TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 477 - th¸ng 4 - 1 - 2019
39
ngoại trú tại BVBM”. Tạp chí y học Việt nam (213)
- số 2 /2011.
4. Word Helth organization. Definition and
diagnosis of diabetes mellitus and intermediate
hyperglycaemia. Report of a WHO/IDF consultation
2006;1-4
5. Thomson FJ; Masson E.A. Bouton A.J (1993),
the clinical diagnosis of sensory neuropathy in elderly
people Diabet- Med, 1/1993,10(9), p.843-846.
6. Boulton AJM, Gries FA, Jervell JA (1998),
“Guide-lines for the diagnosis and outpatient
management diabetic peripheral neuropathy”.
Diabet Med15:508 514
7. Martin CL, Albers J, herman WH(2006),
“Neuropathy among the diabetes control and
complications trial cohort 8 years after trial
completion”. Diabetes care 29(2).p34
8. Solomon Tesfaye MD, FRCP (2007), "Clinical
management diabetic neuropathy. Chapt 14:
Clinical fearture of diabetic polyneuropathy".
Humana press.
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH
TÂM THẦN PHÂN LIỆT CỦA THÂN NHÂN NGƯỜI BỆNH
TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN NAM ĐỊNH
Nguyễn Thị Lý1, Đinh Thị Yến2, Hoàng Thị Vân Lan1,
Nguyễn Thị Dung1, Phạm Thị Hoàng Yến1
TÓM TẮT11
Mc tiêu: tả thực trạng kiến thức chăm sóc
người bệnh tâm thần phân liệt của thân nhân người
bệnh tại Bệnh viện Tâm thần Nam Định. Đối ng
và phương pháp nghiên cứu: t ct ngang trên
85 thân nhân chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt
đang nằm điều trị nội trú tại bệnh viện tâm thần Nam
Định từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2013. Kết qu:
Điểm trung bình kiến thức của người nhà người bệnh
là 44,87/60. Trong đó: Có 63,5% người nhà cho bệnh
tâm thần do yếu tố di truyền, 24,7% người nhà cho
rằng bệnh tâm thần do ma quỷ, thần thánh làm;
49,4% không biết người bệnh không hoặc ít tiếp xúc
triệu chứng của bệnh; 23,5% đưa người bệnh đi
cúng bái hoặc mời thầy cúng bệnh để điều trị bệnh;
41,2% thân nhân người bệnh không biết phải đưa
người bệnh tái khám khi có biểu hiện thường thu mình
lại rất trầm lặng; 30,6% thân nhân không cho
người bệnh uống thuốc theo hướng dẫn thầy thuốc;
34,1% thân nhân cho rằng tất cả công việc người
bệnh làm đều thể đem lại thu nhập cho gia đình.
Kết luận: Kiến thức chăm sóc người bệnh tâm thần
phân liệt của người nhà còn hạn chế.
Từ khóa:
tâm thần phân liệt, kiến thức chăm sóc
người bệnh.
SUMMARY
THE CAREGIVERS STATUS OF KNOWLEDGE
ABOUT CARING FOR SCHIZOPHRENIC PATIENTS
AT NAM DINH MENTAL HOSPITAL
Objectives: Describe the caregivers’ status of
knowledge about caring for schizophrenic patients at
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
2Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Lý
Email: nguyenlydd@gmail.com
Ngày nhận bài: 12.2.2019
Ngày phản biện khoa học: 25.3.2019
Ngày duyệt bài: 19.3.2019
Nam Dinh Mental Hospital. Subjects and research
methods: A cross-sectional survey with 85 caregivers
of schizophrenic inpatients at Nam Dinh mental
hospital from June to September 2013. Result: The
average score of knowledge about caring of patients'
caregivers was 44.87/60. In which: 63.5% of
caregivers believed that mental illnesses due to
genetic factors, 24.7% of them thought that this
disorders are caused by demons, gods; 49.4% of
them did not know that patients with little or no
contact is a symptom of the disease; 23.5% of
caregivers worshiped or invited shamans to treat the
diseases; 41.2% caregivers did not know that it is
necessary for the patients to be re-examined
whenever they are not willing to communicate; 30.6%
of them did not help patients to take medicine
following the doctors' instructions; 34.1% of
caregivers believe that all work done by the patients
can earn income for their family.
Conclusion: There is a limit on the knowledge about
caring for schizophrenic patients of their caregivers
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tâm thần phân liệt (TTPL) một bệnh loạn
thần nặng, căn nguyên chưa rõ, khuynh
hướng tiến triển mạn tính, hay tái phát. Theo
thống của Tổ chức Y tế, tỷ lệ bệnh chiếm
khoảng 0,3-1,5% n số và tỷ lệ này khác nhau
những quốc gia khác nhau [4]. Việt Nam
theo kết quả khảo sát của ngành Tâm thần học
Việt Nam năm 2005 tỷ lệ mắc bệnh TTPL
0,47% dân số [5].
Vai trò của gia đình đối với NBTTPL rất quan
trọng. Chính các thành viên trong gia đình phải
những người kiến thức bản về bệnh
TTPL chăm sóc NBTTPL. Thuốc được quản
tại gia đình thân nhân NB cho NB uống thuốc
hàng ngày. Trong gia đình, thân nhân NB phải
xác định việc CSNBTTPL không chỉ thuốc
cần được chăm sóc toàn diện, phát hiện sớm
vietnam medical journal n01 - APRIL - 2019
40
những dấu hiệu bất thường để thông báo cho
cán bộ y tế, nhờ đó kịp thời ngăn ngừa tái phát
hoặc diễn biến những cơn bùng phát cấp tính.
Điều trị bệnh TTPL ngày nay chủ yếu dựa
vào cộng đồng, người bệnh phải được tái khám
định kỳ và dùng thuốc duy trì theo hướng dẫn
của thầy thuốc. Một trong những nguyên tắc
quan trọng trong việc điều trị bệnh TTPL tại cộng
đồng khuyến khích hướng dẫn thân nhân
chăm sóc người bệnh ch động tham gia vào
quá trình điều trị bệnh cùng người bệnh, nhằm
giảm tái phát, cải thiện các mặt chức năng m
hội của người bệnh giảm gánh nặng gia
đình [1]. Thực tế, nhiều gia đình người mắc
bệnh TTPL những hiểu biết không đúng dẫn
tới thái độ hành vi chăm sóc không phợp.
vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Thực trạng kiến thức chăm sóc người bệnh
Tâm thần phân liệt của thân nhân của người
bệnh tại bệnh viện Tâm thần Nam Định”
với
mục tiêu
:
tả thực trạng kiến thức chăm sóc
người bệnh tâm thần phân liệt của thân nhân
người bệnh tại Bệnh viện Tâm thần Nam Định.
II. ĐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Thân nhân
chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt đang
nằm điều trị nội trú tại bệnh viện tâm thần Nam
Định từ 6 đến tháng 9 năm 2013.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu
tả cắt ngang
2.3. Mẫu phương pháp chọn mẫu:
Chọn mẫu toàn bộ 85 thân nhân chăm sóc người
bệnh TTPL đang được điều trị tại Bệnh viện
TTNĐ trong thời gian thu thập số liệu nghiên cứu
từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2013.
2.4. Công cụ phương pháp thu thập
số liệu
Công cụ:
Gồm 6 phần: Kiến thức thân nhân
về một số yếu tố thể gây bệnh, Kiến thức
thân nhân về một số triệu chứng bệnh tâm thần
phân liệt, Kiến thức x trí của thân nhân khi
người bệnh biểu hiện bệnh, Kiến thức của
thân nhân về chế độ i khám cho người bệnh,
Kiến thức của thân nhân về thuốc việc sử
dụng thuốc m thần, Kiến thức chăm sóc của
thân nhân về chế độ ăn uống, vệ sinh, vận động.
Phương pháp thu thập số liệu:
Phỏng vấn
trực tiếp thân nhân người bệnh.
2.5. Xử lý và phân ch số liệu: Các kết quả
thng kê được xử trên phần mm SPSS.16.0.
III. KẾT QUẢ, BÀN LUẬN
1.Thực trạng kiến thức chăm sóc của thân nhân người bệnh
Bảng 1. Kiến thức thân nhân về một số yếu tố có thể gây bệnh (n=85)
Kiến thức người nhà về
một số yếu tố có th
gây bệnh
Đ
S
n
%
n
%
Do yếu tố di truyền
31
36,5
54
63,5
Do cuộc sống căng thẳng
58
68,2
27
31,8
Do rối loạn hoạt động não
51
60,0
34
40,8
Do ma quỷ thần thánh làm
64
75,3
21
24,7
Nhận xét:
Tỉ lthân nhân người bệnh trả lời sai về yếu tố gây bệnh vẫn còn cao,trong đó yếu t
di truyền đạt tỷ lệ cao nhât 63,5%.
Bảng 2. Kiến thức thân nhân về một số triệu chứng bệnh tâm thần phân liệt (n=85)
Kiến thức
thân nhân về
triệu chứng bệnh Tâm thần
phân liệt
S
n
%
n
%
NB không hoặc ít tiếp xúc
42
50,6
42
49,4
NB hay tưởng tượng ra những điều không có thật (hoang
tưởng)
68
80,0
17
20,0
NB cảm nhận như có thật sự việc không có thực (ảo giác)
67
78,8
18
21,2
Hành vi kì dị khó hiểu
55
64,7
30
35,3
Nhận xét:
Tỷ lệ thân nhân người bệnh không biết bệnh có một số triệu chứng tương đối cao, nổi
bật là triệu chứng không hoặc ít tiếp xúc, tỷ lệ người nhà không biết 49,4%.
Bảng 3. Kiến thức thân nhân về chế độ tái khám cho người bệnh (n=85)
Kiến thức thân nhân về chế độ
cần tái khám khi
có biểu hiện
Đ
S
n
%
n
%
Người bệnh thường thu mình lại và rất trầm lặng
50
58,8
35
41,2
Người bệnh trở nên hiếu động và nói luôn miệng.
63
74,1
22
25,9
Người bệnh trở nên sợ hãi, kích động.
78
91,8
7
8,2
NB huỷ hoại bản thân
64
75,3
21
24,7
NB tấn công người khác
64
75,3
21
24,7
TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 477 - th¸ng 4 - 1 - 2019
41
Nhận xét:
41,2% thân nhân người bệnh có kiến thức không đúng về việc cho người bệnh đi
tái khám khi có biểu hiện thu mình lại và rất trầm lặng.
Bảng 4. Kiến thức thân nhân về thuốc và việc sử dụng thuốc tâm thần (n=85)
Kiến thức thân nhân về thuốc điều trị và sử dụng thuốc
cho người bệnh
Đ
S
n
%
n
%
Thuốc tâm thần rất độc bệnh ổn định thì không cần dùng nữa
82
96,5
3
3,5
Là thuốc ngủ người bệnh đã ngủ được thì không cần cho dùng nữa
79
92,9
6
7,1
Là thuốc điều trị bệnh
76
89,4
9
10,6
Gia đình cho người bệnh uống thuốc theo hướng dẫn.
59
69,4
26
30,6
Gia đình tự chỉnh thuốc khi thấy bệnh ổn định
83
97,6
2
2,4
Ông bà đưa thuốc cho người bệnh tự uống
65
76,5
20
23,5
Người bệnh tự uống thuốc.
81
95,3
4
4,7
Nhận xét:
Tỷ lệ thân nhân nhận thức đúng về thuốc tâm thần việc sử dụng thuốc đúng
cho NB 89,4% và sử dụng thuốc đúng chỉ dẫn chiếm 69,4%. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Minh Hải, tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai về việc đánh giá kiến thức của gia
đình khi chăm sóc NB TTPL Kết qucho thấy cho thấy tới 10,2% số gia đình cho rằng điều trị
bệnh TTPL chỉ cần uống thuốc một thời gian khi bị bệnh[3].
Bảng 5. Kiến thc chăm c của thân nhân v chế độ ăn uống, v sinh, vận đng (n=85)
Kiến thức thân nhân về chăm sóc ăn uống, vệ sinh, vận
động của người bệnh
Đ
S
n
%
n
%
Cho người bệnh ăn riêng
74
87,1
11
12,9
Hạn chế sử dụng chất kích thích
73
85,9
12
14,1
Cho người bệnh ăn trước khi uống thuốc
71
83,5
14
16,5
Hướng dẫn, nhắc nhở và để người bệnh tự làm
77
90,6
8
9,4
Công việc phù hợp như việc nhà: Quét nhà, nấu cơm, rửa bát...
76
89,4
9
10,6
Công việc nhẹ nhàng có thu nhập
72
84,7
13
15,3
Tất cả công việc có thể đem lại thu nhập cho gia đình
56
65,9
29
34,1
Không cho người bệnh làm bất cứ công việc gì
72
84,7
13
15,3
Nhận xét
: Kiến thức thân nhân
về việc hướng dẫn người bệnh vệ sinh và làm công việc nhà tỷ lệ
trả lời đúng chiếm tỉ lệ cao nhất 90,6%. vẫn 34,1% cho rằng người bệnh thể làm tất cả
công việc đem lại thu nhập cho gia đình, điều này chưa đúng vì lao động không hợp lý sẽ làm khả
năng tái phát bệnh cao hơn.
IV. BÀN LUẬN
1. Kiến thức của thân nhân về các yếu tố gây
bệnh, các triệu chứng của bệnh tâm thần phân
liệt. Tlệ nhận thức đúng về các yếu tố thể
gây bệnh trong đó nhận thức không đúng cho
rằng do ma quỷ thần thánh gây bệnh chiếm tới
21%. Điều này làm người bệnh không được điều
trị đúng và kịp thời đồng thời làm tăng chi phí
thời gian chữa bệnh cho người bệnh.
Tlệ thân nhân người bệnh biết bệnh một
số triệu chứng cao nhất đạt 80% thấp nhất
đạt 50,6%. Kết quả này có sự tương đồng so với
nghiên cứu của Đinh Quốc Khánh CS với tỷ lệ
NCSC biết các dấu hiệu bệnh TTPL như: hay nghi
kỵ; Nghe thấy tiếng nói bất thường; giảm hiệu
suất học tập, làm việc; ngại giao tiếp, ý nghĩ
bất thường... Phần lớn NCSC chỉ nêu ra được
một số dấu hiệu như: dễ cáu gắt/giận dữ (78%),
ngôn ngữ rời rạc, khó hiểu (57%), rối loạn giấc
ngủ (50%).
2. 41,2% thân nhân người bệnh kiến
thức không đúng về việc cho người bệnh đi tái
khám khi biểu hiện thu mình lại rất trầm
lặng. Khi NB biểu hiện thu mình lại rất
trầm lặng thì nên đưa NB đến cơ sở y tế khám
đây là triệu chứng của bệnh.
3. Nhận thức của thân nhân về thuốc tâm
thần và sử dụng thuốc cho người bệnh.
Tỷ lệ thân nhân nhận thức đúng về thuốc
tâm thần việc sử dụng thuốc đúng cho người
bệnh 89,4% và sử dụng thuốc đúng chỉ dẫn
chiếm 69,4%. Như vậy 10,6% nhận thức
không đúng về thuốc tâm thần cho rằng thuốc
tâm thần thuốc độc hoặc thuốc. Kết quả này
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Minh Hải, tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai
về việc đánh giá kiến thức của gia đình khi chăm
sóc NB TTPL Kết quả cho thấy cho thấy tới
10,2% số gia đình cho rằng điều trị bệnh TTPL
chỉ cần uống thuốc một thười gian khi bị bệnh,
6,2% không biết câu trả lời. [3]. Như vậy có thể
thấy kiến thức chăm sóc NB TTPL về vấn đề nay
vẫn còn thấp.
Việc nhận thức sai về thuốc và cách sử dụng
thuốc điều trị củng cố đã dẫn tới tỷ lệ người
bệnh tái phát khi điều trị tại nhà khá cao. Việc
vietnam medical journal n01 - APRIL - 2019
42
nhận thức đúng về thuốc và sử dụng thuốc đúng
sẽ làm giảm tỷ lệ tái phát bệnh.
4. Nhận thức của thân nhân về chế độ vệ
sinh, vận động tái hòa nhập cộng đồng.
Về chế đăn uống tỷ lệ thân nhân trả lời sai
cần cho người bệnh ăn riêng 12,9%. Tỷ lệ
trả lời đúng về việc cần cho người bệnh hạn chế
sdụng chất kích thích 85,9%. Về việc hướng
dẫn giúp người bệnh thể tự chăm sóc vệ
sinh nhận thức về việc cần cho người bệnh
làm việc nhà hợp tỷ lệ thân nhân hiểu đúng
lần lượt 90,6% 89,4%. Bên cạnh đó số
thân nhân cho rằng cần cho người bệnh m tất
cả các công việc thể đem lại được thu nhập
trước là 65,9% điều này thể hiện kiến thức về vế
độ vận động, lao động hợp khi người bệnh
sống tại cộng đồng của thân nhân người bệnh
vẫn còn thấp, thế cần phải nhiều chương
trình chăm sóc phổ biến tuyên truyền kiến thức
tái hòa nhập cộng đồng, kiến thức cho người
bệnh lao động hợp lý… nhiều hơn nữa để thân
nhân người bệnh nâng cao nhận thức phối
hợp với thầy thuốc chăm sóc người bệnh một
cách tốt nhất nhằm làm giảm tỷ lệ tái phát, nâng
cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh
giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Tỷ lệ giúp NB vệ sinh cá nhân hàng ngày theo
NC của chúng tôi (9,4%) thấp hơn so với nghiên
cứu của Hồ Xuân năm 2001 tại xã Phú Lâm- Tiên
Du- Bắc Ninh (67% so với 74,5%) [7]. So sánh
với nghiên cứu của Hồ Xuân năm 2001 tại
Phú Lâm- Tiên Du- Bắc Ninh thì tỷ lệ giúp NB
hòa nhập cộng đồng như tham gia lao động của
NC chúng tôi cao hơn (84,7% so với 47,1%).
Qua kết quả NC định tính cho thấy CSNBTTPL
hết sức vất vả, nhiều việc phải m khi chăm sóc
hoạt động này của thân nhân vẫn mang tính
chất “kinh nghiệm”. Dựa vào các phát hiện của
NC, chúng tôi cho rằng các hoạt động hỗ trợ cần
được chú trọng hơn nữa để giúp NBTTPL hòa
nhập cộng đồng, tham gia sinh hoạt xã hội
V. KẾT LUẬN
Về yếu tố gây bệnh:
Kiến thức của thân nhân
về vấn đề này tương đối thấp: 21% thân
nhân cho rằng bệnh do ma quỷ thần thánh
làm. Kiến thức thân nhân về các triệu chứng của
bệnh cách chăm c các triệu chứng. Trong
đó tỷ lệ thân nhân cho rằng cần đưa người bệnh
đi cúng hoặc mời thầy cúng tỷ lệ là 23,5%.
Kiến thức thân nhân về chế độ i khám cho
người bệnh: Tỷ lệ thân nhân trả lời sai khá cao,
trong đó cao nhất 41,2% với triệu chứng
người bệnh thu mình lại và rất trầm lặng.
Kiến thức thân nhân về thuốc và việc sử dụng
thuốc cho người bệnh, chế độ i khám: Tỷ lệ
thân nhân cho rằng thuốc tâm thần thuốc độc
thuốc ng chiếm tới 10,6%, chỉ 69,4%
thân nhân cho người bệnh uống thuốc đúng
hướng dẫn.
Kiến thức thân nhân về ăn uống, vệ sinh, vận
động, giao tiếp: tới 14,9% người nhà cho
rằng người bệnh không cần hạn chế sử dụng
chất kích thích; 9,4% thân nhân chưa hiểu
cần phải cho người bệnh tái hòa nhập cộng đồng
bằng cách hướng dẫn người bệnh để người
bệnh tự vệ sinh nhân khi người bệnh đã ổn
định; 89,4% tthân nhân đã để người bệnh tham
gia làm các công việc nhà công việc phù hợp.
Việc đánh giá thực trạng kiến thức thân nhân
của người bệnh tâm thần phân liệt đã giúp CBYT
biết cần giáo dục kiến thứccho người nhà để họ
chăm c tốt hơn cho người bệnh, sở cho
các nghiên cứu tiếp theo.
KIẾN NGHỊ
Qtrình điều trị ngoài việc điều trị cán bộ y
tế cần tổ chức các buổi giáo dục sức khỏe,
vấn tuyền truyền kiến thức chăm sóc cho người
bệnh thân nhân chăm sóc người bệnh nhiều
hơn nữa để nâng cao kiến thức tchăm sóc của
người bệnh kiến thức chăm c của thân
nhân chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt
góp phần làm bệnh nhanh ổn định, giảm tỷ lệ tái
phát nâng cao chất lượng cuộc sống cho người
bệnh đồng thời làm giảm gánh nặng cho gia đình
và xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bệnh viện Tâm thần trung ương, (2003), “Mô
hình chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng”.
2. Bùi Quang Huy, 2011,Tâm thần phân liệt. Truy
cập từ: http://www.baomoi.com/Tam-than-phan-
liet/82/6912684.epi.
3. Nguyễn Minh Hải (2007), Đánh giá tình hình
quản lý điều trị người bệnh tâm thần phân liệt dựa
vào cộng đồng tại thị trấn Vĩnh An, Vĩnh Cửu, tỉnh
Đồng Nai năm 2007.
4. Phạm Gia Khánh (2007), "Tâm thần phân liệt",
Tâm thần học Tâm học y học, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội .tr 113-124.
5. Phạm Gia Khánh (2005), "Tâm thần phân liệt",
Bệnh học Tâm thần, Nhà xuất bản quân đội nhân
dân, Tr 177-214.
6. HXuân, (2001), Thực trạng kiến thức về chăm
sóc, điều trị của bệnh nhân tâm thần phân liệt
đang điều trị tại xã Phú Lâm- Tiên Du- Bắc Ninh.
7. ShitiJ(2004), Dopamin, Dopaminergic and
glutamatergic influences in the systems biology of
Schizophenia, Dopamine in the pathophysyology
and treatment of Schizophrenia, Centre for
addiction and Metal Healt Toronto, canada, P.211.
8. World Health organizatione (2000),
"Schizophrenia: General information" Management
of metal disorders.P.316-326.