BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG

BÙI HỮU TOÀN

THỰC TRANG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC, THỰC HÀNH RỬA TAY BẰNG XÀ PHÒNG CỦA CÁC BÀ MẸ NGƯỜI MÔNG ĐANG NUÔI CON DƯỚI 5 TUỔI TỈNH SƠN LA VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP

CHUYÊN NGÀNH

: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức Y tế

MÃ SỐ

: 62 72 01 64

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC

HÀ NỘI – 2018

CÔNG TRÌNH NÀY ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG

Hƣớng dẫn khoa học:

PGS.TS. Nguyễn Huy Nga GS.TS. Phùng Đắc Cam

Phản biện 1: ...................................

Phản biện 2: ...................................

Phản biện 3: ..................................

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án Tiến sỹ cấp Viện tại

Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.

Vào hồi……….ngày………tháng……..năm 2018

Có thể tìm luận án tại:

- Thư viện quốc gia

- Thư viện Viện vệ sinh Dịch tễ Trung ương

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Bùi Hữu Toàn, Nguyễn Huy Nga, Phùng Đắc Cam, Nguyễn Thị Liên

Hƣơng, Lƣơng Mai Anh. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và

thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ Mông đang nuôi con

dưới 5 tuổi, tỉnh Sơn la năm 2014. Tạp chí Y học Dự phòng. 2017. tâp 27,

số 3 tr.128-134.

2. Bùi Hữu Toàn, Nguyễn Huy Nga, Phùng Đắc Cam, Nguyễn Thị Liên

Hƣơng, Lƣơng Mai Anh. Đánh giá kết quả truyền thông-giáo dục sức

khỏe nâng cao kiến thức và thực hành rửa tay bằng xà phòng cho các bà

me người Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi tại tỉnh Sơn La năm 2016. Tạp

chí Y học Dự phòng. 2017. tâp 27, số 3 tr.135-140.

1

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

: Rửa tay bằng xà phòng : Trung học cơ sở

CSHQ DTTS ĐTNC : Chỉ số hiệu quả : Dân tộc thiểu số : Đối tượng nghiên cứu RTBXP THCS TTGDSK : Truyền thông- Giáo dục

HQCT : Hiệu quả can thiệp UNICEF

VSMT sức khỏe : Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc : Vệ sinh môi trường

NS&VSMT : Nước sạch và vệ sinh môi trường : Quản lý môi trường y tế WHO : Tổ chức Y tế thế giới

QLMTYT

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo báo cáo của Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), hàng năm vẫn còn có khoảng 1,9 triệu trẻ em dưới 5 tuổi ở các quốc gia nghèo chết do tiêu chảy. Thống kê các bệnh truyền nhiễm của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế cho thấy khoảng một nửa các bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất là những bệnh có liên quan tới nước sạch, vệ sinh môi trường và các hành vi vệ sinh cá nhân trong đó hành vi rửa tay.

Rửa tay bằng xà phòng (RTBXP) được coi là cách phòng bệnh có chi phí thấp nhất nhưng lại mang lại hiệu quả phòng các bệnh tiêu chảy, giun sán, nhiễm khuẩn hô hấp cao hơn so với các biện pháp khác trong các chương trình can thiệp về nước sạch và vệ sinh môi trường (NS&VSMT). Thói quen rửa tay xà phòng trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện giúp loại bỏ mầm bệnh theo tay bẩn xâm nhiễm vào thức ăn, nước uống, vào cơ thể gây ra những bệnh tật nguy hiểm cho con người. Các nghiên cứu của Cục Y tế dự phòng (YTDP), Cục Quản lý môi trường y tế (QLMTYT) cho thấy tỷ lệ người rửa tay trước khi ăn và và sau khi đi vệ sinh còn thấp trong dân, đặc biệt trong nhóm các dân tộc ít người.

Dân tộc Mông được cho là nhóm cần được quan tâm đặc biệt do đang đối diện trước những nguy cơ rất lớn về lây nhiễm các bệnh nhiễm trùng: Tỷ lệ người Mông mù chữ rất cao (76,8%). Tỷ lệ người dân không được tiếp cận với các phương tiện truyền thông cao hơn các nhóm dân tộc khác.

Tỉ lệ không rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh của người Mông khá cao so với các nhóm dân tộc phía Bắc, nguyên nhân chủ yếu vẫn do thói quen và thiếu nước.

2

Sơn La là một tỉnh miền núi, là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc Mông. Cùng với các cộng đồng dân tộc khác, dân tộc Mông tại tỉnh Sơn La đang phải đối diện với các vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng với điều kiện sống khó khăn, thiếu nước sinh hoạt và tỷ lệ bệnh truyền nhiễm ngày càng gia tăng trong những năm gần đây và không có xu hướng thuyên giảm hoặc có thì chỉ giảm rất ít. Năm 2008 - 2010, Tiêu chảy là một trong 5 bệnh luôn có số ca mắc cao nhất. Dân tộc Mông là dân tộc có số dân đứng thứ 3 tại tỉnh Sơn La (147.516 người) và tỷ lệ mắc bệnh trên 100.000 dân luôn cao nhất so với các dân tộc khác trong tỉnh. Tỷ lệ này luôn cao hơn tỷ lệ chung toàn tỉnh ở tất cả các bệnh truyền nhiễm khác không riêng gì tiêu chảy. Với những lý do trên, đưa truyền thông - giáo dục sức khỏe (TTGDSK) nhằm cải thiện hiểu biết và thực hành rửa tay, rửa tay bằng xà phòng phù hợp cho dân tộc Mông, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ người Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi tỉnh Sơn La và hiệu quả can thiệp” với các mục tiêu:

1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Sơn La năm 2013 - 2014 .

2. Đánh giá hiệu quả can thiệp Truyền thông - Giáo dục sức khỏe đối với hành vi

rửa tay bằng xà phòng của đối tượng nghiên cứu năm 2014 - 2016.

NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VÀ Ý NGHĨA KHOA HỌC THỰC TIỄN

CỦA LUẬN ÁN

- Đánh giá hiệu quả can thiệp và cơ sở cho việc nhân rộng : Nghiên cứu đã đưa ra kênh TT-GDSK trực tiếp (thăm hộ gia đình và thảo luận nhóm) là hoạt động chính dựa vào lực lượng y tế thôn bản sẵn có của chương trình y tế nông thôn. Trong điều kiện nguồn kinh phí cho hoạt động RTBXP ở một địa phương với nhóm dân đặc biệt (phụ nữ Mông) còn chưa có ở huyện Vân Hồ thì đây là một điểm mới và mạnh của luận án. Sau thời gian can thiệp hơn 01 năm, hiệu quả của các can thiệp đã được đánh giá bằng các số liệu thống kê y tế có độ tin cậy, là cơ sở cho việc nhân rộng ra những khu vực khác có điều kiện tự nhiên –xã hội tương tự.

3

- Xây dựng nội dung hoạt động can thiệp cụ thể, có tính khả thi và bền vững: Nghiên cứu đã dựa trên đặc điểm thực tế của cộng đồng người Mông, nhu cầu từ cộng đồng và dựa trên việc lồng ghép vào nội dung hoạt động của Y tế thôn bản. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp các dữ liệu cơ bản làm bằng chứng khoa học xây dựng kế hoạch đưa hoạt động RTBXP vào cộng động dân tộc ít người.

- Cung cấp kiến thức RTBXP cho nhóm dân đặc biệt là phụ nữ Mông: Nghiên cứu đã xây hoạt động lồng ghép can thiệp hiệu quả phù hợp về nội dung và hình thức nhằm nâng cao kiến thức và thực hành RTBXP. Hiệu quả của nghiên cứu đã tạo ra môi trường thuận lợi cho nhóm dân đặc biệt một cách có kế hoạch và khoa học dựa trên việc tiếp tục duy trì hoạt động can thiệp bằng TT-GDSK trực tiếp bền vững ở địa phương

BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN

Nội dung chính của Luận án gồm 101 trang và được chia thành các phần: Đặt vấn đề (02 trang); Tổng quan tài liệu (25 trang); Phương pháp nghiên cứu (19 trang); Kết quả nghiên cứu (33 trang); Bàn luận (18 trang); Kết luận (02 trang); Khuyến nghị (01 trang). Luận án gồm 43 bảng, 7 hình (bản đồ, biểu đồ, sơ đồ) và có 118 tài liệu tham khảo (33 tài liệu tiếng Việt, 85 tài liệu tiếng Anh) cùng các phụ lục liên quan.

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN

Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế Việt Nam: Việc không rửa tay bằng xà phòng vào các thời điểm quan trọng như trước khi ăn, sau khi tiểu/đại tiện, trước khi cho con ăn và sau khi chăm sóc trẻ,… đang làm gia tăng các bệnh tiêu chảy, tả, lỵ, giun sán, đây là các bệnh rất phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong số các bệnh thường gặp ở các vùng nông thôn Việt Nam. Ở Việt Nam, hành vi RTBXP còn thấp. Theo kết quả điều tra vệ sinh môi trường tại 3 huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Phú Lộc thuộc Bắc Trung bộ năm 2005, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời thường xuyên rửa tay xà phòng rất thấp (dưới 2%), trong đó rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn là 1,7%, sau khi ăn là 1,8%. Kết quả điều tra vệ sinh môi trường (VSMT) tại 3 huyện Quản Bạ, Yên Minh, Chiêm Hóa thuộc khu vực miền núi phía Bắc năm 2005 cho thấy: hầu hết người dân ở các vùng miền núi này đều không có thói quen

4

RTBXP trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện. Chỉ có 0,2% đối tượng thường xuyên RTBXP trước khi ăn và 0,8% đối tượng RTBXP sau khi đại tiểu tiện. Một nghiên cứu khác cho thấy, tỷ lệ bà mẹ có RTBXP/chất tẩy rửa ở một số thời điểm quan trọng còn rất thấp: trước khi ăn là 15,3%, sau khi đi tiểu tiện là 4,7%, sau khi đi đại tiện là 25%, trước khi cho trẻ ăn là 13,2%, sau khi lau/rửa đít cho trẻ là 25% và sau khi dọn phân/đổ bô cho trẻ là 29,3%. Truyền thông - Giáo dục sức khỏe là một phương tiện hữu hiệu để thay đổi thói quen truyền thống như sử dụng màn và màn tẩm hóa chất xua diệt mu i phòng chống bệnh sốt rét, thói quen ăn gỏi cá của người dân trong các vùng lưu hành bệnh sán lá gan và thói quen sử dụng bao cao su trong việc phòng chống lây nhiễm qua đường tình dục như AIDS... là không thể thay đổi trong giai đoạn ngắn. Sự tuyên truyền giáo dục kiên trì và liên tục nhấn mạnh vào lợi ích việc nằm màn, của nấu chín cá nước ngọt được coi là biện pháp có hiệu quả để phòng, chống các bệnh này. Tỷ lệ không rửa tay xà phòng rất cao ở một số dân tộc thiểu số (DTTS) như Ba Na, Ra glai, Bru-Vân Kiều, Gia Rai, Mnông, Ê Đê. Nếu lấy tỷ lệ người rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, sau khi đi đại tiện và sau khi tiểu tiện của dân tộc Thái bằng 1, thì tỷ lệ đó ở nhóm Kinh-Hoa cao gấp từ 3-4 lần có ý nghĩa thống kê; một số dân tộc như Mường, Dao, Ba Na, Ê Đê, Ra glai đều kém hơn so với dân tộc Thái.

Các nghiên cứu về sức khỏe, dân tộc Mông tập trung chủ yếu vào các bệnh mang tính chất lưu hành địa phương như Bướu cổ, sốt rét. Các bệnh nhiễm trùng được Nghiên cứu có đề cập đến DTTS được triển khai trên bình diện rộng nhất hiện nay là nghiên cứu Điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) năm 2003 do Bộ Y tế, WHO, UNICEF tiến hành.

Các nghiên cứu cũng đã xác định được một rào cản lớn trong hoạt động truyền thông tại cộng đồng DTTS như: Hầu hết các DTTS đều có trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ cao và khả năng sử dụng tiếng phổ thông còn hạn chế, đặc biệt là nhóm nữ. Tỷ lệ đối tượng không tiếp cận được với các phương tiện truyền thông đại chúng rất cao.

Các nghiên cứu về TTGDSK trong phòng chống bệnh truyền nhiễm cũng được đề cập trong nghiên cứu của Nguyễn Huy Nga, Trịnh Hữu Vách nhưng chỉ đề cập ít đến người Mông. Chưa có nghiên cứu sâu về người Mông và vấn đề sức khỏe.

5

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu.

- Phụ nữ người dân tộc Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi.

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được triển khai tại 3 xã của huyện Mai Sơn là Chiềng Sung, Chiềng Chăn, Cò Nòi và 3 xã của huyện Vân Hồ là Vân Hồ, Loóng Luông và Chiềng Xuân của tỉnh Sơn La. 2.1.3.Thời gian nghiên cứu

Thời gian triển khai nghiên cứu từ tháng 9/2013 đến tháng 12/2016

2.2. Thiết kế nghiên cứu

Đề tài có 2 thiết kế riêng biệt phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu trước can thiệp (thiết kế mô tả cắt ngang có phân tích) và nghiên cứu can thiệp cộng đồng đánh giá trước sau, có đối chứng. 2.3. Chọn mẫu và cỡ mẫu trong điều tra cắt ngang.

Trong đó: n: là mẫu tối thiếu của điều tra P: là tỉ lệ ước tính kiến thức rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ người

dân tộc ít người là 13 %

Z1- α/2: giá trị tương ứng CI = 95% là 1,96 d: Độ chính xác tuyệt đối mong muốn, trong nghiên cứu này d = 0,03 Với các tham số nêu trên, nghiên cứu tối thiểu cần một c mẫu là: n =

482. Đề phòng mất mẫu số bà mẹ cần cho nghiên cứu là 500. Cách chọn mẫu

Chọn chủ đích 6 xã là Vân Hồ, Loóng Luông, Chiềng Xuân (huyện Vân Hồ) và Chiềng Chăn, Chiềng Sung, Cò Nòi (huyện Mai Sơn), các xã chọn có từ 4 bản Mông trở lên, m i xã chọn điều tra 4 bản Mông tổng số bản chọn điều tra là 24 bản. 2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu trong nghiên cứu can thiệp.

Chọn chủ đích 12 bản Mông đã được chọn trong nghiên cứu nền thuộc 3 xã

Chiềng Xuân, Loóng Luông và Vân Hồ của huyện Vân Hồ vào nhóm can thiệp .

6

2.5. Các khái niệm, thƣớc đo, tiêu chuẩn đánh giá

- Tỉ lệ hộ có nguồn nước sử dụng và tính sẵn có nguồn nước rửa tay; - Tỉ lệ hộ có xà phòng và tính sẵn có; - Tỉ lệ % bà mẹ hiểu biết về RTBXP; - Tỉ lệ bệnh đường hô hấp hàng năm trên 1000 trẻ.

2.6. Xây dựng nội dung và hình thức can thiệp. 2.6.1. Xác định các vấn đề cần can thiệp

Các hoạt động can thiệp vào cộng đồng đích. Các nội dung của mô hình can thiệp được xây dựng nhằm khắc phục các rào cản trong hoạt động truyền thông tại cộng đồng DTTS đã được xác định.

Phương pháp can thiệp: Sử dụng phương pháp và tài liệu truyền thông

cộng đồng đích.

Tài liệu truyền thông được sử dụng trong hoạt động can thiệp tại cộng

đồng là các đĩa VCD, tờ rơi, áp phích được in bằng 2 thứ tiếng

- Tờ rơi được in bằng 2 thứ tiếng thông qua các buổi truyền thông trực

tiếp hoặc qua các buổi họp nhóm.

Nội dung tài liệu truyền thông phù hợp với đặc điểm phong tục tập quán

Các hoạt động truyền thông can thiệp tại cộng đồng dự kiến được tổ chức

địa phương. 2.6.2. Chương trình can thiệp tại cộng đồng. trong vòng 1 năm, từ tháng 9/2014 đến tháng 9/2015. 2.7. Chỉ số đánh giá kết quả can thiệp 2.7.1. Chỉ số về các hoạt động can thiệp đã thực hiện

- Số cán bộ được tập huấn về kỹ năng truyền thông, Số già làng, trưởng

bản, các bà mẹ Mông tham gia Hội nghị truyền thông. - Số lượng tài liệu truyền thông được phân phối.

2.7.2. Đánh giá hiệu quả về nâng cao kiến thức và thực hành của các bà mẹ ngƣời Mông.

Nghiên cứu cũng đánh giá kết quả của biện pháp can thiệp thông qua so sánh tỷ lệ người dân Mông đạt điểm kiến thức và thực hành rửa tay và RTBXP trước và sau can thiệp bằng sử dụng chỉ số hiệu quả (CSHQ) và hiệu quả can thiệp (HQCT) được tính như sau.

7

|Tỷ lệ sau CT- Tỷ lệ trước CT| Chỉ số hiệu quả (%) = 100 x Tỷ lệ trước CT

Hiệu quả can thiệp (%) giữa 2 nhóm của m i một giải pháp can thiệp sẽ

là hiệu của các chỉ số tính toán như sau:

HQCT = (CSHQ nhómCT - CSHQ nhóm ĐC.)

2.8. Vật liệu và kỹ thuật nghiên cứu 2.8.1. Công cụ thu thập số liệu

- Phiếu QXP1: Dùng để thu thập các thông tin liên quan đến rửa tay bằng

xà phòng của bà mẹ nuôi con dưới 5 tuổi tại hộ gia đình (phụ lục 1)

- Phiếu QXP2: Dùng thu thập các thông tin về thực hành chăm sóc trẻ

dưới 5 tuổi của các bà mẹ/người chăm sóc chính (Phụ lục 2)

- Phiếu QXP3: Dùng thu thập thông tin về tình hình dịch bệnh tại xã

nghiên cứu

Định tính: Bao gồm các bản hướng dẫn thảo luận nhóm được chuẩn bị

sẵn để thảo luận các nhóm ĐTNC (Phiếu QXP4) (phụ lục 3) Mẫu gợi ý trong điều tra chuyên sâu (Phiếu QXP5)

2.9. Quản lý, phân tích, sử dụng số liệu 2.9.1. Nhập số liệu

- Số liệu thu thập được nghiên cứu sinh rà soát và được hai người độc

- Số liệu do nghiên cứu sinh quản lý và phân tích với phần mềm SPSS 16.0; - Các phương pháp phân tích thống kê mô tả và phân tích được sử dụng; - Số liệu của hai lần thực hiên phỏng vấn trước và sau can thiệp được so

lập, nhập số liệu hai lần riêng rẽ dựa vào phần mềm Epidata 3.1. 2.9.2. Kế hoạch làm sạch số liệu 2.9.3. Phân tích số liệu sánh với nhau để đánh giá hiệu quả của can thiệp. 2.10. Đạo đức trong nghiên cứu

Nghiên cứu tuân thủ quy định đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đã được Hội đồng đạo đức của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương phê duyệt số 023/2010/YTCC-HD3 ngày 24/5/2010.

8

2.11. Hạn chế của nghiên cứu, sai số và biện pháp khắc phục Để khắc phục tối đa sai số thông tin, cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) của điều tra viên (ĐTV) sẽ được đặc biệt chú ý. Nghiên cứu sẽ chọn những ĐTV là người hiểu rõ phong tục tập quán của người Mông, có kinh nghiệm giao tiếp với người Mông. Sử dụng một phiên dịch là người Mông và là cán bộ y tế của bản biết thành thạo tiếng Kinh.

CHƢƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thực trạng kiến thức và thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ Mông đang nuôi con dƣới 5 tuổi. 3.1.1. Đặc điểm về dân số học về đối tượng nghiên cứu Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi và trình độ học vấn.

Đặc điểm So sánh (p) Cộng chung n=508

>0,05 Nhóm tuổi Dưới 26 tuổi Từ 26-35 Trên 35 Vân Hồ Nhóm can thiệp (%) n=254 23,0 64,3 12,7 Mai Sơn Nhóm chứng (%) n=254 27,0 54,3 18,7 25 59,3 15,7

Chỉ biết đọc, viết 28,1 32,3 30,3

Tiểu học 48,3 41,4 44,3 >0,05

Trình độ học vấn Từ THCS trở lên 23,6 26,3 25,4

Bảng 3.1 cho biết các phần lớn bà mẹ người Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi có độ tuổi ≤ 36 (84,3%), trong đó độ tuổi từ 26 đến 35 chiếm gần 2/3 (59,3%), 15,7% các bà mẹ có độ tuổi trên 35.Có đến 1/3 bà mẹ không biết chữ hoặc chỉ mới biết đọc biết viết ở tất cả các xã (30,3%). Các bà mẹ Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi có trình độ tiểu học là 44,3% và trung học cơ sở (25,4%), có rất ít bà mẹ có học vấn trung học (3,4%).

9

Bảng 3.2. Phân bố tỉ lệ (%) theo nghề nghiệp và thu nhập của các bà mẹ người Mông

Đặc điểm Vân Hồ n=254 Mai Sơn n=254 Cộng chung

So sánh (p) >0,05 >0,05 16,3 64,3 17,0 49,7 16,7 57,0

Thu nhập/tháng 19,4 33,3 26,3 >0,05

82,0 84,3 83,1 <0,05

Nghề nghiệp 18,0 13,7 16,9 >0,05 Tỉ lệ hộ Nghèo (%) Tỉ lệ hộ Cận nghèo (%) Tỉ lệ hộ trung bình và khá (%) Tỉ lệ Nông dân (%) Tỉ lệ Công chức, viên chức (%)

Bảng 3.2. Cho biết các bà mẹ được điều tra làm nông nghiệp là chủ yếu (83,1%). Dựa theo chuẩn nghèo của Việt Nam 2012 có 73,7% số bà mẹ đang sống trong các hộ gia đình nghèo và cận nghèo. Kết quả điều tra quan sát cho biết nguồn thu nhập của các gia đình chủ yếu từ sản xuất trồng trọt (Ngô và cây ăn quả như Mận, Đào). 3.1.2. Đặc điểm một số yếu tố liên quan đến rửa tay bằng xà phòng. 3.1.2.1. Nguồn nước và tính sẵn có tại các hộ bà mẹ Mông.

Biểu đồ 3.1. Thực trạng về cung cấp nước tại các hộ bà mẹ Mông. Kết quả biểu đồ 3.1 cho biết ba nguồn nước được sử dụng tại các bản người Mông của 2 huyện là nước giếng khoan, giếng giếng khơi và nước máy.

10

Có 89,7% hộ gia đình cho rằng đủ nước dùng, còn 10,3% hộ cho biết thiếu nước dùng trong sinh hoạt. 3.1.2.2. Nguồn xà phòng và tính sẵn có tại các hộ bà mẹ Mông.

Bảng 3.6. Phân bố các loại xà phòng đang dùng tại các hộ bà mẹ Mông.

Mai Sơn n=254 Cộng chung n=508 Loại xà phòng

Vân Hồ n=254 Số lượng 221 161 218 106 Tỉ lệ % 87,0 63,5 86,0 41,8 Tỉ lệ % 78,7 28,2 78,0 40,6 Số lượng 421 232 416 209 Tỉ lệ % 82,9 45,7 82,0 41,2 Số lượng 200 72 198 103

Có xà phòng Xà phòng bánh Bột giặt Khác Bảng 3.6 cho biết 82,9% các bà mẹ Mông sống trong các gia đình có xà phòng trong nhà, tỉ lệ này không khác nhau giữa 2 huyện. Loại xà phòng họ sử dụng chính là bột giặt, ngoài ra có 45% hộ gia đình có xà phòng bánh trong nhà.

Biểu đồ 3.2. Khoảng cách để xà phòng đến nơi có nguồn nước rửa tay.

Quan sát nơi để xà phòng cho biết có 78,5% xà phòng được đặt cạnh nơi

rửa tay hoặc trong vòng 5m (biểu đồ 3.2)

11

3.1.3. Thực trạng kiến thức và thực hành của các bà mẹ người Mông liên quan tới rửa tay xà phòng

Có 44,7% các bà mẹ cho biết có nghe về RTBXP, các thông tin này chủ yếu từ nguồn truyền thông công cộng như tivi, đài truyền thanh xã (29,3%) và từ các nhân viên y tế, chủ yếu là y tế xã (36,2%) 3.1.3.2. Kiến thức của các bà mẹ Mông về RTBXP.

Bảng 3.8. Tỷ lệ bà mẹ biết những bệnh gây nên do bàn tay không sạch p

Huyện Vân Hồ (n = 254) Huyện Mai Sơn (n = 254) Cộng chung (n=508) Tên bệnh

SL % SL % SL %

Tiêu chảy 144 56,7 174 68,3 318 62,5 p>0,05

Khác 46 18,0 48 19,0 94 18,5

Không biết 75 29,7 69 27,3 145 28,5

Kết quả bảng 3.8 cho biết: Tỷ lệ bà mẹ người Mông không kể tên được một bệnh nào do bàn tay bẩn gây nên ở 2 huyện Vân Hồ và Mai Sơn (28,5%). Bệnh được biết đến nhiều nhất chủ yếu là tiêu chảy (62,5%).

Bảng 3.9. iểu biết của bà mẹ người Mông về bàn tay sạch và thời điểm rửa tay

Huyên Vân Hồ n=254 Cộng chung n=508 Kiến thức

% % %

Có bàn tay sạch Không biết Rửa tay RTBXP Số lƣợng 195 51 8 76,8 20,1 3,1 Huyện Mai Sơn n=254 Số lƣợng 185 52 17 72,8 20,5 6,7 Số lƣợng 380 103 25 74,8 20,3 4,9

Bảng 3.9 cho kết quả: Chỉ có 25,2% bà mẹ trả lời phải rửa tay và 74,8% các bà mẹ trả lời không biết. Khi được hỏi cần rửa tay khi nào, chỉ có 16,5% các bà mẹ Mông trả lời cần rửa tay trước khi ăn, tỉ lệ cần rửa tay sau khi đi vệ sinh của bà mẹ Mông thấp (9,6%) sau khi đi đại tiện và 9,4% sau tiểu tiện). 3.1.3.3. Thực hành rửa tay bằng xà phòng

Bảng 3.10 cho biết: có 51,5% nói đã rửa tay sau khi vệ sinh, 46,2% có rửa tay trước khi ăn, 42,3% đã rửa tay sau khi lao động và 38,5% nói đã rửa tay sau khi cho trẻ đi vệ sinh.

12

Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ các bà mẹ rửa tay trước khi cho trẻ ăn và sau khi cho trẻ đi vệ sinh.

Trong tổng số 335 bà mẹ được quan sát (170 ở huyện Vân Hồ và 165 ở huyện Mai Sơn), 124 bà mẹ cho con đi vệ sinh có 25% bà mẹ rửa tay sau khi cho con đi vệ sinh (biểu đồ 3.4) và trong 211 bà mẹ cho trẻ ăn chỉ có 28 bà mẹ rửa tay trước khi cho trẻ ăn (13,2%). 3.2. Mối liên quan của một số yếu tố kiến thức và thực hành rửa tay. 3.2.1. Mối liên quan giữa thực hành rửa tay bằng xà phòng với hiểu biết và nhận thức và tính sẵn có.

Yếu tố p

Nhóm tuổi >0,05 OR (95%CI) 1,1 (0,6- 1,8)

1,4(0,9-2,8) 0,9 Thu nhập

1,4(1-2,2) <0,05 Trình độ học vấn

1,4(1-2,3) <0,05 Nghề nghiệp Bảng 3.11. iên quan giữa các yếu tố dân số học và kiến thức của bà mẹ người Mông về RTBXP Kiến thức đạt 235 34 190 79 71 198 210 59 Dưới 35 Trên 35 Nghèo, cận nghèo Không nghèo Dưới TTCS Từ TTCS trở lên Làm nông nghiệp Cán bộ, công nhân Số điều tra 429 79 375 133 154 354 422 86

13

Bảng 3.11 cho biết: Kiến thức về RTBXP của bà mẹ Mông dưới 35 tuổi so với các bà mẹ trên 35 tuổi không khác nhau (OR=1,1; p>0,05). Những bà mẹ có học vấn từ trung học cơ sở (THCS) trở lên có kiến thức đúng RTBXP cao hơn 1,4 lần so với bà mẹ có học vấn tiểu học và mù chữ (OR=1,4,p<0,05), các bà mẹ là cán bộ, công chức có kiến thức đúng RTBXP cao gấp 1,4 lần so với bà mẹ làm nông nghiệp. Chưa thấy mối liên quan giữa kiến thức với mức sống của các hộ (OR=1,4; p >0,05).

Bảng 3.12. iên quan đơn biến giữa các yếu tố dân số học và thực hành rửa tay bằng xà phòng các bà mẹ người Mông.

Yếu tố n p

OR 95%CI 1,2 0,64 Nhóm tuổi Từ 35 trở xuống Trên 35 Không rửa tay 205 36 283 52 (0,6-2,3)

Dưới TTCS 121 101 <0,05 Trình độ học vấn 2,3 (1,2-2,9)

Thu nhập <0,05

<0,05 Nghề nghiệp 1,9 (1,1-2,6) 2,9 (1,2-3,9) Từ TTCS trở lên Nghèo, cận nghèo Không nghèo Làm nông nghiệp Cán bộ, công nhân 120 203 38 225 16 234 247 88 278 57

Thực hành RTBXP của 335 bà mẹ (Bảng 3.12.) cho biết các bà mẹ có học vấn thấp (tiểu học, mù chữ) ít rửa tay hơn 2,3 lần người có học vấn từ THCS trở lên (OR=2,3; p<0,05), các bà mẹ làm nông nghiệp thường không rửa tay cao gấp 2,9 lần hơn các bà mẹ làm công chức (OR = 2,9; p<0,05), các bà mẹ sống trong các hộ nghèo tỉ lệ không rửa tay thấp hơn 1,9 lần các bà mẹ không nghèo (OR =1,9; p<0,05). Li n n i iến thứ và t nh ẵn ó với thự hành rử t y xà phòn

Bảng 3.13. iên quan đơn biến giữa kiến thức và thực hành rửa tay bằng xà phòng các bà mẹ người Mông.

Yếu tố n p

0,91 Kiến thức

0,24

Tính sẵn có 0,54 OR 95%CI 1,1 (0,7-1,8) 0,75 (0,5-1,3) 1,6 (0,7-1,9) Không đạt Đạt Nguồn nước cách trên 5m Nguồn nước dưới 5 m Không có xà phòng Có xà phòng Không rửa tay 72 169 116 125 5 236 95 240 168 167 8 327

14

Kết quả bảng 3.13 cho biết chưa thấy mối liên quan thực hành RTBXP của các bà mẹ Mông với kiến thức RTBXP: Thực hành RTBXP của các bà mẹ sống trong các hộ có nguồn nước dưới 5m không khác với các bà mẹ sống trong hộ nguồn nước trên trên 5m (OR=0,75; p>0,05), bà mẹ trong các hộ có xà phòng thực hành RTBXP cao hơn 1,6 lần so với các bà mẹ trong các hộ không có xà phòng nhưng chưa thấy mối liên quan (OR=1,6; p>0,05). 3.3. Hiệu quả hoạt động truyền thông, GDSK 3.3.1. Các hoạt động can thiệp cộng đồng Tập huấn cho cán bộ và truyên truyền viên của các bản

Đã tiến hành 4 lớp tập huấn cho cán bộ và tuyên truyền viên, cụ thể tại trung tâm y tế huyện tổ chức 2 lớp cho cán bộ điều tra của của Trung tâm Y tế dự phòng (TTYTDP) huyện, 2 lớp về kỹ năng điều tra, kỹ năng truyền thông trực tiếp cho cán bộ y tế 3 xã và tuyên truyền viên của các bản can thiệp. Tiến hành 96 buổi thảo luận nhóm chủ đề rửa tay bằng xà phòng tại 12 bản của 3 xã can thiệp. Nghiên cứu sinh cùng với nhóm nghiên cứu đã tham gia trực tiếp các buổi thảo luận nhóm, m i bản tiến hành ít nhất 2 buổi trong thời gian can thiệp. Hiệ ả h t độn tr y n th n v rử t y bằn xà phòn t i x n thiệp 3.3.2.1 Sự thay đổi nguồn thông tin người d n tiếp c n.

Nguồn thông tin về RTBXP đến với các bà mẹ sau hơn 1 năm cho biết các bà mẹ Mông ở huyện Vân Hồ là 95,4% cao hơn ở huyện Mai Sơn (44%). Loại hình kênh truyền thông chủ yếu đến với các bà mẹ ở Vân Hồ qua thông tin đại chúng (tivi, loa truyền thanh), qua cán bộ y tế và hội họp cao hơn ở huyện Mai Sơn lần lượt là 95,4/39,8; 94,3/39,1; 79,1/7,9. 3.3.2.2. Kết quả đ u ra các hoạt động can thiệp.

Sau một năm tiến hành các hoạt động TTGDSK tại 3 xã can thiệp của huyện Vân Hồ, các chỉ số đều tăng lên: 95,4% các bà mẹ nhận được thông tin RTBXP từ các kênh truyền thông, Thông tin RTBXP các bà mẹ nhận được qua tivi, truyền thanh tăng từ 29,9% lên 93,5%, sau can thiệp tỉ lệ thông tin do cán bộ y tế tăng từ 37% lên 94,3% và từ hội họp, thảo luận nhóm từ 3,5% lên 79,1% và chỉ số hiệu quả của 3 loại kênh thông tin lần lượt là 212,6/154,8/2132. 3.3.3. iệu quả can thiệp của các hoạt động truyền thông. 3.3.3.1. iệu quả tăng tỉ lệ nguồn thông tin các bà mẹ được tiếp c n.

15

HQCT Nguồn thông tin p Bảng 3.2 . iệu quả can thiệp của các kênh TTGDSK CSHQ Can thiệp Nhóm chứng

Biết thông tin Từ thông tin đại chúng Từ cán bộ y tế Từ hội họp Tranh, ap phich Thông tin khác 103,5 212,6 154,8 2132,0 1101,9 70,4 3,5 38,7 10,3 186,5 258,1 2,3 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 <0,05 >0,05 100 174,0 144,5 1945,6 843,8 68,1

Kết quả bảng 3.20 cho biết CSHQ của các nguồn thông tin đến được của nhóm can thiệp đều tăng, hai nguồn tăng rõ rệt là từ hội họp, tranh ảnh, tờ rơi lần lượt CSHQ tăng 2132% và 1101,9% với HQCT là 1945,6 và 843 (p<0,05). 3.3.3.2. iệu quả can thiệp của tính sẵn có của nguồn nước và xà phòng

Nguồn nước và nguồn xà phòng của các hộ phụ nữ Mông không thay đổi giữa hai nhóm can thiệp và chứng, người dân Mông vẫn chủ yếu dùng bột giặt cho tất cả công việc như rửa tay, giặt quần áo, rửa chén bát và gọi chung là “xà phòng”. 3.3.3.3. iệu quả can thiệp và kiến thức rửa tay bằng xà phòng

Bảng 3.2.3. iệu quả nâng cao kiến thức RTBXP của các bà mẹ nhóm can thiệp

Trước can thiệp Sau can thiệp CSHQ p Kiến thức RTBXP Số điều tra

Đạt Không đạt Tỉ lệ % Tỉ lệ % 38,1 43,2 n=254 53,2 46,9 n=263 73,4 26,62

<0,05 <0,05 Kết quả bảng 3.23 cho biết kiến thức RTBXP đạt của các bà mẹ Mông ở

nhóm can thiệp tăng từ 53,2% lên 73,4%, CSHQ tăng 38,1% (p<0,05).

Bảng 3.25. iệu quả can thiệp về kiến thức của các bà mẹ.

CSHQ (%) HQCT p Kiến thức (%) Nhóm can thiệp Nhóm chứng

38,1 0,7 37,4 <0,05 Đạt

43,2 1,5 41,7 <0,05 Không đạt

16

Bảng 3.25 cho biết khác nhau về sự thay đổi kiến thức RTBXP giữa hai nhóm can thiệp và chứng, CSHQ ở các bà mẹ của nhóm can thiệp tăng 38,1% còn nhóm chứng chỉ tăng 0,7% với HQCT=37,4 (p<0,05). 3.3.3.4. iệu quả thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ

Bảng 3.26. iệu quả cải thiện rửa tay trước khi cho trẻ ăn của các bà mẹ nhóm can thiệp.

Sau can thiệp p Thực hành CSHQ Trƣớc can thiệp n=254 n= 263

Tỉ lệ (%) 22 58,6 165 <0,05

Tỉ lệ (%) 13,3 44,5 237 <0,05 Có rửa tay trước khi cho trẻ ăn Có RTBXP trước khi cho trẻ ăn

Nhận xét bảng 3.26: Quan sát thực hành của bà mẹ rửa tay và rửa tay xà phòng trước khi cho trẻ ăn nhóm can thiệp ở 2 thời điểm trước can thiệp và sau can thiệp cho biết tỉ lệ rửa tay trước khi cho trẻ ăn từ 22,1% tăng lên 58,6% với CSHQ=165 (p<0,05), tỉ lệ rửa tay bằng xà phòng của các bà được cải thiện nhiều hơn tăng từ 13,2% lên 44,5%, CSHQ=237% (p<0,05).

Bảng 3.28 cho biết: Hiệu quả can thiệp thực hành rửa tay của các bà mẹ trước khi cho trẻ ăn giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng được thể hiện rõ HQCT của rửa tay là 83% (p<0,05) và có rửa tay bằng xà phòng là 208% (p<0,05), có sự khác biệt rõ giữa hai nhóm (p<0,05)

Bảng 3.28. iệu quả can thiệp thực hành rửa tay, rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ trước khi cho trẻ ăn

Thực hành p CSHQ (%) Nhóm can thiệp Nhóm chứng

165 82 HQCT (%) 83 <0,05

237 29 208 <0,05 Có rửa tay Có rửa tay bằng xà phòng

17

Bảng 3.29. iệu quả thực hành rửa tay sau khi cho con đi đại tiện của các bà mẹ nhóm can thiệp.

Trƣớc can thiệp Sau can thiệp

p Thực hành CSHQ Tỉ lệ % n Tỉ lệ % n

Có rửa tay 21,2 97,2 36 358 <0,05 67

Có RTBXP 11,9 88,9 36 647 <0,05 67

Nhận xét: Quan sát hành vi rửa tay của các bà mẹ sau khi cho con đi đại tiện (Bảng 3.29) cho biết: Rửa tay sau khi cho con đi đại tiện của các bà mẹ nhóm can thiệp từ tăng 21,2% (trước can thiệp) lên 97,2% (sau can thiệp) với CSHQ=358% (p<0,05). Sau can thiệp các bà mẹ khi rửa tay sử dụng xà phòng nhiều hơn, Tỉ lệ RTBXP tăng từ 11,9% lên 88,9% với CSHQ=647% (p<0,05).

Bảng 3.31. iệu quả can thiệp thực hành rửa tay, rửa tay xà phòng của các bà mẹ khi cho trẻ đi đại tiện. Nhóm chứng HQCT p Thực hành Nhóm can thiệp Số lượng CSHQ Số lượng CSHQ

14/35 358 15/31 307 49 >0,05

8/32 647 3/2 31 516 <0,05 Có rửa tay Có rửa tay xà phòng

Nhận xét bảng 3.31: Hiệu quả can thiệp thực hành RTBXP ở các bà mẹ rửa tay sau khi cho đi đại tiện giữa hai nhóm có sự khác biệt chỉ số HQCT dương và có sự khác biệt rõ hành vi rửa tay xà phòng (516; p<0,05).

So sánh kết quả quan sát trực tiếp trẻ đi vệ sinh, ăn uống và hành vi rửa tay của các bà mẹ Mông trước khi cho trẻ ăn, sau khi cho trẻ đi vệ sinh (Bảng 3.34) cho biết sau can thiệp trước khi cho trẻ ăn tỉ lệ các bà mẹ rửa tay và rửa tay bằng xà phòng của nhóm can thiệp (58,6%) cao hơn nhóm chứng (23,8%; p<0,05), hiệu quả can thiệp rửa tay xà phòng là 208. Tỉ lệ rửa tay xà phòng sau khi cho trẻ đi vệ sinh của các bà mẹ đều thay đổi và tăng so với trước can thiệp,

18

các hành vi này của các bà mẹ nhóm can thiệp đều cao hơn nhóm chứng với HQCT lần lượt là 616 và 1325 (p<0,05). 3.4. Kết quả nghiên cứu định tính rửa tay bằng xà phòng của ngƣời Mông.

Người Mông sử dụng nguồn nước sạch tự nhiên. Người Mông trước đây không sử dụng nguồn nước tù đọng Người Mông Sơn La dùng nước rất tiết kiệm Người Mông Sơn La chỉ rửa tay khi thấy "bẩn" Người Mông trước đây không có khái niệm bàn tay sạch phòng chống bệnh, người Mông chỉ rửa tay khi họ nhìn thấy bàn tay "bẩn" có nghĩa là khi tay chân bị nhiễm các vết „bẩn‟ nhìn được như bùn, đất, nhựa cây hoặc chất phân của người. 3.5. Tình hình mắc một số bệnh có liên quan đến rửa tay bằng xà phòng

Biểu đồ 3.6 Tỉ lệ trẻ mắc bệnh tiêu chảy trên 1 trẻ của hai nhóm từ 2 13-2016.

Nhận xét: Tỉ lệ tiêu chảy ở nhóm can thiệp giảm từ 38,7/1000 (2013) trẻ còn 24,8/1000 trẻ (2016). Ở nhóm chứng tỉ lệ này cũng giảm từ 33,8/1000 trẻ (2013) xuống 21,8/1000 trẻ (2016).

19

Biểu đồ 3.7 Tỉ lệ trẻ mắc bệnh đường hô hấp trên 1 trẻ của hai nhóm từ 2013-2016.

Biểu đồ 3.7 cho biết tỉ lệ bệnh đường hô hấp của trẻ ở hai nhóm đều giảm nhưng mức độ giảm trẻ ở nhóm can thiệp rõ hơn từ 203,7/1000 trẻ xuống 152,6/1000 trẻ (p<0,05).

CHƢƠNG 4. BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội và sử dụng nguồn nƣớc của các bản Mông 2 huyện Vân Hồ và Mai Sơn.

Kết quả điều tra của chúng tôi năm 2013 tại 24 bản Mông cho biết nguồn

nước sử dụng của người Mông hiện tại rất đa dạng, ba nguồn nước họ thường

dùng là nước công cộng (nước máy 25%), nước giếng khoan (32%) và nước

giếng đào (28%). Khác với kết quả nghiên cứu của Cục QLMTYT, có thể giải

thích dựa trên kết luận của Đào Duy Khuê, người dân vùng đồng bằng bắc bộ

có thói quen sử dụng nguồn nước từ các giếng, còn người các dân tộc miền núi

quen dụng nguồn nước sẵn có, sở dĩ họ dùng giếng khoan và giếng đào là kết

quả của các hoạt động cung cấp nước sạch của chính phủ và đặc biệt của một

số tổ chức khác như UNICEF, UNPA.

20

Các bà mẹ Mông ở Sơn La đa phần là làm nông nghiệp thuần túy

(83,2%) có tỉ lệ thấp là cán bộ, công nhân.

Tỉ lệ hộ nghèo của người Mông Sơn La khá cao 73,8%, trong 6 xã điều

tra đều thuộc xã nghèo của tỉnh và đều nằm trong dự án 318 của chính phủ, dự

án MNPRP2 - WB, dự án KFM cộng hòa liên bang Đức. Đây là một khó khăn

thực sự cho triển khai thực hiện triển khai hoạt động RTBXP.

Kết quả điều tra cho biết 74% bà mẹ Mông có trình độ học vấn thấp (tiểu

học và mù chữ) trong đó tỉ lệ mù chữ của các bà mẹ là 14%. Kết quả này so với

các điều tra của Cục YTDP năm 2006 và Cục QLMTYT khác nhau, tỉ lệ mù

chữ của chúng tôi cao gấp 7 lần so với kết quả của Cục QLMTYT năm 2006

(1,8%).

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bà mẹ người Mông biết rửa tay với

xà phòng giúp loại trừ vi khuẩn còn chưa cao và không khác nhau nhiều theo

xã 33,3%. Kết quả điều tra này tương đương với điều tra của Đào Huy Khuê

năm 2007 (30,9%) và thấp hơn nhiều so với kết quả điều tra của Cục

QLMTYT năm 2012 (91,3%) có thể do đối tượng điều tra là người Kinh sống

tại các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và sau một số hoạt động can thiệp. Tỷ lệ người

hiểu biết về cách phòng bệnh giun sán và tiêu chảy bằng rửa tay còn thấp, chỉ

chiếm 14,1% trong mẫu điều tra. Tỷ lệ này ở người Kinh cao hơn mức chung

(17,2%) nhưng ở các DTTS đều thấp. Nhìn chung, hiểu biết của các dân tộc ít

người ở Trung bộ và Tây Nguyên hạn chế hơn so với miền núi phía Bắc.

Các bà mẹ Mông phần lớn không rửa tay sau khi cho con đi tiểu tiện

(73,2%) cho thấy đại bộ phận đối tượng nghiên cứu cho rằng bàn tay không bị

nhiễm bẩn khi đi tiểu tiện. Đây cũng là một chủ điểm cần khai thác để phát

triển tài liệu truyền thông: Bàn tay chúng ta có thể bị nhiễm bẩn từ đâu và như

thế nào sau khi đi tiểu tiện.

Quan sát trực tiếp hành vi của các bà mẹ trước khi cho con ăn trong

nghiên cứu của chúng tôi cho biết chỉ có 13,2% bà mẹ RTBXP thấp hơn nhiều

kết quả trả lời phỏng vấn của của bà mẹ người Mông rửa tay trước khi cho trẻ

ăn (46,2%), điều này minh chứng cho sự cần thiết của nghiên cứu quan sát trực

21

tiếp các hành vi để đánh giá thực trạng của các nghiên cứu định tính và củng cố

thêm nhận định của Cục YTDP năm 2011 khi tiến hành nghiên cứu can thiệp

trên các bà mẹ người Kinh nuôi con dưới 5 tuổi.

Thói quen RTBXP trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện giúp loại bỏ mầm

bệnh theo tay bẩn xâm nhiễm vào thức ăn, nước uống, vào cơ thể gây ra những

bệnh tật nguy hiểm cho con người. Theo khuyến cáo của WHO và Bộ Y tế Việt

Nam: Việc không RTBXP vào các thời điểm quan trọng như trước khi ăn, sau

khi tiểu/đại tiện, trước khi cho con ăn và sau khi chăm sóc trẻ,… đang làm gia

tăng các bệnh tiêu chảy, tả, lỵ, giun sán. Đây là các bệnh rất phổ biến và chiếm

tỷ lệ cao trong số các bệnh thường gặp ở các vùng nông thôn Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho biết kiến thức RTBXP của nhóm

can thiệp tăng từ 53,2% lên 73,4%, CSHQ tăng 38,5% (p<0,05), HQCT 37,4

(p<0,05. Thực hành RTBXP của nhóm can thiệp trong nghiên cứu của chúng

tôi làm thay đổi hành vi sử dụng xà phòng khi rửa tay đều trước khi cho trẻ ăn,

tăng lên từ 13,2% lên 44,5% (CSHQ=237%; p<0,05) và sau khi đi vệ sinh tăng

từ 11,9% lên 88,9% (CSHQ=647%; p<0,05). So với nghiên cứu của Cục

QLMTYT năm 2011 các chỉ số này không khác nhau.

4.2. Hiệu quả các hoạt động Truyền thông – Giáo dục sức khỏe nâng cao

kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho biết kiến thức RTBXP của nhóm can

thiệp tăng từ 53,2% lên 73,4%, CSHQ tăng 38,5% (p<0,05), HQCT 37,4

(p<0,05). Thực hành RTBXP của nhóm can thiệp trong nghiên cứu của chúng

tôi làm thay đổi hành vi sử dụng xà phòng khi rửa tay đều trước khi cho trẻ ăn,

tăng lên từ 13,2% lên 44,5% (CSHQ=237%; p<0,05) và sau khi đi vệ sinh tăng

từ 11,9% lên 88,9% (CSHQ=647%; p<0,05). So với nghiên cứu của Cục

QLMTYT năm 2011 các chỉ số này không khác nhau.

Hoạt động TTGDSK trong RTBXP cho nhóm đối tượng bà mẹ Mông

nhằm nâng cao kiến thức về RTBXP trong nghiên cứu của chúng tôi dựa chủ

yếu vào lực lượng cán bộ, nhân viên trạm y tế ba xã, nhân viên y tế thôn bản và

hội phụ nữ thôn bản thông qua truyền thông trực tiếp. Chúng tôi đã tiến hành

22

96 buổi thảo luận nhóm chủ đề RTBXP tại 12 bản của 3 xã can thiệp, một

tuyên truyền viên do nhân viên y tế của bản một bản đảm nhận, những tuyên

truyền viên đến thăm, nói chuyện và phát tờ rơi cho m i hộ theo lịch được lập

ra của họ với sự h trợ của nghiên cứu sinh.

Hoạt động can thiệp chính mà dự án tiến hành là hoạt động truyền thông

với hình thức và tài liệu truyền thông phong phú, đa dạng như pano, apphích,

sách lật, tờ rơi, đĩa VCD, đài phát thanh, đài truyền hình. Các tài liệu, phương

tiện, hình thức truyền thông khác nhau nhưng cùng gửi đi những thông điệp

liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc bảo vệ sức khoẻ trẻ em, là vấn đề

được các bà mẹ quan tâm nhiều nhất, do đó, đạt hiệu quả truyền thông rất cao.

Trong suốt thời gian triển khai dự án, các nội dung về lợi ích của việc

RTBXP, quy trình RTBXP vào các thời điểm sinh hoạt quan trọng trong ngày

được phát trên hệ thống loa phát thanh xã hàng tuần, thậm chí 2-3 buổi/tuần.

Ngoài ra, các nội dung này còn được lồng ghép trong các buổi họp thôn, xã và

mang lại hiệu quả truyền thông cao không chỉ cho riêng phụ nữ nuôi con nhỏ

dưới 5 tuổi mà còn cho tất cả cộng đồng rộng lớn xung quanh họ.

Hoạt động thăm hộ gia đình của các tuyên truyền viên được diễn ra

thường xuyên trong tháng. Các tuyên truyền viên đến từng nhà để hướng dẫn

các bà mẹ và các thành viên khác trong gia đình về lợi ích của việc RTBXP và

quy trình rửa tay đúng cách, kèm theo là phát các tờ rơi, poster cho các hộ gia

đình. Đây là hoạt động mang lại nhiều hiệu quả nhất của dự án, không chỉ cho

các bà mẹ, mà cho tất cả các thành viên trong gia đình họ.

Bên cạnh các hoạt động truyền thông kể trên, các hoạt động truyền thông

trực tiếp khác cũng mang lại hiệu quả rất cao của dự án là: tổ chức họp cộng

đồng tại xã, thôn, tổ chức hội thi nấu ăn tại các xã dự án, tổ chức hội thi tuyên

truyền viên giỏi. Các hoạt động này được cộng đồng hưởng ứng rất tích cực và

có tác động rất sâu sắc đến sự chuyển đổi hành vi của các bà mẹ nói riêng và

cộng đồng nói chung.

Hoạt động can thiệp của dự án đã thực sự tác động tốt đến với cộng đồng,

đặc biệt là đối tượng đích, trong 1 năm qua, có tới 95,4% đối tượng đích đã nghe

23

hoặc thấy các thông tin về RTBXP, chỉ có 4,6% đối tượng không biết. Trong đó,

94,3% thông tin về RTBXP đối tượng đích nghe được là từ cán bộ y tế, tiếp theo

là từ thông tin đại chúng như loa truyền thanh, TV (93,5%), tuyên truyền viên của

dự án (51,6%), và 79,5% là qua các cuộc họp thảo luận nhóm. Rất ít người đã

nghe thấy hoặc biết đến các thông tin về RTBXP qua báo chí, chỉ có 3,6% đối

tượng trả lời chưa nghe hoặc thấy thông tin nào về các vấn đề kể trên.

Ưu điểm của nghiên cứu là đã triển khai trên đối tượng đặc biệt là nhóm

phụ nữ Mông là nhóm học vấn thấp, tỉ lệ chưa biết đọc biết viết cao, kinh tế

dựa vào nông nghiệp nương rẫy, sống trong các hộ nghèo (73,8%).

KẾT LUẬN

1.Đặc điểm và mối liên quan rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ Mông.

- Các bà mẹ Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi có trình độ học vấn thấp tỉ

lệ mù chữ và chỉ biết đọc biết viết 74,6%, nghề chính là làm nông nghiêp

(83,1%) và sống trong các gia đình nghèo và cận nghèo (73,8%).

- Các bà mẹ người Mông không biết về các bệnh có thể bị nhiễm do bàn

tay không sạch là 28,5 %, trong đó 62,5% bà mẹ kể được bệnh tiêu chảy và

bệnh nhiễm giun sán do bàn tay bẩn.

- Có 4,7% số bà mẹ có RTBXP sau khi tiểu tiện và 25% bà mẹ có

RTBXP sau đại tiện.

- Có 60,3% số bà mẹ đã không rửa tay trước khi cho con ăn và 29,8% số

bà mẹ đã không rửa tay sau khi cho con đi vệ sinh.

- Nguồn nước sử dụng của các hộ bà mẹ Mông tương đối đủ quanh năm

(96,4%) và dựa chủ vào nước giếng đào (28%), giếng khoan (32,3% và nước

máy (25%). Phần lớn hộ các bà mẹ Mông đều có xà phòng trong nhà, nhưng

chủ yếu là bột giặt (96,5%).

- Kiến thức về RTBXP của các bà mẹ liên quan đến học vấn và nghề

nghiệp. Có mối liên quan giữa trình độ học vấn, mức sống và nghề nghiệp với

Thực hành RTBXP của các bà mẹ, OR lần lượt 2,3; 1,9 và 2,9 (p<0,05)

- Chưa tìm thấy mối liên quan giữa thực hành rửa tay với nguồn nước và

tính sẵn có của xà phòng.

24

2. Hiệu quả can thiệp bằng các hoạt động Truyền thông - Giáo dục sức

khỏe trong rửa tay bằng xà phòng.

- Kiến thức RTBXP của các bà mẹ Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi đã

được nâng cao từ 57,3% lên 73,58%.

- Thực hành RTBXP của bà mẹ trước khi cho con ăn, sau khi đại, tiểu

tiện được cải thiện nhờ vào truyền thông trực tiếp, chỉ số hiệu quả can thiệp

của hành vi rửa tay trước khi cho trẻ ăn (85), sau khi cho trẻ đi đại tiện ( 307)

và tiểu tiện (9,6).

- Hiệu quả của TTGDSK thay đổi hành vi rửa tay của các bà mẹ và thay

đổi rõ rệt, hành vi RTBXP của các bà mẹ với hiệu quả can thiệp lần lượt là

202, 648 và 1338.

- Tính sẵn có như nguồn xà phòng, nguồn nước của các hộ người Mông

chưa đủ điều kiện để đánh giá hiệu quả.

NHỮNG HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU

Một số yếu tố liên quan đến sự khác biệt về kiến thức và thực hành rửa

tay của bà mẹ giữa các nhóm trẻ theo độ tuổi, theo nhóm có bị bệnh tiêu chảy

và bệnh hô hấp trong nghiên cứu này chưa đề cập được. Phạm vi triển khai can

thiệp hẹp, trong thời gian ngắn do là nghiên cứu đầu tiên về dân tộc Mông với

phong tục tập quán riêng biệt, kinh phí hạn hẹp, việc đánh giá hiệu quả can

thiệp còn hạn chế.

KHUYẾN NGHỊ

Đẩy mạnh hoạt động truyền thông trực tiếp sử dụng lực lượng y tế thôn

bản trong việc thăm hộ gia đình để thay đổi nâng cao kiến thức RTBXP của

các bà mẹ và để duy trì thói quen RTBXP và lôi kéo những người chưa có thói

quen RTBXP cùng tham gia đặc biệt ở bà mẹ Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi.

Tiếp tục Nghiên cứu Xây dựng dự án nhằm nâng cao kiến thức và thực hành RTBXP kết hợp cung cấp nước sạch cho cộng đồng người Mông của tỉnh Sơn La.