêu thức là đại diện
cho mọi hạn chế về đạo đức” và là “hành động tương đối cao thượng của loài
người” [2, 257]. Ông chia cái siêu thức ra làm hai: Lương tâm và cái tôi lý tưởng.
Cái sau sẽ xác định tiêu chuẩn của hành vi đạo đức, còn cái trước chịu trách nhiệm
trừng phạt những hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức. Như thế, một cách gián tiếp,
theo Freud thì lương tâm cũng như mọi quan hệ và tình cảm đạo đức đều liên đới và
đối ứng với tình dục. Chính điều này dẫn người ta đến ngộ nhận phân tâm học là
học thuyết duy tính dục. Nhận thức duy vật lịch sử của Mác đã khám phá ra điều đó.
Freud cũng đã có lý khi ông chia khát vọng cá nhân thành “sống theo mong muốn”
và “sống theo tất yếu”. Nhưng Freud lại quên rằng, mong muốn của con người được
64
hình thành trong hoạt động tập thể của mọi người. Vì thế, về bản chất chúng không
đối lập với những tất yếu xã hội mà bao gồm cả những tất yếu ấy. Có lẽ vì thế mà
những người kế nghiệp Freud đã cố gắng thoát khỏi những bế tắc trong học thuyết
của ông. Chẳng hạn, E.Fromm đã sáng lập ra phân tâm học và tính cách dân tộc
nhằm xem xét mặt xã hội tính của con người và ảnh hưởng của văn hoá đối với sự
hình thành nhân cách. Đối với Fromm, “cái con người” sẽ bắt đầu ở nơi mà “cái tự
nhiên” kết thúc. Quan niệm như vậy đã bị xem là “xét lại” chủ nghĩa Freud, đã bị
coi là có ý đồ tổng hợp học thuyết Freud với học thuyết Mác, “xã hội hoá” học
thuyết Freud và “nhân văn hoá” học thuyết Mác. Thực ra, những tìm tòi của Fromm
đã một lần nữa chỉ ra rằng chỉ có học thuyết Mác mới đem lại cơ sở lý luận và
phương pháp đúng đắn để hiểu rõ bản chất văn hoá của con người.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Như vậy, Freud xác định cấu trúc tâm lý con người gồm 3 yếu tố: “cái Nó”
(cái vô thức), “cái Tôi” (ý thức) và “cái Siêu tôi” (yếu tố văn hóa - xã hội), trong đó
“cái Siêu tôi” là yếu tố quan trọng nhất, mà biểu hiện khách quan của nó là môi
trường văn hóa - xã hội gắn liền với các cơ chế quy định xã hội đối với hành vi con
người như các tập quán truyền thống, các điều cấm kỵ, các yêu cầu của tôn giáo, tín
ngưỡng, các quy phạm đạo đức tác động đến con người từ thời thơ ấu. Từ quan
điểm của Freud, “cái Siêu tôi”, với tính cách là yếu tố văn hóa xã hội đóng vai trò
trung gian giữa “cái Tôi” và “cái Nó”. Theo Freud, giữa “cái Tôi” và “cái Nó”, tức
là giữa ý thức và cái vô thức, thường xuyên diễn ra cuộc đấu tranh, trong đó “cái
Tôi”, ý thức không thể luôn luôn kiềm chế một cách thành công những bản năng vô
thức. Đối với Freud, hành vi của một người được xác định không chỉ bởi ý thức, mà
còn chủ yếu bởi cái vô thức ở người đó. Theo Freud, cái vô thức liên quan đến một
lớp sâu thẳm nhất trong tâm lý con người, hoạt động trên cơ sở các bản năng tự
nhiên với tính cách là những khuynh hướng khởi đầu, quy định những xúc cảm tâm
lý và ý thức về chúng, đồng thời thể hiện khát vọng tự bảo tồn mang tính cá nhân và
tính loài. Cả hai dạng khát vọng này, theo Freud, thể hiện rõ nhất ở bản năng tính
dục, trong đó khát vọng duy trì nòi giống trùng hợp với sự thỏa mãn mãnh liệt nhất
(khoái cảm). Do vậy, theo ông, trình độ đầu tiên của đời sống tâm lý tuân theo
nguyên tắc thỏa mãn và Libiđô (sự ham mê nhục dục) chính là bản chất của cái vô
65
thức. Bản năng Libiđô đó hướng đến việc duy trì đời sống chính là thể hiện bản
năng sống. Theo phân tâm học của F. Freud, trong con người có hai loại bản năng
đối nghịch với nhau, hoạt động một cách vô thức: bản năng hướng đến cuộc sống,
đến hạnh phúc, trong đó có khát vọng tính dục, bản năng sống (Eros) và bản năng
hướng đến sự hủy hoại, hướng đến cái chết, bản năng chết (Thanatos). Hoạt động
của con người bị quy định bởi sự tương tác và nhân nhượng của hai loại bản năng
đó, tương ứng với hai loại ý chí đối nghịch với nhau hoạt động một cách vô thức: ý
chí hướng đến cuộc sống và ý chí hướng đến cái chết. Những lực lượng vô thức của
tâm lý này dường như điều khiển hoạt động của con người cá nhân. Theo Freud,
trình độ khởi đầu của đời sống tâm lý này quy định nội dung của ý thức và tất cả
các hình thức của hoạt động văn hóa trong đó có đạo đức và tôn giáo. Để kiềm chế
khát vọng nguyên sơ của ý thức, “cái Tôi”, theo Freud, sẽ tìm kiếm các con đường
vòng, và có thể thay đổi các mục đích nhằm hiện thực hóa năng lượng vô thức trên
cơ sở cơ chế thăng hoa. Freud coi thăng hoa như là sự biến đổi và định hướng lại
năng lượng sinh học – tính dục được tích tụ ở vô thức vào các khách thể ngoài tính
dục, đặc biệt vào lĩnh vực văn hóa, trong đó có đạo đức. Do vậy, theo Freud, chính
“cái Siêu tôi” được hình thành với tính cách là ý thức cá nhân nhờ sự tương tác
năng lượng của cái vô thức với thực tại của cuộc sống xã hội, nhờ khát vọng đè nén
và kiềm chế tiềm năng phá hoại của cái vô thức trong con người và hướng tiềm
năng đó vào các mục đích văn hóa. “Cái Siêu tôi” được xem là kết quả thăng hoa
của cái vô thức và được tạo ra nhờ cuộc đấu tranh của ý thức với những ham muốn
vô thức và nhờ sự chuyển hóa năng lượng của những ham muốn vô thức đó vào các
dạng hoạt động văn hóa. “Cái Siêu tôi” ràng buộc và khiến con người ngày càng lệ
thuộc: nó gắn kết con người với các tín điều quyền uy của tôn giáo và các chuẩn
mực đạo đức, tình cảm, trách nhiệm và lương tâm, đồng thời khống chế con người
bằng các điều cam kết luân lý và tước đi sự thỏa mãn cơ bản và hạnh phúc. Nói
khác đi, trong cấu trúc tâm lý cá nhân, “cái Siêu tôi” đóng vai trò của kẻ kiểm duyệt
từ bên trong, của lương tâm, của nhân cách từ lập trường của đạo đức xã hội, chèn
ép những ham muốn vô thức. Do đó, ngay từ đầu, Freud coi đạo đức là lĩnh vực liên
quan đến sức ép, sự cưỡng bức và sự đánh mất tự do. Theo Freud, con người sống
giữa hai khả năng lựa chọn: cố gắng là người hạnh phúc, sau khi vứt bỏ những điều
66
kiện ràng buộc của ý thức và văn hóa, sau khi vượt qua mọi ranh giới và tự do hiện
thực hóa các mong muốn của mình; sử dụng các thành tựu của nền văn minh và văn
hóa, thường xuyên vấp phải các hạn chế và cấm kỵ, luôn cảm thấy mình là kẻ bị
chèn ép, kẻ không có tự do, kẻ bất hạnh. Mặc dù có lúc ủng hộ việc từ bỏ các lợi ích
của văn hóa nhằm thỏa mãn khát vọng tự nhiên hướng đến hạnh phúc, Freud nhấn
mạnh khả năng cân bằng tối ưu giữa cái vô thức và những đòi hỏi của ý thức và nền
văn hóa. Tuy vậy, ý tưởng của ông đã từng bị sử dụng cho việc tấn công vào lĩnh
vực văn hóa. Đạo đức liên quan đến bổn phận và trách nhiệm, các quyền và nghĩa
vụ, tình cảm, lương tâm và xấu hổ đã bị tuyên bố là những thiên kiến dối trá, gây
trở ngại cho cuộc sống. Việc từ bỏ các thiên kiến đó dường như có thể giúp giải
thoát cho con người, làm cho con người có hạnh phúc và tự do. Các cách tiếp cận
này đã đề cao vấn đề lương tâm, tính nguyên tắc và tính không khoan nhượng của
lối sống đạo đức của con người cá nhân, đặc biệt tôn vinh tinh thần dám chịu trách
nhiệm về sự lựa chọn của mình. Tính độc đáo của cách tiếp cận đạo đức học của
phân tâm học thể hiện ở chỗ đặt ra những vấn đề mới có ý nghĩa khoa học sâu sắc
nhằm làm sáng tỏ nguồn gốc, động lực và bản chất của các hành vi con người, đặc
biệt khẳng định khả năng phân tích cấu trúc tâm lý của con người và vai trò của yếu
tố vô thức, trong đó có yếu tố tính dục như là một trong những nguồn gốc cơ bản
67
của các hành động con người.
KẾT LUẬN
Tóm lại, từ sự bất mãn với nền văn hóa và đạo đức của xã hội đương thời, cụ
thể là lối sống và quy tắc chuẩn mực của xã hội quan phương Thanh giáo, Freud đã
dự cảm rằng, những ức chế bởi cấm đoán sẽ là nguyên nhân dẫn đến bệnh tâm thần
phân liệt xét trên phạm vi toàn xã hội, là căn nguyên dẫn đến tội ác và chiến tranh.
Nói chung, bao trùm lên học thuyết phân tâm học trong lĩnh vực đạo đức là tư
tưởng phản đối luân lý học, phủ nhận cái gọi là siêu hình học đạo đức. Bản thân
Freud cũng luôn bày tỏ thái độ dè dặt đối với các quan điểm triết học. Ông thường
khẳng định học thuyết của mình không phải là khoa học triết học, mà là khoa học cụ
thể, dựa trên những sự kiện cụ thể và quan sát thực tế của y học lâm sàng, của tâm
thần học, dân tộc học, sử học… Ngược với “sự khiêm tốn” của Freud và dù sự lý
giải dựa trên phương pháp Phân tâm học về đạo đức mà ông tự nhận thấy còn đôi
chỗ khó hiểu và chưa rõ ràng, thì vẫn không thể phủ nhận, Freud đã đưa ra được
một quan niệm đạo đức mới dựa trên lập trường Phân tâm học, đó là ẩn đằng sau cái
thô thiển, thấp hèn của con người là những mong ước cao cả, là sự khát khao hướng
thiện mà con người muốn đạt tới thì phải dũng cảm nhận ra và vượt qua nó. Mọi
quy tắc, chuẩn mực đạo đức chỉ có thể thực hiện dựa trên năng lực hiểu biết của con
người để từ đó trước khi hành động phải suy xét tránh mặc cảm tội lỗi và hối hận.
Việc chủ trương thiết lập nền đạo đức xã hội dựa trên sự đoàn kết và yêu thương lẫn
nhau giữa con người với nhau trong xã hội là một hướng đi đúng mà mọi người
chân chính đều mong muốn đạt đến.
Freud chưa bao giờ nhận mình là tác giả một học thuyết đạo đức, một lý
thuyết giáo dục, thậm chí cũng không dám nhận mình là nhà xã hội học, nhưng việc
ông sử dụng quan niệm vô thức để lý giải các hiện tượng xã hội đã làm cho nó có
một giá trị lớn lao. Nhưng quan trọng hơn, lý thuyết ấy giúp con người càng nhận
thức rõ hơn bản chất của mình. Nhấn mạnh tính ác trong con người, Freud đã tuyên
chiến với nền đạo đức giả của xã hội đương thời. Đóng góp của Freud trong quan
niệm đạo đức chính là cần phải thừa nhận trong con người dù không thể tốt hơn,
bên cạnh bản tính thiện còn có tính ác, có như vậy mới làm cho con người trở nên
dễ hiểu và có thể nhận thức đúng đắn hơn. Bằng những khảo nghiệm khoa học,
Freud đã cho thấy cái ác, cái ích kỷ mù quáng, cái phá hoại nằm sâu đến đâu trong
bản thể con người, là một đe dọa lớn thế nào cho văn hóa, văn minh loài người.
68
Kinh nghiệm lịch sử đắng cay của thế kỷ XX đã chứng nhận sự anh minh quả cảm
của ông. Không phải ngẫu nhiên mà tất cả các chính thể phát xít và toàn trị tồn tại
trên bạo lực và mê hoặc quần chúng đều thù ghét và bài trừ phân tâm học của
Freud. Trong quan niệm văn hóa, bàn về xã hội mà ông mong ước, nơi trí tuệ sẽ
được dành ưu tiên tuyệt đối, Freud nói rằng xã hội ấy cũng sẽ xem “tình yêu con
người” là một trong những mục tiêu chính của mình. Tất cả những vấn đề đó được
mở rộng và phát triển đã làm cho đời sống tinh thần của con người thêm phong phú
nhờ những quan niệm nền tảng về cái vô thức.
Như vậy, từ khám phá ra vai trò của vô thức và vận dụng nó vào lý giải cấu
trúc của tồn tại người, Freud đã mở ra một cách tiếp cận mới, tương ứng với môn
khoa học mới trong việc nghiên cứu con người như một thực thể văn hoá mà cạm
bẫy lớn nhất chính là thừa nhận thú tính trong con người mà trước đó 17 thế kỉ
Augustino đã cảnh tỉnh: con người muốn làm người, trước hết phải thừa nhận thú
tính trong bản thân mình. Thừa nhận bản tính ác trong con người với những ham
muốn dục vọng luôn luôn trỗi dậy trong con người, để đề phòng và điều chỉnh hành
vi cho phù hợp nhằm vươn tới tính Người đích thực. Trên cơ sở những dữ liệu ấy,
Freud xem con người như là sản phẩm của tạo vật, cùng một lúc hội tụ đủ bản tính
vừa thô sơ, phức tạp, vừa bốc đồng, vừa duy lý, vừa ích kỉ vừa quảng đại, thoái hoá
và sáng tạo, con và người. Freud đã cảnh tỉnh thú tính - phần hạn chế - trong con
người để từ đó chúng ta tìm ra cách chữa.
Suốt cả cuộc đời, ông đã khảo cứu sự yếu đuối của con người mà không ghê
tởm, khinh thường. Freud đấu tranh để giúp con người tìm cách vượt lên trên thú
tính man rợ ẩn náu ở bên trong bản tính con người cùng với nhân tính của nó. Cách
lý giải đó giúp chúng ta có nhận thức đầy đủ hơn, nghiêm túc hơn về bản thân mình,
về nhân tính của mình, thiết lập cho mình những cấm đoán xã hội để sống có trách
69
nhiệm hơn, để vươn tới Người hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Phóng Đồng (1994), Lịch sử triết học phương Tây hiện đại, NXB
CTQG, Hà Nội.
2. Sigmund Freud (1969), Nghiên cứu Phân tâm học, NXB An Tiêm, Sài
Gòn.
3. Sigmund Freud (2001), Nguồn gốc của văn hoá và tôn giáo, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Sigmund Freud (2002), Phân tâm học nhập môn, NXB ĐHQG Hà Nội,
Hà Nội.
5. Sigmund Freud (2005), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ,
NXB Thế Giới, Hà Nội.
6. Sigmund Freud (2009), Cảm giác bất ổn với văn hóa, NXB Thế giới,
Hà Nội.
7. Sigmund Freud (2009), Tâm lý học đám đông và phân tích cái tôi con
người, NXB Tri Thức, Hà Nội.
8. Tạ Thị Vân Hà (2015), “Tư tưởng triết học của S.Freud”, Luận án Tiến
sỹ, Trường Đại học khoa học XH&NV.
9. Nguyễn Vũ Hảo (2013), “Đạo đức học phương Tây đương đại: Tổng
quan các trào lưu và vấn đề chủ yếu”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã
hội (4), tr. 32-41.
10. Nguyễn Vũ Hảo (2013), Báo cáo tổng hợp: Một số quan niệm đạo đức
học phương Tây hiện đại và ảnh hưởng của chúng ở Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay”, Mã đề tài: QGTĐ.09.16, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
11. Nguyễn Vũ Hảo (2017), Đạo đức học phương Tây hiện đại – Một số
học thuyết chính và những ảnh hưởng của chúng ở Việt Nam, NXB Thế
giới.
12. Đỗ Minh Hợp (2014), Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó
đến nhân học triết học phương Tây hiện đại, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Huyên (2013), “Phân tâm học và văn học nghệ thuật”,
70
Tạp chí phục vụ lãnh đạo và quản lý (7), tr. 37-42, (8), tr. 23-28.
14. Carl Gustav Jung (2007), Thăm dò tiềm thức, NXB Tri Thức, Hà Nội.
15. Châu Khê (2011), “Luận bàn về tính thiện ác - Học thuyết của
Sigmund Freud”, Tạp chí Khoa học & Tổ quốc (10), tr.19-25.
16. Vũ Đình Lưu (1969), Phân tâm học áp dụng vào các ngành học vấn,
NXB Gió, Sài Gòn.
17. Diệp Mạnh Lý (2002), Sigmund Freud, NXB Thuận Hóa, Huế.
18. Phan Trọng Ngọ (2003), Các thuyết phát triển tâm lý người, NXB Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
19. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia,
71
Hà Nội.