TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC
NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG
TƯƠNG TÁC TÂM LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Hồ Chí Minh, 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC
NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG
TƯƠNG TÁC TÂM LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. KIỀU THỊ THANH TRÀ
TP. Hồ Chí Minh, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Người nghiên cứu xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng người nghiên cứu. Các số liệu sử dụng phân tích trong đề tài có nguồn
gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong đề tài do
người nghiên cứu tự tìm hiểu, phân tích khách quan. Các kết quả này chưa từng được
công bố trong bất kỳ đề tài nghiên cứu nào khác.
Tác giả
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Mục lục
Danh mục các kí hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 2
4. Giả thuyết nghiên cứu 2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
6. Giới hạn đề tài 3
7. Phương pháp nghiên cứu 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN 4
1.1 Tổng quan các công trình nghiên cứu về tương tác tâm lý trong hoạt động học tập
của sinh viên 4
1.2. Một số khái niệm cơ bản 16
1.3. Một số đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên 36
1.4. Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của thanh niên sinh viên 43
Tiểu kết chương 1 48
Chương 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TƯƠNG TÁC TÂM LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 49
2.1 Thể thức nghiên cứu 49
2.2. Kết quả nghiên cứu sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. HCM 58
Tiểu kết chương 2 78
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 79
Kết luận 79
Kiến nghị 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
PHỤ LỤC 85
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nội dung STT Chữ viết tắt
Độ lệch chuẩn 1 ĐLC
Điểm trung bình 2 ĐTB
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh 3
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
STT Tên bảng Số trang
1 33 Bảng 1.1. Đối chiếu khác biệt giữa Học và Hoạt động học (tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm)
2 Bảng 2.1. Đặc điểm khách thể nghiên cứu 49
3 Bảng 2.2. Phân tích hệ số tin cậy 51
4 57 Bảng 2.3. Mức độ biểu hiện sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh trường đại học Sư phạm TP. HCM
5 58 Bảng 2.4. Mức độ biểu hiện sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh trường đại học Sư phạm TP. HCM
6 60
Bảng 2.5. Biểu hiện nổi bật ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
7 62
Bảng 2.6. Mức độ biểu hiện ở mặt nhu cầu ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
8 63
Bảng 2.7. Biểu hiện nổi bật ở mặt nhu cầu trong hoạt động học tập của sinh viên với sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
9 64
Bảng 2.8. Mức độ biểu hiện ở mặt tương hợp và ảnh hưởng tâm lý ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
10 65
Bảng 2.9. Biểu hiện nổi bật ở mặt tương hợp và ảnh hưởng tâm lý ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
11 67
Bảng 2.10. Mức độ biểu hiện ở mặt tần số tương tác ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
12 68
Bảng 2.11. Biểu hiện nổi bật ở mặt tần số tương tác ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
13 70
Bảng 2.12. Mức độ biểu hiện ở sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
14 71
2.13. Biểu hiện nổi bật ở sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên với sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
15 71 Bảng 2.14. Mức độ tương tác tâm lý trên lớp học giữa sinh viên và sinh viên qua các biểu hiện tương tác
16 73
Bảng 2.15. Tương quan giữa các biểu hiện tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM
17 75 Bảng 2.16. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên theo năm học
18 76 Bảng 2.17. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên theo giới tính
19 76 Bảng 2.18. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên theo khối ngành
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
K. Marx từng nói: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ”. Con người sống
trong xã hội luôn có sự tương tác với cá nhân, với nhóm, hình thành các mối quan hệ
xã hội, mối quan hệ liên nhân cách thông qua sự tương tác lẫn nhau. Thật vậy, con
người sống trong xã hội không thể thiếu đi sự tương tác với người khác. Sự tương tác
xã hội là điều kiện không thể thiếu để một nhân cách hình thành và phát triển.
Ở bất cứ nơi đâu, con người đều cần sự tương tác với người khác. Trường học
cũng không ngoại lệ. Sự tương tác trong phạm vi trường học có những tính chất đặc
thù nhất định. Nhờ vào sự tương tác mà hoạt động dạy và hoạt động học mới được
diễn ra và đạt được mục đích.
Hiện nay ở hầu hết các trường đại học, việc học tập theo học chế tín chỉ được
nhân rộng, đây là phương pháp học tập tiên tiến với những ưu điểm nổi trội như tính
mềm dẻo, tính chủ động cao của người học, đáp ứng nhu cầu học tập của người học.
Tuy nhiên cũng phát sinh nhiều vấn đề như quản lý mục tiêu đào tạo, quản lý hoạt
động của giảng viên, hoạt động học tập của sinh viên,... Đối với vấn đề về quản lý
hoạt động học tập của sinh viên, việc phải theo dõi và có những cách thức hỗ trợ sinh
viên giúp cho việc tương tác tốt hơn nhằm đạt hiệu quả đào tạo là một vấn đề cấp
thiết.
Ngày nay, giáo dục đào tạo được chú trọng không phải về số lượng mà về chất
lượng. Trong khi đó, thời gian học tập của sinh viên không nhiều. Việc học theo học
chế tín chỉ khiến cho sinh viên tiếp xúc với nhiều cá nhân, nhiều nhóm khác nhau,
một mặt giúp sinh viên có thể giao lưu với nhiều nhóm bạn nhưng chính điều này lại
hạn chế sự tương tác của sinh viên đối với nhau và đối với nhóm bạn cũ. Việc hình
thành nên sự tương tác khi phải thay đổi quá nhiều nhóm bạn có thể gây cản trở nhất
định đến sự hình thành các mối quan hệ bạn bè, đặc biệt là đối với những cá nhân hạn
chế về khả năng thích nghi, giao tiếp,... Cùng với yêu cầu và mục đích của việc học
tập theo học chế tín chỉ khi đòi hỏi tính chủ động cao của người học, việc tương tác
1
tâm lý càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Khi việc tương tác trong hoạt đọng học
tập của sinh viên được nghiên cứu để biết rõ thực trạng cũng như có những cách thức
tác động cải thiện nó phù hợp thì mới góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo.
Hiện nay, đã có những nghiên cứu liên quan đến vấn đề tương tác của sinh
viên. Tuy nhiên, sự tương tác mới chỉ dừng lại trong hoạt động dạy là chủ yếu, việc
nghiên cứu về vấn đề tương tác giữa sinh viên với sinh viên vẫn là một mảng đề tài
bị bỏ ngỏ, hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu về vấn đề này. Vì thế, người nghiên
cứu chọn đề tài “Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại
học Sư phạm TP. HCM” nhằm nghiên cứu sự tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh
viên trong môi trường đại học.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư
phạm TP. HCM.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư
phạm TP. HCM ở mức trung bình trở lên;
- Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư
phạm TP.HCM biểu hiện ở tần số tương tác là cao nhất;
- Không có sự khác biệt ý nghĩa khi so sánh tương tác tâm lý trong hoạt động
học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM theo các tham số nghiên
cứu.
2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận
- Tìm hiểu các công trình nghiên cứu trước đây về tương tác tâm lý giữa sinh
viên với sinh viên trong hoạt động học tập
- Làm rõ khái niệm: tương tác, tương tác tâm lý, hoạt động học tập.
5.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Khảo sát thực trạng tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
sư phạm trường Đại học Sư phạm TP. HCM trên các mặt: sự tương hợp tâm lý; sự
tương hợp, ảnh hưởng tâm lý; tần số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành
vi giữa sinh viên với sinh viên.
6. Giới hạn đề tài
6.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu tương tác tâm lý trong hoạt động học tập giữa sinh viên
với sinh viên, không nghiên cứu tương tác tâm lý giữa sinh viên với các lực lượng
khác trong nhà trường.
Đề tài chỉ nghiên cứu tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
xét trên một số khía cạnh: nhu cầu tương tác; sự tương hợp và ảnh hưởng tâm lý; tần
số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi.
6.2. Về khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: 300 sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, báo, tạp chí, phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp quan sát; phương pháp điều
3
tra bằng bảng hỏi; phương pháp toán thống kê.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
1.1 Tổng quan các công trình nghiên cứu về tương tác tâm lý trong hoạt động
học tập của sinh viên
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Mối quan hệ liên nhân cách - Mối quan hệ xã hội - Tương tác tâm lý
- Mối quan hệ liên nhân cách
Lên quan đến mối quan hệ liên nhân cách, trên thế giới đã có những nghiên
cứu về nó. B.G. Ananhev đưa ra vấn đề thuộc nguyên tắc về tính chất hoạt động các
mối quan hệ của nhân cách với thế giới và ông phân bố kiểu mẫu của nhân cách theo
quá trình phát triển trong quá trình sống. Ông đã hoàn thiện và vượt qua một cách
triệt để từ vấn đề về cấu trúc các yếu tố tâm lý trong nhân cách đến vấn đề về cách tổ
chức nhân cách của các mối quan hệ với thế giới, chú ý tới quá trình tiến triển của các
thuộc tính cuối cùng. Tuy nhiên, việc thử thực hiện tiếp cận mang tính hệ thống đến
việc nghiên cứu nhân cách đã mâu thuẫn với phương thức tĩnh tại của các kết cấu
phân tích từng đoạn trong cuộc sống của dạng xã hội tâm lý trong tâm lý học xã hội
(Dẫn theo Cao Thị Nga, 2016).
Robert C. Liden và Sandy J. Wayne (2000) đã có nghiên cứu “Nghiên cứu về
vai trò trung gian của sự trao quyền tâm lý đối với mối quan hệ giữa việc làm, mối
quan hệ liên cá nhân và kết quả làm việc”. Mục đích của cuộc điều tra là xây dựng
và thử nghiệm một mô hình trao quyền cho phép kết hợp đặc điểm công việc và các
mối quan hệ trao đổi xã hội trong việc giải thích các kết quả công việc (Robert &
Sandy, 2000).
Các nhà nghiên cứu đã xác định mối quan hệ giữa các cá nhân với các đồng
nghiệp như là một yếu tố quan trọng trong hành vi làm việc, có ảnh hưởng tích cực
đến kết quả công việc. Những kết quả này chỉ ra rằng mặc dù thái độ về bản thân công
trình có thể bị chi phối bởi các nhận thức về đặc điểm công việc (khi chúng hoạt động
thông qua trao quyền), nhưng các mối quan hệ giữa các cá nhân có ý nghĩa quan trọng
4
đối với việc tổ chức và thực hiện công việc, trong đó sự hỗ trợ và hướng dẫn mà người
ta nhận được từ cấp trên và đồng nghiệp có ý nghĩa quan trọng (Robert & Sandy,
2000).
Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy các đồng nghiệp có những tác động tích
cực đến hiệu suất làm việc của một cá nhân. Trong một môi trường mà ảnh hưởng
của việc ra quyết định đã được chuyển từ các nhà quản lý chính thức sang các thành
viên trong nhóm làm việc, sự hỗ trợ và hướng dẫn từ đồng đội đã hỗ trợ các cá nhân
trong việc đạt được hiệu suất cao hơn. Điều thú vị là sự hỗ trợ và hướng dẫn của cấp
trên trực tiếp không liên quan đến việc thực hiện công việc (Robert & Sandy, 2000).
Như vậy, mối quan hệ liên nhân cách chủ yếu được tiếp cận trên 2 khía cạnh
chính: thứ nhất là nghiên cứu về bản chất các mối quan hệ liên nhân cách; thứ 2 là
gắn mối quan hệ liên nhân cách với các yếu tố khác để mô tả sự ảnh hưởng, tác động
qua lại giữa chúng.
- Mối quan hệ xã hội
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến mạng lưới mối quan hệ xã
hội. Nhà tâm lý học J. L. Moreno được coi là người có công đầu tiên phát minh ra
phương pháp phân tích mạng lưới quan hệ xã hội bằng việc đề xuất phương pháp và
kĩ thuật trắc lượng xã hội ngay từ tác phẩm “Ai sẽ là người sống sót” (Who Shall
Survive, 1934). Sau khi phương pháp trắc lượng xã hội ra đời, các nhà nghiên cứu đã
không ngừng phát triển các phương pháp phân tích mạng lưới quan hệ xã hội mới. Có
thể kể đến các lý thuyết tiêu biểu trong phân tích mạng lưới quan hệ xã hội như lý
thuyết “sức mạnh của liên kết yếu” của Granovetter, lý thuyết “lỗ hổng cấu trúc” của
Ronald Burt, lý thuyết “tính đồng dạng” của Miller McPherson, Lynn Smith-Lovin
5
và James M. Cook,... (Dẫn theo Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2015).
Một số nghiên cứu khác liên quan đến mối quan hệ xã hội như:
Một số nghiên cứu khác về mối quan hệ xã hội như: nghiên cứu “Quan hệ xã
hội và sức khỏe” của James S. House, Karl R. Landis, Debra Umberso; “Mối quan
hệ và vai trò của nó trong việc sử dụng hệ thống quản lý tri thức”,...
Như vậy, quan hệ xã hội là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu trên thế giới.
Mối quan hệ xã hội được tiếp cận bằng cách đề ra các phương pháp nghiên cứu, đồng
thời có những công trình nghiên cứu cụ thể về mối quan hệ xã hội, gắn nó với một
nhiệm vụ thực tiễn cần giải quyết.
Tương tác tâm lý
* Nghiên cứu tương tác ở một số lý thuyết
Thuyết hành vi nghiên cứu về tương tác của cá nhân với môi trường dưới dạng
sự tác động qua lại giữa các kích thích của tác nhân bên ngoài với phản ứng của cá
thể theo cơ chế S - R. Các nhà tâm lý học theo trường phái này hầu như không quan
tâm đến tâm lý, ý thức của chủ thể mà chỉ quan tâm đến hành vi tồn tại của con người.
Hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của môi
trường bên ngoài. Hành vi được quy gọn vào cặp đôi duy nhất: Kích thích (S) - Phản
ứng (R) để giải thích bản chất, cơ chế của sự phát triển tâm lý của con người và động
vật. Sự phát triển của tâm lý học hành vi đưa đến các nhánh hành vi khác nhau trong
lý thuyết hành vi (Cao Thị Nga, 2016, tr.7).
Đối với thuyết nhận thức, J. Piaget (1896 -1980) và các cộng sự của ông là
những người sáng lập ra thuyết tâm lý học nhận thức theo nguyên lý cân bằng hóa.
Cân bằng tâm lý chính là sự bù trừ do các hoạt động của chủ thể trả lời các kích thích
từ ngoài vào. Khi cơ thể có một nhu cầu nào đó, con người rơi vào trạng thái mất cân
bằng. Khi đó, chủ thể phải nỗ lực để tạo ra sự cân bằng mới. Trong đời sống tâm lý
cũng vậy, muốn làm cho trẻ nhận thức, tư duy, suy nghĩ tích cực thì phải đặt trẻ vào
trạng thái mất cân bằng hay còn gọi là tình huống có vấn đề để trẻ giải quyết, tạo ra
sự cân bằng về nhận thức. Theo lý thuyết này, tương tác là quá trình điều chỉnh các
chức năng tâm lý của cá nhân theo cơ chế đồng hóa và điều ứng. Đồng hóa là quá
6
trình chủ thể tiếp nhận kích thích từ khách thể vào cấu trúc hoạt động đã có (xử lý các
tác động bên ngoài nhằm đạt một mục tiêu nào đó). Điều ứng là quá trình chủ thể đem
cấu trúc hoạt động đã được tạo ra trước đó thích ứng theo kích thích của khách thể.
Trong các nghiên cứu của mình, J. Piaget cũng nhấn mạnh đến sự tương tác và chuyển
giao xã hội. Đặc biệt, trong nghiên cứu quá trình phát triển trí tuệ trẻ, học thuyết nhấn
mạnh cơ chế phát triển các cấu trúc nhận thức và trí tuệ của trẻ qua các giai đoạn lứa
tuổi là kết quả của sự tương tác giữa trẻ với thế giới đồ vật và xã hội (Cooley, 1902).
Trong quá trình nghiên cứu tâm lý con người, nhà tâm lý học nhân văn C.
Rogers (1902 – 1987) nhấn mạnh đến quá trình thiết lập, tạo lập mối tương giao. Ông
quan niệm, tương tác giữa các cá nhân sẽ thuận lợi, hiệu quả khi tạo được mối tương
giao. Mối tương giao với ông, nghĩa là khi ta tạo được điều kiện thuận lợi để người
tương tác có thể truyền thông cho ta những tình cảm, thế giới nội tâm của họ; là khi
ta biết lắng nghe họ nói để hiểu họ, đồng cảm, chia sẻ được với họ,… thì ta càng đạt
tới hiệu quả của quá trình tương tác. Lý thuyết của ông được ứng dụng hiệu quả trong
tâm lý trị liệu cũng như hữu ích với mọi mối tương giao như cha mẹ - con cái; giảng
viên - sinh viên (Rogers, 1995).
Trong quá trình nghiên cứu về sự phát triển tâm lý con người, E. Erikson quan
niệm rằng, con người là sản phẩm của xã hội và cho rằng, con người trong quá trình
phát triển thường xuyên phải đối mặt với các khủng hoảng là do không thiết lập được
sự cân bằng trong quá trình tương tác giữa cá nhân với xã hội. Ông nổi tiếng với
thuyết khủng hoảng tính đồng nhất; tám khủng hoảng cuộc sống. Trong nghiên cứu
của mình, ông đã chia sự phát triển đời sống tâm lý con người thành 8 giai đoạn gắn
7
liền với quá trình tương tác của cá nhân với xã hội (Cao Thị Nga, 2016, tr.9).
* Tương tác trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học xã hội, xã hội học
Các nhà Tâm lý học xã hội, xã hội học như: G. Mead, Ch. H. Cooley (1863 -
1929), G. H. Goffmen (1922 - 1982), Herber Blumer (1900 - 1987) lại nghiên cứu
tương tác trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân; cá nhân với nhóm xã hội. Điển
hình, Ch. H. Cooley đã quan tâm nghiên cứu sự hình thành hành vi cá nhân trong các
mối tương tác xã hội. Từ các quan sát và thực nghiệm về sự tương tác xã hội giữa các
cá nhân và giữa cá nhân với nhóm, Ch. H. Cooley đã hình thành lý thuyết tương tác
nổi tiếng: “Tôi soi gương” hay là “cái tôi nhìn trong gương”. Theo đó, sự hình thành
“cái tôi”, tức là ý thức bản ngã của mỗi người là kết quả của sự tri giác người khác,
đọc được nhận thức, thái độ của người khác trước các tác động của mình (Cooley,
1902), (Mead, 1934).
Geogre Herbert Mead, nhà tâm lý học hành vi xã hội người Mỹ là một trong
những người sáng lập ra thuyết “tương tác biểu trưng”. Ông đã xây dựng và phát triển
khái niệm “cái tôi”, “nhân cách”, “tương tác”, “biểu tượng” để nghiên cứu đặc điểm
và tính chất đặc thù của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Theo hướng nghiên cứu
này G. Mead đã phát hiện ra vai trò của sự thấu hiểu hành vi của người khác và thông
qua sự thấu hiểu đó, cá nhân thay đổi nhận thức, hành vi ứng xử cho phù hợp, từ đó
hình thành và phát triển ý thức bản ngã (cái tôi) thông qua sự tương tác xã hội với
người khác (Cao Thị Nga, 2016, tr.10).
Tương tác ở các nhà tâm lý học Liên Xô:
Lý thuyết này được khởi xướng bởi các nhà tâm lý học Liên xô trước đây mà
đại diện là L. X. Vưgotxki (1896–1934), A. N. Leonchiep (1903–1979), X. L.
Rubinstein (1889 - 1960), B. Ph. Lomov,... Lý thuyết này quan niệm con người là tồn
tại xã hội; khi xem xét hành vi tâm lý phải xét trong hoạt động, hoạt động là chìa khóa
để tìm hiểu, đánh giá, hình thành, phát triển tâm lý; ý thức được sản sinh trong quá
trình con người hoạt động, giao lưu với xã hội (Dẫn theo Lomov, 2001).
L. X. Vưgotxki - nhà tâm lý học vĩ đại với học thuyết lịch sử - văn hoá về các
chức năng tâm lý cấp cao ở người, đã chỉ ra, tương tác xã hội là quy luật tất yếu của
8
sự hình thành và phát triển các chức năng tâm lý, văn hóa của cá nhân. Trong đó, yếu
tố quan trọng là sự thấu hiểu nghĩa khách quan của hành động do người khác tác động
và từ đó hình thành ý chủ quan của mình. Cũng từ nghiên cứu của mình, ông đã chỉ
ra khái niệm “vùng phát triển gần nhất”, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho dạy học
tương tác, dạy học phát triển và dạy học tích cực (Cao Thị Nga, 2016, tr.10).
B. Ph. Lomov cho rằng, tương tác là hình thái đặc trưng của sự tác động qua
lại giữa người này với người khác, trong quá trình tương tác diễn ra sự trình diễn thế
giới nội tâm giữa các chủ thể. Theo ông, cùng với hoạt động có đối tượng, tương tác
giữa chủ thể với chủ thể là phương thức tồn tại và biểu hiện lối sống của mỗi cá nhân
(Dẫn theo Lomov, 2001).
* Tương tác tâm lý trong hoạt động dạy - hoạt động học
Ngay từ thời cổ đại, Heraclitus (540 - 480 TCN) nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại
đã đưa ra quan điểm: “Giáo dục, dạy học không phải là rót kiến thức vào đầu người
học như người ta rót chất lỏng vào chai, thông qua cái phiễu. Thực chất giáo dục là
thắp lên ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra những con đường, tự mình
chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi trên con đường đã chọn, dưới ánh
sáng của ngọn đuốc ấy” (Cao Thị Nga, 2016, tr.11).
Từ những thập niên 70, nhất là những năm 90 trở lại đây, dạy học nhấn mạnh
mối tương tác giữa người học - người học (dạy học hợp tác) được nghiên cứu nhiều
và rất phổ biến. Có thể kể đến các tác giả với các công trình nghiên cứu theo hướng
này như E. Aronson, R. E. Slavin, J. Cooper, D. W. Johnson và R. T. Johnson.... E.
Aronson (Mỹ) với mô hình lớp học Jigsaw đầu tiên (1978) đã có những đóng góp lớn
trong việc hoàn thiện các hình thức dạy học hợp tác. Nhiều công trình nghiên cứu của
ông cho thấy, thành tích cá nhân cũng như tập thể luôn cao hơn khi mọi người tương
tác với nhau. Với rất nhiều công trình nghiên cứu từ 1981 đến 1989 về dạy học hợp
tác D. W. Johnson, R. T. Johnson và các cộng sự của mình đã nhận thấy rằng dạy học
hợp tác có nhiều khả năng tạo nên thành công hơn các hình thức dạy học khác. Theo
D. W. Johnson và R. T. Johnson: học tập hợp tác là toàn bộ những hoạt động học tập
mà người học thực hiện cùng nhau trong các nhóm nhỏ với sự hướng dẫn của giáo
9
viên nhằm tối ưu hóa việc học của các thành viên trong nhóm. D. W. Johnson, R. T.
Johnson, R. E. Slavin cùng với nhiều nhà nghiên cứu khác đã phát triển dạy học hợp
tác thành một trong những phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay (Cao Thị Nga,
2016, tr.11).
Tóm lại, vấn đề tương tác tâm lý đã được quan tâm từ rất lâu trên thế giới.
Tương tác tâm lý đã được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, từ Tâm lý học cho đến
Xã hội học, từ hoạt động dạy cho đến hoạt động học. Đã có rất nhiều lý thuyết về
vấn đề tương tác tâm lý được đặt ra, mỗi người lại có những quan điểm khác nhau về
sự tương tác. Trong suốt quá trình nghiên cứu về sự tương tác tâm lý trong hoạt động
dạy - hoạt động học đã chỉ ra rằng, sự tương tác tâm lý ảnh hưởng rất lớn đến thành
tích học tập của học sinh. Vì thế cho nên, việc tìm hiểu thực trạng và đề ra những biện
pháp nâng cao sự tương tác tâm lý, đặc biệt là tương tác người học - người học là vấn
đề cấp thiết nếu muốn nâng cao chất lượng học tập.
1.1.1.2. Hoạt động học tập của sinh viên
Khổng Tử (551- 479 TCN) là bậc hiền tài, ông đề cao vai trò của học sinh, rất
coi trọng tính tích cực nhận thức của người học. Người thầy ở vị trí khai mở, hướng
dẫn, còn mọi vấn đề do người học tìm ra.
Socrate (469 - 399), triết gia người Hy Lạp, ông quy tụ được thanh niên và dạy
học bằng phương pháp đàm thoại, nâng cao vai trò của hoạt động học qua trao đổi,
góp ý. “Tôi biết tôi không biết gì cả”, ông cho thấy việc học là vô cùng, liên tục và
kéo dài. Sự nhận thức của con người qua việc nhận ra, hiểu biết và ý thức đều cho
thấy rằng còn người còn thiếu hiểu biết (Cao Thị Nga, 2016, tr.11).
Nhà sư phạm vĩ đại J. A. Comenxki (1592-1670), người sáng lập ra hình thức
tổ chức dạy - học lớp bài, đặt nền móng và chính thức tách Giáo dục học ra khỏi Triết
học để trở thành một ngành khoa học riêng biệt, khi bàn về vấn đề học đã đưa ra
những yêu cầu cải tổ nền giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng
tạo của người học. Theo ông, dạy học phải làm như thế nào để người học tự tìm tòi,
suy nghĩ để tự nắm bắt lấy bản chất của sự vật và hiện tượng (Dẫn theo Cao Thị Nga,
10
2016).
Hai nhà giáo dục Ấn Độ S. D. Sharma và Shakti R. Ahmed, trong tác phẩm
“Phương pháp dạy học ở trường đại học” đã trình bày hoạt động tự học trên lớp như
một hình thức dạy học có hiệu quả (Dẫn theo Cao Thị Nga, 2016).
Từ thời cổ đại, hoạt động học tập đã là vấn đề được quan tâm. Các nhà nghiên
cứu đã có những quan niệm khác nhau về vấn đề học và dạy học. Đồng thời họ còn
đưa ra các phương pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả dạy và học. Nhìn chung đều
xuất phát từ quan điểm phát huy tính tích cực, chủ động từ người học, từ đó đưa ra
các phương pháp phù hợp.
1.1.2. Ở Việt Nam
1.1.2.1. Mối quan hệ liên nhân cách - Mối quan hệ xã hội - Tương tác tâm lý
- Mối quan hệ liên nhân cách
Năm 2002, tác giả Võ Thị Ngọc Châu đã có công trình “Nghiên cứu về kiểu
nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân cách và ảnh hưởng của nó tới bầu không khí tập
thể sinh viên sư phạm”. Công trình nghiên cứu kiểu quan hệ liên nhân cách và kiểu
nhân cách ảnh hưởng như thế nào đến bầu không khí tâm lí của nhóm, từ đó ảnh
hưởng tới hiệu quả lao động của nhóm. Dựa trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài
nhằm xây các kiểu nhân cách và quan hệ liên nhân cách sao cho khi ở trong nhóm,
làm cho nhóm phát triển ở mức độ cao. Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như phương pháp quan sát, trò chuyện, phương pháp điều tra và phương pháp trắc
nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt giữa kiểu nhân cách giữa nam
và nữ sinh viên, sự khác biệt giữa sinh viên năm I và năm III, giữa khối ngành tự
nhiên và xã hội, bầu không khí tâm lý trong nhóm cũng có sự khác biệt tương tự (Võ
Thị Ngọc Châu, 2002).
Liên quan đến vấn đề liên nhân cách, tác giả Nguyễn Thúy Nga với công trình
“Xây dựng quan hệ liên nhân cách trong lớp học như là một con đường nâng cao
hiệu quả công tác giáo viên chủ nhiệm” năm 1993. Tác giả đề cập đến thực trạng
quan hệ liên nhân cách của học sinh trong lớp (lớp 6, 7 tại nội thành Hà Nội), công
tác của người giáo viên chủ nhiệm đối với việc xây dựng mối quan hệ liên nhân cách
11
và nêu ra những biện pháp cơ bản xây dựng mối quan hệ liên nhân cách tích cực giữa
học sinh trong lớp bằng các phương pháp nghiên cứu như trắc đạt xã hội, điều tra
bằng bảng hỏi và phương pháp thực nghiệm. Kết quả nghiên cứu thu được khi thực
hiện các biện pháp cải thiện mối quan hệ liên nhân cách là có sự cải thiện rõ như số
lượng nhóm phong phú hơn, các em thấy hài lòng với bầu không khí tâm lý trong lớp,
các em quan tâm và có trách nhiệm với nhau hơn (Nguyễn Thị Thúy Nga, 1993).
Cũng tiếp cận mối quan hệ liên nhân cách như các nghiên cứu trên thế giới,
nghiên cứu về mối quan hệ liên nhân cách tại Việt Nam cũng tiếp cận dưới góc độ
bản chất các mối quan hệ liên nhân cách và gắn mối quan hệ liên nhân cách với các
yếu tố khác để mô tả sự ảnh hưởng, tác động qua lại giữa chúng.
- Mối quan hệ xã hội
Năm 2014, Phạm Huy Cường với đề tài “Mạng lưới quan hệ xã hội với việc
làm của sinh viên tốt nghiệp”. Tác giả khảo sát trên 1073 sinh viên trường đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn nhằm mô tả cụ thể mối quan hệ giữa mạng lưới quan
hệ xã hội đến khía cạnh kinh tế và phi kinh tế trong kết quả tìm kiếm việc làm của
những sinh viên mới tốt nghiệp với tư cách là một nhóm lao động đặc thù trong thị
trường lao động. Kết quả nghiên cứu cho thấy các mối quan hệ xã hội và các nguồn
lực cá nhân có thể huy động từ đó có những mối quan hệ rõ rệt đến kết quả tìm kiếm
việc làm và các đặc điểm công việc của các ứng viên tham gia khảo sát. Phân tích sâu
hơn từng kiểu kết nối trong mạng lưới quan hệ xã hội đã được sử dụng cho thấy những
ảnh hưởng rõ rệt trong từng loại mối quan hệ xã hội. Các quan hệ với thầy cô, trường
học và bạn bè đồng nghiệp có ảnh hưởng tích cực giúp sinh viên tốt nghiệp sớm có
được việc làm hơn tìm kiếm thông qua các mối quan hệ trong gia đình (Phạm Huy
Cường, 2014).
Năm 2012, Nguyễn Quý Thanh và Cao Thị Hải Bắc đã có nghiên cứu về
“Quan hệ xã hội và vốn xã hội: Nghiên cứu so sánh giữa Việt Nam và Hàn Quốc”
nhằm làm rõ mạng quan hệ xã hội của người Việt Nam và Hàn Quốc trên các khía
cạnh quy mô mạng quan hệ xã hội, đặc tính mạng quan hệ xã hội và vốn xã hội trên
các khía cạnh hoạt động làm ăn kinh doanh, về lĩnh vực tìm kiếm việc làm và về lĩnh
12
vực chia sẻ tâm sự (Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2012).
Năm 2015, Nguyễn Quý Thanh, Cao Thị Bắc Hải đã có công trình nghiên cứu
“Nguyên lý đồng dạng: Nghiên cứu khám phá cơ chế định hình mạng lưới xã hội ở
Việt Nam”. Dựa trên cơ sở dữ liệu khảo sát 1430 đại diện hộ gia đình tại 5 tỉnh/thành
thuộc 3 miền Bắc, Trung và Nam Bộ. Nghiên cứu đã đưa ra một số khám phá định
lượng ban đầu về nguyên lý đồng dạng như một cơ chế hình thành mạng lưới quan
hệ xã hội của người Việt Nam. Theo đó, nguyên lý đồng dạng tương đối phổ biến với
nhiều người Việt Nam khi họ kết bạn. Có những bằng chứng thực nghiệm ban đầu
cho thấy, người Việt Nam quan tâm xây dựng quan hệ bạn thân với người tương đồng
về đặc tính giới, đồng học, đồng hương và ngang cấp/tương đương về vị trí công việc
(Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2015).
Cũng năm 2015, hai tác giả Nguyễn Quý Thanh và Cao Thị Bắc Hải tiếp tục
nghiên cứu về “Quy mô lõi mạng lưới quan hệ xã hội của người Việt Nam và một số
yếu tố ảnh hưởng”. Theo đó, mục đích nghiên cứu nhằm khảo sát quy mô mạng lưới
quan hệ xã hội, các yếu tố ảnh hưởng đến quy mô mạng quan hệ xã hội ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra: về quy mô lõi mạng quan hệ xã hội, người Việt có mạng
lưới quan hệ xã hội tương đối rộng, tức là số bạn thân khá nhiều nếu so với một số
kết quả của các quốc gia khác. Quy mô lõi mạng quan hệ xã hội của người Việt Nam
khác biệt theo các đặc điểm giới, vùng miền, tỉnh thành,... Rõ nét nhất là một số khác
biệt như nam giới thường có nhiều bạn thân hơn phụ nữ; những người sống ở miền
Bắc có nhiều bạn thân hơn các đồng bào sống ở miền Trung và miền Nam; những
người theo tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên (xu hướng truyền thống) lại có quy mô
mạng quan hệ xã hội rộng hơn những người không theo tín ngưỡng này,…; các yếu
tố gây ảnh hưởng nhiều nhất đến quy mô mạng quan hệ xã hội bao gồm yếu tố giới
tính và tự đánh giá về sự thành công trong sự nghiệp/quyền lực và tự đánh giá về sự
thành công trong hôn nhân/gia đình. Theo đó, càng là nam giới và càng thành công
trong sự nghiệp/quyền lực thì quy mô mạng quan hệ càng tăng. Ngược lại, càng thành
công trong hôn nhân/gia đình thì quy mô mạng quan hệ xã hội càng giảm (Dẫn theo
13
Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2015).
Như vậy, mối quan hệ xã hội được nghiên cứu tại Việt Nam ở nhiều đối tượng
khác nhau, đặc biệt còn có những công trình nghiên cứu so sánh với các nước khác
để thấy rõ một số đặc điểm đặc trưng trong mối quan hệ xã hội lõi tại Việt Nam. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu mối quan hệ trên sinh viên còn hạn chế, đặc biệt là trong hoạt
động học tập của sinh viên.
- Tương tác tâm lý
Dưới góc độ Xã hội học, các tác giả Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, trong tác
phẩm Xã hội học, đã đề cập đến vấn đề tương tác xã hội và giới thiệu nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này trên thế giới. Theo các tác giả này thì tương tác xã hội có
thể được coi là quá trình hành động đáp lại của một chủ thể này với một chủ thể khác
(Phạm Tất Dong & Lê Ngọc Hùng, 2001).
Dưới góc độ Tâm lý học, từ thập niên 90 của thế kỉ XX, tác giả Vũ Dũng đã
nghiên cứu vấn đề cơ sở tâm lý học của ê kíp lãnh đạo. Sau nhiều năm nghiên cứu,
tác giả đã xác định được hai thành tố cơ bản của một ê kíp lãnh đạo là sự tương hợp
tâm lý và sự phối hợp hành động giữa các thành viên của nhóm lãnh đạo, là tiêu chí
quan trọng để đánh giá sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Các tác giả
Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành, Trần Hữu Luyến đều đề cập đến tương tác
dưới góc độ hoạt động cùng nhau, hoạt động giao tiếp giữa các cá nhân. Các tác giả
cho rằng ở một góc độ nhất định, giao tiếp cũng là tương tác (Nguyễn Quang Uẩn,
Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành, 2003).
Một số nghiên cứu về sự tương tác khác như công trình nghiên cứu:
Một số tác giả khác như Phạm Quang Tiệp với “Dạy học dựa vào tương tác
trong đào tạo giáo viên Tiểu học trình độ đại học”; Đặng Thành Hưng với công trình
“Tương tác hoạt động thầy – trò trên lớp học”; Vũ Lệ Hoa với “Một số kĩ năng dạy
học tăng cường tương tác góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn học ở đại học”.
Đặc biệt tác giả Tạ Quang Tuấn với “Tổ chức dạy học dựa vào tương tác người học
- người học ở trường cao đẳng” (Phạm Quang Tiệp, 2013), (Vũ Lệ Hoa, 2007), (Tạ
14
Quang Tuấn, 2010).
“Dạy học dựa vào tương tác trong đào tạo giáo viên tiểu học trình độ đại học”
tác giả Phạm Quang Tiệp (2013): tác giả đã đề xuất 5 mô hình dạy học dựa vào tương
tác và các kĩ thuật dạy học tương ứng, đây được xem là một bước cụ thể hóa chiến
lược dạy học dựa vào tương tác từ bình diện lí thuyết thành hiện thực. Trong mô hình
này, người học thực hiện chủ yếu các tương tác với bạn học và nhất là tương tác nội
tâm để giải quyết vấn đề và nhiệm vụ học tập (Dẫn theo Phạm Quang Tiệp, 2013).
Nghiên cứu về sự tương tác tâm lý đã sớm được tiếp cận dưới nhiều góc độ
như xã hội học, tâm lý học và dưới nhiều khía cạnh khác nhau như giao tiếp, dạy
học,... và được tiếp cận ở nhiều độ tuổi khác nhau từ người trẻ cho tới người cao tuổi.
Tuy nhiên, vấn đề tương tác trong hoạt động học tập giữa sinh viên với sinh viên hiện
nay vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu.
1.1.2.2. Hoạt động học tập của sinh viên
Nhiều nhà giáo dục, nhà nghiên cứu như: Trần Kiểm, Phan Bích Ngọc, Đặng
Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, Bùi Trọng Liễu, Hoàng Tụy, Nguyễn Trọng Bảo và Hà Thị
Đức,... đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động học và tự học. Trong các công
trình nghiên cứu, các tác giả đã nghiên cứu sâu vào tổ chức hoạt động học, quản lý
hoạt động học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của người học nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học của nhà trường.
Bên cạnh đó, có nhiều nhà nghiên cứu khác tiếp cận hoạt động học tập dưới
góc độ quản lý hoạt động học tập như: Nguyễn Văn Đức, Phạm Trung Thành,... Các
nghiên cứu hoạt động học tập theo bốn chức năng quản lý và quản lý theo các thành
tố của hoạt động học; nghiên cứu thực trạng quản lý của hiệu trưởng về một số hình
thức học tập,...
Hướng tiếp cận khác trong hoạt động học tập ở sinh viên là tiếp cận ở các khía
cạnh khác nhau của hoạt động học tập như nghiên cứu về ý chí trong hoạt động học
tập của tác giả Nguyễn Văn Lượt (2007) hay nghiên cứu sự thích ứng trong học tập
của tác giả Nguyễn Văn Trình (2015),...
Tác giả Nguyễn Thị Thúy Hạnh trong luận án tiến sĩ “Kỹ năng học tập hợp
15
tác của sinh viên sư phạm” đã ít nhiều đề cập đến tương tác khi cho rằng “Học tập
hợp tác là sự phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động học tập theo nhóm để hoàn
thành mục đích học tập chung là lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng và thúc
đẩy cao nhất hoạt động học tập của mỗi cá nhân”. Tác giả cũng chỉ ra rằng trong học
tập hợp tác để đạt hiệu quả phải có sự tương tác trực diện giữa các thành viên trong
nhóm. Nghĩa là, diễn ra tương tác liên nhân cách giữa các thành viên trong nhóm, có
sự tương tác tâm lý. Tác giả đã lý giải sự tương tác trong học tập hợp tác được biểu
hiện cụ thể qua việc giải thích cho nhau, kiểm tra mức độ hiểu bài lẫn nhau, thảo luận
về nội dung học tập, thậm chí ủng hộ, khích lệ, tạo điều kiện, giúp nhau phát triển.
Tuy nhiên, tác giả không đi vào làm rõ quá trình tương tác trong học tập hợp tác mà
chỉ đề cập tới tương tác với vai trò giúp làm rõ kĩ năng học tập hợp tác của sinh viên
(Dẫn theo Nguyễn Thị Thúy Hạnh, 2012).
Như vậy, hoạt động học tập được tiếp cận dưới góc độ của người quản lý,
người dạy đến người học. Ứng với mỗi góc độ sẽ có các hướng tiếp cận khác nhau.
Tuy nhiên, tương tác tâm lý trong hoạt động học tập ở sinh viên với sinh viên hầu như
chưa có một công trình nghiên cứu nào tiếp cận theo hướng này.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Tương tác
1.2.1.1. Khái niệm
Về thuật ngữ, có nhiều quan điểm khác nhau về sự tương tác:
Trong tiếng Anh, “Interaction” được hiểu là sự nối kết các hành động, sự hợp
tác, tác động lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau (Interaction, 2018).
Trong tiếng Việt, có nhiều định nghĩa khác nhau về sự tương tác:
Theo Vũ Dũng, tương tác là sự tác động qua lại, tác động lẫn nhau (Vũ Dũng,
2008).
Trong đại từ điển tiếng Việt, tương tác được hiểu là sự tác động qua lại lẫn
nhau... có mối liên hệ trao đổi thông tin với nhau (Nguyễn Thị Như Ý, 2000).
Theo Nguyễn Khắc Viện, tương tác là một khái niệm thuộc về ứng xử: “cái
này tác động lên cái kia, cái kia tác động trở lại cái này, hai cái ảnh hưởng lẫn nhau,
16
chứ không thể ảnh hưởng một chiều” (Nguyễn Khắc Viện, 2001).
Theo Vũ Dũng: “Tương tác là sự tác động qua lại, tác động lên nhau.” (Vũ
Dũng & Nguyễn Thị Mai Lan, 2013, tr.973).
Theo Phạm Tất Dong và Lê Ngọc Hùng cho rằng: “Tương tác có thể được coi
là quá trình hành động và hành động đáp lại của một chủ thể này với một chủ thể
khác.” (Phạm Tất Dong & Lê Ngọc Hùng, 2001, tr.144-145).
Theo tài liệu tâm lý học xã hội, tương tác là sự tác động lẫn nhau của các cá
nhân nhằm thực hiện những hoạt động đồng thời với mục đích nào đó của nhóm (Vũ
Dũng, 2000, tr.48).
Như vậy, về nguyên nghĩa và ở mức khái quát nhất, tương tác là sự tác động
qua lại tương ứng lẫn nhau gây ảnh hưởng nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong
hiện thực khách quan.
1.2.1.2. Phân loại
Tương tác được nhắc đến trong nhiều ngành khoa học khác nhau như tương
tác vật lý, tương tác sinh học, tương tác xã hội, tương tác tâm - vật lý, tương tác tâm
lý,...
- Tương tác vật lý: Sự tác động giữa các lực, các năng lượng. Tương tác vật lý
được nhắc đến với rất nhiều dạng khác nhau như tương tác cơ bản, tương tác điện,
tương tác hấp dẫn, tương tác phân tử, tương tác trao đổi,...
- Tương tác sinh lý: Là sự tác động qua lại giữa các cơ thể hữu cơ. Trong tương
tác sinh lý diễn ra những biến đổi chức năng của một số cơ quan dưới tác động ảnh
hưởng của một hay nhiều cơ quan khác. Sự tác động qua lại của các cơ quan cũng
còn biểu hiện ra trong những trường hợp chúng hoạt động cùng nhau, đem đến cho
chủ thể một thông tin đầy đủ, nhiều chiều về thế giới khách quan mà trong cùng một
điều kiện hoạt động, một cơ quan không thể làm được.
- Tương tác tâm - vật lý: Là sự tác động qua lại giữa các hiện tượng tâm - vật
lý. Ngay từ thế kỷ XVII, dưới ảnh hưởng của cơ giới luận đã xuất hiện hai cách lý
giải về mối quan hệ tâm - vật lý. R. Descartes cho rằng, vật bên ngoài tác động lên ý
thức làm nảy sinh ra các hiện tượng tâm lý như cảm giác, tri giác. Quan điểm thứ hai
có tên gọi là: “Song hành tâm - vật lý”. Cái tâm lý và cái vật lý đồng thời diễn ra.
17
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học Gestalt: M. Werthermer, W. Kohler và K.
Koffka, bản chất hiện tượng tâm lý đều có tính cấu trúc, vì vậy nghiên cứu phải theo
xu hướng tổng thể với một cấu trúc chỉnh thể. Nghiên cứu của các nhà Gestalt hướng
đến việc hình thành các cấu trúc tâm lý (cấu trúc tri giác và tư duy) theo cơ chế tương
tác giữa các kích thích vật lý với hoạt động của hệ thần kinh. Quan điểm này cho
rằng, trong trạng thái hoạt động, não bộ luôn tạo ra một lực trường. Khi các kích thích
vật lý (dữ liệu giác quan) đi vào vừa làm biến đổi lực trường đã có, vừa bị biến đổi
bởi chúng. Hình ảnh tinh thần (biểu tượng, khái niệm...) là kết quả của sự tương tác
(Dẫn theo Lê Minh Nguyệt, 2010).
- Tương tác xã hội: Đó là sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau giữa người
với người với tư cách là các thành viên xã hội. Nói cách khác, tương tác xã hội là
tương tác giữa các vai trò xã hội mà cá nhân đang đảm trách. Tương tác xã hội chỉ có
ở con người, trong xã hội người. Tâm lý, ý thức của con người được hình thành, phát
triển thông qua các tương tác tâm lý và tương tác xã hội. Đó là tương tác giữa các cá
nhân với các cá nhân, giữa cá nhân với các nhóm trong xã hội.
- Tương tác tâm lý: Là sự tiếp xúc, tác động về phương diện tâm lý giữa các
cá nhân với nhau. Tương tác tâm lý được biểu hiện thông qua các tác động tâm lý,
xúc cảm tình cảm,... của các chủ thể với nhau, gây tác động, ảnh hưởng lẫn nhau (Cao
Thị Nga, 2016, tr.22).
- Trong xã hội hiện đại, tương tác còn có một hình thái khác, đó là tương tác
trực tuyến. Tương tác trực tuyến là kiểu tương tác thông qua các trang mạng xã hội,
người dùng tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp bằng cách đăng tải nội dung,
bình luận, chia sẻ với những người dùng khác. Kiểu tương tác này có đặc trưng là
người dùng giao tiếp một cách gián tiếp thông qua các trang mạng xã hội để trao đổi
cảm xúc, thông tin. Tương tác trực tuyến được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực, trong
đó phải kể đến giáo dục. Hiện nay có nhiều các khóa học trực tuyến mở ra đáp ứng
được nhu cầu học tập của người mà không còn phụ thuộc vào khoảng cách. Chỉ cần
trước mặt có một thiết bị kết nối mạng, bạn có thể học ở bất kì đâu một cách rất tiện
dụng. Chính kiểu tương tác này mở ra một hướng đi mới cho việc học và tương tác
18
của sinh viên.
Trong giới hạn đề tài nghiên cứu, chúng tôi xem xét tương tác giữa cá nhân
với cá nhân.
1.2.2. Tương tác tâm lý
1.2.2.1. Khái niệm
Từ khái niệm đã phân tích ở trên, tương tác là sự tác động qua lại tương ứng
lẫn nhau gây ảnh hưởng nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Xét trên khía cạnh mối quan hệ giữa con người với con người, tương tác tâm lý chính
là sự tác động lẫn nhau về phương diện tâm lý giữa hai hay nhiều cá nhân dẫn đến
ảnh hưởng về mặt tâm lý đến cá nhân đó.
Như vậy, tương tác tâm lý chính là sự tác động qua lại về mặt tâm lý giữa hai
hoặc nhiều cá nhân, từ đó biến đổi về mặt tâm lý giữa các chủ thể. Tương tác tâm lý
có đặc điểm khác với các loại tương tác khác đó chính là có sự giao cảm trực tiếp về
mặt cảm xúc. Thông qua sự giao cảm đó, con người dần xóa đi rào cảm về mặt tâm
lý, tạo nên sự gắn kết, hòa hợp, thấu hiểu trong các mối quan hệ. Từ đó, các hoạt động
được tiến hành một cách nhanh chóng, thuận lợi và đạt được hiệu quả cao.
Chẳng hạn, trong các nghiên cứu của H. F. Harlow, M. K. Harlow, J. Bowlby
và của Klaus và Kennell về sự gắn bó giữa mẹ và con trong quá trình phát triển của
trẻ nhỏ, các nhà khoa học này đã phát hiện sự gắn bó mẹ con giữa trẻ và người mẹ là
nhằm thỏa mãn nhu cầu gắn bó của cả trẻ nhỏ và người mẹ, nhu cầu tránh sự hẫng
hụt và cảm giác cô đơn. Đồng thời, sự gắn bó mẹ con là kết quả của sự tác động qua
lại, hay là sự tương tác tâm lý giữa người mẹ với con (Dẫn theo Trần Thị Minh Đức,
2008).
Một cách hiểu khác, dưới góc độ quy chiếu giá trị, chuẩn mực xã hội, tương
tác tâm lý giữa các cá nhân còn được hiểu là tương tác liên nhân cách, tương tác liên
cá nhân. Cụ thể, theo tác giả Vũ Dũng: tương tác liên nhân cách (liên cá nhân) theo
nghĩa rộng, là sự tiếp xúc tâm lý của hai hay nhiều người, kết quả là làm thay đổi
hành vi, hoạt động, thái độ, tâm thế của các bên. Theo nghĩa hẹp, tương tác liên nhân
19
cách là hệ thống các hoạt động của các cá nhân do có sự tiếp xúc tâm lý của các bên.
Tác giả Lê Minh Nguyệt quan niệm, tương tác tâm lý là sự tiếp xúc tâm lý, tác
động về phương diện tâm lý giữa hai hay nhiều cá nhân, kết quả là làm thay đổi nhận
thức, thái độ, hành vi của các cá nhân đó (Lê Minh Nguyệt, 2010, tr.11).
Như vậy, có thể nhận thấy, tương tác tâm lý qua các công trình nghiên cứu có
thể nói là sự tác động về mặt hành vi, các yếu tố tâm lý của chủ thể xuất phát từ nhu
cầu tương tác, trong đó diễn ra sự hiểu biết lẫn nhau, sự tương hợp tâm lý giữa các
chủ thể dẫn đến sự ảnh hưởng, biến đổi về mặt tâm lý ở các chủ thể đó. Nói một cách
khái quát, tương tác tâm lý là sự tác động về mặt tâm lý để tạo ra những nét tâm lý
mới. Thông qua một số hình thức như giao tiếp bằng lời, giao tiếp phi ngôn, chữ viết,
vật phẩm,... Nhờ sự tương tác tâm lý, con người sống trong xã hội một cách có ý
nghĩa. Bên cạnh đó, cá nhân trong xã hội tăng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh,
qua đó điều khiển, điều chỉnh hành vi của bản thân sao cho phù hợp với điều kiện và
môi trường sống.
Tương tác tâm lý là con đường dẫn đến sự cảm thông, thấu hiểu, sự thông cảm
là con đường hiệu quả dẫn đến giải quyết xung đột. Đây cũng chính là mục tiêu giáo
dục thế kỉ XXI. Không có tương tác tâm lý sẽ không có khả năng thông cảm. Thông
qua tương tác tâm lý, con người có cơ hội hiểu nhau, đó là cơ sở của hòa bình - hợp
tác - hữu nghị.
Tương tác tâm lý là sự tác động hai chiều với tư cách đồng chủ thể, cùng thực
hiện hoạt động, cùng đạt đến mục đích.
Từ cách nhìn nhận trên, có thể đưa ra khái niệm tương tác tâm lý như sau:
Tương tác tâm lý là sự tiếp xúc tâm lý, tác động về phương diện tâm lý giữa hai hay
nhiều cá nhân, kết quả là làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của các cá nhân
20
đó.
1.2.2.2. Phân loại
Có nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lý, dưới đây là một số cách phân
loại phổ biến
* Phân loại theo mức độ tiếp xúc tâm lý giữa các cá thể
Theo cách phân chia này có thể phân loại thành các loại tương tác:
+ Sự tiếp xúc tâm lý giữa các cá nhân là: sự tiếp xúc mà ở đó chủ thể có thể
hiện sự quan tâm, để ý đến nhau. Sự tiếp xúc này thường diễn ra trong điều kiện các
cá nhân hoạt động cùng nhau, sống cùng nhau trong cùng một không gian, thời gian,
cùng chung mục đích. Trong quá trình hoạt động chung, các cá nhân tương tác với
nhau dẫn đến ảnh hưởng lẫn nhau, sự tương tác trong hoàn cảnh này như là một chất
xúc tác tạo ra sự thi đua, tính tích cực, ý thức, tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân
thông qua ý thức thể hiện “cái bản ngã”, “cái tôi”, “siêu tôi” ở mỗi cá nhân để hoàn
thành công việc. Cụ thể: Theo nghiên cứu của Triplett về lao động của công nhân trẻ
khi làm việc một mình và khi làm việc cùng nhóm bạn cho thấy, trong điều kiện làm
việc có sự có mặt của người khác năng xuất lao động cao hơn so với làm một mình
(Dẫn theo Lê Minh Nguyệt, 2010).
Theo C. Marx, sự tiếp xúc xuất hiện trong hoạt động cùng nhau gây ra sự thi
đua, và kích thích năng lượng sống, sự hưng phấn này làm tăng thêm năng xuất lao
động. Còn B. Ph. Lomov cho rằng, quá trình tiếp xúc trong hoạt động cùng nhau giữa
các cá nhân, có sự bắt chước, ám thị, lây lan cảm xúc giữa các cá nhân, tạo sự hợp
tác, cạnh tranh, điều chỉnh hành vi của cá nhân. Đó là sự tiếp xúc tâm lý (các chủ thể
có sự quan tâm đến nhau, để ý đến nhau (Lomov, 2001).
+ Sự tương tác: Chủ thể có hệ thống hành động đáp lại các phản ứng tương tác
từ đối tác.
+ Sự liên hệ xã hội: Trong Đại từ điển Tiếng Việt, liên hệ là có sự dính dáng
đến nhau, liên quan đến nhau (Nguyễn Như Ý, 2000).
Tác giả Trần Thị Minh Đức cho rằng, liên hệ xã hội là sự tiếp xúc gắn kết giữa
các cá nhân trong xã hội. Đó là sự ràng buộc tâm lý giữa con người theo những chuẩn
21
mực pháp lý, dư luận hay tình cảm (Trần Thị Minh Đức, 2008).
Liên hệ xã hội được hình thành từ sự tham gia của các cá nhân vào hoạt động
nhóm, từ sự gắn bó, là mối liên hệ tình cảm giữa các cá nhân trong các mối quan hệ
được thiết lập dựa trên tính chất công việc hoặc sự hấp dẫn lẫn nhau trong quan hệ
tình cảm,... Trong cuộc sống, mỗi cá nhân đều có những mối dây liên hệ với người
khác theo cách nào đó. Chẳng hạn: với bố mẹ, anh em, bạn bè, các thiết chế xã hội,...
Trong mỗi mối liên hệ đó con người được đưa vào một cấu trúc xã hội phức tạp. Cấu
trúc này bao bọc lấy cá nhân, định hướng cho cá nhân hoạt động. Theo Gode Froid
J.: “Không có hoặc hầu như không có một ứng xử nào của con người có thể phát triển
và biểu hiện tách rời khỏi các thành viên của nhóm” (Gode, 1998).
Như vậy, sự liên hệ xã hội trong tương tác thể hiện ở chỗ, để quá trình tương
tác diễn ra, các chủ thể phải có sự phối hợp các hành động với nhau.
* Phân loại theo chủ thể tác động trong tương tác
+ Nội tương tác: tương tác giữa các yếu tố tâm lý của chủ thể. Chẳng hạn, sự
tương tác giữa kiến thức, hiểu biết của cá nhân với thái độ của cá nhân đó đối với đối
tượng; tương tác giữa tình cảm với ý chí, với nhận thức,... Trong nội tương tác, tương
tác giữa ý thức với các chức năng tâm lý khác là đặc biệt quan trọng. Trong loại tương
tác này, ý thức của chủ thể hướng vào trong, nhận thức và đánh giá các yếu tố tâm lý
của chính mình. Là quá trình tự nhận thức, tự đánh giá, tự điều chỉnh bản thân.
+ Ngoại tương tác: tương tác ngoài là tương tác giữa các chủ thể với nhau.
Chẳng hạn: tương tác cá nhân - cá nhân; cá nhân với nhóm xã hội; giữa nhóm xã hội
này với nhóm xã hội khác. Trong tương tác ngoài, ý thức của chủ thể hướng đến chủ
thể khác để nhận thức, đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với tác
động của chủ thể khác. Trong đề tài này, chúng tôi nghiên cứu tương tác ngoài, cụ
thể là tương tác giữa sinh viên với sinh viên diễn ra trong hoạt động học tập.
* Phân loại theo chủ thể của quá trình tương tác
+ Tương tác giữa cá nhân - cá nhân: tương tác cá nhân - cá nhân là sự tác động
lẫn nhau giữa các cá nhân với nhau. Trong đời sống xã hội, tương tác cá nhân - cá
nhân là loại hình tương tác phổ biến. Sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các cá nhân trong mối quan hệ liên cá nhân, liên nhân cách là phương thức, con đường
22
cơ bản để hình thành và phát triển tâm lý cá nhân.
+ Tương tác cá nhân - nhóm: là sự tác động lẫn nhau giữa cá nhân với tư cách
là thành viên hoặc không với một nhóm, tổ chức xã hội. Tương tác cá nhân - nhóm
thường xuyên diễn ra sự tác động giữa cá nhân với các chuẩn mực, giá trị, mục tiêu,
hoạt động của nhóm. Hệ quả, cá nhân thay đổi và thích ứng với nhóm đồng thời làm
thay đổi trạng thái phát triển của nhóm. Tương tác giữa sinh viên với sinh viên diễn
ra trong giờ học là loại tương tác giữa cá nhân với cá nhân hoặc giữa cá nhân và nhóm.
+ Tương tác nhóm - nhóm: là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm. Một trong
những đặc trưng của xã hội loài người là tồn tại và phát triển theo phương thức nhóm.
Sự tương tác giữa các nhóm được thể hiện qua sự tác động và ảnh hưởng lẫn
nhau bởi các mục tiêu, hoạt động, giá trị, chuẩn mực,... Xã hội càng phát triển thì
nhóm xã hội càng đa dạng, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nhóm càng mạnh. Tương tác
nhóm là phương thức, con đường cơ bản hình thành, phát triển tâm lý cá nhân, xã hội.
* Phân loại theo vai trò xã hội
Là tương tác của các cá nhân đóng vai trò xã hội khác nhau (tương tác xã hội).
Trong các tương tác này diễn ra sự tiếp xúc, trao đổi và tác động lẫn nhau về các
phương diện chuẩn mực, các giá trị, khuôn mẫu, các quy định xã hội được xã hội gán
cho mỗi cá nhân với vai trò mà cá nhân đó mang.
Tương tác theo vai trò xã hội trong cuộc sống cũng như trong cấu trúc tâm lý
của mỗi cá nhân luôn tồn tại hai mặt: một mặt, luôn phải đóng các vai trò xã hội khác
nhau như: cha - con; anh - em; thầy - trò,... mặt khác, phải luôn duy trì, thể hiện, phát
triển cái tôi, cái bản sắc riêng của bản thân mà không làm mất nó. Vì vậy, trong tương
tác các cá nhân phải học cách nhập các vai khác nhau trong từng hoàn cảnh để có
23
cách tương tác tương ứng.
* Phân loại theo mức độ tham gia của ý thức chủ thể vào quá trình tương tác
+ Tương tác phi biểu trưng: là sự tương tác được nảy sinh do sự phản ứng trực
tiếp của cá nhân này với cá nhân kia mà không có sự lý giải ý nghĩa hành động của
nhau. Chẳng hạn, người bị thôi miên, ám thị, tức giận,... Công thức chung của tương
tác phi biểu trưng là S - R. Trong đó, S là các kích thích, còn R là các phản ứng của
cá thể. Ở đây cá thể phản ứng trực tiếp đối với các kích thích từ môi trường.
+ Tương tác biểu trưng: là tương tác trực tiếp giữa các cá nhân, là tương tác
chỉ diễn ra giữa người với người, trong đó các chủ thể phải thường xuyên hiểu, lý
giải, định nghĩa, xác định ý nghĩa tâm lý - xã hội trong các hành động của nhau. Tương
tác biểu trưng không phải là tổng số các phản ứng riêng lẻ của cá nhân, mà mỗi hành
động đó được thực hiện trên cơ sở sự lý giải ý nghĩa động cơ hành động của người
khác, được thể hiện thông qua các biểu tượng, đưa ra được định nghĩa về hành động
đó.
Công thức chung của tương tác biểu trưng là S - I - R. Trong đó, S là kích
thích, I là biến số trung gian, sự lý giải của chủ thể về các kích thích S, R là các phản
ứng của cá thể. Chủ thể phản ứng gián tiếp đối với các kích thích từ môi trường thông
qua khâu trung gian là các biểu tượng, được hình thành từ sự phân tích ý nghĩa do các
kích thích mang lại (Cooley, 1902).
Trong quá trình hình thành, phát triển tâm lý của cá nhân luôn tồn tại cả tương
tác biểu trưng và tương tác phi biểu trưng, trong đó tương tác biểu trưng phổ biến và
chiếm vai trò quan trọng.
1.2.2.3. Biểu hiện tương tác tâm lý
Khi xem xét biểu hiện của tương tác tâm lý, các nhà tâm lý học nhấn mạnh các
khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn, C. Roger, John Deway, B. Ph. Lomov, M. Muntner,
F. Jones và Louise Jones, G. Mead, Ch. H. Cooley, G. H. Goffmen, Herber Blumer,...
đều nhấn mạnh đến các yếu tố sự tương giao, cảm xúc, bầu không khí lớp học, sự
thấu hiểu hành vi của người khác, sự cảm thông, đồng cảm là những yếu tố đặc biệt
chú trọng trong tương tác giữa người dạy - người học, thầy thuốc - bệnh nhân. Cũng
24
với quan điểm trên, Vũ Dũng trong tương tác của ê kíp lãnh đạo đề cập tới 2 thành tố
cơ bản là: tương hợp tâm lý và phối hợp hành động (Rogers, 1995), (Dewey, 2008),
(Muntner, 2008), (Mead, 1934).
Lê Minh Nguyệt trong tương tác cha mẹ và con chỉ ra 6 thành tố của tương tác
tâm lý cha mẹ và con cái bao gồm: nhu cầu, sự hiểu biết, sự đồng cảm, sự tương hợp
tâm lý, kĩ năng tương tác, sự ảnh hưởng, tần số tương tác (Lê Minh Nguyệt, 2010).
Như vậy, có thể thấy mỗi tác giả đều có những lý lẽ nhất định để đưa ra hệ
thống các nội dung nhằm đo đạc sự tương tác. Tuy nhiên, nếu phân tích một cách chi
tiết từng hệ thống các nội dung tương tác tâm lý nói trên cho thấy tương tác tâm lý
giữa các chủ thể được biểu hiện qua các thành tố sau:
* Nhu cầu tương tác
Trong tâm lý học, có nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu, hiểu một cách
chung nhất, nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để
tồn tại và phát triển. Trong hầu hết các tài liệu tâm lý học, nhu cầu được xem xét như
một thành tố giúp con người tồn tại và phát triển. Các tác giả đều cho rằng, để tồn tại
và phát triển, cá nhân phải đòi hỏi ở môi trường xung quanh những cái cần thiết. Sự
đòi hỏi đó gọi là nhu cầu.
Dưới góc độ tâm lý học xã hội, tâm lý học xã hội xem xét nhu cầu với tư cách
là nguồn gốc tâm lý xã hội, làm nảy sinh tính tích cực hoạt động của cá nhân và của
nhóm xã hội. Nhu cầu quy định xu hướng lựa chọn (thuộc tính tâm lý cá nhân), nhận
thức (ý nghĩ), thái độ (rung cảm), hành động (ý chí) của cá nhân, nhóm cá nhân trong
hoạt động.
Nhu cầu của con người hết sức đa dạng phong phú. Tựu trung, có thể chia nhu
cầu con người làm hai loại: nhu cầu vật chất và tinh thần. A. Maslow (1908 - 1970)
nhà tâm lý học người Mỹ thế kỉ XX, trong nghiên cứu đã phát hiện ra các nhu cầu có
tính phổ quát của con người trong hoạt động cũng như trong cả cuộc đời. Theo A.
Maslow, con người có năm loại nhu cầu: Nhu cầu vật chất; Nhu cầu an toàn; Nhu cầu
quan hệ, giao tiếp; Nhu cầu được tôn trọng; Nhu cầu tự khẳng định, tự thỏa mãn.
Trong thang nhu cầu của A. Maslow, nhu cầu quan hệ xã hội chính là nhu cầu tương
25
tác giữa các cá nhân (Barry & Harold, 2005).
Nhu cầu tương tác tâm lý là nhu cầu tinh thần, thể hiện sự mong muốn của cá
nhân về sự hợp tác, trao đổi tình cảm, cảm thông, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm,...
giữa cá nhân này với cá nhân khác trong xã hội để cùng nhau tồn tại và phát triển.
Nhu cầu tương tác tâm lý được biểu hiện qua trạng thái mong muốn, vui mừng, phấn
khởi, hứng thú, thỏa mãn, tích cực, chủ động,... khi gặp người mình mong đợi, được
trao đổi thông tin mà mình mong muốn, đồng thời lo lắng, thiếu hụt khi không được
gặp, hay không được đáp ứng thông tin mình cần. Nhìn chung, các thành viên trong
xã hội đều có nhu cầu được gặp gỡ, chia sẻ với nhau, cùng hợp tác với nhau.
C. Marx cho rằng, nhu cầu vĩ đại nhất, phong phú nhất của con người là nhu
cầu tiếp xúc với người khác. Nhu cầu này không ngang hàng với nhu cầu khác, sự
phát triển của nó trong một con người chính là một điều kiện làm cho con người trở
thành con người (Dẫn theo Lê Minh Nguyệt, 2010).
Nhu cầu tương tác tâm lý có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tính tích
cực của cá nhân trong hoạt động. Do vậy, nghiên cứu tương tác tâm lý, phải xét đến
nhu cầu. Trong tương tác tâm lý, nhu cầu tương tác đóng vai trò là nguồn gốc của tính
tích cực tương tác, người có nhu cầu tương tác cao sẽ có tính tích cực cao. Khi gặp
đối tượng và điều kiện tương tác thuận lợi, nhu cầu sẽ phát triển thành động cơ tương
tác của cá nhân. Nhu cầu tương tác với người khác vừa là cơ sở của tương tác, vừa là
một thành phần, một biểu hiện của tương tác. Thực tiễn đã minh chứng, trong cuộc
sống nếu cá nhân bị thiếu hụt hay không được thỏa mãn về nhu cầu tương tác tâm lý
sẽ dẫn đến sự rối loạn về cảm xúc và lệch lạc về hành vi. Nghiên cứu của nhà tâm lý
học H. P. Harlow và M. K. Harlow trong thực nghiệm về những con khỉ non bị tách
khỏi mẹ đã cho thấy điều đó. Trong thế chiến thứ 2, hiện tượng hàng loạt trẻ được
nuôi dưỡng trong các trại trẻ mồ côi, mặc dù được chăm sóc, thỏa mãn đầy đủ về nhu
cầu vật chất nhưng đã liên tiếp mắc bệnh và qua đời mà các bác sĩ không tìm được
nguyên nhân, sau đó người ta đã phát hiện ra nguyên nhân dẫn đến trẻ mắc bệnh hành
loạt và qua đời là do sự thiếu hụt về nhu cầu tương tác tâm lý, nhu cầu được thỏa mãn
về xúc cảm, tình cảm. Mặt khác, nếu nhu cầu tương tác giữa các chủ thể ở mức cao
thì quá trình tương tác sẽ diễn ra thuận lợi, hiệu quả bởi nó là nguồn động lực kích
26
thích các cá nhân tích cực tìm kiếm, tương tác với nhau. (Trần Thị Minh Đức, 2008).
Trong hoạt động học tập, nhu cầu tương tác là yếu tố thúc đẩy sinh viên tích
cực tương tác với nhau trong giờ lên lớp. Trong tương tác tâm lý, khi mức độ nhu cầu
tâm lý của các cá nhân biểu hiện ở nhận thức (mong muốn, khao khát gặp gỡ, tương
tác), ở thái độ (tích cực, hứng thú tương tác), ở hành vi (sự tích cực, chủ động trong
tương tác) là lúc các cá nhân đã, đang thực hiện, đạt quá trình tương tác tâm lý. Như
vậy, có thể nói nhu cầu tương tác trong tương tác tâm lý vừa là nguồn gốc, là điều
kiện, vừa là thành phần, biểu hiện của tương tác tâm lý. Nhu cầu tương tác là động
lực làm nảy sinh, thúc đẩy tính tích cực làm cho tương tác tâm lý đạt hiệu quả.
* Sự tương hợp tâm lý trong tương tác
Trong từ điển tiếng Anh của đại học Oxford, từ tương hợp là Compatibility
được hiểu là sự hợp nhau về quan điểm, ý kiến, nguyên tắc sống,... giữa người với
người.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, tương hợp là sự phối hợp tối ưu các đặc
điểm tâm lí cá nhân của các thành viên trong nhóm để có lợi nhất cho việc thực hiện
mục đích chung.
Theo tác giả Vũ Dũng, tương hợp tâm lý là khả năng của con người tìm kiếm
sự hiểu biết lẫn nhau, điều chỉnh các liên hệ riêng, công việc và khả năng hợp tác.
(Vũ Dũng, 2008)
Như vậy, nói đến tương hợp tâm lý là nói đến quá trình bên trong của mỗi cá
nhân, nhóm - quá trình cá nhân chuyển từ những cái tôi riêng thành cái tôi chung
nhằm hòa hợp, thích ứng lẫn nhau trong quá trình hoạt động chung.
Cũng theo Vũ Dũng, tương hợp tâm lý trong một ê kíp lãnh đạo có hai khía
cạnh. Tương hợp tâm sinh lý và tương hợp tâm lý xã hội. Tương hợp tâm sinh lý là
tương hợp về các đặc điểm thần kinh, khí chất, tính cách,... còn tương hợp tâm lý xã
hội là tương hợp về động cơ, nhu cầu, mục đích, định hướng giá trị, đặc điểm tâm lý
lứa tuổi,... Sự tương hợp này là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của một
ê kíp lãnh đạo (Vũ Dũng, 2000)
Điều đó cho thấy, trong hoạt động chung của con người, tương hợp tâm lý
được xem là chỉ số đo tính gắn kết, là điều kiện để hình thành bầu không khí tâm lý
27
trong tương tác tính cực. Tương hợp tâm lý là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để dẫn
đến sự phối hợp chặt chẽ giữa các cá nhân trong hoạt động và trong tương tác, tương
hợp tâm lý khiến mỗi cá nhân trong tập thể làm việc một cách tự giác với tinh thần
trách nhiệm cao. Tinh thần tự giác của các thành viên thể hiện ở chỗ mỗi người tự nỗ
lực phấn đấu hết mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bởi vì, sự thống nhất về
khí chất, tính cách, nhu cầu, động cơ, định hướng giá trị, lợi ích,... sẽ dẫn đến sự thống
nhất, phối hợp hành động một cách chặt chẽ của các thành viên về khía cạnh tâm lý
trên. Nhiều công trình nghiên cứu tâm lý học đã chứng minh rằng, nếu không có sự
tương hợp tâm lý sẽ phát sinh các tình trạng xung đột khác nhau, gây tổn hại cho hoạt
động cũng như bầu không khí của tập thể. Xung đột không chỉ làm đình đốn công
việc của tập thể, mà còn ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần của mỗi cá nhân. Khi
không tạo dựng được các xúc cảm dương tính, sự sợ hãi, nghi kị làm cho con người
ta mất sáng suốt, tính ý thức cao của hoạt động kém. Theo cách nói của nhà tâm lý
học Ba Lan Lazenhepxki, xung đột là lực ly tâm, xung đột có thể dẫn đến tan rã tập
thể. Nhà tâm lý học B. Ph. Lomov và V. F. Rubakin trong công trình nghiên cứu bầu
không khí tâm lý lao động cũng đã chỉ ra rằng, nguyên nhân thứ ba của mọi xung đột
là vấn đề không tương hợp tâm lý. Điều đó đã bộc lộ, hiệu quả của tương tác tâm lý
phụ thuộc mức độ phát triển của sự tương hợp tâm lý trong hoạt động. Trong tương
tác tâm lý, nếu giữa các cá nhân đạt được sự tương hợp cả về khía cạnh tâm sinh lý
và tâm lý xã hội, nghĩa là trên cơ sở hiểu khí chất, tính cách, năng lực, khả năng, điều
kiện của nhau để có thể hiểu đến mức thấu hiểu nhau, thông cảm, đồng cảm,... sẽ tạo
nên sự tương hợp tâm lý với nhau cao, dẫn đến hiệu quả tương tác tâm lý càng tốt. Sự
tương hợp tâm lý này là cơ sở giúp các cá nhân dễ dàng xây dựng, thiết lập được các
quan hệ tình cảm khăng khít, gắn bó giúp đỡ nhau, thông cảm và hiểu biết, kết quả
cuối cùng là hoạt động tương tác đó sẽ nhịp nhàng, có sự thống nhất, nhất trí để đạt
hiệu quả cao trong hoạt động (Nguyễn Đình Xuân & Vũ Đức Hán, 1994), (Nguyễn
28
Thúy Nga, 1993).
* Sự phối hợp hành động tâm lý
Phối hợp trong tiếng Anh, coordination có nghĩa là làm việc với nhau một cách
hòa hợp, mà trong đó các chủ thể đều thực hiện hành vi nhằm đạt mục tiêu đã xác
định với sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các hành vi.
Xét từ khía cạnh quản lý hoạt động, phối hợp là một phương thức, một quy
trình kết hợp hoạt động giữa các thành viên để đảm bảo cho hoạt động được thực hiện
một cách hiệu quả. Phối hợp tồn tại trong suốt quá trình hoạt động, từ quá trình chuẩn
bị, đến thực hiện. Ở đâu có hoạt động thì ở đó đòi hỏi phải có sự phối hợp. Mục tiêu
cuối cùng của sự phối hợp là tạo được sự thống nhất, đồng thuận, ăn ý giữa các chủ
thể trong hoạt động đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động. Sự phối hợp hành động
giữa các thành viên trong một hoạt động giống như trong một dây truyền sản xuất.
Nó thể hiện ở sự đồng bộ, ăn khớp giữa các thành viên trong hoạt động. Tuy nhiên,
khác với hoạt động theo dây truyền, sự phối hợp hành động của các chủ thể trong một
hoạt động là một sự phối hợp linh hoạt, uyển chuyển, mềm dẻo. Để phối hợp hành
động tốt, trước hết đòi hỏi các cá nhân trong hoạt động phải đồng nhận thức, đồng
thái độ và đồng hành vi. Có sự phối hợp hành động lẫn nhau thể hiện qua sự ý thức
và thái độ tích cực, tự giác thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong chuẩn bị, tiến
hành nhiệm vụ. Khả năng sử dụng các kĩ năng cần thiết nhằm phối hợp với nhau tốt.
Để có sự phối hợp hành động cao trong tương tác tâm lý, các thành viên phải
dựa trên sự thấu hiểu về năng lực, khả năng của cá nhân, sở trường, sở đoản, sở thích,
thói quen. Tính đến tính cách, khí chất, điều kiện, hoàn cảnh... của các cá nhân. Sự
hiểu biết, nắm bắt các đặc điểm này sẽ là cơ sở để phân công nhiệm vụ đạt tới sự
“thấu tình, đạt lý”, “thỏa nguyện, thỏa lòng”. Qua đó mà đạt được sự đồng lòng nhất
29
trí, hợp tác với nhau cao trong công việc.
* Ảnh hưởng tâm lý lẫn nhau
Theo tác giả Vũ Dũng, ảnh hưởng xã hội là sự ảnh hưởng của cá nhân này đến
tâm lý, hành vi hay sự thích ứng của người khác theo ba phương thức: Kích thích -
Sự củng cố - Thông tin (Vũ Dũng, 2000).
Fischer, R. S. Feldman, Trần Thị Minh Đức cho rằng, ảnh hưởng xã hội được
hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, ảnh hưởng xã hội là hành vi của
một người trở thành sự chỉ dẫn, định hướng cho người khác. Theo nghĩa hẹp, ảnh
hưởng xã hội chỉ sự thay đổi hành vi của một người dựa vào sức ép chi phối trong
một bối cảnh nhất định. Ảnh hưởng xã hội là hiện tượng tâm lý phổ biến. Cứ có tương
tác là có ảnh hưởng xã hội. Sự ảnh hưởng xã hội có thể diễn ra theo chiều hướng tích
cực hoặc tiêu cực “Hiệu ứng xã hội” (Fischer, 1992), (Feldman, 2003), (Trần Thị
Minh Đức, 1998).
Theo K. Lewin, khi các cá nhân tương tác với nhau, tức là tạo ra các kích thích
và các phản ứng đáp lại sẽ tạo ra một trường năng lượng, gây áp lực, làm ảnh hưởng
đến nhau. Trong môi trường đó, sự ảnh hưởng của các kích thích không chỉ phụ thuộc
vào cường độ kích thích từ phía đối tượng mà còn phụ thuộc vào cường độ và hướng
hành vi đáp ứng của chủ thể. Trong nghiên cứu của mình, bằng thực nghiệm K. Lewin
đã chứng minh phong cách tác động của cá nhân sẽ tạo ra sự ảnh hưởng khác nhau
tới người khác (Lewin, 1951).
Sự ảnh hưởng lẫn nhau trong tương tác có thể diễn ra trên cả ba bình diện:
nhận thức, thái độ và hành vi. Nhiều thực nghiệm của các nhà tâm lý học, xã hội học
như Solomon Asch, Ben Jones,... đã phát hiện ra sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cá
nhân có thể diễn ra theo các cơ chế như: lây lan, bắt chước, ám thị,…
Sự ảnh hưởng lẫn nhau trong tương tác vừa là bản chất, vừa là hiệu quả của sự
tương tác. Trong tương tác tâm lý, có thể thấy sự ảnh hưởng từ cá nhân này lên cá
nhân khác bằng nhiều cách thức khác nhau (tác động, khuyến khích,... bằng vật chất
hoặc tinh thần theo hướng tích cực hoặc tiêu cực). Ảnh hưởng trong tương tác tâm lý
có nhiều mức độ. Làm thay đổi hành vi bên ngoài; Làm thay đổi cả nhận thức, thái
30
độ; Làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi bên trong,…
Điều đó cho thấy, khi nghiên cứu tương tác tâm lý, biểu hiện ảnh hưởng lẫn
nhau trong tương tác vừa là biểu hiện đồng thời vừa là hiệu quả giúp ta đánh giá mức
độ, hiệu quả quá trình tác động tâm lý của các cá nhân trong quá trình tương tác tâm
lý, và như vậy có thể suy xét, khi ảnh hưởng của bên này trong quá trình tác động tới
bên kia và ngược lại càng cao thì hiệu quả tương tác tâm lý càng lớn và ngược lại.
* Tần số tương tác
Theo từ điển mở Online (Bách khoa toàn thư mở), tần số là số lần cùng một
hiện tượng lặp lại trên một đơn vị thời gian. Để tính tần số chọn một khoảng thời gian
đếm số lần xuất hiện của một hiện tượng trong một thời gian ấy rồi chia số này cho
khoảng thời gian đã chọn.
Trong tương tác tâm lý, tần số phản ánh nhịp độ của tương tác. Điều đó có thể
giải thích, nếu tần xuất tương tác diễn ra, lặp lại thường xuyên biểu hiện qua số lần
dày thì tương tác tâm lý giữa các cá nhân bền chặt, ổn định. Như dân gian thường
quan niệm: “Năng mưa thì giếng năng đầy - Em năng đi lại mẹ thầy năng thương”.
Tuy nhiên, ở khía cạnh tâm lý này, tần số tương tác tâm lý của các cá nhân phải thể
hiện cả sự mong muốn, hứng thú lặp lại (nghĩa là cũng phải phản ánh sự biểu hiện
của nhu cầu tương tác). Ngược lại, khi các cá nhân trong tương tác tâm lý có sự né
tránh, biểu hiện trên tần số tương tác ít cho thấy, sự tương tác tâm lý của các cá nhân
chưa cao. Bởi lẽ, thực tế đã minh chứng, các cá nhân trong các mối quan hệ xã hội
chỉ tương tác với nhau với tần số dày khi họ có nhu cầu tương tác với nhau, có được
sự tương hợp tâm lý, sự ảnh hưởng đến nhau, cũng như dễ dàng phối hợp nhau trong
hoạt động. Ngược lại, khi không có được sự tương hợp, ngay cả khi có nhu cầu, họ
cũng sẽ hạn chế, thậm chí né tránh sự tương tác.
Tóm lại, Trên đây là những biểu hiện của các thành phần tâm lý cơ bản tạo
thành tương tác tâm lý giữa các cá nhân. Nhu cầu tương tác là “động lực” của tương
tác tâm lý, sự tương hợp tâm lý trong tương tác phản ánh “bản chất”, sự phối hợp
phản ánh “sức mạnh”, tần số cho thấy “nhịp độ”, sự ảnh hưởng lẫn nhau nói lên “hiệu
quả” của quá trình tương tác tâm lý. Điều đó cho thấy, khi nghiên cứu tương tác tâm
lý không thể không xem xét các biểu hiện này như là những thành phần này trong
31
mối quan hệ tương hỗ.
1.2.3. Hoạt động học tập
Hoạt động học tập là vấn đề được quan tâm, đặc biệt là đối với đặc thù học tập
theo học chế tín chỉ và quan niệm học tập hiện đại: Lấy người học làm trong tâm,
người học là chủ thể của hoạt động học.
1.2.3.1. Khái niệm
Khi nhắc đến khái niệm hoạt động học, cần phân biệt rõ khái niệm học và hoạt
động học. Ngay từ khi sinh ra, con người đã không ngừng tích lũy những kinh nghiệm
sống, tạo nên những tri thức tiền khoa học, tri thức kinh nghiệm. Trên cơ sở đó tiếp
thu những tri thức khoa học trong nhà trường. Đây là học theo phương pháp của cuộc
sống thường ngày.
Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có học theo phương pháp nhà trường mới có khả
năng tổ chức để cá nhân tiến hành một hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học, qua
đó mà hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học; những năng lực mới đáp ứng
32
yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Bảng 1.1. Đối chiếu khác biệt giữa Học và Hoạt động học (tâm lý học lứa tuổi và
tâm lý học sư phạm)
Tiêu chí Học Hoạt động học
Mục đích
Mục đích không được xác định trước, thường là từ các tình huống ngẫu nhiên. Mục đích được xác định trước, người học có thể ý thức mục đích này thật rõ ràng
Nội dung
Những tri thức rời rạc, ngẫu nhiên, thường đơn giản và không khái quát. Các tri thức khoa học đã được kiểm chứng, có tính khái quát, có hệ thống.
Cần áp dụng các phương pháp, sử dung phương tiện phù hợp. Ít cần đến phương pháp, phương tiện hỗ trợ. Phương pháp, phương tiện
Chủ thể Bất kì người nào (trẻ em, người trưởng thành). Không giới hạn độ tuổi nhưng có danh xưng học sinh, sinh viên, gọi chung là “người học”.
Mọi lúc, mọi nơi. Có quy định thời điểm cụ thể, diễn ra trong nhà trường. Thời gian, không gian
Kết quả
Hình thành những kinh nghiệm gắn với các tình huống cụ thể, giúp thích nghi với cuộc sống. Hình thành ở người học hệ thống tri thức lý luận làm nền tảng, tạo năng lực thực tiễn và giúp họ sáng tạo.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn và cộng sự cho rằng: “Sự học, việc học, học tập
về sắc thái có chút ít khác nhau nhưng về thực chất là một”, từ đó đi đến định nghĩa:
“Sự học là sự biến đổi hoạt động vững chắc hợp lý nhờ một hoạt động xảy ra trước
đó, chứ không phải là do các phản ứng sinh học bẩm sinh của cơ thể.” Nguyễn Quang
Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành ( 2003).
Tác giả L. B. Encônhin cho rằng “việc lĩnh hội tri thức là nội dung cơ bản của
hoạt động học tập”. N. V. Cudơmin quan niệm “học tập là loại hoạt động nhận thức
cơ bản của sinh viên được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy (Nguyễn
Thạc & Phạm thành Nghị, 1992).
Trong quá trình đó, việc nắm vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó
33
thì không thể tiến hành được hoạt động nghề nghiệp tương lai. Nhóm tác giả Phạm
Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ cho rằng bản chất của hoạt
động học tập được thể hiện qua một số ý sau:
- Tri thức và kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với tri thức ấy là đối tượng của hoạt
động học.
- Hoạt động học là hoạt động hướng vào làm thay đổi và phát triển chính chủ
thể của hoạt động này.
- Hoạt động học là hoạt động tiếp thu (lĩnh hội) những nội dung và hình thức
lý luận của tri thức, kĩ năng, kĩ xảo xã hội.
- Hoạt động học không phải là hoạt động chỉ hướng vào việc tiếp thu những
tri thức, kĩ năng, kỉ xảo xã hội, mà còn hướng vào việc tiếp thu chính tri thức của bản
thân hoạt động học (những hành động học tập thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao) (Phạm
Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Lê Khang, Trần Trọng Thủy, 1989)
Nhìn chung, mặc dù còn có những quan điểm khác nhau về hoạt động học tập
nhưng các tác giả đều thống nhất cho rằng khi nói đến hoạt động học tập đó là hoạt
động nhận thức căng thẳng, là sự tiếp thu tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử để tạo
ra sự phát triển tâm lý ở người học.
Từ quan điểm của các nhà Tâm lý học trên, chúng tôi cho rằng hoạt động học
tập của sinh viên có thể được định nghĩa như sau: hoạt động học tập của sinh viên là
hoạt động chuyên hướng vào chiếm lĩnh tri thức khoa học, kĩ năng kĩ xảo và thái độ
tương ứng cũng như những tri thức của chính bản thân hoạt động học (phương pháp
học) để tạo ra sự phát triển tâm lý của sinh viên nhằm đáp ứng yêu cầu của một nghề
nghiệp cụ thể trong tương lai.
1.2.3.2. Bản chất
* Đối tượng của hoạt động học
+ Đối tượng của hoạt động học là các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng với
tri thức đó. Chúng là các đối tượng khách quan tồn tại bên ngoài người học và người
học đang có nhu cầu tái tạo loại tri thức này trong đầu óc của mình. Việc tái tạo không
34
thể diễn ra bằng cách người dạy rót vào đầu người học bằng các bài giảng lý thuyết.
+ Theo lý thuyết hoạt động, muốn chiếm lĩnh đối tượng, người học phải tác
động trực tiếp vào đối tượng bằng những hành động cụ thể, phù hợp. Người học chiếm
lĩnh được tri thức bằng cách thực hiện các nhiệm vụ mà người dạy giao phó.
* Hoạt động học hướng vào làm thay đổi chính mình
* Hoạt động học được điều khiển một cách có ý thức nhằm tiếp thu những tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo
Như đã trình bày ở trên, quá trình tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo sẽ được xảy
ra theo hai cách:
+ Cách thứ nhất khi chủ thể tiến hành một hoạt động cụ thể. Cách này được
diễn ra thông qua kinh nghiệm có sẵn, vì vậy những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhận
được thường mang tính kinh nghiệm. Cách này cần nhưng chưa đủ.
+ Cách thứ hay chính là, trong hoạt động học tập, người học phải ý thức được
mục đích học tập của mình, phải nỗ lực, cố gắng vượt qua khó khăn để chiếm lĩnh
các tri thức khoa học. Đối tượng sẽ là các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đã được chọn lọc,
hệ thống bởi các nhà giáo dục học, nhà biên soạn chương trình phù hợp với yêu cầu
của xã hội đương thời. Đây là những tri thức đã được hệ thống hóa, khái quát hóa,
chứa đựng những khái niệm quan trọng, những đặc điểm bản chất, các mối quan hệ
mang tính quy luật, những nguyên lý quan trọng trong thế giới khách quan và trong
đời sống con người. Người học muốn lĩnh hội tri thức này cần có ý thức tự giác cao
và nhờ đến sự giúp đỡ của người dạy.
* Hoạt động học không chỉ nhằm lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn
hướng đến hình thành những tri thức của chính hoạt động học, đó là những cách thức
thực hiện hoạt động học, là phương pháp học.
Thật vậy, để hoạt động học được tiến hành hiệu quả cần biết cách thức thực
hiện, biết sử dụng các phương pháp học tập phù hợp. Ở đây muốn nhấn mạnh cả hai
việc tiếp thu tri thức, kĩ năng kĩ xảo và có phương pháp học tập phù hợp là hai nhiệm
vụ quan trọng mà người học cần quan tâm đồng thời.
Thực tế việc học tập ở đại học, người học cần chủ động tiếp cận các tri thức,
35
kĩ năng, kĩ xảo. Người dạy chỉ giữ vai trò là người định hướng, người học cần tự tìm
tòi phương pháp, cách thức học và chắt lọc những tri thức phù hợp để đáp ứng yêu
cầu của nghề nghiệp trong tương lai.
1.3. Một số đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên
1.3.1. Khái niệm thanh niên sinh viên
Theo tâm lý học phát triển (Vũ Thị Nho), thanh niên sinh viên được xác định
là những người tham gia vào việc học tập ở các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề
có độ tuổi sau trung học phổ thông và kết thúc khoảng 24 - 25 tuổi (25 tuổi là kết thúc
giai đoạn đào tạo dài nhất ở bậc đại học) (Vũ Thị Nho, 2005).
Theo Dương Thị Diệu Hoa, thuật ngữ sinh viên có gốc từ tiếng La tinh
"Studens", nghĩa là người làm việc, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Sinh viên là
những người đang chuẩn bị cho một hoạt động mang lại lợi ích vật chất hay tinh thần
của xã hội. Các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, sản xuất hay hoạt động xã
hội của họ đều phục vụ cho việc chuẩn bị tốt nhất cho hoạt động mang tính nghề
nghiệp của mình sau khi kết thúc quá trình học trong các trường nghề. (Dương Thị
Diệu Hoa, 2008)
Về tuổi sinh học, đa số sinh viên thuộc lứa tuổi thanh niên từ 17 đến 25 tuổi
một số ít có tuổi đời thấp hoặc cao hơn tuổi thanh niên. Vì vậy, sự phát triển và trưởng
thành về giải phẫu và sinh lý của tuổi thanh niên là đặc trưng cho lứa tuổi sinh viên.
Về phương diện xã hội, sinh viên cũng giống thanh niên học sinh là nhóm
người chưa ổn định, còn phụ thuộc về địa vị xã hội do chưa thực sự tham gia vào
guồng máy sản xuất của xã hội. Vì vậy, đặc điểm tâm lý của họ có phần khác so với
thanh niên cùng lứa tuổi nhưng đã có việc làm ổn định và trưởng thành về nghề
nghiệp.
Như vậy, có thể nói thanh niên sinh viên là những người có độ tuổi sau trung
học phổ thông đến khoảng 25 tuổi, có sự phát triển và trưởng thành về giải phẫu sinh
36
lý.
1.3.2. Một số dạng hoạt động của thanh niên sinh viên
Theo Vũ Thị Nho, các hoạt động cơ bản của thanh niên, sinh viên bao gồm:
* Hoạt động học tập nhằm chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, cũng như các
phương thức của hoạt động nhận thức. Hoạt động trí tuệ vẫn giữ vai trò quan trong ở
thanh niên, sinh viên. Tuy nhiên hoạt động này đã có những khác biệt về chất so với
lứa tuổi trung học phổ thông. Hoạt động học tập ở đại học không còn cung cấp những
kiến thức phổ thông mà tập trung vào các kiến thức chuyên ngành, phạm vi hẹp hơn,
nghiên cứu sâu hơn, nhằm đào tạo những chuyên gia, những trí thức cho đất nước.
Việc học tập ở đại học cũng có những phương pháp khác so với phổ thông. Vì vậy
đòi hỏi người học phải có sự chủ động và tự tìm tòi cho mình phương pháp học tập
phù hợp.
* Hoạt động nghiên cứu khoa học: Do tính chất đặc thù của hoạt động đào tạo
ở bậc đại học, song song với hoạt động học tập, ở bậc học đại học xuất hiện một hoạt
động rất đặc trưng là hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt động này đã có mầm mống
từ những lứa tuổi trước những chưa rõ nét, chỉ khi lên tới bậc đại học, với đòi hỏi bức
bách đối với các chuyên gia tương lai, hoạt động nghiên cứu khoa học trở thành hoạt
động chiếm một vị trí ngày càng quan trọng.
* Hoạt động học nghề: Việc học nghề ở đại học khác với việc học nghề truyền
thống hay ở những trường dạy nghề. Đối với việc học nghề truyền thống hay ở những
trường dạy nghề, việc học nghề là học “như thế nào?” - tức học cách thức tiến hành,
còn học nghề ở đại học là học “tại sao?” - tức học những hành động, những kĩ thuật,
những nguyên tắc chung có tính chất trí óc là chính.
* Hoạt động chính trị - xã hội: Đây là một nội dung hoạt động đặc trưng của
sinh viên. Hội sinh viên là một tổ chức chính trị xã hội. Họ có đầu óc nhạy bén, quan
tâm đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia và quốc tế. Họ có chính kiến
đối với đường lối, chính sách, chủ trương của những đảng chính trị, những tổ chức
cầm quyền. Do đó, hoạt động chính trị - xã hội là nhu cầu, nguyện vọng của thanh
niên sinh viên.
Ngoài những hoạt động trên, thanh niên sinh viên cũng là nhóm người tham
37
gia tích cực vào các hoạt động văn hóa, nghê thuật, thể dục, thể thao. Họ còn tham
gia vào nhiều câu lạc bộ âm nhạc, thể thao, kĩ năng,... để thỏa mãn nhu cầu giao lưu
và rèn luyện toàn diện của họ.
Bao trùm lên tất cả các hoạt động phong phú, đa dạng của sinh viên các trường
đại học là những quan hệ giao lưu, giao tiếp với hàng loạt mối quan hệ xã hội đan xen
với nhau. Những mối giao lưu này mang tính phức hợp giữa cá nhân người sinh viên
với các bạn bè cùng lứa, cùng giới, khác giới, các tổ chức, các nhóm xã hội trực tiếp
và gián tiếp (các phương tiện thông tin, truyền thông),... Hoạt động giao lưu này chiếm
vị trí quan trọng trong sự phát triển đời sống tâm lý, nhân cách của sinh viên.
1.3.3. Một số đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên
Những đặc điểm tâm lý của sinh viên bị chi phối bởi các đặc điểm về thể chất,
môi trường và vai trò xã hội mà người đó tham gia vào. Những đặc điểm phát triển
tâm lý của sinh viên rất đa dạng, phong phú và không đồng đều. Dưới đây là một số
đặc điểm:
* Sự thích nghi của sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới
Hoạt động học tập, hoạt động xã hội và môi trường sống có sự thay đổi về chất
so với lứa tuổi trước. Đối với đa số sinh viên, khi bước vào lứa tuổi này đồng nghĩa
với môi trường sống, môi trường học tập, các mối quan hệ có sự thay đổi so với trước.
Để học tập, hoạt động và sinh hoạt có hiệu quả, sinh viên phải có cách thức thích nghi
với môi trường học tập, môi trường xã hội mới. Quá trình thích nghi chủ yếu ở các
mặt:
+ Nội dung học tập mang tính chuyên ngành;
+ Phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học;
+ Môi trường sinh hoạt mở rộng ở phạm vi quốc gia, thậm chí quốc tế;
+ Nội dung và cách thức giao tiếp với bạn bè, với giảng viên và các mối quan
hệ xã hội khác đa dạng, phong phú,...
Một số công trình nghiên cứu cho thấy sinh viên cần có thời gian để làm quen,
thích ứng với những vấn đề trên như công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Trình:
“Sự thích ứng với hoạt động học tập đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường đại học
Hoa Hà Tiên”. Sự thích ứng này đối với mỗi sinh viên không hoàn toàn như nhau,
38
tùy thuộc vào những đặc điểm tâm lý cá nhân và môi trường sống cụ thể của họ quy
định. Có những sinh viên dễ dàng và nhanh chóng hòa nhập với môi trường xã hội
mới, nhưng lại gặp khó khăn trong phương pháp, cách thức học ở đại học. Có người
cảm thấy ít khó khăn trong việc tiếp thu tri thức, dễ vượt qua cách học chuyên sâu ở
đại học, nhưng lại lúng túng, thiếu tự nhiên trong việc hòa nhập với bạn bè, với các
nhóm hoạt động trong lớp, trong trường đại học. Một số sống hòa đồng, cởi mở với
mọi người, trong khi một số khác lại ở dạng thận trọng, khép kín.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu cho thấy, nhìn chung sau một thời gian
học tập ở bậc đại học, đa số sinh viên có sự thích ứng nhanh chóng với môi trường xã
hội mới trên cơ sở tình bạn của những người trẻ tuổi. Khó khăn có tính chất bao trùm
hơn vẫn là phải thích nghi được với nội dung, phương pháp học tập mới có tính chất
nghiên cứu khoa học và học nghề đối với những chuyên gia tương lai. Mức độ thích
nghi này có ảnh hưởng trực tiếp đến thành công trong học tập của họ, bởi vậy có ý
nghĩa chi phối rõ rệt hơn. Ở đây, sinh viên còn một loạt mâu thuẫn cần giải quyết:
+ Mâu thuẫn giữa ước mơ, kì vọng của sinh viên và khả năng, điều kiện thực
hiện chúng;
+ Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập, nghiên cứu sâu môn học mà mình yêu
thích với yêu cầu phải thực hiện toàn bộ chương trình học theo thời gian biểu nhất
định;
+ Mâu thuẫn giữa lượng thông tin rất nhiều trong xã hội, trên mạng lưới thông
tin với thời gian có hạn của bản thân,...
Để phát triển, sinh viên phải giải quyết các mâu thuẫn này một cách hợp lý.
Với mọi sinh viên, điều này không dễ dàng. Ở đây, một mặt người sinh viên phải tích
cực hoạt động, biết sắp xếp, mặt khác việc tổ chức dạy và học ở các trường đại học
cần hỗ trợ, giúp đỡ sinh viên giải quyết các mâu thuẫn trên. Xét đến cùng, nhân cách
39
của sinh viên được phát triển chính trong quá trình họ giải quyết các mâu thuẫn đó.
* Sự phát triển về trí tuệ, nhận thức của sinh viên
Bản chất của hoạt động nhận thức của sinh viên ở trường đại học là đi sâu, tìm
hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu để
nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, quy luật của các khoa học đó, với mục
đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định. Hoạt động nhận thức của
họ một mặt phải kế thừa một cách có hệ thống những thành tựu đã có, mặt khác lại
phải tiệm cận với những thành tựu của khoa học đương đại và có tính cập nhật, thời
sự. Chính vì vậy, nét đặc trưng cho hoạt động học tập của sinh viên là sự căng thẳng
nhiều về trí tuệ, sự phối hợp của nhiều thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng
hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Có thể nêu các đặc điểm sau đây trong hoạt động
nhận thức của thanh niên, sinh viên:
+ Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội các tri thức, hệ thống khái niệm khoa học,
những kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất của người chuyên gia
tương lai. Hoạt động nhận thức của họ vừa gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa học,
vừa không tách rời với hoạt động nghề nghiệp.
+ Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, có mục đích,
nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp đào tạo theo thời gian một cách
chặt chẽ những không bị quá khép kín, có tính chất mở rộng theo năng lực, sở trường
để họ có thể phát huy tối đa năng lực nhận thức của mình trong nhiều lĩnh vực. Có
những sinh viên không chỉ học trong một khoa mà còn học ở nhiều khoa, nhiều ngành
đào tạo khác nhau để bổ sung kiến thức cho mình.
+ Phương tiện hoạt động nhận thức của sinh viên được mở rộng và phong phú
với các thư viện, phòng thực nghiệm, phòng bộ môn với những thiết bị khoa học cần
thiết cho từng ngành đào tạo. Do đó, phạm vi hoạt động nhận thức của sinh viên đa
dạng: vừa rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp, vừa phát huy việc học nghề một
cách rõ rệt.
+ Hoạt động học tập của sinh viên mang tính đọc lập, tự chủ và sáng tạo cao.
Hoạt động tư duy của sinh viên trong quá trình học tập chủ yếu là theo hướng phân
40
tích, diễn giải, chứng minh các định đề khoa học.
+ Sinh viên phải tìm ra phương pháp học tập phù hợp, phương pháp đó phải
phù hợp với chuyên ngành đào tạo mà họ theo đuổi. Không tìm ra được cách học khoa
học, sinh viên không thể đạt được kết quả học tập tốt vì khối lượng tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo họ phải lĩnh hội khi học đại học là rất lớn.
Tóm lại, hoạt động nhận thức của sinh viên là một hoạt động trí tuệ đích thực,
căng thẳng cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt. Hoạt động trí tuệ này vẫn lấy
những sự kiện của các quá trình nhận thức cảm tính làm cơ sở. Song các thao tác trí
tuệ đã phát triển ở trình độ cao và đặc biệt có sự phối hợp nhịp nhàng, tinh tế và uyển
chuyển, linh động tùy theo từng hoàn cảnh có vấn đề. Bởi vậy đa số sinh viên lĩnh
hội nhanh nhạy, sắc bén những vấn đề mà thầy, cô giáo trình bày. Họ thường ít thỏa
mãn với những gì đã biết mà muốn đào sâu, suy nghĩ để nắm vấn đề sâu hơn, rộng
hơn.
* Sự phát triển động cơ học tâp ở sinh viên
Động cơ học tập chính là nội dung tâm lý của hoạt động học tập. Động cơ này
bị chi phối bởi nhiều hoạt động khác nhau. Có thể là những yếu tố tâm lý của chính
chủ thể như hứng thú, tâm thế, niềm tin, thế giới quan, lý tưởng sống,... Cũng có thể
đó là những yếu tố nằm ngoài bản thân chủ thể như những yêu cầu của gia đình, xã
hội. Động cơ học tập cũng có thể nảy sinh do chính hoạt động và những hoàn cảnh,
điều kiện cụ thể của hoạt động mang lại. Ví dụ: nội dung, phương pháp dạy học, trình
độ tay nghề, nhân cách của những thầy, cô giáo, các điều kiện, thiết bị dạy học: thư
viện, phòng thí nghiệm,...
Lĩnh vực động cơ hoạt động của sinh viên đại học rất đa dạng, phong phú và
thường bộc lộ rõ tính hệ thống. Trong đó việc học tập của họ không chỉ bị chi phối
bởi một động cơ mà thường là một số động cơ nào đó. Ví dụ: những động cơ có tính
chất nhận thức đối với chính quá trình nghiên cứu, học tập như khao khát có tri thức,
có trình độ, hứng thú với những vấn đề lý luận, những vấn đề khoa học, những nội
dung có tính nghề nghiệp rõ rệt, thích có nghề nghiệp nghiêm chỉnh, muốn trở thành
chuyên gia của một nghề,...; những động cơ liên quan đến sự tự khẳng định, tự ý thức
về năng lực, phẩm chất của người thanh niên trưởng thành, những động cơ có tính xã
41
hội; muốn cống hiến tài năng, sức lực cho xã hội, có hoài bão trong việc xây dựng đất
nước; những động cơ liên quan đến chính tương lai, đường đời của cá nhân: có nghề
nghiệp ổn định, tương đối cao trong xã hội để có thu nhập nuôi sống mình, nuôi sống
gia đình,...
Những nghiên cứu về động cơ học tập của sinh viên cho thấy trong cấu trúc
thứ bậc động cơ, sinh viên thường biểu hiện như sau:
+ Động cơ nhận thức xếp thứ nhất;
+ Động cơ nghề nghiệp ở vị trí thứ hai;
+ Động cơ có tính xã hội ở vị trí thứ ba;
+ Động cơ tự khẳng định vị trí thứ tư;
+ Động cơ có tính cá nhân ở vị trí thứ năm.
Thứ bậc của các động cơ thường không cố định mà có sự biến đổi trong quá
trình học tập ở bậc đại học. Thứ bậc này cũng không phải như nhau ở các loại sinh
viên có trình độ học lực khác nhau và ở các trình độ khoa học khác nhau. Theo nghiên
cứu của A.N.Ghebơxơ, việc hình thành động cơ học tập của sinh viên phụ thuộc vào
các yếu tố sau (Nguyễn Thạc & Phạm Thành Nghị, 1992):
+ Ý thức về mục đích gần và mục đích xa của hoạt động học tập;
+ Nắm vững ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tri thức do sinh viên lĩnh
hội;
+ Nội dung mới của những tài liệu và thông tin khoa học được trình bày;
+ Tính hấp dẫn, sự xúc cảm của thông tin;
+ Tính nghề nghiệp được thể hiện rõ trong tài liệu được trình bày.
Như vậy trong quá trình học tập, lĩnh vực động cơ của sinh viên tiếp tục bị chi
phối khá mạnh bởi chính vai trò của các cán bộ giảng dạy trong việc tổ chức hoạt
động dạy học. Việc phát triển những động cơ tích cực của hoạt động học tập ở sinh
viên phụ thuộc vào một số điều kiện sư phạm nhất định. Ví dụ: những bài giảng được
trình bày theo hướng nêu vấn đề, gây những tình huống được giải quyết; những giờ
thảo luận, những buổi hội thảo được phát huy tính độc lập, sáng tạo; việc hướng dẫn
hoạt động nghiên cứu khoa học ở phòng thí nghiệm hoặc nghiên cứu thực tế, thực
42
tiễn để giải quyết các vấn đề,... có ý nghĩa quan trọng để phát triển hệ động cơ nhận
thức của sinh viên theo hướng tích cực và hạn chế những động cơ tiêu cực trong học
tập.
1.4. Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của thanh niên sinh viên
1.4.1. Khái niệm tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của thanh niên sinh viên
Từ khái niệm tương tác tâm lý và hoạt động học tập của sinh viên, chúng tôi
đưa ra khái niệm về tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên như sau:
“Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên là sự tiếp xúc tâm lý tác
động về phương diện tâm lý giữa sinh viên với nhau trong hoạt động học tập. Kết quả
làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trong hoạt động học tập.”
Trong phạm vi nghiên cứu này, tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên được nghiên cứu thông qua một số biểu hiện sau:
1.4.2. Biểu hiện tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
* Nhu cầu tương tác tâm lý giữa sinh viên viên với sinh viên
Nhu cầu tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh viên là nhu cầu được gặp gỡ,
trao đổi, tiếp xúc với nhau về mặt tâm lý, qua đó giúp nhau nắm bắt những vấn đề
liên quan tới kiến thức khoa học, chuyên môn, nghiệp vụ và các lĩnh vực khác nhau
trong cuộc sống.
Nhu cầu tương tác tâm lý không chỉ thể hiện ở sự mong muốn, mong chờ mà
còn biểu hiện ở thái độ khao khát, hứng khởi được trao đổi với nhau khi tới lớp. Nhu
cầu tương tác tâm lý ở sinh viên không chỉ thể hiện ở sự có chuẩn bị bài học mà còn
là sự hào hứng, mong chờ, sự khao khát tiếp nhận, tìm hiểu, khám phá, vận dụng cái
mới trong tri thức trên lớp. Có được điều đó, chính là nhu cầu tương tác tâm lý.
Nhu cầu tương tác tâm lý là một hiện tượng tâm lý phản ánh cái bên trong,
chúng ta sẽ khó định dạng được hình hài tròn méo, nhưng có thể đọc được và nắm bắt
được nhu cầu tâm lý của sinh viên qua các hành vi, thái độ thể hiện ra bên ngoài trong
hành động học tập trên lớp học. Khi nhu cầu tương tác tâm lý được xây dựng, hình
thành và phát triển, nó sẽ là nguồn động lực to lớn kích thích tạo nên nguồn nội lực
khiến sinh viên không ngừng gia tăng sự tìm kiếm và tương tác với nhau vì nó không
43
chỉ thỏa mãn cái tôi muốn, cái tôi cần mà còn cả cái tôi hiểu, cái tôi thích, cơ sở của
sự tương giao. Nhu cầu tương tác tâm lý là động lực giúp sinh viên trong hoạt động
học tập thuận lợi, hiệu quả.
Nhu cầu tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên trong hoạt động học tập
được chúng tôi xác định bao gồm:
+ Biểu hiện ở mong muốn được trao đổi, trò chuyện với nhau không chỉ giới
hạn nội dung trong bài học theo trách nhiệm, nhiệm vụ mà còn mong muốn trao đổi,
trò chuyện với nhau nhiều vấn đề trong cuộc sống, xã hội.
+ Biểu hiện ở thái độ hứng thú, hào hứng trong chuẩn bị nội dung bài học, quá
trình tương tác.
+ Biểu hiện ở hành vi tích cực, chủ động trong tương tác. Luôn tìm cơ hội và
tạo cơ hội để tương tác với nhau không chỉ trên lớp mà khi thời gian tương tác trên
lớp hạn hẹp, biết tận dụng các phương tiện khác để thỏa mãn.
* Tương hợp và ảnh hưởng tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
Tương hợp tâm lý trong tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên trong
hoạt động học tập chính là quá trình cả hai trên lớp cùng điều hòa được mối quan hệ
trên cơ sở của sự hiểu biết, hiểu thấu về đặc điểm thể chất - tâm lý, tôn trọng, chia sẻ,
đồng cảm lẫn nhau từ đó mà tác động ảnh hưởng sâu đến thế giới tinh thần của nhau,
tác động tích cực đến tâm tư, tình cảm, thái độ tương tác của nhau trong hoạt động
trên lớp học.
Tương hợp tâm lý giữa sinh viên và sinh viên trong hoạt động học tập không
giống như tương hợp giữa mẹ - con, chồng - vợ bản chất là dựa trên sự xúc cảm, tình
cảm làm cơ sở chính. Tương hợp tâm lý này lấy sự tương đồng, thông cảm, sự hiểu
biết, thấu hiểu với nhau làm cơ sở.
Trong tương tác tâm lý trong hoạt động học tập, sinh viên và sinh viên không
chỉ qua sự tác động về mặt tâm lý đến nhau nhằm tiến hành, thực hiện trao đổi, tiếp
nhận thông tin được thuận lợi, mà qua sự tác động tâm lý tạo hiệu ứng tích cực gây
ảnh hưởng tâm lý đến nhau trong quá trình tương tác.
Thực tiễn đã minh chứng, trong quá trình thiết lập, duy trì mối quan hệ, yếu tố
44
sự ảnh hưởng có vai trò nhiều khi quyết định tới hiệu quả mối quan hệ.
Trong tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên, nếu tạo được
ảnh hưởng tích cực sẽ có tác dụng tác động không chỉ đến nhận thức mà cả thái độ và
hành vi của bản thân cá nhân, làm các cá nhân thay đổi bản thân (theo lý thuyết tâm
lý là diễn ra quá trình nhập tâm). Không những vậy, sự ảnh hưởng tâm lý tích cực
trong tương tác của sinh viên còn có tác dụng làm các cá nhân tăng nhu cầu, thay đổi
thái độ tích cực tương tác với nhau, tăng sự tương hợp, ảnh hưởng tâm lý cùng nhau
trong hoạt động tương tác, giúp quá trình đào tạo nhanh chóng đến đích. Ngược lại,
tương tác của sinh viên trong hoạt động học tập nếu không tạo được sự ảnh hưởng
tích cực, không có ảnh hưởng, ảnh hưởng âm tính sẽ làm trì hoãn, thậm chí khó có
thể tiến hành, thực hiện một quá trình tương tác đúng nghĩa.
Do vậy, tương hợp tâm lý và ảnh hưởng trong tương tác tâm lý giữa sinh viên
với sinh viên trên lớp được chúng tôi xác định bao gồm các biểu hiện sau:
+ Biểu hiện ở sự nắm bắt và thấu hiểu về đời sống tâm lý của nhau;
+ Biểu hiện ở sự tương đồng về đời sống tâm lý;
+ Biểu hiện ở sự chấp nhận và tôn trọng lẫn nhau;
+ Biểu hiện ở sự thỏa mãn và hài lòng.
* Tần số tương tác trong tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên
Tần số không phải là một biểu hiện mang nghĩa là một thành tố tâm lý tham
gia trong quá trình tương tác, tần số tương tác đúng hơn là một thông số biểu hiện mà
căn cứ vào mức độ tần số tương tác giúp chúng ta thêm cứ liệu xác định hiệu quả và
thêm cứ liệu đánh giá thực trạng tương tác tâm lý trên lớp học giữa sinh viên và sinh
viên ở trường đại học.
Trong tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh viên trên lớp học, tần số tương
tác phản ánh nhịp độ của sự tương tác tâm lý.
Tần số tương tác phản ánh tính tích cực của nhu cầu qua số lần tương tác. Do
vậy, số lần tương tác cao sẽ là một cơ sở cho ta nhận định về nhu cầu. Tần số trong
tương tác trong hoạt động học tập giữa sinh viên và sinh viên cũng cho ta thấy sự
tương hợp tâm lý trong hoạt động học tập. Bởi lẽ, khi con người ta trong tương tác
45
mà sự tương hợp không có hoặc có thấp, sẽ khiến các cá nhân ngại tương tác với
nhau. Nếu bắt buộc phải tương tác cũng rất gượng gạo và nếu không được thay đổi,
củng cố sẽ có hiện tượng né tránh do không thể tương tác.
Tần số trong tương tác tâm lý ở sinh viên trong hoạt động học tập biểu hiện số
lần gặp gỡ, trao đổi, tác động giữa các chủ thể (sinh viên và sinh viên) trong cùng đơn
vị thời gian (giờ học trên lớp/ngày). Và như vậy, trong tương tác tâm lý trong hoạt
động học tập, khi sinh viên với sinh viên có số lần tương tác tâm lý cao thì điều đó
chứng tỏ, tương tác tâm lý trên lớp giữa sinh viên với sinh viên cao và ngược lại.
Chúng tôi xác định biểu hiện của tần số tương tác giữa sinh viên với sinh viên
trong hoạt động học tập như sau:
+ Tần số biểu hiện của nhu cầu tương tác;
+ Tần số biểu hiện của sự tương hợp và ảnh hưởng lẫn nhau;
+ Tần số biểu hiện của sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi.
* Sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi trong hoạt động học tập
Như định nghĩa ở trên, tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
là sự tiếp xúc tâm lý tác động về phương diện tâm lý giữa sinh viên với nhau trong
hoạt động học tập. Kết quả làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên
trong hoạt động học tập.
Theo đó, sự thay đổi sẽ tác động đến cả 3 mặt ở sinh viên là nhận thức, thái độ
và hành vi. Nhờ vào quá trình chủ thể hóa (quá trình nhập tâm) và nhờ vào tính chủ
thể của hoạt động con người dẫn đến kết quả là sự thay đổi trên.
Xét về mặt nhận thức, sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập giúp thay
đổi nhận thức của sinh viên được biểu hiện ở khía cạnh sinh viên thấu hiểu về tính
cách, sở thích, cảm xúc của nhau. Đây chính là yếu tố cần thiết và quan trọng tới hiệu
quả của mối quan hệ. Không những thế, nhận thức của sinh viên còn thay đổi ở việc
sinh viên biết cách bắt đầu và duy trì cuộc trò chuyện nhằm đạt được mục đích giao
tiếp. Đây chính là kĩ năng cần thiết mà chỉ bằng con đường thực hành, tiếp xúc trực
tiếp và trải nghiệm mỗi người mới có thể nâng cao kĩ năng cho mình.
Xét về mặt thái độ, thông qua quá trình tương tác, sinh viên biết được tầm quan
trọng và cần thiết của tương tác tâm lý. Nó không chỉ giúp ích trong quá trình học tập
46
mà trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống.
Xét về khía cạnh hành vi, nhờ vào quá trình tương tác tâm lý, trải qua quá trình
nhận thức, dẫn đến thái độ, và cuối cùng hành vi được thể hiện ra bên ngoài là kết
quả của nhận thức cũng như thái độ. Hành vi được thể hiện ở tần số tương tác tâm lý
cũng như các kĩ năng mà nhờ đó, tương tác đạt hiệu quả hơn.
Chúng tôi xác định biểu hiện của sự thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi giữa
sinh viên với sinh viên trong hoạt động học tập như sau:
+ Thay đổi về mặt nhận thức;
+ Thay đổi về mặt thái độ;
47
+ Thay đổi về mặt hành vi.
Tiểu kết chương 1
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu về mối quan hệ liên nhân cách, mối
quan hệ xã hội, tương tác tâm lý ở sinh viên trong và ngoài nước khá phong phú. Tuy
nhiên, với các nghiên cứu về mối quan hệ liên nhân cách chủ yếu là nghiên cứu bản
chất và sự tác động của nó đến một yếu tố khác để mô tả sự ảnh hưởng, tác động qua
lại giữa chúng. Các nghiên cứu về quan hệ xã hội chủ yếu nghiên cứu về quy mô, cấu
trúc, tính chất của mối quan hệ xã hội,... bên cạnh đó còn nghiên cứu một số nguyên
lý của mối quan hệ xã hội. Về tương tác tâm lý, đã có nhiều nhà Xã hội học, nhiều
nhà Tâm lý học quan tâm đến vấn đề này. Nguyên cứu về tương tác tâm lý tiếp cận
dưới góc độ chủ yếu là tương tác thầy - trò trong hoạt động dạy học. Hầu như chưa
có các công trình nghiên cứu về sự tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh viên trong
hoạt động học tập.
Các nghiên cứu về hoạt động học tập tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau như
nghiên cứu về quản lý hoạt động học tập, đề cập đến một số khía cạnh thuộc về nhân
cách của sinh viên đáp ứng hoạt động học tập mà chưa đề cập đến sự tương tác tâm
lý giữa sinh viên với sinh viên trong hoạt động học tập.
Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên là sự tiếp xúc tâm lý
tác động về phương diện tâm lý giữa sinh viên với nhau trong hoạt động học tập. Kết
quả làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trong hoạt động học tập.
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu, chúng tôi xem xét tương tác tâm lý trên
các tiêu chí: nhu cầu tương tác; sự ảnh hưởng và tương hợp; tần số tương tác và sự
thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi để xác định tương tác tâm lý trong hoạt động học
48
tập của sinh viên.
Chương 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TƯƠNG TÁC TÂM
LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM TP. HCM
2.1 Thể thức nghiên cứu
2.1.1. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu là 288 sinh viên hiện đang học tập tại trường Đại học Sư phạm
TP. HCM.
Mẫu nghiên cứu được phân bố như bảng 2.1. dưới đây:
Bảng 2.1. Đặc điểm khách thể nghiên cứu
Tiêu chí Mô tả Số lượng
Năm 1 54 Năm
Năm 2 76
Năm 3 93
Năm 4 65
Nam 58 Giới tính
Nữ 230
Tự nhiên 53 Khối ngành
Xã hội 116
Đặc thù 119
288 Tổng
2.1.2. Công cụ nghiên cứu
Công cụ nghiên cứu trong đề tài sử dụng là khảo sát bằng bảng hỏi. Bảng hỏi
được xây dựng và hoàn chỉnh theo 3 giai đoạn:
2.1.2.1. Giai đoạn thiết kế bảng hỏi
- Giai đoạn này gồm 2 bước: Tìm hiểu sơ bộ các mức độ biểu hiện tương tác
49
tâm lý giữa sinh viên với sinh viên và thiết kế bảng hỏi
+ Tìm hiểu sơ bộ các mức độ biểu hiện của tương tác tâm lý trong hoạt động
học tập giữa sinh viên với sinh viên nhằm tìm ra các biểu hiện quan trọng trong tương
tác tâm lý;
+ Xây dựng bảng hỏi liên quan đến vấn đề nghiên cứu: Bảng hỏi gồm 2 phần:
Phần 1: Những thông tin chung
Thông tin chung bao gồm: năm học, giới tính và khối ngành
Phần 2: Những biểu hiện của tương tác tâm lý: Chia ra 2 bảng
Bảng 1: Biểu hiện tương tác tâm lý trên các tiêu chí: nhu cầu tương tác tâm lý;
sự ảnh hưởng và tương hợp tâm lý và tần số tương tác. Trong đó tần số tương tác (14
item được sắp xếp từ 1 đến 14); sự ảnh hưởng và tương hợp tâm lý (18 item được sắp
xếp từ 15 đến 32); tần số tương tác (13 item được sắp xếp từ 33 đến 45)
Bảng 2: Biểu hiện sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi trong tương tác tâm
lý: gồm 15 item được sắp xếp từ 1 đến 15.
2.1.2.2. Giai đoạn điều tra thăm dò
- Mục đích: xác định độ tin cậy của bảng hỏi, tiến hành sửa những câu hỏi
không đạt yêu cầu.
- Mẫu nghiên cứu: điều tra trên 20 sinh viên
- Xử lý số liệu: phân tích hệ số tin cậy Alpha Cronbach để xác định hệ số tin
cậy của bảng hỏi.
Các tiêu chí được sử dụng khi thực hiện đánh giá độ tin cậy thang đo:
- Từ 0 - 0,2: độ tin cậy gần như không có;
- Từ 0,2 - 0,4: độ tin cậy rất thấp;
- Từ 0,4 - 0,6: độ tin cậy trung bình;
- Từ 0,6 đến 0,8: độ tin cậy ở mức khá;
- Từ 0,8 đến 1: độ tin cậy cao.
Kết quả phân tích độ tin cậy của bảng hỏi đo mức độ tương tác tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh viên với sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM cho
kết quả hệ số tin cậy Alpha từ 0,71-> 0,88 đạt mức khá tốt. Kết quả được biểu thị ở
50
bảng 2.2.
Bảng 2.2. Phân tích hệ số tin cậy
Hệ số tin cậy/Alpha
Các tiêu chí đo
Mẫu sinh viên, N = 288
Nhu cầu 0,79
Tương hợp và ảnh hưởng 0,71
Tần số 0,85
0,88 Sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi
Để kiểm tra độ tin cậy cho từng thang đo, người nghiên cứu đánh giá sự tin cậy
theo từng tiêu chí đo. Dựa theo thông tin trên, nghiên cứu thực hiện đánh giá thang đo
dựa theo tiêu chí:
- Loại các biến quan sát có hệ số tương quan biến - tổng nhỏ hơn 0,4 (đây là
những biến không đóng góp nhiều cho sự mô tả của khái niệm cần đo và nhiều nghiên
cứu trước đây đã sử dụng tiêu chí này).
- Chọn thang đo có độ tin cậy Alpha lớn hơn 0,6 (các khái niệm trong nghiên
cứu này là tương đối mới đối với đối tượng nghiên cứu khi tham gia trả lời).
2.1.2.3. Giai đoạn điều tra chính thức
- Mục đích:
+ Khảo sát mức độ tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên trường đại
học Sư phạm TP. HCM trên các tiêu chí: nhu cầu tương tác; sự tương hợp và ảnh
hưởng tâm lý; tần số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi.
+ Mẫu nghiên cứu: 288 sinh viên từ năm 1 đến năm 4 thuộc 3 khối ngành tự
nhiên, xã hội và đặc thù ở cả 2 giới tính nam và nữ tại trường Đại học Sư phạm TP.
HCM.
+ Nội dung nghiên cứu: thể hiện ở bảng hỏi sau khi đã điều tra thăm dò.
51
+ Nguyên tắc điều tra: mỗi sinh viên trả lời một phiếu độc lập.
2.1.3. Tiêu chí và cách đánh giá
2.1.3.1. Tiêu chí và cách đánh giá chung
- Nghiên cứu trên 4 tiêu chí: nhu cầu tương tác; sự tương hợp, ảnh hưởng tâm
lý; tần số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi. Cụ thể như sau:
+ Nhu cầu tương tác: thể hiện ở sự mong muốn trao đổi, thái độ hứng thú và
sự tích cực, chủ động trong quá trình tương tác tâm lý;
+ Sự tương hợp, ảnh hưởng tâm lý: thể hiện ở sự nắm bắt và thấu hiểu đời sống
tâm lý, sự tương đồng, sự chấp nhận và tôn trọng, sự thỏa mãn và hài lòng;
+ Tần số tương tác: thể hiện ở tần số về nhu cầu, tần số về sự tương hợp và ảnh
hưởng, tần số về sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi;
+ Sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi: thể hiện ở sự thay đổi về nhận thức,
thay đổi về thái độ và thay đổi về hành vi trong tương tác tâm lý.
- Cách đánh giá:
+ Điểm thang đo: từ 1 đến 5, cụ thể như sau:
* Nhu cầu tương tác
Mức 1 (rất thấp): Ở mức này nhu cầu tương tác rất thấp. Biểu hiện ở việc sinh
viên hầu như không có nhu cầu tương tác với nhau, không có mong muốn, không hào
hứng.
Mức 2 (thấp): Ở mức này, sinh viên bắt đầu xuất hiện nhu cầu tương tác những
chưa rõ nét, tương tác tâm lý không là yếu tố quan trọng. Họ cảm thấy thoải mái khi
được một mình và tương tác tâm lý có hay không cũng không ảnh hưởng đến hoạt
động học tập của họ. Họ không có sự chủ động trong các hoạt động cần đến sự tương
tác.
Mức 3 (trung bình): Có nhu cầu tương tác tâm lý nhưng chưa rõ nét, không quá
tích cực, hào hứng khi tham gia vào tương tác tâm lý. Khi có nhiệm vụ cần giải quyết,
họ tham gia đóng góp nhưng chưa thực sự tích cực. Họ đóng góp để làm tròn nhiệm
vụ trong nhóm.
Mức 4 (khá): Có nhu cầu tương tác, hào hứng và tích cực trong tương tác. Họ
có mong muốn tương tác hầu hết các khoảng thời gian trong hoạt động học tập. Họ
52
bắt đầu tìm các cơ hội để có thể trò chuyện, trao đổi với nhau. Việc trao đổi không chỉ
trên lớp mà còn qua các phương tiện hỗ trợ khác như điện thoại, mạng xã hội, email,..
Họ tích cực đóng góp ý kiến của mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Mức 5 (cao): Nhu cầu tương tác cao. Họ luôn muốn được tương tác trong mọi
thời điểm của hoạt động học tập. Có sự chuẩn bị kĩ và định hướng rõ trong quá trình
tương tác. Họ trao đổi với nhau không chỉ trên lớp mà còn qua các phương tiện khác
như điện thoại, mạng xã hội, email,.. Họ có hứng thú và tích cực trong quá trình tương
tác. Họ cảm thấy thiết hụt nếu tương tác giảm và có nhu cầu muốn tăng thời gian, tần
số tương tác.
* Sự tương hợp và ảnh hưởng:
Mức 1 (rất thấp): Không có bất kì sự tương hợp và ảnh hưởng nào trong quá
trình tương tác. Các chủ thể không chú ý, không quan tâm và thấu hiểu cảm xúc, nội
dung quá trình tương tác. Chủ thể giao tiếp không có sự thông cảm, không hiểu cho
nhau và dễ xảy ra các tình huống bất đồng, mâu thuẫn. Chủ thể khó khăn trong việc
chấp nhận ý kiến của nhau và quan điểm, suy nghĩ, tình cảm của họ cũng không ảnh
hưởng đến nhau.
Mức 2 (thấp): Các chủ thể có rất ít sự tương hợp và ảnh hưởng lẫn nhau trong
quá trình tương tác. Họ bắt đầu có sự quan tâm đến cảm xúc, nội dung quá trình tương
tác nhưng chưa đạt đến mức thấu hiểu cảm xúc và nội dung giao tiếp. Trong tương
tác, họ còn nhiều điều chưa hiểu về nhau như tính cách, cảm xúc, cách trình bày các
vấn đề của nhau. Họ chưa thực sự tạo được sự tin cậy trong giao tiếp. Sự ảnh hưởng
về mặt cảm xúc và nhận thức chưa rõ nét, họ hầu như chưa có sự ảnh hưởng lẫn nhau.
Mức 3 (trung bình): Các chủ thể bắt đầu có sự thấu hiểu về tính cách, sở thích,
thói quen của nhau. Bắt đầu có sự nắm bắt cảm xúc của nhau. Khi trao đổi, họ bắt đầu
hiểu được suy nghĩ và nội dung người khác trao đổi. Họ không còn khó khăn khi giao
tiếp với nhau và giữ được bình tĩnh trong các cuộc trao đổi.
Mức 4 (khá): Các chủ thể thấu hiểu cảm xúc, sở thích, tính cách, thói quen của
nhau. Họ làm chủ được cuộc giao tiếp, khi trao đổi, họ hiểu cảm xúc và những nội
dung cần trao đổi. Họ bắt đầu nói ra các ý kiến riêng và tôn trọng quan điểm của người
53
khác. Hiếm có sự bất đồng, mâu thuẫn trong giao tiếp. Bắt đầu tạo được sự tin tưởng
lẫn nhau. Có sự ảnh hưởng nhất định về cảm xúc, sở thích, thói quen giữa các chủ thể
với nhau.
Mức 5 (cao): Các chủ thể hoàn toàn thấu hiểu cảm xúc, tính cách, sở thích của
nhau. Trong quá trình giao tiếp, chủ thể hoàn toàn làm chủ nội dung trò chuyện, họ
nắm bắt rất tốt cảm xúc, suy nghĩ của nhau. Hầu như giữa họ không xảy ra sự mâu
thuẫn hay cãi vã nào. Họ tự tin đưa ra các quan điểm trái chiều và đón nhận quan điểm
của người khác trên tinh thần tôn trọng. Họ tin tưởng lẫn nhau. Những cảm xúc, suy
nghĩ, tính cách, sở thích của họ có sự ảnh hưởng và tiếp thu lẫn nhau.
* Tần số tương tác:
Mức 1 (rất thấp): Mức độ tương tác biểu hiện rất thấp, trên lớp hầu không có
sự tương tác qua lại với nhau, chỉ diễn ra quá trình dạy học giữa giảng viên và sinh
viên. Các tiêu chí về tần số về nhu cầu; tần số về sự tương hợp và ảnh hưởng; tần số
về sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi là không có. Sinh viên không có nhu cầu
tương tác với nhau, không hiểu cảm xúc, sở thích, không thông cảm cho nhau và hầu
như không có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Sinh viên không cảm thấy cần phải dành thời
gian để tiếp xúc, trao đổi, trò chuyện với nhau.
Mức 2 (thấp): Tương tác biểu hiện ở mức thấp. Hiếm khi có sự tương tác xảy
ra. Tần số về ba tiêu chí nhu cầu; tần số về tương hợp và ảnh hưởng; tần số về thay
đổi nhận thức, thái độ, hành vi bắt đầu có sự xuất hiện nhưng chưa rõ nét. Sinh viên
có ít nhu cầu tương tác với nhau, hiếm khi hiểu sở thích, tính cách của nhau. Sinh viên
bắt đầu ý thức về tầm quan trọng của tương tác tâm lý nhưng chưa thực sự cảm thấy
cần thay đổi.
Mức 3 (trung bình): Có sự tương tác, tuy nhiên số lần tương tác không nhiều,
không thường xuyên. Tần số về ba tiêu chí nhu cầu; tần số về tương hợp và ảnh hưởng;
tần số về thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi bắt đầu có sự xuất hiện rõ nét hơn. Họ
có mong muốn được trao đổi với nhau. Khi trao đổi họ bắt đầu có sự thấu hiểu về suy
nghĩ, cảm xúc. Họ bắt đầu coi trọng tương tác tâm lý trong hoạt động học tập và có
mong muốn thay đổi.
Mức 4 (khá): Tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên ở mức khá cao, có
54
sự thường xuyên trao đổi, trò chuyện với nhau trong hoạt động học tập. Tần số về ba
tiêu chí nhu cầu; tần số về tương hợp và ảnh hưởng; tần số về thay đổi nhận thức, thái
độ, hành vi bắt đầu có sự xuất hiện rõ nét. Sinh viên có mong muốn được trao đổi với
bạn bè, có sự thấu hiểu về cảm xúc, suy nghĩ, sở thích, thói quan nhiều hơn. Họ bắt
đầu có sự tin tưởng lẫn nhau. Họ ý thức được tầm quan trọng của tương tác tâm lý
trong hoạt động học tập. Đồng thời số lần trao đổi, trò chuyện tăng lên.
Mức 5 (cao): Tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh viễn diễn ra rất thường
xuyên, đều đặn. Tần số về ba tiêu chí nhu cầu; tần số về tương hợp và ảnh hưởng; tần
số về thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi bắt đầu có sự xuất hiện rõ nét. Họ rất mong
muốn được trao đổi với nhau, họ có sự thấu hiểu về nhu cầu, sở thích, thói quen của
nhau. Học chấp nhận và tôn trọng nhau. Gần như không có sự mâu thuẫn dẫn đến
xung đột nào khi trao đổi. Họ cảm thấy tin tưởng, tôn trọng và yêu thương nhiều hơn
trong tập thể. Họ ý thức được tầm quan trọng của tương tác tâm lý trong hoạt động
học tập và luôn tạo cơ hội để trao đổi, họ tìm kiếm sự giúp đỡ nhiều hơn khi gặp khó
khăn.
* Sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi:
Mức 1 (rất thấp): Sinh viên hầu như không có sự thay đổi nào về nhận thức,
thái độ, hành vi đối với tương tác tâm lý trong hoạt động học tập. Hầu như sinh viên
chỉ đến lớp học mà không có bất cứ mong muốn được trao đổi nhiều hơn về nội dung
bài học với bạn bè cũng như các hoạt động khác liên quan đến học tập.
Mức 2 (thấp): Sinh viên bắt đầu có ý thức về tầm quan trọng của tương tác tâm
lý trong hoạt động học tập. Tuy nhiên, họ chưa thực sự cảm thấy cần thay đổi, họ chưa
nhận thấy tầm quan trọng của việc tương tác tâm lý trong hoạt động học tập. Họ chưa
chủ động trao đổi, hỗ trợ và mong muốn nhận được sự giúp đỡ của bạn bè để hoạt
động học tập đạt hiệu quả hơn.
Mức 3 (trung bình): Sinh viên bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của tương
tác tâm lý trong hoạt động học tập. Sinh viên bắt đầu coi trọng việc tương tác tâm lý,
bắt đầu có sự trao đổi, trò chuyện với nhau về nội dung bài học. Tuy nhiên, sự trao
55
đổi, trò chuyện chưa nhiều.
Mức 4 (khá): Sinh viên ý thức được tầm quan trọng của tương tác tâm lý trong
hoạt động học tập. Họ trò chuyện về nội dung bài học, chia sẻ với nhau nhiều hơn
những mục tiêu học tập và kế hoạch học tập, họ tìm kiếm sự giúp đỡ khi có nhu cầu.
Mức 5 (cao): Sinh viên ý thức cao về tầm quan trọng của tương tác tâm lý trong
hoạt động học tập. Họ chia sẻ hầu như tất cả nội dung học được. Không những sinh
viên chia sẻ với nhau nội dung học tập, học còn lập kế hoạch cho việc học tập nhiều
hơn trước, họ tìm kiếm sự giúp đỡ khi gặp khó khăn và chủ động nhắc nhở nhau cùng
cố gắng trong học tập.
Điểm số các mức độ biểu hiện tương tác: chúng tôi dựa vào khoảng điểm có
tính mặc định trong phân phối lý thuyết. Theo cách tính này, khoảng cách điểm số
giữa hai mức là: (5-1): 5 = 0.8. Từ đó các mức được chia như sau:
Mức 1: Thấp: 1,0 ≤ ĐTB < 1,8
Mức 2: Tương đối thấp: 1,8 ≤ ĐTB < 2,6
Mức 3: Trung bình: 2,6 ≤ ĐTB < 3,4
Mức 4: Khá cao: 3,4 ≤ ĐTB <4,2
56
Mức 5: Cao: 4,2 ≤ ĐTB < 5
2.1.3.2. Tiêu chí và cách đánh giá phân chia theo từng tiểu thang đo dựa trên tổng
điểm
Bảng 2.3. Mức độ biểu hiện sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Tiêu chí Mức độ Tổng điểm Xếp loại biểu hiện
1 Rất thấp <108
108 đến cận 156 2 Thấp
156 đến cận 204 3 Trung bình Tương tác tâm lý chung
204 đến cận 252 4 Khá
≥252 5 Cao
<25,2 1 Rất thấp
25,2 đến cận 36,4 2 Thấp
36,4 đến cận 47,6 3 Trung bình Nhu cầu tương tác
47,6 đến cận 61,6 4 Khá
≥61,6 5 Cao
<32,4 1 Rất thấp
32,4 đến cận 46,8 2 Thấp
Sự tương hợp và 46,8 đến cận 61,2 3 Trung bình ảnh hưởng tâm lý
61,2 đến cận 75,6 4 Khá
≥75,6 5 Cao
<23,4 1 Rất thấp
Tần số tương tác
57
23,4 đến cận 33,8 2 Thấp
33,8 đến cận 44,2 3 Trung bình
44,2 đến cận 54,6 4 Khá
≥54,6 5 Cao
<27 1 Rất thấp
27 đến cận 39 2 Thấp
39 đến cận 51 3 Trung bình Sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi
51 đến cận 63 4 Khá
≥63 5 Cao
2.2. Kết quả nghiên cứu sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
2.2.1. Mức độ tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại
học Sư phạm TP. HCM
2.2.1.1. Mức độ biểu hiện sự tương tác tâm lý chung trong hoạt động học tập của sinh
viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Bảng 2.4. Mức độ biểu hiện sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Mức độ Xếp loại biểu hiện Tổng điểm Tần số Tỉ lệ (%)
1 Rất thấp <108 0 0
108 đến cận 156 6 2,1 2 Thấp
156 đến cận 204 103 35,8 3 Trung bình
204 đến cận 252 166 57,6 4 Khá
≥252 13 4,5 5 Cao
58
* Trung bình tổng điểm tương tác tâm lý trên 288 sinh viên là 212,35
- Nhận xét chung: nhìn chung, mức độ tương tác tâm lý trên lớp học giữa sinh
viên với sinh viên trên lớp học tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM ở mức khá:
212,35 (204 ≤ ĐTB <252). Điều đó chứng tỏ mức độ tương tác tâm lý trên lớp học
giữa sinh viên với sinh viên tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM ở mức khá.
Hiện nay sinh viên của trường Đại học Sư phạm TP. HCM được đào tạo theo
hệ thống tín chỉ. Đây là một hình thức đào tạo mềm dẻo, sinh viên có thể tự tìm được
cách học và các phương pháp học tập tốt nhất cho mình, có thể nhanh chóng thích
nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc sống. Như vậy, ngay từ yêu
cầu của hình thức đào tạo này đã cần những sinh viên có sự tích cực cao trong trong
hoạt động học tập, biểu hiện qua nhu cầu tương tác, sự tương hợp, ảnh hưởng và tần
số tương tác đều phải cao. Chỉ như vậy, nhiệm vụ học tập mới được đáp ứng.
Theo kết quả nghiên cứu khảo sát được trên sinh viên tại trường, mức độ tương
tác tâm lý hiện nay của sinh viên đạt ở mức khá cao là minh chứng cho việc hiện nay
sinh viên tại trường đáp ứng được hoạt động học tập hiện tại dưới góc độ tương tác
tâm lý đáp ứng cho hoạt động học tập. Tất nhiên, để tiến hành tốt hoạt động học tập
còn rất nhiều yếu tố cấu thành khác nhau. Nhưng tương tác tâm lý giữa sinh viên với
sinh viên là một yếu tố quan trọng và mở đầu cho việc một hoạt động học tập có diễn
ra và tiến hành một cách thuận lợi hay không.
Hơn nữa, mức độ tương tác tâm lý hiện nay của sinh viên tại trường phản ánh
môi trường học tập năng động, tích cực và chủ động giữa sinh viên với sinh viên trong
hoạt động học tập. Sinh viên có nhu cầu tương tác với nhau trong hoạt động học tập,
bắt đầu thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của nhau trong quá trình tương tác. Sinh viên bắt
đầu coi trọng tương tác tâm lý trong hoạt động học tập và có mong muốn thay đổi, ý
thức được tầm quan trọng của tương tác tâm lý trong hoạt động học tập.
Có thể thấy, sinh viên hiện nay không chỉ biết đến bài vở, học một cách thụ
động những gì giảng viên giảng dạy mà còn có nhu cầu tương tác nhiều hơn với nhau
để hiểu hơn những kiến thức được giảng viên hướng dẫn. Kết quả khảo sát vừa phản
ánh thực trạng của sinh viên trong hoạt động học tập vừa là một dấu hiệu khả quan,
59
cho thấy một cái nhìn tươi sáng hơn đối với hoạt động học tập của sinh viên trường
Đại học Sư phạm TP. HCM - một trong những trường đại học thuộc top đầu nhưng
không được đánh giá cao về sự năng động, tích cực, chủ động của sinh viên.
Thực tế quá trình học tập hiện nay tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM cho
thấy, sinh viên có nhiều điều kiện để tương tác với nhau trong hoạt động học tập trên
lớp học. Việc học tập hiện nay không chỉ là sinh viên đến lớp, ngồi lắng nghe giảng
viên giảng giải, giải thích và học theo những kiến thức được truyền thụ mà sinh viên
chính là những người tổ chức hoạt động học tập bằng rất nhiều hình thức khác nhau
như thuyết trình, làm việc nhóm, làm dự án, tổ chức gameshow, làm phim,...
Với mức độ tương tác tâm lý như trên, chúng ta có cơ sở để hi vọng một thế hệ
mới những sinh viên có sự độc lập, sáng tạo, tính cực, chủ động trong việc học tập
với khung thời gian hạn hẹp của việc học tập theo học chế tín chỉ.
Tóm lại, kết quả khảo sát cho thấy một bức tranh khả quan về hoạt động học
tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM thông qua sự tương tác tâm lý
trong hoạt động học tập.
- Biểu hiện nổi bật
Bảng 2.5. Biểu hiện nổi bật ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Biểu hiện ĐTB ĐLC
Tôi thích nói chuyện với bạn bè khi đến lớp 4,22 1,05
4,11 1,02 + Tôi thường xuyên trao đổi với bạn bè không chỉ trên lớp mà còn qua mail, facebook,...
4,1 1,05 Tôi cảm thấy hài lòng khi trao đổi với bạn bè về nội dung bài học
Tôi thích lắng nghe hơn là nói ra ý kiến của mình 2,67 1,14
3,01 1,07 - Khi họp nhóm, tôi là người chủ động điều khiển nhóm của mình
60
3,13 1,02 Tôi nắm bắt được cảm xúc của bạn bè kể cả khi họ không nói với tôi
Trong các biểu hiện của tương tác tâm lý trong hoạt động học tập, biểu hiện
nhu cầu được trò chuyện, trao đổi với bạn bè không chỉ trên lớp mà còn qua các
phương tiện khác như điện thoại, mạng xã hội, email,... đạt ở mức điểm khá cao cho
thấy sinh viên có nhu cầu lớn trong tương tác đồng thời có những phương tiện trao
đổi phong phú hơn nhờ có sự hỗ trợ công nghệ. Thật vậy, các thiết bị công nghệ đóng
một vai trò quan trọng trong các hoạt động của đời sống, hoạt động học tập cũng
không ngoại lệ. Nhờ vào nó, hoạt động học tập của sinh viên được diễn ra phong phú
hơn, tiết kiệm thời gian cũng như công sức hơn. Hoạt động học tập cũng từ đó mà
diễn ra bằng nhiều cách, giúp tiết kiệm thời gian và đạt được hiệu quả. Đó là lý do
cảm giác hài lòng của sinh viên đạt ở mức khá.
Mức đánh giá sự hài lòng khi trao đổi với bạn bè về nội dung bài học ở mức
khá cho thấy sự tương tác tâm lý của sinh viên không chỉ dừng lại ở mức nhu cầu, có
nhiều cách thức để trao đổi mà việc trao đổi thật sự có hiệu quả và đạt được mục đích.
Bên cạnh đó, những biểu hiện được đánh giá với mức điểm thấp hơn so với các
biểu hiện khác của tương tác tâm lý phải kể đến như sinh viên thích lắng nghe hơn là
nói ra ý kiến của mình, họ chủ động điều khiển nhóm và họ khó nắm bắt được cảm
xúc của mình. Như vậy, sinh viên là người thích lắng nghe được hơn là nói ra ý kiến
theo quan điểm cá nhân. Thêm nữa, điểm trung bình các biểu hiện là người chủ động
điều khiển nhóm của mình và nắm bắt được cảm xúc của bạn bè kể cả không trò
chuyện được đánh giá ở mức thấp cho thấy sinh viên ít tự điều khiển nhóm của mình
và ít có sự nắm bắt cảm xúc lẫn nhau khi trao đổi, trò chuyện. Điều này phản ánh sinh
viên sinh viên còn chưa thực sự chủ động trong hoạt động học tập của mình khi tương
61
tác với nhau và chưa thực sự hiểu cảm xúc của nhau.
2.2.1.2. Mức độ biểu hiện ở mặt nhu cầu ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học
tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Mức độ biểu hiện ở mặt nhu cầu ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập
của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM được biểu hiện ở bảng 2.6 dưới đây
Bảng 2.6. Mức độ biểu hiện ở mặt nhu cầu ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động
học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Mức độ Xếp loại biểu hiện Tổng điểm Tần số Tỉ lệ
<25,2 2 0,7 1 Rất thấp
25,2 đến cận 36,4 16 5,6 2 Thấp
36,4 đến cận 47,6 95 33 3 Trung bình
47,6 đến cận 61,6 160 55,6 4 Khá
≥61,6 15 5,2 5 Cao
* Trung bình tổng điểm tương tác tâm lý trên 288 sinh viên là 48,97
Nhận xét chung: trung bình tổng điểm ở mặt nhu cầu tương tác đạt ở mức khá
(48,97) cho thấy nhu cầu tương tác của sinh viên đạt ở mức khá cao. Sinh viên có nhu
cầu trao đổi, trò chuyện với nhau trong hoạt động học tập. Tỉ lệ điểm tương tác tâm
lý xét về mặt nhu cầu ở mức thấp và rất thấp chỉ chiếm 6,3% cho thấy hầu như sinh
viên đều có nhu cầu tương tác với nhau trong hoạt động học tập. Điều này hoàn toàn
hợp lý khi hoạt động học tập có những nhiệm vụ cần giải quyết, và sinh viên bắt buộc
phải tương tác với nhau mới giải quyết được nhiệm vụ học tập một cách hiệu quả.
Mặt khác, nhu cầu tương tác cũng là một nhu cầu rất thiết yếu của sinh viên nói riêng
và con người nói chung. Chúng ta sống trong một xã hội, nhu cầu giao tiếp, trao đổi
62
với nhau về thông tin cũng như cảm xúc là một nhu cầu thường trực.
- Biểu hiện nổi bật
Bảng 2.7. Biểu hiện nổi bật ở mặt nhu cầu trong hoạt động học tập của sinh viên
với sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Biểu hiện ĐTB ĐLC
Tôi thích nói chuyện với bạn bè khi đến lớp 4,22 1,05
4,11 1,02 + Tôi thường xuyên trao đổi với bạn bè không chỉ trên lớp mà còn qua mail, facebook,...
3,99 1,02 Trên lớp, tôi mong muốn được trao đổi với những sinh viên khác về nội dung bài học
Tôi thích lắng nghe hơn là nói ra ý kiến của mình 2,67 1,14
3,01 1,07 - Khi họp nhóm, tôi là người chủ động điều khiển nhóm của mình
3,22 1,05 Tôi là người thường xuyên khơi gợi các chủ đề trò chuyện với bạn bè
Bảng 2.7. cho thấy một số biểu hiện đạt ở mức điểm cao nhất và thấp nhất
trong những biểu hiện của nhu cầu tương tác. Trong đó, cảm giác thích thú khi được
trò chuyện và việc tìm kiếm nhiều phương tiện khác để trao đổi với nhau của sinh
viên đạt ở mức điểm cao và nổi bật trong các tiêu chí. Điều này phản ánh sự thích
thú, mong muốn được trao đổi với nhau về nội dung bài học. Hơn nữa, với sự trợ giúp
của công nghệ, sinh viên sử dụng chúng như một công cụ hữu ích bổ trợ cho hoạt
động học tập để làm gia tăng sự phong phú trong cách thức trao đổi với nhau.
Bên cạnh đó, có những biểu hiện được sinh viên đánh giá với mức độ thấp
trong các biểu hiện của nhu cầu tương tác như thích lắng nghe hơn là nói ra ý kiến,
chủ động điều khiển nhóm và thường xuyên khơi gợi các chủ đề (điểm trung bình lần
lượt là 2,67; 3,01 và 3,22) cho thấy:
Thứ nhất, sinh viên là người thích lắng nghe hơn là nói ra ý kiến theo quan
điểm cá nhân. Điều này một phần ảnh hưởng tích cực đến hoạt động học tập của sinh
viên. Bởi lẽ, lắng nghe chính là một trong những cách mà chúng ta tiếp nhận thông
63
tin từ người khác để làm giàu thêm vốn kiến thức cho bản thân mình.
Thứ 2, việc chủ động, tích cực khơi gợi các chủ đề khi trao đổi, trò chuyện
được đánh giá ở mức thấp trong các biểu hiện của nhu cầu không phải là vấn đề đáng
lo ngại. Bởi mức đánh giá đạt lần lượt 3,01 và 3,22 đã ở mức trung bình. Hơn nữa,
thông thường trong một nhóm hoặc một lớp học, sẽ không có quá nhiều sinh viên
đảm nhận nhiệm vụ dẫn dắt và khơi gợi chủ đề, chính điều đó tạo nên sự tập trung
hơn, hạn chế việc đi sai với mục đích ban đầu.
2.2.1.3. Mức độ biểu hiện ở mặt tương hợp và ảnh hưởng tâm lý ở sự tương tác tâm
lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Mức độ biểu hiện ở mặt tương hợp và ảnh hưởng ở sự tương tác tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM được biểu hiện ở
bảng 2.8 dưới đây
Bảng 2.8. Mức độ biểu hiện ở mặt tương hợp và ảnh hưởng tâm lý ở sự tương tác
tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Mức độ Xếp loại biểu hiện Tổng điểm Tần số Tỉ lệ
<32,4 0 0 1 Rất thấp
32,4 đến cận 46,8 6 2,1 2 Thấp
46,8 đến cận 61,2 137 47,6 3 Trung bình
4 Khá 61,2 đến cận 75,6 136 47,2
≥75,6 9 3,1 5 Cao
* Trung bình tổng điểm sự tương hợp và ảnh hưởng tâm lý
trên 288 sinh viên là 61,49
Nhận xét chung: Trung bình tổng điểm sự tương hợp và ảnh hưởng tâm lý đạt
ở mức khá (61,49). Điều này cho thấy mức độ tương hợp và ảnh hưởng của sinh viên
trong hoạt động học tập khá. Sinh viên có cảm xúc, tình cảm với nhau; có được sự
lắng nghe và thấu hiểu nhất định và có được sự tin tưởng nhất định. Điều này cho
thấy sinh viên không chỉ tương tác để hoàn thành nhiệm vụ học tập mà quá trình
tương tác còn giúp sinh viên thiết lập được mối quan hệ lẫn nhau thông qua tương tác
tâm lý. Hoạt động học tập không chỉ là một hoạt động khô cứng, nhàm chán với việc
64
tìm hiểu kiến thức mà còn là khoảng thời gian sinh viên được giao tiếp, được trò
chuyện với nhau. Thực tế cho thấy, trong bất kì một hoạt động học tập nào, sinh viên
cũng có những trao đổi, trò chuyện không hẳn là phục vụ mục đích giải quyết nhiệm
vụ học tập mà một cách thư giãn, góp phần cho bầu không khí tâm lý nhẹ nhàng và
vui vẻ. Đó là một trong những cách hữu hiệu để đạt được mục tiêu học tập.
- Biểu hiện nổi bật
Bảng 2.9. Biểu hiện nổi bật ở mặt tương hợp và ảnh hưởng tâm lý ở sự tương tác
tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Biểu hiện ĐTB ĐLC
4,1 1,05 Tôi cảm thấy hài lòng khi trao đổi với bạn bè về nội dung bài học
+ 3,94 0,86 Khi bạn tôi đưa ra quan điểm khác, tôi tôn trọng chúng
Tôi đáp ứng được nhu cầu của bạn bè 3,85 1,02
Bạn bè luôn ủng hộ ý kiến của tôi 3,08 0,87
3,13 1,02 - Tôi nắm bắt được cảm xúc của bạn bè kể cả khi họ không nói với tôi
3,15 1,15 Khi trao đổi với bạn bè, tôi dễ dàng diễn đạt suy nghĩ của mình một cách ngắn gọn, dễ hiểu
Bảng 2.9. cho thấy một số biểu hiện đạt ở mức cao nhất và thấp nhất trong các
biểu hiện ở mặt tương hợp và ảnh hưởng tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên. Trong đó, cảm giác hài lòng khi trao đổi về nội dung bài học; sự tôn trọng các
quan điểm khác với mình và bản thân đáp ứng được nhu cầu của các sinh viên khác
là 3 biểu hiện được đánh giá ở mức điểm cao nhất trong các biểu hiện của mặt tương
hợp và ảnh hưởng tâm lý. Cảm giác hài lòng khi trao đổi với bạn bè là một tín hiệu
đáng mừng, điều này cho thấy trong quá trình trao đổi, các nhiệm vụ học tập đặt ra
được hoàn thành đúng với kì vọng của sinh viên. Bên cạnh đó, sinh viên có khả năng
65
cùng nhau hoạt động, họ hiểu và có thể hòa nhập được với nhau nhằm đáp ứng yêu
cầu của môn học. Họ có những tố chất cần thiết trong một nhóm học tập để làm tròn
vai trò của mình khi giải quyết một nhiệm vụ học tập chung.
Bên cạnh đó, những biểu hiện được đánh giá với mức thấp hơn trong các biểu
hiện của tương hợp và ảnh hưởng tâm lý như: Bạn bè luôn ủng hộ ý kiến của tôi, tôi
nắm bắt được cảm xúc của bạn bè kể cả khi họ không nói với tôi và khi trao đổi với
bạn bè, tôi dễ dàng diễn đạt suy nghĩ của mình một cách ngắn gọn, dễ hiểu.
Đầu tiên, việc bạn bè luôn ủng hộ ý kiến không được đánh giá cao cho thấy
không phải lúc nào một ý kiến đưa ra cũng hoàn toàn được đồng tình. Đây chính là
dấu hiệu tích cực khi tiến hành hoạt động học tập. Khi tạo được một môi trường mà
mọi người có thể thẳng thắn bày tỏ ý kiến cũng như phản biện lại ý kiến của người
khác chính là điều kiện cần giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện về một vấn đề
cũng như đưa ra được phương án tối ưu.
Thứ 2, việc khó nắm bắt được cảm xúc kể cả khi không trao đổi, trò chuyện
được đánh giá thấp. Với thời lượng trò chuyện, trao đổi, việc hoàn thành được nhiệm
vụ học tập, hiểu được một phần cảm xúc cũng như suy nghĩ là một tín hiệu tích cực.
Việc thấu hiểu kể cả khi không có sự giao tiếp đã đạt đến một mức độ thấu hiểu cao
không phải là điều dễ dàng. Mặt khác, ngoài hoạt động học tập, sinh viên còn có các
hoạt động khác, các mối quan hệ khác. Nên việc hiểu về nhau ở một mức độ vừa phải,
đáp ứng được nhiệm vụ học tập là điều dễ hiểu.
Thứ 3, việc sinh viên khó diễn đạt suy nghĩ một cách rõ ràng, dễ hiểu bị hạn
chế. Điều này phản ánh một trong những rào cản của sinh viên trong việc tương tác
66
tâm lý đó chính là khả năng diễn đạt. Đây là một điểm cần lưu ý!
2.2.1.4. Mức độ biểu hiện ở mặt tần số tương tác ở sự tương tác tâm lý trong hoạt
động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Mức độ biểu hiện ở mặt tần số tương tác trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. HCM được biểu hiện ở bảng 2.10 dưới đây
Bảng 2.10. Mức độ biểu hiện ở mặt tần số tương tác ở sự tương tác tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Mức độ Xếp loại biểu hiện Tổng điểm Tần số Tỉ lệ
<23,4 0 0 1 Rất thấp
23,4 đến cận 33,8 13 4,5 2 Thấp
33,8 đến cận 44,2 86 29,9 3 Trung bình
44,2 đến cận 54,6 136 47,2 4 Khá
≥54,6 53 18,4 5 Cao
* Trung bình tổng điểm tần số tương tác trên 288 sinh viên là 47,51
Nhận xét chung: tần số tương tác đạt 47,51, nằm ở mức khá. Như vậy, mức độ
tương tác trong hoạt động học tập của sinh viên đạt ở mức khá xét trên biểu hiện tần
số tương tác.
Sinh viên có sự trao đổi, trò chuyện với nhau thường xuyên trong hoạt động
học tập. Việc trao đổi là không thể thiếu kể cả trao đổi trực tiếp trên lớp hay qua các
phương tiện hỗ trợ khác như email, điện thoại,...
Mức điểm đánh giá thấp và rất thấp chỉ chiếm 4,5% cho thấy hầu như sinh
viên đều có tần số trao đổi trong hoạt động học tập khá lớn. Việc trao đổi đã trở thành
một điều thiết yếu của sinh viên và cũng là một yếu tố quan trọng góp phần giúp cho
67
sinh viên học tập hiệu quả hơn.
- Biểu hiện nổi bật
Bảng 2.11. Biểu hiện nổi bật ở mặt tần số tương tác ở sự tương tác tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Biểu hiện ĐTB ĐLC
4,05 0,97 Việc trao đổi với nhau là thực sự cần thiết để học tập có hiệu quả
+ 4,03 0,96 Tôi và bạn bè có nhiều kênh để trò chuyện hơn (không chỉ trò chuyện trực tiếp trên lớp mà còn qua điện thoại, mạng xã hội)
Khả năng lắng nghe của tôi được cải thiện 3,9 0,88
3,27 1,13 Hiểu được tính cách, sở thích của bạn bè là quan trọng để việc học tập đạt hiệu quả
- 3,40 0,99 Tôi và bạn bè có sự tương đồng về quan điểm hơn trước
Tôi hiểu bạn bè hơn trước 3,47 1,02
Bảng 2.11. cho thấy một số biểu hiện đạt ở mức cao nhất và thấp nhất ở mặt
tần số tương tác trong hoạt động học tập của sinh viên. Trong đó, những biểu hiện
được đánh giá ở mức cao nhất bao gồm: Việc trao đổi với nhau là thực sự cần thiết
để học tập có hiệu quả; Tôi và bạn bè có nhiều kênh để trò chuyện hơn (không chỉ trò
chuyện trực tiếp trên lớp mà còn qua điện thoại, mạng xã hội) và khả năng lắng nghe
của tôi được cải thiện.
Đầu tiên, việc đánh giá mức độ quan trọng của tương tác tâm lý với hoạt động
học tập ở mức khá cho thấy sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của tương tác
tâm lý trong hoạt động học tập. Điều này chính là tiền đề để việc trao đổi đạt được cả
chất lượng và số lượng. Bởi phải nhận thức được tầm quan trọng, chúng ta mới thực
sự có động lực và sự tập trung vào nó.
Thứ 2, sinh viên có nhiều kênh để trao đổi hơn. Sự phát triển của khoa học
công nghệ giúp cho con người có nhiều phương tiện để trao đổi thông tin. Trong suốt
20 năm internet du nhập vào Việt Nam, cách thức trao đổi thông tin đã có những thay
68
đổi vượt bậc. Nếu như trước đây, việc trao đổi diễn ra trực tiếp, mặt đối mặt thì hiện
nay, có rất nhiều cách thức trao đổi khác. Nắm bắt xu thế đó, việc học tập của sinh
viên cũng có những thay đổi, các phương tiện trao đổi thông tin đa dạng hơn nhiều,
từ việc trao đổi trực tiếp đến gián tiếp thông qua điện thoại, tin nhắn, các trang mạng
xã hội,...
Thứ 3, khả năng lắng nghe của sinh viên được cải thiện có điểm đánh giá nằm
trong những biểu hiện có điểm cao nhất cho thấy sinh viên cải thiện được khả năng
lắng nghe của mình. Sinh viên có được kĩ năng lắng nghe thông qua việc tiếp xúc với
rất nhiều bạn, nhóm bạn khác nhau. Ở mỗi người bạn hay nhóm bạn đều có tính cách
khác nhau, để thích nghi và làm việc hiệu quả, việc biết lắng nghe nhau là một điều
cần thiết.
Những biểu hiện không được đánh giá cao như cần phải hiểu tính cách của bạn
bè để trao đổi có hiệu quả và có sự đồng quan điểm và hiểu bạn bè hơn trước. Điều
này phản ánh sinh viên đang trao đổi thông tin với nhau dưới góc độ đạt được mục
đích bài học, dường như chưa có sự đánh giá cao với việc cần phải hiểu rõ tính cách,
cần phải hiểu bạn bè và có đồng quan điểm với bạn bè mới có thể học tập hiệu quả.
69
Tương tác tâm lý mới dừng lại ở việc trao đổi thông tin, đạt được mục tiêu học tập.
2.2.1.5. Mức độ biểu hiện sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi ở sự tương
tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Mức độ biểu hiện ở mặt sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi trong hoạt động
học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM được biểu hiện ở bảng 2.12
dưới đây
Bảng 2.12. Mức độ biểu hiện ở sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi ở sự tương
tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Mức độ Xếp loại biểu hiện Tổng điểm Tần số Tỉ lệ
<27 0 0 1 Rất thấp
27 đến cận 39 11 3,8 2 Thấp
39 đến cận 51 78 27,1 3 Trung bình
51 đến cận 63 151 52,4 4 Khá
≥63 48 16,7 5 Cao
* Trung bình tổng điểm sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi trên
288 sinh viên là 54,37
Nhận xét chung: Sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi đạt 54,37 điểm, nằm
ở mức khá cao. Như vậy, mức độ tương tác trong hoạt động học tập của sinh viên đạt
ở mức khá cao xét trên biểu hiện sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi. Ở mức điểm
thấp và rất thấp có tỉ lệ khá nhỏ (3,8%) cho thấy hầu như sinh viên đều có sự thay đổi
nhận thức, thái độ, hành vi từ mức trung bình trở lên, trong đó mức khá cao chiếm
70
hơn một nửa (52,4%) trong tổng số các ý kiến.
- Biểu hiện tiêu biểu
2.13. Biểu hiện nổi bật ở sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi ở sự tương tác tâm
lý trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. HCM
Biểu hiện ĐTB ĐLC
4,04 0,82 Trao đổi nội dung bài học với bạn bè bằng các phương tiện khác (điện thoại, mạng xã hội,...)
4,02 0,87 + Thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè cùng lớp, ngành học
3,92 0,87 Trao đổi tài liệu, thông tin có liên quan đến chuyên môn với bạn bè
Lập kế hoạch học tập cùng với nhóm bạn bè 3,22 1,04
Chia sẻ với bạn bè về mục tiêu học tập 3,3 1,02 -
3,38 1,02 Trình bày quan điểm của mình dù quan điểm đi ngược lại quan điểm chung của nhóm
Bảng 2.13. cho thấy những biểu hiện đạt mức đánh giá cao nhất và thấp nhất.
Trong đó những biểu hiện được đánh giá ở mức cao nhất bao gồm trao đổi tài liệu,
thông tin có liên quan đến nội dung bài học bằng nhiều phương tiện khác và thiết lập,
duy trì các mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè. Những biểu hiện có mức điểm đánh giá
thấp hơn bao gồm lập kế hoạch học tập cùng với bạn bè, chi sẻ về mục tiêu học tập
và trình bày quan điểm dù quan điểm đó đi ngược lại với quan điểm của nhóm.
Ở những biểu hiện có mức đánh giá cao cho thấy, sinh viên có những hành vi
tích cực để quá trình học tập đạt được hiệu quả. Sinh viên tìm cách để có đươc nhiều
kênh trao đổi thông tin hơn, biết được việc có một mối quan hệ tích cực sẽ góp phần
giúp cho hoạt động học tập đạt được hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc thay đổi về nhận
thức, thái độ, hành vi của sinh viên mới đạt ở mức biểu hiện cần. Sinh viên chưa thực
sự có được kế hoạch dài hạn trong hoạt động học tập, chưa có định hướng rõ nét và
chưa thực sự bày tỏ đủ quan điểm của mình, những điều mình cho là đúng để đóng
71
góp thêm vào những quan điểm chung của nhóm. Đó là lý do những biểu hiện có mức
đánh giá không cao trong các biểu hiện của sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi
bao gồm lập kế hoạch học tập cùng với bạn bè, chi sẻ về mục tiêu học tập và trình
bày quan điểm dù quan điểm đó đi ngược lại với quan điểm của nhóm được đánh giá
thấp hơn so với các biểu hiện khác.
* Điểm trung bình
Bảng 2.14. Mức độ tương tác tâm lý trên lớp học của sinh viên qua các biểu hiện
tương tác
Biểu hiện ĐTB ĐLC
Nhu cầu tương tác 3,5 0,56
Sự tương hợp, ảnh hưởng tâm lý 3,42 0,42
Tần số tương tác 0,60 3,65
Sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi 3,62 0,57
Nhận xét chung: Mức độ tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh
viên với sinh viên tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM thể hiện trên tiêu chí tần số
tương tác là cao nhất (3,65). Tuy nhiên, các tiêu chí còn lại như nhu cầu tương tác, sự
tương hợp, ảnh hưởng lẫn nhau, sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi cũng ở mức
cao (mức điểm trung bình lần lượt là 3,50; 3,42 và 3,62).
Phân tích sâu hơn có thể thấy, trong tất cả các tiêu chí đo, sinh viên đều đánh
giá ở mức độ cao, trong đó tần số tương tác cao nhất (3,65). Có thể nói tương tác tâm
lý trong hoạt động học tập bắt nguồn từ tần số. Tại sao lại là tần số? Rất đơn giản:
trong hoạt động học tập hiện nay, sinh viên được đào tạo theo hệ thống tín chỉ, thời
gian học tập trong một học phần không dài, với mỗi học phần lại học trong một lớp
học phần khác nhau, tiếp xúc với những nhóm bạn khác nhau. Có hai lý do chính để
tần số là tiêu chí được đánh giá với số điểm cao nhất:
Thứ nhất, với thời lượng học tập trên lớp ngắn, thời gian tương tác trên lớp
giữa sinh viên với sinh viên không có nhiều, đồng thời khối lượng kiến thức hiện nay
không chỉ là những điều giảng viên truyền thụ mà có rất nhiều trên các nguồn thông
tin khác, sinh viên nếu chỉ ngồi học trên lớp thì không đủ để có thể hiểu sâu và rộng,
72
vì vai trò của giảng viên không phải cầm tay chỉ việc, trao hết kiến thức mà chỉ là
những người định hướng. Vì vậy, sinh viên phải tự tìm hiểu, bên cạnh đó sự trao đổi
với nhau là một kênh hữu hiệu để mở rộng kiến thức cũng như chắt lọc được những
kiến thức đúng và phù hợp với yêu cầu môn học. Với khối lượng tin tức đồ sộ và chưa
có một bộ lọc để kiểm định như hiện nay, việc trao đổi với nhau là vô cùng cần thiết.
Thứ hai, sinh viên học tập ở rất nhiều lớp học phần khác nhau nên tiếp xúc với
rất nhiều nhóm bạn khác nhau. Để hoàn thành được mục tiêu môn học, bắt buộc sinh
viên cần gặp gỡ, trao đổi. Nếu như trước đây sinh viên chỉ học chung một lớp, có một
nhóm bạn để trao đổi các vấn đề liên quan đến học tập thì hiện nay có rất nhiều môn
học, các nhóm học tập cũng từ đó mà nhiều lên, với yêu cầu của từng môn học mà số
lần tương tác cũng từ đó mà nhân lên.
Bảng 2.15. Tương quan giữa các biểu hiện tương tác tâm lý
trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TPHCM
Nhu cầu Tần số Biểu hiện tương tác Tương hợp và ảnh hưởng Thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi
1 0,474 0,564 0,494 Nhu cầu
0,474 1 0,417 0,618 Tương hợp và ảnh hưởng
0,564 1 0,527 Tần số 0,618
0,494 0,417 0,527 1 Thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi
Ghi chú: Khác biệt có ý nghĩa thống kê: Khoảng tin cậy 95%
Nhận xét chung: Bảng 2.15. cho ta thấy mức độ tương quan giữa các biến số,
trong đó tần số và sự tương hợp, ảnh hưởng tâm lý có sự tương quan ở mức cao. Điều
này cho ta thấy tần số càng cao thì sự tương hợp, ảnh hưởng tâm lý càng cao và ngược
lại.
Đầu tiên, khi tần số cao (đồng nghĩa với số lần tiếp xúc, trao đổi với nhau giữa
73
sinh viên và sinh viên xảy ra thường xuyên, nhiều lần): sinh viên có thời gian trao đổi
với nhau để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Qua đó sinh viên hiểu thêm về nhau, tìm
ra những điểm tương đồng trong suy nghĩ, thái độ, hành vi của bản thân mình đối với
những sinh viên khác. Các mối quan hệ cũng từ đó hình thành và có sự gắn kết chặt
chẽ hơn trước. Quy luật hình thành tình cảm cũng đã nói rõ, tình cảm được hình thành
từ một chuỗi những xúc cảm, chúng được động hình hóa, khái quát hóa, tổng hợp hóa
mà thành. Tình cảm của sinh viên với nhau cũng được hình thành theo con đường đó.
Khi tình cảm được hình thành, sự tương hợp và ảnh hưởng lẫn nhau là điều dễ hiểu.
Có thể thấy khi thường xuyên tiếp xúc, sinh viên bắt đầu hiểu, nắm bắt được cách suy
nghĩ của bạn bè mình.
Với những sinh viên có tần số tương tác cao, số lần tiếp xúc, trao đổi với nhau
cũng từ đó mà cao hơn. Khi tiếp xúc, trao đổi với nhau, sinh viên hiểu nhau hơn kể cả
về tính cách, cách làm việc, nhu cầu,... của nhau. Nhờ đó mà hoạt động học tập có
hiệu quả cao hơn.
Với những sinh viên có sự tương hợp tâm lý cao, họ có nhu cầu được trao đổi
nhiều với nhau hơn là với những bạn không có sự tương hợp bằng. Việc trao đổi với
những người hợp với mình về nhu cầu, sở thích, cách làm việc, và thậm chí là cách tư
duy khiến cho chúng ta cảm thấy dễ chịu, cảm giác giống như người đang trao đổi với
một người hiểu rất rõ bản thân mình dù mình không cần nói gì nhiều, điều này khiến
74
cho cuộc trao đổi trở nên thoải mái, nhanh chóng và đạt được hiệu quả cao hơn.
2.2.2. Kết quả so sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. HCM theo các tham số nghiên cứu
- Theo năm học
Bảng 2.16. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên theo
năm học
Năm học ĐTB Sig. DLC Trị số ANOVA
25,94 212,69 1
24,29 207,63 2
1,29 0,277 25,79 214,56 3
25,52 214,43 4
* Trung bình tổng điểm tương tác tâm lý trên 288 sinh viên là 212,35
Nhận xét chung: bảng 2.16. cho thấy mức điểm tương tác tâm lý giữa các năm
học. Ở cả 4 năm: năm 1, năm 2, năm 3, năm 4 thì mức điểm tương tác tâm lý đều ở
mức khá. Trong 4 năm học, sinh viên năm 3 có điểm tương tác tâm lý cao nhất cho
thấy sự tương tác tâm lý của sinh viên năm 3 là cao nhất. Tuy nhiên, mức chênh lệnh
giữa trong điểm số đánh giá giữa các năm học không có sự chênh lệch nhiều với nhau
và với tổng điểm (212,35). Như vậy, sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên ở cả 4 năm đạt ở mức khá và tương đối đồng đều.
Giá trị Sig. là 0,277 (>0,05) cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa giữa các
tham số năm học. Như vậy, không có sự khác biệt ý nghĩa giữa sự tương tác tâm lý
75
giữa các năm học, mức tương tác khá đồng đều và không có sự chênh lệch nhiều.
- Theo giới tính
Bảng 2.17. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên theo
giới tính
Giới tính ĐTB DLC Trị số T-Test Sig.
207,26 26,24 Nam
0,05 0,824
213,63 24,68 Nữ
* Trung bình tổng điểm tương tác tâm lý trên 288 sinh viên là 212,35
Nhận xét chung: bảng 2.17. cho thấy mức điểm tương tác tâm lý giữa các giới
tính. Ở cả 2 giới nam và nữ thì mức điểm tương tác tâm lý đều ở mức cao, trong đó,
ở nữ mức độ tương tác tâm lý có điểm đánh giá cao hơn, tức ở nữ, sự tương tác tâm
lý cao hơn so với nam. Tuy nhiên, điểm tương tác tâm lý giữa 2 giới tính không có
sự chênh lệnh nhiều so với tổng điểm (212,35). Như vậy, sự tương tác tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh viên ở cả 2 giới đạt ở mức khá cao và tương đối đồng đều.
Giá trị Sig. là 0,824 (>0,05) cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa giữa các
tham số giới tính. Như vậy, không có sự khác biệt ý nghĩa giữa sự tương tác tâm lý
giữa các giới tính, mức tương tác khá đồng đều.
- Khối ngành
Bảng 2.18. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên theo
khối ngành
Khối ngành ĐTB DLC Sig. Trị số ANOVA
221,60 26,07 Tự nhiên
211,47 25,47 0,13 0,88 Xã hội
212,35 25,08 Đặc thù
* Trung bình tổng điểm tương tác tâm lý trên 288 sinh viên là 212,35
Nhận xét chung: bảng 2.18. cho thấy mức điểm tương tác tâm lý giữa các khối
76
ngành. Ở cả 3 khối ngành thì mức điểm tương tác tâm lý đều ở mức khá cao. Trong
đó, khối ngành tự nhiên có mức điểm cao nhất (121,6) cho thấy mức tương tác tâm
lý của khối ngành tự nhiên cao nhất trong 3 khối ngành được khảo sát. Tuy nhiên,
không có sự chênh lệnh nhiều của sự tương tác tâm lý ở từng khối ngành so với tổng
điểm (212,35). Như vậy, sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên ở
cả 3 khối ngành đạt ở mức khá và tương đối đồng đều.
Giá trị Sig. là 0,824 (>0,05) cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa giữa các
tham số giới tính. Như vậy, không có sự khác biệt ý nghĩa giữa sự tương tác tâm lý
77
giữa các giới tính, mức tương tác khá đồng đều và không có sự chênh lệch nhiều.
Tiểu kết chương 2
Tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên được xem xét ở rất nhiều tiêu
chí. Trong đề tài này, chúng tôi dựa và nhu cầu tương tác; sự ảnh hưởng và tương
hợp tâm lý; tần số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi để xác định
tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên.
Kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy, khi phân tích tương tác tâm lý xét
trong các tiêu chí giới tính, năm học và khối ngành đều ở mức khá cao. Xét theo từng
tiêu chí đánh giá, tần số tương tác là cao nhất.
Kết quả cũng cho thấy không có tương quan giữa các nhóm tham số (giới tính,
78
năm học hay khối ngành) đối với mức tương tác tâm lý.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
1.1. Kết quả nghiên cứu lý luận
Tổng quan về tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên cho thấy,
trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tương tác tâm lý ở ngày càng được quan tâm và
nghiên cứu. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu có xây dựng các biện pháp cải
thiện mức độ tương tác tâm lý trong hoạt động dạy và học.
Tương tác tâm lý giữa sinh viên với sinh viên được đánh giá qua các thành
phần tham gia như sau: nhu cầu tương tác; sự tương hợp, ảnh hưởng tâm lý lẫn nhau;
tần số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi.
1.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng
Qua khảo sát tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường
Đại học Sư phạm TP. HCM, người nghiên cứu thu được các kết quả như sau:
Kết quả khảo sát trên từng khía cạnh của tương tác tâm lý cho thấy mức tương
tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM
phần lớn nằm ở mức độ khá với điểm trung bình là 212,35. Tương tác tâm lý của sinh
viên được biểu hiện ở các mặt như sau:
- Nhu cầu tương tác: có 55,6% sinh viên có nhu cầu tương tác ở mức khá với
điểm trung bình là 48,97. Điều này cho thấy sinh viên có nhu cầu ở mức khá đối với
tương tác tâm lý.
- Sự tương hợp và ảnh hưởng tâm lý: có 47,2% sinh viên có sự tương hợp và
ảnh hưởng ở mức khá với điểm trung bình là 61,49. Điều này thể hiện sinh viên trường
Đại học Sư phạm TP. HCM có khá nhiều sư tương hợp và có sự ảnh hưởng nhất định
đến nhau thông qua tương tác tâm lý trong hoạt động học tập.
- Tần số tương tác: có 47,2% sinh viên có tần số tương tác ở mức khá với điểm
trung bình là 47,51. Điều này cho thấy có một số lượng khá lớn sinh viên thường
79
xuyên trao đổi, trò chuyện với nhau trong hoạt động học tập.
- Sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi: có 52,4% sinh viên có sự thay đổi
nhận thức, thái độ, hành vi ở mức khá với điểm trung bình là 54,37. Như vậy, sinh
viên có sự thay đổi ở mức khá trên 3 mặt nhận thức, thái độ và hành vi.
Trong các thành phần tham gia của tương tác tâm lý, tần số tương tác có mức
điểm là 3,65 là thành phần có mức điểm trung bình cao nhất trong các thành phần.
Như vậy, sinh viên có tần số tương tác cao nhất trong các biểu hiện của tương tác tâm
lý.
Có tương quan thuận giữa tần số tương tác và sự tương hợp, ảnh hưởng tâm
lý. Khi tần số tăng thì sự ảnh hưởng cũng tăng theo và ngược lại.
Không có sự khác biệt ý nghĩa giữa các tham số năm học, giới tính và khối
ngành đối với tương tác tâm lý. Như vậy, mức độ tương tác tâm lý không phụ thuộc
vào năm học, giới tính và khối ngành.
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM đã chứng minh được các giả thuyết
nghiên cứu mà đề tài đã xác lập.
Kiến nghị
Nhằm nâng cao sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. HCM cũng như hướng đến nâng cao hơn nữa mức tương
tác tâm lý của sinh viên, người nghiên cứu xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
1. 1. Đối với giảng viên
Tổ chức nhiều hoạt động thực tiễn hơn nhằm gia tăng tương tác tâm lý không
chỉ giữa sinh viên với sinh viên mà còn giữa sinh viên với giảng viên để tương tác
tâm lý trở thành thói quen của sinh viên không chỉ trong hoạt động dạy học hay hoạt
động học tập mà là sự kết hợp, bổ trợ cho nhau giữa 2 hoạt động.
Xây dựng môi trường lớp học tạo điều kiện cho sinh viên có nhiều cơ hội trao
80
đổi, tiếp xúc, tương tác nhiều hơn.
1. 2. Đối với sinh viên
- Tham gia tích cực các hoạt động không những trên lớp mà còn là những hoạt
động ngoại khóa;
- Tích cực tham gia hoạt động nhóm, trao đổi, trò chuyện nhằm giải quyết
nhiệm vụ học tập, từ đó tăng mức độ tương tác tâm lý;
- Tự trao dồi cho bản thâ những kĩ năng tương tác, giao tiếp,… bằng cách tham
gia các lớp kĩ năng mềm để tăng khả năng tương tác, cải thiện giao tiếp và các kĩ năng
khác phục vụ cho học tập.
1. 3. Đối với các nghiên cứu sau
- Dựa và kết quả nghiên cứu trên, các tác giả về sau có thể thực hiện nghiên
cứu lý giải về mức tương tác tâm lý là do những yếu tố nào cấu thành;
- Nghiên cứu thực nghiệm nhằm tăng mức độ tương tác tâm lý trong hoạt động
81
học tập của sinh viên với sinh viên tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Capitonov, E. A. (2000). Xã hội học thế kỉ 20 – Lịch sử và công nghệ. Nxb
ĐHQG HN.
Võ Thị Ngọc Châu (2002). Nghiên cứu kiểu nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân
cách và ảnh hưởng của chúng tới bầu không khí tập thể sinh viên Sư phạm. Nghiên
cứu khoa học cấp trường. Việt Nam: Nxb Đại học Sư phạm.
Phạm Huy Cường (2014). Mạng lưới quan hệ xã hội với việc làm của sinh viên
tốt nghiệp. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN.
C. Mác - P.Ăngghen (1993). Toàn tập. (tập 3). Việt Nam: Nxb chính trị QG.
Phạm Tất Dong & Lê Ngọc Hùng (2001). Xã hội học. Nxb ĐHQG HN.
Vũ Dũng (2008). Từ điển tâm lý học. Việt Nam: Nxb Từ điển bách khoa.
Vũ Dũng (2000). Tâm lý học xã hội. Nxb KHXH HN.
Vũ Dũng & Nguyễn Thị Mai Lan (2013). Tâm lý học quản lý. Việt NamL:
Nxb KHXH.
Trần Thị Minh Đức (2008). Các thực nghiệm trong tâm lý học xã hội. Nxb
ĐHQG HN.
Feldman, R. S. (2003). Những điều trọng yếu trong tâm lý học. Việt Nam: Nxb
Thống kê.
Fischer (1992). Những khái niệm cơ bản của tâm lý học xã hội. Việt Nam: Nxb
Thế giới.
Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ (1989). Tâm
lý học, Tập 2. Việt Nam: Nxb Giáo dục.
Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2012). Kĩ năng học tập hợp tác của sinh viên sư
phạm. Luận án tiến sĩ. Học viện Khoa học xã hội.
Vũ Lệ Hoa (2007). Một số kĩ năng dạy học tăng cường tương tác góp phần
nâng cao hiệu quả dạy học môn học ở đại học. Việt Nam: Đại học và giáo dục chuyên
nghiệp.
82
Dương Thị Diệu Hoa (2008). Tâm lý học phát triển. Nxb Đại học Sư phạm.
Bùi Văn Huệ, Đỗ Mạnh Tuấn, Nguyễn Ngọc Bích (1995). Tâm lý học xã hội.
Hà Nội.
Dewey, J. (dịch giả Phạm Anh Tuấn) (2008). Dân chủ và Giáo dục. Việt Nam:
Nxb Tri thức.
Gode Froid J. (1998). Những con đường của tâm lý học (Tập 3). Tủ sách NT,
Hà Nội.
Lomov. B.Ph (2001). Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học,
Nxb ĐHQG HN.
Đỗ Long & Vũ Dũng (1995). Tâm lý học xã hội với quản lý doanh nghiệp.
Việt Nam: nxb Khoa học xã hội.
Ghebơxơ, A. N., Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị (1992). Tâm lý học sư phạm
đại học. Việt Nam: Nxb Giáo dục.
Cao Thị Nga (2016). Tương tác tâm lý trên lớp học giữa giảng viên và sinh
viên ở trường đại học. Luật án Tiến sĩ Tâm lý học. HV KHXH.
Nguyễn Thúy Nga (1993). Xây dựng quan hệ liên nhân cách trong lớp học
như là một con đường nâng cao hiệu quả công tác giáo viên chủ nhiệm. Luật án Tiến
sĩ. Thư viện quốc gia Việt Nam.
Vũ Thị Nho (2003). Tâm lý học phát triển. HN: Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.
Lê Minh Nguyệt (2010). Mức tương tác giữa cha mẹ và con tuổi thiếu niên.
Luật án Tiến sĩ Tâm lý học. Việt Nam: HV KHXH.
Barry D. Smith & Harold, J. Vetter (2005). Các học thuyết về nhân cách. Việt
Nam: Nxb Văn hóa thông tin.
Nguyễn Quý Thanh, Cao Thị Bắc Hải (2015). Nguyên lý đồng dạng: nghiên
cứu khám phá cơ chế định hình mạng lưới xã hội ở Việt Nam. Tạp chí Xã hội học.
Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Hải Bắc (2012). Quan hệ xã hội và vốn xã hội:
Nghiên cứu so sánh Việt Nam và Hàn Quốc. Tạp chí Xã hội học (3).
Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải (2015). Quy mô lõi mạng lưới quan
hệ xã hội của người Việt Nam và một số yếu tố ảnh hưởng. Tạp chí Xã hội học.
Nguyễn Thạc & Phạm Thành Nghị (1992). Tâm lý học sư phạm đại học. Việt
83
Nam: Nxb Giáo dục.
Phạm Quang Tiêp (2013). Dạy học dựa vào tương tác trong đào tạo giáo viên
tiểu học trình độ đại học. Viện khoa học giáo dục Việt Nam.
Tạ Quang Tuấn (2010). Tổ chức dạy học dựa vào tương tác người học - người
học ở trường Cao đẳng. Luận án Tiến sĩ. Đại học Sư phạm Hà Nội.
Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành (2003). Tâm lý học
đại cương. Nxb ĐHQGHN.
Nguyễn Khắc Viện (2001). Từ điển Tâm lý. Việt Nam: Nxb Văn hóa thông tin.
Nguyễn Đình Xuân & Vũ Đức Hán (1994). Giáo trình tâm lý học quản lý. ĐH
tổng hợp HN.
Nguyễn Như Ý (2000). Đại từ điển Tiếng Việt. Nxb Văn hóa thông tin.
Tiếng Anh
Rogers, C. (Introduction by Peter D. Kramer M.D ) (1995). On Becoming a
Person. NewYork.
Jones Vernon F. & Louise Jones (1981). Responsible Classroom Discipline.
Boston: Allyn and Bacon. Inc. pages 95-215.
Cooley, C. H, (1902). Human Nature and the Social Order. C. Scribner's sons.
New York.
Mead, G. H, (1934). Mind, SelfandSociety from the Standpoint of a Social
Behaviorist, Works of George Herber Mead. Chicago: The University of Chicago
Press.
Lewin K. (1951). Field theory in Social science. New York: Harper & Row.
Robert C. Liden and Sandy J. Wayne (2000). An Examination of the Mediating
Role of Psychological Empowerment on the Relations Between the Job, Interpersonal
Relationships, and Work Outcomes. Cleverland State University.
Muntner M. (2008). Teacher-Student Interactions: The Key To Quality
Classrooms. The University of Virginia Center for Advanced Study of Teaching and
Learning (CASTL).
84
Interaction. (2018). Truy xuất từ https://dictionary.cambridge.org/vi/dictionary/
PHỤ LỤC
KHOA TÂM LÝ HỌC
1. Phụ lục 1: Bảng khảo sát TRƯỜNG ĐH. SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHIẾU KHẢO SÁT
Anh/Chị sinh viên thân mến,
Tôi đang thực hiện khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM”. Tôi xin gửi đến các Anh/Chị phiếu xin ý kiến và mong các Anh/Chị cộng tác bằng cách trả lời đúng hoặc phù hợp nhất với ý kiến, quan điểm, nhận định của Anh/Chị ở thời điểm hiện tại qua từng ý hỏi trong mỗi phần của bảng câu hỏi sau đây.
Tất cả những thông tin thu được từ phiếu xin ý kiến này chỉ phục vụ cho mục
đích nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn Anh/Chị.
◻ năm 2 ◻ năm 3 ◻ năm 4
A. PHẦN THÔNG TIN CÁ NHÂN 1. Bạn là sinh viên: ◻ năm 1 2. Giới tính: 3. Khối ngành: ◻ nam ◻ nữ ◻ Tự nhiên ◻ Xã hội ◻ Đặc thù
(Khối ngành: + Tự nhiên: Sư phạm toán, sư phạm tin học, công nghệ thông tin, vật lý, sư phạm vật lý, sư phạm hóa, hóa học, sư phạm sinh; + Xã hội: Sư phạm địa lý, sư phạm ngữ văn, ngữ văn, Việt Nam học, văn học; + Đặc thù: Giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, giáo dục thể chất, giáo dục đặc biệt, giáo dục chính trị, quản lý giáo dục, giáo dục quốc phòng, tâm lý học, tâm lý - giáo dục)
B. PHẦN CÂU HỎI
85
Phần 1. Ở mỗi nhận định sau đây, Anh/Chị hãy đánh dấu (X) vào MỘT ô phù hợp với ý kiến, quan điểm, nhận định của bản thân nhất, trong đó, mức độ phù hợp tăng dần từ 1 đến 5 (1: ít phù hợp nhất → 5: rất phù hợp)
STT Nhận định 1 2 4 5 3
Trên lớp, tôi mong muốn được trao đổi với những sinh viên khác về nội dung bài học 1
2 Tôi luôn tìm cơ hội để trò chuyện với bạn bè
Những giờ học không được trao đổi với bạn bè, tôi thấy thật nhàm chán 3
4 Tôi muốn trò chuyện với bạn trên lớp học nhiều hơn hiện tại
5 Trên lớp, tôi cảm thấy hào hứng mỗi lần làm việc nhóm
6 Tôi mong đợi được đến lớp để trò chuyện với bạn bè
7 Tôi hầu như không thích nói chuyện với bạn khi đến lớp
8 Tôi cảm thấy thoải mái khi được một mình trong giờ học
Tôi thường xuyên trao đổi với bạn bè không chỉ trên lớp mà còn qua mail, facebook,... 9
10 Tôi luôn đợi người khác bắt chuyện với mình
Khi họp nhóm, tôi là người chủ động điều khiển nhóm của mình 11
Tôi là người thường xuyên khơi gợi các chủ đề trò chuyện với bạn bè 12
Tôi luôn tích cực đóng góp ý kiến đối với các nội dung liên quan đến bài học 13
14 Tôi thích lắng nghe hơn là nói ra ý kiến của mình
15 Tôi hiểu tính tình, sở thích, thói quen của bạn bè
16 Tôi đáp ứng được nhu cầu của bạn bè
Tôi hiểu mong muốn của bạn bè khi trao đổi, trò chuyện với tôi 17
Tôi nắm bắt được cảm xúc của bạn bè kể cả khi họ không nói với tôi 18
19 Tôi làm chủ nội dung tôi và bạn bè trao đổi với nhau
20 Tôi và bạn bè có cùng quan điểm về việc học
21 Tôi nhanh chóng hiểu được những gì bạn tôi muốn nói
Khi trao đổi với bạn bè, tôi rất khó để diễn đạt suy nghĩ của mình một cách ngắn gọn, dễ hiểu 22
86
23 Bạn bè luôn ủng hộ ý kiến của tôi
24
̣i khi phải nói lên quan điểm của mình khi trao Khi có việc quan trọng cần quyết định trong học tập, tôi thường hỏi ý kiến bạn bè Tôi rất nga ̣ đổi với bạn bè 25
26 Tôi khó giữ được bình tĩnh khi ý kiến của mình bị phản bác
27 Khi bạn tôi đưa ra quan điểm khác, tôi tôn trọng chúng
28 Tôi gặp khó khăn khi tiếp thu ý kiến của bạn bè trên lớp học
Tôi cảm thấy thất vọng khi trao đổi với bạn bè về nội dung bài học 29
Việc trao đổi với bạn bè trên lớp không giải quyết được khúc mắc của tôi 30
31 Bạn bè tạo cho tôi sự tin cậy
32 Ba ̣n bè khiến tôi cảm thấy được tôn trọng và yêu thương
33 Tôi dễ dàng bắt chuyện với bạn bè hơn trước
34 Tôi và bạn bè có sự tương đồng về quan điểm hơn trước
35 Tôi hiểu bạn bè hơn trước
36 Tôi xem trọng việc trao đổi với bạn bè trên lớp hơn trước
Việc trao đổi với nhau là thực sự cần thiết để học tập có hiệu quả 37
Tự học mà không có ý kiến đóng góp của bạn bè sẽ giúp tôi tập trung và đạt kết quả cao hơn 38
Hiểu được tính cách, sở thích của bạn bè là quan trọng để việc học tập đạt hiệu quả 39
Khả năng đón nhận các ý kiến trái chiều của tôi được cải thiện 40
Tôi cải thiện được khả năng diễn đạt ý kiến của mình (diễn đạt một cách ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu hơn trước) 41
42 Khả năng hợp tác của tôi được cải thiện
43 Khả năng lắng nghe của tôi được cải thiện
44 Số lần trò chuyện của tôi và bạn bè nhiều hơn trước
87
Tôi và bạn bè có nhiều kênh để trò chuyện hơn (không chỉ trò chuyện trực tiếp trên lớp mà còn qua điện thoại, mạng xã 45 hội)
Phần 2. Ở mỗi hành vi có liên quan đến hoạt động học tập sau đây, Anh/Chị hãy đánh dấu (X) vào MỘT ô phù hợp với mức độ thực hiện hành vi đó, cụ thể: 1: Không thực hiện 2: Hiếm khi thực hiện 3: Thỉnh thoảng thực hiện 4: Thường xuyên thực hiện 5: Luôn luôn thực hiện
STT Nhận định 1 2 4 5 3
1 Trao đổi nội dung bài học với bạn bè
Trao đổi nội dung bài học với bạn bè bằng các phương tiện khác (điện thoại, mạng xã hội,...) 2
Trò chuyện với bạn bè về các nội dung khác có liên quan đến quá trình học tập 3
4 Hỗ trợ, giúp đỡ bạn bè để giải quyết các nhiệm vụ học tập
5 Họp nhóm để ôn tập, củng cố kiến thức
Học hỏi từ bạn bè về các vấn đề có liên quan đến chuyên môn 6
Trình bày quan điểm của mình dù quan điểm đi ngược lại quan điểm chung của nhóm 7
Trao đổi tài liệu, thông tin có liên quan đến chuyên môn với bạn bè 8
9 Thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè cùng lớp, ngành học
10 Đặt mình vào vị trí của bạn bè để hiểu họ hơn
11 Tìm kiếm sự hỗ trợ từ bạn bè khi gặp khó khăn
12 Chia sẻ với bạn bè về mục tiêu học tập
13 Lập kế hoạch học tập cùng với nhóm bạn bè
14 Nhắc nhở nhau cùng cố gắng trong học tập
88
Chia sẻ với bạn bè những thành công hay thất bại trong học 15 tập
2. Phụ lục 2: Một số kết quả thống kê
- Tổng tương tác tâm lý trên các biểu hiện chính
N Minimum Maximum Sum Mean
288 288 132.00 22.00 281.00 68.00 61157.00 212.35 14103.00 48.97 Std. Deviation 25.08 7.96
288 43.00 84.00 17711.00 61.5 7.42
288 25.00 64.00 13684.00 47.51 7.68
288 27.00 75.00 15659.00 54.37 8.4
288
Tương tác tâm lý Nhu cầu Tương hợp và ảnh hưởng Tần số Thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi Valid N (listwise)
- Kết quả so sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường
Đại học Sư phạm TP. HCM theo các tham số nghiên cứu
+ Năm học
N Mean Minimum Maximum F Sig.
1,29 0,28
Năm học 1 2 3 4
212.66 54 207.63 76 214.56 93 214.43 65 Total 288 212.35 Std. Deviation 25.94 24.29 24.79 25.52 25.08 Std. Error 3.53 2.79 2.57 3.17 1.48 132.00 146.00 146.00 148.00 132.00 265.00 265.00 281.00 266.00 281.00
+ Giới tính
N Mean Giới tính Std. Deviation Std. Error Mean Sig. (2- tailer)
Nam 58 207.26 26.24 3.45 0.84 Tương tác
89
tâm lý Nữ 230 213.63 24.68 1.63 0.98
+ Khối ngành
N Mean F Sig. Std. Deviation Std. Error
Tự nhiên 53 212.60 26.07 3.58
Xã hội 116 211.47 24.42 2.27 1,29 0,28 Đặc thù 119 213.10 25.46 2.33
90
Total 288 212.35 25.08 1.48