TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC

-----------------------

NGUYỄN THỊ DUNG

TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ VÀ

NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2016-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. Nguyễn Thị Liên

ThS. Trương Thị Quỳnh Hoa

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận “Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và

những giá trị, hạn chế của nó” là công trình nghiên cứu của tôi và được

hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Giảng viên – Th. S Nguyễn Thị Liên và

Th. S Trương Thị Quỳnh Hoa.

Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm về nội dung khóa luận của mình. Trường đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn, ĐHQGHN không liên quan đến những vi pham tác quyền, bản

quyền do tôi gây ra trong quá trình thực hiện (nếu có).

Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020

Sinh viên

Nguyễn Thị Dung

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Th. S Nguyễn

Thị Liên và Th. S Trương Thị Quỳnh Hoa - người trực tiếp hướng dẫn,

giúp em hoàn thành khóa luận. Em cũng xin cảm ơn các thầy, cô giáo giảng

dạy trong Khoa Triết học cũng như các thầy cô trong chuyên ban Logic học

và các thầy cô trong trường đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức bổ ích để

thực hiện khóa luận và trang bị cho mình hành trang vững chắc cho sự

nghiệp sau này.

Cuối cùng em xin cảm ơn tới gia đình bạn bè đã luôn động viên,

quan tâm, chăm sóc em trong quá trình thực hiện. Mặc dù đã nỗ lực hết sức

để hoàn thành khóa luận này, tuy nhiên với khả năng có hạn nên khóa luận

tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý từ

phía thầy cô và các bạn để em tiến bộ hơn nữa trong học tập và nghiên cứu.

Bên cạnh đó, dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu cũng như sự

giúp đỡ nhiệt tình từ các thầy cô và anh chị, nhưng do giới hạn kiến thức và

khả năng lý luận của bản thân còn nhiều hạn chế, kính mong nhận được sự

góp ý và chỉ dẫn của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020

Sinh viên

Nguyễn Thị Dung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận ............................... 3

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận ................................ 3

4. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 4

6. Những đóng góp của khóa luận ............................................................. 5

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận .......................................... 5

8. Kết cấu của khóa luận............................................................................. 5

CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG

GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ.................................................................. 6

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội. ................................................................. 6

2.2. Những tiền đề tƣ tƣởng ...................................................................... 10

2.3. Khổng Tử- cuộc đời và sự nghiệp .................................................. 12

Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 15

CHƢƠNG 2: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CƠ BẢN CỦA

KHỔNG TỬ ............................................................................................... 17

2.1. Quan niệm của Khổng Tử về mục đích giáo dục ............................ 17

2.2. Quan niệm của Khổng Tử về đối tƣợng giáo dục ........................ 19

2.3. Quan niệm của Khổng Tử về các lĩnh vực giáo dục ....................... 22

2.3.1. Giáo dục đạo đức ............................................................................. 22

2.3.2. Giáo dục về các kiến thức khác ...................................................... 29

2.4. Quan niệm của Khổng Tử về phƣơng pháp giáo dục ................... 30

2.4.1. Đối với ngƣời thầy ........................................................................... 31

2.4.2. Đối với ngƣời học ............................................................................ 39

Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 43

CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TƢ TƢỞNG GIÁO

DỤC CỦA KHỔNG TỬ ........................................................................... 45

3.1. Những giá trị trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử .................. 45

3.2. Những hạn chế trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử ................ 52

KẾT LUẬN ................................................................................................ 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 68

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trên con đường phát triển của một quốc gia, bên cạnh những điều kiện

tự nhiên thì điều kiện xã hội cũng đóng vài trò quan trọng chủ chốt để thúc

đẩy quá trình tiến lên ấy. Trong đó nguồn lực con người đóng vai trò thiết

thực và quan trọng đối với một đất nước. Để đào tạo ra được những người

tài giỏi điều đầu tiên các nước chú trọng giáo dục, xem nó là động lực, đòn

bẩy thúc đẩy sự phát triển.

Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ

và nền kinh tế tri thức, hàm lượng trí tuệ kết tinh trong mỗi sản phẩm hàng

hóa ngày càng chiếm đa số trong giá trị được tạo ra và quyết định đến chất

lượng sản phẩm. Tuy nhiên, tài năng, trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao

động, sáng tạo của con người không phải xuất hiện một cách tự phát và

ngẫu nhiên, mà phải trải qua một quá trình giáo dục, rèn luyện tích lũy lâu

dài mới có được. Chính bởi vậy, giáo dục lại càng được coi trọng và trở

thành yếu tố cấu thành nên nền sản xuất xã hội. Thực tiễn cho thấy bất kỳ

quốc gia nào muốn phát triển đều phải quan tâm, đầu tư cho giáo dục. Bởi

vì giáo dục- đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế, góp

phần ổn định chính trị xă hội và hơn hết là góp phần nâng cao chỉ số phát

triển con người. Vì vậy, John Gelbriet viết: “Đồng đô la được đầu tư cho trí

tuệ con người thường mang đến sự gia tăng thu nhập quốc dân lớn hơn

đồng đô la đầu tư vào đường sắt, các đập chắn nước, máy móc, và các

khoản mục cơ bản khác. Giáo dục đang trở thành hình thức đầu tư có hiệu

suất cao”.

Việt Nam là đất nước chịu sự đô hộ trong khoảng thời gian dài nhất

dưới ách thống trị của Trung Hoa. Bởi vì quá trình tiếp xúc dài như vậy,

nên nền giáo dục của Việt Nam cũng chịu sự ảnh hưởng, phân hóa lớn từ

nền giáo dục nước bạn. Nho giáo du nhập vào nước ta trong khoảng 2000

1

năm và đã có những ảnh hưởng to lớn đối với xã hội và con người Việt

Nam.

Trung Quốc là một trong những cái nôi văn hóa lớn, rực rỡ, phong

phú bậc nhất của nền văn minh phương Đông. Và vậy nên, tư tưởng triết

học Trung Quốc từ lâu đã khẳng định được vị trí của mình trong tiến trình

phát triển chung của lịch sử tư tưởng nhân loại với tên tuổi của những nhà

triết học nổi tiếng. Mặc dù, Nho giáo - một trong những học thuyết triết học

và chính trị - xã hội lớn nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại ra

đời rất sớm, nhưng nội dung của nó đã dành sự quan tâm lớn đến con người

đặc biệt là vấn đề giáo dục con người.

Cùng với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, việc đẩy mạnh

công nghiệp hóa hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh”, thì công tác giáo dục đào tạo đã và đang

được đặt lên hàng đầu và đóng góp một phần quan trong trong quá trình

xây dựng và phát triển đất nước. Việc phát triển giáo dục- đào tạo trực tiếp

giúp con người nâng cao trí tuệ, hiểu biết và khả năng vân dụng những tri

thức khoa học kỹ thuật để từ đó không ngừng phát triển kinh tế, xã hội,

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân tiến tới thực hiện các

mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh

nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần

quan trọng phát triến đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt

Nam. Phát triến giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học công

nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho

phát triền” [23,tr. 115-116].

Với triết học Nho giáo, người mở đầu là Khổng Tử đã có nhiều đóng

góp cho giáo dục Trung Hoa cũng như nhiều nước phương Đông khác. Bởi

vậy, dù ở trong lịch sử hay hiện nay thì tư tưởng giáo dục của Khổng Tử

vẫn có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam

2

Vì vậy, với tất cả lý do trên, tôi lựa chọn : “Tư tưởng giáo dục của

Khổng Tử và những giá trị, hạn chế của nó” làm đề tài nghiên cứu trong

khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của khóa luận là phân tích một cách có hệ

thống tư tưởng giáo dục Khổng Tử từ mục đích, đối tượng, đến nội dung và

phương pháp giáo dục để qua đó, đồng thời qua đó rút ra những đánh giá

về giá trị và hạn chế của nó.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, khóa luận tập trung làm rõ những nội

dung chủ yếu sau:

- Phân tích, khái quát những điều kiện và tiền đề chủ yếu cho sự hình thành

tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.

- Phân tích, làm rõ một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng giáo dục của

Khổng Tử.

- Bước đầu rút ra những đánh giá về giá trị và hạn chế của nó

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tư tưởng giáo dục của Khổng

Tử và đánh giá về tư tưởng đó.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là tư tưởng giáo dục của Khổng

Tử trong tác phẩm Luận ngữ và những công trình nghiên cứu về tư tưởng

giáo dục của Khổng Tử.

4. Tình hình nghiên cứu

- Các công trình: “Đại cương triết học Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê

(Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1992),“Đại cương lịch sử tư tưởng

Trung Quốc” của Lê Văn Quán (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1996), “Đại

3

cương triết học Trung Quốc cổ đại” của Doãn Chính (Nhà xuất bản Thanh

niên, 2003), “Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại” của nhóm

tác giả Doãn Chính, Trương Văn Chung, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Tình (Nhà

xuất bản Thanh niên, 2003)… đã trình bày những nét cơ bản về đặc điểm

kinh tế, chính trị, xã hội cho quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng

triết học Trung Quốc cổ đại, trong đó tư tưởng giáo dục Nho giáo nói

chung và tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng.

- “Khổng Tử” của Nguyễn Hiến Lê (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà

Nội, 2006) đã trình bày ngắn gọn một số nội dung cơ bản trong học thuyết

của Khổng Tử như: “chính danh”, “đức trị”, “tu thân’, “phải học”, “dưỡng

dân”, “giáo dân”, “đạo làm người”.v.v.. Nghiên cứu những nội dung này

giúp chúng tôi có thêm những gợi ý để phân tích một số nội dung giáo dục

của Khổng Tử.

- “Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam” của Phạm Minh Hạc (Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013) đã trình bày triết lý giáo dục của

Việt Nam và một số nhà giáo dục tiêu biểu trên thế giới. Tác giả đã dành

nguyên chương thứ 3 để viết về Khổng Tử và triết lý giáo dục của Khổng

Tử.

- “Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội. Ảnh hưởng và ý nghĩa

của nó đối với xã hội ta ngày nay” (Luận án của Nguyễn Văn Bình, 2001)

đã trình bày khái lược về những mối quan hệ trong xã hội Trung Quốc.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra, khóa luận chủ yếu vận

dụng những quan điểm biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin,

phương pháp lịch sử triết học kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu

khoa học khác như: phương pháp diễn dịch, quy nạp; phương pháp phân

tích, luận giải; phương pháp đối chiếu - so sánh; phương pháp thống nhất

lôgíc - lịch sử ; phương pháp tổng hợp, khái quát.

4

6. Những đóng góp của khóa luận

Khóa luận phân tích và trình bày một cách có hệ thống những nội

dung và một số giá trị, hạn chế chủ yếu trong tư tưởng giáo dục của Khổng

Tử từ mục đích, đối tượng đến các lĩnh vực giáo dục và phương pháp giáo

dục.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận

7.1. Về mặt lý luận

- Từ góc độ và phương pháp tiếp cận triết học khoa học, khóa luận

trình bày khái quát các điều kiện và nhân tố tác động đến sự hình thành tư

tưởng giáo dục của Khổng Tử.

- Phân tích và hệ thống hóa những nội dung cơ bản trong tư tưởng

giáo dục của Khổng Tử.

7.2. Về mặt thực tiễn

Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy,

nghiên cứu và học tập về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng, tư

tưởng Nho giáo nói chung.

8. Kết cấu của khóa luận

Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,

phần nội dung của khóa luận được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.

5

CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG

GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội.

Từ xa xưa đến nay, bất kì một sự việc hay vấn đề gì nảy sinh thì đều

chịu những ảnh hưởng của chính xã hội, thời đại mà nó đang tồn tại chi

phối. Và bất kì học thuyết gì ra đời và được nhiều người dân nhắc mãi thì

đều phải chứa đựng trong nó vấn đề đáng chú ý và “học thuyết của Khổng

Tử nói chung và tư tương giáo dục của ông nói riêng” cũng đáng giá như

vậy.

Vì vậy để có thể nghiên cứu và hiểu rõ được học thuyết của Khổng

Tử thì trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu về điều kiện kinh tế-xã hội mà

ông đã sống - xã hội của thời kỳ Xuân Thu và trước Xuân Thu. Đây là thời

kỳ xã hội Trung Quốc với sự cai trị của các vua nhà Chu.

Về kinh tế, cũng như các nhà nước phương Đông bấy giờ, nền kinh

tế ở đây xuất hiện nhiều thành tựu rực rỡ trong nông nghiệp khi sản lượng

lương thực tăng nhiều hơn từ đó đáp ứng được nhu cầu và đã góp phần làm

cho xã hội hưng thịnh và văn minh hơn trước.

Bởi vì trải qua thời kì chiến tranh lâu dài giữa các nước chư hầu, cho

nên việc quản lý tư liệu sản xuất và sức lao động rất được coi trọng. Thời

gian này thì tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất, sức lao động là các công

xã và thị tộc thất bại từ chiến tranh và thuộc quyền quản lí của vua nhà Chu.

Vua lấy đất đai chia cho chư hầu, từ đó chư hầu có quyền quản lí đất nhưng

cũng phải chịu áp lực quản lí từ bề trên. Chư hầu có quyền lấy đất đai được

nhà vua ban cho chia lại cho họ hàng, họ hàng lại chia cho dân cày bởi dân

không thể có riêng đất đai nên đành phải chịu cảnh đi làm thuê làm mướn.

Khi có sự phân biệt trong của cải là đất đai thì đã có sự phân hóa sâu sắc

trong đẳng cấp xã hội, từ đó ảnh hưởng đến văn hóa, giáo dục. Ở thời kì

này, văn hóa, giáo dục chỉ dành cho quý tộc, thị tộc, giáo dục chủ yếu là ở

trường quan dành riêng cho con quý tộc, quan lại. Giáo dục trong gia tộc và

6

giáo dục học hiệu ngày càng mở nhiều để có thể đáp ứng nhu cầu của

người học. Đặc biệt thời kì này, việc giáo dục chỉ dành cho nam nhân, đặc

biệt là con trai trưởng của gia tộc thì vấn đề giáo dục, đào tạo được coi là

một chuyện hết sức quan trọng.

Vào thời kì này, nhà Chu đã thể hiện rõ lập trường của mình trong

việc phân biệt rõ giữa thành thị và nông thôn; và đã thành lập thành thị với

quy mô rộng lớn. Thành thị là nơi ngụ của vua và tầng lớp quý tộc- những

kẻ đại diện cho tầng lớp thống trị; còn nông thôn là nơi ở của những người

nông nô bị nô dịch. Từ đó trong xã hội có xuất hiện những người được coi

trọng là “quân tử” và những kẻ thấp kém được gọi là “tiểu nhân”. Há phải

chăng cứ là quân tử thì được mọi người mến mộ còn kẻ tiểu nhân thì bị

người đời khinh bỉ. Liệu những người không là quân tử cũng chả là hạng

tiểu nhân thì họ là ai? Trong các học thuyết của Khổng Tử ông cũng đề cập

đến quân tử đến tiểu nhân đến việc giáo dục như thế nào để được thành

quân tử và như thế nào sẽ trở thành tiểu nhân. Nhưng dù cho ông chủ

trương “hữu giáo vô loại” thì ông vẫn coi trọng việc giáo dục người quân tử

và giáo dục như thế nào để trở thành quân tử hơn.

Trải qua thời kì còn sơ khai về văn minh, vào thời Xuân Thu, kinh tế

Trung Quốc chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Đồ sắt ra đời

là bước ngoặt lớn trong nông nghiệp. Công cụ lao động bằng sắt ngày càng

nhiều đã làm cho diện tích đất canh tác ngày càng mở rộng, kỹ thuật trồng

trọt được cải tiến đã làm năng suất lao động tăng, sản lượng nông sản ngày

càng nhiều. Bước tiến bộ trong việc sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng

đến nhiều lĩnh vực khác thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh

chóng. Công cụ bằng sắt ra đời đã mở ra một ngành công nghiệp mới, lạ

cho Trung Quốc là luyện kim, luyện sắt… cùng với đó là sự phát triển của

các ngành chăn nuôi trồng trọt, nông dân biết trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải,

các nghề thủ công nghiệp cũng phát triển theo đặc biệt là làm gốm. Khi

kinh tế trong nước phát triển cộng với sự khai hoang ruộng đất, khai mở bờ

7

cõi, dẫn đến việc thương nghiệp cũng phát triển. Vào thời điểm này đã có

hình thức trao đổi mua bán bằng tiền tệ chứ không như trước. Sự xuất hiện

tiền tệ và thương nghiệp phát triển đã hình thành một tầng lớp người mới-

người thương nhân, tầng lớp này ngày càng có vị trí lớn và tầm ảnh hưởng

quan trọng tới kinh tế- xã hội- chính trị. Sự phát triển kinh tế đã làm cho

người dân thoát khỏi những cảnh đói nghèo lạc hậu từ đó họ quan tâm

nhiều hơn đến các vấn đề khác trong xã hội – trong đó có giáo dục.

Nếu ở xã hội trước, giai cấp quý tộc chủ nô nắm toàn bộ sức lao

động ruộng đất và người nô lệ, thì thời kì này xuất hiện công xã nông

nghiệp với tầng lớp nông nô- người được công xã giao ruộng đất cày và

được khai khẩn đất hoang, luận canh để tăng năng suất. Bên cạnh đó đã tạo

điều kiện cho giới quý tộc chiếm cứ ruộng đất công xã làm ruộng tư- xuất

hiện chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Từ đó trong xã hội hình thành 1

giai cấp mới, giai cấp địa chủ, giai cấp này vừa giàu có về kinh tế, vừa

mong muốn có quyền lực về chính trị, xuất hiện với tư cách địa chủ mới

cùng với giai cấp quý tộc chủ nô vào việc thống trị xã hội.

Ở thời kỳ Xuân Thu, tầng lớp quý tộc mới, vì có tiền và có tài đã bắt

đầu có thế lực chính trị bắt đầu chi phối xã hội. Đây là tầng lớp đã nhận ra

được sự sai sót, thiếu kém trong sự quản lý cũ mà bắt đầu xây dựng cho

riêng mình một cách quản lí mới. Lúc này học tập không còn là của riêng

mình ai mà còn là nhu cầu cấp thiết của một nhóm người trong xã hội, sách

viết: “Việc học tập từ chỗ là độc quyền của giới quý tộc thị tộc nay được

mở rộng đến cả thứ dân, nên trường tư mở ra, gọi là giai đoạn “học hạ tư

nhân”” [44, tr.64] . Khổng Tử là người đầu tiên mở ra trường tư nhân để

dạy cho tất cả mọi người, mở rộng phạm vi đối tượng giáo dục đến với các

tầng lớp khác trong xã hội. Với chủ trương “hữu giáo vô loại” Khổng Tử

dạy học không chỉ cho tầng lớp quý tộc địa chủ, những người thương nhân

thích làm quan mà còn dạy cho những người khác không phân biệt đẳng

cấp.

8

Vào thời kì này, việc quản lý đất đai đã không còn nằm trong tay của

nhà vua nữa, quyền cai trị đất đai của vua Chu bị tước đoạt, giai cấp quý

tộc nhà Chu thì mất dần quyền lực, địa vị kinh tế ngày càng sa sút. Việc

thực hành chế độ “phong hầu kiến địa” chỉ có kết quả trong thời gian đầu,

đến lúc này, các nước chư hầu không còn quy phục và phục tùng nhà Vua

như trước. Trật tự nhà nước đảo lộn, đạo đức suy đồi, chiến tranh loạn lạc

liên miên. Các cuộc chiến thôn tính lẫn nhau giữa các chư hầu nhằm tranh

giành địa vị cũng ngày càng nhiều dẫn đến sự diệt vong của hàng loạt các

nước chư hầu, dân tình loạn lạc, chết chóc, khổ sở, xã hội trở nên rối loạn

hơn bao giờ hết. Sử viết “khắp thiên hạ đều loạn lạc như nước đổ cuồn

cuộn, làm thế nào cho thiên hạ trị?”[43, tr. 36] hay “Nghĩ như vua chẳng ra

vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, ở trong tình cảnh

hỗn loạn như thế, dẫu ta có lúa đầy kho có chắc được ngồi yên mà ăn

không?”[43, tr.36] . Đây là thời kì mà xã hội Trung Quốc có sự biến động

sâu sắc, chế độ chiếm hữu nô lệ kiểu phương Đông ngày càng suy yếu, sự

manh nha bắt đầu xuất hiện chế độ phong kiến sơ kỳ đang dần hình thành-

đây chính là nguồn động lực để Khổng Tử đưa ra tư tưởng về giáo dục của

mình. Bởi ông cho rằng, xã hội hỗn loạn như bấy giờ là do trình độ nhận

thức, con người ngày càng vô đạo. Vì vậy cần phải có một triết thuyết về

giáo dục để có thể đưa con người trở về đúng với bản chất tự nhiên là thiện,

là yêu thương quý mến đồng loại.

Trong giai đoạn xã hội xáo trộn như thế này, nếu như những nhà cầm

quyền chủ trương dùng “hình pháp” để trị loạn xã hội như Quản Trọng ở

nước Tề, Từ Sản ở nước Trịnh, Thương Ưởng ở nước Tần…với phép trị

nước là đề cao luật pháp, ban bố pháp luật cho dân biết, nếu phạm tội thì sẽ

xử phạt theo pháp luật. Khổng Tử cho rằng chủ trương lập lại trật tự xã hội

bằng con đường giáo dục với mục đích dạy cho con người hiểu rõ được đạo

lý và coi đó là một trong những biện pháp chủ yếu để trở nên chính đạo,

đồng thời ông chú trọng đào tạo nên những người quân tử để cải biến xã

9

hội, đưa tới một xã hội thái bình thịnh trị như thời vua Nghiêu, vua Thuấn.

Ngoài ra, Khổng Tử còn muốn thông qua giáo dục để xây dựng một xã hội

lí tưởng- xã hội thái bình, thịnh trị có trật tự lễ nghĩa “quân quân, thần thần,

phụ phụ, tử tử”, “chính danh, định phận”, “túc thực, túc binh, dân tín”. Với

một xã hội lí tưởng như vậy thì việc đầu tiên và quan trọng nhất ông hướng

tới giáo dục con người vừa có đức, vừa có tài đặc biệt có thể xây dựng tầng

lớp đứng đầu với “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đất nước đang trong quá trình phát

triển nhưng lại xảy ra chiến tranh loạn lạc. Chính điều này đã phần nào đó

là lý do Khổng Tử đưa ra tư tưởng giáo dục và cũng ảnh hưởng đến những

nội dung giáo dục sau này của ông.

2.2. Những tiền đề tƣ tƣởng

Tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại có từ thời tiền sử nhưng phát

triển mạnh mẽ từ đời nhà Chu (1134-247 TCN). Trước đây, khi con người

ở thời đại nguyên thủy, tri thức còn đang sơ khai, thường cho rằng tất cả sự

vật trong vũ trụ này đều do các vị Thần sắp đặt. Lúc này, người dân đều lo

sợ trước mẹ thiên nhiên, lo sợ trước những vị Thần tự nhiên. Từ thời nhà

Hạ, nhà Thương đã bắt đầu có quan niệm về Trời và Đế, họ tin rằng Trời và

Đế đều có quyền uy tối thượng: “Thượng đế có quyền uy rất cao, đặt các

Thần giữ các chức quan, địa vị của các Thần là ở dưới Đế và phải phục

tùng mệnh lệnh của Đế” [33, tr.38]. Cho đến thởi kỳ Tây Chu thì bắt đầu có

triết học Trung Quốc. Vào lúc này người ta đã quan tâm đến thần thoại tôn

giáo duy tâm với các biểu tượng về “Thượng đế”, “quỷ thần”.

Cho đến thời Xuân Thu, con người đã biết đến ngũ hành, cho rằng

hầu như toàn bộ vật chất tồn tại quy thành năm loại, đồng thời cũng sử

dụng thuyết âm dương để giải thích những hiện tượng trong thế giới vật

chất.

Thời kỳ này, những “tín ngưỡng” đối với quỷ, thần càng ngày càng ít

đi. Lúc này, tư tưởng chi phối nhà Tây Chu đã trở nên hình thức và giáo

10

điều. Nếu như vào thời nhà Chu, “Lễ” vốn là điển chương thần thánh, là

công cụ thống trị của quý tộc thị tộc; “Thi” vốn là huyết mạch tư tưởng của

giai cấp thống trị thì đến thời Xuân Thu, “Lễ” đã trở thành nghi thức giao

tế của quý tộc, “Thi” đã trở thành lệnh bang giao giữa các nước hay thành

những lời thù tạc trong trường giao tế của quý tộc. Tuy nhiên, văn hóa thời

Tây Chu với những thành tựu mà vua Văn Vương, Vũ vương, Chu Công để

lại vẫn được nhiều người gìn giữ và bảo tồn ở thời Xuân Thu, đặc biệt là

chế độ Lễ - Nhạc nhà Chu rất được Khổng Tử coi trọng. Vì là người có

niềm tin về lịch sử, hoài cổ, nên Không Tử rất coi trọng việc gìn giữ và lưu

truyền văn hóa truyền thống, đặc biệt là văn hóa, đạo đức lễ nghi do Chu

Công tạo dựng. Để có thể tìm lại và lưu giữ văn hóa truyền thống thì

Khổng Tử coi đó là một nhiệm vụ của giáo dục. Để sau này, trong các bài

giảng của mình, ông thường sử dụng những câu chuyện về gương người cũ

mà giáo hóa cho học trò của mình.

Kể từ khi các nước chư hầu không còn phục tùng vương mệnh nhà

Chu, dẫn đến chiến tranh loạn lạc. Các cuộc chiến tranh giành địa vị bá chủ

càng ngày gay go, việc tranh giành đất đai và quyền cai trị dân chúng giữa

các dòng họ và quý tộc ngày càng khốc liệt. Bởi vậy chính trị rối loạn, đạo

đức băng hoại, đời sống tinh thần của ngươì dân ngày càng khổ cực, cuộc

sống ngày càng khó khăn. Đứng trước tình hình này đã nảy sinh trong lòng

người dân Trung Quốc một khát vọng về xã hội thái bình, thịnh trị. Đây

cũng là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành học thuyết chính trị- xã hội và

tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Đứng trước hoàn cảnh như bấy giờ, đạo

đức được coi như là một trong những vấn đề triết học Trung Quốc, từ đó

các nhà tư tưởng đã đề cao việc “tu tâm, dưỡng tính”.

Vào đầu thời nhà Chu, trong đời sống tinh thần của người Trung

Quốc cổ đại thì ngoài việc tiếp tục truyền thống tế Đế tổ, Tiên vương của

người Ân, nhà Chu còn bổ sung thêm tư tưởng kính trời, thờ Thượng đế,

hợp mệnh trời, người với trời hợp nhất

11

Vào thời Xuân Thu, mặc dù chiến tranh loạn lạc nhưng đây cũng là

thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại, còn

được gọi là thời kỳ “bách gia, chư tử”, “bách gia tranh minh”. Chính trong

điều kiện này, đã giúp Khổng Tử nhận thấy được rằng muốn thiết lập lại

trật tự, kỷ cương xã hội thì cần phải giáo hóa con người trước tiên. Trong

giáo dục ông chủ trương dùng “đức trị” và thông qua giáo dục như là

phương tiện để thực hiện đường lối chính trị của mình. Với mong muốn lập

lại trật tự lễ pháp nhà Chu, Khổng Tử đề cao chính sách Nhân trị của Chu

công, nêu lí tưởng Vương đạo của vua Nghiêu, vua Thuấn đời thái cổ.

2.3. Khổng Tử- cuộc đời và sự nghiệp

Khổng Tử (孔子), sinh năm 551 tr.CN và mất năm 479 tr.CN, tên là

Khâu (丘), tự là Trọng Ni (仲尼). Ông sinh ra vào thời Xuân Thu, tại ấp

Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông,

Trung Quốc), trong một gia đình nghèo, có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng

quý tộc sa sút từ nước Tống, sau này dời sang nước Lỗ. Cha của Khổng Tử

là Thúc Lương Ngột làm một chức quan nhỏ ở nước Lỗ. Năm Khổng Tử

lên 3 tuổi thì cha mất, ông sống với mẹ trong cảnh nghèo khó. Tuy nhà

nghèo nhưng cha làm quan nên lúc còn nhỏ “ông cũng được học trong một

trường công (quan học) mở để dạy con cái quý tộc về lục nghệ” [54, tr.40].

Vốn là một người rất thông minh, ham học, xem xét kỹ lưỡng để hiểu biết

tường tận vấn đề, gặp ai cũng học, ở đâu cũng học, bên cạnh đó ông cũng là

một người tự học và biết học như thế nào để tốt hơn. Khi trưởng thành, trải

qua sự dạy dỗ và tích lũy kiến thức mà mình có được, ông đã tự ý thức

được rằng, giáo dục là con đường không thể thiếu đối với mọi người để từ

đó ông mở trường tư dạy học (trước đó chỉ có trường công dạy cho con em

quan lại, quý tộc, vua chúa), đưa giáo dục đến với mọi tầng lớp trong xã

hội.

Nhiều sách cho rằng, Khổng Tử bắt đầu dạy học từ sớm trước khi

làm quan. Như có sách ghi rõ: “vào khoảng 30 tuổi, Khổng Tử bắt đầu

12

nhận đệ tử dạy học” [ 21, tr.15]. Học trò thường gọi ông là Khổng Phu Tử

(孔夫子) hay Khổng Tử (chữ Tử ở đây gọi là thầy). Vốn nổi tiếng là người

học rộng, biết nhiều, nên ông được nhiều học trò xin theo học, ngay cả

quan Đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cũng cho hai người con trai là Hà

Kỵ và Nam Cung Quát theo Khổng Tử học lễ. Học trò của Khổng Tử rất

đông, trong đó có nhiều người tài đức được Khổng Tử nhắc đến nhiều lần

trong Luận ngữ như Nhan Uyên, Tử Lộ, Tử Cống, Nhiễm Hữu, Quý Lộ,

Tử Du, Tử Hạ, Trọng Cung...

Ngay khi còn trẻ, Khổng Tử đã có mong muốn được làm quan để thi

hành chính đạo, thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Năm 21 tuổi, Khổng

Tử được cử làm chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách. Sau đó,

làm chức Tư Chức Lại, coi việc nuôi bò, dê, súc vật dùng trong việc tế tự.

Theo các nhà nghiên cứu, Khổng Tử đã kinh qua một số chức quan, có sách

viết ông làm đến chức “Thượng thư Bộ công, Thượng thư Bộ hình, rồi

được thăng tới chức Đệ nhị Tướng quốc, Tư khấu (Quyền Tể tướng)” [21,

tr.48]. Vào năm thứ mười đời Lỗ Quốc công, với tư cách là quan Tư khấu,

Khổng Tử đã mang lại cho nước Lỗ nhiều thành tựu khi hội đàm với Tề

hầu ở Giáp Cốc. Sau vì chính sách của ông không được áp dụng, ông đã đi

chu du thiên hạ cùng với một số học trò thân cận như Nhan Uyên, Tử Lộ,

Nhiễm Hữu... để tuyên truyền cái đạo của mình. “Ông cũng là người đầu

tiên mở phong trào du thuyết khắp các nước để tìm một ông vua biết dùng

thầy trò ông” [43, tr. 48]. Sau 13 năm chu du liệt quốc, Khổng Tử vẫn

không tìm được nơi nào để hành đạo của mình, ông quay về nước Lỗ tiếp

tục nghiên cứu và dạy học để truyền đạo cho đời sau.

Theo Sử ký Tư Mã Thiên, cuộc đời Khổng Tử được chia thành bốn

thời kỳ: “1. Thời kỳ thơ ấu và tráng niên từ 1 đến 30 tuổi: Thời kỳ côi cút,

nghèo nàn, hay làm, ham học; 2. Thời kỳ trưởng thành: từ 30 đến 50 tuổi:

Thời kỳ lập chí học đạo, sang Chu, sang Tề, khảo sát phong tục, lễ nhạc,

nghiên cứu sách vở tiền nhân; 3. Thời kỳ giảng giáo bằng phương pháp

13

chính trị: Từ 50 đến 68 – Hoặc chấp chính tại Lỗ (50 - 55 tuổi), – Hoặc chu

du thiên hạ (55 đến 68 tuổi); 4. Thời kỳ giảng giáo bằng phương pháp

giảng dạy, giáo dục môn đệ và trước tác: từ 68 đến 73 tuổi” [Dẫn theo 43 tr.

48-49]. Như vậy, phần lớn cuộc đời Khổng Tử là để tâm cầu học và dạy

người. Vốn “là người đi nhiều, học nhiều, Khổng Tử đã tổng kết được

nhiều vấn đề về nhận thức, về thực tiễn giáo dục và phương pháp dạy học”

[9, tr.19]. Đúng như nhận định của Nguyễn Văn Thọ: “Đức Khổng Tử sinh

ra đời, có lẽ là để dạy đời, cho nên Ngài hết sức tha thiết với vấn đề giáo

dục”. Gần như cả cuộc đời Khổng Tử theo đuổi sự nghiệp giáo dục với sự

nhiệt tâm và tinh thần “hối nhân bất quyện” – dạy người không chán, ông

đã trở thành nhà giáo dục vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc.

Ông rất coi trọng việc gìn giữ đạo của Thánh hiền, nhất là các kinh

sách đời trước. Ông “đem Quan thư san định thành Thượng thư, đem thi ca

cổ đại của vùng Hoa Bắc, tương truyền hơn 3.000 thiên (bài), san còn lại

được hơn 300 thiên (tức Kinh Thi), sau đó đính định Lễ thư (tức Kinh Lễ),

Nhạc thư (tức Kinh Nhạc)”. Những năm cuối đời, Khổng Tử thích nhất là

việc san định bộ Chu Dịch, tức là Kinh Dịch, ông ghi chú cẩn thận, xếp đặt

lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu. Ngoài việc san định Thi,

Thư, Lễ, Nhạc, Khổng Tử còn viết sách Xuân Thu, ghi chép sử nước Lỗ

thời Xuân Thu. Đây cũng chính là những nguồn tài liệu mà Khổng Tử dùng

để giảng dạy cho học trò của ông. Sự nghiệp dạy học của Khổng Tử lại có

quan hệ mật thiết với sự ra đời của cuốn Luận ngữ. Trong quá trình dạy học,

những lời dạy học trò, lời đối đáp của Khổng Tử với đệ tử và giữa các đệ tử

với nhau đã được môn đệ của ông ghi chép và biên soạn lại thành cuốn

Luận ngữ. Đây là cuốn kinh điển “phản ánh tư tưởng giáo dục tiến bộ của

Khổng Tử”.

14

Tiểu kết chƣơng 1

Được ví là một trong những nền văn minh lớn của thế giới, Trung

Quốc ở giai đoạn Xuân Thu đã có nhiều thành tựu nổi bật đánh dấu sự phát

triển của đất nước. Về kinh tế đã có nhiều cải tiến trong công cụ sản xuất,

từ những hòn cuội, hòn đá để đập vỡ hạt thì bây giờ người Trung Quốc đã

sử dụng những công cụ bằng kim loại để trồng trọt, chăn nuôi. Về chính trị,

sau khi vua nhà Chu qua đời, đã có nhiều biến động xảy ra. Với địa thế là

một đất nước có diện tích lãnh thổ rộng lớn bật nhất thì việc các cuộc chiến

tranh loạn lạc giữa các chư hầu nhằm xâm chiếm lẫn nhau để giành quyền

cai trị đất nước xảy ra thường xuyên vào giai đoạn này. Điều nãy dẫn đến

cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn, đất nước thì tà đạo ngày

càng nhiều. Sống trong xã hội loạn lạc, vô đạo của xã hội đương thời đã

làm cho Khổng Tử sớm nhận thức và tìm ra con đường cải tạo xã hội bằng

việc phải giáo dục, giáo hóa con người, đào tạo nên những con người đủ

đức hạnh và tài năng để gánh vác trách nhiệm phục hưng xã hội. Điều này

đã thúc đẩy Khổng Tử xây dựng nên học thuyết của mình để xây dựng một

xã hội bình trị, quốc thái dân an.

Khổng Tử được sinh ra trong một gia đình quý tộc sa sút nhưng ông

đã có cơ hội thụ hưởng nên giáo dục quan học, văn hóa, đạo đức, nghi lễ do

Chu Công xây dụng. Vốn là một người thông minh, hiếu học, tài năng,

uyên bác, chứng kiến cảnh nước nhà như vậy, là một người yêu nước có

mong muốn xây dựng xã hội quay về thái bình thịnh trị như thời vua

Nghiêu, vua Thuấn thì Khổng Tử đã hiều rõ được vấn đề ngay bây giờ là

phải giáo hóa người dân. Giáo dục cho họ về đạo đức, về chính trị, về lục

nghệ… để từ đó có thể tự mình xem xét, học hỏi và sửa đổi theo chính đạo.

Là một người bắt đầu sự nghiệp học tập cũng như giảng dạy từ rất sớm,

Khổng Phu Tử đã có được những tư tưởng sâu sắc về giáo dục. Từ đó

những bài giảng, lời nói, những so sánh của ông đã có những tác động to

15

lớn đến học trò, để sau này chính những người học trò đó đã góp công xây

dựng nên một công trình học thuật có ý nghĩ- tác phẩm “ Luận Ngữ”.

16

CHƢƠNG 2: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CƠ BẢN CỦA

KHỔNG TỬ

Với Khổng Tử, giáo dục không chỉ là phương tiện đưa lại tri thức

hay phương pháp mang đến kỹ năng mà còn là phương thức ứng xử, đạo

làm người trong xã hội. Trong quá trình giảng dạy của mình cũng như

trong tác phẩm Luận ngữ không có chia rõ cụ thể về: mục đích giáo dục,

đối tượng giáo dục, các lĩnh vực giáo dục, phương pháp giáo dục, mà là do

người thực hiện sử dụng để có thể nghiên cứu về tư tưởng.

2.1. Quan niệm của Khổng Tử về mục đích giáo dục

Giáo dục là việc dạy dỗ con người tránh khỏi sự mơ hồ về thế giới

xung quanh và chính bản thân chúng ta. Giáo dục biến con người tự nhiên

thành con người xã hội, có năng lực nhận thức nhất định. Hoạt động giáo

dục không chỉ đơn thuần diễn ra trong nhà trường, lớp học chính quy mà

còn có thể tồn tại ở nhiều môi trường khác trong xã hội.

Đặc biệt trong thời kì xã hội Khổng Tử đang sinh sống, xã hội loạn

lạc, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau làm cho trật

tự xã hội bị đảo lộn, thì việc giáo dục con người như thế nào để có hiệu quả

nhất là vẫn đề cấp thiết. Trước tình hình xã hội như vậy, Khổng Tử chủ

trương tác động đến con người, làm cho con người thấu hiểu đạo lí, biết rõ

quy luật xã hội, từ đó mới có thể xây dựng một xã hội trật tự, kỉ cương,

“ quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, một xã hội thịnh vượng như thời

trước. Vậy nên ông đặt vai trò của giáo dục là vai trò quan trọng và cấp

thiết có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội.

Mỗi người sinh ra bản chất đều gần giống nhau, nhưng do môi

trường sống, cách giáo dục, thói quen, tập tục vùng mà ngày càng xa nhau.

Khổng Tử cho rằng : “Tánh tương cận giã, tập tương viễn giã- Bản tính con

người gần giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau”[16,tr.268]. Vì vậy

môi trường sống và sự giáo dục đối với con người rất quan trọng nhất là

nếu được giáo dục đúng cách từ khi còn nhỏ thì sẽ giáo hóa được những

17

người tốt. Nếu ở trong gia đình được sự định hướng giáo dục tốt ngay từ

khi còn nhỏ, sau này lớn lên sẽ xây dựng cho người đó một nền tảng tốt để

đối mặt với xã hội ngoài kia. Lớn lên ở những môi trường khác nhau, trong

sự giáo dục khác nhau thì sẽ tạo ra những con người với bản tính và trách

nhiệm khác nhau. Mục đích giáo dục của Khổng Tử là nhắm khơi dậy bản

tính ngay thẳng, vốn lương thiện của con người, đánh thức con người

hướng đến con người toàn diện.

Bên cạnh đó với ông việc giáo dục có mục đích để sửa mình và sửa

người “Người quân tử không trang trọng thì không uy nghi, học tất không

vững, chuyên chú vào sự trung tín, không kết bạn với người không trung

tín như mình, có lỗi thì chớ ngại sửa đổi”. Với mục tiêu giáo dục để thành

người quân tử, nên ông luôn lấy người quân tử làm hình mẫu để giáo dục

người khác, đặc biệt với ông mục đích cao cả nhất của giáo dục là có thể tự

sử mình, tự tu tâm dưỡng tính và đặc biệt là không ngần ngại sửa sang lại

lỗi lầm của mình khi mắc phải sai phạm dù là nhỏ nhất.

Với Khổng Tử, mục đích giáo dục không đơn thuần là cung cấp kiến

thức mà còn là phương tiện giúp giáo hóa, hình thành nhân cách con người,

cải tạo nhân tính giúp chúng ta trở nên tốt hơn. Giáo dục giúp mình tự soi

xét được chính mình, tự sửa mình, trách mình và tự hoàn thiện mình. Và

chính Khổng Tử là người đã đặt nền móng cho thuyết bản tính con người

chia làm thiện và ác để sau này Mạnh Tử và Tuân Tử hình thành nên học

thuyết của mình. Ông cho rằng, con người phát triển không phụ thuộc vào

bản tính tự nhiên mà chủ yếu là do giáo dục và đặc biệt trong xã hội lúc bấy

giờ thì mục đích giáo dục của ông cũng chính là giúp cải tạo nhân tính, sửa

trị bản thân.

Bên cạnh đó, mục đích giáo dục của ông là đào tạo những con người

biết tòng chính, biết làm chính trị. Ông cũng đã xây dựng hình mẫu lý

tưởng là người quân tử có nhiệm vụ cải tạo, phục hưng xã hội. Bởi vì, tại

thời điểm ông sinh sống xã hội đang còn loạn lạc, chư hầu khắp nơi nổ ra

18

những cuộc chiến tranh để nhằm thâu chiếm lẫn nhau nên thời điểm ấy ông

muốn giáo dục nên những nhân tài làm chính trị để có thể thiết lập lại trật

tự xã hội. Theo ông, để có thể ổn định lại xã hội, cần phải có những người

vừa có đức vừa có tài và họ phải thực sự có sức mạnh và có quyền lực. Cho

nên, Khổng Tử rất quan tâm dạy dỗ học trò của mình đạo của người quân

tử. Dù không phải là người đầu tiên đưa ra khái niệm “người quân tử”

nhưng đến thời ông, quân tử mới được xem không chỉ là người có địa vị xã

hội mà còn là người có đạo đức nhân cách và có vai trò to lớn trong xã hội.

“Đạo của bậc quân tử phải lấy sự tu tập lấy mình làm gốc, mình hãy tỏ ra

cho dân thấy hẳn mình là bậc có đức hạnh”[46, tr.87]. Là một khuôn mẫu

toàn diện, chính Khổng Tử đã dệt nên người quân tử phải có những phẩm

chất mà người thường không có, đặc biệt đó là “sự tu tập, lấy mình làm

gốc”, phải tự mình cố gắng, tự mình làm việc, tu sửa bản thân để ngày càng

tốt hơn; và phải “lấy mình làm gốc” bản thân mình phải tốt, phải hoàn thiện,

làm việc gì cũng đặt trọng tâm vào chính mình. Hay đạo của người quân tử

phải có bốn điều cốt lõi : “phận làm con phải hiếu thuận với cha mẹ, phận

làm tôi phải trung với vua, phận làm em phải kính nhường anh, phận làm

bằng hữu phải ra tay giúp người”[46, tr.55].

Mặc dù với mục đích giáo dục để phục hưng xã hội, nhưng một mặt

ông chủ trương phục hưng xã hội bằng những người được giáo dục và một

mặt ông lại giáo dục những người đó theo khuôn mẫu trong quá khứ, thì

điều này sẽ tạo ra một vòng tròn lặp lại.

Nói tóm lại, mục đích giáo dục của Khổng Tử là để cải biến xã hội,

giáo dục người phát triển toàn diện, dạy cho con người biết hiểu biết về đạo

và hành đạo, đào tạo những người có kiến thức để tham gia vào hoạt động

chính trị, và giúp con người có thể tu dưỡng nhân tính.

2.2. Quan niệm của Khổng Tử về đối tƣợng giáo dục

Ở thời kỳ này, việc giáo dục đã bắt đầu đi vào hệ thống, Khổng Tử

cũng như tất cả những nhà tư tưởng thời kì này đều hướng đến đối tượng

19

cần phải giáo dục là chính con người. Khổng Tử chủ trương “hữu giáo vô

loại”- có nghĩa là giáo dục, giáo hóa với tất cả mọi người mà không phân

biệt loại người. Vì vậy một lần nữa khẳng định phạm vi giáo dục của ông

không chỉ dừng lại ở các con em quý tộc quan lại mà còn bao gồm cả

thường dân và nô lệ.

Với mục đích là có thể giáo hóa tất cả mọi người trong thiên hạ thì

điểm cốt lõi đầu tiên ông muốn đấy là có thể giáo dục hướng con người tới

chỗ hoàn thiện (người quân tử). Trong sách Luận ngữ, có thể thấy, Khổng

Tử chia xã hội thành nhiều hạng người. Ở góc độ tư chất, ông chia thành ba

hạng người: Thượng trí, trung nhân và hạ ngu. Và đối với ông thì “trên từ

bậc Thiên tử lần xuống chí hạng bình dân, ai ấy đều phải lấy sự tu tập lấy

mình làm gốc”[46, tr.7] và muốn tu sửa bản thân để trở thành người có đức

hạnh hoàn toàn thì trước hết phải giữ cái tâm cho chính, cái ý cho thành, rồi

mới cách vật, trí tri được, mới hiểu rõ các sự vật và biết đến cùng cực cái

biết. Trong sách Luận Ngữ ông có viết: “Trung nhân dĩ thượng khả dĩ ngữ

thượng dã; trung nhân dĩ hạ bất khả dĩ ngữ thượng dã.”[45, tr.93]– Tức là

“Người có tư chất từ bậc trung trở lên thì có thể giảng đạo lí cao xa cho

được, từ bậc trung trở xuống, không thể giảng đạo lí cao xa cho được”[ 45].

Ý của ông ở đây không phải chỉ có những người trung nhân và thượng trí

mới được giảng đạo lí cao xa còn những người còn lại thì không được

giảng, mà ông muốn khuyên là không nên dạy vì nếu dạy người ta cũng

không hiểu hết: “Đạo của người quân tử rộng lớn mênh mông mà cũng ẩn

nhẹm hết sức. Dẫu cho hạng ngu phu ngu phụ trong xã hội cũng dự biết

chút ít về đạo ấy. Mà biết cho cùng tột, ví dầu là thánh nhân cũng chẳng

biết hết cho nổi”. Trong sách Luận ngữ, theo cấp bậc học tập Khổng Tử lại

chia xã hội thành bốn hạng người: “Con người sinh ra, tự nhiên biết được

đạo lý, đó là hạng người cao thượng. Cần phải học rồi mới biết, đó là hạng

thứ hai. Tự mình ám độn, nhưng chịu khó học tập đạo lý, đó là hạng thứ ba.

Đã ám độn mà chẳng chịu khó học tập, đó là hạng người đê hèn”[37] . Và

20

nếu như trên thì số người cao thượng chỉ chiếm một lượng nhỏ nhoi trong

xã hội- những thiên tài. Còn hạng thứ hai lại là hạng người chỉ cần học đến

đâu hiểu đến đó để chỉ những kẻ thông minh với chỉ số thông minh cao.

Còn hạng thứ ba dùng để chỉ những kẻ không biết gì nhưng chăm chỉ nỗ

lực làm đi làm lại, nghiên cứu mày mò rồi cũng có chút thành tựu. Còn

hạng cuối cùng là những kẻ đã chẳng biết gì còn lười biếng, không chịu tìm

hiểu, học tập chứ không phải là không được giáo dục. Cho thấy ông không

chê trách học trò không hiểu biết mà ông chỉ chê trách những người lười

biếng, không chú tâm học hành.

Đối với Khổng Tử, ông chia xã hội thành hai hạng người chủ yếu là :

quân tử và tiểu nhân. Theo đó, quân tử là những người có địa vị, đức hạnh

và có giáo dục bậc cao còn tiểu nhân là kẻ thấp kém, trí tuệ và đạo đức ít ỏi.

Quân tử là hình mẫu lí tưởng cho việc giáo dục của Khổng Tử.

Bên cạnh đó, Khổng Tử vẫn chỉ đề cập đến việc giáo dục nam nhân

mà không đề cập đến việc giáo dục phụ nữ “Nếu sinh được con trai thì cho

ngủ trên giường, cho mặc quần áo đẹp, cho chơi ngọc chương. Tiếng khóc

vang vang lớn lên sẽ huy hoàng, là bậc quân vương thành gia lập nghiệp.

Nếu sinh được con gái, cho ngủ dưới đất, cho quấn tá lót, cho chơi mảnh

ngói. Lớn lên nhu thuận biết lễ nghi, lo cơm nước khéo việc nhà, không để

cha mẹ lo lắng”[42, tr 910-941]. Trong xã hội bấy giờ thân phận người phụ

nữ thấp hèn, bị xã hội coi thường, có lẽ bởi vậy nên họ ít có được cơ hội đi

học hơn nam giới. Bên cạnh đó lúc này xã hội người giàu thì ít, người

nghèo thì nhiều, dù cho Khổng Tử là người bảo “hữu giáo vô loại” thì cũng

không phải ai, gia đình nào cũng đủ điều kiện để cho con cái đi học. Mặc

dù không được đến trường đến lớp thì người phụ nữ vẫn được giáo dục

ngay tại trong gia đình mình những việc làm.

Là người đầu tiên đưa ra chủ trương hữu giáo muôn loại, mang kiến

thức đến cho tất cả mọi người, đối với mỗi người ông lại có các kiến thức

21

cũng như phương pháp dạy học khác nhau để giúp học trò có thể tiếp thu

kiến thức được tốt nhất.

2.3. Quan niệm của Khổng Tử về các lĩnh vực giáo dục

Trong quá trình thực hiện giáo dục, Khổng Tử không chỉ giảng dạy

về một môn hay một lĩnh vực nhất định mà ông đã dạy cho học trò của

mình nhiều nội dung quan trọng: từ đạo đức làm người, chính trị, cách học,

cách dạy, cách kết bạn... Nhưng cho dù ông dạy lĩnh vực nào cũng mang

hết kiến thức có được của mình vào việc giảng dạy, mong cho học trò có

thể hiểu, có thể biết, có thể làm và có thể hoàn thiện chính mình, góp phần

xây dựng đất nước.

2.3.1. Giáo dục đạo đức

Ngay từ đầu, Khổng Tử chủ trương dùng đức trị để cai trị xã hội nên

nội dung giáo dục của ông phần lớn thường nghiêng về đạo đức và đạo lí

làm người. Trong quá trình nghiên cứu nội dung giáo dục của ông, tôi nhận

thấy rằng mặc dù ông là người chủ trương giáo dục toàn diện nhưng ông

chỉ chú trọng nhiều đến đạo đức chính trị còn những lĩnh vực khác ông

không quá đi sâu vào giáo dục. Trong nội dung giáo dục về đạo đức của

mình, có thể nói Nhân, Lễ, Chính danh định phận là những nội dung cốt lõi

mà ông đề cập đến. Với mục đích giáo dục đạo đức, nên trong các mối

quan hệ khác nhau thì cách ứng xử lời nói đều phải tuân theo vai vế, tuân

theo đạo tương xứng, phải “chính danh, định phận”.

Khổng Tử cho rằng, mỗi vật, mỗi người sinh ra điều có một địa vị,

công dụng nhất định. Ứng với mỗi địa vị, công dụng đó là “danh” nhất định.

Vật nào, người nào trong thực tại điều có danh hợp với nó, nếu không danh

sẽ không hợp với thực, là loạn danh. Chính danh là danh và thực phải phù

hợp với nhau. Ông cho rằng, sở dĩ xã hội loạn lạc là do danh không phù

hợp với thực, từ đó dẫn đến làm cho kỷ cương phép tắc đảo lộn. Muốn ổn

định trật tự xã hội, Khổng Tử chủ trương phải giáo hoá đạo đức và thực

22

hiện chủ nghĩa “Chính danh, định phận”. Danh và phận của mỗi người

trước hết hết do xã hội quy định, Khổng Tử đã quy tất cả các quan hệ xã

hội thành năm mối quan hệ cơ bản (Ngũ luân) như sau: Vua – Tôi: bề tôi

phải lấy chữ trung làm đầu; Cha – Con: bề con phải lấy chữ hiếu làm đầu;

Chồng – Vợ: vợ phải lấy tiết hạnh làm đầu; Anh – Em: phải lấy chữ hữu

làm đầu; Bạn – Bè: phải lấy chữ tín làm đầu. Năm mối quan hệ này có tiêu

chuẩn riêng: vua thì phải nhất; tôi thì phải trung; cha phải hiền từ; con phải

hiếu thảo; phu xướng phụ tuỳ… Trong năm quan hệ đó Khổng Tử nhấn

mạnh ba quan hệ đầu là cơ bản nhất (Tam cương) cụ thể là: Vua – Tôi: vua

là trụ cột; Cha – Con: cha là trụ cột; Chồng – Vợ: chồng là trụ cột.

Theo Khổng Tử nếu không chính danh thì lời nói không thuận, lời

nói không thuận thì việc làm không thành, việc làm không thành thì lễ nhạc

không kiến lập được, không kiến lập lại được lễ nhạc thì hình phạt không

đúng, hình phạt không đúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu. Cho

nên, người quân tử đã dùng cái danh thì phải nói ra được, nói rồi tất phải

làm được, vì thế người quân tử phải thận trọng với lời nói của mình. Nếu

danh không chính, nói và làm không đúng theo chức phận của mình, “trên”

không nghiêm “dưới” loạn, vua không ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha không ra

cha, chồng không ra chồng, vợ không ra vợ,… Khổng Tử cho rằng , xã hội

loạn là có nguồn gốc từ trên. Do vậy, ông rất đề cao tính tự giác của mỗi cá

nhân trong việc giữ lấy cái danh phận của mình, bởi vì nếu mỗi người tự

chính được bản thân mình thì không cần hạ lệnh mọi việc sẽ được tiến hành,

nếu ngược lại dù có hạ lệnh cũng chẳng ai theo. Khi Tử Lộ hỏi về việc

chính trị, Khổng Tử nói,: “muốn trị nước, trước tiên ắc phải sửa cho chính

danh, vì nếu việc chính sự là ngay thẳng, cứ làm gương về sự ngay thẳng

thì không ai không dám ngay thẳng nữa” [42].

Trong mối quan hệ vua- tôi, thì “Vua phải trọn đạo của vua, bầy tôi

làm trọn đạo của bầy tôi”[21,tr.70]. Vua phải là người thương dân như con,

chăm lo cuộc sống của người dân, đảm bảo nguồn sống cho người dân. Vua

23

phải là người đức hạnh, chăm lo xã tắc thái bình thịnh trị như thế mới có

thể có được lòng dân, mới có được niềm tin từ người dân. Theo ông, vua

muốn dẫn dắt được cần phải có đức hạnh, học thức và quyền nghi. Bên

cạnh đó người dân phải trọn đạo với về trên, trung thành, tin tưởng tôn kính

và phải làm việc chăm chỉ để làm giàu giang san của vua, để có thể phụng

sự vua lâu dài.

Trong gia đình thì đạo cha- con, người cha phải “từ”, con phải “hiếu”.

Theo Khổng Tử trong gia đình, người cha sẽ là hình mẫu là kiểu mẫu để

người con noi gương, học tập theo. Vì vậy người cha trong gia đình luôn

phải biết nhân từ độ lượng, dạy dỗ con cái mình. Còn người con thì có thể

học tập từ cha mình, hiểu biết phép tắc lễ độ, hiếu thảo ngoan ngoãn với

cha mẹ mình. Với ông, đạo hiếu là đạo quan trọng nhất đối với một người

con trong gia đình. Và làm con phải phụng thờ cha mẹ theo Lễ: “Hễ làm

con, khi cha mẹ còn sống, phải phụng sự cho có lễ; khi cha mẹ chết, phải

chôn cất cho có lễ; khi cúng tế cũng phải giữ đủ lễ phép, nghiêm trang” [45,

tr.17].

“Nhân” trong Luận Ngữ là phạm tù trung tâm trong nội dung giáo

dục mà Khổng Tử đề cập đến. Mặc dù có nhiều người cho rằng “Lễ” mới là

nội dung cơ bản trong quá trình giáo dục của ông. Những theo cá nhân tôi,

cho rằng Nhân chính là nội dung giáo dục trọng tâm của Khổng Tử, bởi lẽ

xét vào thời đại ông sống, chiến tranh loạn lạc, thôn tính lẫn nhau, người

người mất hết nhân tính nên việc đầu tiên và quan trọng mà ông muốn đó là

có thể giáo dục lại “Nhân” cho mọi người.

Nhân vốn là một phạm trù đạo đức của quý tộc chủ nô thời Ân,

Thương bao gồm nhiều nội dung như việc tuân theo ông cha, yêu thương

con người, che chở quan tâm đến nhân dân… nhưng những nội dung này

chưa được xây dựng thành một hệ thồng chặt chẽ mà chỉ là những nội dung

riêng rẽ. Khổng Tử đã kế thừa tư tưởng nhân của người trước đồng thời bổ

24

sung thêm những nội dung mới trở thành phạm trù trung tâm bao trùm tất

cả những phạm trù đạo đức khác.

Trong Luận ngữ, khái niệm “Nhân” được Khổng Tử nhắc tới nhiều

lần và tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà “Nhân” được hiểu theo nhiều

nghĩa khác nhau. Theo nghĩa sâu rộng nhất “Nhân” là một nguyên tắc đạo

đức trong triết học Khổng Tử. “Nhân” được ông coi là cái quy định bản

tính con người thông qua “Lễ”, “Nghĩa”; quy định quan hệ giữa người và

người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. “Nhân” có quan hệ chặt chẽ với

các phạm trù đạo đức khác trong triết học Khổng Tử để làm nên một hệ

thống triết lý nhất quán, chặt chẽ và do vậy, đã có người cho rằng, nếu coi

các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng

tâm thì “Nhân” là tâm điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản

tính con người. “Nhân” cũng có thể hiểu là “trung thứ”, tức là đạo đối với

người, nhưng cũng là đạo đối với mình nữa. Với mỗi đối tượng học, mục

đích hướng đến giáo dục của đối tượng đó mà Khổng Tử dạy về Nhân khác

nhau.

Khi Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về “Nhân”, Khổng Tử đã nói: “Sửa

mình theo lễ là nhân. Ngày nào cũng khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi người

trong thiên hạ tự nhiên cảm hoá mà theo về đức nhân. Vậy nhân là do mình,

chớ há do người sao?”.Phàn Trì hỏi về đức Nhân (Phàn Trì là người có

phần nặng về tư lợi, ít quan tâm nhiều tới người khác), Khổng Tử dạy ông

rằng: “Nhân là thương người” [45, tr.193] ,– một học trò khác của Khổng

Tử hỏi về “Nhân”, Khổng Tử cho rằng, những cái gì mà mình không muốn

thì đừng đem thi hành cho người khác - đó là đức hạnh của người nhân .

Còn khi Trọng Cung hỏi về “Nhân”, Khổng Tử giảng giải rằng, “Khi ở nhà

thì giữ diện mạo cho khiêm cung; khi làm việc thì thi hành một cách kính

cẩn; khi giao thiệp với người thì giữ dạ trung thành. Dẫu có đi đến các

nước rợ Di, Địch cũng chẳng bỏ ba cái đó, như vậy là người có đức nhân”

[45, tr.181]. Nhan Hồi vốn là một học trò có đức hạnh, được Khổng Tử

25

đánh giá cao, khi nói về đức Nhân, Khổng Tử lại dạy rằng: “Hành nhân

chính là khắc kỷ, phục lễ” [45, tr.181], nghĩa là phải chế ngự lòng tư dục,

thuận theo lễ tiết, cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, đừng nghe, đừng nói

và đừng làm. Như vậy, muốn có đức Nhân thì phải biết làm chủ và chế

thắng lòng dục vọng của mình, không để các dục vọng ấy chi phối, làm

băng hoại đạo đức con người.

Ngoài việc dạy học trò như thế nào để có đức Nhân thì Khổng Tử

còn khuyên răn học trò về những trường hợp không có đức Nhân. Ở thiên

Học nhi trong Luận Ngữ, Khổng tử nói: “Nói năng khéo léo, nét mặt giả bộ

niềm nở, hạng người đó ít có lòng nhân”[37 ]. Trong nguyên văn Khổng Tử

dùng chữ: “xảo ngôn” bởi vì có thể nhận xét rằng những người xảo ngôn là

người nói khéo, khéo đến mức không thấy được lời nói của họ là xảo trá,

mà trái lại, họ sẽ cố gắng làm người khác tin tưởng họ. Người xảo ngôn

cũng là người dẻo miệng, người lúc nào cũng lo trau chuốt sao cho lời nói

bóng bẩy, bay bướm. Đó thường là người thiếu thành thật, là người chuộng

hình thức và thường tìm mọi cách để che đậy những ý nghĩ xấu xa của

mình. Bên cạnh những người xảo ngôn, ông cũng không đề cao những

người có nét mặt giả bộ niềm nở, bởi vì những người như thế thường sẽ

hay suy tính, suy đoán, bên ngoài thì hiền hậu nhưng bên trong lại gian ác.

Vì vậy ông khuyên học trò nên tránh xa những người “xảo ngôn” và “lệnh

sắc” bởi những người như thế nào thương là người mưu mô, xảo quyệt,

sống không ngay thẳng.

Bên cạnh việc “khắc kỷ”, người muốn có Nhân phải biết “phục lễ”,

nghĩa là tuân theo lễ chế, quy định của xã hội.

Như đã đề cập ở trên, bên cạnh việc giáo dục Nhân, Khổng Tử cũng

đề cao giáo dục Lễ. Trong quan niệm của Khổng Tử, Lễ là quy tắc, là

chuẩn mực để phân định giới hạn, Lễ để duy trì trật tự xã hội, xã hội có trật

tự thì vua mới được tôn, mới trị được nước.

26

Lễ còn được hiểu là những quy định về nghi thức tế lễ, với Khổng

Tử khi tế lễ phải kính cẩn “Cư thương bất khoan, vi lễ bất kính, lâm tang

bất ai, ngô hà dĩ quan tri tạng” nghĩa là bậc trên làm lễ phải nghiêm tức nếu

không sẽ gặp việc tang. Bên cạnh đó ông còn đề cập đến nghi thức, nghĩa

vụ, bổn phận của mỗi người khi tế lễ, ngay cả cách ăn mặc, trật tự tế lễ.

Lễ là đường lối trị nước và luật lệ quốc gia. Lễ được vận dụng trong

lĩnh vực chính trị còn có tên là đường lối trị nước gọi là Lễ trị. Lúc bấy giờ

có hai quan điểm khác nhau về đường lối trị nước đó là Pháp trị và Lễ trị.

Khổng Tử phê phán Pháp trị và đề cao Lễ trị. Khổng Tử cho rằng dùng đức

và Lễ để trị nước thì có sức quy tụ lớn. Ông nói: “Lấy đức làm cơ sở cho

chính sự thì như sao Bắc đẩu ở trên trời, chỉ đứng một chỗ mà các sao khác

đều chầu về”. Phạm trù Lễ của Khổng Tử còn được dùng về phương diện

phân tôn ti trật tự, tức là phép tắc để tổ chức luân lí ở trong gia đình, xã hội

và quốc gia.

Lễ là chuẩn mực đạo đức của con người trong xã hội. Mục đích cơ

bản của Khổng Tử là xây dựng Lễ, xây dựng mẫu người có đạo đức nhân

nghĩa mong muốn có một xã hội bình yên theo quan niệm của giai cấp

phong kiến đương thời. Trước hết những quan hệ đạo đức đó được thể

hiện trong gia đình, tế bào của xã hội mà trước hết là mối quan hệ với cha

mẹ, bởi vì cha mẹ là người đầu tiên của các mối quan hệ xã hội. Con người

dùng Lễ để đối đãi với nhau, xã hội cần có Lễ làm quy tắc, chuẩn mực để

phân định giới hạn như phân biệt ranh giới vị trí vua tôi, trên dưới, lớn nhỏ.

Bên cạnh đó, Lễ còn dùng để trị quốc, để quản lý các mối quan hệ từ trong

gia đình tới ngoài xã hội. Theo Khổng Tử, bản tính con người vốn ngay

thẳng, lành (dã trực), con người trở nên bất thiện là do con người không có

Lễ, trật tự xã hội bị đảo lộn cũng do con người không tuân theo trật tự lễ

pháp. Vì vậy, cần phải lấy Lễ để khiến hành vi của con người có chừng

mực, để lúc nào cũng hợp với đạo trung dung. Như Khổng Tử dạy rằng:

“Cung kính quá lễ thành ra lao nhọc thân hình; cẩn thận quá lễ thành ra

27

nhát gan; dũng cảm quá lễ thành ra loạn nghịch; ngay thẳng quá lễ thành ra

gắt gỏng, cấp bách” [45, tr.121] hay “Lễ là việc làm của con người, không

có lễ, không có gì đứng vững được” [10, tr.336]. Như vậy, Lễ theo Khổng

Tử, còn cốt để giữ chừng mực cho hành vi của con người trong xã hội, do

vậy mà Lễ được coi như là tiêu chuẩn đạo đức để tu thân. Lễ còn được quy

định cả những cách ứng xử của những người có chức, có quyền trong xã

hội như trong quan hệ vua tôi Lễ giáo khuyên người ta trong quan hệ với

bạn bè phải chân thành thân mật với nhau. Trên cơ sở những chuẩn mực

đạo đức ấy mà con người điều chỉnh hành vi xử thế của mình trong các

quan hệ cho phù hợp.

Trong nội dung giáo dục đạo đức cho học trò, Khổng Tử còn dạy

những chuẩn mực đạo đức: Trí, Dũng, Trung, Tín... Theo Khổng Tử, nhân

cách người quân tử là nhân cách lý tưởng, đó là sự thống nhất của Nhân,

Trí và Dũng. Trí là biết mình, biết người, biết phân biệt đúng sai, hay, dở;

Dũng là không sợ sệt, không sợ cường quyền, bạo lực; Trung là làm hết

bổn phận của kẻ bề tôi đối với vua. Trung ở đây còn được hiểu là “trung

thứ” tức là trung thành, thành thực với người, cư xử với người sao cho hợp

với lòng mình. Khổng Tử từng nói: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều gì

mình không muốn thì đừng làm cho người khác). “Trung thứ” là từ ta suy

ra người, cho nên Khổng Tử khuyên người học lấy “trung thứ” làm phương

pháp và con đường chủ yếu để đạt đến Nhân và khôi phục Lễ, đây cũng

chính là nội dung tu thân mà ông quan tâm dạy cho học trò. Tín là một

trong bốn đức cơ bản trong nội dung giáo dục của Khổng Tử “văn (học

vấn), hạnh (đạo đức), trung (trung trực), tín” [25, tr.361]. Theo ông, “người

quân tử là người có đạo đức đoan trang, uy nghiêm, nhất là trung và tín”

[25, tr.203]. Như vậy, Trung và Tín cũng là những phẩm chất mà người

quân tử cần có. Khổng Tử cho rằng: “Người mà không tín thật, ta không

biết người ấy làm việc gì cho nên được” [25, tr.234]. Tín là cái đức cần có

ở mỗi người trong quan hệ bằng hữu (bạn bè). Ông quan niệm rằng: “Giữ

28

lòng trung tín làm chủ yếu. Không đánh bạn với người chẳng giống mình”

[25, tr.415]. Điều này quả thật rất đúng, không nhất thiết phải là người

quân tử nhưng điều chúng ta cần có trong cuộc sống là “tín” đấy là việc

phải giữ đúng lời hứa hẹn, làm theo những gì mình đã nói chứ không phải

là giả dối, gian trá, xảo quyết. Những người có thế giữ chữ Tín thường sẽ

được mọi người tin tưởng tin cậy.

Có thể nói Khổng Tử là một người coi trọng giáo dục đạo đức, thông

qua những bài giảng của mình ông muốn nâng cao đạo đức của người học

trò. Đặc biệt ông chú trọng giáo dục về các đức : Nhân, Lễ, Nghĩa, Tín ,

Trí , Dũng cho học trò.

2.3.2. Giáo dục về các kiến thức khác

Bên cạnh việc giáo dục đạo đức, Khổng Tử còn giảng dạy nhiều kiến

thức chính trị như: đạo trị nước, cách dùng người,… Với mục đích giáo dục

nhằm đào tạo những nhà cầm quyền, những người cai trị nên khi trao đổi,

giảng giải cho học trò, Khổng Tử thường định hướng cho họ cách cai trị xã

hội, cách làm chính trị. Khi trả lời Tử Lộ về cách cai trị, Khổng Tử bảo

rằng: “Chính sự là làm những việc sao cho dân làm theo, chịu khó lo liệu,

giúp đỡ dân” [25, tr.496]. theo Khổng Tử là người cầm quyền phải lo trước

thiên hạ, vui sau thiên hạ, lo cho dân, bảo hộ dân, dạy dân, “dân đông rồi

phải giàu, giàu rồi thì phải giáo hóa” [25, tr.504]. Theo Khổng Tử những

người được giáo dục thì dễ sai bảo, dễ trị, nếu kết quả của sự giáo hóa dân

được tốt thì nhà cầm quyền không phải làm gì mà vẫn cai trị được đất nước.

Bên cạnh những nội dung giáo dục về đạo đức, kiến thức về chính trị,

Khổng Tử còn khuyên học trò nên biết thêm về “lục nghệ”. Ngoài Lễ, và

Nhạc, ông còn dạy cho học trò các môn như: Xạ (bắn cung), Ngự (cưỡi

ngựa, đánh xe), Thư (viết chữ), Số (tính toán). Khi đã tinh thông “lục nghệ”,

người học có được sự giáo dục đầy đủ cả lý thuyết lẫn thực hành, sẵn sàng

đem sở học của mình để “kinh bang tế thế”. Ông khuyên học trò: “Trước

hết hãy giữ các nết: hiếu, đễ, cẩn, tín, thương mọi người, mến bậc nhân, sau

29

sẽ học sáu khoa: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số” [25, tr.201]. Điều này chứng tỏ

để học được những điều tốt đẹp thiên về tài năng thì trước hết chúng ta phải

học làm người cho chính đã.

Khi bàn về “ lục nghệ”, trong sách Luận Ngữ có nhiều chỗ Khổng

Tử dạy Nhạc cho học trò, đặc biệt ở thiên “ Bát dật”. Khi bàn về Nhạc,

Khổng Tử cho rằng : “ Thiều âm nhạc của vua Thuấn, hay tột bậc và lành

cũng tột bậc” [25, tr.264], “ Phép tấu nhạc vốn không khó. Lúc mới khởi,

nên cho các món nhạc trồi lên, mọi tiếng đều hợp tụ. Lúc mở rộng ra, cần

cho các thứ tiếng đều thuần thục, tiếng nào phân minh theo tiếng ấy, rồi

tiếng này liên kết với tiếng kia. Như vậy được thành một bản nhạc” [25,

tr.261]. Bên cạnh đó ông còn dạy cho về Xạ( bắn cung) : “Bắn giỏi là bắn

cho trúng cái đích ở trung tim, chứ chẳng cần bắn cho lủng tấm da; là vì

sức của người ta chẳng đồng bậc với nhau. Đó là phép bắn của người xưa

đã định như vậy” [25, tr.253]. Điều này cho ta thấy, Khổng Tử muốn nhắn

nhủ, cho dù làm việc gì cũng phải cố gắng làm tốt nhất, đạt được kết quả

cao nhất chứ nếu chỉ muốn đạt hay cho qua thì ai cũng làm được. Khổng

Tử dùng phép Bắn cung mà giáo hóa học trò mình cố gắng. Mặc dù ông

khuyên học trò học về “lục nghệ”, song ông lại cho rằng: “Lễ, nhạc, thư, số,

xạ, ngự học cho biết thì tốt chứ không nên học chuyên làm lấy nghề, tức

đánh xe mướn cho người, thì hèn”. Điều này chứng tỏ một điều rằng, trong

suy nghĩ cũng như tư tưởng của mình, Khổng Tử luôn đề cao vấn đề đạo

đức hơn những mặt hay những vấn đề khác.

2.4. Quan niệm của Khổng Tử về phƣơng pháp giáo dục

Trong bất kì lĩnh vực nào, thì phương pháp để hoàn thành được mục

tiêu đặt ra luôn là yêu cầu quan trọng mà chúng ta cần có. Trong lĩnh vực

giáo dục cũng vậy, nếu có một phương pháp học tập hay phương pháp

giảng dạy đúng đắn và phù hợp thì sẽ giúp chúng ta tiến bộ và nắm vững

được rất nhiều kiến thức. Theo cá nhân tôi : “Bên cạnh một người thầy

giỏi thì phải là một người học trò biết rõ mục đích việc học của mình là gì”.

30

Người thầy giỏi ở đây không chỉ có nghĩa là người có kiến thức cao rộng,

sâu sắc như thế nào, mà một người thầy giỏi còn chính là người có thể

truyền cảm hứng học tập cho học trò, sau đó phải có một “phương pháp”

riêng của mình trong quá trình truyền thụ kiến thức để bất kì học trò nào

cũng thích nghe, cũng hiểu được kiến thức mình đã dạy.

2.4.1. Đối với ngƣời thầy

Khi tìm hiểu sách “ Luận ngữ” ta mới thấy được Khổng Tử có cách

dạy học đặc sắc như thế nào, ông không chỉ gói mình trong một phương

pháp nhất định, hay ông không sử dụng những phương pháp của người xưa

mà ông đan xen trong mình rất nhiều phương pháp giảng dạy mà đến tận

sau này những phương pháp ấy được đánh giá cao và được khuyến khích

sử dụng. Có lần Khổng Tử bảo với học trò Tử Cống rằng: “Ta nhờ để tâm

quan sát, bắt một mối mà thông suốt tất cả”. Theo Khổng Tử, nhờ để tâm

quan sát, hiểu được tâm tính người đời, nguyên nhân của hành vi, hiện

tượng, mới có thể nắm bắt từ chỗ gần mà xét tới chỗ xa, nắm bắt từ ngọn

mà đi tới gốc… Khổng Tử luôn khuyến khích học trò phải biết suy nghĩ

sâu sắc, tìm tòi cho sáng tỏ. Nếu học trò chưa khao khát muốn biết, chưa hổ

thẹn vì không biết thì ông chưa dạy bảo. Khi học trò nôn nóng muốn học

thì ông lại tùy tính cách và khả năng của từng người mà có phương pháp

riêng. Rõ ràng, Khổng Tử luôn chú trọng đến sự nỗ lực, tính tích cực, tự

giác của người học. Cách dạy của ông không gò bó, mà cốt ở sự chỉ dẫn,

gợi ý cho người học để phát huy tính tích cực, tự giác của người học

 Phƣơng pháp dạy học bằng thuyết trình/ thuyết giảng

Đầu tiên, ông dùng phương pháp thuyết trình- đây là phương pháp

dạy học mà trong quá trình người thầy đóng vai trò như một người truyền

giảng, người thầy sẽ dùng lời nói của mình để trình bày và giảng giải một

vấn đề. Trong phương pháp này sự tương tác giữa người truyền giảng và

người học rất ít- đây cũng là phương pháp tồn tại từ xa xưa, đến nay thì vẫn

còn đang được sử dụng rộng rãi. Và có lẽ trong hầu hết các bài giảng của

31

mình, chính Khổng Tử cũng vận dụng phương pháp này rất nhiều. Bởi lẽ

trong luận ngữ, chúng ta luôn bắt gặp cụm: “Tử nói…”, hay “Khổng Tử

nói..”, chứng tỏ trong quá trình giảng dạy ông đã phải nói rất nhiều, phải

giải thích rất nhiều để khi mà học trò của ông có thể nhớ hết lời dạy và nội

dung dạy học của ông.

Trong quá trình diễn giảng, ông không chỉ đề cập riêng rẽ về lý

thuyết suông đưa ra các ví dụ cụ thể, vẫn dụng Kinh Thi, Kinh Lễ, Tam tự

kinh… vào các vấn đề mà mình dạy ngoài ra ông còn giải thích vận dụng

các lí thuyết đó vào từng vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Mặc dù trong

quá trình diễn giảng chủ yếu chỉ là Khổng Tử nói và giải thích nhưng ông

cũng rất để tâm, để ý tới sắc thái của học trò, khuyến khích học trò đặt câu

hỏi, luôn luôn có ý mở hỏi han học trò. Với cách thức giảng dạy như vậy,

ông đã khắc phục được hạn chế của việc thuyết minh trong giảng dạy là

nhàm chán, chỉ có mỗi mình người dạy thuyết giảng, không có tương tác để

ý đến người học. Nếu nói phương pháp thuyết mình là mô hình giảng dạy,

trong đó người thầy là trung tâm truyền đạt kiến thức một chiều thì đối với

Khổng Tử điều này không hoàn toàn chính xác.

Trong quá trình giảng dạy của mình Khổng Tử không chỉ nói-nói-nói,

mà khi ông trình bày một vấn đề gì thì luôn đi kèm những lời giải thích của

mình. Khi giải thích về một vấn đề, Khổng Tử đưa ra những nhận xét

những lí lẽ cá nhân của mình, nhưng được học trò ông ủng hộ và công nhận

những điều chủ quan ấy. Chẳng hạn như ở thiên thứ I bài thứ 15, khi Tử

Cống hỏi ông về nghèo- vui:

Tử Cổng viết: “bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, hà như?

Tử viết: Khả dã, vị nhược bần nhu lạc, phú nhi hiếu lễ giả dã

Tử Cống viết: Thi vân: Như thiết như ta, như trác như ma – Kì tư chi vị dư?

Tử viết: Tứ dã, thủy khả dữ ngôn Thi dĩ hĩ, cáo chư vãng nhi tri lại giả

Dịch: - Tử Cống hỏi: Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, hạng

người đó ra sao?

32

Khổng Tử đáp: Khá đấy, nhưng chưa bằng nghèo mà vui, giàu mà thích giữ

lễ

Tử Cống thưa: Kinh Thi có câu: Như cắt sừng bò, như giãu ngà voi, như

đẽo ngọc đẹp, như mài đá quý. Ý nghĩa như vậy chăng?

Khổng Tử khen: Tứ, như anh mới đáng cho ta giảng Kinh Thi cho. Vì bảo

cho điều trước mà anh hiểu được điều sau”.

Trong quá trình giảng dạy Khổng Tử không chỉ đơn độc trình bày

quan điềm của mình mà ông còn gợi mở cho chính học sinh của mình để

chính họ tìm ra những kiến thức mới. Qua việc thuyết giảng, ông còn tự tìm

cho mình những người học trò ưng ý, tâm đắc.

 Phƣơng pháp hỏi- đáp, gợi mở.

Phương pháp hỏi- đáp hay còn gọi là phương pháp vấn đáp, phương

pháp đàm thoại hay phương pháp … là phương pháp giảng dạy mà trong

quá trình bài học, người thầy và người học luân phiên đặt câu hỏi, và trả lời

cho vấn đề mình đang bàn luận đến. Với phương pháp này, người học và

người hướng dẫn sẽ tích cực có sự giao lưu với nhau, tránh sự nhàm chán

trong việc học. Bên cạnh đó, quá việc hỏi đáp, vấn đề càng ngày càng được

đào sâu, và có nhiều cách nhìn, nhiều ý kiến về một vấn đề, chứ không phải

cứ “ý kiến của giáo viên là luôn đúng, luôn là chuẩn mực”. Trong quá trình

giảng dạy của mình phần lớn thời gian ông đều giành để trao đổi với học

trò, ông hỏi- học trò trả lời, và ngược lại khi học trò hỏi, ông rất hào hứng

trả lời. Với Khổng Tử việc học trò hỏi là một việc quan trọng. Ở thiên thứ

IX bài 12, Tử Cống có hỏi thầy mình: Có viên ngọc đẹp ở đây, nên bỏ vào

hộp mà cất đi hay cầu có thương nhân tốt mà bán đi? Thì Khổng Tử trả lời:

“Bán đi chứ, bán đi chứ! Ta đợi có thương nhân đây”. Vào thời kỳ này,

việc có ngọc quý ngọc đẹp như một phần thể hiện vị trí trong xã hội, lúc

này Tử Cống hỏi thầy chứng tỏ ông rất coi trọng thầy và ông hiểu rằng ý

kiến của thầy rất có lí. Trong phần hỏi đáp này của Khổng Tử và hoc trò là

Tử Cống , hai thầy trò rất hiểu ý nhau, tựa như khi Tử Cống có trong mình

33

băn khoăn, giữa việc lựa chọn, người xưa có câu: “Nếu xuất hiện một ý

kiến khác thì chắc chắn bạn sẽ chọn ý kiến mới này, bởi nếu cái cũ đã tốt

thì sẽ không có cái mới”, và khi Tử Cống đưa ra câu hỏi với hai sự lựa

chọn là “cất đi” hay “bán đi” thì cả ông và Khổng Tử đều đã chọn là bán

đi- Đây là sự hiểu ý nhau giữa thầy trò. Hay lần khác Tử Cống hỏi: “Có

một câu cách ngôn nào có nghĩa tổng quát mà trọn đời mình có thể làm

theo chăng?” Khổng Tử đáp: “Đó là câu cách ngôn về lượng thứ chứ gì?

Việc gì mình không muốn, chớ làm cho người”. Khi học trò có những băn

khoăn, những suy nghĩ không rõ thì Khổng Tử sẽ là người gỡ rối và giải

đáp những thắc mắc ấy. Phương pháp hỏi- đáp được sử dụng như một

phương tiện để kết nối giữa thầy và trò, nó như một sợi dây có thể kéo gần

mối quan hệ giữa hai người. Qua cách hỏi và cách trả lời thì hai bên có thể

hiểu được suy nghĩ, nội tâm của người đối diện, từ đó có thể hiểu rõ nhau

hơn.

Khổng Tử còn là một người thấy gì cũng hỏi: “Tử nhập Thái miếu,

mỗi sự vấn” [45, tr.40], bản thân ông đã hiểu rõ tầm quan trọng của việc

hỏi khi mình không rõ, không biết. Nên ông luôn muốn học trò có thể chăm

chỉ học tập, đặt ra những câu hỏi, thường xuyên nêu ý kiến của mình để có

thể được rõ được sâu hơn trong học tập. Bởi vì, có thể cùng một vấn đề,

cùng một câu hỏi, những với mỗi đối tượng học trò ông lại có những câu

trả lời khác nhau để phù hợp. Bên cạnh đó, ông còn cố gắng hỏi han tận

tình sao cho học trò có thể dần dần gợi mở được vấn đề, hiểu được vấn đề.

Như trong đoạn trích ở thiện thứ I, bài thứ 15, khi Tử Cống hỏi ông:“Bần

nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, hà như?”- Tử đáp: “ Khả dã, vị nhược nhi lạc,

phú nhi hiểu lễ giả dã”Tử Cống lại hỏi: Thi vân, như thiết như tha, như trác

như ma- Kì tư chi vị dư? Tử đáp: Tú dã, thủy khả dữ ngôn Thi dĩ hĩ, cáo

chư vãng nhi tri lai giả”

Dịch là Tử Cống hỏi: Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, hạng

người đó ra sao?

34

Khổng Tử đáp: Khá đấy, nhưng chưa bằng nghèo mà vui, giàu mà thích giữ

lễ

Tử Cống lại hỏi: Kinh Thi có câu : Như cắt sừng bò, như giũa ngà voi, như

đẽo ngọc đẹp, như mài đá quý.- Ý nghĩa như vậy chăng?

Khổng Tử khen: “Tứ, như anh mới đáng cho ta giảng Kinh Thi cho. Vì bảo

cho điều trước mà anh hiểu được điều sau.”

Đây há chẳng phải là sự hiểu ý lẫn nhau giữa trò và thầy qua phương

tiện hỏi đáp hay sao? Rõ ràng bằng phương thức hỏi- đáp, người học có thể

lĩnh hội được tri thức phù hợp với khả năng của mình. Trong quá trình này

sự tương tác đó đã làm cho việc học trở nên thoải mái, không gò bó trong

khuôn phép truyền thống là chỉ có người thầy nói mà học trò chỉ ngồi im,

thụ động nghe. Vì vậy việc sử dụng phương pháp này trong học tập sẽ giúp

cho người học dễ tiếp thu tri thức, phát huy được tính tích cực, chủ động

của người học trước các vấn đề trong bài giảng, đồng thời có thể giúp

người dạy hiểu được khả năng nắm bắt vấn đề, khả năng nhận thức của

người học. Mặc dù vậy, trong quá trình dùng phương pháp này, thứ nhất

người dạy phải có đủ kiến thức sâu rộng để bất cứ học trò hỏi câu nào cũng

có thể trả lời; thứ hai, trong quá trình học, người thầy phải biết cách tổng

hợp, khái quát và phải linh hoạt trong quá trình dạy học để có thể tổng quát

lại tất cả các ý chủ chốt cho bài giảng. Cũng vì vậy trong quá trình giảng

dạy, người thầy đóng vai trò rất quan trọng.

Song song với phương pháp hỏi- đáp, trong quá trình dạy học Khổng

Tử cũng thường xuyên dùng lời lẽ, câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học trò đến

với chân lý. Với phương pháp này, người thầy sẽ cố gắng dùng sự tinh táo,

linh hoạt của mình hướng dẫn, để học trò tự khám phá, tự lĩnh hội từ đó tự

mình hình thành hệ thống kiến thức cá nhân. Và trong quá trình giảng dạy,

người học và người thầy sẽ cố gắng giao lưu thông qua các câu hỏi- câu trả

lời, … từ đó sẽ nắm bắt được vấn đề. Người thầy ở đây sẽ đóng vai trò là

một người dẫn dắt chứ họ không thật sự sẽ tham gia vào quá trình, nếu ví

35

việc học bằng phương pháp này là một câu chuyện thì người thầy chỉ đứng

dẫn chuyện gợi mở dẫn dắt câu chuyện còn những người học trò sẽ là các

nhân vật sẽ dựng lên cho câu chuyện nội dung nhưng tất cả đều sẽ xoay

quanh sự dẫn dắt bởi người dẫn truyện.

Trong quá trình Khổng Tử giảng dạy bằng phương pháp này, ông

không chỉ gợi lên những vấn đề, những suy tư cho người học mà ông còn

cố gắng gợi ra những ý nghĩ để học trò tự mình tìm được tri thức. Khổng

Tử luôn luôn lắng nghe, để ý những ý kiến suy nghĩ của học trò để có thể

giúp họ tư duy và lập luận theo hướng đi chính xác để đạt được kết quả tốt.

Ông khuyến khích và ưa thích những học trò chăm chỉ, có cách tư duy độc

lập, và đặc biệt mạnh dạn nói lên ý kiến của mình bởi với ông đó chính là

cả quá trình người học trò của mình học tập và rèn luyện mới có thể đạt

được chứ không phải tự nhiên mà có. Bởi vậy nên, ông rất khinh thường

những kẻ chỉ biết ăn cắp ý tưởng lười suy nghĩ, lười động não tư duy- “Kẻ

nào mà chẳng phấn phát lên để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông

được. Kẻ nào chẳng ráng bày tỏ ý kiến thì ta chẳng khai phát cho được. Kẻ

nào đã biết rõ một góc nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết luôn ba góc

kia, thì ta chẳng dạy cho kẻ ấy nữa” [25, tr.347]. Chứng tỏ, ông là người

coi trọng việc tư duy độc lập, tự suy nghĩ và còn mạnh dạn đưa ra ý kiến

của mình bằng lời nói, còn những người chỉ biết ngồi im nghe giảng không

hiểu cũng không hỏi, cũng chẳng nói lên suy nghĩ của mình thì ông không

muốn giảng dạy cho nữa.

Thông qua việc gợi mở những suy nghĩ, tư duy cho học trò Khổng

Tử còn tự tìm cho mình những người học trò hiểu biết. Tử Hạ nói: “miệng

xinh chum chím cười, mắt đẹp long lanh sáng, trên nền trắng vẽ màu sặc sỡ”

nghĩa là thế nào?” Khổng Tử đáp: “ Có sắn nền trắng rồi sau mới vẽ”- Tử

Hạ lại hỏi: “Nghĩa là, lễ phải ở sau (nhân) chăng? Khổng Tử nói: “Anh

Thương phát khởi được ý ta, như anh mới có thể giảng Kinh Thi cho được”

[25, tr.245].

36

Thông qua quá trình gợi mở, Khổng Tử giúp học trò của mình có thể

tích cực suy nghĩ, động não làm cho tư duy ngày càng sâu sắc và khả năng

diễn đạt ngày càng tốt hơn. Điều này thể hiện được ngay từ xưa, Khổng Tử

đã rất coi trọng ý kiến của người học, thông qua suy nghĩ, cách diễn đạt, lối

tư duy logic của mỗi người mà ông có thể đánh giá, nhận xét mỗi người sao

cho chính, sao cho thuận. Mặc dù Khổng Tử đã vận dụng phương pháp hỏi

đáp và phương pháp gợi mở thành công nhưng trong quá trình giảng dạy

ông vẫn còn hạn chế ở chỗ ông vẫn còn đi sâu vào quá trình suy nghĩ của

học trò.

Tóm lại, qua quá trình hỏi đáp cộng hưởng với cách gợi mở của

người thầy, có thể giúp người học không những tự khám phá những điều

mình chưa rõ mà còn có thể tự khám phá ra được những năng lực cá nhân

của bản thân. Qua việc tương tác giưa thầy và trò ngày càng sôi nổi, giúp

cho quá trình học tập tư duy, tích lũy kiến thức không còn nhàm chán hay

khô khan như trước.

 Phƣơng pháp dẫn luận

Có thể nói, Khổng Tử chính là người sử dụng nhiều trích dẫn, đưa là

nhiều nhân vật trong quá khứ cộng với lời nói của họ để giáo hóa học trò

hoặc có thể lấy chính bản thân mình để làm ví dụ giảng dạy cho học trò.

Trong Luận Ngữ, Khổng Tử thường trích dạy “gương” của người

xưa, thông qua nhân cách của các bậc thánh hiền để giáo dục học trò như

Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Văn Vương, Chu Công… “Như có tài năng tốt

đẹp như Chu Công, mà có tính kiêu ngạo, biến lận, thì những tài đức gì

khác cũng không xét nữa.” Hay “Vua Văn Vương nhà Chu, cha vua Võ

Vương được hai phần ba thiên hạ theo mình, thế mà vẫn phụng sự triều nhà

Ân, vấn giữ ngôi chư hầu chứ không dành ngôi Thiên tử, đó là đức của ngài;

đức ấy có thể gọi là chí cực đó” [45, tr.131] hay “ Ông Chu Công, em vưa

Võ Vương, có công giúp vua Võ Vương lập ra nhà Chu…”[45, tr.295];

“Lớn thay, sự nghiệp làm vua của ông Nghiêu, ông Thuấn. Vòi vọi thay,

37

chỏ có trời là vĩ đại và chỏ có vua Nghiêu là theo được trời. Lồng lộn thay,

dân chũng không tìm được lời nào để khen cho đúng đức nghiệp của ông.

Vòi vọi thya, sự thành công của ông, rực rỡ thya, lễ nhạc và chế độ của

ông”. Dường như, Khổng Tử thường lấy gương những nhà hiền triết, bậc

thánh nhân, những người không chỉ có quyền có tài mà đạo đức còn rất

đáng khâm phục. Việc ông dùng trích dẫn gương người tốt việc tốt cũ để

nhằm mục đich giáo hóa học trò, khuyên học trò nên theo gương người cũ

để học tập, để ứng xử, rất có hiệu quả trong quá trình truyền dạy. Bởi ông

không phải chỉ diễn suông bằng lời nói hay kinh nghiệm cá nhân của

mình( rất chủ quan) mà ông đã dùng những lời lẽ, minh chứng của người

xưa để bảo vệ cho những lập luận, lĩ lẽ đấy- rất thuyết phục. Một trong

những điều xuất sắc mà Khổng Tử làm được là ,học trò của Khổng Tử

không những ngưỡng mộ chính thầy mình có vốn tri thức lớn mà còn

ngường mộ cả những bậc anh tài thời xưa. Chính qua những bài giảng của

thầy mà học trò có thể biết thêm, tìm hiểu và nghiên cứu về những người

thánh nhân này, vậy há chẳng phải rất thành công sao.

Bên cạnh việc dẫn những gương bậc thánh, thì Khổng Tử còn

thường trích dẫn những câu cổ ngữ, những dẫn luận trong Kinh thi, Kinh

Lễ, và những lời nói ngắn gọn súc tích của những người hiền tài để giảng

dạy. Như: “Cổ ngữ có câu: nếu bậc thiện nhân nối nhau trị nước được trăm

năm, thì đủ khiên những kẻ tàn bạo hóa ra hiền lương và chính phủ chẳng

dùng đến phép xử giết nữa. Lời ấy thật hay lắm” [45, tr.203] hay “ Tiết

Quan Thư trong Kinh Thi có chép: Khái lạc mà không dâm dật, ai cảm mà

không bi thương” [45, tr.43]… hay “Ví như: Vua Thuấn có năm vị hiền

thần mà thiên hạ được thái bình. Đến đời nhà Chu, vua Võ Vương nói rằng:

“Ta có mười vị đại thần giúp ta mà bình trị thiên hạ” [45, tr.131].

Khổng Tử đã cung cấp nhiều phương pháp giáo dục có ý nghĩa cho

việc giảng dạy. Qua đó cho thấy ông là người chú trọng sự đa dạng trong

38

quá giảng dạy, luôn xem xét cẩn trọng những phương pháp phù hợp với

kiến thức, đối tượng mà mình dạy.

2.4.2. Đối với ngƣời học

Để thành công trong việc học tập, không chỉ cần một người thầy giỏi

mà còn cần một người học trò biết học như thế nào cho tốt. Một người thầy

không chỉ truyền dạy cho học trò mình kiến thức mà người thầy đó còn tạo

cho người học trò của mình “ cái thú” hăng say học tập; tự tạo cho chính

mình một phương pháp học riêng thì rất đáng ngưỡng mộ. Khổng Từ

không những bàn về phương pháp dạy học cho một người thầy mà ông còn

bàn luận về cả phương pháp học cho học trò. “Có học mới biết được đạo,

sinh ra chưa biết” [40, tr.358]- theo ông trên con đường tìm đến tri thức

không phải là khó khăn hay là không biết mà quan trọng bạn có chịu học và

có học được hay không.

* Học thì phải suy nghĩ

Với Khổng Tử trong quá trình học tập thì không gì quan trọng hơn

việc suy nghĩ, tư duy, cái quan trọng là trong đầu bạn nghĩ gì chứ không

phải trong đầu bạn có gì. Ông cho rằng: “Học mà không suy nghĩ ắt mờ tối;

suy nghĩ mà không chịu học thì nguy hiểm” [25, tr.227]- Với Khổng Tử

việc được giảng dạy có được kiến thức mà không tự mình suy ngẫm về vấn

đề, không tự mình nghĩ về vấn đề thì chắc chắn sẽ ngày càng mờ mịt. Nếu

chỉ đọc qua mà không suy nghĩ thì não bạn sẽ ngày càng trì trệ đần độn dần,

không còn nhanh nhẹn linh hoạt nữa. Còn nếu có suy nghĩ, bắc tay lên trán

nằm nghĩ mà không bắt tay vào việc học hành đọc sách ghi chép nghiên

cứu thì cũng vô dụng- Tất cả chúng chỉ nằm trong đầu thôi và tất cả cũng

chỉ là suy nghĩ rồi một ngày nọ sẽ quên tất cả. Vì vậy Khổng Tử khuyên

học trò phải vừa học kết hợp với suy nghĩ thấu đáo về vấn đề như thế. Ông

cho rằng: “Người nào chẳng ra công tìm tòi, như làm việc chi, chẳng tự hỏi:

tôi phải làm cách nào? Tôi phải làm sao? Người như vậy, ta cũng chẳng có

cách gì mà chỉ bảo cho được” [25, tr.574] hay “Kẻ nào không phát phẫn để

39

tìm hiểu thì ta không mở giảng cho; không ráng tỏ ý kiến (muốn nói mà

không được) thì ta không khai phát cho. Ta vén cho một góc rồi mà không

tự suy nghĩ tìm ra ba góc kia, thì ta không dạy cho nữa”. Điều này ông luận

giải rất đúng, với người học thì việc tự mình tìm tòi, nghiên cứu, say sưa

với việc học thì mới đáng được người thầy quan tâm, dẫn lối vì chính họ đã

ý thức được việc học. Còn những người mà chỉ gắn mác người học nhưng

trong đầu chả có gì, không chuyên tâm chăm chú nghiên cứu, tìm hiểu, chả

chịu động não suy nghĩ bao giờ thì làm sao được người thầy coi trọng và

giúp đỡ. Ở đây Khổng Tử mong muốn người học trò cần có ý thức tự giác,

học cần phải có ý chí quyết tâm, kiên trì nhẫn nại mới thành công được.

Làm cách nào ông có thể xác định được người học trò có suy nghĩ tự

giác học hành? Đó là ở chỗ người học biết đặt câu hỏi, trong quá trình học

thầy giảng bài thì biết nêu lên ý kiến riêng của mình. Muốn có được tri thức

thì phải trải qua quá trình học tập, tu dưỡng đầy gian khổ, ở đó yêu cầu

người học phải có sự nỗ lực bền bỉ, vượt khó khăn, học tập lâu dài, thì sau

đó sẽ mang lại cho họ những điều tuyệt vời mà những người khác không

thể có được. Để trở thành một người hoàn mỹ thì không chỉ có đạo đức tốt

thôi chưa đủ mà phải có trình độ, có đầu óc thì mới không bị kẻ khác lợi

dụng lòng tốt của mình để làm điều xấu được.

Bên cạnh đó, ông khuyến khích mọi người phải học mọi nơi, mọi lúc,

học ở tất cả mọi người. Ông chủ trương mọi người: “chọn điều lành, điều

phải của người này đặng làm theo, xét điều dữ, điều quấy của người kia

đặng sửa đổi lấy mình”. Loài người luôn được biết với sự tò mò và học hỏi

cao nhất trên thế giới, nhưng không phát điều gì chúng ta cũng học, điều gì

chúng ta cũng làm theo. Trong quá trình học tập, phải biết chọn lọc cho

mình những điều thiện, điều tốt, tránh học theo cái xấu cái ác. Điều này

được ông thể hiện rõ hơn ở việc, ông khuyên học trò của mình nên học tâp

theo gương của những người hiền “Thấy người hiền thì mong làm sao bằng

người; thấy người bất hiền thì phải tự xét mình( có mắc tật của người đó

40

không) hay câu “Ba người cùng đi tất có người làm thầy ta; lựa cái hay của

người này mà học, xét cái quấy của người kia mà sửa” [25, tr.395]. Ở chỗ

này Khổng Tử chỉ ý định ba người, nhưng chúng ta có thể xét rộng hơn là

một nhóm nhiều hon ba người, trong một nhóm đấy, thì phải cố gắng để ý

và học tập những điều tốt đẹp mà sửa mình, còn những điều xấu xa thì cố

gắng tránh đi. Ở đây ý như chọn bạn mà chơi, chọn người làm việc cũng

như vậy. Chọn người hiền để học tập, nhưng cũng phải nhìn xuống những

người khác xem họ có gì hơn mình không để còn làm theo, “Thông minh

mà lại hiếu học, không thẹn hỏi người kém mình”. Mỗi chúng ta không có

ai từ khi sinh ra đã hiểu đã biết hết tất cả mọi vấn đề trên thế giới, vì vậy

cần phải có sự học tập, tìm và hỏi từ những người khác để càng ngày càng

hoàn thiện hơn. Học tập không quan trọng người ấy phải giỏi giang tài giỏi

xuất chúng mà tìm học ở người có tính tốt, học mà không thấy thẹn với

người, không cảm thấy xấu hổ, chăm chỉ như vậy thì sẽ “thành người”.

Ông khuyên răn học trò cố gắng tự mình tìm tòi học hỏi ở mọi người thì

“không cô độc, tất có người đồng đạo kết bạn với mình như ở đâu thì có

láng giềng ở đó”. Điều này quả thật rất đúng, khi mình tìm tòi, hỏi han về

vấn đề chưa rõ thì người đối diện là một người thầy cũng như một người

bạn mới của mình. Để sau này, có thể sẽ có những người khác tìm đến hỏi

han mình về vấn đề cũ thì lúc đó mình chẳng phải sẽ có được nhiều người

bạn đồng hành hơn sao.

Là một người ham học và chăm học Khổng Tử là ví dụ điển hình cho

mẫu người tam học. Ông luôn tìm đến những người tài giỏi về những lĩnh

vực khác nhau để học hỏi như: tìm Sư Tưởng để học đánh đàn, tìm Đàm

Tử để học ngoại ngữ, vào Thái miếu cũng hỏi. có lần Khổng Tử bảo học trò:

“Ta biết có rộng không? Không. Có người nhà quê nào lại hỏi ta, ta vốn

không biết gì cả, nhưng ta hỏi đầu đuôi( hoặc mặt trái mặt phải) mỗi nghi

ngờ của người đó ( do đó mà hiểu được) mà giảng giải hết cho.” Ở đây ông

muốn nhắn nhủ rằng, dù có là một người hiểu biết sâu rộng như thế nào, thì

41

cũng có những việc, những vấn đề mà người ta chưa biết. Là một người

chăm chỉ tìm tòi học hỏi thì có cái gì không biết thì sẽ hỏi ngay, bới chúng

ta đâu phải người toàn diện, có những việc cần phải học hỏi, tích lũy mỗi

ngày mới thành.

 Phƣơng pháp học đi đôi với hành

Khổng Tử khuyến khích học trò học phải đi đôi với hành- nghĩa là

học được gì thì phải cố gắng áp dụng nó để biến nó thành có ý nghĩa. Ông

viết : “Học nhi thì tập chi, bất diệc duyệt hồ” [25, tr.196] tức là Học mà

thường xuyền ôn tập những điều mình đã học há chẳng thích lắm sao? Hay

“Như có ai đã đọc thuộc hết ba trăm thiên trong Kinh Thi, được bậc quốc

trưởng trao quyền hành chính cho mình nhưng cai trị chẳng xuôi, được phái

đi sứ ở các nước bốn phương, nhưng tự mình chẳng có tài ứng đối; người

ấy dù học nhiều nhưng có biết dùng tài học của mình chăng” [44, tr. 201].

Theo Khổng Tử, trong việc học thì phải cố gắng thực hành được, nếu đem

được những điều mình học được mà thực hành trong cuộc sống thì quả rất

đáng để học.

 Phƣơng pháp học tập bằng cách ôn luyện

Bên cạnh đó ông khuyến khích học trò của mình ôn tập lại cái cũ :

“Người nào ôn lại những điều đã học, do nơi đó mà biết thêm những điều

mới, người ấy có thể làm thầy thiên hạ đó” [25, tr.225], Khổng Tử rất lo

người học không biết hướng vào quá khứ mà “ôn cố” để tìm lại những đỉnh

cao cần đạt tới. Do vậy mà, ông thường khuyên học trò phải “ôn cố nhi tri

tân”, tức là ôn lại cái cũ xưa để biết cái mới ngày nay và mai sau: “Mỗi

ngày biết thêm những điều mình chưa biết, mỗi tháng không quên những

điều mình đã biết” [45, tr.299]. Với Khổng Tử, ông không chỉ cho rằng

việc ôn lại cái cũ chỉ để củng cố kiến thức cũ mà còn giúp mình tìm ra

được thêm nhiều kiến thức mới từ việc ôn tập. Điều này quả thực rất đúng

với việc không quan trọng bạn đọc được bao nhiêu, mà quan trọng bạn đọc

nó bao nhiêu lần. Trong việc tích lũy kiến thức, không quan trọng bạn học

42

qua bao nhiêu mà quan trọng bạn ôn tập lại nó bao nhiêu lần, bạn hiểu được

nó tường tận như thế nào. Càng ôn tập, cái cũ càng nhuần nhuyễn, càng ôn

tập cái mới sẽ xuất hiện. Ông chủ trương học ở mọi người: “chọn điều lành,

điều phải của người này đặng làm theo; xét điều dữ, điều quấy của người

kia đặng sửa đổi lấy mình” [45, tr.109]

Có thể nói, phương pháp tự học mà Khổng Tử khuyên học trò nên

làm theo rất chính xác. Bên cạnh việc nghe giảng từ người thầy thì lựa chọn

áp dụng những phương pháp tự học phù hợp với chính mình cũng sẽ giúp

người học tiếp thu thêm được nhiều kiến thức mới, đào sâu kiến thức cũ.

Tiểu kết chƣơng 2

Khổng Tử không chỉ là nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc mà còn là

một người thầy trong lịch sử giáo dục của nhân loại. Ông đã để lại một hệ

thống tư tưởng giáo dục hết sức phong phú đa dạng và có ý nghĩa sâu sắc

đối với nền giáo dục không chỉ của Trung Quốc mà còn của cả thế giới. Dù

trong quá trình giảng dạy Khổng Tử không chỉ ra cụ thể về logic trong tư

tưởng của mình, nhưng qua tìm hiểu, tôi nhận ra được những mặt, những

vấn đề như đã trình bày ở trên.

Khổng Phu Tử là người thầy có sự sáng tạo độc đáo trong phương

pháp dạy của mình, bên cạnh việc dạy lý thuyết- ông cũng đưa ra những

tình huống giả dụ để học trò xử lí, thông qua quá trình hỏi- đáp, trao đổi thì

người học trò lại hiểu sâu hơn về vấn đề… Ông tập trung giáo dục học trò

mình về Nhân, Lễ, Nghĩa, Tín, Trung, Hiếu… để hoàn thiện đạo đức cá

nhân; ông còn dạy cho học trò những kiến thứ về chính trị như đạo trị nước,

cách làm chính trị hay cách dùng người; ngoài ra ông còn dạy cho học trò

về cả lục nghệ : lễ, nhạc, thư, số, xạ, ngự. Đây đều là những kiến thức thiên

về khoa học xã hội, còn ông hầu như ít đề cập đến kiến thức về khoa học tự

nhiên và lao động sản xuất. Là một người thầy cũng như là một người đã

trải qua quá trình học tập tự tích lũy kiến thức cho mình, ông cũng đã nêu

43

ra những phương pháp học tập, cách tu thân, dưỡng tính để có thể trở thành

một người có đạo đức, một người có trí tuệ.

Có thế nói, mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử còn chứa nhiều

hạn chế nhưng cho đến ngày này, nó vẫn còn giữ nguyên giá trị đối với quá

trình giáo dục và đào tạo con người.

44

CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TƢ TƢỞNG GIÁO

DỤC CỦA KHỔNG TỬ

Có thể nói, Khổng Tử là người thầy đầu tiên trong lịch sử giáo dục

Phương Đông, để từ đó những tư tưởng giáo dục của ông không chỉ mang

lại nhiều giá trị lúc bấy giờ mà còn giá trị đến tận ngày nay. Bên cạnh

những giá trị đem lại trong tư tưởng giáo dục của ông, thì vẫn còn đó rất

nhiều hạn chế mà chúng ta cần phải xem xét lại và khắc phục.

3.1. Những giá trị trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử

Là một trong những nhà giáo đầu tiên xuất hiện trong lịch sử giáo

dục, có thể nói Khổng Tử đã để lại nhiều tư tưởng giáo dục có giá trị.

Thông qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về hệ thống tư tưởng giáo dục

của Khổng Tử, cá nhân tôi nhận thấy được những điểm có giá trị như dưới

đây.

 Về đối tƣợng giáo dục

Nếu như trong lịch sử trước thế kỷ VI tr. CN chỉ có những trường

công lập mà đối tượng học chính là con em của tầng lớp quý tộc, vua chúa

trong triều đình và cũng chưa từng có trường học nào thu nhận những

người học từ tầng lớp bình dân dẫn đến việc bất bình đẳng xã hội thời kì

này ngày càng sâu sắc hơn. Thì đến Khổng Tử, ông chủ trương “hữu giáo

vô loại”- giáo dục, giáo hóa người mà không phân biệt hạng người. Ông là

người đầu tiên mở trường tư dạy học có quy mô lớn với chủ trương giáo

dục cho mọi hạng người trong xã hội. Vậy nên, đối tượng giáo dục của ông

không chỉ dành cho quý tộc chủ nô, cho thương nhân giàu có, cho con em

của vua chúa trong triều mà còn mở rộng đến toàn bộ người dân. Đây là

một tiến bộ vượt bậc của Khổng Tử, khi mà ông nhận thấy rõ được hoàn

cảnh xã hội lúc bấy giờ loạn lạc là do tâm tính con người biến đổi. Khi mà

người không còn thương người mà chỉ nhằm giành được mục tiêu bản thân,

khi mà lòng tham nổi lên, ai cũng muốn giành được quyền uy cai quản xã

hội, và lúc đó nổ ra chiến tranh. Khi chiến tranh nổ ra giữa các chư hầu, lại

45

tác động đến người thứ dân làm cho bản tính của họ cũng phải thay đổi. Vì

vậy, ngay lúc này việc có thể giáo dục, giáo hóa tất cả mọi người để ai ai

cũng có thể hiểu đạo, hiểu về Nhân, Lễ… để từ đó thay đổi bản tính của

mình, ép mình vào khuôn khổ thì xã hội ngày càng thịnh trị và thái bình.

Với chủ trương giáo dục cho mọi hạng người, như thế này sẽ mở mang dân

trí cho dân chúng để họ dần dần hiểu được đạo lý và khi hiểu được người ta

sẽ dễ theo con đường chính đạo, mới thực hành theo những gì đã được dạy,

được học. Đây chính là điều mà tất cả những nhà tư tưởng ở mọi thời đại

đều mong muốn.

Với chủ trương giáo dục cho tất cả mọi người nhưng không phải ai

ông cũng dạy cùng một bài giảng cùng một kiến thức. Ông đã chia người

học của mình ra thành nhiều đối tượng khác nhau: thượng trí, trung nhân,

hạ ngu, hay quân tử - tiểu nhân…, đối với mỗi đối tượng thì ông lại có nội

dung giảng dạy và phương pháp khác nhau. Đối với mỗi người thì trình độ

nhận thức, khả năng tư duy sẽ khác nhau, với những người thông minh học

nhanh hiểu rộng không thể mãi chỉ dạy những bài cơ bản được, còn những

người kém hơn thì không thể dạy cho những điều cao siêu được. Nên trong

giáo dục cần phải có sự phân chia đối tượng để có thể giáo dục đúng trình

độ, năng lực, khả năng của người học. Với những đối tượng khác nhau,

người thầy vẫn luôn dành sự quan tâm, giáo dục, chỉ bảo thì sẽ làm cho

người học ngày càng hấp dẫn bởi kiến thức; ngày càng phát triển hơn.

Bên cạnh đó, trong giáo dục, ông cũng không phân biệt tuổi tác, già -

trẻ, lớn - bé; ông đều nhận làm học trò của mình. Không chỉ những người

trẻ tuổi mới cần được giáo dục mà ngay từ những người lớn, người già

chính họ phải là những người đáng được giáo dục đầu tiên. Từ xưa đến nay,

trong xã hội người trẻ luôn luôn thừa hưởng sự chỉ bảo, dạy dỗ của người

lớn. Vì vậy, khi đã giáo dục được người lớn, người già trong gia đình, xã

hội thì chính những người này, họ sẽ là người hướng dẫn những bước đầu

46

tiên cho những người con, người cháu, người trẻ trong gia đình. Từ đó có

thể hướng người trẻ đi theo con đường chính đạo không lâm vào sai trái.

Một lần nữa, có thể khẳng định, tư tưởng đưa giáo dục đến với mọi

người , đảm bảo sự bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục của người dân,

là một tư tưởng tiến bộ vượt trước thời đại của mình và có giá trị cho đến

ngày nay. Ngoài ra trong giáo dục phải xem xét đến số tuổi, tính cách, năng

lực tiếp thu, thể lực của người học, bởi khả năng tiếp thu không phải là

năng lực có tính đồng đều ở mọi người học, vì vậy sự giáo dục phải được

tiến hành qua từng giai đoạn, có chương trình giảng dạy phù hợp tương ứng.

Như vậy, tư tưởng giáo dục của ông đặt ra một vấn đề mà giáo dục ở thời

đại nào cũng cần quan tâm là làm thế nào để con người có thể tiếp nhận sự

giáo dục một cách tự nhiên, phù hợp với tư chất, năng khiếu tự nhiên của

mỗi người.

 Về mục đích giáo dục

Một trong những mục đích giáo dục quan trọng của Khổng Tử đó là

giáo dục để đào tạo những người phát triển toàn diện. Khổng Tử luôn

hướng đến xây dựng mẫu người lý tưởng hội đủ “Nhân, Trí, Dũng”; đó là

những người quân tử tài đức vẹn toàn, với vai trò quan trọng là lập lại trật

tự, kỷ cương xã hội, xây dựng một xã hội vinh phú. Ngoài việc giáo dục

cho học trò nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng thì ông còn dạy cho học trò về chính

trị về lục nghệ. Với việc hướng tới đào tạo phát triển toàn diện, không chỉ

giúp học trò nắm vững được những kiến thức cần có để trở thành một

người tốt, một người hành đạo tốt; mà còn giúp cho người học trò có thể

tìm ra cho mình những sở thích, những đam mê mà cá nhân người học thấy

yêu thích. Điều này sẽ giúp người học có thể nâng cao trình độ cũng như kỹ

năng trong cuộc sống, giúp người học có thể tự phát triển bản thân tốt hơn.

47

Khổng Tử cho rằng giáo dục nhằm mục đích cải tạo nhân tính, cải

tạo đạo đức con người. Bởi lẽ ông cho rằng bản tính tự nhiên của con người

là gần giồng nhau, nhưng do chịu môi trường sống, tập tính sinh hoạt, sự

giáo dục mà thành ra khác nhau. Vì vậy, có thể thừa nhận rằng bản tính con

người có thể biến đổi từ thiện thành ác, và ngược lại, để có thể cải biến

được bản tính con người thì Khổng Tử đề cao quá trình giáo dục. Điều này

hoàn toàn chính xác, bởi thông qua giáo dục, ngay từ đầu người thầy có thể

hiểu được bản thân người học trò của mình là như thế nào, để có thể sử

dụng những phương pháp, bài giảng phù hợp với từng đối tượng. Như vậy

chứng tỏ điều quyết định sự phát triển của con người không phụ thuộc và

bản tính tự nhiên mà phần lớn là do giáo dục. Thông qua giáo dục con

người có thể tự tìm hiểu chính mình, từ đó có thể rèn luyện bản thân để trở

nên tốt đẹp hơn. Nhân tính ở đây chính là lòng yêu thương, quý mến người

khác. Chúng ta không chỉ là một cá thể sống độc lập trong thế giới rộng lớn

này, mà trong quá trình sinh sống tiếp xúc với nhiều người từ đó sẽ nảy

sinh nhiều vấn đề xảy ra. Vì vậy, chúng ta nên đối xử với nhau tốt hơn, yêu

thương, đùm bọc, quan tâm đến nhau nhiều hơn và có thể giúp đỡ nhau

ngày càng phát triển và hoàn thiện.

Ông khẳng định rằng giáo dục là cơ sở nhằm cải biến xã hội. Vào

thời Xuân Thu loạn lạc, Khổng Tử chủ trương nhờ giáo dục để giáo hóa

con người cải biến xã hội nên ông đặc biệt quan tâm đến việc dạy đạo đức,

đạo lý cho người người từ đó để xây dựng một xã hội có đạo, có trật tự, kỷ

cương. Mục đích của giáo dục là nhằm tác động đến con người để cải tạo

xã hội, xây dựng xã hội phát triển. Ông mong muốn thông qua giáo dục có

thể gây dựng lại một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị hay nói cách khác,

giáo dục là cơ sở để cải biến xã hội. Điều này quả thật rất chính đáng, bởi

lẽ ở thời điểm xã hội loạn lạc bất ổn , người người tranh giành cướp bóc lẫn

nhau, chư hầu nơi nơi gây ra chiến tranh chết chóc, thì việc đạo đức của

48

người dân ngày càng kém. Người dân chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân mà

bỏ quên cộng đồng bỏ mặc đồng loại. Thông qua giáo dục người dân về

đạo đức về đạo lý... để họ có thể quay trở về là người lương thiện, nhận

thức được trách nhiệm của bản thân, phải “tu thân”, “tề gia”, sau đó “trị

quốc” và “bình thiên hạ”. Để xây dựng được một đất nước phát triển, thì

điều đầu tiên là người dân của quốc gia ấy phải tự mình hiểu rõ được nhiệm

vụ và vai trò của chính mình. Thông qua việc giáo dục không chỉ giúp

người học hoàn thiện bản thân mình, mà còn cung cấp cho người học

những kiến thức về chính trị, về xã hội, về ngoại giao... để từ đó người học

có thể đóng góp sức lực của mình vào quá trình xây dựng xã hội. Khi cuộc

sống người dân ngày càng tốt đẹp thì đất nước sẽ ngày càng giàu mạnh,

phát triển và văn minh. Khổng Tử đã nhìn ra được vai trò của giáo dục,

chính giáo dục là một trong những nhân tố góp phần làm động lực cho sự

phát triển ổn định của quốc gia, của đời sống xã hội.

 Về phƣơng pháp giáo dục

Khổng Tử là người thầy có phương pháp giảng dạy đa dạng và

phong phú. Nhắc đến phương pháp giảng dạy của ông có thể kể đến:

phương pháp thuyết giảng, trao đổi tranh luận, nêu gương người xưa,

phương pháp hỏi đáp, gợi mở, phương pháp giảng dạy dựa trên những tình

huống có thật. Tùy vào tố chất, đức hạnh và khả năng của mỗi người học

trò mà Khổng Tử tự có lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp. Ông là

người thầy có đầy đủ khả năng, trình độ trí tuệ, đặc biệt là có phẩm chất

đạo đức đáng quý. Ông cũng cho rằng mỗi người thầy phải là một tấm

gương đạo đức, tự học và sáng tạo, không ngừng học hỏi, rèn luyện tích lũy

kiến thức.

Trong quá trình học tập giảng dạy, không còn việc người thầy chỉ sử

dụng đơn nhất một phương pháp mà người thầy cần biết vận dụng kết hợp

linh hoạt các cách dạy khác nhau để giúp người học có thể tiếp thu vấn đề

49

theo nhiều hướng. Với việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp học sẽ làm

cho buổi học thú vị và hấp dẫn hơn, trong đó sự tương tác giữa thầy và trò

sẽ nhiều hơn, từ đó sẽ giúp người học không cảm thấy việc học là nhàm

chán, áp lực hay quá khô khan.

Việc sử dụng phương pháp trao đổi, tranh luận, với phương pháp này,

người học có thể lĩnh hội được tri thức một cách chủ động, đáp ứng được

yêu cầu và lợi ích của mình đưa ra. Đây là phương pháp mà người học

đóng vai trò là trung tâm, qua đó có thể khơi gợi khả năng tư duy, coi trọng

nội lực của người học, phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động của

chủ thể người học. Để sử dụng phương pháp này trong giảng dạy thì đòi

hỏi người thầy phải có sự hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực và phải có

khả năng tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập và xử lý những vấn đề mà

người học đặt ra.

Phương pháp mà Khổng Tử sử dụng với tần suất khá nhiều là

phương pháp đàm thoại gợi mở. Phương pháp này vừa có thể phát huy

được vai trò chủ động của người học vừa tạo nên môi trường giáo dục thân

thiện, đảm bảo được sự tương tác giữa thầy và trò, kết nối người học tới

những gì lớn hơn cái mà người ta nhìn thấy được. Ngoài ra phương pháp

này còn giúp người học rèn luyện được khả năng tư duy, năng lực tự tìm tòi

suy nghĩ của bản thân, từ đó giúp họ có khả năng logic và giải quyết vấn đề

tốt hơn. Ngày nay, nhiều phương pháp dạy học hiện đại ra đời, chẳng hạn

dạy học trực tuyến gắn với giáo dục số, thiết bị số… Đây là một hình thức

mới của phương pháp đàm thoại. Nếu như trong quá khứ thì phương pháp

này được thực hiện trực tiếp, mọi người quây quần bên cạnh nhau cũng bàn

luận thì bây giờ thông qua công nghệ - điện tử phương pháp này được nâng

cao

Ngoài ra, phương pháp hỏi – đáp, phương pháp dạy học thông qua

tình huống có thật… là những phương pháp dạy học có giá trị và mang tính

thực tiễn cao, giúp người học cảm thấy việc học không mơ hồ, không nặng

50

nề về lý thuyết trừu tượng. Đây là những phương pháp dạy học trong giáo

dục hiện đại nhưng kỳ thực nó đã được Khổng Tử sử dụng trong quá trình

dạy học. Ngày nay, các phương pháp dạy học này vẫn được sử dụng và

đánh giá cao trong thực tiễn giáo dục. Đặc biệt, phương pháp dạy học

thông qua tình huống có thật nên được áp dụng rộng rãi trong dạy học

nhằm để giúp người học hình thành kỹ năng giải quyết vấn đề liên quan

đến cuộc sống của họ, góp phần xây dựng con người năng động, nhạy bén

đáp ứng với yêu cầu của đất nước trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ông không chỉ đề cập đến

phương cách giảng dạy của người thầy mà ông còn đưa ra những gợi ý về

cách học cho người học trò định hướng cách học cho học trò để có thể thu

nhận kiến thức tốt hơn và hoàn thiện bản thân hơn.

Khổng Tử là tấm gương học tập không biết mỏi mệt, không ngừng

nghỉ và lúc nào cũng sẵn sàng tâm thế học tập với mọi người, học ở mọi lúc,

mọi nơi. Vì vậy ông đã đưa ra một số định hướng về cách học cho người

học như: học đi đôi với hành; học phải suy nghĩ; học cũ để biết mới; học ở

mọi nơi mọi lúc; học bằng cách hỏi; học phải kiên trì, phải vui học và tự

học… Tất cả những phương pháp học này đều mang lại hiệu quả rất tốt

trong quá trình học tập.

Phương pháp học đi đôi với hành sẽ cung cấp cho người học không

chỉ những kiến thức lý thuyết mà từ đó còn có thể vận dụng áp dụng vào

thực tế. Để thực hành được thì trong quá trình học cần phải suy nghĩ, học

cũ để biết mới thì sữ giúp người học có thể tự mình đào sâu tìm hiểu kiến

thức. Trong quá trình suy nghĩ, ôn lại kiến thức cũ sẽ càng làm cho chúng

ta hiều vấn đề sẽ suy nghĩ nhiều hơn đến vấn đề từ đó có thể sẽ xuất hiện

nên những kiến thức mới mà tự ta tìm ra được. Điều này một lần nữa khẳng

định việc học không chỉ khô khan lý thuyết mà nó có tác dụng thực hành

thực tế giúp phát triển con người nhằm cải biến xã hội.

51

Phương pháp học thì phải kiên trì, học mọi nơi mọi lúc- đây là một

lời khuyên rất chính xác. Việc học là một quá trình gom nhặt, tích lũy kiến

thức lâu dài chứ không phải là trong một hay hai ngày vì vậy trong quá

trình học có lúc chúng ta sẽ cảm thấy khó khăn rồi lùi bước. Vậy nên cần

phải cố gắng, nỗ lực kiên trì phải có sự kiên định với việc học thì mới có

thể kinh qua những trở ngại trong quá trình học. Thông qua việc học, người

học có thể rèn luyện cho mình tính kiên nhẫn kiên trì, chăm chỉ- điều này

quả thật rất có ý nghĩa. Học không chỉ mỗi trên lớp, trên giảng đường mà

còn phải học mọi nơi mọi lúc, tự mình học hỏi những gì mình chưa biết,

tích lũy nhiều kiến thức cho bản thân, từ đó ngày càng hoàn thiện chính

mình.

3.2. Những hạn chế trong tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử

Một học thuyết trong quá khứ dù có xuất sắc đến mức nào cũng

không thể nào luôn đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội. Vì thế,

mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử để lại rất nhiều giá trị cho thời đại,

nhưng trong chính những tư tưởng ấy vẫn còn nhiều điểm hạn chế.

 Về mục đích giáo dục

Hạn chế đầu tiên trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đó chính là

việc ông hướng tới mục tiêu là đào tạo người quân tử, điều này cũng đồng

nghĩa với việc trong đối tượng giáo dục của mình ông chú trọng đào tạo

những người đàn ông. Theo cá nhân tác giả, điều này chứng tỏ một điều

rằng, Khổng Tử cho rằng chỉ có những người nam giới mới có thể ra làm

quan xây dựng, cải tạo và cai trị xã hội.

Thứ hai, Khổng Tử cho rằng thông qua giáo dục ông có thể cải tạo xã

hội, và xã hội mà ông hướng đến là cải lương quay lại xã hội cũ xã hội của

các vua nhà Chu thái bình thịnh trị, nhưng trong quá trình giáo dục của

mình ông không thể hoàn thành được mục tiêu đã đặt ra.

Với Khổng Tử, ông luôn muốn giáo dục người tài để họ có thể ra

làm quan, làm chính trị, tham gia quản lý xã hội. Ông cho rằng ở thời điểm

52

trong quá khứ, xã tắc loạn lạc trật tự xã hội bị xáo trộn, thì rất cần có những

người vừa có tài vừa có đức để có thể quản lý và xây dựng lại đất nước.

Ngày nay, nếu mục đích giáo dục con người có đức, có tài để làm quan như

trong tư tưởng của Khổng Tử thì rất phiến diện vì chưa bao quát hết các

hình thức hoạt động thực tiễn; chưa thấy rõ mối quan hệ giữa các hình thức

hoạt động thực tiễn, đặc biệt là vai trò quan trọng của hoạt động sản xuất

vật chất. Bởi ngày nay có rất nhiều nhà cầm quyền có xuất thân từ những

nhà kinh tế, nhà khoa học như Tổng thống Mỹ Donal Trump,… Theo tôi,

việc học cũng có mục đích là để biết, để thực hành, học để tham gia xây

dựng, phát triển đất nước, có thể ứng dụng những điều mình học vào đời

sống xã hội, không nhất thiết cứ phải làm quan thì mới nên học, làm quan

mới có thể giúp đất nước phát triển . Việc suy nghĩ học để ra làm quan dẫn

đến nhiều hệ lụy như học chỉ để có bằng cấp, nạn mua bằng, làm bằng giả

ngày càng nhiều, và xuất hiện tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” làm cho

những người có kỹ năng và kiến thức nhưng lại không có cơ hội làm việc.

Bàn về đối tượng giáo dục, mặc dù ông chủ trương đem giáo dục đến

tất cả mọi người nhưng trên thực tế thì ông chỉ hướng giáo dục đến đối

tượng là những người cầm quyền, những người đứng đầu cai trị, đặc biệt

ông chỉ chú trọng giáo dục đào tạo người quân tử. Ông cho rằng chỉ có

người quân tử mới có thể tham gia vào chính trị, mới có thể xây dựng đất

nước, mới làm cho xã tắc quốc thái dân an được. Điều này thật sự chưa

thuyết phục. Theo ông nói, người quân tử là người vừa có tài, vừa có đức,

trung thành với vua, hiếu đễ với dân, nhưng đấy chỉ là hình mẫu lí tưởng vì

trong suốt quá trình giảng dạy ông cũng chưa nêu rõ được một người cụ thể

nào là người quân tử.

Trong đối tượng giáo dục ông phân cấp từng đối tượng và với mỗi

loại ông lại có sự giáo dục khác nhau. Điều này chứng tỏ, ông vẫn còn

mang nặng tính phân biệt đẳng cấp trong tư tưởng của mình. Việc ông coi

trong giáo dục đào tạo những người ở tầng lớp trên hơn, cho thấy ông coi

53

những người ở tầng lớp này luôn luôn có trí tuệ hơn những người ở tầng

lớp khác. Điều này sẽ làm cho nhiều người ở tầng lớp dưới cũng có mong

muốn xây dựng đất nước, muốn làm quan không đủ dũng cảm và điều kiện

để thực hiện. Chính từ việc phân biệt như vậy ảnh hưởng đến ngày này như

tư tưởng phân biệt đối xử trong giáo dục; việc tổ chức xây dựng trường

chuyên, lớp chọn, chính quy, tại chức, chương trình chất lượng cao; hiện

tượng chạy trường, chạy lớp; học thêm, dạy thêm… những biểu hiện đó đã

gây cản trở không ít đối với cả người học và người dạy.

Đặc biệt trong quá trình giáo dục của mình, ông chỉ đề cập đến

những nội dung giáo dục cho người nam giới, còn lại ông không nhắc đến

người nữ giới. Điều này xuất phát từ tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho

giáo, coi trọng việc giáo dục đào tạo người con trai mà xem nhẹ con gái.

Và tư tưởng này cũng đã ảnh hưởng đến nền giáo dục phong kiến Việt Nam

dẫn đến sự phân biệt đối xử trong giáo dục sau này.

 Về các lĩnh vực giáo dục

Trong quá trình dạy học, Khổng Tử đặc biệt chú ý giáo dục đạo đức

cho học trò, ông coi đạo đức là nền tảng để xây dựng xã hội có trật tự kỷ

cương. Tuy nhiên, nếu chỉ dạy dỗ cho học trò về đạo đức cũng không thể

duy trì xã hội trật tự kỷ cương được. Bởi vì, trong xã hội loạn lạc lúc bấy

giờ, điều người dân quan tâm là việc mình có an toàn, gia đình mình có an

toàn, có đủ lương thực để vượt qua nạn chiến tranh không. Những phẩm

chất đạo đức cao quý lúc này cũng chỉ như là một thứ xa vời, xa xỉ với

những người này. Vì vậy, giáo dục đạo đức là điều nên làm, những trước

tiên trong lúc bấy giờ cần phải dạy người dân làm thế nào để phát triển kinh

tế, tăng nguồn cung cấp lương thực, làm thế nào để bảo vệ mình khi chiến

tranh đến gần. Mặc dù trong các lĩnh vực giáo dục của mình ông cũng đã

nêu ra nhiều lĩnh vực về lục nghệ nhưng ông lại bỏ qua tầm quan trọng của

nó mà lại quá đề cao tầm quan trọng của giáo dục đạo đức.

54

Để hình thành phẩm chất và năng lực cho người học thì giáo dục đạo

đức là cần thiết nhưng không nên quá xem trọng đạo đức mà xem nhẹ các

lĩnh vực giáo dục khác. Việc mất cân bằng giữa trí dục và đức dục sẽ hình

thành nên những con người phát triển không cân đối. Trong khi đó, ở

Khổng Tử lại thiên về đạo đức, tính phiến diện đạo đức được đẩy mạnh, tạo

nên những người quân tử có nhân cách và phẩm hạnh nhưng lại thiếu kiến

thức về khoa học tự nhiên, khoa học thường thức. Con người có trí lực

nhưng trí lực ở đây chủ yếu là kiến thức về đạo đức, về chính trị còn kiến

thức về tự nhiên, về sản xuất thì mờ nhạt. Vì vậy cần phải khắc phục hạn

chế trong giáo dục của Khổng Tử bằng cách giáo dục cân bằng giữa đạo

đức, trí tuệ khoa học.

Trung Hoa lúc bấy giờ là một xã hội nông nghiệp, ngành nghề chủ

yếu là trồng ruộng, làm vườn, thế nhưng trong nội dung giáo dục của mình

Khổng Tử không đề cập đến lĩnh vực này. Khi Phàn Trì xin ông dạy cách

trồng cây thì ông đã trách rằng : “Gã Phàn Trì chí nhỏ hẹp lắm thay!”, hay

khi Tử Lộ hỏi thì ông đáp : “Người bề trên chỉ cần học đủ lễ, nghĩa, tín thì

dân chúng bốn phương sẽ đem đến phục dịch mình. Cần chi phải học nghề

cày cấy”. Tư tưởng xem nhẹ nông nghiệp hay những kiến thức về trồng

ruộng làm vườn chứng tỏ ông không để tâm đến việc giáo dục về kỹ năng

thực nghiệm cho học trò. Bên cạnh đó việc Khổng Tử chê Phần Trì “chí

nhỏ hẹp” chững tỏ ông có phần xem nhẹ những người làm việc tay chân, là

những người ý chỉ nhỏ bé, suy nghĩ chậm chạp,… Qua đây một lần nữa cho

thấy Khổng Tử quá coi trọng việc giáo dục đạo đức mà đã bỏ quên nhiều

kiến thức có thể giúp người học trò hoàn thiện hơn.

Tóm lại, để giáo dục học trò trở thành con người toàn diện thì nội

dung giáo dục phải mang tính toàn diện. Mặc dù đã đưa ra một hệ thống

các chuẩn mực đạo đức cần có để hình thành nên nhân cách hoàn thiện, chú

ý đến giáo dục tinh thần cốt cách, đạo lý nhưng nội dung giáo dục của

Khổng Tử vẫn còn nặng về đạo đức ứng xử; các vấn về tự nhiên, về khoa

55

học kỹ thuật, về lao động sản xuất, về kinh tế… hầu như chưa được đưa

vào giảng dạy. Dù ông có chú ý bồi dưỡng cái kỹ năng thực tế cho người

học nhưng lại coi thường những công việc lao lực như cầy cấy, làm ruộng,

kéo xe... và thiếu quan tâm đến việc ứng dụng tri thức vào các lĩnh vực lao

động sản xuất; đánh giá thấp các giá trị vật chất, thiên về các giá trị tinh

thần; chưa coi trọng giáo dục thực nghiệm... Nội dung giáo dục của Khổng

Tử thiếu sự gắn liền với thực tiễn nên chỉ có giá trị về mặt chính trị đạo đức

chứ không có nhiều giá trị trong sự phát triển và xây dựng cuộc sống.

Trong quá trình dạy học của mình Khổng Tử cho rằng, muốn “trị

quốc”, “bình thiên hạ” thì trước hết phải “tề gia”. Việc vận dụng những

kiến thức về “tề gia” như : cha mẹ phải nhân từ; con cái phải hiếu thảo; anh

em phải có thứ tự; bằng hữu phải tín nghĩa... cần phải được tiếp thu và vận

dụng. Đồng thời việc coi gia đình là gốc của xã hội, là tế bào của xã hội cần

được phát huy. Tuy nhiên, việc quá đề cao yếu tố gia đình dẫn đến trình

trạng “gia trưởng” trong gia đình, trong tổ chức xã hội: “đứng đầu gia đình

là người cha, người chồng gọi là gia trưởng; đứng đầu dòng tộc gọi là

trưởng họ; đại diện cho cả làng là ông lý; cả tổng là ông chánh; hệ thông

quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua” [dẫn theo 48]. Điều này cho thấy

hạn chế trong xu hướng trọng nam khinh nữ, chỉ có nam giới mới có thể là

người đứng đầu trong các trong gia đình, trong xã hội. Cùng với đó là việc

coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo

thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, đề cao địa vị, coi thường

lớp trẻ, trọng nam khinh nữ…

Suy cho cùng, việc giáo dục đào tạo đạo đức là rất cần thiết đối với

quá trình hình thành và phát triển của mỗi người. Nhưng không nên quá coi

trọng giáo dục đạo đức, duy đạo đức mà bỏ qua hoặc xem nhẹ giáo dục

những lĩnh vực khác. Bởi vì ngày này, động lực để đưa một đất nước phát

triển không chỉ là đạo đức mà còn là kinh tế, khoa học công nghệ,. . .

56

 Về phƣơng pháp giáo dục

Về phương pháp giáo dục, đặc biệt về phương pháp dạy học, Khổng

Tử rất coi trọng việc “ôn cố nhi tri tân” với nguyên tắc “thuật nhi bất tác”,

giáo dục truyền thống, coi trọng việc vận dụng những thành quả của các

đấng tiên vương, tiên thánh, coi đó là khuôn vàng, thước ngọc. Coi trọng

lời dạy của người xưa là đúng, nhưng coi trọng đến mức mà người học

không thể làm gì hơn ngoài việc ôn cho kỹ, học cho thuộc thì lại mang tính

áp đặt và thiếu sáng tạo. Vì thế làm cho người học bị ràng buộc bởi những

kiến thức cũ không dám thể hiện chính kiến cá nhân của mình, hạn chế sự

sáng tạo. Theo cái cũ, không sáng tác, không thay đổi… sẽ dẫn đến tình

trạng ỷ lại, chỉ biết phục tùng mà không biết phản biện, phê phán sẽ là một

trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo

dục. Nói như vậy không có nghĩa là gạt bỏ truyền thống mà ngược lại

những giá trị truyền thống phải được kế thừa, vận dụng và phát huy sao cho

phù hợp với bối cảnh mới. Mặc dù phải biết tôn trọng quá khứ nhưng điều

quan trọng là phải biết hướng tới tương lai, phải biết thay đổi cái cũ bằng

cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, giáo dục ngày nay cần phải kích thích sự ham

mê sáng tạo, ham mê cái mới, coi trọng sự chủ động, tích cực của người

học.

Khổng Tử đã đề cập đến hàng loạt phương pháp dạy và học không

chỉ có giá trị sâu sắc đối với thời đại của ông mà còn có tác dụng gợi mở

cho giáo dục ngày nay. Tuy nhiên, bên cạnh những phương pháp dạy học

tiến bộ, vẫn còn phương pháp nặng về thuyết giảng, hầu như vai trò của

người thầy vẫn là chủ đạo trong quá trình dạy học, vai trò chủ động của học

trò vẫn còn mờ nhạt. Giữa người dạy và người học là sự tác động trực tiếp,

nên việc sử dụng các phương tiện dạy học, thực hành, thí nghiệm hầu như

không có; chưa chú trọng đào tạo nghề; phương pháp giáo dục không gắn

với thực tiễn sản xuất nên dẫn tới tình trạng kinh viện, bảo thủ, trì trệ. Cho

57

nên, trong quá trình giáo dục cần phải “khắc phục lối truyền thụ áp đặt một

chiều, ghi nhớ máy móc” ; phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư

duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả

năng thực hành; khắc phục quan niệm lệch lạc coi quyền uy của người thầy

là tuyệt đối. Vai trò của người thầy là giúp người học tìm ra phương pháp

thu nhận kiến thức tối ưu nhất, giúp người học nắm được phương pháp giải

quyết vấn đề và vận dụng kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề

trong thực tiễn cuộc sống. Người thầy không truyền đạt kiến thức theo lối

thuyết giảng một chiều mà là người hướng dẫn, tổ chức hoạt động học.

 Ý nghĩa tƣ tƣởng giáo dục của Khổng Tử đối với sự nghiệp giáo

dục Việt Nam hiện nay

Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá về tư tưởng giáo dục của

Khổng Tử, dưới đây là những ý kiến của tôi về ý nghĩa của tư tưởng giáo

dục nàyđối với sự nghiệp giáo dục Việt Nam hiện nay.

Như chúng ta đã biết, giáo dục đóng vai trò quan trọng là nhân tố, là

động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Không chỉ Việt Nam mà ở hầu

hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc

sách hàng đầu. Là một nước có sự tiếp xúc văn hóa với Trung Hoa từ rất

sớm, thông qua những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của

Khổng Tử, chúng ta cần phải rút ra được bài học cho sự nghiệp giáo dục

của mình.

Việt Nam hiện nay đang bước vào thời đại mới, trong điều kiện nền

kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ đã và đang trở

thành lực lượng sản suất trực tiếp, thì việc học tập và học tập suốt đời chính

là chìa khóa của mọi thành công. Chính vì thế mà sự nghiệp trồng người đã

trở thành mối quan tâm chung của tất cả người dân Việt Nam. Giáo dục

nước ta đã phát triển mạnh mẽ trong nhiều năm qua; phong trào học tập và

ý thức học tập suốt đời đã và đang thấm sâu vào từng cá nhân, từng gia

58

đình, từng dòng họ, từng vùng, miền, từng khu dân cư,... tạo nên một

phong trào to lớn, có sức lan tỏa rộng khắp trong cả nước.

Điều đầu tiên chúng ta có thể học tập từ Khổng Tử đó là đức tính cần

mẫn, cầu thị và chăm chỉ trong học hành. Những người học nhất là những

cô, cậu bé cần được dạy những đức tính này ngay từ lúc còn bé để ngày

càng phát triển và ngày càng thành công trong cuộc sống.

Trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, ông đề cao việc phổ cập

giáo dục đến mọi người trong xã hội, ai ai cũng có quyền được học tập, tiếp

thu kiến thức. Thực tiễn giáo dục Việt Nam cho thấy, tư tưởng “hữu giáo

vô loại” và tấm gương “học không chán, dạy không mỏi” của Khổng Tử là

một điểm sáng giao thoa lẫn nhau giữa hai nền giáo dục. Trong lịch sử giáo

dục Việt Nam, thì việc đi học chỉ giành cho con cái vua chúa, quan lại và

dần dần mở rộng ra cho con cái của những người trí thức. Và đến tận

những năm sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, giữa muôn

vàn khó khăn phải đối mặt, thì vào phiên họp đầu tiên của Chính phủ lầm

thời ngày 3/9/1954, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu sáu vấn đề cấp bách tron

trong đó nhiệm vụ chống nạn mù chữ xếp thứ hai, chỉ sau nhiệm vụ cứu đói.

Với mục tiêu trong vòng một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi

phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Sau đó những lớp học bình dân được

thành lập, chế độ học chữ quốc ngữ bắt buộc, không mất tiền đối với tất cả

mọi người. Qua việc này chứng tỏ, ngay từ trong lịch sử kháng chiến xây

dựng và bảo vệ tổ quốc thì chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng và Đảng Cộng

Sản Việt Nam nói chung đã hiểu rõ tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục

đến toàn dân. Trong bộ luật giáo dục Việt Nam năm 2019 ở điều 13, khoản

1 cũng chỉ rõ : “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân

không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, đặc điểm cá nhân,

nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ

hội học tập”[ 40] hay ở điều 4 khoản 3: “Phát triển hệ thống giáo dục mở,

xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội để mọi người được tiếp cận giáo

59

dục, được học tập ở mọi trình độ, mọi hình thức, học tập suốt đời”[40 ].

Điều này một lần nữa khẳng định việc giáo dục cho toàn bộ người dân đưa

sự học đến với mọi người là hoàn toàn quan trọng và cấp thiết. Quan trọng

hơn nữa, giáo dục cho toàn dân nhưng không chỉ trong thời gian ngắn có

hạn, mà đó là quá trình phát triển lâu dài.

Thực tiễn việc mở rộng phạm vi giáo dục đến mọi người dân ở nước

ta hiện nay có thể xem là thành công và có nhiều điểm tích cực. Nếu như

trước đây, do điều kiện kinh tế, giao thông khó khăn, những hộ dân ở vùng

núi, cao nguyên ít có cơ hội được tiếp xúc với việc học. Dường như việc

được đến trường, học chữ, được tham gia vào lớp học là điều rất khó khăn

với những người dân nơi đây. Thì thông qua quá trình phổ cập giáo dục,

xóa nạn mù chữ cho toàn dân thì đã có nhiều biến đổi rất tốt. “ Theo kết

quả điều tra của Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dân tộc về tình hình kinh tế

- xã hội 53 dân tộc thiểu số, tính đến ngày 1/8/2015: Số lượng người dân

tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết là 7.465.062 người, đạt

79,8%; số lượng người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết

chữ phổ thông là 7.416.732 người, đạt 79,2%; tỷ lệ người dân tộc thiểu số

có việc làm từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo, đạt 6,2%; tỷ lệ học sinh trong

độ tuổi đi học, đi học đúng cấp đạt 70,2% (trong đó: cấp tiểu học 88,9 %;

cấp trung học cơ sở 72,6 %; cấp trung học phổ thông 32,3 %)”[ 26 ]. Với

kết quả đạt được như vậy, hứa hẹn tương lai toàn thể người dân Việt Nam

đều được đến trường, được đi học.

Tóm lại, trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào

tạo hiện nay, việc giáo dục cho tất cả mọi người, tạo cơ hội học tập cho mọi

người dân, xây dựng nền giáo dục cho toàn dân, nền giáo dục đại chúng có

ý nghĩa rất quan trọng. Đặc biệt sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở nước ta

ngày nay, càng được đề cao và được sự quan tâm của toàn xã hội, việc đẩy

mạnh xã hội hóa giáo dục, coi giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn

dân, là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục.

60

Khi nhắc đến mục đích giáo dục của Khổng Tử, ông có chủ trương

đào tạo người quân tử- hình mẫu lý tưởng trong xã hội có tài, có đức để

tham gia xây dựng quản lí nhà nước đây là một mục đích mà chúng ta nên

học tập. Trong thời đại ngày nay, nên tập trung đào tạo một mẫu người lý

tưởng để làm nòng cốt cho việc xây dựng xã hội. Ngày nay, trong công

cuộc đổi mới và xây dựng thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định

hướng xã hội với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh thì chúng ta rất cần bồi dưỡng đào tạo những con người mới, có

đầy đủ phẩm chất, năng lực, trí tuệ để có thể tham gia vào quá trình đổi mới

đất nước. Đặc biệt họ phải là những người có tính sáng tạo, đổi mới và có

tính cạnh tranh cao, dám đối mặt với những thách thức và giải quyết vấn đề.

Trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, ông đề cao việc giáo dục

đạo đức, ông coi đạo đức là nền tảng để xây dựng xã hội có trật tự kỷ

cương. Quả đúng như vậy, đạo đức là thước đo thang giá trị con người

trong mọi thời đại. Đạo đức là gốc của con người, là cơ sở, mạch sống để

giúp con người duy trì sự phát triển hài hòa, hoàn thiện trong các mối quan

hệ giữa người với người trong gia đình và ngoài xã hội. Trong giai đoạn

hiện nay ở nước ta, sự tha hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận không

ít người trong xã hội đang ngày càng gây nhiều bức xúc, đòi hỏi giáo dục

phải chú ý bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa...

cho người học. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc giáo dục

đạo đức, đặc biệt là giáo dục đạo đức cách mạng cho người cán bộ. Người

coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người như gốc của cây,

như ngọn nguồn của sông suối. Người đã chỉ rõ sứ mệnh của giáo dục là

phải đào tạo được những công dân hữu ích cho đất nước, hết lòng phụng sự

nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Trong điều 2, Luật giáo dục Việt

Nam ( 2019) đã chỉ rõ : “ Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con

người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề

nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh

61

thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội…” [ 40 ]. Điều này một lần nữa khẳng định giáo dục đạo đức con

người nên là việc làm đầu tiên và chu đáo trong quá trình giáo dục của mỗi

người. Để làm được điều đó, đổi mới giáo dục hiện nay cần phải “chú trọng

giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công

dân”.

Ngoài ra để hội nhập và phát triển, giáo dục Việt Nam không nên chỉ

giáo dục những tiêu chuẩn đạo đức truyền thống: lòng yêu nước nồng nàn,

tinh thần bất khuất, ý chí độc lập và tự cường dân tộc, lòng yêu thương, độ

lượng, sống có nghĩa tình với con người, truyền thống hiếu học và tôn sư

trọng đạo, truyền thống đoàn kết, gắn bó, tương thân tương ái, sống có

nghĩa tình, thủy chung mà cần phải bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những phẩm

chất đạo đức mới như năng động, sáng tạo, hợp tác, tự tin, quyết đoán… có

thể tự do phát triển năng lực, phẩm chất cá nhân để có thể tiếp thu, học tập

phát triển, có thể làm chủ được cuộc sống của mình tốt hơn.

Mặc dù giáo dục đạo đức là quan trọng và cần thiết nhưng hiện nay xã

hội ngày càng phát triên, thế giới đang ngày càng phát triển thì không được

chăm chăm chú trọng giáo dục mỗi lĩnh vực đạo đức mà cần phải quan tâm

đến nhiều vấn đề khác như những kiến thức về khoa học, kỹ thuật – công

nghệ, khoa học thường thức, kiến thức về thẩm mỹ, kiến trúc, hội họa, âm

nhạc.... để người học có thể phát triển toàn diện, từ đó có thể tìm ra những

sở trường, đam mê và lĩnh vực mà mình yêu thích. Ngoài ra cần phải thay

đổi nội dung và phương pháp giáo dục lạc hậu, nặng thành tích mà coi nhẹ

những vấn đề có ý nghĩa cơ bản suốt đời cho mỗi con người như: hình

thành nhân cách, năng lực tư duy, khả năng cảm thụ, đầu tư phát triển kỹ

năng lao động, kỹ năng sống, giao tiếp, chất lượng giáo dục… Từ đó có thể

tránh được những hậu quả về sau như nạn chảy máu chất xám nguồn lực trí

62

tuệ của đất nước, hay làm cho nền kinh tế ngày càng sa sút, nhân cách

người dân ngày càng đi xuống....

Khổng Tử coi chữ “ Hiếu” là cái gốc của đạo làm con, cho rằng gia

đình là cơ sở quan trọng bậc nhất để thiết lập kỉ cương, ổn định trật tự xã

hội : “ tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Ở Việt Nam, chữ Hiếu đã hình thành

lâu đời trong những phong tục của người Việt như: thờ cúng tổ tiên, kính

trọng người già, tôn trọng cha mẹ, kính trên nhường dưới… đồng thời chữ

Hiếu hiện nay còn được chính sách hóa, pháp luật hóa bằng việc quy định

về quyền và nghĩa vụ của con cháu đối với cha mẹ, ông bà và được chế tài

đối với những hành vi vi phạm nghĩa vụ đó bằng quy định của pháp luật.

Nhắc đến phương pháp học tập, cũng như Khổng Tử đã đề cập thì

việc học tập suốt đời, học mọi nơi, mọi lúc, học ở mọi người, hướng tới xây

dựng một xã hội học tập không chỉ là nhu cầu tự thân của mỗi cá nhân mà

còn là ý thức và trách nhiệm của cộng đồng và xã hội. Khi xã hội ngày

càng phát triển mạnh mẽ, tri thức nhân loại không ngừng phát triển, mỗi

giây phút trôi qua có nhiều tri thức mới được ra đời, nếu không học tập,

không được giáo dục và tự giáo dục để nâng tầm hiểu biết thì sớm muộn

chúng ta cũng sẽ bị đào thải khỏi cuộc sống hiện đại. Cho nên, giáo dục

tinh thần hiếu học hiện nay vẫn là một yêu cầu không thể thiếu của đổi mới

giáo dục nước ta hiện nay. Việc rèn luyện phương pháp học tập và thói

quen, khả năng tự học ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp

người học tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất đồng thời chuẩn

bị cho họ có khả năng học tập suốt đời.

Đối với người thầy, trong quá trình giảng dạy, ngoài việc vận dụng

những phương pháp dạy học hiện đại như phương pháp dạy học qua trải

nghiệm và khám phá, phương pháp dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ

thông tin và các kỹ thuật dạy học hiện đại, người thầy cần phải biết vận

dụng kết hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đặc trưng của

63

bộ môn, nội dung dạy học, thiết bị dạy học và đối tượng dạy học. Vai trò

của người thầy là giúp người học tìm ra phương pháp thu nhận kiến thức

tối ưu nhất, giúp người học nắm được phương pháp giải quyết vấn đề và

vận dụng kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề trong thực tiễn cuộc

sống. Người thầy không truyền đạt kiến thức theo lối thuyết giảng một

chiều mà là người hướng dẫn, tổ chức hoạt động học. Điểm mấu chốt nhất

để đổi mới phương pháp dạy học chính là người thầy phải thay đổi quan

niệm, suy nghĩ về phương pháp dạy học, về bản chất của việc dạy và việc

học.

Ngày nay, nhiều phương pháp dạy học hiện đại ra đời, chẳng hạn dạy

học trực tuyến gắn với giáo dục số, thiết bị số… Việc sử dụng những

phương pháp này mang đến rất nhiều lợi ích. Một trong những lợi ích của

việc học online đó là sự tiện lợi. Thay vì phải học tại một địa điểm, việc

học và giảng dạy có thể được thực hiện ở nhà. Giáo viên và học sinh có thể

học trên máy tính bảng hoặc máy tính xách tay nên việc học có thể diễn ra

ở hầu hết bất cứ đâu mà không phải lo rằng lớp học cách nhà quá xa. Học

online cũng giúp tiết kiệm thời gian hơn cho giáo viên, học sinh và cả cho

phụ huynh. Không còn mất thời gian di chuyển, đưa đón con hay việc lo

lắng về quãng đường đến lớp nữa mà thời gian đó có thể được dành cho các

hoạt động khác. Khi học trên lớp, một số học sinh không thể nhìn thấy rõ

chữ viết trên bảng khi cô giáo giảng bài. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến

khả năng tập trung và tiếp thu của học sinh. Điểm khác biệt của việc học

online nằm ở đây, chúng cho phép người tham gia chia sẻ màn hình của

mình trong quá trình giảng bài. Điều này thuận tiện hơn cho bài giảng bởi

mọi người đều có thể nhìn thấy rõ nội dung, tăng khả năng tập trung và tiếp

thu của học sinh. Học trực tuyến cho người học tăng cơ hội tương tác với

giáo viên nhiều hơn so với việc học trên lớp. Điều này giúp cho sinh viên

nhút nhát hoặc hướng nội có cơ hội tham gia thảo luận dễ dàng hơn trong

các buổi học và cảm thấy thoải mái hơn.

64

Bên cạnh đó, trong quá trình dạy học, người thầy cần phải kết hợp

giáo dục kiến thức ở nhiều lĩnh vực cho người học để họ có thể có cái nhìn

rộng hơn về thế giới và về chính bản thân mình. Nên cân bằng giáo dục

giữa đạo đức- khoa học, để người học có thể phát triển toàn diện hơn.

Đối chiếu với thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy

rất nhiều yếu tố trong hệ thống tư tưởng giáo dục của Khổng Tử vẫn còn

giá trị cần kế thừa và vận dụng. Chúng ta có thể kế thừa chủ trương mở

rộng giáo dục, bình dân hóa giáo dục của Khổng Tử để tiến tới xây dựng

một xã hội học tập; tạo điều kiện cho mọi người dân có cơ hội học tập và

học tập suốt đời. Thông qua việc giáo hóa giúp con người biết tự sửa mình,

biết tu dưỡng bản thân để xây dựng xã hội có trật tự, lễ nghĩa. Chúng ta cần

tiếp biến những hạt nhân trong nội dung giáo dục về đạo lý làm người và

một số phẩm chất đạo đức như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Dũng, Tín, Hiếu

đễ… trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử góp phần vào việc giáo dục

đạo đức con người mới ở nước ta. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập và phát

triển với sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường hiện nay, cùng với

việc giáo dục tri thức thì việc giáo dục giá trị đạo đức, nhân cách, đạo lý

làm người càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Thông qua việc tìm hiểu nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Khổng

Tử, ta thấy rằng trong hệ thống tư tưởng bên cạnh việc để lại nhiều giá trị

đối với hiện nay thì vẫn còn có nhiều hạn chế tồn tại. Vì vậy, đối với Việt

Nam nên cố gắng học hỏi, tiếp thu những giá trị tốt đẹp, đồng thời khắc

phục những hạn chế của Khổng Tử để có thể làm phong phú, làm giàu hơn

tư tưởng giáo dục của nước mình.

65

KẾT LUẬN

Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ Xuân Thu, giai đoạn lịch sử xã hội

Trung Quốc có nhiều biến động lớn xảy ra. Việc đảo lộn đạo đức, luân lý

và trật tự kỷ cương xã hội đã là động lực thúc đẩy Khổng Tử đề ra tư tưởng

giáo dục của mình.

Là người hiểu được tầm quan trọng của giáo dục của việc “hữu giáo

vô loại”, ông là người đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa mở trường tư dạy

học, mở rộng giáo dục đến với mọi tầng lớp trong xã hội. Chính ông cũng

tự hiểu được rằng, xã hội loạn lạc, vô đạo là do con người không có đạo

đức, vì thế ông chủ trương giáo dục đạo đức là mục tiêu chủ yếu trong tư

tưởng giáo dục của mình. Bên cạnh đó ông còn giáo dục học trò mình

nhiều lĩnh vực kiến thức khác như: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, đặc biệt là các

lĩnh vực kiến thức về chính trị, về cách trị nước, an dân. Để truyền đạt nội

dung giáo dục đến với học trò, Khổng Tử đã sử dụng nhiều cách thức dạy

học khác nhau và có ảnh hưởng tốt đến thời đại bấy giờ.

Với hệ thống tư tưởng giáo dục của mình, Khổng Tử đã để lại cho

chúng ta nhiều bài học về giáo dục. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử mang

lại nhiều giá trị trong việc lựa chọn mục đich giáo dục là để giáo hóa con

người, giúp phát triển con người toàn diện để có thể xây dựng phát triển và

cải biến xã hội. Cần phải có nội dung giáo dục phù hợp với từng đối tượng

giáo dục cụ thể, bên cạnh đó không nên chăm chăm giáo dục chỉ một hay

một vài lĩnh vực mà cần phải bao quát, làm giàu các lĩnh vực giáo dục đặc

biệt là thực hành, thực nghiệm. Chúng ta đều biết, trong việc giảng dạy thì

điều đầu tiên và hiển nhiên là giảng dạy lý thuyết nhưng trong quá trình

giảng dạy thì nên gắn nhiều ví dụ thực tế để tránh sự nhàm chàn, lý thuyết

suông. Muốn học tập có hiệu quả không chỉ dựa vào phương pháp hay kiến

thức truyền dạy của người dạy học mà phần lớn là do sự tự học, hiếu học

và phương pháp học phù hợp của người học. Bên cạnh đó chúng ta cần

phải hiểu, học không chỉ là việc thu nhận kiến thức mà còn là quá trình để

66

chúng ta tìm hiểu bản thân, tìm hiểu xã hội, giao tiếp xây dựng mối quan hệ

với mọi người.

Mặc dù giáo dục Việt Nam hiện nay chịu sự tác động của nhiều nền

giáo dục khác nhau trên thế giới, nhưng một lần nữa khẳng định lại rằng từ

xưa đến nay thì các tư tưởng giáo dục của Khổng Tử vẫn còn xuất hiện

trong nền giáo dục của chúng ta. Nhưng tư tưởng nào trong lịch sử thì cũng

đều để lại những giá trị và hạn chế, vì vậy chúng ta cần phải biết tiếp thu,

vận dụng phù hợp những giá trị và khắc phục hạn chế để có thể mang lại

kết quả tốt hơn.

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, Nxb Trường Thi, Sài Gòn.

2. Phạm Ngọc Anh, Nguyễn Thị Kim Dung (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh

về giáo dục và đào tạo. Nxb Lao động – Xã hội.

3. Tạ Ngọc Ái (2011), Trí tuệ Khổng Tử, Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội.

4. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Đôi điều suy nghĩ về đối tượng và nội

dung giáo dục, giáo hóa của Nho giáo”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (Số

10/2000), tr.50-54.

5. Nguyễn Văn Bình (2001), Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã

hội, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay, Luận án Tiến

sĩ Triết học, Viện Triết học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

6. Doãn Chính (2003), Đại cương triết học Trung Quốc cổ đại, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

7. Doãn Chính (2005), “Quan điểm về thế giới và con người trong triết học

Khổng Tử”, Tạp chí Triết học, (Số 11/2005), tr.40-46.

8. Doãn Chính, Trương Văn Chung, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Tình (2003),

Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

9. Trịnh Doãn Chính (2005), Triết lý phương Đông giá trị và bài học lịch

sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Doãn Chính (2009), Từ điển triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

11. Ngô Vi Chính (2005), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

12. Phạm Tất Dong (2010), Giáo dục Việt Nam 1945 – 2010, Nxb Giáo

dục Việt Nam, Hà Nội.

68

13. Phùng Thiên Du (1975), Phê phán tư tưởng giáo dục của Khổng Khâu,

Nhân dân xb Bắc Kinh, Phan Văn Các và Trương Bích dịch, Tư liệu Viện

Triết học, ký hiệu: TL 635.

14. Đặng Xuân Dương (2011), “Phương pháp giáo dục của Khổng Tử và

ảnh hưởng của nói tới việc dạy và học Nho giáo ở Việt Nam thời Lý –

Trần”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, (Số 4/2011), tr.55-57.

15. Vu Đan (2012), Khổng Tử tinh hoa, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

16. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đỗ Long Giang dịch (2007), “Triết lý giáo dục của Khổng Tử”, Tạp chí

Khoa học Giáo dục, (Số 22/2007), tr.62-63.

19. Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học – cơ sở lý luận góp phần đúc kết,

xây dựng giá trị chung của con người Việt Nam hiện nay, Nxb Dân trí.

20. Phạm Minh Hạc (2013), Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

21. Nguyễn Văn Hòa (2009), “Phát triển giáo dục và đào tạo – một động

lực để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (Số

4/2009), tr.3-9.

22. Đoàn Trọng Huy (2012), “Triết lý Hồ Chí Minh về giáo dục”, Tạp chí

Triết học, (Số 7/2007), tr.17-23.

23. Vũ Thị Thu Huyền (2010), “Những giá trị tư tưởng giáo dục Khổng Tử

với giáo dục Việt Nam”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, (Số 7/2010), tr.56-

58.

69

24. Trần Thị Lan Hương, Triệu Quang Minh (2009), “Một số nội dung cơ

bản của phạm trù “Hiếu” trong Nho giáo sơ kỳ”, Tạp chí Triết học, (Số

7/2009), tr.66-71.

25. Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân (dịch và chú giải),

Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà nội.

26. http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/thuc-hien-chinh-sach-pho-cap-giao- duc-xoa-mu-chu-thanh-cong-va-thach-thuc-10133.html, , truy cập ngày 15/05/2020, ngày đăng Thứ tư, 18/10/2017 27. Phạm Văn Khoái (2004), Khổng Phu Tử và Luận ngữ, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

28. Vũ Khiêu (1991), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

30. Vũ Khiêu (2009), “Về giá trị đương đại của Nho giáo Việt Nam”, Tạp

chí Triết học, (Số 8/2009), tr.37-40.

31. Trần Trọng Kim (1992), Nho giáo: Đại cương triết học Trung Quốc cổ

đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

32. Trần Trọng Kim (2012), Nho giáo, Nxb Thời đại, Hà Nội.

33. Phùng Hữu Lan (1966), Nguyễn Hữu Ái (dịch), Trung Quốc triết học

sử, Nxb Khai trí, Sài Gòn.

34. Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung Quốc, tập 1, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

35. Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung Quốc, tập 2, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

36. Nguyễn Hiến Lê (1992), Nhà giáo họ Khổng, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh.

70

37. Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội.

38. Nguyễn Hiến Lê (2006), Khổng Tử , Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

39. Luật Giáo dục (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) (2012), Nxb Lao

động, Hà Nội.

40. Luật giáo dục ( Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2019)

https://luatvietnam.vn/giao-duc/luat-giao-duc-2019-175003-d1.html

41. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2009), Quan niệm của Nho giáo về con người,

về giáo dục và đào tạo con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Tạ Quang Phát, (1992), Kinh Thi, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội

43. Nguyễn Thị Hoa Phượng(2016), Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và ý

nghĩa của nó đối với đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ

Triết học, Viện hàn Lâm, Viện khoa học xã hội Việt Nam.

44. Nguyễn Minh Tường (2012), Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt

Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

45. Đoàn Trung Còn dịch (1996), Luận ngữ, Nxb Thuận Hóa, Huế.

46. Đoàn Trung Còn dịch (1996), Tứ thơ Đại học Trung dung, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

47. Đoàn Trung Còn dịch (2011), Tứ thư, Nxb Thuận Hóa, Huế.

71